Academia.eduAcademia.edu
Môn Luật Cạnh tranh & Giải quyết TCTM – 1 tín chỉ ---------------------------------- CÂU HỎI LÝ THUYẾT & BÀI TẬP & YÊU CẦU KỸ NĂNG CÁC CÂU HỎI LÝ THUYẾT Phân tích và bình luận về đối tượng áp dụng của Luật Cạnh tranh 2004? Phân tích khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004? Phân tích hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn và cho ví dụ về hành vi này? Hãy phân tích qui định của Luật Cạnh tranh 2004 về Bí mật kinh doanh và cho ví dụ giả định về bí mật kinh doanh? Phân tích và cho ví dụ về hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh theo qui định của Luật Cạnh tranh 2004? Hãy phân tích hành vi ép buộc trong kinh doanh và cho 02 ví dụ về hành vi ép buộc trong kinh doanh? Phân tích và cho ví dụ về hành vi gièm pha doanh nghiệp khác trong Luật Cạnh tranh 2004? Phân tích và cho ví dụ về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh ? Phân tích quy định về nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường tại Điều 11 Luật Cạnh tranh 2004? Hãy cho biết các căn cứ để xác định sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp theo qui định của Luật Cạnh tranh 2004 và phân tích, bình luận về cách thức xác định những căn cứ này? Phân biệt thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, phân chia nguồn cung cấp hàng hóa, dịch vụ ở khỏa 2 điều 8 với hành vi giới hạn thị trường gây thiệt hại cho khách hàng ở khoản 3 điều 13 LCT 2004? Bình luận về các trường hợp tập trung kinh tế theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam? Cho biết quan điểm của bạn về việc cơ quan Quản lý cạnh tranh nên được thành lập từ cơ quan nào? Tại sao? Phân tích và bình luận về chức năng của Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh? Phân tích thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại theo Luật Trọng tài thương mại 2010? Phân tích tiêu chuẩn trọng tài viên theo Luật Trọng tài thương mại 2010? Chứng minh “tính chất tư” trong tố tụng trọng tài? Chứng minh và lý giải vì sao Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ? Vì sao phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm? So sánh thủ tục hủy phán quyết trọng tài và thủ tục kháng cáo phúc thẩm theo tố tụng tòa án? Phân tích những ưu điểm và nhược điểm của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Vì sao thời gian qua, phương thức giải quyết TCTM bằng Trọng tài rất ít được sử dụng tại VN? Phân tích những điểm mới của Luật TT 2010 so với Pháp lệnh TT 2003? Lý giải, nhận xét những điểm mới đó? Trình bày các hoạt động hỗ trợ của Tòa án , Cơ quan thi hành án DS trong tố tụng trọng tài theo qui định của PLTT 2003 và Luật TT 2010? Lý giải, nhận xét các hoạt động hỗ trợ đó? Tại sao khi các bên tranh chấp đã thỏa thuận chọn Trọng tài thì sẽ mất quyền khởi kiện tại Tòa án? Để tránh trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu, doanh nghiệp cần phải chú ý các vấn đề gì? Trong hợp đồng nếu trường hợp các bên thoả thuận lựa chọn hoặc trọng tài hoặc toà án thì việc giải quyết tranh chấp sẽ do TA hay TT giải quyết? Vì sao thỏa thuận trọng tài tồn tại độc lập với hợp đồng? II. BÀI TẬP Bài số 1 'Khủng bố' siêu thị nội thất bằng xú uế Trong vòng hai tuần nay một doanh nghiệp kinh doanh trang trí nội thất ở Cà Mau liên tục bị “khủng bố” bằng phân, nước tiểu. Có hôm khách đang xem hàng bỏ chạy tứ tán vì sợ “dính chưởng” của một phụ nữ hung dữ. Sáng 14/12, Công an TP Cà Mau đã mời bà Nguyễn Kim Phượng ở đường Nguyễn Tất Thành, phường 8, TP Cà Mau đến làm việc. Theo đó, bà Phượng bị lập biên bản vi phạm hành chính vì đã có hành vi gây rối siêu thị kinh doanh trang trí nội thất trên địa bàn bằng cách ném rác, chai lọ chứa phân, nước tiểu vào cơ sở kinh doanh. Đây là lần thứ hai bà Phượng bị lập biên bản Bà Đoàn Minh Khởi - Giám đốc Công ty gỗ mỹ nghệ Hố Nai - cho biết khoảng 2 tuần nay khi bà mở thêm cửa hàng trưng bày sản phẩm tại siêu thị số 131 đường Nguyễn Tất Thành, TP Cà Mau thì liên tục bị hàng xóm cạnh bên “khủng bố”. Có đêm bà Phượng chở rác về đổ trước sân siêu thị, quét phân dê, nước tiểu lên cửa cuốn nhưng doanh nghiệp vẫn nhẫn nại thu gom, rửa sạch xú uế để kinh doanh. Tuy nhiên, sáng 13/12 bà Phượng tiếp tục dùng chai thủy tinh ném vỡ cửa kính siêu thị, quăng xú uế vào trong showroom làm khách hàng bỏ chạy tán loạn. Theo bà Khởi, nguyên nhân bà Phượng “khủng bố” doanh nghiệp là do tranh chấp đất đai với ông Trần Tú Ngọc là người cho doanh nghiệp thuê đất. [Nguồn: http://vnexpress.net/GL/Xa-hoi/2010/12/3BA242C5/] GỢI Ý NGHIÊN CỨU Theo anh (chị) hành vi của Phượng như trong tình huống có chịu sự điều chỉnh của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh hay không? Tại sao? Bài số 2 Tháng 2/2013, ba đối tượng T, H và D (là các cá nhân có tham gia đầu tư chứng khoán) do có mục đích vụ lợi về kinh tế, đồng thời muốn chứng tỏ mình là người thạo tin tức nên đã tung tin đồn trên các diễn đàn mạng với nội dung: Ông Trần Bắc Hùng, Chủ tịch Hội đồng quản trị ngân hàng A bị bắt. Tại thời điểm xuất hiện tin đồn, ông Hà đang chủ trì cuộc họp toàn thể ban lãnh đạo A để triển khai kế hoạch kinh doanh. Tin đồn này đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đế uy tín và hoạt động kinh doanh của ngân hàng BIDV lẫn thị trường tài chính tiền tệ nói chung. Hãy xác định hành vi tung tin đồn trong trường hợp nêu trên có vi phạm Luật Cạnh tranh 2004 không? Tại sao? Bài số 3 Kiện vì nói xấu doanh nghiệp trên mạng Từ hợp tác chuyển sang nói xấu Theo đơn khởi kiện, từ năm 2003, tập đoàn X bán nhiều sản phẩm, thiết bị cho công ty T. Năm năm sau, hai bên chấm dứt mọi quan hệ, giao dịch. Nhưng cũng từ lúc đó, công ty T liên tục đưa ra thông tin không trung thực về X trên một số trang thông tin điện tử… Chẳng hạn, công ty T. cho đăng hình ảnh các sản phẩm bị rỉ sét của X, gây hoang mang cho người tiêu dùng trong khi sản phẩm của X rất chất lượng, bảo hành trọn đời sản phẩm. Hay như công ty T cho đăng tải các bài viết có những đánh giá chủ quan, không có căn cứ, chỉ trích, cho rằng X đã “qua cầu rút ván”, “kinh doanh thiếu văn hóa”, “thiếu đạo đức trong kinh doanh”, “tàn nhẫn và thủ đoạn” và “không có chữ tín”, “không đáng tin cậy”... Công ty T còn cho đăng nhiều “Phiếu thu thập ý kiến khách hàng”, trong đó có nội dung phê phán việc chấm dứt mối quan hệ mua bán giữa X và T, tổ chức dàn dựng chụp hình ảnh nhãn hiệu, logo của X kèm theo hình ảnh một số đối tượng có hành động biểu tượng chỉ tay phản đối, tẩy chay sản phẩm X, phát tán rộng khắp... Chấm dứt việc hạ uy tín Theo tập đoàn X, việc phát tán các thông tin sai sự thật trên các phương tiện truyền thông và chuyển tiếp cho khách hàng, đối tác của X trong một thời gian dài chính là nhằm bôi nhọ, hạ thấp uy tín và gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của X tại Việt Nam. Việc làm này gây hậu quả là không những đã gây nhầm lẫn và làm lệch lạc nhận thức của khách hàng đối với thương hiệu X mà còn trực tiếp làm tổn hại đến hoạt động kinh doanh của nguyên đơn. Đồng thời ảnh hưởng xấu đối với hình ảnh thương hiệu và uy tín kinh doanh của X. Do vậy, X đã đàm phán với công ty T yêu cầu chấm dứt các hành vi trên. Nhưng công ty này đòi phải thanh toán 180.000 euro, trong đó có 20.000 euro trả cho việc lấy lại tên miền có liên quan thương hiệu X; 160.000 euro bồi thường cho công ty T vì chi phí họ đã đầu tư vào thời điểm còn hợp tác với X.  Các yêu cầu trên của công ty T không có cơ sở nên tập đoàn X đề nghị tòa buộc công ty T phải chấm dứt các hành động trên ngay lập tức và vô điều kiện.  GỢI Ý NGHIÊN CỨU Theo anh (chị), hành vi của công ty T có phải là hành vi cạnh tranh không lành mạnh hay không? Nếu có là hành vi gì? Bài số 4 Quảng cáo hăm dạo người tiêu dùng Sau khi thạch rau câu của đối thủ bị phát hiện chứa chất gây ung thư, doanh nghiệp A cùng ngành lập tức cho phát quảng cáo với nội dung “ăn theo thời sự”. Đoạn quảng cáo xoay quanh câu chuyện giữa hai mẹ con, bé gái muốn ăn thạch rau câu nhưng mẹ không đồng ý vì sợ có chất gây ung thư. Sau đó cô bạn xuất hiện giải thích rằng có một loại thạch không chứa chất gây ung thư này. Cô bạn còn nhấn mạnh, chỉ duy nhất loại này (của doanh nghiệp A) trên thị trường không chứa chất DEHP, còn hầu hết các sản phẩm nhập khẩu lẫn sản xuất trong nước đều có. Xuôi tai, bà mẹ đổi ý và tuyên bố chỉ mua loại thạch rau câu của công ty nọ cho con ăn. Không chỉ ca ngợi đặc tính ưu việt của sản phẩm, mẩu quảng cáo lại "đe dọa" về hậu quả đáng sợ nếu người tiêu dùng mua sản phẩm khác. [Nguồn: http://vnexpress.net/gl/kinh-doanh/2011/07/quang-cao-ham-doa-nguoi-tieu-dung/] GỢI Ý NGHIÊN CỨU Theo anh (chị) hành vi quảng cáo hăm dọa có phải là một hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh hay không? Tại sao? Bài số 5 Quảng cáo mì TV Kể từ ngày 1/4/2009, Công ty Cổ phần Công nghiệp M đã thực hiện chương trình quảng cáo sản phẩm Mì TV trên toàn quốc, với các hình thức quảng cáo truyền hình, quảng cáo báo chí, quảng cáo ngoài trời tại các siêu thị, nhà chờ xe bus và quảng cáo trên bao gói sản phẩm. Nội dung chính của các quảng cáo đều thống nhất là: “Mì TV có sợi mì màu vàng tươi do không sử dụng dầu chiên đi chiên lại nhiều lần, đảm bảo sức khoé”. Ngày 28/4/2009, Công ty AC Việt Nam gửi hồ sơ khiếu nại đến Cục QLCT về hành vi của Công ty M thể hiện tại chương trình quảng cáo. Theo Công ty AC, chương trình quảng cáo do Công ty M thực hiện đã có các nội dung so sánh và gây nhầm lẫn về chất lượng mì ăn liền màu vàng tươi của Công ty M với mì ăn liên màu vàng sẫn của các doanh nghiệp còn lại, với nội dung quảng cáo truyền tải thông tin không đầy đủ về nguyên nhân màu vàng sẫm của mì ăn liền, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm của tất cả các doanh nghiệp sản xuất các loại mì ăn liền có màu vàng sẫm đang bán trên thị trường, trong đó có mì do Công ty AC sản xuất. GỢI Ý NGHIÊN CỨU Theo anh (chị) hành vi quảng cáo của công ty M có phải là hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh hay không? Nếu có thì đó là hành vi gì? Bài số 6 Trần Văn B là một phân phối viên trong mạng lưới bán hàng đa cấp của công ty A. B nhận hàng từ công ty A, sau đó tiếp thị sản phẩm với một người quen là C và đã bán được hàng cho C. Sau đó, C nghe bạn bè bình luận rằng với công dụng như B giới thiệu thì sản phẩm vừa mua có giá quá đắt. C trả hàng và yêu cầu B trả đủ tiền. B không đồng ý do giao dịch đã xong, nhưng nếu C cần thì B sẽ nhận lại sản phẩm để sử dụng và trả lại 70% số tiền C đã trả. Cho rằng B vi phạm Luật cạnh tranh do bán hàng đa cấp bất chính và có nghĩa vụ phải trả lại ít nhất 90% số tiền, C dự định yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc. Anh (chị) hãy xác định B có vi phạm Luật Cạnh tranh 2004 không? Tại sao? Bài số 7 Đồng loạt nâng mức phí bảo hiểm ôtô Vừa qua, 16 công ty bảo hiểm (hầu hết là doanh nghiệp trong nước) đã cùng ký một thỏa thuận nâng mức phí bảo hiểm tiêu chuẩn xe ô tô, với lý do đưa ra là “nhằm hạn chế tình trạng cạnh tranh gay gắt trong bối cảnh tỷ lệ bồi thường cao". Theo nội dung hợp đồng bảo hiểm mà nhiều hãng bảo hiểm đề nghị ký với khách hàng, kể từ đầu tháng 10 vừa qua, mức phí tiêu chuẩn bảo hiểm vật chất xe ô tô, hay còn gọi là mức phí tối thiểu đã tăng từ 1,3% lên 1,56% một năm (chưa tính 10% thuế VAT). Theo biểu phí mà Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam thông qua hồi tháng 10 vừa qua, có 6 loại xe tăng phí. Ngoài phí tiêu chuẩn kể trên, chỉ được áp dụng đối với xe mới đăng ký sử dụng lần đầu trong vòng 3 năm, thì các xe cũ (đăng ký sử dụng từ 3 năm trở lên) sẽ được điều chỉnh tăng nếu áp dụng điều khoản bồi thường không khấu hao thay bộ phận mới. Các loại ô tô khác như kinh doanh vận tải hàng hoá cũng tăng lên mức phí hàng năm là 1,83%; vận tải hành khách liên tỉnh (1,07%); chở hàng đông lạnh (2,62%), đầu kéo (2,84%). Riêng bảo hiểm taxi có mức tăng mạnh nhất (3,95%). Và đó là lý do mà nhiều thành viên Hiệp hội taxi yêu cầu hiệp hội của mình có ý kiến phản ứng về việc thỏa thuận nâng phí bảo hiểm nói trên. Đại diện một hãng taxi tại Hà Nội nói rằng, mức phí bảo hiểm như trên là “không chấp nhận được”. Trong việc tăng phí này, theo văn bản của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam gửi tổng giám đốc các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, thì việc tăng phí là kết quả của việc ký kết các văn bản thỏa thuận hợp tác giữa các thành viên hiệp hội tại Hội nghị CEO phi nhân thọ lần thứ 6 Các công ty đã ký bản thỏa thuận nâng phí bảo hiểm ô tô gồm: Bảo Việt; Bảo hiểm Petrolimex (Pjico); Bảo hiểm Dầu khí (PVI); SamsungVina;Toàn cầu; Bảo hiểm Viễn Đông (VASS); Công ty liên doanh Bảo hiểm quốc tế Việt Nam (VIA); Công ty Bảo hiểm của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIC); Bảo Long; Bảo Ngân; Bảo Minh; Bảo Tín; AAA; Công ty cổ phần Bảo hiểm Quân đội (MIC); Bảo hiểm Bưu điện (PTI) và Công ty Bảo hiểm của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank). Có 16 công ty bảo hiểm (chủ yếu là các doanh nghiệp trong nước) đã ký vào thỏa thuận này; nhưng có một số công ty (chủ yếu là các hãng bảo hiểm nước ngoài) cũng là thành viên của Hiệp hội Bảo hiểm như AIG, Groupama, UIC, VNI, ACE, Fubon, Liberty và QBE chưa ký vào thỏa thuân nêu trên dù đã được Tổng thư ký Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam Phùng Đắc Lộc ký văn bản nhắc nhở. Hiện tại, mức phí tiêu chuẩn mà các hãng này đang áp dụng thấp hơn, dao động từ 1,4% đến 1,5%/năm, cũng là có tăng so với mức tiêu chuẩn vẫn được áp dụng (1,3%/năm). [Nguồn:http://tuoitre.vn/Kinh-te/289144/Dong-loat-nang-muc-phi-bao-hiem%C2%A0xe-o-to.html] GỢI Ý NGHIÊN CỨU Dưới góc độ pháp luật cạnh tranh, anh (chị) nhận xét như thế nào về thỏa thuận nâng mức phí bảo hiểm của 16 doanh nghiệp như đã đề cập trong tình huống? Theo anh (chị), Hiệp hội Bảo hiểm Việt nam có vi phạm Luật Cạnh tranh 2004 hay không? Nếu có thì hành vi đó là gì? Bài số 8 Ông A là một kỹ sư giỏi, có nhiều sáng chế và giải pháp hữu ích trong công nghiệp dệt. Ông A đang nghiên cứu cách thức làm tăng độ bền của một loại vải hiện được sử dụng phổ biến trên thị trường. Giả sử 3 công ty dệt X, Y, Z (có thị phần kết hợp là 68% trên thị trường liên quan) thỏa thuận với ông A về việc họ sẽ trả cho ông A một khoản tiền lớn với điều kiện ông phải hủy bỏ, không tiếp tục nghiên cứu vấn đề trên và điều kiện này được ông A đồng ý. Hãy xác định 3 công ty nêu trên có vi phạm Luật Cạnh tranh 2004 không? Tại sao? Bài số 9 Công ty N kinh doanh thời trang cao cấp nổi tiếng trên thị trường, có thị phần trên thị trường liên quan là 42%. Để giữ gìn thương hiệu, công ty thực hiện chính sách không bán giảm giá sản phẩm, đồng thời ấn định thống nhất giá bán tối thiểu cho khách hàng tại các đại lý của mình, nếu đại lý nào vi phạm (bán dưới giá được ấn định) thì sẽ bị chấm dứt hợp đồng đại lý. Hãy xác định hành vi nêu trên của công ty N có vi phạm Luật Cạnh tranh 2004 không? Tại sao? Bài số 10 Công ty A là công ty duy nhất cung cấp dịch vụ trực thăng cấp cứu tại Việt Nam. Giả định rằng công ty áp dụng giá dịch vụ bay với mọi khách hàng là từ 4.000 USD/giờ. Nếu là khách hàng thường xuyên thì được thanh toán sau. Với khách hàng lẻ, khách phải trả 100% chi phí dự toán ban đầu dựa trên độ dài đường bay. Với hành vi trên, có quan điểm cho rằng công ty A đã lạm dụng vị trí độc quyền để áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh. Bằng việc phân tích hành vi “áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh tranh” được quy định tại Điều 13 Luật Cạnh tranh 2004, hãy xác định công ty A có vi phạm pháp luật cạnh tranh không? Bài số 11 Ba công ty X, Y, Z cùng kinh doanh sản xuất hàng tiêu dùng, có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan là 66% (bột giặt). Ba doanh nghiệp có biểu hiện đồng loạt tăng giá lên 10 % khi bán ra thị trường đối với các nhãn hàng bột giặt của họ. Một thời gian sau, mặc dù sự việc chưa bị phát giác nhưng công ty Z cho rằng mình đã vi phạm Luật Cạnh tranh 2004 nên tự nguyện khai báo để được miễn trừ trách nhiệm. 1. Ba doanh nghiệp nêu trên đã thực hiện hành vi vi phạm cụ thể nào? Căn cứ vào các yếu tố cụ thể như thế nào để kết luận vi phạm? 2. Doanh nghiệp đã tự nguyện khai báo có được miễn trừ trách nhiệm không? 3. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết và hướng xử lý đối với hành vi vi phạm nêu trên? Bài số 12 Megastar bị 6 doanh nghiệp chiếu phim khiếu nại Hiện trên thị trường phim chiếu rạp Việt Nam, số lượng phim nội được sản xuất rất ít, do: thị hiếu khán giả, thiếu kịch bản hay, thiếu vốn đầu tư, thiếu đạo diễn, diễn viên giỏi… 90% phim chiếu rạp đều phải nhập khẩu từ các hãng sản xuất nước ngoài như Walt Disney Studios, Paramount/Dreamworks, Universal Pictures, Fox, Warner Bros/Sony. Theo thông lệ quốc tế và Việt Nam, doanh thu bán vé sẽ được phân chia giữa rạp và công ty nhập phim theo một tỷ lệ được ấn định từ trước, và phần phải trả cho phía nhập phim được coi là mức giá thuê phim. Nếu doanh thu bán vé tại cụm rạp A của một phim nước ngoài là 1 tỷ đồng, và tỷ lệ ăn chia doanh thu giả định là 50 - 50, có nghĩa là cụm rạp A sẽ được hưởng 500 triệu đồng và công ty nhập phim sẽ được hưởng 500 triệu. Cụm rạp A sẽ có toàn quyền ấn định giá bán vé dựa trên chi phí hoạt động của mình và phù hợp với đối tượng khách hàng mà cụm rạp A hướng tới. Megastar nâng giá thuê phim Các doanh nghiệp nhập phim chủ yếu ở Việt Nam bao gồm: Công ty TNHH Truyền thông Megastar (Megastar), Công ty Cổ phần phim Thiên Ngân (Galaxy), Công ty TNHH Bình Hạnh Đan (BHD), và Công ty TNHH Lotte Cinema Việt Nam (Lotte). Các doanh nghiệp này sau khi nhập phim sẽ phân phối lại cho các rạp chiếu phim trên phạm vi cả nước. Mỗi hãng phim nước ngoài chỉ ký hợp đồng với một hãng phát hành tại một quốc gia.Trên thực tế, 4 trong số 5 hãng phim lớn tại Hollywood đã ký hợp đồng với Megastar. Từ tháng 6/2009, Megastar bắt đầu thay đổi cơ chế ăn chia doanh thu bán vé và thực hiện việc áp đặt chính sách Giá thuê phim tối thiểu trên mỗi người xem là 25 nghìn đồng (sau thuế); nghĩa là nếu rạp A bán mỗi vé với giá dưới 50 nghìn đồng thì phần Megastar hưởng là 25 nghìn/vé. Tuy nhiên, nếu giá vé là trên 50 nghìn đồng, Megastar lại áp dụng tỷ lệ chia 50 - 50 như cũ. Thời điểm đó, giá vé ở rạp Dân Chủ (Hà Nội) là 20 nghìn đồng, rạp Cinebox (TP HCM) là 25 nghìn đồng… Chính sách Giá thuê phim tối thiểu của Megastar đã đẩy các doanh nghiệp chiếu phim vào tình thế tiến thoái lưỡng nan: nếu không chấp nhận chính sách này thì không có phim để chiếu, nếu muốn giữ nguyên giá bán vé thì bị lỗ nặng, còn nếu tăng giá thì ảnh hưởng trực tiếp đến túi tiền khán giả. Các doanh nghiệp chiếu phim Việt lâm vào tình trạng thua lỗ Hậu quả của cách làm nói trên là các rạp chiếu phim hiện nay, đáng kể nhất là cụm rạp Cinebox, Tân Sơn Nhất, Galaxy và nhiều doanh nghiệp điện ảnh nhà nước như Tháng Tám, Công ty Cổ phần Truyền thông Điện ảnh Sài Gòn… đều bị sụt giảm 25-50% doanh thu, hoạt động cầm chừng hoặc thua lỗ từ quý 2 năm 2009 đến nay. [Nguồn: http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/phim/sau-man-anh/megastar-bi-6-doanh-nghiep-chieu-phim-khieu-nai-1907773.html] GỢI Ý NGHIÊN CỨU Theo anh (chị), để có thể xác định Megastar có hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh hay không, cơ quan Quản lý về cạnh tranh cần phải làm gì? Anh (chị) nhận xét như thế nào về hành vi của Megstar và cáo buộc của 6 doanh nghiệp ngành điện ảnh? Bài số 13 Truyền hình vệ tinh K+ VSTV, công ty sở hữu thương hiệu truyền hình vệ tinh K+, là đơn vị duy nhất giữ bản quyền phát sóng tất cả các trận đấu của giải Ngoại hạng Anh tại Việt Nam. Riêng các trận đấu diễn ra vào chủ nhật sẽ được phát sóng độc quyền trên kênh K+1. Bất cứ đài truyền hình nào ngoài K+ phát sóng các trận đấu ngày chủ nhật dù theo chuẩn SD hay HD (độ nét cao) đều vi phạm bản quyền. Tỷ lệ các trận đấu Ngoại hạng Anh ngày chủ nhật mùa tới chiếm 32% tổng số các trận đấu toàn giải. Các đài khác ở Việt Nam như VTC, SCTV chỉ có quyền phát sóng không độc quyền giải Ngoại hạng Anh vào các ngày thứ bảy. Với mức giá được công bố hiện nay, để có thể xem được các kênh truyền hình K+, trước hết người tiêu dùng phải mua đầu thu với giá 1,5 triệu đồng. Tiếp đó họ phải lựa chọn một trong ba gói dịch vụ: Access (hơn 31 kênh) có cước thuê bao 330.000 đồng trong 6 tháng, Family (hơn 57 kênh) cước 630.000 đồng trong 6 tháng, Premium (hơn 70 kênh) 1,53 triệu đồng trong 6 tháng. Muốn xem được kênh K+1 có bóng đá Anh và các trận độc quyền, khách hàng phải chọn gói dịch vụ Premium. So với các nhà cung cấp truyền hình cáp thường thu phí thuê bao khoảng 55.000 - gần 70.000 đồng mỗi tháng cho khoảng 60 đến 70 kênh, phí thuê bao của K+ cao gấp từ 4 đến gần 5 lần khi có thêm kênh K+1 và một số kênh khác. [Nguồn: http://vnexpress.net/GL/The-thao/2010/07/3BA1E52B/] GỢI Ý NGHIÊN CỨU Anh (chị) hãy xác định thị trường liên quan trong tình huống này? Theo anh (chị), K+ đóng vai trò như thế nào trên thị trường liên quan đó? Dựa trên thông tin được xác định trong tình huống, anh chị hãy bình luận về hành vi định giá của K+ dưới góc độ của luật cạnh tranh? Bài số 14 VCA từ chối yêu cầu của Acecook Cuối năm 2011, cộng đồng doanh nghiệp Việt nam xôn xao chuyện Cục quản lí cạnh tranh Việt nam từ chối đơn khiếu nại của Công ty Cổ phần Acecook Việt Nam khiếu nại đến Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương) để Cục xử lý quảng cáo mì “Tiến Vua bò cải chua” của Công ty Cổ phần Hàng tiêu dùng Masan xoay quanh “cuộc chiến mì gói”. Tuy nhận định quảng cáo “có dấu hiệu” của hành vi “quảng cáo nói xấu, so sánh” nhưng Cục này đã trả lại hồ sơ. Theo đó, Cục quản lý cạnh tranh đã cho rằng so sánh trực tiếp là phải chỉ rõ tên của loại sản phẩm bị so sánh. Cục quản lí cạnh tranh cũng nhận định quy định tại khoản 3 Điều 45 về “gian dối hoặc gây nhầm lẫn” chỉ áp dụng khi gây nhầm lẫn về chính sản phẩm của DN chứ không áp dụng khi gây nhầm lẫn về sản phẩm của DN khác. Vì vậy mà bác bỏ lập luận của bên khiếu nại. Nhưng điều đáng nói nhất trong trả lời của Cục quản lý cạnh tranh đó là Cục nhận định quảng cáo nói trên của Masan có dấu hiệu của hành vi “quảng cáo nói xấu, so sánh hoặc gây nhầm lẫn với hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của người khác” nhưng vẫn từ chối xử lí. GỢI Ý NGHIÊN CỨU Anh (chị) hãy xác định các biện pháp mà doanh nghiệp có thể áp dụng khi bị doanh nghiệp khác cạnh tranh không lành mạnh? Ưu điểm và hạn chế của các biện pháp này? Theo anh chị nhận xét như thế nào về việc VCAD từ chối yêu cầu xử lí hành vi cạnh tranh không lành mạnh của Acecook? Bài số 15 Bệnh viện Quốc tế Dialasie Ngày 24.4.2002 Công ty dược phẩm B.Brour Hà Nội (gọi là bên A) và Bệnh viện Quốc tế thận và lọc thận Dialasie (gọi là bên B) ký hợp đồng mua dụng cụ tiêu hao với nội dung như sau: Bên A sẽ lắp đặt các máy thận nhân tạo và hệ thống xử lý nước ro tại cơ sở của bên B theo hợp đồng và thu phí hàng tháng với mức điều trị tối thiểu là 48 lần điều trị 01 tháng trong thời hạn 05 năm. Bên A đồng ý cho lắp đặt 34 máy lọc thận và 01 hệ thống xử lý nước ro. Về các dụng cụ tiêu hao bên A sẽ cung cấp cho bên B theo dự trù hàng tháng trên cơ sở những vật tư tiêu hao cần thiết cho việc lọc máu. Trong hợp đồng quy định tại Điều 6 về xử lý tranh chấp: trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu có gì vướng mắc xảy ra hai bên sẽ cùng nhau bàn bạc giải quyết trên cơ sở tôn trọng lợi ích của hai bên, Euro cham hoặc Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam sẽ là trọng tài phán xử. Nếu không giải quyết được thì một bên có thể đưa tranh chấp ra Toà án thành phố Hồ Chí Minh hoặc bất kỳ Toà án Việt Nam nào về các vấn đề liên quan đến Bệnh viện Quốc tế thận và lọc thận Dialasie. Kèm theo hợp đồng là bản phụ lục hợp đồng, bản giá thiết bị và bản giá vật tư tiêu hao. Trong quá trình thực hiện hợp đồng hai bên đã ký kết ngày 24.4.2002. Do Bệnh viện Quốc tế thận và lọc thận Dialasie không thanh toán tiền sử dụng máy lọc thận và các dụng cụ tiêu hao, nên ngày 20.12.2005 Công ty dược phẩm B.Braun Hà Nội đã làm đơn khởi kiện Bệnh viện Quốc tế thận và lọc thận tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC). Do không đồng ý với phán quyết của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) nên ngày 07.7.2006 Bệnh viện Quốc tế thận và lọc thận Dialasie đã có đơn gửi đến Toà Kinh tế Toà án thành phố Hà Nội yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài với các lý do sau: Điều khoản trọng tài được xác nhận sai hoặc không rõ Trung tâm Trọng tài theo Điều 6 của hợp đồng. Đồng thời Bệnh viện Quốc tế thận và lọc thận Dialasie cho rằng tại Điều 6 của hợp đồng chỉ cho Trọng tài quốc tế Việt Nam có quyền hoà giải, chứ không có quyền phán xử, mà quyền phán xử là Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh hoặc bất kỳ Toà án Việt Nam nào liên quan đến quyền lợi của Bệnh viện Dialasie. Địa điểm trọng tài không đúng theo luật tố tụng Việt Nam. [Nguồn: Trích và biên tập lại từ Quyết định: 03/KTST Ngày:15.9.2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội] GỢI Ý NGHIÊN CỨU: Theo anh (chị) điều 6 của Hợp đồng giữa Công ty dược phẩm B.Brour Hà Nội và Bệnh viện Quốc tế thận và lọc thận Dialasie có phải là thỏa thuận trọng tài hay không? Điều kiện để thỏa thuận trọng tài có hiệu lực là gì? Trong trường hợp các bên không chỉ rõ hoặc xác định sai Trung tâm trọng tài thì có làm cho Thỏa thuận trọng tài vô hiệu hay không? Trung tâm trọng tài có thẩm quyền và có bắt buộc phải tiến hành thủ tục hòa giải cho các bên tranh chấp hay không? Anh (chị) nhận xét như thế nào khi Bệnh viện Quốc tế thận và lọc thận Dialasie cho rằng tại Điều 6 của hợp đồng chỉ cho Trọng tài quốc tế Việt Nam có quyền hoà giải, chứ không có quyền phán xử? Các bên có quyền lựa chọn Trung tâm trọng tài để hòa giải mà không được giải quyết tranh chấp hay không? Tại sao? 4. Theo anh (chị), Hội đồng trọng tài có thẩm quyền xác định địa điểm giải quyết tranh chấp hay không? Tại sao? Bài số 16 Công ty PT VINDOEXIM Ngày 17/11/2007 công ty PT VINDOEXIM do ông Phan Bá Hưng đại diện có ký hợp đồng kinh tế số 071 với Công ty TNHH Thủ đô II để mua bán phân URÊ số lượng 25.000 tấn, trị giá hợp đồng là 4.000.000USD. Hai bên có thỏa thuận phương thức thanh toán: “bên mua sẽ mở thư tín dụng chuyển khoản không thể thu hồi với toàn bộ giá trị hợp đồng trong vòng 5 ngày làm việc sau khi nhận được đơn hàng từ bên bán ngày 01/12/2007”. Ngày 25/11/2007, hai bên ký phụ lục thỏa thuận sửa đổi hợp đồng: bên mua sẽ mở L/C chậm nhất vào ngày 27/11/2007. Ngoài ra, các bên còn thỏa thuận chọn cơ quan tài phán là Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam – Bên cạnh phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các bên khi thực hiện hợp đồng. Sau khi ký hợp đồng, đến ngày 15/12/2007 Công ty TNHH Thủ đô II đã gửi thư cho Công ty PT VINDOEXIM đề nghị bổ sung ngày hết hạn là 15/02/2008 nhưng Công ty PT VINDOEXIM không chấp nhận nên công ty Thủ đô II không thực hiện hợp đồng. Ngày 24/01/2008, Công ty PT VINDOEXIM do ông Phan Bá Hưng ký đơn khởi kiện gửi Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam và yêu cầu Công ty TNHH Thủ đô II phải trả số tiền phạt 2,5% tổng giá trị hợp đồng như đã ký kết tương đương với 100.000USD do không mở L/C đúng thời hạn; và tiền chi phí dịch vụ pháp lý là 11.000USD. Ngày 21/7/2008, Ủy ban trọng tài đã mở phiên họp giải quyết vụ tranh chấp và đến ngày 31/8/2008 đã công bố với các bên quyết định trọng tài buộc Công ty TNHH Thủ đô II phải trả cho Công ty PT VINDOEXIM do ông Phan Bá Hưng là giám đốc 100.000USD. Sau khi nhận được quyết định trọng tài, Công ty TNHH Thủ đô II không đồng ý và có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hủy quyết định trọng tài với lý do: ông Hưng không đủ tư cách để ký hợp đồng kinh tế số 071 ngày 17/11/2007, không có giấy ủy quyền nào của Công ty PT VINDOEXIM để ký hợp đồng kinh tế với Công ty Thủ đô II. Việc ông Phan Bá Hưng đã nhân danh là giám đốc Công ty PT VINDOEXIM là không đúng vì thế đề nghị Tòa xem xét ông Hưng không có tư cách thỏa thuận trọng tài. Còn phía Công ty PT VINDOEXIM do ông Phan Bá Hưng trình bày: Ngày 17/11/2007 ông Phan Bá Hưng có ký hợp đồng kinh tế số 071 với Công ty Thủ đô II, hợp đồng quy định thời gian thanh toán, bên mua mở L/C thời hạn là 5 ngày và nếu có tranh chấp do Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam giải quyết. Vì thế nay Công ty TNHH Thủ đô II không thực hiện mở L/C đúng hạn nên Công ty PT VINDOEXIM yêu cầu phạt 2,5% giá trị hợp đồng như đã cam kết và trọng tài đã phán quyết. Đề nghị Tòa án giữ nguyên phán quyết của trọng tài. Theo giấy phép thành lập công ty ngày 8/9/2007 do cơ quan có thẩm quyền xác nhận thì ông LIYANTO là chủ tịch công ty, còn ông INWANTO là thành viên công ty, không có ông Phan Bá Hưng ở công ty này và tại điều lệ của công ty VINDOEXIM không có tên ông Hưng tham gia làm giám đốc công ty. Sau khi Công ty TNHH Thủ đô II kiện ra Tòa, ông LIYANTO và ông INWANTO có văn bản xác nhận ông Hưng vẫn là giám đốc công ty VINDOEXIM, sự xác nhận sau này của ông LIYANTO có sau khi ký kết hợp đồng và xác nhận sau khi ông Hưng đã hoàn tất việc thỏa thuận trọng tài với Thủ đô II. GỢI Ý NGHIÊN CỨU Theo anh (chị) ai là người có quyền thay mặt công ty giao kết thỏa thuận trọng tài? Trong tình huống này, việc ông Hưng thay mặt công ty VINDOEXIM kí kết hợp đồng và thỏa thuận với Công ty TNHH Thủ đô II có phù hợp với pháp luật hay không? Tại sao? Việc ông LIYANTO và ông INWANTO có văn bản xác nhận ông Hưng là giám đốc công ty VINDOEXIM sau khi ký kết hợp đồng với Công ty TNHH Thủ đô II có ý nghĩa như thế nào? Điều 19 Luật Trọng tài thương mại qui định: “Thoả thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả thuận trọng tài”. Áp dụng điều 19 vào việc giải quyết tranh chấp giữa VINDOEXIM và Công ty TNHH Thủ đô II, anh (chị) có nhận xét như thế nào? Bài số 17 Tháng 7-2002, Công ty TNHH TS (huyện Thuận An, Bình Dương) và ông S (Đài Loan) ký hợp đồng thành lập một công ty liên doanh với ngành nghề sản xuất gia công mộc mỹ nghệ. Thời gian hoạt động của công ty là 50 năm với tổng số vốn là hơn 650.000 USD, trong đó ông S góp 78%, phía công ty TNHH TS góp 22% bằng nhà xưởng, trang thiết bị. Hai bên thống nhất chọn ông S làm tổng giám đốc, một đại diện phía Việt Nam làm phó tổng giám đốc. Trong quá trình hợp tác, phía Việt Nam cho rằng ông S đã lạm quyền, vi phạm điều lệ công ty liên doanh, dẫn đến việc công ty bị cơ quan chức năng xử phạt hành chính. Cụ thể ông S tự ý mở phân xưởng mới không thông qua hội đồng quản trị, không xin phép, kết quả là bị Công an Bình Dương phạt 15 triệu đồng. Ngoài ra, ông còn cho doanh nghiệp khác gửi hàng vào container của công ty để xuất đi Đài Loan mà không khai báo hải quan, kết quả là bị Hải quan Đài Loan phát hiện, cảnh báo với Hải quan Việt Nam. Mâu thuẫn được đẩy lên cao khi bà phó tổng giám đốc phía Việt Nam bị bệnh phải nằm bệnh viện nhưng ông S ra quyết định cho thôi việc với lý do công ty đang gặp khó khăn mà bà này lại đi du lịch, không báo cho tổng giám đốc biết. Cùng với bà phó tổng giám đốc, hai quản lý sản xuất người Việt Nam cũng bị cho thôi việc Tháng 7-2007, phía Việt Nam gửi thư khuyến cáo cho phía ông S, nêu rõ không thể hợp tác tiếp và sẽ kiện ra tòa để giải quyết việc liên doanh. Một tháng sau, thấy phía ông S không phản đối gì, phía Việt Nam đã nộp đơn đến TAND tỉnh Bình Dương. Khi tòa hòa giải, ban đầu phía ông S chấp nhận mua lại phần vốn liên doanh của phía Việt Nam, đồng ý để tòa chỉ định công ty kiểm toán để hạch toán vốn của hai bên nhưng về sau lại đổi ý, bác bỏ toàn bộ thỏa thuận. Sau đó, phía ông S nhờ Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) giải quyết tranh chấp với lý do là khi ký hợp đồng liên doanh, hai bên có thỏa thuận rằng nếu xảy ra tranh chấp thì VIAC sẽ thụ lý. Tháng 3-2008, VIAC chính thức thụ lý vụ tranh chấp. Ngay sau đó, TAND tỉnh Bình Dương gửi công văn yêu cầu VIAC đình chỉ giải quyết. Tòa cho rằng trước khi kiện ra tòa, phía Việt Nam đã thông báo cho ông S biết nhưng ông S không phản đối. Theo Nghị quyết 05 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, trường hợp này được xem là các bên có thỏa thuận mới về lựa chọn tòa án giải quyết tranh chấp thay cho trọng tài. Đáp lại, VIAC cho rằng trong hợp đồng liên doanh, hai bên đã thỏa thuận VIAC sẽ giải quyết tranh chấp. VIAC còn viện dẫn Điều 5 Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 để cho rằng TAND tỉnh Bình Dương đã thụ lý sai. Theo đó, trường hợp tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại tòa thì tòa phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu (ở đây thì thỏa thuận trọng tài không vô hiệu). TAND tỉnh Bình Dương đã xin ý kiến của TAND tối cao để phúc đáp VIAC. Dù TAND tối cao đã khẳng định việc Tòa Bình Dương áp dụng Nghị quyết 05 để thụ lý, giải quyết vụ kiện là đúng pháp luật nhưng VIAC vẫn không đồng ý. Anh chị hãy cho biết có kiến của mình về tình huống trên? Giả sử tình huống nêu trên xảy ra khi Luật Trọng tài thương mại 2010 đã có hiệu lực thì sẽ được xử lý như thế nào? Vì sao? Bài số 18 Công ty TNHH Hùng Vương và Công ty TNHH Hòa Bình ký kết một HĐ mua bán hàng hóa, trong HĐ này các bên thỏa thuận chọn Trung tâm Trọng tài Thương mại A để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên khi tranh chấp xảy ra, công ty Hùng Vương cho rằng HĐ nói trên vô hiệu vì phó GĐ công ty Hòa Bình đại diện ký HĐ đã không được ủy quyền hợp pháp của giám đốc công ty khi ký HĐ. a) Hãy xác định hiệu lực của thỏa thuận trọng tài? b) Giả sử thỏa thuận TT có hiệu lực và cty Hòa Bình yêu cầu Trung tâm Trọng tài A giải quyết các tranh chấp trên. Trong phiên họp, do không đồng tình với cách phân tích vụ việc của Hội đồng TT nên đại diện cty Hòa Bình đã bỏ về. Anh chị hãy giúp HĐTT giải quyết vụ việc trên. Bài số 19 Công ty TNHH A có trụ sở tại Tp.HCM ký hợp đồng liên doanh với Cty B (Singapore) để xây dựng một khu căn hộ cao cấp tại Quận 2, Tp.HCM. Trong hợp đồng liên doanh, hai bên có thỏa thuận chọn cơ quan giải quyết tranh chấp là Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore và luật áp dụng là luật thương mại Singapore. Anh (chị) hãy cho biết thỏa thuận trọng tài nói trên có hiệu lực không? Nếu thỏa thuận trọng tài nói trên có hiệu lực thì trung tâm trọng tài QT Singapore có thể áp dụng luật thương mại Singapore để giải quyết tranh chấp không? Tại sao? Bài số 20 Công ty nước ngoài (tạm gọi là công ty K) muốn đầu tư vào tỉnh B. Công ty K ký hợp đồng mua bán tài sản gắn liền với đất với ông X (người Việt Nam). Ông X làm ăn thua lỗ nên đã đồng ý bán nhà xưởng của ông trên thửa đất 5000m2. Đất này ông X có giấy tờ thuê của Nhà nước 25 năm, nên ông X sẽ làm thủ tục trả lại đất cho Nhà nước rồi Nhà nước cho công ty K thuê. Khi ký Hợp đồng mua bán tài sản gắn liền với đất, hai bên đã có điều khoản trọng tài như sau: “Hợp đồng này chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến Hợp đồng này sẽ được giải quyết tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế tại Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp theo quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm này. Địa điểm tiến hành trọng tài tại Hà Nội và ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài là tiếng Anh.” Anh (chị) hãy cho biết thỏa thuận trọng tài nói trên có hiệu lực không? Vì sao? Bài số 21 Công ty Thủy Lộc và Shiseido Comestic Vietnam Trước năm 2010, Công ty Thủy Lộc là đơn vị nhập khẩu và phân phối mỹ phẩm Shiseido (nguồn gốc Nhật Bản) tại thị trường Việt Nam. Song hành với Thủy Lộc là 15 nhà đầu tư cùng góp vốn theo hợp đồng hợp tác kinh doanh. Trong 25 cửa hàng Shiseido trên toàn quốc, 15 cửa hàng có phần vốn góp của các nhà đầu tư này, từ 30 đến 60%. Công ty Thủy Lộc nắm quyền điều hành, các cổ đông ngoài việc hưởng lãi theo định kỳ cũng tham gia hỗ trợ quảng bá, tìm kiếm khách hàng... Công ty Thủy Lộc đã xây dựng thương hiệu Shiseido  từ năm 1997. Khi đó, Nhà nước áp dụng chính sách hạn chế nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực phân phối hàng hóa tại thị trường Việt Nam. Vì vậy, muốn phân phối sản phẩm của mình tại Việt Nam, Shiseido đã hợp tác toàn diện với Công ty Thủy Lộc thông qua chuỗi phân phối của Thủy Lộc. Nhờ sự hợp tác này, thương hiệu Shiseido mới nổi tiếng tại thị trường Việt Nam như hiện nay. Theo cam kết khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), sau 3 năm kể từ ngày Việt Nam trở thành thành viên WTO, “công ty có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực phân phối sẽ được phép cung cấp dịch vụ đại lý hoa hồng bán buôn và bán lẻ tất cả các sản phẩm được sản xuất tại Việt Nam và nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam. Việc thành lập cơ sở bán lẻ (ngoài cơ sở thứ nhất) sẽ được xem xét trên cơ sở kiểm tra nhu cầu kinh tế”. Từ đầu năm 2010, Công ty Thủy Lộc chuyển giao quyền điều hành, quản lý Shiseido tại Việt Nam cho Công ty TNHH mỹ phẩm Shiseido Việt Nam (SCV). Mọi rắc rối xuất phát từ đây. Trong biên bản cuộc họp giữa SCV với nhóm nhà đầu tư ngày 1/11 ghi rõ quan điểm của SCV: "Các đối tác này chỉ có quan hệ với Thủy Lộc theo hợp đồng hợp tác kinh doanh. Trên cơ sở pháp lý, Shiseido không có quan hệ gì với đối tác của Thủy Lộc. Shiseido không điều hành kinh doanh tại các cửa hàng trong hệ thống ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh với Thủy Lộc” Phía 15 nhà đầu tư cho rằng mình phải được hiểu là đối tác kinh doanh nhãn hiệu Shiseido thông qua Thủy Lộc, mà hiện tại do SCV trực tiếp điều hành. Bởi theo họ, thời gian qua có sự phân biệt đối xử giữa cửa hàng có vốn góp của cổ đông và những cửa hàng do SCV sở hữu 100% vốn. Thông tin mà SCV đưa ra khẳng định không có thoả thuận hợp đồng nào với bất kỳ đối tác nào của công ty Thuỷ Lộc (TL), đồng thời SCV cũng không thể xác định chính xác mối quan hệ giữa TL và các nhà đầu tư góp vốn trong các cửa hàng. SCV đã tiến hành khởi kiện TL tại trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam. Đồng thời, SCV cũng đã nộp đơn ra Tòa án nhân dân Tp.HCM yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời với hình thức phong tỏa tài khoản của Công ty Thủy Lộc với số tiền trong các tài khoản tổng cộng 13,4 tỷ đồng. Đồng thời, phong tỏa toàn bộ hệ thống cửa hàng, đại lý bán lẻ trên toàn quốc của Công ty Thủy Lộc Việc phong tỏa hệ thống cửa hàng bán lẻ mỹ phẩm Shisheido của Công ty Thủy Lộc đồng nghĩa các nhà đầu tư, người lao động không thể đến cửa hàng để làm việc, bán hàng. . GỢI Ý NGHIÊN CỨU Theo anh (chị) khi đã lựa chọn biện pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, SCV có quyền yêu cầu tòa án nhân dân áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hay không? “Mỹ phẩm là hàng hoá rất nhạy cảm với hạn sử dụng, nếu bị phong toả vài tháng sẽ có nguy cơ bị hỏng”. Giả sử biện pháp khẩn cấp tạm thời mà SCV yêu cầu áp dụng là không có cơ sở, gây thiệt hại cho các bên có liên quan thì những người bị thiệt hại phải khiếu nại đến Hội đồng xử lí vụ việc, Trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam, Tòa án nhân Tp.HCM hay cơ quan nào để yêu cầu SCV bồi thường thiệt hại? III. YÊU CẦU KỸ NĂNG THỰC TẾ Bình luận một số bản án, quyết định trọng tài: xem Quyết định: 03/KTST Ngày: 15.9.2006 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét yêu cầu huỷ quyết định của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam Bình luận vụ công ty TNHH Thủ đô II yêu cầu Tòa án tuyên huỷ quyết định của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam giải quyết tranh chấp với Công ty PT VINDOEXIM (INDONESIA) Bình luận vụ Bệnh viện Quốc tế thận và lọc thận Dialasie yêu cầu Tòa án huỷ quyết định của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam giải quyết vụ kiện với Công ty dược phẩm B.Brour Hà Nội Bình luận các quyết định của TA trong Vụ án Kymdan quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh Viết một đơn khởi kiện vụ án hoặc khởi kiện tại Trọng tài. Cho biết các giấy tờ kèm theo hồ sơ khởi kiện. Viết thỏa thuận trọng tài Viết đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài 2