Academia.eduAcademia.edu
DIỄN ĐÀN Bài viết chủ yếu dựa trên những tư tưởng và luận điểm của một số tác giả khoa học xã hội trên thế giới mà chúng tôi cho là quan trọng và mang tính gợi mở cho tiến trình suy tư về việc xác lập một không gian công cộng tự do thực thụ, trong đó quan trọng trước hết là không gian báo chí, để người trí thức đảm nhiệm được sứ mệnh của mình. Trí thức và không gian công cộng trong xã hội hiện đại Trn Hu Quang * hành, chẳng hạn kế toán viên của xã hội hiện đại, mọi trí thức hay cảnh sát viên. Tuy nhiên, đều có nghĩa vụ phải hoài nghi ngoài ba hạng người ấy, còn có tất cả những gì hiển nhiên, coi S mnh ca trí thc trong xã hi hin đi một loại nữa mà người ta thường mọi quyền hành đều mang tính bỏ quên, đó chính là nhân vật tương đối, đặt ra tất cả những “anh hề”. Không giống như câu hỏi mà không ai khác dám Pierre Bourdieu cho rằng nét đặc những người ở bên trên, ở giữa nêu lên.” hay ở bên dưới vốn luôn luôn vác một trách nhiệm nào, và lẽ phải đóng đúng vai của mình, tất nhiên cũng chẳng có quyền anh hề được coi là diễn viên lực gì, nhưng không phải vì thế nằm ngoài mọi vai. “Vai của anh mà sự thật anh ta nói ra bị kém ta là không đóng vai nào”: “điều giá trị. “Một xã hội có dung nạp mà mỗi người phải làm” và hay không những anh hề cung “cách mà mỗi người phải diễn” đình trí thức chuyên phê phán và chính là những điều mà anh hề chất vấn các định chế của mình, không tuân theo . và cách thức mà xã hội khoan thù của người trí thức không phải là “biết mình phải nghĩ gì” về tất cả những thứ mà xã hội thời thượng coi là đáng suy nghĩ, mà ngược lại, cần “tìm cách khám phá ra tất cả những gì mà lịch sử và lô-gic của trường trí thức đã từng buộc anh ta phải suy nghĩ [...] với ảo tưởng là mình đang được tự do.” 1 Ralf Dahrendorf [nhà xã hội học Đức, 1929-2009] từng ví vai trò của người trí thức trong xã hội hiện đại tương tự như vai “anh hề” trong triều đình Âu châu thời xưa, vốn thường xuất hiện bên cạnh nhà vua hay hoàng hậu để kể chuyện giễu cợt hoặc đùa giỡn. Theo ông, bất cứ xã hội nào cũng đều có những người “ở bên trên” chuyên ra lệnh, và những người “ở bên dưới” chuyên làm theo luật lệ được ban hành; ngoài ra, còn có những người ở giữa, không chỉ ra lệnh mà cũng không chỉ thi 12 2 Anh hề đóng vai “lương tâm 4 Anh hề không gánh dung chấp nhận những người phê phán của những kẻ cầm này, đấy chính là thước đo cho quyền” và có quyền tự do làm sự trưởng thành và sự vững chắc những điều mà những kẻ bên nội tại của xã hội ấy.” dưới nếu làm thì sẽ bị trừng 5 Hans Gerth [nhà xã hội học phạt. “Quyền lực của anh hề Mỹ gốc Đức, 1908-1978] và nằm nơi sự tự do của anh ta so Wright Mills [nhà xã hội học với hệ thống tôn ti của trật tự xã Mỹ, 1916-1962] nhận định rằng hội, nghĩa là, anh ta phát ngôn trí thức là một trong số những từ bên ngoài cũng như từ bên thành phần thường được/bị coi trong đó. Anh hề thuộc về trật tự là “chệch hướng” trong xã hội . 6 xã hội nhưng không buộc phải Liên quan đến tư thế chệch trung thành với nó; anh ta có thể hướng này, P. Berger [nhà xã hội phát ngôn cả những sự thật nhức học Mỹ gốc Áo, 1929] và T. nhối về trật tự xã hội ấy mà Luckmann [nhà xã hội học Áo, không phải sợ hãi gì.” 1927-2016] phân tích như sau: 3 Dahrendorf viết: “Với tư “[...] tình trạng ở ngoài lề xã hội cách là những anh hề cung đình của [người trí thức] [...] cho thấy SỐ 03. NGÀY 05.2.2017 DIỄN ĐÀN anh ta không chịu hội nhập trên trạng lệ thuộc vào lợi ích và vào nhất của xã hội hiện đại vốn phương diện lý thuyết vào trong sự tuân phục” , thì theo H. Gerth mang một trong những thuộc lòng vũ trụ [biểu tượng] của xã và W. Mills, những trí thức tính then chốt là tính đa nguyên. hội anh ta. Anh ta tỏ ra là một “chệch hướng” này lại “thường Khi định nghĩa sự “khai minh” chuyên gia đối đầu trong công đóng những vai trò quan trọng chính là “sự giải thoát ra khỏi việc định nghĩa thực tại. Tương trong những giai đoạn chuyển tình trạng ấu trĩ”, triết gia Đức tự như chuyên gia ‘chính thức’, đổi từ một cấu trúc xã hội này thế kỷ 18 Immanuel Kant nhấn anh ta cũng có một bản thiết kế sang một cấu trúc xã hội khác. mạnh rằng người ta “phải luôn cho xã hội nói chung. Nhưng Họ phê phán những thứ đang tồn luôn được tự do sử dụng công trong khi bản thiết kế của tại như thể là những thứ ‘đã chết khai lý tính của mình, và chỉ có chuyên gia ‘chính thức’ luôn rồi’, và họ làm điều này nhân điều này mới có thể mang lại sự luôn phù hợp với các chương danh những tiêu chuẩn chưa khai minh nơi con người” trình định chế, và được dùng để thành hiện thực, và có thể ngay “Vị sĩ quan nói: không tranh cãi, chính đáng hóa các chương trình cả những tiêu chuẩn ‘không tập luyện đi! Nhân viên thu thuế này về mặt lý thuyết, thì bản tưởng’, không thể thực hiện nói: không tranh cãi, nộp tiền đi! 9 tại trong một cõi chân không về . Nếu Nhà xã hội học Đức Jürgen Habermas (1929). Triết gia Pháp Pierre Bourdieu (1930). thiết kế của người trí thức lại tồn 11 được.” 10 Hiểu theo chiều hướng ấy, Vị giáo sĩ nói: không tranh cãi, hãy tin đi!”, thì nhà nghiên cứu mặt định chế [...]. Có thể khẳng hiển nhiên là người trí thức lại là người phải đưa công trình định chắc chắn rằng một mức độ không thể nào đảm nhiệm được của mình “ra trước thế giới độc đa nguyên nhất định chính là sứ mệnh của mình nếu thể chế giả” để họ xem xét, phê phán. một điều kiện cần thiết [cho sự xã hội không xác lập được một Chỉ khi nào tính công khai được tồn tại và hoạt động của giới trí không gian công cộng tự do thực tôn trọng, thì “anh ta [mới] được thức].” thụ, mà trong đó quan trọng hưởng đầy đủ quyền tự do và trước hết là không gian báo chí. thậm chí còn được mời gọi 7 Joseph Schumpeter cho rằng, truyền thông cho công chúng với tư cách là người hoạt động tự do, trí thức chính là người “đỡ đẻ” của xã hội . 8 Không gian công cng và báo chí mọi tư tưởng thiện chí mà anh ta đã suy xét cẩn thận” 12 . Đề cập tới giới trí thức không nằm trong Nếu người trí thức gần như luôn luôn “ở trong một dạng nổi Không gian công cộng là một bộ máy nhà nước mà ông gọi loạn thường trực chống lại tình trong những sản phẩm độc đáo chung là “các nhà triết học”, SỐ 03. NGÀY 05.2.2017 13 DIỄN ĐÀN Xã hi hin đi là mt xã hi mang tính cht th tc, ngha là trong đó ph ng th c t ch c đ i sng xã hi không còn da trên nn tng ca nhng trt t siêu nhiên hay siêu vit na, mà là thông qua s tho lun, t c là thông qua hot đng truyn thông, nh đó con ng i mi có th đi đn mt s tha thun, t c mt kh c, v chuyn chung sng vi nhau nh th nào mt cách chính đáng. Kant nhận xét như sau: “Do quyền tự do mà họ tự cho là mình có, [các nhà triết học] thường là những người chướng tai gai mắt đối với nhà nước, vốn luôn luôn chỉ muốn cai trị, và với tư cách là ‘những người khai minh’, họ nổi tiếng là trở thành mối đe dọa đối với nhà nước [...]. Điều này chỉ có thể xảy ra nhờ vào không gian công cộng, nếu cả một quốc gia muốn biểu tỏ sự bất bình của mình. Vì thế, việc cấm đoán không gian công cộng sẽ cản trở sự tiến bộ của một dân tộc hướng đến điều tốt đẹp hơn.” 13 Theo Jürgen Habermas, không gian công cộng là không gian mà trong đó bất cứ cá nhân nào cũng có thể tham gia và trao đổi ý kiến với nhau mà không bị áp lực từ bên ngoài. Trên nguyên tắc, đây là nơi diễn ra những cuộc tranh luận mang tính chất lý tính và phê phán, và do vậy đây chính là nơi kết Một trong năm tác phẩm điêu khắc trên đường phố Kiev của nghệ sĩ Kostiantyn Skrytutskyi dành tặng giới trí thức – cú mèo, bói cá, quạ, chim đầu rìu. tinh nên những ý kiến (công luận) và ý muốn của công chúng. Tính duy lý của sự đối thoại trong không gian công cộng giúp cho người ta vượt dần ra khỏi những lợi ích cá biệt để đạt tới một sự đồng thuận giữa những người có thiện chí với nhau 14 . Không gian công cộng đóng vai trò trung gian giữa xã hội công dân và nhà nước, buộc nhà nước phải chịu trách nhiệm trước xã hội do “tính công cộng” của mình. Không gian công cộng tự nó mang tính chất phê phán bởi lẽ nó giả định rằng phải có những thông tin về các hoạt động của nhà nước để công luận có thể xem xét và bình phẩm 15 . Các phương tiện truyền thông đại chúng là định chế điển hình nhất của không gian công cộng. Trong xã hội hiện đại, định chế này tạo ra một không gian công cộng mới mẻ và rộng mở, chưa từng có trong các xã hội cổ truyền, tiền hiện đại. Theo Daniel Lerner [học giả Mỹ, 1917-1980] “một hệ thống truyền thông chính là một dấu chỉ và cũng đồng thời là một 14 tác nhân của sự thay đổi trong toàn bộ một hệ thống xã hội.” 16 Các phương tiện truyền thông đại chúng, nhất là báo chí, chính là một trung giới truyền thông trong nội bộ xã hội dân sự, cũng như giữa xã hội dân sự với các định chế nhà nước. Hiểu theo ý nghĩa này, truyền thông đại chúng không phải là một lãnh địa dành riêng cho những người có quyền lực, những nhà truyền thông hay các chuyên gia. Báo chí là chiếc cầu nối không thể thiếu giữa người dân với xã hội. Vì thế, một trong những chức năng xã hội quan trọng của báo chí là nuôi dưỡng sự gắn bó của người dân với đời sống xã hội, và từ đó, sâu xa hơn, củng cố lòng tin của người dân vào các giá trị xã hội. Người dân đọc báo không chỉ để biết tin tức và theo dõi dòng thời sự, mà quan trọng hơn, còn là để hiểu thời cuộc mà họ đang sống. Do vậy, nếu tờ báo không chu toàn sứ mệnh của mình, chỉ thông tin một chiều theo kiểu “tô hồng”, thì chuyện độc giả không tín nhiệm vào tờ báo là điều dễ hiểu. Điều đáng nói là một khi tình hình này trở nên phổ biến thì nguy cơ nảy SỐ 03. NGÀY 05.2.2017 DIỄN ĐÀN sinh tình trạng mất lòng tin trong xã hội là điều khó lòng ngăn PGS.TS xã hội học. * chặn. Một cách tổng quát, có thể nói rằng độ tin cậy của một nền 1 báo chí cũng biểu hiện độ tin cậy của chính hệ thống xã hội. sociologie, Paris, Minuit. Tr. 71. Xã hội hiện đại là một xã hội mang tính chất thế tục, nghĩa là trong đó phương thức tổ chức đời sống xã hội không còn dựa trên nền tảng của những trật tự siêu nhiên hay siêu việt nữa, mà là thông qua sự thảo luận, tức là thông qua hoạt động truyền thông, nhờ đó con người mới có thể đi đến một sự thỏa thuận, tức một khế ước, về chuyện chung sống với nhau như thế nào một cách chính đáng. Triết gia Đức Georg Hegel (1770-1831) từng viết như sau: “Nguyên tắc của thế giới hiện đại đòi hỏi rằng những gì buộc con người phải nhìn nhận thì bản thân chúng phải tự chứng tỏ là chính đáng đã.” 17 Nói cách khác, những điều mà người ta coi là “chính đáng” phải là kết quả xuất phát từ một quá trình thảo luận tự do. Theo Hegel, “trong dư luận quần chúng có cả cái đúng lẫn cái sai”, nhưng việc nhìn ra những điều đúng đắn trong đấy “chính là công việc của bậc vĩ nhân”. Ông viết: “Ai thể hiện được ý nguyện của thời đại mình, ai nói cho thời đại mình biết điều “Mt xã hi có dung np hay không nhng anh h cung đình trí th c chuyên phê phán và cht vn các đnh ch ca mình, và cách th c mà xã hi khoan dung chp nhn nhng ng i này, đy chính là th c đo cho s tr ng thành và s vng chc ni ti ca xã hi y”. Ralf Dahrendorf mà thời đại mong muốn, và hoàn thành ý nguyện ấy, là vĩ nhân của thời đại” 18 . Để biết được “ý nguyện” của dân chúng, để hiểu được công luận, hiển nhiên là phải tôn trọng và tạo điều kiện cho quyền tự do ngôn luận, và hệ luận của điều này là quyền tự do báo chí. Theo Hegel, “sự tự do ngôn luận bao giờ cũng được xem là ít nguy hiểm hơn so với sự im lặng, bởi nếu nhân dân im lặng, sợ rằng họ sẽ giữ mãi trong lòng sự chống đối, trong khi việc tự do lý sự sẽ mở lối thoát và mang lại cho họ một mức độ thỏa mãn nào đó, khiến công việc được tiến hành dễ dàng hơn.” 19 Dĩ nhiên, tự do báo chí hoàn toàn không phải là “tự do tha hồ nói và viết những gì mình thích”, bởi lẽ nếu nghĩ như vậy thì cũng không khác gì nói rằng “sự tự do nói chung có nghĩa là muốn làm gì thì làm”, và cách hiểu này là “sản phẩm của lối suy nghĩ còn hoàn toàn thiếu văn hóa, thô lậu và nông cạn” 20 . Vào tháng 5-1842, trên tờ nhật báo Rheinische Zeitung, Karl Marx viết rằng có thể có ba loại công chúng khi một nền báo chí sa vào tệ giả dối và tệ tiêu cực: một là nhóm “mê tín về chính trị”, hai là nhóm “không tin tưởng về chính trị”, và ba là nhóm “hoàn toàn quay lưng lại với cuộc sống của quốc gia, biến thành đám người chỉ sống với cuộc đời riêng tư”. Và Marx còn nhấn mạnh rằng nền báo chí ấy “có tác dụng làm suy đồi đạo đức” trong xã hội 21 .  SỐ 03. NGÀY 05.2.2017 Bourdieu, Pierre (1984), Questions de 2,3,4,5 Dahrendorf, Ralf (1970), “The Intel- lectual and Society. The Social Function of the ‘Fool’ in the Twentieth Century” [1953], in Philip Rieff (Ed.), On Intel- lectuals, New York, Anchor Books. Tr. 53-56. 6,10 Gerth, Hans, and C. Wright Mills (1964), Character and Social Structure. The Psychology of Social Institutions [1953], New York, Harcourt, Brace and World, Inc. Tr. 270-271. 7 Berger, Peter L., và Thomas Luckmann (2015), Sự kiến tạo xã hội về thực tại. Khảo luận về xã hội học nhận thức [1966], Trần Hữu Quang chủ biên dịch thuật, giới thiệu và chú giải, Hà Nội, Nxb Tri thức. Trang 187. 8, Schumpeter, Joseph A. (2003), Capita- lism, Socialism and Democracy [1943], London, Routledge. Tr. 149; tr. 146. 9 Mills, C. Wright (1974), White Collar. The American Middle Classes [1951]. London, Oxford University Press. Tr. 143. 11,12 Kant, Immanuel (2006a), “An Ans- wer to the Question: What Is Enlightenment?” [1784], in Immanuel Kant, “Toward Perpetual Peace” and Other Writings on Politics, Peace, and His- tory, Yale University Press. Tr.18 - 22. 13 Kant, Immanuel (2006b), “The Contest of the Faculties, Part Two. The Contest of the Faculty of Philosophy with the Faculty of Law” [1798], in Immanuel Kant, “Toward Perpetual Peace” and Other Writings on Politics, Peace, and History. Tr.159. 14 Habermas, Jürgen (1993), L’Espace public: Archéologie de la publicité comme dimension constitutive de la so- ciété bourgeoise [1962], Paris, Payot. Tr. 211-214, tr.224. 15 Létourneau, Alain (2001), “Remarques sur le journalisme et la presse au regard de la discussion dans l’espace public”, in Patrick J. Brunet, L’éthique dans la société de l’information, Québec et Paris, Presses Université Laval, L’Harmattan. Tr. 49. 16 Lerner, Daniel (1973), “Systèmes de communications et systèmes sociaux”, in Francis Balle et Jean Padioleau (Dir.), Sociologie de l’information, Textes fondamentaux, Paris, Larousse. Tr. 132133. 17,18,19,20 Hegel, Georg W.F. (2010), Các nguyên lý của triết học pháp quyền [1821], Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, Hà Nội, Nxb Tri thức. Tr. 803- 805. 21 Mác, Các, và Ph. Ăng-ghen (1995), Toàn tập, Tập 1, Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia. Tr.102-105. 15