You are on page 1of 169

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN TIẾN THÀNH

hoµn thiÖn c¬ chÕ ph¸p lý thùc hiÖn


d©n chñ c¬ së ë viÖt nam hiÖn nay

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

HÀ NỘI - 2016
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN TIẾN THÀNH

hoµn thiÖn c¬ chÕ ph¸p lý thùc hiÖn


d©n chñ c¬ së ë viÖt nam hiÖn nay

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Mã số: 62 38 01 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS. TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HƯƠNG

HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả luận án

Nguyễn Tiến Thành


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA CẦN NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 8
1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước 8
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 21
1.3. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần
tiếp tục nghiên cứu đề tài luận án 26
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC
HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở VIỆT NAM 32
2.1. Nhận thức về dân chủ và dân chủ cơ sở 32
2.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở 41
2.3. Các thành tố của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở 49
2.4. Tiêu chí hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở 60
Chương 3: THỰC TRẠNG CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC HIỆN DÂN CHỦ
CƠ SỞ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 71
3.1. Thực trạng xây dựng các nguyên tắc thực hiện dân chủ cơ sở 71
3.2. Thực trạng thể chế thực hiện dân chủ cơ sở 83
3.3. Thực trạng thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở 90
3.4. Thực trạng các điều kiện đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở 99
3.5. Thực trạng tác động của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở 103
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ
THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 117
4.1. Dự báo những chuyển biến của xã hội tác động đến quá trình hoàn thiện
cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam 117
4.2. Quan điểm hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
hiện nay 123
4.3. Giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
hiện nay 127
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCHTW : Ban Chấp hành Trung ương


CNXH : Chủ nghĩa xã hội
HĐND : Hội đồng nhân dân
HTCT : Hệ thống chính trị
MTTQ : Mặt trận Tổ quốc
QCDC : Quy chế dân chủ
UBND : Ủy ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Trên phương diện nhận thức luận, quyền lực nhân dân trong mọi xã hội hiện
đại đều có thể và cần thiết thể hiện theo hai phương thức: dân chủ đại diện, dân chủ
trực tiếp và thực hiện trên các phạm vi không gian của đất nước. Điều đó bao hàm
cách hiểu, nhân dân - với vị thế chủ thể quyền lực, có thể trao quyền cho cá nhân
hay tổ chức đại diện cho mình để thực hiện quyền lực nhân dân đồng thời nhân dân
cũng có thể tự mình bày tỏ ý chí của mình để trực tiếp thực hiện quyền lực nhân
dân. Nói cách khác, mặc dù làm chủ thông qua con đường nhà nước là phương thức
làm chủ thông dụng và hữu hiệu nhưng nhân dân không thể trao hết quyền lực cho
nhà nước. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, Nhà nước luôn vấp phải những lỗi hệ
thống và nhân dân luôn gặp khó khăn trong việc kiểm soát hoạt động của các cơ
quan Đảng và Nhà nước nhằm đảm bảo quyền lực nhân dân. Vì vậy, nhân dân
không thể đặt cược toàn bộ vào nhà nước. Nhân dân phải tự mình - thông qua
những hình thức khác nhau, trực tiếp thực hiện quyền của chủ nhân quyền lực. Điều
này thể hiện rõ nét nhất tại địa bàn cơ sở. Cách đặt vấn đề đó đã chỉ ra nhu cầu phải
tìm kiếm căn cứ lý thuyết để tạo khung tư duy cho việc xác lập các cơ chế bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân, trong đó - như một tất yếu - có cơ chế pháp lý thực
hiện dân chủ cơ sở.
Trên phương diện thực tiễn, Đảng ta luôn coi trọng nhân dân, luôn xác định
vị thế chủ thể quyền lực của nhân dân và phấn đấu vì lợi ích của nhân dân. Trong
quá trình đổi mới, tính pháp quyền của Nhà nước, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
(XHCN) đã từng bước được xây dựng, củng cố. Bước tiến đó đã có khả năng
thâm nhập sâu rộng vào mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, vào đời sống xã
hội trên nhiều vùng của đất nước, đang tạo ra những mô hình, những điển hình có
sức lan tỏa lớn. Tuy nhiên, trong thực tế, cơ chế bảo đảm quyền lực thuộc về nhân
dân vẫn đang tồn tại những bất cập. Một mặt, tuy Hiến pháp 2013 đã có những
thay đổi quan trọng trong ghi nhận chủ quyền nhân dân và các cơ chế thực thi dân
chủ nhưng trên thực tế, quá trình triển khai thi hành Hiến pháp mới được khởi
2

động, mặt khác, dân chủ cơ sở ở nước ta chưa được phát huy đúng mức - xét cả ở
góc độ nhận thức cũng như ở hiện thực của các hình thức và cơ chế đảm bảo
quyền tham gia và quyết định trực tiếp của nhân dân đối với các vấn đề của địa
phương và đất nước. Trong suốt những năm đổi mới vừa qua, để đảm bảo tính an
toàn và ổn định xã hội, quá trình phát huy dân chủ ở nước ta vẫn căn bản dựa trên
cơ sở chiêm nghiệm thực tế, vừa làm vừa đúc rút lý luận và kinh nghiệm, do vậy
tính tổng thể, tính đồng bộ, tính phù hợp và hiệu quả còn bị hạn chế. Đặc biệt, tại
địa bàn cơ sở, tình trạng vi phạm dân chủ vẫn là hiện tượng tương đối phổ biến. Đi
kèm với nó là trạng thái suy giảm lòng tin của dân chúng và hiệu ứng ngược đối
với năng lực thực hành dân chủ của nhân dân. Những nỗ lực phát huy dân chủ ở
cơ sở trong những năm gần đây vẫn chưa phát huy hết được tác động thực tế. Các
cơ chế, hình thức thực thi dân chủ của người dân và các cơ chế bảo vệ, bảo đảm
quyền dân chủ của người dân ở cơ sở vẫn có không ít khoảng trống về mặt lý luận
và thiết kế pháp lý. Nhìn một cách tổng thể, phương châm "Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra" tại cơ sở vẫn chưa có được những căn cứ chính trị và pháp lý
vững chắc cho việc thực hiện nhất quán để một mặt bảo đảm vai trò và sứ mệnh
lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội của Đảng, quyền làm chủ của nhân dân, hiệu
lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, mặt khác, bảo đảm để có sự cầm quyền và
thực thi quyền lực chính đáng, hợp hiến vì nhân dân, ngăn chặn có hiệu quả mọi
biểu hiện của sự lạm dụng quyền lực và nguy cơ phát triển chệch hướng, vượt ra
ngoài quỹ đạo phục vụ nhân dân.
Nhu cầu khắc phục tình trạng nói trên đã được Đảng và Nhà nước ta nhận
thức rất rõ. Nhiệm vụ nghiên cứu những vấn đề lý luận và tổng kết thực tiễn để hình
thành một chủ thuyết đầy đủ về chủ quyền nhân dân, trên cơ sở đó xác lập cơ chế
hữu hiệu đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân, tăng cường các cơ chế, hình thức
đảm bảo phát huy dân chủ cơ sở, giải quyết các mối quan hệ giữa quyền làm chủ
trực tiếp của người dân với các thiết chế thuộc hệ thống chính trị cơ sở… đã được
xác định là một yêu cầu cấp bách và trở thành một định hướng quan trọng trong
nghiên cứu khoa học và được đặt trong bối cảnh đổi mới chính trị hiện nay nhằm
khơi thông một cách tiếp cận và quảng bá xã hội về quyền của người dân, về khả
3

năng nhân dân được làm gì và làm như thế nào để bảo vệ và thực thi quyền lực
nhân dân trong một trật tự nhà nước pháp quyền. Đặc biệt, thực hiện tốt và đẩy
mạnh dân chủ cơ sở không chỉ đơn thuần là một phản ứng chính trị của Đảng và
Nhà nước trước tình hình phức tạp của những điểm nóng ở cơ sở mà còn thể hiện
cái nhìn hướng tới cơ sở, coi trọng cái gốc ở cơ sở, do vậy mang tính chiến lược,
căn bản, lâu dài. Theo hướng đó, trên từng bình diện cụ thể, nhiều đề tài nghiên cứu
đã được triển khai. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu đến nay vẫn chưa phúc đáp được
yêu cầu.
Trong bối cảnh đó, rất cần thiết phải tiến hành nghiên cứu theo hướng làm
sâu sắc thêm về mặt lý luận, tổng kết thực tiễn và định hình một cách cơ bản, đồng
bộ, có hệ thống về các giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân
chủ cơ sở gắn với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, thúc đẩy và bảo
vệ các quyền cơ bản của con người ở Việt Nam. Bối cảnh triển khai Hiến pháp năm
2013 hiện nay càng khiến cho chủ đề này trở nên cấp bách.
Như vậy, có thể khẳng định, trong tình hình hiện nay việc lựa chọn nghiên
cứu chủ đề “Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
hiện nay” trong quy mô của một luận án tiến sĩ và dưới góc độ tiếp cận của khoa
học pháp lý là rất cần thiết, xét cả từ góc độ lý luận và góc độ thực tiễn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích tổng quát của luận án là xây dựng luận cứ khoa học cho các giải
pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, góp phần phát
huy dân chủ, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân trong quá trình đổi mới đất
nước hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm sáng tỏ nhận thức về dân chủ cơ sở; xác định khái niệm,
đặc điểm, các yếu tố cấu thành và vai trò của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ
sở ở Việt Nam hiện nay.
- Nhận diện các tiêu chí hoàn thiện và các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn
thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam.
4

- Đánh giá thực trạng cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam.
Xác định và phân tích các nguyên nhân của ưu điểm và hạn chế của cơ chế pháp lý
thực hiện dân chủ cơ sở hiện nay.
- Xác định các quan điểm và đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ chế
pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam trong giai đoạn tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các khía cạnh lý luận về hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở.
- Hệ thống pháp luật và thực hiện pháp luật về quyền dân chủ, các hình thức,
phương pháp, trình tự, thủ tục thực hiện dân chủ tại cơ sở.
- Hệ thống pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động
của các thiết chế thực thi dân chủ tại cơ sở.
- Các điều kiện, yếu tố tác động đến quá trình hoàn thiện cơ chế pháp lý thực
hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là một phạm
trù có nội hàm rộng, khó có thể giải quyết thấu đáo trong quy mô của luận án tiến sĩ
luật học.
Vì vậy, luận án triển khai nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng thể chế,
thiết chế và các điều kiện đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở trên không gian cả nước
nhưng chỉ giới hạn ở đơn vị hành chính - lãnh thổ cấp cơ sở. Khái niệm thực hiện
dân chủ cơ sở - đối tượng nghiên cứu của đề tài - được xác định là việc thực hiện
dân chủ tại loại hình cơ sở xã, phường, thị trấn (chủ yếu là xã - đơn vị hành chính
cơ sở phổ biến ở nước ta hiện nay), không bao hàm việc thực hiện dân chủ trong
các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức nhà nước tại cơ sở.
- Phạm vi thời gian:
Luận án triển khai nghiên cứu quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ chế
pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam từ sau khi Bộ Chính trị (khóa VIII)
có Chỉ thị số 30/CT-TW của Bộ Chính trị ngày 18/2/1998 về xây dựng và thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Trực tiếp là từ khi Chính phủ có Nghị định số
5

29/1998/NĐ-CP ngày 28/5/1998 về việc ban hành quy chế thực hiện quy chế dân
chủ cơ sở đến 2015.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận của luận án
Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu luận án là lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, chủ quyền nhân dân và bản
chất của dân chủ XHCN, về chức năng nhiệm vụ của hệ thống chính trị cơ sở, về vị
trí vai trò của các tổ chức quần chúng, về đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy
Đảng và Nhà nước theo hướng phục vụ nhân dân và bảo đảm quyền lực nhân dân.
Luận án trực tiếp dựa trên những quan điểm và định hướng các nhiệm vụ
chính trị được đề cập trong các Văn kiện Đại hội VIII, IX, X, XI của Đảng về tiếp
tục phát huy dân chủ, đổi mới hệ thống chính trị, về chiến lược phát triển bền vững
ở Việt Nam, về tiến bộ và công bằng xã hội, về xây dựng hệ thống pháp luật đồng
bộ, minh bạch, đảm bảo các quyền con người, quyền công dân…
Luận án cũng dựa trên cách tiếp cận nghiên cứu của một số lý thuyết phổ
biến hiện nay trên thế giới như: lý thuyết về chủ quyền nhân dân, học thuyết nhà
nước pháp quyền, học thuyết về quyền con người…
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến hiện nay của khoa
học pháp lý, trong đó chú trọng các phương pháp: phân tích và tổng hợp, kết hợp
giữa lý luận và thực tiễn, lý thuyết hệ thống. Ngoài ra luận văn còn sử dụng một số
phương pháp cụ thể như thống kê, so sánh, điều tra xã hội học, lịch sử...
Do tính chất liên ngành của đề tài, luận án có chú ý thích đáng đến cách tiếp
cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội trên cơ sở lát cắt chủ đạo của khoa học
pháp lý và khoa học chính trị.
Chương 1 sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp phân tích
tài liệu thứ cấp nhằm kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có, phân tích, tổng hợp,
khái quát thành quan điểm riêng của tác giả.
Chương 2 sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp trên cơ sở quan
điểm biện chứng của triết học Mác-Lênin.
6

Chương 3 sử dụng phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh, điều tra xã hội
học, đánh giá thực hiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở các tỉnh, thành
phố trong cả nước.
Chương 4 sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, lý thuyết hệ thống nhằm
phát hiện mối liên hệ giữa bối cảnh, điều kiện với các yêu cầu phát huy dân chủ cơ
sở; bảo đảm tính tổng thể và khoa học của các giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý
thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
5. Đóng góp mới của luận án
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về hoàn thiện cơ chế pháp lý thực
hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay. Tác giả luận án phân tích toàn diện cơ sở
lý luận và thực tiễn về cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở và kiến nghị hệ
thống các giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam
hiện nay.
Những đóng góp chủ yếu của luận án là:
- Đưa ra khái niệm cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở; chỉ rõ các
thành tố của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam; xác định các
tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở
ở Việt Nam.
- Luận án chỉ ra sự tương tác giữa phát huy dân chủ cơ sở với đảm bảo quyền
con người ở nước ta hiện nay.
- Đánh giá những kết quả và hạn chế, bất cập của cơ chế pháp lý thực hiện
dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay; Chỉ rõ nguyên nhân của những kết quả và hạn
chế trong sự tác động của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đối với xã hội
Việt Nam hiện nay.
- Nêu và luận chứng đầy đủ về hệ thống giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý
thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về lý luận
Kết quả nghiên cứu và đóng góp mới của luận án góp phần làm sáng tỏ và
phong phú thêm những vấn đề lý luận về thực hiện dân chủ nói chung, về cơ chế
7

pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam nói riêng. Từ đó, luận án góp phần đổi
mới nhận thức lý luận về dân chủ và dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
6.2. Về thực tiễn
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với các nhà nghiên cứu,
các nhà hoạch định chính sách và quản lý.
Kết quả luận án có thể được sử dụng phục vụ cho hoạt động đào tạo cho học
viên cao học, sinh viên đại học tại các cơ sở đào tạo ngành luật và các ngành khoa
học xã hội có liên quan.
Các kết quả nghiên cứu của luận án có thể được các cơ quan hữu quan tại các
địa phương sử dụng làm luận cứ khoa học, tài liệu tham khảo phục vụ việc xây
dựng các giải pháp, biện pháp cụ thể để phát huy dân chủ cơ sở trên địa bàn, góp
phần đảm bảo quyền lực nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc
phòng, trật tự an toàn xã hội, phát triển bền vững tại địa phương.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu của tác
giả liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung luận án gồm 4
chương, 15 tiết.
8

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA CẦN NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC


Cùng với quá trình đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, yêu cầu phát huy dân chủ trong các lĩnh vực
của đời sống đã được đặt ra hết sức mạnh mẽ ở Việt Nam. Theo đó, hoạt động
nghiên cứu hướng tới mục tiêu tìm kiếm các giải pháp đảm bảo thực hiện dân chủ
nói chung, dân chủ cơ sở nói riêng diễn ra đặc biệt sôi động ở nước ta trong những
năm gần đây. Số lượng các công trình nghiên cứu liên quan đến chủ đề này khó có
thể liệt kê hết thông qua những con số thống kê đơn thuần. Sản phẩm của hoạt
động nghiên cứu được công bố dưới nhiều hình thức ấn phẩm khác nhau: Báo cáo
tổng hợp và kiến nghị của các đề tài nghiên cứu các cấp, sách chuyên khảo, các
bài báo khoa học, các kỷ yếu hội thảo khoa học, các luận án và luận văn trong các
lĩnh vực chuyên ngành luật học, chính trị học, hành chính học…
Nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu chủ đề luận án, nghiên cứu sinh chỉ
dừng ở việc lựa chọn và tổng quan những quan điểm nghiên cứu chính của một số
công trình tiêu biểu có liên quan trực tiếp tới các nội dung thuộc phạm vi bàn luận
của luận án. Về cơ bản, có thể gom các công trình đó thành các nhóm sau:
1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về dân chủ và dân chủ cơ sở
Trước hết, nghiên cứu về dân chủ có thể kể đến các công trình sau:
- Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, của Thái Ninh, Hoàng Chí
Bảo [96]. Nội dung cuốn sách tập trung làm rõ các vấn đề lý luận về dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa; coi dân chủ tư sản là thành quả của cuộc cách
mạng tư sản, là kết quả việc nhà nước tư sản sử dụng phương pháp tự do chủ
nghĩa để thực hiện chuyên chính tư sản; chỉ ra những đặc trưng cơ bản của dân
chủ tư sản. Dân chủ XHCN là nền dân chủ gắn với bản chất của chế độ Nhà nước
XHCN; là hình thức chính quyền mà đặc trưng là việc tuyên bố chính thức nguyên
tắc thiểu số phục tùng đa số và thừa nhận quyền tự do bình đẳng của công dân.
9

Trong tương quan với quyền lực nhân dân, dân chủ được coi là công cụ, là hình
thức chủ yếu thực hiện quyền lực nhân dân...
- Mối quan hệ pháp lý giữa cá nhân công dân với Nhà nước, của Trần
Ngọc Đường, Chu Văn Thành [44]. Nội dung cuốn sách đã phân tích và lý giải về
mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước và công dân về quyền và nghĩa vụ. Bởi lẽ,
chế độ chính trị ở nước ta nhân dân là người chủ của đất nước, đương nhiên phải
có đầy đủ quyền của người làm chủ, đồng thời cũng phải thực hiện nghĩa vụ, đó là
mối quan hệ biện chứng. Nhưng để bảo đảm quyền, nghĩa vụ được thực thi trên
thực tế, phải được luật quy định chính xác, đầy đủ, đó là điều kiện quyết định, nếu
không thì dù có cơ chế tốt đến đâu cũng không thể thực thi được.
- Dân chủ và tập trung dân chủ - lý luận và thực tiễn, của Nguyễn Tiến
Phồn [100]. Cuốn sách bàn tập trung về cách hiểu khái niệm dân chủ, tập trung
dân chủ, trạng thái của dân chủ trong xã hội hiện đại và ở Việt Nam…
- Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay, của Đỗ
Trung Hiếu [54]. Tác giả dành sự quan tâm phân tích nhu cầu và đặc thù nền dân
chủ Việt Nam, đề xuất các giải pháp tiếp tục phát huy dân chủ trong điều kiện hiện
nay ở Việt Nam.
- Dân chủ và pháp luật, của Ngô Huy Cương [16]. Cuốn sách gồm 3
chương, trình bầy những nhận thức chung về dân chủ, đánh giá tính dân chủ trong
pháp luật Việt Nam hiện nay, đề cập việc xây dựng dân chủ và pháp luật dân chủ
ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay như: xây dựng nền văn hóa chính trị, xây
dựng Hiến pháp dân chủ, xây dựng chính quyền dân chủ, phát triển các hình thức
dân chủ và xây dựng xã hội công dân.
- Các chuyên đề bài giảng chính trị học, của Phan Xuân Sơn [119]. Các
chuyên đề bài giảng chính trị học đều có những nội dung liên quan ở các mức độ
khác nhau đến nền dân chủ. Đó là các vấn đề lý luận về quyền lực chính trị, quyền
lực nhà nước, hệ thống chính trị, Nhà nước pháp quyền, Đảng chính trị và xã hội
công dân, kiểm soát quyền lực nhà nước, bầu cử... Đặc biệt chuyên đề 21 - Xây
dựng nền dân chủ XHCN Việt Nam do Lê Minh Quân biên soạn đã trình bầy một
cách hệ thống những vấn đề lý luận chung về dân chủ, bao gồm: các quan niệm về
10

dân chủ và các mô hình dân chủ trong lịch sử chính trị thế giới từ thời cổ đại đến
nay, quan niệm về dân chủ của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, những
yếu tố tạo nên cơ sở cho nền dân chủ hiện đại và tiêu chuẩn dân chủ. Trên cơ sở
đó, chuyên đề đánh giá khái quát thực trạng dân chủ ở Việt Nam và đặt ra yêu cầu
tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
- Đặc biệt, số lượng các bài báo khoa học về chủ đề dân chủ hết sức phong
phú, trong đó phải kể đến danh mục các bài sau: Hoàng Văn Hảo, Vấn đề dân
chủ và các đặc trưng của mô hình tổng thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam [50]; Nguyễn Trọng Thóc, Nâng cao vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay [133]; Đặng Hữu Toàn, Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và vấn đề thực thi quyền làm chủ của nhân dân [140];
Lương Đình Hải, Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ hóa xã hội
ở nước ta hiện nay [49]; Nguyễn Minh Đoan, Dân chủ với pháp luật [42]; Phạm
Văn Nhuận, Để Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay [94]; Đặng Viết Đạt, Pháp luật và dân chủ trong
nhà nước pháp quyền [41]…
Đi sâu bàn luận về dân chủ cơ sở đã có rất nhiều công trình nghiên cứu từ
các góc độ khác nhau, trong đó phải kể đến các công trình sau:
- Mối quan hệ giữa các yếu tố tâm lý xã hội với quá trình thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở nông thôn hiện nay, của Trần Ngọc Khuê [68]. Đề tài đã phân tích
làm rõ sự tác động qua lại của một số yếu tố tâm lý xã hội cơ bản với việc thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ hiện nay; đánh giá
thực trạng và nguyên nhân thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn đồng
bằng Bắc Bộ; đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm thực hiện có hiệu quả Quy chế
dân chủ ở cơ sở nông thôn trong thời kỳ mới.
- Quá trình thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở một số tỉnh đồng bằng sông
Hồng hiện nay, của Nguyễn Thị Ngân [89]. Đề tài đã tiến hành nghiên cứu thực
trạng việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng, qua
11

đó đề xuất những giải pháp nhằm đẩy mạnh và hoàn thiện việc thực hiện quy chế
dân chủ (QCDC) ở khu vực đồng bằng sông Hồng.
- Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
của Dương Xuân Ngọc [90]. Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận tác giả đã làm rõ ý
nghĩa và tầm quan trọng của Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp, phân tích đánh giá
thực trạng của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã, đưa ra những giải pháp
phù hợp cho việc thực hiện QCDC ở cấp xã ở nước ta trong điều kiện mới.
- Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta
hiện nay, của Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông [116]. Nội dung của cuốn sách
được rút ra từ những kết quả khảo cứu, nghiên cứu của tập thể tác giả tiến hành ở
nhiều địa phương trên cả ba miền đất nước và có tham khảo kinh nghiệm ở một
số nước. Qua nội dung cuốn sách cho thấy trong thời gian qua, chính quyền cơ
sở đã tích cực thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, nhiều nơi đã triển khai
quy chế dân chủ cơ sở có hiệu quả cùng nhân dân làm nên những thành tựu đổi
mới trong phát triển kinh tế làm thay đổi bộ mặt nông thôn và thành thị. Tuy
nhiên, trong quá trình xây dựng, chính quyền cơ sở còn bộc lộ những khuyết
điểm, yếu kém trong công tác lãnh đạo, tổ chức và vận động nhân dân. Tình
trạng quan liêu, tham nhũng, mất đoàn kết, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân
còn xảy ra ở không ít nơi, quy chế dân chủ cơ sở chưa được triển khai đầy đủ, có
nơi chưa đi vào cuộc sống...
- Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, của Nguyễn
Văn Sáu, Hồ Văn Thông [117]. Nội dung của cuốn sách cho thấy cách nhìn sinh
động trong việc thực Quy chế dân chủ ở cơ sở và xây dựng chính quyền cấp xã
trên một số hoạt động như quản lý xã hội, kinh tế, quản lý tài chính, thực hiện
chương trình xóa đói giảm nghèo, nhằm phát triển nông thôn Việt Nam trong giai
đoạn mới.
- Hỏi đáp về dân chủ ở cơ sở, của Nguyễn Bắc Son [118]. Cuốn sách gồm 3
phần, trong đó phần I đề cập đến thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Bao
gồm những quy định chung trong thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Những
nội dung công khai để nhân dân biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết định;
12

những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền bàn và
quyết định; những nội dung nhân dân giám sát. Sách được kết cấu dưới dạng hỏi -
đáp, được sắp xếp theo từng vấn đề, dễ nhớ, dễ thuộc và dễ tra cứu. Các câu hỏi và
đáp án trả lời trong cuốn sách đã khái quát và cụ thể hóa những quy định pháp lý
cơ bản nhất trong lĩnh vực dân chủ ở cơ sở: quyền và nghĩa vụ của công dân, tổ
chức, cá nhân trong hoạt động dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
- Đỗ Tiến Sâm, Vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung Quốc
[115]. Trong công trình này, tác giả nghiên cứu hệ thống chính quyền cơ sở, tổ
chức tự quản ở nông thôn Trung Quốc và vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông
thôn Trung Quốc. Trên cơ sở đánh giá những thành tựu, hạn chế, các vấn đề đặt ra
và phương hướng giải quyết, tác giả rút ra những bài học kinh nghiệm có thể tham
khảo trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã tại Việt Nam.
- Vũ Văn Hiền, Dân chủ ở cơ sở qua kinh nghiệm ở Thụy Điển và Trung
Quốc [52]. Cuốn sách tập hợp các bài viết của các nhà khoa học nghiên cứu về
vấn đề bảo đảm quyền dân chủ của người dân ở cơ sở trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội qua kinh nghiệm thực hành dân chủ ở Thụy Điển và Trung Quốc.
- Viện Chính sách công và Pháp luật - Viện Nhà nước và pháp luật (Đồng
chủ biên): Đào Trí Úc và các cộng sự, Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ
trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam [150]. Cuốn sách gồm tập hợp
những bài tham luận tại cuộc Hội thảo “Dân chủ trực tiếp, Dân chủ cơ sở trên thế
giới và ở Việt Nam”, trong đó, các tác giả đã chia sẻ kiến thức, thông tin về một
loạt vấn đề lý luận, thực tiễn và các mô hình tổ chức thực hiện dân chủ trực tiếp,
dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam; đồng thời, đề xuất những quan điểm,
giải pháp hoàn thiện khuôn khổ pháp luật và các cơ chế bảo đảm thực hiện dân
chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở ở nước ta trong thời gian tới.
- Cuốn sách: Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình đổi
mới, của Hoàng Chí Bảo [5]. Nội dung của cuốn sách bao gồm sáu vấn đề lớn:
1. Ý thức dân chủ của người Việt Nam từ lịch sử đến hiện đại.
2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và quy chế dân chủ ở cơ sở.
13

3. Quan hệ giữa thể chế chính thống và phi chính thống trong việc củng cố,
xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn hiện nay.
4. Tác động của quy chế dân chủ ở cơ sở đối với việc thực hiện xoá đói
giảm nghèo ở nông thôn từ góc nhìn đánh giá chính sách.
5. Tâm lý làng xã trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở và tăng cường văn
hoá pháp luật ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ hiện nay.
6. Những bài học kinh nghiệm từ các địa phương về quá trình triển khai,
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và một vài khuyến nghị.
- Cuốn sách Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay, của
Hoàng Chí Bảo [6]. Theo tinh thần nội dung Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX)
về "Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị
trấn, cuốn sách trên là kết quả nghiên cứu của đề tài "Nghiên cứu một số vấn đề
nhằm củng cố và tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới ở
nước ta hiện nay".
Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP Về việc ban
hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã đã có rất nhiều bài báo khoa học được đăng
tải trên các Tạp chí chuyên ngành Luật học, Chính trị học, Triết học... bàn sâu các
khía cạnh của dân chủ cơ sở nói chung, dân chủ trên địa bàn cấp xã nói riêng:
- Ngọ Văn Nhân, Về đổi mới chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện
trên địa bàn cơ sở ở nước ta hiện nay [93]. Trong bài viết, tác giả khẳng định
rằng, phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, Nhà nước ta trong công
cuộc xây dựng, đổi mới và phát triển đất nước hiện nay, là điều kiện tiên quyết để
xây dựng bộ máy nhà nước thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
đồng thời nhấn mạnh, dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện đều là hình thức của
chế độ dân chủ, có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau.
- Đỗ Văn Dương, Những giải pháp phát huy vai trò hệ thống chính trị cơ
sở nhằm bảo đảm thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các tỉnh
Tây Nguyên [20]. Theo tác giả bài viết, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở xã,
14

phường, thị trấn ngày càng đổi mới và hoàn thiện được coi là cơ chế vận hành
của nền dân chủ nhằm bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, là khâu then chốt
của toàn bộ quá trình dân chủ hóa đời sống chính trị - xã hội ở cơ sở, giúp giải
quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và công dân, qua đó quyền làm chủ
của nhân dân ngày càng được bảo đảm đầy đủ hơn trên thực tế. Nhìn trên
phương diện đó, những hạn chế, bất cập của hệ thống chính trị cơ sở đối với việc
lãnh đạo, triển khai thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên
vẫn còn rất lớn. Chính vì vậy, tác giả khẳng định cần phải có những giải pháp
toàn diện nhằm phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở nhằm bảo đảm thực
hiện dân chủ ở cấp xã ở Tây Nguyên, như tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ
cơ sở; nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành của đội ngũ cán
bộ cấp xã ở Tây Nguyên...
- Nguyễn Thị Thu Hà, Thực hiện Quy chế dân chủ trong hệ thống chính trị
cơ sở nông thôn ở nước ta hiện nay [47]. Nội dung bài viết tập trung làm rõ hai
phương diện của hoạt động thực hiện Quy chế dân chủ trong hệ thống chính trị cơ
sở nông thôn ở nước ta hiện nay, những kết quả bước đầu, một số hạn chế và
nguyên nhân.
- Nguyễn Thọ Khang, Thực hiện dân chủ ở cấp xã và vấn đề đặt ra đối với
báo chí ở nước ta hiện nay [65]. Bài viết nhấn mạnh vai trò của việc thực hiện dân
chủ ở cấp xã trong phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân ở xã,
phường, thị trấn, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân
trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, tăng cường đoàn kết toàn dân,
cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn
thể ở xã trong sạch, vững mạnh; trên cơ sở đó, bài viết cho rằng các loại hình báo
chí có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phổ biến, tuyên truyền Pháp lệnh
Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và nêu một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả tuyên truyền của báo chí về thực hiện dân chủ ở cấp xã.
- Ngoài ra, có thể điểm danh một danh mục lớn các sách chuyên khảo, các
bài báo và các luận án, luận văn nghiên cứu tập trung về dân chủ cơ sở như:
15

Dương Xuân Ngọc, Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn [90]; Lương Gia Ban, Dân chủ và việc thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở [3]; Đặng Đình Tân, Đặng Minh Tuấn, Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân
chủ ở cơ sở [122]; Trần Bạch Đằng, Dân chủ ở cơ sở - một sức mạnh truyền
thống của dân tộc Việt Nam [40]; Lê Quang Minh, Để thực hiện dân chủ sở cơ
sở [76]; Phạm Ngọc Quang, Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong quá trình đổi mới -
thành tựu, vấn đề và giải pháp [104]; Hoàng Trọng Chính, Nâng cao hiệu quả
hoạt động quy chế dân chủ ở cơ sở [10]; Nguyễn Kim Thanh, Một vài suy nghĩ
về kết quả 10 năm xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở [129]; Trần
Quốc Huy, Hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ cơ sở cấp xã ở Việt Nam hiện
nay [61]; Vũ Thị Nhung, Hoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh [95]…
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu trực diện về cơ chế pháp lý và
cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay
Liên quan đến cơ chế pháp lý, khó có thể tìm thấy các công trình nghiên
cứu chuyên biệt về chủ đề này nhưng hoàn toàn có thể nhận diện các quan điểm
khoa học về cơ chế pháp lý thông qua các công trình nghiên cứu về cơ chế thực thi
pháp luật hoặc cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước trong các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội, chẳng hạn:
- Dân chủ trực tiếp và hoàn thiện cơ chế pháp lý thực thi dân chủ trực tiếp
trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, của Nguyễn Thị Việt
Hương [59]. Đề tài nêu ra cách hiểu về cơ chế pháp lý thực thi dân chủ trực tiếp,
phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến cơ chế pháp lý thực thi dân chủ trực tiếp ở
Việt Nam, đánh giá thực trạng cơ chế pháp lý thực thi dân chủ trực tiếp và trên cơ
sở đó đề xuất hệ thống các giải pháp tiếp tục phát huy dân chủ trực tiếp và hoàn
thiện cơ chế pháp lý thực thi dân chủ trực tiếp ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay. Có thể nói đây là công trình nghiên cứu có nhiều nội dung gắn bó tới chủ đề
của luận án này và có nhiều điểm có thể tiếp thu khi triển khai nghiên cứu nội
dung luận án.
16

- Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta
hiện nay, của Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh [148]. Khi bàn về giám sát quyền lực
nhà nước, các tác giả đã dành một dung lượng thích đáng để xem xét khái niệm
“cơ chế”, “cơ chế giám sát”và đưa ra cách hiểu nội hàm hai khái niệm này.
- Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và
Nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của Đào Trí Úc [149]. Công trình
là sản phẩm của đề tài KX 10-07 được triển khai trong khuôn khổ của Chương
trình nghiên cứu khoa học xã hội cấp nhà nước: “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ
thống chính trị nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và chủ động hội nhập quốc tế”. Cuốn chuyên luận đã đi sâu phân tích, cơ
chế và hình thức kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy
Đảng và Nhà nước; làm rõ vị trí, tính chất, đặc điểm của cơ chế và hình thức kiểm
tra, giám sát xã hội ở nước ta; đánh giá những ưu điểm và thực trạng cơ chế giám
sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước cũng như thực
trạng thiết chế hệ thống chính trị ở nước ta; xây dựng và đề xuất mô hình nội dung
và hình thức giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Đảng và Nhà nước…
Trong quá trình phân tích các nội dung của cuốn chuyên luận, các tác giả đã thể
hiện quan điểm khoa học về “cơ chế” “cơ chế giám sát của nhân dân”.
- Kiểm soát quyền lực nhà nước - một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt
Nam hiện nay, của Trịnh Thị Xuyến [160]. Nội dung của cuốn sách chỉ tập trung
chủ yếu vào vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước trên cả hai phương diện lý luận
và thực tiễn, phạm vi nghiên cứu trên bình diện tổ chức quyền lực nhà nước trung
ương giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp và kiểm soát xã hội đối với hoạt động
quyền lực nhà nước, thông qua đó góp phần làm sáng tỏ một phần kiểm soát
quyền lực Nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Ở mức độ nhất định, cuốn chuyên khảo
cũng chú ý luận bàn về cơ chế pháp lý của kiểm soát quyền lực nhà nước, tập
trung là cơ chế pháp lý của giám sát xã hội.
- Nghiên cứu về đổi mới hệ thống chính trị, có công trình của Trần Đình
Hoan về Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam giai
17

đoạn 2005-2020 [55]. Khi luận bàn về đổi mới hệ thống chính trị, công trình này
tiếp cận từ góc độ cơ chế, quy chế phối hợp giữa các thiết chế trong hệ thống
chính trị trên cơ sở làm rõ chức năng của tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Theo đó, nội hàm của “cơ chế” được hiểu
với các phạm vi rộng, hẹp khác nhau.
- Tương tự như trên, công trình nghiên cứu Đổi mới tổ chức và hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay, của
Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương [102] đã tập trung phân tích luận giải tính
phổ biến và tính đặc thù của các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị
ở nước ta, vai trò của xã hội dân sự trong xây dựng và phát triển dân chủ xã hội
chủ nghĩa, luận chứng tính tất yếu khách quan và cơ sở lý luận - thực tiễn của việc
đổi mới tổ chức, khẳng định vai trò đại diện của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân trong việc xây dựng, kiểm tra giám sát và phản biện từ khâu khởi thảo
chính sách, pháp luật đến khâu thực thực hiện chính sách, pháp luật và cả công tác
cán bộ… Cùng với việc làm rõ những vấn đề nói trên, cơ chế hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cũng được đề cập như là hệ thống các
nguyên tắc, phương pháp, hình thức để hiện thực hóa vai trò, vị trí, chức năng,
thẩm quyền của các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị Việt Nam.
- Năm 2006, nhằm triển khai nội dung trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ IX và thứ X, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì nghiên cứu Đề án phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đề án đã thu hút được sự chú ý, quan tâm
đông đảo của các giới nghiên cứu, nhân sĩ, tri thức, các nhà lãnh đạo cách mạng
lão thành đóng góp ý kiến để xây dựng, hoàn thiện phản biện xã hội. Nội dung đề
án, đề cập đến những vấn đề như: khái niệm, mục đích, phạm vi; cơ chế, mối quan
hệ giám sát và phản biện xã hội. Đề án này đã góp phần không nhỏ tạo sự nhận
thức đúng đắn về cơ chế giám sát, phản biện xã hội, là cơ sở cho việc xây dựng cơ
chế về giám sát, phản biện xã hội đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước ở
nước ta hiện nay.
- Một số bài viết, luận án, luận văn có một số nội dung tham gia bàn luận về
cơ chế pháp lý như: Hoàng Chí Bảo, Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện
18

dân chủ: quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu [4]; Lê Minh Thông,
Tăng cường cơ sở pháp luật về dân chủ trực tiếp ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay [135]; Lê Minh Thông, Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người
ở nước ta [136]; Nguyễn Văn Mạnh, Xây dựng và hoàn thiện đảm bảo pháp lý
thực hiện quyền con người trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay [71];
Trương Thị Hồng Hà, Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm chức năng giám sát của
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam [48]; Nguyễn Chí Dũng, Cơ
chế pháp lý giám sát hoạt động tư pháp ở Việt Nam [19];…
Tiếp thu quan niệm về cơ chế pháp lý, đã có một số công trình đi sâu
nghiên cứu riêng biệt từng yếu tố cụ thể hợp thành nội hàm cơ chế pháp lý thực
hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Phần lớn trong số đó tiếp cận từ góc độ xây dựng
và thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở. Đáng chú ý là một số công trình sau:
- Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay, của
Phan Xuân Sơn [119]. Cuốn sách đã phân tích vai trò của các đoàn thể nhân dân
như là một thiết chế quan trọng trong cơ chế đảm bảo dân chủ ở cơ sở. Theo đó,
cuốn sách đã đề cập hệ thống các giải pháp nâng cao vai trò của đoàn thể nhân dân
trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.
- Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ thực tiễn của tỉnh Thái Bình), của
Nguyễn Hồng Chuyên [13]. Nội dung cuốn sách đã phân tích, góp phần làm rõ cơ
sở lý luận của việc thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; khảo sát đánh giá thực trạng thực hiện
pháp luật về dân chủ ở cấp xã cả về những điểm thành công cũng như hạn chế và
nguyên nhân của thực trạng đó qua thực tiễn tỉnh Thái Bình; trên cơ sở đó đề xuất
và luận giải một số quan điểm, giải pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa
hiệu quả thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Phản biện xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền, của Hồ Bá Thâm,
Nguyễn Tôn Thị Tường Vân [125]. Cuốn sách chỉ rõ việc thực hiện chức năng
19

phản biện xã hội của các tổ chức xã hội dân sự, đặc biệt là của Mặt trận và tổ chức
CT-XH, xã hội nghề nghiệp đối với các cấp chính quyền và cả cấp ủy đảng ở nước
ta nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Theo đó, để thực hiện dân chủ
thực sự, tránh hình thức, các cơ quan lãnh đạo, quản lý cần tạo điều kiện để nhân
dân thực hiện vai trò phản biện xã hội mà thực chất là thực hiện quy trình “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân quyết định và dân thụ hưởng”.
Ngoài các công trình tiêu biểu trên đây còn một số bài viết đăng trên các
Tạp chí chuyên ngành có nội dung gắn với thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã,
phường thị trấn như:
Bài báo “Pháp luật với vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt Nam
hiện nay”, của Lê Xuân Huy [62]. Trong bài viết này, tác giả đã luận chứng vai
trò quan trọng của pháp luật với việc bảo đảm và thực hiện dân chủ ở nông thôn
nước ta hiện nay, thể hiện ở chức năng hướng dẫn thực hiện dân chủ, điều chỉnh
và bổ sung các giá trị mới, định hướng nhận thức về quyền và nghĩa vụ, đồng thời
góp phần cải tạo tâm lý tiểu nông, các luật tục và thói quen lạc hậu cũng như đấu
tranh khắc phục tệ quan liêu, gia trưởng của một bộ phận cán bộ ở cơ sở. Từ đó,
tác giả khẳng định sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật và nâng cao ý thức pháp
luật của cán bộ và nhân dân ở nông thôn nước ta; Bài báo “Những điểm mới của
Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn”, của Kim Thanh, Phan Hiên
[128]. Nội dung bài viết giới thiệu những điểm mới của Pháp lệnh Thực hiện dân
chủ ở xã, phường, thị trấn, được Quốc hội khóa X thông qua ngày 1/7/2007. Đây
là một bước tiến trong việc phát huy dân chủ, là cơ sở pháp lý vững chắc để người
dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Các tác giả đã nêu lên những điểm mới
của Pháp lệnh so với Nghị định 79/2003 trước đây, Pháp lệnh có kết cấu hợp lý
với những quy định định điều chỉnh quan hệ mới, bảo đảm tính khả thi, mang tính
dự báo dài hơi của sự vận động và phát triển. Tuy nhiên, theo các tác giả cho rằng
trong tương lai không xa, vấn đề dân chủ cần được điều chỉnh dưới hình thức Bộ
luật để bao quát được các loại hình một cách hiệu quả hơn; Bài báo “Nhìn lại 10
năm thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn”, của Huỳnh Đảm [22]. Nội
dung bài viết đã đánh giá khái quát những kết quả đạt được sau 10 năm thực hiện
20

Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, trên cơ sở đó đề ra 5 nhiệm vụ, giải pháp
để tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện dân chủ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội lên một tầm cao mới; Bài báo “Một số vấn đề đặt ra trong quá trình thực thi
Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn”, của Chu Thị Trang Vân [153]. Nội
dung bài viết xác định việc thực hiện và phát huy dân chủ cơ sở là một chủ trương
lớn của Đảng ta, trách nhiệm của hệ thống chính trị cơ sở trong việc thực hiện
Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn, trong đó nhấn mạnh đến vai trò của tổ
chức đảng, chính quyền và đặc biệt là trưởng thôn trong thực hiện Pháp lệnh dân
chủ ở xã, phường, thị trấn; từ đó chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong quá
trình thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn và hướng giải quyết; Bài
báo “Luật tục và việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở Tây Nguyên thực trạng và
những vấn đề đặt ra”, của Nguyễn Văn Nam [87] đề cập vai trò của các thiết chế
xã hội truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên có tác động
đến quá trình tổ chức và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Theo tác giả, để thực
hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, cần phải khai thác các mặt tích cực của thiết chế
xã hội và tín ngưỡng truyền thống để xây dựng và phát triển kinh tế, chính trị - xã
hội, văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, kết hợp vận dụng những ưu điểm
của luật tục vào quá trình triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; Bài báo
“Vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay”, của
Quách Sĩ Hùng [58]. Nội dung bài viết đã góp phần làm rõ khái niệm dân chủ và
dân chủ cơ sở. Dân chủ cơ sở được xem là hình thức phương pháp dân chủ trực
tiếp của nhân dân trong việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Dân chủ cơ sở
bao gồm các nội dung mà nhân dân được biết được bàn để nhà nước quyết định,
hoặc nhân dân quyết định, các nội dung nhân dân được giám sát kiểm tra;…
- Cũng đã có một số luận văn, luận án tiếp cận nghiên cứu dân chủ cơ sở từ
góc nhìn của cơ chế pháp lý như: Đỗ Minh Khôi “Mối quan hệ giữa dân chủ và
pháp luật trong điều kiện Việt Nam hiện nay” [67]; Đỗ Văn Dương, Thực hiện
pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các tỉnh Tây nguyên [21];
Nguyễn Hồng Chuyên “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [14]; Nguyễn Tiến
21

Thành “Kết hợp dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong thực hiện quy chế
dân chủ ở xã trên địa bàn thành phố Hà Nội” [131];...

1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI


Liên quan đến đề tài luận án là các vấn đề lý luận về dân chủ và dân chủ cơ
sở; lý luận về nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân được
xem là cốt lõi của nền dân chủ; vai trò của hệ thống chính trị trong việc bảo đảm
thực hiện quyền dân chủ của công dân. Trong các vấn đề trên, công dân (người
dân) với tư cách là chủ thể của chế độ dân chủ được quan tâm đặc biệt trong các
hình thức, phương pháp thực hiện quyền dân chủ của mình đặc biệt là ở cơ sở.
Tuy nhiên, đây là những vấn đề thu hút sự quan tâm rất lớn của các học giả nước
ngoài - nơi có những tranh luận khoa học sôi nổi về dân chủ trong suốt chiều dài
lịch sử nhân loại. Vì vậy, luận án chỉ xin điểm danh một số công trình nghiên cứu
mang tính minh họa và nằm trong khả năng thu thập tư liệu của tác giả luận án.
- Robert Alan, Dalh, Democracy and its Critics (Dân chủ và sự phê phán)
[166]. Trong cuốn sách này, từ cách tiếp cận chính trị học, tác giả khẳng định
quyền lực mà nhà nước có được là xuất phát từ quyền lực gốc của nhân dân; bởi
vậy, để thực thi một nền dân chủ đòi hỏi phải có sự chế ước lẫn nhau giữa các chủ
thể trong xã hội, phải được cụ thể hóa và bảo đảm thực thi bằng pháp luật. Tuy
nhiên, mỗi một chế độ dân chủ được duy trì, thực thi như thế nào còn phụ thuộc
vào các điều kiện về kinh tế, truyền thống văn hóa dân tộc của mỗi quốc gia khác
nhau. Khi làm rõ khái niệm dân chủ, tác giả khẳng định rằng, cho đến nay, chưa
có quốc gia nào đáp ứng đầy đủ các lý tưởng dân chủ. Để đạt tới một nền dân chủ
lý tưởng, theo tác giả cuốn sách, phải đáp ứng năm tiêu chí sau: 1) Sự tham gia
hiệu quả: mọi công dân phải có cơ hội đầy đủ và bình đẳng để thể hiện nguyện
vọng của mình và đặt câu hỏi trong các chương trình công cộng, thể hiện các lý do
cho một kết quả tốt đẹp hơn; 2) Các công dân phải được bình đẳng, công bằng
trong bầu cử ở giai đoạn quyết định; 3) Sự hiểu biết sâu sắc: các công dân phải
được hưởng những cơ hội phong phú và bình đẳng cho những phát hiện và lựa
chọn tốt nhất phục vụ cho lợi ích của họ; 4) Kiểm soát các chương trình nghị sự:
22

các công dân phải có cơ hội quyết định những vấn đề chính trị thực sự toàn diện;
5) Tính toàn diện: tính bình đẳng phải được mở rộng đến tất cả các công dân. Mọi
người đều phải có cổ phần hợp pháp trong quá trình chính trị.
- Tương lai của nền dân chủ xã hội” của Thomas Meyer, Nicole Breyer.
[134]. Bản dịch tác phẩm "Tương lai của nền dân chủ xã hội" là kết quả của dự án
nghiên cứu về phong trào dân chủ xã hội ở Đức và Tây Âu, do nhóm nghiên cứu
của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thực hiện trên cơ sở quan hệ hợp tác
giữa Học viện và Viện Friedrich Rbert (Fes) trong những năm gần đây. Cuốn sách
là một tác phẩm khoa học lý luận gồm 10 chương. Tư tưởng lớn của cuốn sách là
sự phê phán chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tân tự do với những đặc trưng của nó là
phát triển và bảo vệ sở hữu tư nhân, kinh tế thị trường tự do, tự điều tiết, các
quyền con người thụ động, nền dân chủ hình thức và không hoàn thiện. Tư tưởng
cốt lõi của cuốn sách là dân chủ xã hội ra đời và phát triển trên cơ sở không hoàn
thiện của dân chủ tự do. Dự án dân chủ xã hội khác với chủ nghĩa tự do thuần túy,
bao gồm một hệ thống các giá trị cơ bản, các quan điểm, nguyên tắc và giải pháp
cải cách kinh tế - xã hội. Vì mục tiêu phát triển và lý tưởng tự do công bằng bình
đẳng và hạnh phúc của con người trong bối cảnh hiện nay của thế giới. Xuất phát
từ lập trường quan điểm dân chủ xã hội, các tác giả cố gắng lập luận về triển vọng
sáng sủa của dân chủ xã hội so với dân chủ tân tự do trong sự phát triển của thế
giới đương đại.
- Cuốn sách: Trào lưu xã hội dân chủ ở một số nước phương Tây hiện đại,
của Tống Đức Thảo, Bùi Việt Hương [132]. Hiện nay trào lưu xã hội dân chủ có
ảnh hưởng mạnh mẽ và các Đảng dân chủ xã hội có vai trò quan trọng trong đời
sống chính trị châu Âu, đặc biệt là các nước Tây Âu. Nội dung của cuốn sách đã
khái quát trào lưu xã hội dân chủ, nguồn gốc nội dung, bản chất của trào lưu xã
hội dân chủ, và sự điều chỉnh cơ bản của trào lưu dân chủ xã hội trong bối cảnh
quốc tế đương đại. Các tác giả đã bàn đến những ảnh hưởng của trào lưu xã hội
dân chủ ở các nước phương Tây hiện nay, những giá trị và hạn chế của trào lưu xã
hội dân chủ và ảnh hưởng của trào lưu này đối với Việt Nam.
23

- Virginia Beramandi, Andrew Elis và các tác giả khác, Dân chủ trực tiếp:
Sổ tay IDEA Quốc tế [158]. Cuốn sách này được biên dịch và xuất bản bằng tiếng
Việt bởi Viện Chính sách công và Pháp luật trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa
học và Kỹ thuật Việt Nam với sự cho phép của IDEA Quốc tế, sự hỗ trợ của Đại
sứ quán Na Uy tại Hà Nội và sự cộng tác của Bộ môn Luật Hiến pháp - Hành
chính thuộc Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Nội dung cuốn sách cung cấp
các khuyến nghị và bài học thực tiễn về việc vận dụng dân chủ trực tiếp ở tất cả
các vùng trên thế giới; đánh giá điển hình ở 06 quốc gia, gồm Hungary, Thụy Sĩ,
Hoa Kỳ (bang Oregan), Uruguay và Venezuela với các hoạt động trưng cầu dân ý,
sáng kiến của công dân, sáng kiến chương trình nghị sự và bãi miễn...
- Olivier Vidal (Nguyễn Hoàng Anh dịch), Nước Cộng hòa Pháp và các
cộng đồng lãnh thổ địa phương: sự trở lại của nhóm Girondins?, bài viết in trong
cuốn sách “Phân cấp quản lý nhà nước” [98]. Trong bài viết tác giả bàn về sự
hình thành của tư tưởng phân quyền theo chiều dọc, nghĩa là phân quyền cho các
đơn vị hành chính lãnh thổ địa phương. Thực chất phân quyền là sự thể hiện của
mô hình quản lý phi tập trung, là sự biểu hiện của dân chủ, nếu không có dân chủ
thì không có phân quyền theo chiều dọc. Theo tác giả, việc thừa nhận sự tự quản
của cộng đồng lãnh thổ địa phương ở nước Pháp trải qua một quá trình rất lâu dài,
phức tạp, là kết quả của sự đấu tranh giữa phái ủng hộ chế độ tập quyền và phái
ủng hộ chế độ phân quyền; đồng thời, tác giả đề cập tới hình thức thực hiện hoạt
động tự quản địa phương thông qua hình thức trưng cầu ý dân hay “dân chủ ở cơ
sở” - đỉnh cao của chế độ phân quyền.
- Adam Przeworski, Michael Alvarez, Jose Antonio Chebub and Fernando
Limongi, What makes Democracies Endure? (Điều gì tạo nên các nền dân chủ
bền vững?) [162]. Trong bài viết, thông qua việc khảo sát thực chứng về dân chủ
tại 135 nước trên thế giới, các tác giả đã chỉ ra được với mức độ thu nhập bình
quân đầu người ở mức nào thì dân chủ xuất hiện, ở mức nào thì dân chủ bền vững.
Các tác giả cho rằng, các cuộc khủng hoảng kinh tế là một trong những mối đe
dọa phổ biến nhất đối với sự ổn định, phát triển nền dân chủ. Ngược lại, tăng
trưởng kinh tế sẽ luôn có lợi cho sự sống còn của nền dân chủ. Trên thực tế, nhiều
24

nền kinh tế phát triển đã góp phần giúp cho nền dân chủ có thể tồn tại, phát triển
bền vững hơn so với các nước có nền kinh tế phát triển kém.
- Harold Hongju Koh, The right to Democracy, Towards a community of
democracy (Quyền dân chủ, Hướng tới một cộng đồng dân chủ), Issue of
Democracy [163]. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã đề cập tới nhiều
tiêu chuẩn của dân chủ, cho thấy dân chủ bao trùm lên tất cả mọi lĩnh vực của đời
sống kinh tế, chính trị và xã hội. Mục tiêu của việc xây dựng dân chủ không chỉ
dừng lại ở cách hành xử về chính trị, mà còn làm cho dân chủ trở thành yếu tố
định hướng hành vi của con người.
- Sorensen Georg, Democracy and democractization processes and
prospects in changing world (Dân chủ và quá trình dân chủ hóa và triển vọng
trong một thế giới chuyển đổi) [167]. Từ cách tiếp cận lịch sử về dân chủ, tác giả
xem xét, đánh giá triển vọng dân chủ trong thế giới ngày nay, làm rõ khái niệm
dân chủ và cho thấy tiềm năng tích cực trong xu hướng dân chủ hóa, sự phát triển
dân chủ trong những điều kiện khác nhau ở các nước có điều kiện kinh tế - xã hội
khác nhau.
- Phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng xã hội hài hoà, của Đàm
Đức Vũ [159]. Nội dung của bài viết cho rằng: "Dân chủ xã hội chủ nghĩa không
phải từ xưa đã có, nó là thành quả của sự phát triển xã hội và văn minh của loài
người. Dân chủ xã hội chủ nghĩa tuy đã kế thừa, phát triển các hình thức dân chủ
trong lịch sử, nhưng các hình thức dân chủ tồn tại trong hình thái TBCN trước
đây... Trong khi đó dân chủ XHCN cần được xây dựng phù hợp với sự thống trị
của tuyệt đại đa số nhân dân nhằm xoá bỏ bóc lột giai cấp. Tác giả bàn đến dân
chủ XHCN là nội dung quan trọng của chế độ XHCN; xây dựng xã hội hài hoà
XHCN cần phát triển dân chủ XHCN; xây dựng phát triển dân chủ XHCN, thúc
đẩy xây dựng xã hội hài hoà và giữ vững ổn định xã hội; mở rộng sự tham gia của
nhân dân vào đời sống chính trị, thúc đẩy xã hội không ngừng tiến tới hài hoà.
- Đảng Cộng sản Trung Quốc và vấn đề dân chủ, của Tạp chí Thông tin
Những vấn đề lý luận [123]. Bài giới thiệu quan điểm của Đảng Cộng sản Trung
25

Quốc về dân chủ trong quá trình diễn biến tích cực. Những luận điểm có liên quan
đến dân chủ được trình bày trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương (BCHTW) Đảng tại Đại hội XVII được phân tích chi tiết trong bài báo đăng
trên Báo Nguyệt san “Diễn đàn nhân dân” nhan đề: Dân chủ là sinh mệnh của
nước Cộng hoà của Du Khả Bình. Nội dung bài báo đã phân tích việc cải cách
chính trị không chỉ khẳng định lại “phát triển chính trị dân chủ XHCN là mục tiêu
phấn đấu không mệt mỏi của chúng ta” mà còn đặt mục tiêu: “Kiên định phát
triển dân chủ XHCN”. Dân chủ với tư cách là giá trị chính trị chung của nhân loại,
đều có tính phổ biến trên các mặt giá trị chính trị, hình thức thực hiện, yếu tố nội
tại, cơ chế thực hiện, ví dụ, chính trị dân chủ không tách rời pháp trị, không tách
rời bầu cử của nhân dân, không tách rời sự tham gia của nhân dân, không tách rời
việc giám sát quyền lực, không tách rời sự minh bạch về chính trị, không tách rời
việc quản lý xã hội. Không có những giá trị mang tính phổ biến nêu trên dân chủ
sẽ chỉ là tập hợp từ trống rỗng giả hiệu.
- Xây dựng chế độ dân chủ chính trị ở Trung Quốc theo tinh thần của chủ
nghĩa Mác, của Tạp chí “Tân Hoa xã” [124]. Bài báo phân tích thực chất của dân
chủ là nhân dân làm chủ. Dân chủ là thành quả văn minh chung của nhân loại, dân
chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ kiểu mới tiếp nhận và kế thừa truyền thống dân
chủ tốt đẹp trong lịch sử nhân loại. Bài báo đã nêu những nội dung chủ yếu của
"Mô hình dân chủ đặc sắc Trung Quốc" và các nội dung cần chú ý đầy đủ, thường
xuyên áp dụng biện pháp đủ hiệu lực để phát triển chính trị dân chủ cải cách thể
chế chính trị coi phát triển dân chủ chính trị là mục tiêu và động lực của cải cách
thể chế chính trị.
- Ngoài ra, có thể kể thêm một số tài liệu, công trình nghiên cứu của các tác
giả khác, như: A. B. Agapốp, Luật Hành chính (tái bản lần thứ sáu) [2]; Bộ Giáo
dục Liên bang Nga, Đ.N. Bakhrac, Luật Hành chính Nga [8]; G.V. Atamanchuc,
Lý thuyết quản lý nhà nước [46]; Matinne Lombard, Gille Dumont, Pháp luật
hành chính của Cộng hòa Pháp [74]... Các công trình trên chủ yếu tập trung giải
quyết những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước, dân chủ được xem xét như là
một trong những nhân tố bảo đảm sự thành công của hoạt động quản lý nhà nước
26

và phương thức quản lý nhà nước, đề cập tới các hình thức dân chủ: dân chủ đại
diện và dân chủ trực tiếp, đặc biệt là dân chủ ở những cộng đồng lãnh thổ địa
phương ở Liên bang Nga và ở Cộng hòa Pháp.

1.3. NHẬN XÉT CHUNG VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN
ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.3.1. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận án
Căn cứ tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến chủ đề luận
án, có thể rút ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất, số lượng các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
rất lớn, phong phú và đa dạng, được tiếp cận từ nhiều hướng với các mức độ liên
quan khác nhau. Đây là một thuận lợi đồng thời cũng là một thách thức lớn đối với
việc triển khai nghiên cứu đề tài luận án. Kết quả của các công trình nghiên cứu đã
cung cấp một lượng kiến thức quan trọng về dân chủ, dân chủ cơ sở và cơ chế
pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, là nguồn tư liệu vật chất cần thiết và
có thể tiếp thu để tiếp tục triển khai nghiên cứu sâu về những nội dung trọng yếu
của đề tài luận án. Tuy nhiên, các quan điểm nghiên cứu về dân chủ cơ sở và cơ
chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở có nhiều sự khác biệt, thậm chí trái chiều
nhau, cộng với các thông tin đa chiều, thiếu thống nhất và tính phức tạp của vấn
đề lại là những trở lực không nhỏ cho công việc nghiên cứu đề tài.
Thứ hai, nhiều vấn đề liên quan đến chủ đề luận án đã được làm sáng tỏ
và đề tài có thể tiếp thu, không cần phải trở lại để phân tích, lập luận làm sáng
tỏ thêm.
Trên phương diện lý luận, một số nhận thức chung về Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về quyền lực nhân dân và dân chủ xã hội chủ
nghĩa cũng như vai trò của việc thực hiện dân chủ trong Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam đã rõ. Tương tự như vậy, quan niệm về cơ sở và cơ chế quản lý
cơ sở ở Việt Nam đã đạt được sự thống nhất cao. Tiêu chí về một nền dân chủ
hoàn thiện cũng không còn nhiều vấn đề gây tranh luận. Nhận thức về vai trò của
pháp luật trong việc chế định hóa các yếu tố của nền dân chủ và tạo lập các đảm
27

bảo thực thi dân chủ đã được chấp nhận trong hầu hết các công trình nghiên cứu.
Đặc biệt, các công trình nghiên cứu ở nước ngoài đã phân tích rất sâu về nội hàm
của dân chủ và các phương thức để đạt tới dân chủ trong xã hội hiện đại.
Trên phương diện thực tiễn, một số khía cạnh của đời sống dân chủ đã được
làm rõ. Nhiều công trình nghiên cứu đã tổng kết đầy đủ quan điểm về dân chủ
trong tư tưởng Hồ Chí Minh và trong nhận thức của Đảng, Nhà nước ta. Quá trình
xây dựng pháp luật về dân chủ đã được đề cập một cách khái quát. Đặc biệt, các
nghiên cứu hầu như đã làm rõ được thực trạng của nền dân chủ đại diện ở Việt
Nam hiện nay. Công việc tổng kết và đánh giá thực trạng dân chủ trực tiếp trong
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội đã được triển khai mạnh mẽ trong nhiều nghiên
cứu. Đặc biệt, việc tổng kết thực tiễn thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nói chung
và Pháp lệnh về dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn đã được nhiều công trình
nghiên cứu đề cập và đạt được sự thống nhất cao trong nhận định. Một số nguyên
nhân liên quan đến những bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện dân chủ cơ sở
ở Việt Nam đã được phân tích, trong đó điểm nhấn là những nguyên nhân nằm
trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật (vai trò của tổ chức Đảng và chính
quyền cơ sở; năng lực thực hành dân chủ của người dân; điều kiện vật chất đảm
bảo cho việc triển khai thực hiện dân chủ tại cơ sở..).
Trên phương diện đề xuất, kiến nghị, đã có nhiều ý kiến khả thi về giải
pháp phát huy dân chủ, đảm bảo thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở tại Việt Nam hiện
nay. Đã có sự nhất trí cao về sự cần thiết thực hiện tổng thể các giải pháp để phát
huy dân chủ ở Việt Nam hiện nay, trong đó tập trung ở một số giải pháp chính
như: nâng cao nhận thức của Đảng, Nhà nước và các bộ phận nhân dân về dân chủ
và thực hành dân chủ; hoàn thiện pháp luật và đảm bảo hiệu quả thực thi pháp luật
về dân chủ; tạo lập các đảm bảo cho việc thực thi dân chủ trong các lĩnh vực cụ
thể ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, nhiều vấn đề trọng yếu liên quan trực diện tới chủ đề nghiên cứu
của luận án chưa được đề cập giải quyết hoặc chưa được giải quyết thấu đáo.
Trước hết đó là một số vấn đề đã được đề cập trong nhiều công trình
nghiên cứu nhưng chưa đạt được sự thống nhất cao như: cách hiểu một số khái
28

niệm: dân chủ ở cơ sở, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ ở cơ sở; các yếu tố hợp
thành của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ ở cơ sở; đặc điểm của cơ chế pháp lý
thực hiện dân chủ ở cơ sở; trạng thái hiện hành của cơ chế pháp lý thực hiện dân
chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay xét cả từ phương diện điều chỉnh pháp luật và cả
từ phương diện thực thi pháp luật; các giải pháp pháp lý và giải pháp tổ chức để
hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ ở cơ sở, trong đó bất cập lớn nhất là
thiếu tính hệ thống giữa các giải pháp đã được đề xuất trong quá trình hoàn thiện
cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ ở cơ sở. Cũng liên quan đến vấn đề này là tình
trạng thiếu một quan điểm được thừa nhận chung về mô hình pháp luật cần thiết
và khung pháp luật cơ bản cho việc ghi nhận và điều chỉnh quá trình dân chủ cơ
sở ở nước ta hiện nay.
Bên cạnh đó, có khá nhiều vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt tới việc xác
định các luận cứ khoa học đúng đắn nhằm hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân
chủ ở cơ sở tại Việt Nam nhưng chưa được đề cập nghiên cứu. Cụ thể các vấn đề
sau: nội dung cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam; các yếu tố ảnh
hưởng đến mức độ hoàn thiện của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt
Nam; kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở
ở một số quốc gia có hoàn cảnh, điều kiện tương đồng với Việt Nam; những bất
cập của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở hiện hành trước nhu cầu triển khai
thi hành Hiến pháp năm 2013 và các chủ trương lớn của Đảng ta về phát huy dân
chủ, tăng cường dân chủ trực tiếp ở Việt Nam hiện nay; Nguyên nhân của các ưu
điểm và hạn chế của cơ chế pháp lý hiện hành về thực hiện dân chủ cơ sở; giải
pháp về xây dựng chiến lược tổng thể và lâu dài cho quá trình hoàn thiện cơ chế
pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Ngoài ra, cũng đang thiếu sự lập
luận cần thiết và thuyết phục cho từng giải pháp cụ thể liên quan đến yêu cầu hiện
thực hóa cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
Như vậy nhìn một cách tổng thể, có thể thấy, mặc dù số lượng các công
trình nghiên cứu liên quan tới đề tài luận án lên tới con số hàng trăm nhưng
hiện tại chưa có một công trình nghiên cứu nào tổ chức nghiên cứu một cách hệ
29

thống và đầy đủ, toàn diện về cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt
Nam hiện nay để từ đó, đề xuất những phương hướng, giải pháp hoàn thiện cơ
chế pháp lý đảm bảo phát huy dân chủ cơ sở trong bối cảnh xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, quá trình phát triển kinh tế - xã hội, hội
nhập quốc tế của đất nước và trong yêu cầu triển khai thi hành Hiến pháp năm
2013. Nói cách khác, hiện chưa có công trình nghiên cứu nào ở trong và ngoài
nước đặt cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam là đối tượng
nghiên cứu chính.
1.3.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu đề tài luận án
Xuất phát từ sự phân tích thực trạng tình hình nghiên cứu liên quan đến chủ
đề luận án nêu trên, có thể thấy không gian nghiên cứu dành cho luận án còn hết
sức rộng rãi, bao gồm những vấn đề sau:
Thứ nhất, nghiên cứu những thay đổi mới trong nhận thức lý luận về dân
chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện nhất nguyên chính trị, một Đảng
cộng sản cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, nghiên cứu làm sáng tỏ khái niệm và nội dung của dân chủ cơ sở.
Nghiên cứu các mối quan hệ phát sinh trong tiến trình dân chủ hoá ở cơ sở (đi từ
chủ quyền nhân dân, quyền con người để xác định các mối quan hệ cơ bản hướng
tới đảm bảo quyền lực nhân dân và quyền con người: mối quan hệ giữa công dân
với các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở, vai trò, trách nhiệm của Nhà nước
và các thiết chế khác đối với phát huy dân chủ cơ sở…).
Thứ ba, nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, vai trò và các yếu tố hợp thành
của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu phải
đưa ra được định nghĩa về cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, các yếu tố cấu
thành nội hàm cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở. Kết quả nghiên cứu cũng
cần đạt được sự luận chứng thuyết phục về vai trò không thể thiếu của cơ chế pháp
lý trong thực hiện dân chủ gắn liền với các quyền và lợi ích thiết thực của người
dân tại cơ sở.
30

Thứ tư, nghiên cứu xác lập các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ
chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay. Các tiêu chí cần được
xem xét ở mức độ toàn diện và cụ thể.
Thứ năm, nghiên cứu đánh giá toàn diện, tổng thể về quá trình xây dựng,
hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở và thực trạng cơ chế pháp lý
thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay. Kết quả nghiên cứu phải chỉ rõ
được những thành tựu, hạn chế, bất cập và nguyên nhân của các thành tựu, hạn
chế của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở hiện hành. Kết quả nghiên cứu
cũng cần chỉ ra thực trạng các điều kiện đảm bảo mức độ hoàn thiện của cơ chế
pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
Thứ sáu, nghiên cứu dự báo bối cảnh phát huy dân chủ ở Việt Nam trong
giai đoạn tới. Từ đó xây dựng các quan điểm và đề xuất các giải pháp tiếp tục
hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Kết quả nghiên
cứu phải đảm bảo lập luận thuyết phục hơn về các giải pháp có liên quan đã được
các công trình nghiên cứu khác đề cập và luận chứng, đồng thời kiến nghị hệ giải
pháp tổng thể mang tính chiến lược cho quá trình hoàn thiện cơ chế pháp lý thực
hiện dân chủ cơ sở ở nước ta.

Tiểu kết chương 1

Hoàn thiện, phát huy dân chủ, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân ở mọi
phạm vi trong đời sống xã hội là yêu cầu tất yếu khách quan trong xã hội hiện đại.
Chính vì vậy, đây là vấn đề nhận được nhiều nhất sự quan tâm của xã hội.
Trong chương 1, luận án đã tiến hành khảo cứu nhiều công trình nghiên
cứu trong nước và ngoài nước có liên quan đến chủ đề hoàn thiện cơ chế pháp lý
thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Kết quả tổng quan tình hình nghiên cứu cho
thấy nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ cơ sở, cơ chế pháp lý và cơ chế
pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở… đã được các nhà khoa học trong và ngoài nước
nghiên cứu ở các mức độ và khía cạnh khác nhau. Nhìn chung, đã có nhiều chất
liệu tốt cho việc tiếp tục triển khai nghiên cứu đề tài luận án.
31

Tuy nhiên, phần lớn các công trình nghiên cứu đều tập trung giải mã một
trong hai vấn đề lớn: 1/ pháp luật về dân chủ cơ sở ở Việt Nam; và 2/ thực tiễn
phát huy dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Rất ít các công trình luận bàn toàn diện về
dân chủ cơ sở. Đặc biệt, chưa có công trình nào nghiên cứu trực diện về hoàn
thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Vì vậy, còn nhiều vấn
đề lý luận và thực tiễn liên quan đến cơ chế pháp lý và hoàn thiện cơ chế pháp lý
thực hiện dân chủ cơ sở chưa được giải quyết triệt để.
Luận án, một mặt tìm kiếm những giá trị có thể kế thừa và phát triển trong
các công trình đã công bố, mặt khác có nhiệm vụ triển khai nghiên cứu nhiều nội
dung mới, hướng tới tạo lập cơ sở khoa học vững chắc cho các giải pháp hoàn
thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở trong điều kiện đẩy mạnh xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân và triển
khai thi hành Hiến pháp năm 2013 ở Việt Nam hiện nay.
32

Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ
THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở VIỆT NAM

2.1. NHẬN THỨC VỀ DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ CƠ SỞ


2.1.1. Quan niệm về dân chủ
Trong tri thức nhân loại, dân chủ được coi là một cụm từ có được từ “sản
phẩm của nền văn minh”, là điều kiện và tiêu chuẩn tiến bộ xã hội.
Dân chủ trong lịch sử thường được nhận diện như một phạm trù đa nghĩa
với bản chất nhiều thứ bậc, do vậy, dân chủ được xem xét ở nhiều phương diện
khác nhau.
Nhìn từ khía cạnh tổng quát, dân chủ bao gồm một tổ hợp các giá trị nhân
bản, duy lý và cao đẹp. Dân chủ là sự hòa hợp giữa các giá trị: tự do, bình đẳng,
sự thống nhất trong tính đa dạng. Ở mức độ này, dân chủ được hiểu như một lý
tưởng mà con người khao khát hướng đến và cố gắng thực hành trong cuộc sống.
Những nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại cho rằng, để có một xã hội tốt đẹp thì dân phải
có quyền lực mạnh nhất, cao nhất, từ đó xuất hiện khái niệm "dân chủ"
(Demokratia) có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân.
Các công trình nghiên cứu đều chỉ ra rằng: Dân chủ với tư cách là hiện
tượng chính trị gắn liền với xã hội có giai cấp, nó mang tính giai cấp nên chế độ
dân chủ cần được xem xét trong mối tương quan với chế độ nhà nước. Hai chế độ
này nhiều khi khác nhau, đối lập nhau, nhưng về cơ bản thì tồn tại không thể thiếu
nhau. Dân chủ có liên hệ chặt chẽ với bản chất của nhà nước, với chức năng,
nhiệm vụ và hình thức nhà nước. Nhiều cách hiểu đã được đưa ra nhưng về cơ bản
đều quy tụ về bản chất “Dân chủ tức là chính quyền của nhân dân” “Chế độ dân
chủ, đó là một nhà nước thừa nhận việc thiểu số phục tùng đa số” “Nếu không
khinh thường lẽ phải và lịch sử, ai cũng thấy rõ ràng chừng nào mà còn có những
giai cấp khác nhau thì không thể nói đến “dân chủ thuần tuý” được, mà chỉ có thể
nói đến dân chủ có tính giai cấp” [154, tr.304]. Như vậy, dân chủ trước hết là
thuộc tính của nhà nước, trong đó người dân thể hiện quyền làm chủ của mình, kể
33

cả quyền tạo lập và kiểm soát quyền lực nhà nước. Nhà nước có trách nhiệm bảo
đảm bằng quyền năng của Nhà nước, thông qua các phương thức thực hiện quyền
lực nhà nước để nhân dân thực hiện các quyền của mình.
Nếu xuất phát từ cách hiểu như trên, dân chủ trong hiện thực đời sống sẽ
liên quan đến quan niệm về ba yếu tố: 1/ Nhân dân; 2/ quyền lực công cộng và 3/
tính chất trực tiếp của mối quan hệ giữa nhân dân và quyền lực công cộng trong sở
hữu quyền lực công cộng.
Điểm khác nhau căn bản giữa cách hiểu về dân chủ trong thời cổ đại với
thời hiện đại là ở cách quan niệm về phạm trù nhân dân và tính chất trực tiếp của
mối quan hệ sở hữu quyền lực công cộng. Đã là một nền dân chủ thì nó phải
chứng tỏ quyền lực thuộc về nhân dân. Nhưng nhân dân mang nội dung thế nào lại
tùy thuộc vào các thời đại khác nhau mà xác định. Chế độ dân chủ nào thì nhà
nước cũng là của nhân dân, nhưng sự khác nhau giữa chế độ dân chủ này với chế
độ dân chủ khác là ở chỗ nhân dân là ai và ai trong nhân dân có thực quyền. Điều
này nói nên nội dung bản chất giai cấp của dân chủ. Không có dân chủ trìu trượng,
bao giờ dân chủ cũng có nội dung cụ thể, xác định. Trong xã hội ai là nhân dân
mới có dân chủ và trong nhân dân thì quyền lực thực sự, cuối cùng không phải lúc
nào cũng thuộc về tất cả nhân dân. Như vậy, dân chủ chỉ là một nhưng nó bị chế
ước bởi những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội ở các thời đại và các quốc gia
khác nhau.
Theo cách hiểu thông dụng ở Việt Nam “dân chủ là hình thức tổ chức thiết
chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền
lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào
các tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế xã hội nhất định” [91,
tr.89]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lý giải “dân chủ” một cách hết sức giản dị, cô
đọng và dễ hiểu, theo đó: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là dân làm chủ”, “nước
ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Như vậy, quan niệm về
dân chủ gắn liền với nguyên lý chủ quyền nhân dân.
Với việc kế thừa những giá trị tư tưởng và kinh nghiệm thực tiễn có liên
quan đến tổ chức nhà nước trong lịch sử, nguyên lý về chủ quyền nhân dân được
34

khẳng định như là bản chất và trụ cột của việc tổ chức và vận hành xã hội hiện
đại. Cho đến nay, mặc dù, với những góc nhìn và quan niệm hết sức đa dạng
nhưng nội dung cơ bản và chung nhất của nguyên lý này là: quyền lực nhân dân
là quyền lực tối cao và là quyền lực gốc trong các xã hội dân chủ; quyền lực
nhân dân không được biểu hiện và thực thi liên tục bởi chính chủ thể của nó là
nhân dân nhưng tư cách chủ thể của nhân dân thể hiện ở việc trực tiếp thực hiện
một phần quyền lực, ủy thác thực hiện quyền lực và kiểm tra, giám sát, kể cả
việc thay đổi, hủy bỏ quyền lực đã được ủy thác; quyền lực nhà nước là bộ phận
cơ bản của quyền lực nhân dân được hình thành thông qua sự đồng thuận ủy
quyền của nhân dân mà bằng chứng hữu hình của sự đồng thuận đó là sự hiện
diện của chủ nghĩa lập hiến. Trong nội hàm của nguyên lý nói trên, nhân dân là
một khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng của mọi cá nhân trong xã hội tuy có
sự khác nhau về thành phần xã hội như dân tộc, sắc tộc, hoạt động chính trị - xã
hội, quan điểm tư tưởng, tôn giáo, giới tính, nghề nghiệp v.v… nhưng thống nhất
lại, vượt lên trên sự khác biệt xã hội để có và thực hiện một ý chí, một định
hướng, một mục tiêu phát triển cộng đồng, đất nước. Từ phương diện chính trị -
pháp lý, nhân dân - với sự thống nhất lại, vượt lên trên sự khác biệt xã hội đó đã
trở thành một đoàn thể pháp lý bao gồm các cử tri được quyền hành xử chủ
quyền thông qua các thể thức pháp lý nhất định. Chính các thể thức pháp lý này
định chế hóa chủ quyền nhân dân.
Như vậy, dân chủ với tính cách là một chế độ, được thực hiện dưới hai hình
thức cơ bản là dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Dân chủ đại diện (còn gọi là dân chủ gián tiếp) là hình thức dân chủ mà
theo đó nhân dân thông qua đại diện của mình để bày tỏ chính kiến, để quyết định
những vấn đề của đời sống cộng đồng. Nhờ thông qua bầu cử để lựa chọn những
người ưu tú đứng đầu các cơ quan đại diện, nhờ đó những người đại diện sáng
suốt trong việc quyết định vấn đề quan trọng của đời sống xã hội, giải quyết nhanh
chóng kịp thời những vấn đề bức bách trong xã hội đặt ra. Với sự ra đời, hình
thành của Nhà nước, do mức độ rộng lớn về không gian, dân số ngày càng đông,
trình độ dân cư chênh lệch, tính phức tạp và khẩn trương của công việc quản lý
nhà nước, quản lý xã hội mà hình thức dân chủ đại diện trở thành phương thức chủ
35

yếu của nền dân chủ xã hội. Ở hầu hết các nước phát triển trên thế giới, quá trình
mở rộng dân chủ dường như trước hết là quá trình hoàn thiện các hình thức dân
chủ đại diện và các thiết chế đại diện sao cho các công dân có thể dễ dàng hơn
trong việc bày tỏ chính kiến của mình khi tham gia vào quyết định các vấn đề
quan trọng của đất nước. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy dân chủ đại diện có những
nhược điểm cho đến nay vẫn chưa khắc phục được. Đó là những biểu hiện đặc
quyền, đặc lợi, có khả năng lạm quyền, tham nhũng mà quyền lực đó có được do
nhân dân ủy quyền.
Dân chủ trực tiếp là hình thái nhân dân trực tiếp quyết định các vấn đề,
các công việc quan trọng của quốc gia của cộng đồng lãnh thổ, trực tiếp thông
qua các đạo luật mà không một yếu tố trung gian nào. Theo nghĩa đó, dân chủ
trực tiếp gắn liền với nguồn gốc bản chất của khái niệm dân chủ
(demokratia/δημοκρατία - tiếng Hy Lạp) mà có nghĩa là “quyền lực, sự cai trị
của nhân dân” (power/ruleofthepeople). Chính vì vậy, dân chủ trực tiếp đôi khi
còn được gọi là dân chủ đích thực/ nguyên nghĩa (pure/true democracy) và được
xem là biểu hiện cho chính quyền của dân, do dân và vì dân. Nhìn nhận một cách
tổng quát thì dân chủ trực tiếp là phương thức để người chủ quyền lực trực tiếp thể
hiện ý chí của mình, tự mình thực hiện một số hoạt động trong chu trình quyền
lực. Dân chủ trực tiếp là một phương thức làm chủ của nhân dân khi nhân dân -
chủ thể quyền lực duy nhất có thể bày tỏ ý chí, nguyện vọng, đề đạt kiến nghị nào
đó trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, quản lý xã hội, đồng thời thực hiện kiểm
tra, giám sát bộ máy nhà nước do chính mình lập nên. Kết quả của sự bày tỏ ý chí
đó có thể có ý nghĩa quyết định, bắt buộc phải thi hành ngay như trưng cầu ý dân,
bầu cử, bãi miễn đại biểu dân cử; hoặc chỉ có ý nghĩa tham khảo như các hình
thức tham khảo ý kiến nhân dân, kiểm tra, giám sát bộ máy nhà nước v.v.. Trong
nền dân chủ hiện đại, các quốc gia đã ngày càng dành sự chú ý đặc biệt tới việc sử
dụng các hình thức dân chủ trực tiếp để quyết định một số vấn đề quan trọng đối
với quốc gia và các vấn đề của cộng đồng tại địa phương. Trong rất nhiều trường
hợp phương thức dân chủ trực tiếp có nhiều ưu điểm mà phương thức dân chủ đại
diện không có được. Đó là khả năng thể hiện một cách khách quan nhất ý chí,
36

nguyện vọng của nhân dân và thể hiện một cách thiết thực nhất quyền lực của
nhân dân trong việc quản lý xã hội.
Như vậy, khi nói đến dân chủ đại diện là người ta nhắc đến hình thức mà
người dân ủy quyền cho những người đại diện cho mình quyết định các công việc
nhà nước trong phạm vi xác định. Dân chủ đại diện thường gắn liền với các cơ
quan hoạt động tập thể nghị viện (hoặc tên gọi khác), hội đồng địa phương. Còn
khi nói đến dân chủ trực tiếp, người ta nói đến việc quyết định các công việc nhà
nước do công dân trực tiếp thực hiện không thông qua khâu trung gian. Như vậy,
dân chủ đại diện hay dân chủ trực tiếp đều dựa vào chỗ chủ thể nào quyết định các
vấn đề thuộc công việc nhà nước, tức là căn cứ vào tiêu chí ai quyết định công
việc nhà nước nào đó.
Như vậy, sẽ xuất hiện câu hỏi lớn: giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện, có những hình thức thể hiện quyền của người dân nhưng sẽ xếp vào đâu nếu
chỉ theo tiêu chí nói trên? Các hình thức đó như: khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
biện xã hội, tư vấn xã hội, giám sát trực tiếp của người dân. Các hình thức này tự
nó không có vai trò quyết định trong việc ra quyết định hoặc thực hiện các hành
động, hành vi nào của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền. Vậy nên chăng,
trong nhận thức lý luận cần xem nó như một yếu tố của công đoạn, hay quy trình
không thể thiếu trong các trường hợp nhất định để chính quyền quyết định về vấn
đề nào đó. Về cơ bản, đây là các hình thức đứng trung gian để thực hiện quyền của
người dân, vừa mang yếu tố của dân chủ trực tiếp (xét về tính chất và mục tiêu),
vừa mang yếu tố của dân chủ đại diện (xét về kỹ thuật thực hiện). Một số nhà
nghiên cứu gọi đó là hình thức “dân chủ tham gia” [138, tr.58].
2.1.2. Quan niệm về dân chủ cơ sở và thực hiện dân chủ cơ sở
Nếu xét từ khía cạnh quan hệ thứ bậc mang tính pháp lý của cấu trúc hành
chính - lãnh thổ và chỉnh thể hệ thống chính trị thống nhất ở nước ta thì cơ sở là
cấp thấp nhất, tuy nhiên cơ sở không đơn thuần là cánh tay nối dài của cấp trên.
Cơ sở là địa bàn cư trú của dân, là nơi diễn ra mọi hoạt động sinh sống và làm ăn
của nhân dân lao động, vì vậy nói tới cơ sở là nói tới vai trò chủ thể của người dân
và hình thức tổ chức các hoạt động sống của cộng đồng, các mối quan hệ xã hội.
37

Cơ sở là nơi trực tiếp nhất của thực tiễn, thể hiện ý thức và năng lực làm chủ của
nhân dân bằng cả phương thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, cũng là nơi
đầu tiên đối mặt với những yêu cầu bức xúc của dân chúng với những mâu thuẫn,
thậm chí cả những xung đột nảy sinh trong đời sống dân sự. Trong hệ thống quản
lý, cấp cơ sở là cấp cuối cùng nhưng lại là cấp đầu tiên và trực tiếp nhất với tư
cách nền tảng xây dựng chế độ dân chủ của toàn hệ thống chính trị. Cơ sở tuy là
cấp thấp nhất nhưng lại là tầng sâu nhất mà sự vận hành của thể chế chính trị từ vĩ
mô phải tác động tới, là địa chỉ quan trọng nhất mà mọi chỉ thị, nghị quyết, chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước phải tìm đến, phải bằng mọi
cách tổ chức, tuyên truyền, vận động làm cho dân hiểu, dân tin, dân làm. Cơ sở
còn là cấp hành động và tổ chức hành động, nghĩa là cấp tổ chức triển khai thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cơ sở cũng không chỉ là cấp
thực hiện chức năng lãnh đạo và quản lý của Nhà nước mà còn là nơi diễn ra các
hoạt động tự quản của cộng đồng xã hội, quản lý với tự quản đan xen vào nhau,
các thể chế quản lý, pháp luật nhà nước và các quy ước của thôn, làng, ấp, bản tồn
tại song hành với nhau. Cấp cơ sở là nơi chính quyền trong lòng dân, cán bộ cơ sở
từ dân mà ra, là cấp có nhiều lợi thế và khả năng nhất để giảm thiểu xuống mức
thấp nhất những thói tật quan liêu, hành chính, mệnh lệnh, tệ hại tham ô, tham
nhũng, mặt khác cán bộ ở cơ sở là người sở tại, làm việc tại cơ sở, hàng ngày sinh
sống, làm việc và quan hệ trực tiếp với dân, bị chi phối, ràng buộc rất mạnh mẽ
bởi quan hệ họ hàng, thân tộc, bởi các truyền thống, phong tục, tập quán, lối sống
làng xã.
Liên quan đến khái niệm này, cơ sở được hiểu theo tinh thần Pháp lệnh
34/2007/PL-UBTVQH ngày 20/7/2007 của Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội về việc
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Cơ sở được lấy làm đối tượng nghiên
cứu ở đây không phải là một đơn vị cơ sở bất kỳ (gia đình, cơ quan, công sở,
trường học, bệnh viện, doanh nghiệp hay viện nghiên cứu…) mà là cơ sở với tư
cách là một cấp quản lý nhà nước trong hệ thống quản lý hành chính nhà nước
hiện hành. Cơ sở đó chính là xã - phường - thị trấn, là cấp cơ sở của quản lý nhà
nước trong đó xã là cấp cơ sở ở khu vực nông thôn - địa bàn rộng lớn, chiếm đa số
trong tổng số đơn vị cơ sở nước ta.
38

Dân chủ cơ sở là sự phản ánh vị thế quyền lực của nhân dân trên địa bàn cơ
sở. Xã, phường, thị trấn là nơi trực tiếp thực hiện đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước, là nơi kiểm nghiệm một cách chính xác nhất đường lối
của Đảng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa trong thực tiễn khách quan.
Thực hiện dân chủ ở cấp xã là toàn bộ quá trình hiện thực hóa các quyền thể hiện
sự tham gia của công dân vào chu trình thực hiện quyền lực tại cơ sở. Khi nghiên
cứu nhóm quyền này thì dân chủ, với ý nghĩa là quyền tự nhiên tối cao nhất của
con người được thực hiện trước hết là ở cơ sở. Với tư cách chủ thể quyền lực,
người dân tại cơ sở có quyền có đại diện của mình, có quyền trực tiếp được biết,
được bàn, được tham gia giải quyết và kiểm tra giám sát mọi hoạt động quyền lực
diễn ra tại cơ sở.
Như vậy, do bản chất của dân chủ ở cơ sở là phát huy quyền làm chủ mọi
mặt của người dân ở cơ sở nên dân chủ cơ sở là một phương thức hỗn hợp để thực
hiện dân chủ. Dân chủ cơ sở bao gồm trong nó cả hình thức dân chủ đại diện và
hình thức dân chủ trực tiếp, hướng tới mục tiêu hiện thực hóa quyền lực của chủ
nhân quyền lực tại địa bàn cơ sở. Ngoài ra, dân chủ cơ sở còn thể hiện ở quyền
tham gia ý kiến với tư cách cá nhân vào các vấn đề nảy sinh tại cơ sở có liên quan
đến quyền và lợi ích của chính họ, của các cá nhân khác hoặc của Nhà nước. Theo
đó, ý kiến của một số nhà nghiên cứu cho rằng, tham gia cũng có thể được xem là
một hình thức thực hiện dân chủ mang đặc thù của dân chủ cơ sở: “Thực hiện dân
chủ cơ sở được thông qua bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau, cụ thể
là dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và dân chủ tham gia” [138, tr.58].
Ở Việt Nam, thực hiện dân chủ cơ sở được biểu hiện trước hết ở sự tồn tại
và hoạt động của các thiết chế đại diện của nhân dân, bao gồm Hội đồng nhân dân
cấp xã và các đoàn thể nhân dân. Đây là các thiết chế do nhân dân lập ra và trực
tiếp ủy quyền lực nhân dân, thay mặt nhân dân để thực hiện quyền lực của nhân
dân. Thông qua hoạt động của các thiết chế này, người dân tham gia vào quản lý
nhà nước, quản lý xã hội và kiểm soát hoạt động của Nhà nước, buộc hoạt động
quyền lực nhà nước vận hành trong quỹ đạo phục vụ nhân dân.
39

Tuy nhiên, trong các quy chế dân chủ ở cơ sở, chẳng hạn như Quy chế dân
chủ ở xã, có rất nhiều loại công việc cần được đưa ra trưng cầu ý kiến của nhân
dân để các cấp có thẩm quyền tham khảo trước khi quyết định. Mặc dù kết quả
trưng cầu ý kiến trong Quy chế dân chủ ở xã được xác định là “để tham khảo”
nhưng bản thân việc đưa ra trưng cầu ý kiến là bắt buộc.
Ngoài loại hình trưng cầu ý kiến “để tham khảo” các quy chế cũng đã có
những quy định việc lấy ý kiến nhân dân có “tính chất quyết định”.
Hình thức lấy ý kiến nhân dân có tính chất quyết định đã được quy định cụ
thể trong quy chế thực hiện dân chủ ở xã như sau:
- Chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình
phúc lợi công cộng (điện, đường, trường học, trạm y tế, nghĩa trang, các công trình
văn hóa, thể thao);
- Xây dựng hương ước, quy ước làng văn hóa, nếp sống văn minh, giữ gìn
an ninh trật tự, bài trừ các hủ tục, mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội;
- Các công việc trong nội bộ cộng đồng dân cư thôn, phù hợp với quy định
của pháp luật hiện hành.
- Thành lập Ban Giám sát các công trình xây dựng do dân đóng góp;
- Tổ chức bảo vệ sản xuất, kinh doanh giữ gìn an ninh trật tự, an toàn giao
thông, vệ sinh môi trường và các hoạt động khác trên địa bàn xã, thôn”.
Như vậy, mặc dù có sự phân biệt các nội dung giữa dân chủ trực tiếp, dân
chủ đại diện và dân chủ tham gia nhưng dân chủ trực tiếp là hình thức phổ biến và
dễ thực hiện nhất tại cơ sở. Các nội dung “dân bàn và quyết định trực tiếp “chính
là những biểu hiện của dân chủ trực tiếp theo nghĩa hẹp, cổ điển nhất. Bên cạnh
đó, các nội dung “dân bàn, biểu quyết, tham gia ý kiến để cấp có thẩm quyền
quyết định” và “dân tham gia kiểm tra, giám sát” là những biểu hiện của dân chủ
trực tiếp theo nghĩa rộng và được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam từ trước đến nay.
Dân chủ cơ sở không đồng nhất với tự quản cơ sở. Xét về bản chất, dân chủ
cơ sở tạo ra nhiều khả năng cho sự tham gia trực tiếp và nhiều mặt của người dân
vào các công việc của Nhà nước và xã hội. Theo đó, dân chủ cơ sở là mắt xích
quan trọng nối liền những mặt tích cực của dân chủ và của chế độ tự quản cơ sở.
40

Mặc dù vậy, dân chủ cơ sở là hình thức quyền lực nhân dân, không trùng lặp với
tự quản cơ sở.
Trên thực tế, cả dân chủ cơ sở và tự quản cơ sở đều được thực hiện ở cơ sở,
ở đơn vị nhỏ nhất hoặc các tập thể, cộng đồng khác nhau, nhưng khi nói dân chủ
cơ sở là nói đến những khía cạnh giải quyết các vấn đề chính trị - nhà nước, dù là
ở cơ sở. Dân chủ cơ sở phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể quyền lực gốc - nhân
dân - với các thiết chế được nhân dân ủy quyền lực và với việc đảm bảo quyền lực
thuộc về nhân dân tại cơ sở. Nói đến dân chủ cơ sở là nói đến mối quan hệ tương
tác giữa nhà nước và nhân dân tại cơ sở. Ở Việt Nam, các đơn vị cơ sở như vậy là
các xã, phường, thị trấn; là các tập thể cơ quan, tổ chức, đơn vị, trường học, bệnh
viện… là nơi mọi chính sách, đường lối, pháp luật của Đảng và Nhà nước được
phản ánh qua lăng kính của cá nhân, của lợi ích tập thể, là nơi kiểm nghiệm tính
đúng đắn và hiệu quả của các quyết sách của Đảng ta. Dân chủ cơ sở là “hệ thống
báo động” nhạy cảm nhất, những thông tin phản hồi nhanh nhất về hiệu lực, hiệu
quả của các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước để kịp thời
sửa chữa, bổ sung. “Hệ thống báo động” và các thông tin phản hồi này giúp cho
Đảng và Nhà nước kiểm nghiệm lại đường lối, chính sách của mình một cách
nhanh nhất, khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, xa rời thực tế, tăng cường mối
quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân. Trong khi đó, tự quản cơ sở là vấn đề
nằm ngoài hệ thống nhà nước, liên quan đến cách tổ chức và vận hành của xã hội.
Xét về bản chất, tự quản cơ sở cũng là một phương thức thực hiện quyền lực nhân
dân, tuy nhiên phương thức này không nằm trong mối liên hệ tương tác chặt chẽ
với quyền lực nhà nước, không có mục tiêu tác động trực tiếp vào quyền lực nhà
nước, không có sự tham gia trực tiếp của các thiết chế quyền lực công. Các hình
thức tự quản cơ sở do các cộng đồng dân cư tự tổ chức và thực hiện tại cơ sở để tự
giải quyết những vấn đề của xã hội mà không cần tới sự can thiệp của nhà nước.
Dân chủ cơ sở là một đòi hỏi tất yếu của quá trình thực hiện và phát huy
dân chủ ở Việt Nam hiện nay. Thực hiện tốt và đẩy mạnh dân chủ cơ sở không chỉ
đơn thuần là một phản ứng chính trị của Đảng và Nhà nước trước tình hình phức
tạp của những điểm nóng ở cơ sở mà nó thể hiện cái nhìn hướng tới cơ sở, coi
trọng cái gốc ở cơ sở nên nó mang tính chiến lược, căn bản, lâu dài.
41

2.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC
HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ
2.2.1. Khái niệm cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở
Cơ chế là một thuật ngữ có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, tùy vào
hoàn cảnh và lĩnh vực.
Cơ chế có thể hiểu là “máy móc, bộ máy, cơ cấu”. Chẳng hạn, cơ chế nhà
nước (bộ máy nhà nước). Theo Đại từ điển tiếng Việt thì: “Cơ chế là cách thức,
sắp xếp tổ chức để làm đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện” [161, tr.463].
Theo GS,TS Triết học Phạm Ngọc Quang, “Cơ chế là khái niệm dùng để chỉ một
chuỗi những khâu liên kết với nhau theo một lôgic nhất định nhờ vậy mục tiêu
được thực hiện” [104, tr.38].
Theo cách hiểu thông thường nhất thì cơ chế được hiểu là “cách thức theo
đó một quá trình được thực hiện” [99, tr.234].
Có nhiều loại cơ chế. Đối với khoa học luật học nước ta, khái niệm cơ chế
pháp lý mới ra đời nhằm giải quyết một số vấn đề thực tiễn trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
Trong các công trình nghiên cứu về cơ chế pháp lý đều cơ bản đồng thuận ý
kiến khi hiểu cơ chế pháp lý như sau:
(1) Đó là tổng thể các yếu tố, bộ phận cấu thành hay hợp thành;
(2) Các bộ phận trong cơ chế có mối quan hệ, tác động lẫn nhau, hướng đích;
(3) Cơ chế hoạt động theo các nguyên tắc, qui trình do luật quy định;
(4) Thiếu một bộ phận thì cơ chế hoạt động không đồng bộ, kém hiệu quả...
Cơ chế pháp lý là một khái niệm luôn gắn liền với pháp luật và khả năng
điều chỉnh của pháp luật. Cơ chế pháp lý trước hết phải được pháp luật ghi nhận ở
các cấp độ khác nhau trong các văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý khác nhau,
khởi nguồn từ Hiến pháp - đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất chế định những
vấn đề có tính nguyên tắc của cơ chế pháp lý trong một lĩnh vực cụ thể của đời
sống xã hội.
Xét trên phương diện nội dung, cơ chế pháp lý phải bao gồm hệ thống các
quy định pháp luật ghi nhận các quy tắc ứng xử của các cá nhân và tổ chức liên
42

quan đến một chuỗi các khâu của quá trình thực hiện mục tiêu trong một lĩnh vực
cụ thể.
Xét trên phương diện tổ chức, cơ chế pháp lý bao gồm hệ thống các quy
định về tổ chức và hoạt động của các thiết chế tham gia vào quá trình thực hiện
mục tiêu trong một lĩnh vực cụ thể.
Xét trên phương diện thủ tục, cơ chế pháp lý là sự hợp thành của các
phương pháp, trình tự, bước đi, hậu quả pháp lý do pháp luật ghi nhận để đảm bảo
tính hợp pháp của quá trình thực hiện mục tiêu trong một lĩnh vực nhất định.
Như vậy, cơ chế pháp lý được hiểu là tổng thể của nhiều yếu tố có quan hệ
tác động qua lại mật thiết với nhau, bao gồm các yếu tố thể chế, thiết chế và các
bảo đảm để thực hiện một chức năng hoặc một nhiệm vụ nào đó trong quản trị nhà
nước và xã hội. Các yếu tố này gắn kết với nhau, hợp thành hệ thống, do pháp luật
quy định, nếu thiếu một trong các bộ phận đó thì hệ thống không thể vận hành một
cách bình thường.
Từ đó, có thể đưa ra khái niệm về cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở:
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là tổng thể các nguyên tắc, thể chế, thiết
chế và các điều kiện đảm bảo, gắn kết với nhau, hợp thành hệ thống, do pháp luật
quy định, nhằm xác lập các quyền và khả năng để nhân dân thực hiện quyền làm
chủ tại cơ sở.
2.2.2. Đặc điểm của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở
Thứ nhất, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở gắn liền với pháp luật và
điều chỉnh pháp luật.
Bản thân khái niệm “cơ chế pháp lý” đã gắn liền với pháp luật bởi lẽ không
có pháp luật thì không thể có tính pháp lý của cơ chế. Hơn nữa, “dân chủ” và
“dân chủ cơ sở” không phải là lời nói suông mà phải được thể hiện thông qua
hình thức pháp lý, được ghi nhận, giới hạn và đảm bảo thực hiện bởi pháp luật.
Nói cách khác, cơ chế pháp lý thực thi dân chủ cơ sở phải gắn với pháp luật, tồn
tại và vận hành dưới hình thức pháp luật. Điều 7, tuyên ngôn thế giới về quyền
con người cũng đã ghi nhận: “Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và
có quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân
43

biệt nào”. Mặt khác, trong chế độ pháp quyền dân chủ và xã hội dân sự thì mọi
quyền đều do luật định [62, tr.95].
Hệ thống pháp luật bao gồm nhiều văn bản có cấp độ giá trị khác nhau,
cao nhất là Hiến pháp, tiếp đó là các luật và văn bản dưới luật. Dân chủ dưới hai
hình thức cơ bản là dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp là quyền cơ bản của
công dân và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nên luôn được ghi nhận trong Hiến
pháp và các luật, bởi lẽ “chỉ bằng Hiến pháp và luật, các quyền và nghĩa vụ trên
mới mang đủ ý nghĩa long trọng và hiện thực” [43, tr.185]. Hiến pháp là văn bản
chính trị - pháp lý có giá trị cao nhất trong việc giới hạn quyền lực nhà nước và
bảo vệ quyền con người, quyền công dân do đó bảo đảm bằng hiến pháp là bảo
đảm ở mức độ cao nhất.
Quy định pháp luật về dân chủ không chỉ được thể hiện trong một văn bản
mà được thể hiện trong nhiều văn bản trên các lĩnh vực khác nhau. Chính vì vậy,
khi nói đến cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở từ phương diện này, điều đó
cũng phản ánh được những nội dung cơ bản của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ
cơ sở được thể hiện ra bên ngoài thông qua việc cụ thể hóa quyền của người dân
tại cơ sở trên các lĩnh vực gắn liền với các phương pháp, hình thức, thủ tục giải
quyết có hiệu quả vấn đề dân chủ cơ sở, cũng như các yêu cầu liên quan đến thanh
tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở…
Thứ hai, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở thể hiện trách nhiệm của
Nhà nước và yêu cầu của người dân trong việc bảo đảm thực thi quyền con người,
quyền công dân tại địa bàn cơ sở.
Như đã nói ở trên, cấp cơ sở là tầng sâu nhất mà sự vận hành của thể chế từ
vĩ mô phải tác động tới. Cơ sở là địa chỉ quan trọng cuối cùng mà mọi quyết định,
mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải tìm
đến. Đường lối, nghị quyết có đi vào cuộc sống thực sự hay không, dân có được tổ
chức hành động trong phong trào rộng khắp để biến khả năng thành hiện thực hay
không; đường lối, chính sách có tác dụng, hiệu quả đến đâu, đúng sai ra sao đều
được chứng thực bởi cuộc sống, tâm trạng, thái độ, niềm tin và hành động thực tế
của dân chúng tại cơ sở. Vì vậy, cấp cơ sở tuy là cấp thấp nhất trong hệ thống
44

quản lý nhưng có tầm quan trọng đặc biệt, là vấn đề sống còn, thành bại của chế
độ. Cơ sở là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, là vùng nhạy cảm nhất của đời sống xã
hội, không được xao nhãng mà cần đặc biệt quan tâm, chỉ đạo thường xuyên.
Thực chất của mất cơ sở là mất dân, mà khởi đầu của sự mất dân là xa dân của cán
bộ xã, sự thiếu trách nhiệm, thiếu đồng bộ, cồng kềnh của tổ chức bộ máy và nạn
quan liêu, tham nhũng, thiếu minh bạch của đội ngũ cán bộ công chức cấp xã.
Cơ chế pháp lý thực thi dân chủ cơ sở phản ánh bản chất dân chủ trong việc
thực hiện quyền lực nhà nước và thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong mối
quan hệ Nhà nước - công dân tại địa bàn quan trọng nhất. Trách nhiệm của Nhà
nước thường được hiểu trên hai phương diện là bảo đảm thực hiện và bảo đảm bảo
vệ. Bảo đảm thực hiện có ý nghĩa rất trực quan, đó là nhà nước tạo ra các điều
kiện để công dân thể hiện ý chí của mình, tự mình thực hiện một số hoạt động
trong chu trình quyền lực trên thực tế. Bảo đảm bảo vệ là việc nhà nước giải quyết
các khiếu nại, khiếu kiện và xử lý các vi phạm trong quá trình bảo đảm thực thi
dân chủ cơ sở. Bảo đảm thực hiện và bảo đảm bảo vệ có quan hệ hữu cơ với nhau.
Trên thực tế, khó có thể phân biệt được bảo đảm thực hiện và bảo đảm bảo vệ bởi
lẽ ngay trong việc tạo điều kiện để công dân thực hiện quyền dân chủ tại cơ sở thì
đã bao hàm cả mục đích bảo vệ quyền này.
Như vậy, trách nhiệm bảo đảm thực hiện dân chủ tại cơ sở đòi hỏi Nhà
nước phải ghi nhận các quyền và phương thức thực hiện quyền con người, quyền
công dân trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật. Đó là cơ sở quan trọng để tạo lập
các thủ tục pháp lý gắn với thiết chế, phương tiện và quy trình cụ thể trong việc
thực hiện dân chủ cơ sở; kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật trong việc
thực hiện dân chủ cơ sở; tạo điều kiện để các chủ thể khác tham gia, hỗ trợ trong
việc thực hiện quyền dân chủ tại cơ sở của công dân.
Thứ ba, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở chỉ vận hành có hiệu quả
trong môi trường dân chủ, pháp quyền của đất nước và trên cơ sở nguyên tắc công
khai, minh bạch của Nhà nước. Vì thế, dân chủ hóa đời sống chính trị xã hội, xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân và dân chủ XHCN, tôn trọng quyền tự chủ, tự quản của cơ sở
45

ngày càng được tăng cường thì cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ngày càng
có hiệu lực và hiệu quả.
Thứ tư, giá trị và năng lực tác động thực tế của cơ chế pháp lý thực hiện
dân chủ cơ sở phụ thuộc vào nhận thức, khả năng của mỗi cá nhân công dân, trình
độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức và sự tôn trọng, hỗ trợ từ phía xã hội.
Quyền dân chủ của công dân là nhu cầu và khả năng của công dân được
Nhà nước thừa nhận nên cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở luôn gắn liền với
khả năng và nhận thức của mỗi cá nhân công dân. Mỗi cá nhân công dân có những
đặc điểm riêng về thể chất và tinh thần, với nhu cầu và khả năng riêng rất đa dạng.
Do đó, sự thực thi dân chủ cũng được thực hiện bằng các hình thức, mức độ khác
nhau tùy thuộc vào ý chí chủ quan và sự lựa chọn của họ. Nếu công dân không
nhận thức được hoặc không có khả năng để thực hiện thì quyền dân chủ tại cơ sở
cũng không trở thành hiện thực. Đặc điểm này đòi hỏi việc hoàn thiện các bảo
đảm pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở của công dân phải dựa trên nhu cầu và phù
hợp với năng lực của cá nhân công dân.
Bên cạnh đó, việc thực hiện dân chủ cơ sở còn phụ thuộc vào trình độ, năng
lực của đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị cơ sở - là những người
có thẩm quyền xem xét, giải quyết các vấn đề liên quan đến thực thi quyền dân
chủ của công dân. Phát huy dân chủ, trao quyền thực sự cho nhân dân là nội dung
thực chất của đổi mới hệ thống chính trị. Tại địa bàn cơ sở, yêu cầu này gắn việc
nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở với việc thực hiện pháp luật về dân
chủ ở cơ sở và nâng cao trách nhiệm thực hành dân chủ trong đảng và trong xã
hội. Vì vậy, bộ máy Đảng và chính quyền phải chân thành lắng nghe ý kiến nhân
dân, hành động vì lợi ích của nhân dân, sẵn sàng đối thoại cởi mở với dân, triệt để
khắc phục bệnh quan liêu, cửa quyền, hống hách, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi,
bao che khuyết điểm của cán bộ đảng viên.
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở còn chịu sự tác động bởi những
điều kiện xã hội, đó là ý thức trách nhiệm, văn hóa pháp lý của cộng đồng nói
chung, là sự tham gia trực tiếp của các định chế xã hội trong việc hỗ trợ, thúc đẩy
hoặc thậm chí cản trở việc thực hiện dân chủ cơ sở của người dân.
46

Thứ năm, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở mang tính cụ thể và linh
hoạt, nhanh chóng, có tác dụng đảm bảo tính nguyên vẹn của ý chí chính trị của
nhân dân, chuyển tải ý chí chính trị của nhân dân một cách cụ thể và hiệu quả đối
với các vấn đề của địa phương và quốc gia, tạo lập cơ sở để nhân dân trực tiếp
kiểm soát con đường chính trị của bộ máy Đảng và Nhà nước.
2.2.3. Vai trò của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở
Thứ nhất, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là phương tiện pháp lý cơ
bản, hiệu quả nhất bảo đảm quyền con người, quyền công dân, thực thi quyền làm
chủ của nhân dân tại địa bàn cơ sở.
Thực hiện tốt dân chủ tại cơ sở sẽ góp phần xây dựng, củng cố và phát huy
nền dân chủ, góp phần bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Tuy
nhiên, dân chủ sẽ chỉ là những khẩu hiệu nằm trên biểu ngữ nếu không có cơ chế
hữu hiệu để hiện thực hóa. Thông qua các thể chế, thiết chế và các bảo đảm được
ghi nhận và triển khai trên thực tế, dân chủ sẽ chuyển hóa từ lý tưởng, mong muốn
thành hiện thực đời sống. Chính vì vậy, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XI đã chỉ rõ: “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người
là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Phải bảo đảm
quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi người phát triển toàn
diện. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nhất
là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng
thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước” [38].
Thứ hai, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở có vai trò quan trọng trong
việc củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở, góp phần phát triển
kinh tế xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa bàn cơ sở.
Trong mô hình quản lý xã hội hiện đại luôn tồn tại hai yếu tố không thể
thiếu và ràng buộc lẫn nhau. Đó là dân chủ và pháp quyền: Nhà nước và các thiết
chế khác được nhân dân giao quyền và có trách nhiệm phải điều hoà, giải quyết
các mâu thuẫn, đảm bảo cho các hoạt động xã hội trong khuôn khổ pháp luật và
dân - người chủ đích thực của quyền lực có quyền không thể bị xâm phạm là tác
động và kiểm soát nhà nước thực thi quyền lực thông qua các chính sách công và
47

các hành vi điều hành, quản lý xã hội. Từ đó, hình thành một nhu cầu tất yếu
khách quan - Nhà nước của dân, do dân, vì dân thì phải lắng nghe dân nói còn
người dân thì phải dõi theo Nhà nước làm [167].
Từ phương diện này, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là căn cứ để
người dân tham gia vào việc xây dựng và kiểm soát toàn bộ hệ thống chính trị cơ
sở, trực tiếp tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước tại cơ sở. Đây chính là một
trong những kênh dẫn quan trọng để tăng cường tính chính đáng, tính hiệu quả của
hệ thống chính trị cơ sở. Lịch sử lập hiến của thế giới và Việt Nam đã biết đến các
mô hình tham gia của dân vào việc quản lý nhà nước và kiểm soát việc thực thi
quyền lực nhà nước mà điển hình là giám sát hoạt động của các cơ quan, tổ chức
trong hệ thống chính trị, cán bộ, công chức nhà nước, phản ánh, kiến nghị, tham
gia ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật, quyết định những vấn đề quan trọng
của quốc gia thông qua trưng cầu ý dân, bầu cử,… trên phạm vi cả nước và ở từng
đơn vị cơ sở.
Ngoài ra, chính cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là căn cứ pháp lý
cho tổ chức và hoạt động của các thiết chế tham gia thực hiện dân chủ cơ sở. Ở
nghĩa này, một cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phù hợp sẽ đảm bảo chất
lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế chính trị - pháp lý tại địa bàn cơ sở.
Thứ ba, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở góp phần tạo ra sự đồng
thuận, sự đoàn kết và nhất trí cả về chính trị và tinh thần tại cộng đồng dân cư cơ
bản của xã hội.
Xét về vị trí của người dân, ngoài việc tham gia vào hoạt động quản lý nhà
nước với tư cách là chủ thể của quyền lực nhà nước, thì sự tham gia của họ còn có
ý nghĩa bởi họ còn là đối tượng chịu sự tác động (có thể trực tiếp hoặc gián tiếp)
bởi các quyết định của nhà quản lý. Bởi vậy, họ có quyền được đại diện, quyền
được biết, được tiếp cận, được tham gia ý kiến, được kiến nghị, được đối thoại và
được giám sát trong toàn bộ quá trình xây dựng và ban hành các quyết định quản
lý. Nếu các cá nhân tin rằng, họ vừa tham gia một cách có ý nghĩa vào các quyết
định ảnh hưởng đến bản thân mình thì họ sẽ sẵn sàng chấp nhận những thay đổi đó
hơn. Nhưng nếu họ tin là bị người ngoài cuộc hoặc một Chính phủ không đếm xỉa
48

gì đến mối quan tâm của họ áp đặt phải thay đổi thì chắc chắn sự tức giận sẽ bùng
lên và gây tác hại cho xã hội. “Quá trình tham gia mang lại cho cá nhân tiếng nói
để định hình một đổi thay, cho nên những thay đổi đó có khả năng dễ được chấp
nhận hơn và ít bị đảo ngược hơn khi cơ hội đầu tiên xuất hiện" [63]. Nói một cách
khác, khi người dân trực tiếp tham gia và bỏ công sức vào góp ý một chính sách
hay một quyết định quản lý thì họ sẽ đối xử với chính sách đó như một sản phẩm
tự nguyện ràng buộc thi hành, vì họ đã đóng góp xây dựng nên chính sách này.
Nói theo ý nghĩa chính trị, đó chính là thực hiện đại đoàn kết và hướng tới hài hoà
các lợi ích trong xã hội thông qua sự tham gia của người dân.
Sự tham gia của dân còn là yếu tố căn bản của chủ thuyết “quản lý nhà
nước tốt” (Good Government). “Quản lý nhà nước tốt” có nghĩa là một Chính
quyền hoạt động có hiệu quả cùng với việc ban hành các quyết định của mình
đúng trình tự, quy định: quản lý nhà nước bằng pháp luật; trách nhiệm giải trình;
minh bạch và đảm bảo sự tham gia của công chúng. Quản lý bằng pháp luật có
nghĩa là người ra văn bản khi ra quyết định không được căn cứ trên trực giác hoặc
ý tưởng ngẫu nhiên của họ, mà phải căn cứ trên các chuẩn mực được chấp nhận,
có lý lẽ và cơ sở thực tiễn vững chắc. Trách nhiệm giải trình thể hiện ở chỗ: người
ra quyết định phải giải trình các quyết định của họ một cách công khai, chịu sự
giám sát của cơ quan có thẩm quyền cấp trên và của cử tri. Minh bạch, chính là
việc các công chức thi hành công việc nhà nước một cách công khai để các công
dân và báo chí có thể biết và bàn bạc về công việc của họ. Và bảo đảm sự tham
gia của dân chính là việc tạo cơ hội cho những người chịu tác động (trực tiếp hoặc
gián tiếp) của một quyết sách sắp ban hành có cơ hội khả thi tối đa để đóng góp ý
kiến hoặc tham gia vào quá trình ra quyết định.
Thứ tư, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở giúp kiểm soát được tệ quan
liêu, cục bộ - căn bệnh trầm kha của nhà nước, của các nhà quản lý, nhất là tại địa
bàn cơ sở.
Các cơ quan nhà nước vốn mang sẵn trong mình ít nhiều bản chất “quan
liêu”, cho dù đó là nhà nước tiến bộ và phát triển. Cơ quan nhà nước, công chức
không chỉ bị giới hạn về sự nhạy cảm thực tiễn, vốn sống thực tế mà còn do tâm
49

lý tự vệ của “người gác cổng”, luôn muốn “tuyệt đối hoá” cho sự an toàn của
toàn xã hội. Ngoài ra, quá trình ban hành các quyết định quản lý luôn bị chi phối
bởi lăng kính chủ quan của những nhà quản lý, trong một số trường hợp còn bị
chi phối bởi những toan tính cục bộ, đặc quyền đặc lợi của một bộ phận nào đó.
Bởi vậy, sự tham gia của người dân sẽ tạo sự cân bằng và khoa học: có bảo vệ và
có phản biện, có nêu vấn đề và có phản bác vấn đề, có vai trò của quản lý và bị
quản lý, có quyền tự do kinh doanh và có trật tự công cộng… Hồ Chí Minh từng
nói: “Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy, muốn biết các nghị quyết có
được thi hành không, thi hành có đúng không, muốn biết ai ra sức làm, ai làm
qua chuyện, chỉ có một cách, là khéo kiểm soát. Kiểm soát khéo, bao nhiêu
khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa, kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định sẽ
bớt đi [78, tr.286].
Theo nghĩa đó, kiểm soát có hai cách: từ trên xuống và từ dưới lên. Kiểm
soát từ dưới lên là do quần chúng thực hiện. Đây là cách tốt nhất, như lời Chủ tịch
Hồ Chí Minh “để kiểm soát các nhân viên” thì người dân “đã là người làm chủ thì
phải biết tự mình lo toan, gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ. Mỗi người phải
ra sức góp công, góp của để xây dựng nước nhà” [81, tr.310].

2.3. CÁC THÀNH TỐ CỦA CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC HIỆN DÂN CHỦ
CƠ SỞ
2.3.1. Nguyên tắc thực hiện dân chủ cơ sở
Nguyên tắc là những định hướng cơ bản được con người đặt ra dựa trên
những quan điểm, tư tưởng nhất định làm nền tảng cho các mối quan hệ xã hội,
đòi hỏi các tổ chức và cá nhân phải tuân theo nhằm bảo đảm trật tự xã hội.
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là một hệ thống gồm các bộ phận
cấu thành có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau vì vậy phải vận hành theo các
nguyên tắc, quy trình nhất định do luật định. Nguyên tắc đảm bảo dẫn dắt các
hành vi của cá nhân và thiết chế không xa rời quan điểm thực thi dân chủ tại cơ sở
của mỗi quốc gia. Nói cách khác, các hành vi dân chủ tại cơ sở sẽ không hợp
thành cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở nếu thiếu các nguyên tắc kết nối
chúng được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật.
50

Nguyên tắc thực hiện dân chủ cơ sở có thể có những biểu hiện phong phú,
đa dạng khác nhau, tuy nhiên mọi nguyên tắc đều phải được xác lập trên nền tảng
của nguyên lý chủ quyền nhân dân - mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Tuy nhiên,
dân chủ đích thực chỉ có được khi dân chủ được thực hiện một cách tự do. Đây là
thước đo đánh giá mức độ phát triển một chế độ chính trị, mức độ tự do của con
người. Đương nhiên, không có dân chủ tự do không có giới hạn. Tự do phải là tất
yếu được nhận thức và thực hiện. Giới hạn của tự do của mỗi người là tự do của
người khác. Vì vậy, các nguyên tắc cũng đồng thời phải hướng tới bảo đảm trật tự
xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các lực lượng xã hội, các thiết chế tham gia
vào quá trình vận hành nguyên lý chủ quyền nhân dân.
Ở Việt Nam, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn số
34/2007/PL-UBTVQH11 ghi nhận các nguyên tắc sau:
1. Bảo đảm trật tự, kỷ cương, trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
2. Bảo đảm quyền của nhân dân được biết, tham gia ý kiến, quyết định,
thực hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ ở cấp xã.
3. Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân.
4. Công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp xã.
5. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
2.3.2. Thể chế thực hiện dân chủ cơ sở
Thể chế là một phạm trù đa diện và rộng, thường được định nghĩa khái
quát, nhiều khi mơ hồ.
Trên thực tế, đã có nhiều khái niệm về thể chế với các khuôn khổ rộng, hẹp
khác nhau.
Một trong những định nghĩa đầu tiên về thể chế là do Thorstein Veblen đưa
ra vào năm 1914, theo đó thể chế là tính quy chuẩn của hành vi hoặc các quy tắc
xác định hành vi trong những tình huống cụ thể, được các thành viên của một
nhóm xã hội chấp nhận về cơ bản và sự tuân thủ các quy tắc đó là do bản thân tự
kiểm soát hoặc do quyền lực bên ngoài khống chế.
Vào năm 2003, Báo cáo của Ngân hàng thế giới về phát triển bền vững
trong thế giới năng động đã đưa ra khái niệm về thể chế, xem đó là “những quy
51

tắc và tổ chức, gồm cả các chuẩn mực không chính thức, phối hợp hành vi con
người”. Trong định nghĩa này, hệ thống chuẩn mực chính thức bao gồm: Hiến
pháp, Luật, các văn bản quy phạm dưới luật, các thiết chế chịu trách nhiệm xây
dựng, sửa đổi, thi hành… Hệ thống chuẩn mực không chính thức bao gồm lòng tin
và các giá trị xã hội (trong đó có cả những chuẩn mực lâu đời chi phối hành vi xã
hội) đến các cơ chế và mạng lưới phối hợp không chính thức.
Ở nước ta, cách hiểu về thể chế cũng có nhiều khác biệt.
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, thể chế được nhìn
nhận một cách tổng quát nhất, là “những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội
buộc mọi người phải tuân theo” [99].
Trong giới nghiên cứu ở Việt Nam, quan niệm rộng xem thể chế bao gồm
“các quy định, quy tắc, pháp luật, điều lệ, chế tài xử lý vi phạm, bộ máy nhà nước
từ trung ương đến địa phương, các yếu tố văn hóa, tâm lý, thói quen, trình độ tri
thức” [56, tr.15]. Trong khi đó, quan niệm hẹp hơn cho rằng “nói đến thể chế là
nói đến các luật lệ, quy định điều chỉnh các quan hệ xã hội, các tổ chức vận hành
xã hội nói chung, nền kinh tế nói riêng” [56, tr.22]. Quan niệm ngắn gọn hơn cho
rằng “thể chế là con đường, là cách thức để đi tới mục tiêu” [56, tr.23].
Tóm lại, mặc dù có những khác biệt nhất định nhưng điểm tương đồng giữa
các quan niệm và từ đó cho phép nhận diện về thể chế như sau:
- Thể chế là sản phẩm chủ quan của con người (tổ chức, cộng đồng, quốc
gia, khu vực hay quốc tế)
- Thể chế được ban hành nhằm những mục tiêu cụ thể nhưng chung nhất là
mục tiêu bảo đảm thực hiện ý chí chung của cộng đồng xã hội trong việc xác lập
trật tự, chuẩn mực giá trị của sự phát triển. Nếu thể chế tốt sẽ cho phép các thành
viên (các chủ thể tham gia) cùng hợp tác làm việc hiệu quả, tránh được nguy cơ
bất ổn định, trì trệ, lệch lạc trong phát triển.
- Thể chế có hai loại: thể chế chính thức và thể chế phi chính thức. Thể chế
chính thức là sản phẩm của nhà nước. Thể chế phi chính thức là sản phẩm của các
tổ chức phi nhà nước.
52

- Mỗi lĩnh vực phát triển của xã hội đều có thể chế riêng: thể chế chính trị,
thể chế kinh tế, thể chế văn hóa…
- Thể chế gắn chặt với điều kiện cụ thể của từng thời kỳ phát triển và đặc
điểm, yêu cầu phát triển của từng quốc gia, cộng đồng.
- Nội dung của thể chế gồm ba yếu tố (ba khía cạnh): một là, pháp luật, các
quy tắc, tập quán (các luật chơi dành cho các chủ thể tham gia cuộc chơi); hai là,
các chủ thể: các tổ chức, cá nhân (cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức kinh tế, xã
hội, chính trị, các cộng đồng, doanh nghiệp, các cá thể…); ba là, cơ chế thực hiện
“luật chơi” bao gồm cách thức thực thi (các quy trình, thủ tục) và chế tài. Các nội
dung này đều phải được pháp luật thừa nhận.
Trên nền của cách quan niệm nêu trên, có thể đưa ra khái niệm thể chế thực
hiện dân chủ cơ sở như sau: Thể chế thực hiện dân chủ cơ sở là hệ thống luật và
các quy định khác do Nhà nước tạo ra hay thừa nhận nhằm xác lập những quyền
và khả năng để nhân dân thực hiện dân chủ tại cơ sở.
Như vậy, cấu trúc của thể chế thực hiện dân chủ cơ sở gồm hai bộ phận chủ
yếu: 1/ Thể chế chính thức - sản phẩm của Nhà nước, bao gồm: Hiến pháp và các
văn bản quy phạm pháp luật như: các bộ luật, đạo luật, nghị quyết, nghị định,
thông tư... Trong bộ phận này, Hiến pháp là thể chế gốc, căn bản, có vai trò định
khung, định hướng và tạo lập nguyên tắc cơ bản làm căn cứ cho hệ thống pháp
luật được ban hành đồng bộ, thống nhất, khả thi, có hiệu lực và hiệu quả. Hệ thống
pháp luật bao gồm các ngành luật, các chế định pháp luật, các quy phạm pháp luật
là những bộ phận của hệ thống thể chế của cơ chế; 2/ Thể chế phi chính thức - sản
phẩm của các tổ chức phi nhà nước và được nhà nước thừa nhận. Bộ phận này thể
hiện ở các quy tắc, quy định của cộng đồng và các tổ chức của xã hội, góp phần
xác lập các quyền và khả năng để đảm bảo thực hiện quyền lực nhân dân tại cơ sở.
Ở Việt Nam, bộ phận này thể hiện chủ yếu ở các quy tắc cộng đồng - hương ước,
quy ước làng văn hóa.
Về nội dung, thể chế thực hiện dân chủ cơ sở bao gồm:
- Các quy định về nguyên tắc, mục tiêu, phạm vi và giới hạn của dân chủ
cơ sở;
53

- Các quy định về nội dung quyền dân chủ của người dân;
- Các quy định về hình thức, trình tự, thủ tục thực hiện quyền;
- Các quy định về hình thức, trình tự, thủ tục, hậu quả pháp lý của giám sát
việc thực hiện quyền và bảo vệ quyền dân chủ của người dân tại cơ sở;
- Các quy định về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các
thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở;
- Các quy định về các điều kiện đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở.
Thể chế là yếu tố cơ bản tạo lập nên cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ
sở. Thể chế đầy đủ, tiến bộ, ưu việt sẽ giúp hình thành một cơ chế tương ứng thực
hiện dân chủ cơ sở một cách thực chất, hiệu quả.
2.3.3. Thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở
Thiết chế là hệ thống tổ chức bộ máy, quy chế và chương trình hành động
của hệ thống bộ máy đó được thiết lập trên cơ sở quy định của pháp luật để thực
hiện một hoạt động nào đó trong xã hội. Trong đó, thiết chế tổ chức nhà nước có ý
nghĩa đặc biệt cho sự phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước, có vai trò củng
cố, bảo vệ chế độ, bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân,
vì thế thiết chế tổ chức bộ máy nhà nước có ý nghĩa sống còn với bất cứ một chế
độ chính trị, xã hội nào. Nhà nước là một thiết chế rộng lớn và phức tạp ở đó bao
gồm một hệ thống tổ chức bộ máy rộng khắp, một hệ thống chế định pháp luật
phục vụ cho quản lý xã hội, một hệ thống cơ sở hạ tầng tương ứng với một hệ
thống kiến trúc thượng tầng và một đội ngũ cán bộ công chức, viên chức, nhân
viên đông đảo…
Thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở là toàn bộ các cơ quan, tổ chức, cá nhân
có liên quan đến quá trình thực hiện dân chủ cơ sở, được tổ chức và hoạt động trên
cơ sở pháp luật, góp phần đảm bảo quá trình hiện thực hóa dân chủ tại cơ sở. Theo
đó, với tư cách là một thành tố của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, pháp
luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở là tổng hợp
các quy định pháp luật ghi nhận hệ thống các thiết chế, cơ cấu tổ chức và thẩm
quyền của mỗi thiết chế trong hệ thống tham gia vào quá trình hiện thực hóa
quyền và khả năng của người dân ở cơ sở.
54

Hệ thống thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta bao gồm: 1/ các thiết
chế cấu thành hệ thống chính trị cơ sở (tổ chức Đảng cơ sở, Chính quyền cơ sở,
Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể xã hội tại cơ sở); 2/ các thiết chế dân
cử thực hiện dân chủ tại cơ sở (Ban Thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư của
cộng đồng, tập thể lao động); 3/ các phương tiện thông tin đại chúng; 4/ các nhóm
dân cư và cá nhân.
Các thiết chế có thể tồn tại với tư cách là chủ thể trực tiếp thực hiện các
quyền dân chủ tại cơ sở hoặc với tư cách là chủ thể tổ chức triển khai, đảm bảo
việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân tại cơ sở. Tính hiệu quả của mỗi thiết
chế được xác định thông qua việc thiết kế các yếu tố, tổ chức, bộ phận có bảo đảm
tính thống nhất, đồng bộ, chặt chẽ hay không. Ngoài yếu tố đó, các thiết chế phải
đảm bảo năng lực chủ thể, năng lực đại diện, năng lực tham gia, năng lực thực
hiện; các bộ phận của thiết chế phải có mối liên hệ, tác động, phối hợp chặt chẽ
với nhau, tránh trùng chéo, mâu thuẫn đồng thời phải có các bảo đảm tương ứng
để các thiết chế vận hành đồng bộ, thống nhất và thông suốt. Hệ thống thiết chế
đầy đủ, chặt chẽ, tổ chức khoa học là cơ sở để cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ
sở hoạt động có hiệu lực và tránh được các biểu hiện chung chung, hình thức, kém
hiệu quả.
2.3.4. Các bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Các yếu tố bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở vừa là một bộ phận hợp thành
cơ chế thực hiện dân chủ cơ sở vừa là yếu tố “bên ngoài” thể chế và thiết chế, tồn
tại như là điều kiện “nhất thiết phải có” cho sự vận hành hiệu quả của thể chế và
thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở.
Về cơ bản, các bảo đảm thực hiện hiện dân chủ cơ sở bao gồm:
Thứ nhất, bảo đảm về chính trị
Dân chủ - bản thân nó là một quá trình chính trị - pháp lý phức tạp, cùng
vận hành với các yếu tố chính trị - xã hội khác và chịu tác động mạnh mẽ từ các
yếu tố chính trị - xã hội khác của đất nước.
Trong mối quan hệ giữa chính trị và dân chủ cơ sở, chính trị đóng vai trò
tiên quyết trong việc thực hiện dân chủ cơ sở.
55

Bảo đảm về chính trị trước hết thể hiện ở chế độ chính trị tiến bộ, coi trọng
và đề cao dân chủ, nhân quyền. Một chế độ chính trị có xu hướng độc tài, chuyên
chế thường song hành với hiện tượng xâm hại và tàn lụi của dân chủ và nhân
quyền (trước hết là các quyền chính trị - dân sự). Chế độ chính trị dân chủ, tiến bộ
có mục tiêu chính trị vì con người, quan tâm tới việc xây dựng đường lối, chiến
lược, chính sách, pháp luật lấy con người làm trung tâm, hướng tới việc tạo mọi
khả năng bảo đảm tốt nhất quyền con người sẽ là bảo đảm chắc chắn nhất cho các
quá trình và phạm vi dân chủ. Sự ổn định chính trị của đất nước, sự hài hoà về lợi
ích giữa các lực lượng xã hội, sự dân chủ trong Đảng, trong Nhà nước và trong
các tổ chức chính trị xã hội khác của đất nước tạo điều kiện để nhân dân lao động
tham gia một cách bình đẳng và ngày càng nhiều vào các lĩnh vực quản lý nhà
nước và xã hội, ảnh hưởng tích cực đến việc hiện thực hóa các mục tiêu của cơ
chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở.
Bảo đảm về chính trị cũng thể hiện ở tương quan quyền lực chính trị giữa
các nhóm lợi ích khác nhau trong xã hội, phản ánh mức độ những nhu cầu chính
trị của quần chúng và áp lực chính trị lên giới cầm quyền. Điều này trực tiếp liên
quan đến những yêu cầu về sự ổn định chính trị, về tính minh bạch và dân chủ của
hệ thống nhà nước và về khả năng của giới cầm quyền trong việc tiếp nhận và
phản ánh những nhu cầu và lợi ích tự nhiên, vốn có của con người.
Từ khía cạnh tổ chức quyền lực, bảo đảm về chính trị biểu hiện ở cơ chế
hợp lý để vừa chế ngự nhà nước nhằm giảm tối đa sự vi phạm dân chủ vừa phát
huy tính trách nhiệm, tích cực của Nhà nước trong nghĩa vụ đảm bảo thực thi
quyền làm chủ của nhân dân. Theo đó, đặt ra trách nhiệm của Nhà nước phải kiềm
chế không can thiệp (trực tiếp hay gián tiếp) vào việc hưởng thụ các quyền con
người của cá nhân, liên quan trước hết đến các quyền chính trị và dân sự; trách
nhiệm của Nhà nước phải có những hành động tích cực dân chủ cơ sở được thực
hiện trên thực tế thông qua việc thể chế và đưa các quy định pháp luật về dân chủ
cơ sở vào cuộc sống; cũng như trách nhiệm của Nhà nước phải ngăn chặn các
hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân từ phía các chủ thể khác. Điều này
trực tiếp đặt ra yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền trong đó thừa nhận
56

nguyên lý chủ quyền nhân dân và ưu thế của pháp luật, biến pháp luật trở thành
đạo đức của Nhà nước, bằng việc ghi nhận tính bất khả xâm phạm các quyền và tự
do của công dân, đi đôi với tính tất yếu hoàn thiện các công cụ tổ chức nhà nước
mà trước hết là hoàn thiện các cơ quan nhà nước với tính cách là các công cụ bảo
hộ pháp lý đối với quyền lực nhân dân.
Bảo đảm về chính trị đối với thực hiện dân chủ cơ sở thể hiện còn ở năng
lực lãnh đạo của Đảng cầm quyền, cụ thể là của tổ chức đảng cơ sở trong lãnh đạo
thực thi dân chủ. Sự ảnh hưởng của Đảng được thể hiện ở lý luận của Đảng về dân
chủ, ở trí tuệ của lãnh tụ và các đảng viên của Đảng liên quan đến dân chủ, ở uy
tín, ở tính tổ chức chặt chẽ, khoa học, ở tác phong gương mẫu, ở lối sống và thực
thi dân chủ của các cá nhân đảng viên, mà đặc biệt là của người lãnh đạo. Nếu
Đảng không chú ý chăm lo cho việc thực thi dân chủ, củng cố phát triển dân chủ
thì vai trò cầm quyền, lãnh đạo của Đảng đối với việc thực thi dân chủ sẽ bị giảm
sút. Do vậy, các tổ chức đảng và các cá nhân đảng viên phải không ngừng nâng
cao nhận thức về dân chủ, về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung, về
dân chủ cơ sở nói riêng, về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với việc thực thi dân chủ
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền… Trên cơ sở đó, nâng cao bản
lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp trong lãnh đạo Nhà nước và xã hội
đối với vấn đề dân chủ cơ sở.
Trong bảo đảm về chính trị đối với dân chủ cơ sở thì văn hoá chính trị có
vai trò vô cùng quan trọng. Văn hóa chính trị thể hiện ở trình độ tư duy, nhận
thức, ở lương tâm, trách nhiệm, phong cách sống và lối ứng xử đúng đắn của giới
cầm quyền trong những vấn đề liên quan đến dân chủ cơ sở. Theo nghĩa đó, văn
hóa chính trị chính là nền tảng tinh thần và đạo đức cho những tư duy và hành
động sáng suốt của các nhà chính trị trong quá trình thực hiện dân chủ cơ sở trong
đời sống.
Thứ hai, bảo đảm về pháp lý
Trên thực tế, dân chủ với tư cách là tư tưởng, quan điểm, nguyên lý và dân
chủ cơ sở trong hiện thực có một khoảng cách rõ ràng. Bảo đảm pháp lý vừa đóng
vai trò thu hẹp khoảng cách đó, vừa tạo kênh dẫn cho các quyền pháp định đi vào
57

đời sống thông qua việc ghi nhận quyền trong pháp luật và thiết lập chu trình thực
hiện các quyền dân chủ.
Pháp luật, bằng việc ghi nhận các quyền dân chủ của con người đã chính
thức hóa, pháp lý hóa giá trị xã hội của các quyền đó. Những tư tưởng lớn, những
khám phá mới về dân chủ chỉ là không tưởng hoặc thủ đoạn mị dân nếu không được
biểu hiện dưới hình thức pháp luật. Kể cả khi chúng được thừa nhận, các quyền dân
chủ cũng không được mặc định áp dụng ở nhiều xã hội. Chỉ khi mang tính pháp lý,
dân chủ mới có đầy đủ giá trị hiện thực, được xã hội phục tùng, được quyền lực nhà
nước bảo vệ. Pháp luật chính là (và phải là) phương tiện thực hiện quá trình chuyển
hóa đó. Từ phương diện này, nhu cầu đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở đòi hỏi phải
thể chế hóa tư duy chính trị về dân chủ thành các quy định pháp luật cụ thể, phù hợp
với điều kiện và hoàn cảnh thực tế của quốc gia. Nói cách khác, một hệ thống pháp
luật được xem là nền tảng pháp lý thuận lợi cho việc thực hiện dân chủ cơ sở trước
hết phải là hệ thống pháp luật có được chỉ số ghi nhận tới mức tối đa các quyền dân
chủ tại cơ sở trong tương quan với các hoàn cảnh của quốc gia.
Tầm quan trọng số một của pháp luật trong ý nghĩa là đảm bảo thực hiện
dân chủ cơ sở còn ở chỗ pháp luật chính là phương tiện thúc đẩy và mang lại giá
trị hiện thực cho các đảm bảo khác. Các đảm bảo về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội… đều phải thông qua pháp luật, thể hiện dưới hình thức pháp luật mới trở
thành giá trị xã hội ổn định, được hiện thực hóa trên quy mô toàn xã hội và nhờ
vậy, mới phát huy được vai trò của mình trong việc bảo đảm thực hiện dân chủ nói
chung, dân chủ cơ sở nói riêng. Nếu xem xét từ phương diện này thì yêu cầu đặt ra
đối với hệ thống pháp luật là phải hiện diện ở tất cả các điều kiện khác, chế định
hóa môi trường chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa…, tạo cơ sở pháp lý cho các
điều kiện đó phát huy được vai trò và hiệu quả của chúng trong việc thực hiện dân
chủ cơ sở trên quy mô toàn xã hội và trong từng địa bàn cơ sở cụ thể. Từ góc độ
này, cũng có thể thấy tính chất đan xen, hòa quyện, tạo tiền đề cho nhau giữa các
đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở. Một cách diễn đạt khác cho thấy, bảo đảm thực
hiện dân chủ cơ sở là một quá trình, phụ thuộc vào tổng thể nhiều điều kiện, trong
đó pháp luật có vị trí, vai trò và tầm trọng đặc biệt.
58

Thứ ba, bảo đảm về nguồn lực (nguồn lực vật chất và nguồn nhân lực)
Thực hiện dân chủ, nhất là dân chủ trực tiếp đòi hỏi những chi phí không
nhỏ về mặt vật chất và thời gian, công sức. Do vậy, nội dung, phương thức và điều
kiện thực thi dân chủ nói chung, dân chủ cơ sở nói riêng luôn phụ thuộc vào các
điều kiện kinh tế ở mỗi thời kì phát triển nhất định.
Điều kiện kinh tế đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở là một phổ rộng gồm nhiều
yêu cầu, trong đó biểu hiện rõ nét nhất là trình độ phát triển của nền kinh tế bộc lộ
qua các chỉ số đánh giá mức độ tăng trưởng, mức độ thu hẹp sự chênh lệch giàu
nghèo, mức độ ổn định của chu kỳ tăng trưởng, mức độ an toàn của môi trường kinh
tế đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững, mức độ kết hợp phát triển kinh tế với đảm
bảo an sinh xã hội… Các yêu cầu này càng đạt được ở trình độ cao thì càng tạo ra cơ
sở vật chất thuận lợi cho khả năng biến các quyết tâm chính trị về thực hiện dân chủ
cơ sở và các quyền pháp định của con người thành hiện thực. Mặc dù, giữa phát triển
kinh tế với đảm bảo dân chủ không hoàn toàn là một tương quan thuận chiều, bởi trên
thực tế, có những quốc gia đạt được trình độ phát triển và mức độ tăng trưởng kinh tế
cao nhưng tình trạng vi phạm dân chủ vẫn diễn ra phổ biến.
Trong thế giới đương đại, việc tạo lập điều kiện kinh tế đảm bảo thực thi
dân chủ gắn liền với tính tất yếu phát triển nền kinh tế hàng hóa vận động theo cơ
chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng - con đường ngắn nhất để đem
lại những thành công về kinh tế ở mỗi quốc gia. Từ phương diện này cũng có thể
nói, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là điều kiện
kinh tế cho đảm bảo thực hiện dân chủ. Như vậy, mặc dù không thể chờ đến khi
có một nền kinh tế phát triển với một nguồn vật chất dồi dào mới thực hiện dân
chủ nhưng phát huy dân chủ cơ sở phải song hành với thúc đẩy kinh tế phát triển,
nâng cao mức sống của nhân dân trên địa bàn cơ sở. Thiếu nền tảng kinh tế, dân
chủ cơ sở dễ rơi vào trạng thái hình thức. Bản thân cơ chế pháp lý là điều kiện để
thực hiện dân chủ nhưng đến lượt nó, để cơ chế này vận hành được lại phụ thuộc
vào điều kiện kinh tế và các nguồn lực khác để chuyển hoá nền dân chủ còn nhiều
biểu hiện hình thức sang nền dân chủ thực sự, thực tế và đầy đủ.
59

Cũng liên quan tới khía cạnh bảo đảm nguồn lực là vấn đề nguồn nhân lực
phục vụ quá trình triển khai cơ chế thực hiện dân chủ cơ sở. Trong mọi quá trình
chuyển biến của xã hội, con người luôn là nhân tố quyết định. Thực hiện dân chủ
cơ sở cần có một đội ngũ cán bộ, công chức nhiệt tình, có trách nhiệm, có uy tín
với cộng đồng, có năng lực và dám xả thân vì sự nghiệp dân chủ. Đội ngũ đó phải
được xây dựng, đào tạo và sử dụng trên cơ sở một chiến lược hướng tới dân chủ
và nhân quyền.
Thứ tư, bảo đảm về xã hội
Từ khía cạnh xã hội, điều kiện đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở đòi hỏi một
số chuẩn mực nhất định của văn hóa, trước hết là những chuẩn mực liên quan đến
trình độ nhận thức và hiểu biết về quyền dân chủ, mức độ phổ biến của quyền dân
chủ, mức độ sẵn sàng đối với việc thực thi nhân quyền, năng lực vận dụng công cụ
pháp luật bảo vệ quyền dân chủ, năng lực tiếp cận dựa trên quyền, năng lực kết hợp
thực hiện quyền với việc giải quyết các vấn đề của cuộc sống hàng ngày… Trên thực
tế, trình độ dân trí nói chung, văn hóa thực thi dân chủ nói riêng là điều kiện tinh thần
rất quan trọng quyết định mức độ thực thi dân chủ cơ sở. Sự thiếu vắng hoặc hạn chế
trong hiểu biết và năng lực vận dụng quyền dân chủ sẽ trở thành rào cản làm vô hiệu
hóa ở các chừng mực khác nhau đối với cả luật pháp, cả những điều kiện cơ sở vật
chất đảm bảo thực hiện dân chủ. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc chờ
đợi có đủ trình độ dân trí mới thực hiện dân chủ.Về mặt phương pháp, nếu muốn có
dân chủ thật sự thì dân chúng phải được thực hành ngay trong đời sống chính trị -
pháp lý. Nói cách khác, người dân hoàn toàn có thể thực hiện được quyền dân chủ tại
cơ sở ngay cả khi có thể dân trí chưa cao. Quá trình thực hiện dân chủ cơ sở cũng
chính là quá trình nâng cao dân trí, văn hóa nhân quyền.
Ở bình diện rộng lớn hơn, điều kiện xã hội để thực hiện dân chủ cơ sở
chính là một xã hội cởi mở, dân chủ, minh bạch của hợp thể các công dân tự do,
công dân trưởng thành - công dân có tính tích cực chính trị, tính tích cực công dân.
Điều này cũng liên quan đến việc thừa nhận và đề cao tính trách nhiệm của xã hội
đối với việc bảo đảm thực thi các quyền dân chủ. Có thể nói nhận thức của xã hội
về dân chủ, dân chủ cơ sở, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở có ảnh hưởng
60

rất lớn đến việc thúc đẩy quá trình hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ
sở. Khi các nhà nhà lãnh đạo, quản lý, đội ngũ trí thức, đặc biệt là của các luật gia,
các tầng lớp nhân dân có những nhận thức đúng đắn, cần thiết về dân chủ nói
chung, về dân chủ cơ sở nói riêng họ sẽ có những cố gắng trong việc phải quy
định, củng cố dân chủ, thực hành đầy đủ các nghĩa vụ và quyền hạn trong các hoạt
động nhà nước và xã hội trên địa bàn cơ sở.
Ngoài các điều kiện nói trên, các yếu tố về lịch sử, dân tộc, đạo đức, tôn
giáo, phong tục, tập quán cũng có vai trò nhất định tác động, ảnh hưởng đến từng
bộ phận hay toàn thể cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở. Sự phù hợp đó có ý
nghĩa tạo ra sự đồng bộ, thống nhất giữa thể chế và thiết chế, giữa nội dung,
phương thức và các điều kiện bảo đảm để tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý thực
hiện dân chủ cơ sở.

2.4. TIÊU CHÍ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC HIỆN DÂN CHỦ
CƠ SỞ
Tiêu chí là những chuẩn mực, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp loại
một sự vật, hiện tượng. Tiêu chí hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở
là những dấu hiệu, chuẩn mực dựa vào đó để nhận biết, đánh giá được mức độ đạt
được của cơ chế là tốt hay chưa tốt, đạt hay chưa đạt, thể hiện mức độ tác động
của cơ chế đối với việc hiện thực hóa quyền làm chủ của nhân dân tại cơ sở. Xác
định tiêu chí hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở có ý nghĩa hết sức
quan trọng cả về lý luận và thực tiễn trong quá trình xây dựng pháp luật, thúc đẩy
quyền dân chủ và tạo lập các điều kiện thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta hiện
nay. Những tiêu chí đó, xét về mặt lý thuyết là những yếu tố làm nên giá trị của hệ
thống, xét về mặt thực tiễn, là những điều kiện đòi hỏi công tác xây dựng pháp
luật phải đáp ứng để bảo đảm và phát huy vai trò của cơ chế pháp lý thực hiện dân
chủ cơ sở trong thực tiễn.
2.4.1. Tính toàn diện của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở
Tính toàn diện là tiêu chuẩn cơ bản thể hiện mức độ hoàn thiện của hệ
thống pháp luật nói chung, của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở nói riêng.
Tính toàn diện là tiêu chuẩn để định lượng pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở,
61

có ý nghĩa quan trọng nhằm tiếp tục nghiên cứu để xác định tiêu chuẩn về định
tính của cơ chế thực hiện dân chủ cơ sở.
Tính toàn diện của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở bao gồm sự toàn
diện về cấu trúc và sự đầy đủ về nội dung của cơ chế.
Về cấu trúc, tính toàn diện của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đặt
ra yêu cầu về mức độ bao phủ của pháp luật đối với các thành tố hợp thành cơ chế:
nguyên tắc thực hiện dân chủ cơ sở, thể chế thực hiện dân chủ cơ sở, thiết chế
thực hiện dân chủ cơ sở, các đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở. Thiếu sự điều
chỉnh pháp luật đối với các thành tố cơ bản nói trên, cơ chế pháp lý thực hiện dân
chủ cơ sở rơi vào tình trạng khiếm khuyết, rất khó vận hành hoặc vận hành không
đạt hiệu quả mong muốn.
Trên thực tế, mức độ bao phủ của pháp luật đối với các thành tố hợp thành
cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở không hoàn toàn đồng nghĩa với việc phải
thiết lập những văn bản quy phạm pháp luật độc lập ghi nhận từng thành tố. Tuy
nhiên, yêu cầu đặt ra là các thành tố phải được ghi nhận đầy đủ, phải hợp thành hệ
thống, tạo thành một chỉnh thể, các thành tố nằm trong cơ chế và là một phần của
cơ chế hướng tới thực hiện mục tiêu hiện thực hóa quyền làm chủ của người dân
tại cơ sở.
Về nội dung, tính toàn diện của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đặt ra
yêu cầu về mức độ ghi nhận đầy đủ các nguyên tắc, các quyền và khả năng thực
hiện quyền của người dân tại cơ sở, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của
các thiết chế tham gia thực hiện dân chủ cơ sở, các điều kiện đảm bảo và cách thức
tạo lập, sử dụng các điều kiện đảm bảo trong quá trình thực hiện dân chủ cơ sở.
Pháp luật phải là công cụ không chỉ để nhân dân làm chủ, mà còn để xử lí các văn
bản, các hành vi vi phạm dân chủ, ảnh hưởng xấu đến quyền, lợi ích của nhân dân
tại cơ sở.
Liên quan đến vấn đề nói trên, có hai khía cạnh tác động quan trọng: 1/
nguồn của pháp luật Việt Nam khá đa dạng về thể loại và vì do nhiều cấp có thẩm
quyền ban hành nên có hiệu lực pháp lý khác nhau. Trong hoạt động quản lý cũng
như trong hoạt động xét xử của Tòa án, các viên chức nhà nước, các thẩm phán
thường làm nhiệm vụ áp dụng pháp luật đúng như tinh thần và lời văn của pháp
62

luật. Điều này, một mặt đòi hỏi nâng cao tính pháp điển của hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật về dân chủ cơ sở, mặt khác, hoạt động xây dựng pháp luật cần
hướng tới việc tạo ra không gian rộng rãi hơn cho sự sáng tạo trong quá trình áp
dụng pháp luật trên nền của những nguyên tắc chung thống nhất; 2/ pháp luật Việt
Nam thường xuyên thay đổi, thiếu ổn định. Đây là hệ quả tất yếu của quá trình đổi
mới đất nước với việc xuất hiện tư duy pháp lý và những quan hệ xã hội mới.
Thực tế đó đặt ra yêu cầu phải thiết kế chương trình và chính sách pháp luật về
dân chủ cơ sở một cách mạch lạc theo từng thời gian, theo cấp có thẩm quyền…
để đảm bảo quá trình điều chỉnh pháp luật về dân chủ cơ sở không bị chệch hướng
về nội dung.
Quan điểm định hướng cho việc đảm bảo tính toàn diện về nội dung của cơ
chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là sự thừa nhận nguyên tắc tất cả quyền lực
thuộc về nhân dân - xem đó là nguyên tắc quan trọng nhất của điều chỉnh pháp
luật về dân chủ cơ sở. Nhân dân - người sáng tạo ra lịch sử, là nguồn gốc của
quyền lực, là chủ thể của quyền lực nhà nước, họ phải được quyền trực tiếp hoặc
gián tiếp tham gia vào quá trình tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Đồng thời
nhân dân còn có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, bộ
máy của các tổ chức xã hội khác. Nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân được
thể hiện trên các phương diện cơ bản là: 1/ Nhân dân được quyền tham gia đông
đảo và tích cực vào việc thành lập bộ máy nhà nước và bộ máy các tổ chức xã hội.
Pháp luật phải tạo cơ sở pháp lý để nhân dân thể hiện ý chí, phát huy quyền làm
chủ của mình, trực tiếp bầu ra các cơ quan đại diện cho mình và thông qua hệ
thống cơ quan đại diện đó để lập ra các cơ quan chấp hành, điều hành và các cơ
quan khác. Như vậy, quyền lực nhà nước cũng như quyền lực của các tổ chức xã
hội khác đều xuất phát từ nhân dân, thể hiện ý chí của nhân dân và thuộc về nhân
dân; 2/ Nhân dân được quyền tham gia quản lý và quyết định những công việc
trọng đại của Nhà nước và xã hội. Pháp luật quy định cho công dân quyền tham
gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước
và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức
trưng cầu ý dân. Đây là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng, bởi sự tham gia đông
63

đảo của nhân dân vào quản lý các công việc nhà nước và xã hội là cơ sở để nhân
dân trực tiếp phát huy sức lực, trí tuệ, vai trò làm chủ của mình trong quản lí nhà
nước và xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, cá nhân. Sự tham gia của
nhân dân vào quản lí nhà nước được coi là phương pháp tuyệt diệu, bởi "dễ trăm
lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong"; 3/ Pháp luật cần tạo cơ
chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ
quan nhà nước, cơ quan các tổ chức xã hội, nhân viên nhà nước, các cá nhân khác
được trao cho những quyền hạn nhất định để quản lí các công việc của Nhà nước
và xã hội. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, đồng thời là một trong những phương
pháp bảo đảm cho bộ máy nhà nước và bộ máy các tổ chức xã hội hoạt động đúng
mục đích, phục vụ và bảo vệ lợi ích của nhân dân, chống những biểu hiện tiêu cực
như quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, xa rời quần chúng của đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức; 4/ Pháp luật quy định trách nhiệm của các cơ quan
nhà nước, nhân viên nhà nước trong việc tôn trọng, bảo đảm nguyên tắc quyền lực
nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như những hình
thức tham gia của nhân dân vào việc thiết lập bộ máy nhà nước, tham gia quyết
định những vấn đề quan trọng của đất nước và kiểm tra giám sát hoạt động của
các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước; 5/ Pháp luật cần quy định
những biện pháp để nhân dân có điều kiện nâng cao trình độ học vấn, chính trị,
pháp luật, quản lí, đồng thời nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân,
cung cấp thông tin đầy đủ để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra các hoạt
động của Nhà nước và xã hội nói chung, tại địa bàn cơ sở nói riêng.
Trên tinh thần đó, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phải bao hàm sự
ghi nhận của pháp luật ở những điểm cơ bản sau:
- Xác lập phạm vi các quyền cụ thể của người dân tại cơ sở dựa trên phương
châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”; quy định các quyền tự
do, dân chủ trong sinh hoạt chính trị, bảo đảm cho người dân làm chủ về mặt chính
trị; xác lập và thực hiện quyền dân chủ thông qua chế độ bầu cử người đại diện; xác
lập quyền của nhân dân bày tỏ ý kiến, kiến nghị, thảo luận một cách dân chủ, bình
đẳng các vấn đề nảy sinh tại cơ sở; xác lập các quyền cụ thể của người dân được
64

trực tiếp hoặc thông qua thiết chế đại diện thực hiện kiểm tra, giám sát đối với bộ
máy Đảng và Nhà nước tại cơ sở.
- Xác lập các trình tự, thủ tục minh bạch để nhân dân thực hiện các quyền dân
chủ cụ thể tại cơ sở. Đây là yếu tố rất quan trọng vì thực tế cho thấy, các quyền dân
chủ sẽ không thể được hiện thực hóa nếu thiếu các thủ tục cần thiết để thực hiện.
- Quy định chặt chẽ, chính xác nhiệm vụ, quyền hạn của các thiết chế quyền
lực tại cơ sở, hạn chế tình trạng lạm quyền, độc đoán, chuyên quyền, vi phạm các
quyền tự do dân chủ từ phía các chủ thể cầm quyền. Quy định cụ thể về mối quan
hệ giữa các thiết chế được ủy quyền lực với người chủ quyền lực là nhân dân tại địa
bàn cơ sở.
- Ghi nhận trách nhiệm cụ thể của bộ máy Đảng, Nhà nước và xã hội đối với
việc tạo lập các bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở. Quy định cách thức vận hành của
các bảo đảm đó.
2.4.2. Tính đồng bộ của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở
Tính đồng bộ của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở cần được nhận diện
ở hai mức độ: 1/ Tính đồng bộ bên ngoài, tức là khả năng “đồng hành”, khả năng
tương thích của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở với các hệ thống, các cơ chế
và giá trị xã hội khác được biểu hiện về mặt pháp luật và 2/ Tính đồng bộ giữa các
thành tố bên trong của cơ chế, từ các quy định pháp luật đến thực tiễn pháp luật và
nhận thức pháp luật của xã hội.
Về tính đồng bộ bên ngoài, tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ chế
pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đặt ra yêu cầu về sự liên quan và thống nhất giữa
các lĩnh vực thuộc hệ thống pháp luật hướng vào mục tiêu ghi nhận và phát huy
ngày càng đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Hệ thống pháp luật và toàn bộ quá
trình thực thi pháp luật phải xuất phát từ tinh thần dân chủ. Các quy định của Hiến
pháp năm 2013 là cơ sở của sự đồng bộ đó. Trên nền của Hiến pháp, quá trình xây
dựng pháp luật phải cụ thể hóa được tinh thần nguyên lý chủ quyền nhân dân trong
tất cả các lĩnh vực pháp luật. Theo đó, hệ thống pháp luật phải đảm bảo sự đầy đủ,
cân đối, khắc phục tư duy bao cấp, sự mâu thuẫn, chồng chéo và tính “tuyên ngôn”,
tăng cường tính dự báo, tính ổn định, tính phù hợp, tạo ra các bảo đảm thực tế để
dân chủ được thực hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
65

Về tính đồng bộ bên trong, tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ chế
pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đặt ra yêu cầu trước hết về sự đồng bộ giữa pháp
luật nội dung và pháp luật thủ tục, giữa các văn bản ghi nhận quyền và khả năng,
phương thức thực hiện quyền của người dân với các luật về tổ chức và hoạt động
của chính quyền địa phương, của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, của
các thiết chế khác liên quan đến thực hiện dân chủ cơ sở. Sự đồng bộ của hệ thống
pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở còn được thể hiện ngay trong mỗi văn bản, ở sự
thống nhất các quy phạm và giữa các chế định pháp luật trong các quan hệ được cấu
trúc tạo ra logic nhất quán trong việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá
trình thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở.
Tính đồng bộ bên trong của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đòi hỏi
thiết lập mối liên hệ chặt chẽ, chi phối, tác động lẫn nhau giữa các yếu tố cấu thành
cơ chế, cùng nhau quyết định hiệu quả hoạt động của toàn bộ cơ chế. Mỗi một bộ
phận (thành tố) của cơ chế cần được xác định một cách chặt chẽ, đảm bảo tính liên
kết, nhưng vẫn có tính độc lập tương đối trong hoạt động của mình. Mỗi thành tố
của cơ chế đảm trách một chức năng, nhiệm vụ khác nhau tạo nên tính đa dạng
trong thống nhất của cơ chế. Để cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở vận hành có
hiệu lực, hiệu quả thì cần xác định và tổ chức một cách khoa học, chính xác, khả thi
ngay từ các chi tiết của từng thành tố trong cơ chế.
Yếu tố nguyên tắc đóng vai trò quyết định hướng tổ chức và vận hành của cơ
chế, đảm bảo bản chất và tính gắn kết của cơ chế. Các nguyên tắc cơ bản phải được
ghi nhận chính thức trong các văn bản pháp luật điều chỉnh việc thực hiện dân chủ
cơ sở đồng thời tinh thần của các nguyên tắc phải được thể hiện trong tất cả các quy
phạm, chế định pháp luật liên quan đến dân chủ sơ sở. Trong đó, nguyên tắc đóng
vai trò chi phối là nguyên tắc “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” đã được Hiến
pháp năm 2013 hiến định tại điều 2.
Yếu tố thể chế có vai trò then chốt, là cơ sở, căn cứ pháp lý chi phối việc
hình thành các thiết chế và xác lập các khả năng, điều kiện bảo đảm cho việc hoàn
thiện và hoạt động của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở. Thể chế của cơ chế
pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở có mối liên hệ mật thiết, phụ thuộc và chịu sự chi
66

phối, quyết định của thể chế chính trị, pháp lý. Do đó, khi thể chế chính trị, thể chế
pháp lý có sự thay đổi thì thể chế của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở cũng
phải thay đổi theo. Sự thay đổi của thể chế kéo theo sự thay đổi của hệ thống thiết
chế và các bảo đảm cho cơ chế hoạt động. Sự thay đổi có thể theo hướng tích cực
và tiêu cực. Hướng tích cực đòi hỏi phải hoàn thiện và dân chủ hoá nội dung các thể
chế, tạo điều kiện để các yếu tố thiết chế và bảo đảm chính trị, pháp lý, kinh tế- xã
hội được phát triển tương ứng, phù hợp giúp toàn bộ cơ chế hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả. Hướng tiêu cực là thể chế không chịu đổi mới phù hợp với xu thế phát
triển dân chủ, pháp quyền, không mở rộng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
trì trệ, bảo thủ thì các yếu tố về thiết chế và bảo đảm không có điều kiện hoàn thiện
và hoạt động tốt, dân chủ tại cơ sở sẽ không được phát huy.
Yếu tố thiết chế có vai trò hiện thực hoá quy định của thể chế bằng thiết lập
cấu trúc tổ chức và hoạt động tương ứng với yêu cầu thực hiện các quyền dân chủ
tại cơ sở. Các thiết chế vận hành, hoạt động trong khuôn khổ quy định của pháp luật
luôn có xu thế phát triển, mở rộng ra ngoài pháp luật, vì vậy, các thiết chế của cơ
chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở có thể là một trật tự pháp lý, một trật tự điều lệ
hay hỗn hợp, đó còn là các tổ chức và các hình thức dân chủ khác của nhân dân và
mang tính nhân dân, xã hội tác động thường xuyên vào hoạt động thực thi dân chủ.
Các thiết chế hoạt động, tương tác với nhau tác động trực tiếp đến quyền làm chủ
của nhân dân tại cơ sở và chỉ có hiệu quả khi có các điều kiện bảo đảm tương ứng,
do đó thiết chế có tác động trở lại trong việc hoàn thiện thể chế và các bảo đảm cho
cơ chế hoạt động.
Yếu tố bảo đảm chính trị, pháp lý, kinh tế - xã hội cho cơ chế pháp lý thực
hiện dân chủ cơ sở hoạt động có vai trò làm căn cứ cho việc xây dựng, hoàn thiện
thể chế, là nguồn lực để các thiết chế duy trì bộ máy và tổ chức hoạt động, đồng
thời là cơ sở và điều kiện để thiết lập, vận hành toàn bộ cơ chế nhằm đạt được mục
đích kiểm soát quyền lực nhà nước. Không có các bảo đảm thì thể chế chỉ tồn tại
trên văn bản và thiết chế chỉ hoạt động trên lý thuyết. Các bảo đảm là nhân tố để
hiện thực hoá quy định của thể chế, hiệu quả hoá hoạt động của thiết chế và ngược
lại thể chế, thiết chế lại có vai trò tác động, quy định và làm cho các bảo đảm ngày
67

càng hoàn thiện, đầy đủ hơn tạo điều kiện để toàn bộ cơ chế được vận hành, hoạt
động đạt được mục đích, yêu cầu đề ra.
2.4.3. Tính phù hợp, khả thi của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở
Tính phù hợp của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là tiêu chí về nội
dung bên trong của cơ chế. Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở được coi là
hoàn thiện phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về mặt nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, phù hợp với quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về phát
huy nền dân chủ XHCN.
Thứ hai, phù hợp với các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội tồn tại một
cách khách quan. Yêu cầu về tính phù hợp của cơ chế thể hiện sự tương quan giữa
trình độ của pháp luật về dân chủ với sự phát triển nền kinh tế, chính trị, văn hóa -
xã hội ở mỗi thời kỳ phát triển và hệ thống pháp luật nói chung, cũng như ở tương
quan giữa yêu cầu về quyền làm chủ tại cơ sở với khả năng hiện thực hóa các
quyền dân chủ.
Thứ ba, phù hợp với những nguyên tắc, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay.
Thứ tư, phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực của quốc tế về dân chủ, nhân
quyền. Tiêu chí này đòi hỏi cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phải được thiết
kế phù hợp với các nguyên tắc,chuẩn mực dân chủ trên thế giới, tiếp thu có chọn lọc
kinh nghiệm của các nước trong việc điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ xã hội
phát sinh trong thực hiện dân chủ cơ sở, bảo đảm cho hệ thống pháp luật về dân chủ
cơ sở của Nhà nước trở thành cầu nối hội nhập quốc tế về dân chủ, đồng thời phải
phù hợp với truyền thống và điều kiện kinh tế, chính trị của Việt Nam.
Tính phù hợp của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là căn cứ đảm bảo
tính khả thi của cơ chế. Mức độ hiện thực hóa cơ chế, hiệu quả vận hành của cơ chế
pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở tùy thuộc rất nhiều vào sự phù hợp của các thành tố
thuộc cơ chế. Vấn đề còn lại liên quan đến năng lực tổ chức của bộ máy quản lý và
tính tích cực chính trị của công dân. Điều này, đến lượt nó lại phụ thuộc vào quá
trình tổ chức thực tiễn phản ánh khả năng phối, kết hợp các thành tố của cơ chế
hướng vào mục tiêu dân chủ hóa đời sống xã hội tại cơ sở.
68

2.4.4. Tính minh bạch và khả năng tiếp cận của cơ chế pháp lý thực hiện
dân chủ cơ sở
Tính minh bạch của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là một đòi hỏi
không thể thiếu của nền dân chủ và của chế độ pháp quyền.
Yêu cầu về sự minh bạch của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở thể
hiện trước hết ở sự rõ ràng, rành mạch trong việc ban hành và áp dụng, thực hiện
các quy định pháp luật liên quan đến dân chủ cơ sở. Biểu hiện cụ thể là ở sự công
khai, chính xác, mục đích rõ ràng của các cơ quan ban hành pháp luật và cơ quan tổ
chức thực thi pháp luật và quan trọng hơn đó là gắn những bảo đảm để người dân
có thể tiếp cận với các quy định của pháp luật để tham gia tích cực vào các quan hệ
pháp luật.
Theo đó, tính minh bạch của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở liên
quan đến nhu cầu nâng cao năng lực lập pháp nói chung, trình độ kỹ thuật lập pháp
nói riêng. Điều này đòi hỏi quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật thực hiện
dân chủ cơ sở phải được tiến hành theo những nguyên tắc tối ưu, xác định chính xác
cơ cấu nội tại của pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở, được biểu đạt bằng ngôn
ngữ pháp lý rõ ràng, cô đọng, logic, chính xác và một nghĩa, đồng thời mang tính
phổ thông và ổn định cao. Việc bảo đảm kỹ thuật lập pháp là điều kiện quan trọng
để thể hiện được một cách minh bạch ý chí của chủ thể ban hành pháp luật, bảo đảm
tính chính xác về nội dung, bảo đảm văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện dân
chủ cơ sở dễ hiểu, thống nhất và dễ thực hiện.
Tính minh bạch của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở với yêu cầu về
sự công khai cũng liên quan đến quá trình phổ biến và cập nhật của các quy định
pháp luật. Các văn bản pháp luật về dân chủ, đặc biệt là dân chủ cơ sở cần được phổ
biến rộng rãi và kịp thời tới mọi tầng lớp nhân dân thông qua công tác tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật hiệu quả. Từ khía cạnh này, vai trò quan trọng thuộc về
các phương tiện truyền thông, hệ thống giáo dục quốc dân và các nhóm xã hội. Đây
cũng là con đường khả thi nhất để đảm bảo khả năng tiếp cận của người dân đối với
cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở và là một trong những căn cứ đảm bảo hiệu
quả của cơ chế.
69

Tính minh bạch của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở gắn với yêu cầu
về khả năng kiểm tra, giám sát của người dân đối với toàn bộ quá trình thực hiện
dân chủ cơ sở. Thể chế dân chủ cơ sở phải đảm bảo cho người dân giám sát được
việc quản lý sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước, những việc nhân dân được
bàn chính quyền quyết định, những việc nhân dân trực tiếp quyết định, những việc
nhân dân đề xuất chính quyền xem xét quyết định, đồng thời giám sát được trách
nhiệm của các thiết chế thuộc hệ thống chính trị cơ sở trong phát huy quyền làm
chủ của người dân. Pháp luật phải phân định rõ chức năng, thẩm quyền của các cơ
quan làm công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở, quy
định cụ thể các loại hành vi vi phạm trong thực hiện dân chủ cơ sở phải bị xử lý,
quy định cụ thể hình thức xử lý kỷ luật đối với từng loại hành vi vi phạm cụ thể…
2.4.5. Mức độ tác động của cơ chế thực hiện dân chủ cơ sở đối với đời
sống vật chất và tinh thần của cộng đồng dân cư tại cơ sở
Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở không chỉ phụ thuộc vào
mức độ hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở về hình thức và nội dung
pháp luật mà còn thể hiện ở hiệu quả tác động của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ
cơ sở đối với đời sống dân chủ ở cơ sở nói riêng, sự phát triển của đất nước nói
chung. Nói cách khác, mức độ tác động của cơ chế chính là tiêu chí thực tiễn quan
trọng để đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở.
Hiệu quả của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở có nhiều biểu hiện và
được đánh giá bởi nhiều tiêu chí thành phần nhưng biểu hiện căn bản nhất là ở sự
thay đổi theo chiều hướng tích cực của các quan hệ xã hội ở cơ sở, lấy người dân và
yêu cầu bảo đảm các quyền cơ bản của người dân là trung tâm. Từ phương diện
này, hiệu quả của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phải được đánh giá gắn
liền với hiệu quả hoạt động của chính quyền và các các thiết chế khác trong hệ
thống chính trị cơ sở đối với việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
tại địa phương. Xét đến cùng thì hiệu quả của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ
sở phải được đánh giá thông qua những thay đổi trong đời sống vật chất và tinh thần
của người dân tại cơ sở, ở sự hài lòng của người dân về chính quyền của họ và ở
thái độ của họ đối với các vấn đề chung của cộng đồng và của đất nước.
70

Tiểu kết chương 2

Nhận diện những vấn đề lý luận cơ bản về cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ
cơ sở là tiền đề cho việc triển khai đánh giá thực trạng cơ chế pháp lý thực hiện dân
chủ cơ sở và đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân
chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
Kết quả nghiên cứu tại chương 2 của luận án cho thấy có nhiều cách hiểu
rộng, hẹp khác nhau về dân chủ cơ sở và cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở.
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách tổng quát nhất, dân chủ cơ sở là sự phản ánh vị thế
quyền lực của nhân dân trên địa bàn cơ sở. Thực hiện dân chủ ở cơ sở là toàn bộ
quá trình hiện thực hóa các quyền thể hiện sự tham gia của công dân vào chu trình
thực hiện quyền lực tại cơ sở. Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là tổng thể
các nguyên tắc, thể chế, thiết chế và các điều kiện đảm bảo, gắn kết với nhau, hợp
thành hệ thống, do pháp luật quy định, nhằm xác lập các quyền và khả năng để nhân
dân thực hiện quyền làm chủ tại cơ sở. Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở có
những đặc điểm riêng và có vai trò quan trọng trong quá trình phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, đồng thời chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong đời sống hiện
thực của mỗi quốc gia.
Phúc đáp yêu cầu của chủ đề tài luận án, chương 2 dành điểm nhấn vào việc
nêu và phân tích các tiêu chí hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở. Căn
cứ vào các thành tố của cơ chế, các tiêu chí hoàn thiện cơ chế được xác định bao
gồm: tính toàn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp và khả thi, tính minh bạch và dễ tiếp
cận, mức độ tác động của cơ chế đối với đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
tại địa bàn cơ sở. Các tiêu chí này liên hệ chặt chẽ với nhau, trở thành những yêu
cầu cơ bản và bắt buộc của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở trong trật tự nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
71

Chương 3
THỰC TRẠNG CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG CÁC NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN DÂN CHỦ
CƠ SỞ
3.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về dân chủ và
xây dựng cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở
Ở Việt Nam, trước khi có sự ra đời của Nhà nước cách mạng, chưa có một
thể chế dân chủ chính thức nào. Có chăng chỉ tồn tại những giá trị dân chủ nhất định
thể hiện trong không gian của làng xã mang tính chất "dân chủ làng xã". Tuy nhiên,
ước vọng về dân chủ và thực hiện dân chủ luôn là chủ đề nhận thức của các nhà tư
tưởng cách tân trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc.
Tư tưởng về một nền dân chủ đích thực, mọi quyền lực thuộc về nhân dân,
xem dân chủ như là bảo bối để đem lại tự do, hạnh phúc, cơm ăn, áo mặc cho người
dân, đem lại sự phát triển phồn vinh và ổn định cho đất nước… đã được định hình
và thể hiện rõ nét nhất trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh không dùng những lý luận cao xa để diễn giải về dân chủ nhưng
vẫn có thể thấy sự nhất quán và có hệ thống qua các bài nói và viết của Người về địa
vị và quyền làm chủ của nhân dân. Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, trong khái
niệm về dân chủ, vấn đề nhất quán và sáng tỏ nhất là sự khẳng định “bao nhiêu lợi
ích đều vì dân”,“quyền hành”, “trách nhiệm, lực lượng” là “của dân”, “đều ở nơi
dân”. Hồ Chí Minh đã nêu một mệnh đề cô đọng, súc tích: “Chế độ ta là chế độ dân
chủ, tức là nhân dân là người chủ”. Trong mệnh đề này chứa đựng đầy đủ nội dung
dân chủ là của con người, do con người và vì con người. Con người là chủ thể của
nền dân chủ và nền dân chủ với tư cách như một thể chế chính trị phải lấy con người
làm nhân tố chủ đạo, phải đặt con người ở vị trí trung tâm trong các chính sách phát
triển của mình. Nền dân chủ mà Người đã dành cả cuộc đời đấu tranh để giành lấy và
vun đắp cho nhân dân là một nền dân chủ hiện thực từ những biểu hiện nhỏ nhất, gần
gũi với con người nhất, sát sườn nhất với lợi ích của người dân.
Trong khi khẳng định dân chủ là thành quả to lớn mà cách mạng đem lại cho
mỗi người dân, Hồ Chí Minh cũng luôn đề cập đến trách nhiệm của mỗi người dân
72

trong việc xây dựng nền dân chủ. “Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa
vụ làm tròn bổn phận công dân”. Bổn phận công dân được nhắc đến ở đây là bổn
phận công dân của một thể chế dân chủ nhân dân, bổn phận công dân trong một xã
hội do nhân dân làm chủ.
Khi chỉ ra những yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể đối với từng đối tượng là những
giai cấp, thành phần xã hội khác nhau để thực hành dân chủ một cách thiết thực và
hiệu quả, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến quyền dân chủ theo từng địa vị xã hội của
họ. Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi sự phấn đấu của mọi người để đạt đến một nền dân
chủ thực sự, hiện hữu trong thực tiễn. Người thường nhắc đến vai trò “người chủ
đất nước” của mọi người dân trong các ngành, các giới. Hồ Chí Minh cũng thường
xuyên chú trọng tạo dựng một môi trường dân chủ để dân dám “mở miệng”. Người
chủ trương: “Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết”…
đồng thời Người thường xuyên và kiên quyết chống lại những biểu hiện mất dân
chủ, xâm phạm tới quyền dân chủ của nhân dân: quan liêu, tham ô, lãng phí, chuyên
quyền độc đoán, xa dân...
Đảng ta ngay từ khi ra đời đã khẳng định Đảng không có lợi ích nào khác
ngoài đem lại lợi ích cho nhân dân. Dân chủ là động lực và mục tiêu phấn đấu
của Đảng. Trung thành với tư tưởng dân chủ do Hồ Chí Minh khởi xướng, trong
cương lĩnh đường lối, chủ trương, chính sách của mình, Đảng ta luôn nhận thức
rằng: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng và nhân dân là chủ thể tối cao của
quyền lực nhà nước. Mặc dầu vậy, trong hoàn cảnh đặc thù của thời kỳ tiến hành
hai cuộc chiến tranh giữ nước và thực hiện cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, quan
điểm về dân chủ và dân chủ cơ sở của Đảng ta đã không được hiện thực hóa đầy đủ
do thiếu các điều kiện cần thiết.
Trong quá trình đổi mới đất nước, các nghị quyết Đại hội VI, VII, VIII, IX,
X, XI, XII của Đảng ngày càng nhất quán khẳng định quan điểm về việc xây dựng
chế độ dân chủ XHCN và đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (năm 1991) cũng đã chỉ ra tiêu chí,
mô hình nền dân chủ XHCN. Mô hình này rõ nét hơn trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung phát triển năm 2011): "xã hội xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh" do nhân dân làm chủ" [38, tr.70].
73

Bước tiến quan trọng trong việc nhận thức về dân chủ của Đảng ta thể hiện
qua những luận điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Đảng ta đã thẳng thắn thừa nhận những thiếu sót, sai lầm trong
việc thực hành dân chủ như: Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý:
chưa được thể chế hóa thành cơ chế; việc lựa chọn, bố trí cán bộ: chưa chú ý lắng
nghe ý kiến của quần chúng; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ; về mặt tổ chức:
đã để cho bộ máy nhà nước, bộ máy của Đảng và các đoàn thể phình ra quá lớn; bộ
máy cồng kềnh, phong cách quan liêu, vi phạm dân chủ, thậm chí vi phạm nghiêm
trọng quyền làm chủ của nhân dân, v.v..
Thứ hai, Đảng ta đã chỉ ra nguyên nhân dẫn đến những thiếu sót sai lầm đó
là: công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhìn chung vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu của việc thực hành dân chủ; nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể của
công cuộc đổi mới còn hạn chế, thiếu thống nhất; sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng,
quản lý, điều hành của Nhà nước trên một số lĩnh vực và một số vấn đề lớn chưa tập
trung, kiên quyết dứt điểm; tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu; năng lực, phẩm chất
của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn bất cập…
Thứ ba, trên cơ sở nhận ra những thiếu sót, sai lầm và tìm ra nguyên nhân
dẫn đến những thiếu sót, sai lầm đó, Đảng ta đã đề ra những chủ trương đúng đắn
về dân chủ, biểu hiện như sau:
1) Lấy dân làm gốc, tập trung và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đảng ta nhấn mạnh rằng: Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước
ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Mỗi chủ trương, chính sách
phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng của nhân dân. Đổi mới phải dựa vào nhân
dân, vì lợi ích của nhân dân.
2) Đảng ta coi dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất
nước, là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu và động lực của công
cuộc đổi mới. Đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa là do nhân dân làm chủ. Mục
tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt dân chủ.
3) Thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và xây dựng cơ chế cụ
thể để thực hiện phương châm đó. Bảo đảm dân chủ trong quá trình ra quyết định
74

và thực hiện các quyết định, phải thảo luận dân chủ. Thực hành dân chủ, giám sát
và phản biện xã hội.
4) Quyền làm chủ của nhân dân cần được thể chế hóa bằng pháp luật và tổ
chức. Dân chủ đi đôi với kỷ luật. Quản lý đất nước bằng pháp luật, chứ không phải
chỉ bằng đạo lý. Phải xây dựng pháp luật về Đảng. Dân chủ phải gắn với công bằng
xã hội. Dân chủ phải đi đôi kỷ cương, phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được
pháp luật bảo đảm. Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ
quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp; quyền con người và tự do cá nhân được đảm
bảo bằng pháp luật. Phát huy dân chủ đi liền với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng
cường pháp chế.
5) Nhân dân làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản, bằng
hướng dẫn, vừa thực hiện dân chủ trực tiếp, vừa thực hiện dân chủ đại diện.
6) Thực hiện quy chế dân chủ trong nghiên cứu và sáng tạo khoa học. Bảo
đảm tự do, dân chủ cho mọi sáng tạo văn hóa, văn học, nghệ thuật. Thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở và ban hành pháp lệnh dân chủ cơ sở; v.v…
7) Phải thực hành dân chủ trong Đảng. Đảng phải đặc biệt chăm lo, củng cố
sự liên hệ giữa Đảng và nhân dân, khắc phục chủ nghĩa quan liêu, phải thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ. Các cơ quan nhà nước phải tôn trọng và bảo đảm
những quyền công dân. Diệt trừ các tệ hối lộ, cửa quyền, loại bỏ và nghiêm trị
những phần tử đục khoét nhân dân. Dựa vào nhân dân để phát hiện và xử lý kịp
thời những vụ vi phạm quyền công dân. Việc bài trừ những hành động phạm pháp
chỉ thực hiện có hiệu quả nếu thật sự dựa vào sự kiểm tra, giám sát của quần
chúng. Phải kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi. Nhà
nước phải liên hệ với nhân dân. Phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi
mới tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân; cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước và xây dựng Nhà
nước pháp quyền.
Có thể nhận xét rằng các luận điểm của Đảng ta về dân chủ được trình bày ở
nhiều văn kiện khác nhau nhưng thể hiện tính nhất quán cao; các luận điểm bổ sung
cho nhau và tạo thành một hệ thống khá đầy đủ, chặt chẽ, từ dân chủ trong kinh tế
đến dân chủ trong chính trị; từ dân chủ trong Đảng đến dân chủ trong xã hội; từ dân
75

chủ trong các hoạt động của Đảng đến dân chủ trong các quan hệ của Đảng; từ dân
chủ trong Nhà nước đến dân chủ trong Mặt trận và các đoàn thể quần chúng; từ dân
chủ trong nghiên cứu và sáng tạo khoa học đến dân chủ trong sáng tạo văn hóa, văn
học, nghệ thuật; từ việc xây dựng quy chế dân chủ cơ sở đến việc chống lại mọi
biểu hiện của tệ hối lộ, cửa quyền, quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, v.v..
Trong bối cảnh phát huy dân chủ nói trên, dân chủ cơ sở không phải là vấn
đề mới mẻ ở nước ta. Về cơ bản, có thể nhận diện bước phát triển trong nhận thức,
tư duy của Đảng ta về dân chủ cơ sở như sau:
Đảng ta nhận thức rất rõ rằng, cấp cơ sở là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền
dân chủ của nhân dân một cách rộng rãi và trực tiếp nhất. Do đó khâu quan trọng và
cấp bách trước mắt trong quá trình dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội là thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Theo đó, ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị
khóa VIII đã ban hành chỉ thị 30/CT-TW về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Đây được coi là bước đột phá trong sự chỉ đạo của Đảng nhằm mở rộng và phát huy
dân chủ trực tiếp ở cơ sở.
Thể chế hóa sự chỉ đạo của Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị định về ban
hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (Nghị định 29/1998/NĐ-CP), Nghị định về ban
hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan (Nghị định
71/1998/NĐ-CP), Nghị định về ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp
nhà nước (Nghị định 07/1999/NĐ-CP). Quá trình thực hiện các Quy chế này đã thu
được những kết quả đáng kể trong thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội ở cấp cơ sở.
Chỉ thị số 10/CT-TW ngày 28-3-2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
khóa IX đã nêu rõ những giải pháp nhằm phát huy những kết quả đã đạt được
đồng thời khắc phục những hạn chế trong việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở.
Cụ thể là:
- Tiếp tục tuyên truyền, giáo dục sâu rộng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
những quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị và những nội dung cơ bản của quy chế
dân chủ ở ba loại hình cơ sở.
- Đưa công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ với thực hiện
chức năng nhiệm vụ được giao và trách nhiệm của từng cá nhân, nhất là những
76

người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, mặt trận và các đoàn thể cần phát huy tốt vai
trò của mình trong việc vận động nhân dân thực hiện và giám sát việc thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở.
- Cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng gương mẫu thực hiện dân chủ, đưa việc
thực hiện dân chủ ở cơ sở thành một tiêu chuẩn để xem xét đánh giá đảng viên đủ tư
cách, đơn vị tiên tiến, xuất sắc, chi bộ, đảng bộ trong sạch vững mạnh. Đồng thời
thực hiện tốt chế độ lấy ý kiến nhân dân trước khi ban hành các chủ trương chính
sách, quan trọng liên quan đến đời sống nhân dân ở cơ sở.
Nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò của nhân dân trong việc tham gia quản
lý nhà nước và xã hội, nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
đã chỉ rõ: "Cần thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở,
tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những
vấn đề quan trọng" [30, tr.134].
Sự phát triển trong nhận thức của Đảng đã dẫn tới việc Uỷ Ban Thường vụ
Quốc hội ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 về thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn - kết quả thể chế hóa quan điểm của Đảng và
tổng kết thực tiễn xây dựng và thực thi dân chủ tại cơ sở.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định:
Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ của công dân, năng lực làm chủ,
tham gia quản lý xã hội của nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân
thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp. Thực hiện tốt hơn quy
chế dân chủ ở cơ sở và pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở xã, phường,
thị trấn. Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ
cương xã hội [38, tr.239].
Tóm lại, mặc dù có những thăng trầm nhất định trong quá trình nhận thức và
thực thi các nguyên tắc thực hiện dân chủ cơ sở nhưng tư duy, nhận thức của Đảng
cộng sản Việt Nam về dân chủ và dân chủ cơ sở ngày càng được đổi mới theo chiều
hướng hoàn thiện. Đảng ta đã thường xuyên và kịp thời đề ra những chủ trương
quan trọng nhằm mở rộng và phát huy dân chủ cơ sở, làm cho việc thực hiện dân
chủ cơ sở ngày càng thực chất và sâu sắc.
77

3.1.2. Nguyên tắc thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay
Quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở
nước ta thể hiện trước hết ở việc ghi nhận ngày càng đầy đủ và rõ ràng các nguyên
tắc thực hiện dân chủ nói chung, thực hiện dân chủ ở cơ sở nói riêng trong Hiến
pháp và pháp luật Việt Nam.
Nguyên tắc thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam bao gồm hai nhóm nguyên
tắc chính: 1/ nhóm nguyên tắc xây dựng và thực hiện các quyền dân chủ của người
dân tại cơ sở; 2/ nhóm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các thiết chế đảm bảo
thực hành dân chủ của người dân tại cơ sở.
Thứ nhất, liên quan đến việc xây dựng và thực hiện các quyền dân chủ của
người dân tại cơ sở, ngay tại Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/02/1998 về xây dựng và
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã chỉ rõ những quan điểm chỉ đạo sau:
- Đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong cơ chế tổng
thể của hệ thống chính trị "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ". Coi trọng cả ba mặt nói trên, không vì nhấn một mặt mà coi nhẹ, hạ thấp
các mặt khác.
- Vừa phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu
lực hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân
các cấp, vừa thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp ở cấp cơ sở để nhân dân bàn
bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan trọng thiết thực, gắn liền với
lợi ích của mình.
- Phát huy dân chủ phải gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao
dân trí, tạo điều kiện mở rộng dân chủ có chất lượng và hiệu quả.
- Nội dung các quy chế phát huy dân chủ ở cơ sở phải phù hợp với Hiến
pháp, pháp luật, rõ tinh thần dân chủ đi đôi với kỷ cương, trật tự; quyền hạn gắn với
trách nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ; chống quan liêu, mệnh lệnh, đồng thời
chống tình trạng vô chính phủ, lợi dụng dân chủ vi phạm pháp luật.
- Gắn quá trình xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ với công tác cải cách
hành chính, sửa đổi những cơ chế, chính sách về thủ tục hành chính không phù hợp.
Trên tinh thần quán triệt các quan điểm chỉ đạo trên, Nghị định số 29/1998/
NĐ-CP ngày 11 tháng 5 năm 1998 về ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã đã
78

xác định rõ ở phần Những quy định chung (Chương I) về một số nội dung có tính
nguyên tắc sau:
Điều 2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân gắn liền với cơ chế "Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ"; phát huy tốt chế độ dân
chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân, thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp ở cơ
sở để nhân dân bàn bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan
trọng, thiết thực, gắn liền với lợi ích của mình.
Điều 3. Dân chủ trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật; quyền đi
đôi với nghĩa vụ; dân chủ đi đôi với trật tự, kỷ cương; kiên quyết xử lý
những hành vi lợi dụng dân chủ vi phạm Hiến pháp, pháp luật, xâm
phạm quyền tự do, dân chủ của nhân dân.
Pháp lệnh thực hiện dân chủ tại xã, phường, thị trấn số 34/2007/
UBTVQH11 ngày 20/04/2005 đã chính thức ghi nhận tại điều 2 về 05 nguyên tắc
thực hiện dân chủ ở cấp xã:
1) Bảo đảm trật tự, kỷ cương, trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
2) Bảo đảm quyền của nhân dân được biết, tham gia ý kiến, quyết định,
thực hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ ở cấp xã.
3) Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân.
4) Công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện dân chủ ở cấp xã.
5) Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
Quá trình thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ tại xã, phường, thị trấn cho
thấy các nguyên tắc được xác định đã cơ bản phù hợp với nhu cầu vận hành có hiệu
quả cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở. Tuy nhiên, cần cụ thể và phát huy một
cách thực chất các quyền hiến định của người dân, đồng thời cần tăng cường tính
gắn kết giữa các thành tố của cơ chế. Vì vậy, tại Kết luận số 65-KL/TW của Ban Bí
thư ngày 04/02/2010 về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30/CT/TW của Bộ Chính
trị (Khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở đã tiếp tục đưa ra
các yêu cầu mang tính nguyên tắc cho việc triển khai cơ chế pháp lý thực hiện dân
chủ cơ sở ở nước ta, bao gồm:
79

1) Tiếp tục quán triệt, không ngừng nâng cao nhận thức; xác định rõ trách
nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận, các đoàn thể chính trị-
xã hội; của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân
dân về những quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
phát huy quyền làm chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp của nhân dân ở cơ sở.
2) Tăng cường việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về dân
chủ xã hội chủ nghĩa trong các quy định của pháp luật, chính sách cụ thể.
Tổng kết, rà soát, bổ sung các văn bản đã ban hành; sớm nghiên cứu, ban
hành pháp lệnh về xây dựng và thực hiện dân chủ cho các loại hình
doanh nghiệp. Các cơ sở, các loại hình cần rà soát, bổ sung, xây dựng
quy chế thực hiện dân chủ (xây dựng thành quy định, nguyên tắc, quy
trình thực hiện dân chủ) trong các lĩnh vực hoạt động cụ thể của địa
phương, đơn vị mình, nhất là các lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến
quyền và lợi ích của nhân dân.
3) Gắn việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở với việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị; cải cách hành chính; cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh"; các phong trào thi đua yêu nước nhằm
tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân.
4) Nâng cao trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính tri, phát huy cao
vai trò làm chủ của nhân dân trong phòng, chống quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, các tệ nạn, tiêu cực ở cơ sở; chủ động đấu tranh làm thất bại mọi
âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch kích động, chống đối, chia rẽ
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị, trật tự xã hội.
5) Phát huy vai trò của ban chỉ đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ
ở cơ sở, các cấp, các ngành trong việc hướng dẫn, đôn đốc, tham mưu
cho cấp ủy kiểm tra, chỉ đạo thường xuyên; đẩy mạnh công tác nghiên
cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn; coi trọng công tác tập huấn, bồi dưỡng,
giáo dục, rèn luyện cán bộ, công chức về ý thức, trách nhiệm, phong
cách, năng lực thực hiện dân chủ ở cơ sở và dân chủ với nhân dân.
80

6) Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng; trách nhiệm của chính
quyền, của người đứng đầu về thực hiện quy chế dân chủ; tiếp tục chỉ
đạo cụ thể hóa phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra"
ở cơ sở. Phát huy vai trò của mặt trận, các đoàn thể nhân dân trong việc
tuyên truyền và giám sát việc thực hiện; vận động nhân dân nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật cơ sở.
Thứ hai, liên quan đến tổ chức và hoạt động của các thiết chế đảm bảo thực
hành dân chủ của người dân tại cơ sở, các nguyên tắc chỉ đạo là những nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của Hệ thống chính trị cơ sở.
Trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị (HTCT) ở cơ sở, Đảng ta có nhiều
chỉ đạo cụ thể. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta nhấn mạnh: “Đẩy
mạnh hoạt động cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ,
tăng cường pháp chế… Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, coi trọng cả năng lực
và đạo đức, bồi dưỡng, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức theo đúng chức danh,
tiêu chuẩn. Tăng cường cán bộ cho cơ sở” [30, tr.35]. Để thực hiện chủ trương trên
đòi hỏi phải thực hiện nhiều nội dung quan trọng, trong đó có việc xây dựng HTCT
cơ sở, từng bước hoàn thiện bộ máy nhà nước, nâng cao năng lực quản lý của đội
ngũ cán bộ cấp cơ sở, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn
hiện nay, bởi HTCT cơ sở là bộ phận quan trọng trong cấu trúc HTCT ở nước ta, là
nơi tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối chính sách của Đảng, Pháp
luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của
dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của mọi
cộng đồng dân cư.
Dấu ấn quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về đổi mới HTCT cơ sở thể
hiện trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ V của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá IX (tháng 3 năm 2002). Hội nghị chỉ rõ:
... hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay còn có nhiều mặt yếu kém, bất cập
trong công tác lãnh đạo, quản lý tổ chức thực hiện và vận động quần
chúng. Tình trạng tham những, quan liêu, mất đoàn kết nội bộ, vừa vi
phạm quyền làm chủ của dân, vừa không giữ đúng kỷ cương phép nước
xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng. Chức năng, nhiệm vụ
81

của các bộ phận trong hệ thống chính trị chưa được xác định rành mạch,
trách nhiệm không rõ ràng; nội dung và phương thức chậm đổi mới, còn
nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đội ngũ cán bộ
cơ sở ít được đào tạo, bồi dưỡng; chính sách đối với cán bộ cơ sở còn
chắp vá [32, tr.45].
Hội nghị tiếp tục khẳng định các yêu cầu, nhiệm vụ và chủ trương tăng
cường đường lối “Đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường thị trấn” đây là
khâu quan trọng nhằm tạo ra cho HTCT cơ sở một sức mạnh và những khả năng
mới trong việc hoàn thành nhiệm vụ, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện một cách rõ ràng và đầy
đủ ở cơ sở.
Tinh thần nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ X (tháng
9 năm 2006) đặc biệt coi trọng đổi mới HTCT ở cơ sở. Đây cũng là thể hiện nhận
thức mới của Đảng về đổi mới hệ thống chính trị. Những nguyên tắc, yêu cầu, nội
dung, phương thức đổi mới hệ thống chính trị cấp vĩ mô chi phối quá trình đổi mới
HTCT cấp cơ sở và sự đổi mới HTCT cấp cơ sở có tác động tích cực trở lại HTCT
nói chung.
Tổng kết quá trình đổi mới HTCT nói chung và HTCT cơ sở nói riêng trong
thời gian qua, trên cơ sở nhận diện rõ những thành công và hạn chế, tại Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khóa XI) diễn ra từ ngày 02/5 đến ngày
11/5/2013, Đảng ta đã thảo luận và cho ý kiến kết luận về đề án "Tiếp tục đổi mới,
hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở".
Trên tinh thần đó, tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong HTCT cơ sở
trong giai đoạn hiện nay bám sát, cụ thể hóa, thể chế hóa các quan điểm của Cương
lĩnh, Điều lệ Đảng, Văn kiện Đại hội XI của Đảng, đồng bộ với nội dung Hiến pháp
năm 2013, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước
trong thời kỳ mới; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý
của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trên những nét chính, tổ
chức và hoạt động của các thiết chế trong HTCT cơ sở phải đảm bảo các nguyên
tắc: 1/ đảm bảo tính nhất nguyên chính trị của HTCT; 2/ đảm bảo tính thống nhất
của HTCT; 3/ đảm bảo HTCT gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của
82

nhân dân; 4/ đảm bảo phương thức vận hành của HTCT” Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân làm chủ; 5/ đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các
thiết chế trong HTCT.
Trong giai đoạn hiện nay, nền tảng của nguyên tắc thực hiện dân chủ cơ sở ở
Việt Nam hiện nay là các nguyên tắc hiến định về dân chủ được ghi nhận trong
Hiến pháp năm 2013.
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người,
quyền công dân” (Điều 3); “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ
trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân (HĐND)
và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6); “Ở Nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật…” (Điều 14); và “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận
thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy
định” (Điều 25); “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham
gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa
phương và cả nước” (Điều 28); “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ
chức, cá nhân” (Điều 30) v.v..
Cùng với việc tái khẳng định và chính xác hóa các quy định về trưng cầu ý dân,
bầu cử, bãi miễn đại biểu dân cử và quyền tham gia quản lý nhà nước, xã hội của
người dân như đã nêu trong các Hiến pháp năm 1980, năm 1992, Hiến pháp năm
2013 cũng tái quy định quyền cho ý kiến về Dự thảo Hiến pháp của nhân dân (Điều
120, khoản 3). Điều này đã được ghi nhận trong Hiến pháp 1946. Đồng thời Hiến
pháp 2013 cũng ấn định trách nhiệm của Nhà nước phải: “…tạo điều kiện để công
dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp
nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân” (Điều 28, khoản 2). Những quy định
mới này cho thấy xu hướng củng cố nền tảng hiến định cho việc đẩy mạnh dân chủ
ở Việt Nam, đồng thời cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết về hoàn thiện khuôn khổ luật
pháp để thực thi trong thực tế.
83

Theo Điều 6 Hiến pháp năm 2013, “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước
bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và thông
qua các cơ quan khác của Nhà nước”. Việc bổ sung dân chủ trực tiếp bên cạnh việc
thực hiện dân chủ đại diện (hay còn gọi là dân chủ gián tiếp) và thể hiện chính xác
hơn tư duy về các thiết chế thực thi dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện là một
nhận thức mới phù hợp với quy luật phát triển của xã hội gắn với việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN của nước ta hiện nay.
Liên quan trực tiếp đến các phương thức thực hiện dân chủ tại cơ sở, mặc dù
Hiến pháp năm 2013 không đề cập một cách cụ thể và chi tiết nhưng có nhiều quy
định thể hiện tinh thần mới và tiến bộ về vấn đề này, ví dụ như: “Nhân dân thực
hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua
Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6) và “Nhà
nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai,
minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”. Đây là
các nguyên tắc tiến bộ, định hướng cho việc cụ thể hóa các nguyên tắc xây dựng và
thực hiện các quyền dân chủ của người dân tại cơ sở và các nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của các thiết chế đảm bảo thực hành dân chủ của người dân tại cơ sở.

3.2. THỰC TRẠNG THỂ CHẾ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ


3.2.1. Quá trình xây dựng thể chế thực hiện dân chủ cơ sở
Ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 30/CT-TW về việc xây dựng
và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Chỉ thị này được ban hành trong bối cảnh
“quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ
quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn
đang phổ biến và nghiêm trọng mà chúng ta vẫn chưa đẩy lùi, ngăn chặn được.
Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chưa được cụ thể hóa và
thể chế hóa thành luật pháp, chậm đi vào cuộc sống” [7].
Thể chế hóa nội dung Chỉ thị 30/CT-TW, Ủy Ban Thường vụ Quốc hội đã
ban hành Nghị quyết số 45-1998/NQ-UBTVQH10 ngày 26/2/1998 về việc ban
hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (Nghị quyết số 45). Nghị
quyết này khẳng định lại phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”,
lấy đó làm cơ sở để “giao Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã,
84

phường, thị trấn”. Theo Nghị quyết, Quy chế này phải đảm bảo tăng cường sự tham
gia của nhân dân (lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, những vấn đề được đưa ra để
nhân dân thảo luận và quyết định, nhân dân giám sát và kiểm tra); quyền tiếp cận
thông tin của nhân dân và trách nhiệm giải trình của cơ quan chính quyền địa
phương (báo cáo các quyết định để nhân dân biết và thực hiện, báo cáo thu chi ngân
sách và quyết toán, tiếp dân và báo cáo kết quả giải quyết…).
Sau khi Nghị quyết số 45 được thông qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở
xã (Nghị định số 29). Với sự ra đời của Quy chế, lần đầu tiên trong lịch sử xây dựng
pháp luật, Nhà nước ta đã tạo ra một công cụ pháp lý về thực hiện dân chủ, trao cho
các tầng lớp nhân dân ở cơ sở những quyền dân chủ thực sự, bao gồm: quyền được
biết các nội dung liên quan đến đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân ở cơ sở;
quyền được bàn và quyết định trực tiếp, bàn và biểu quyết để cấp có thẩm quyền
quyết định đối với những vấn đề quan trọng của địa phương; quyền được tham gia ý
kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; quyền giám sát đối với tất cả các
nội dung mà nhân dân được công khai để biết, được bàn và quyết định trực tiếp,
được bàn và biểu quyết, được tham gia ý kiến.
Sau 5 năm thực hiện Nghị định số 29, căn cứ vào Nghị quyết số 17/NQ-TW
ngày 18/3/2002 Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về
đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn và Chỉ
thị số 10-CT/TW ngày 28/03/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục đẩy
mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Chính phủ đã ban hành
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã (Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 7/7/2003),
thay thế cho Nghị định số 29. Về cơ bản, Nghị định số 79 vẫn giữ nguyên những
nội dung cốt lõi về các quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở, chỉ có một số sửa đổi,
bổ sung cho phù hợp, đi vào thực chất hơn, cụ thể hơn theo hướng tăng cường vai
trò, trách nhiệm của bộ máy chính quyền cấp xã trong việc thực hiện Quy chế thực
hiện dân chủ ở xã.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định: Phát huy dân chủ là
vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với tiến trình phát triển nước ta. Do đó, cần có một
văn bản pháp luật cao hơn Nghị định để điều chỉnh vấn đề thực hiện dân chủ xã,
85

phường, thị trấn. Năm 2007, Ủy Ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn thay cho Nghị định 79.
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 gồm 6 chương,
28 điều, là văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất từ trước đến nay điều chỉnh toàn
diện về việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, trong đó quy định các vấn đề cơ bản như
nguyên tắc thực hiện dân chủ ở cấp xã, trách nhiệm tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp
xã, các hành vi bị nghiêm cấm, những nội dung công khai để nhân dân biết và hình
thức công khai, những nội dung nhân dân bàn và quyết định, những nội dung nhân
dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định và những nội dung
nhân dân giám sát.
Trên tinh thần của Pháp lệnh, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các cơ quan hữu quan đã ban hành nhiều nghị định, quyết định
và thông tư liên quan hướng dẫn về việc thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Sau 12 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII),
ngày 04/3/2010, Ban Bí thư đã ban hành Kết luận số 65-KL/TW về tiếp tục thực
hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân
chủ cơ sở. Gần đây nhất, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày
3/6/2013 về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận
trong tình hình mới liên quan đến nhiều nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Trong thời gian gần đây, nhiều vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động
của các thiết chế bảo đảm quyền làm chủ, quyền tự quyết của nhân dân được quy
định trong các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn như: Hiến
pháp, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu HĐND, Luật Tổ chức
HĐND và Ủy ban nhân dân (UBND), Luật Đất đai, Luật Mặt trận Tổ quốc
(MTTQ) Việt Nam, Luật Hòa giải cơ sở, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật CBCC,
Luật Thanh tra, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí… Đặc biệt bản Hiến pháp năm 2013 đã đánh dấu một bước tiến mới trong
lịch sử lập hiến nước ta về đề cao quyền lực của nhân dân và quyền làm chủ của
nhân dân. Hiến pháp đã xác định phương thức cụ thể để nhân dân thực hiện quyền
lực của mình đối với xã hội và nguyên tắc nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước;
quy định cụ thể việc nhân dân bầu ra người đại diện cho ý chí và nguyện vọng của
mình làm đại biểu Quốc hội; đề cao quyền con người, quyền công dân.
86

Những văn bản pháp luật này đã góp phần thể chế hoá quyền làm chủ của
nhân dân trên các lĩnh vực đời sống xã hội diễn ra ở cơ sở. Song nền tảng để thực
hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã vẫn là Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn năm 2007. Đây là bộ phận quan trọng của pháp luật về dân chủ cơ
sở của nước ta.
3.2.2. Ưu điểm và hạn chế của thể chế thực hiện dân chủ cơ sở
Trong phạm vi được giới hạn về phạm trù cơ sở, có thể đưa ra những đánh
giá tập trung về nội dung ghi nhận quyền của người dân trong Pháp lệnh năm 2007
và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như tác động thực tế của nó.
Về ưu điểm:
Thứ nhất, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 là văn
bản pháp luật có hiệu lực cao nhất từ trước đến nay điều chỉnh toàn diện về việc
thực hiện dân chủ ở cơ sở, trong đó có nhiều tiến bộ so với Quy chế thực hiện dân
chủ ở xã trước đây, thể hiện:
- Pháp lệnh năm 2007 và các văn bản hướng dẫn thi hành là sự thể chế tương
đối đầy đủ 04 nhóm quyền của người dân trong việc thực hiện dân chủ cơ sở: quyền
của người dân bàn và trực tiếp quyết định; quyền của người dân bàn, biểu quyết để
cấp có thẩm quyền quyết định; quyền của người dân tham gia ý kiến trước khi cơ
quan có thẩm quyền quyết định; quyền giám sát của người dân việc thực hiện quyền
lực nhân dân tại cơ sở. Pháp lệnh quy định chi tiết và cụ thể hơn nhiều về các hình
thức thực hiện dân chủ ở cơ sở cũng như vai trò, trách nhiệm của các cơ quan và cá
nhân trong hệ thống cơ quan chính quyền cấp xã.
- Pháp lệnh tập trung nhiều hơn vào những nội dung quan trọng, thiết thực
đối với người dân ở cơ sở, không còn những nội dung như Nghị quyết của HĐND
xã, sơ kết, tổng kết hoạt động của HĐND, UBND xã.
- Pháp lệnh quy định rõ ràng, cụ thể về thực thi của những quyết định, biểu
quyết của người dân - điều không có trong Quy chế thực hiện dân chủ ở xã năm
1998 và Quy chế thực hiện dân chủ ở xã năm 2003.
- Điểm nhấn rất đáng lưu ý là Pháp lệnh năm 2007 đã chỉ ra vai trò, nhiệm vụ
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị, xã hội trong tình hình mới,
đó là nâng cao trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
87

viên trong việc giám sát và phản biện xã hội, nhất là giám sát hoạt động của chính
quyền cơ sở, bảo đảm quyền tự do dân chủ của người dân ngay từ cơ sở.
Như vậy, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn là một công cụ
pháp lý mạnh để đảm bảo tính dân chủ, công khai, minh bạch trong hoạt động của
bộ máy chính quyền cơ sở, phát huy các quyền dân chủ của nhân dân, thúc đẩy sự
tham gia chủ động, tích cực hơn của người dân vào đời sống chính trị - xã hội ở cơ
sở, bảo vệ các quyền con người.
Thứ hai, việc thực thi Pháp lệnh năm 2007 và các văn bản hướng dẫn thi
hành đã có tác động tích cực và toàn diện lên đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội ở tất cả các địa phương trong cả nước. Kết quả số liệu khảo sát cho thấy, ở các
tiêu chí cơ bản của đời sống xã hội đã nhận được sự đánh giá về chất lượng tăng
lên. Đặc biệt, quá trình triển khai thi hành pháp lệnh đã làm chuyển biến đáng kể
nhận thức của người dân về dân chủ cũng như tác động theo chiều hướng tích cực
đến ý thức, trách nhiệm và năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ chính
quyền cơ sở.
Về hạn chế, bất cập:
Bên cạnh những ưu điểm, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn
và các văn bản có liên quan cũng đang bộc lộ những bất cập, hạn chế nhất định. Cụ
thể như sau:
- Tuy quy định nhiều nội dung hoạt động của chính quyền cấp xã phải được
công khai cho nhân dân, nhưng Pháp lệnh thiếu những quy định cụ thể, minh bạch
nên người dân không có khả năng tiếp cận đầy đủ thông tin để thực hiện quyền
năng của mình. Ví dụ: pháp luật chỉ quy định về nội dung, hình thức công khai mà
thiếu vắng quy định đảm bảo tính minh bạch trong việc công khai của chính quyền
cấp xã. Chính điều này đã dẫn đến tình trạng, nhiều địa phương thực hiện việc công
khai một cách “chiếu lệ” (tuy vẫn đúng nội dung cần công khai, đúng địa điểm phải
công khai nhưng người dân vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp thu tất cả nội dung văn
bản được công khai, như việc dán thông báo có nhiều trang trên bảng thông báo có
lưới bảo vệ...).
- Chưa xác định đúng tính chất của một số việc nhân dân bàn, biểu quyết để
cấp có thẩm quyền quyết định với những việc nhân dân tham gia ý kiến trước khi
88

cấp có thẩm quyền quyết định. Ví dụ: qua quá trình thăm dò ý kiến tại một số cuộc
tọa đàm khoa học, có nhiều ý kiến đề xuất chuyển một số nội dung của Điều 19
Pháp lệnh năm 2007 (những nội dung nhân dân tham gia ý kiến) lên thành nội dung
nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định, đó là: việc quản lý, sử
dụng quỹ đất của cấp xã; chủ trương, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt
bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng, tái định cư; phương án quy hoạch khu dân cư; kế
hoạch sử dụng các khoản đóng góp của người dân... Trên thực tế, đây cũng là
những nội dung có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của người dân, thường xảy ra
nhiều vi phạm pháp luật, tham nhũng do thiếu cơ chế giám sát trong nội bộ bộ máy
nhà nước cũng như sự giám sát của nhân dân. Do vậy, những nội dung này cần
được người dân bàn, biểu quyết làm cơ sở cho chính quyền quyết định chứ không
phải chỉ có giá trị để chính quyền tham khảo...
- Pháp lệnh chưa quy định thẩm quyền, chức năng của các cơ quan cao hơn
trong việc theo dõi, kiểm tra và đánh giá việc chính quyền cấp xã triển khai thực
hiện dân chủ ở cơ sở như thế nào, có đúng quy định pháp luật không,
- Pháp lệnh chưa đề cập sự giám sát độc lập việc thực hiện dân chủ ở cơ sở
bởi các tổ chức xã hội dân sự khác ngoài MTTQ. Hạn chế này có thể làm phát sinh
tình trạng dung túng, bao che lẫn nhau giữa các cơ quan, tổ chức đó mà không bị
phát hiện, xử lý kịp thời.
- Pháp lệnh không đề cập tính chịu trách nhiệm của các chủ thể cụ thể liên
quan đến hệ quả của việc tuân thủ hoặc không tuân thủ pháp luật về thực hiện dân
chủ cơ sở; chưa quy định các biện pháp cụ thể có thể áp dụng để xử lý các vi phạm
pháp luật liên quan đến công tác thực hiện dân chủ ở cấp xã. Đây cũng là nguyên
nhân dẫn đến việc phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về thực hiện
dân chủ cơ sở còn chậm trễ, bị động, chưa nghiêm minh và thiếu sự răn đe cần thiết.
- Nguồn kinh phí chi cho hoạt động thực hiện dân chủ cơ sở vẫn chưa được
quan tâm đúng mức, chưa được đề cập cụ thể trong Pháp lệnh. Trong khi đó, nếu
điều kiện kinh tế không cho phép, nguồn chi ngân sách nhà nước cho công tác
thực hiện pháp luật, gồm cả thực hiện dân chủ cơ sở, còn khó khăn, eo hẹp hoặc
không được cấp thì hoạt động thực hiện dân chủ cơ sở khó mà đạt được kết quả
như mong muốn.
89

- Pháp lệnh cũng chưa đề cập việc nâng cao nhận thức, tập huấn các chuyên
đề pháp luật hoặc bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ thực
thi pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở, trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân
phố - những chủ thể đóng vai trò quyết định trong việc thực hiện có hiệu quả Pháp
lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, như Chủ tịch UBND xã, người đứng
đầu các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể nhân dân v.v.. Nguồn nhân lực chất
lượng thấp sẽ là lực cản, trở ngại lớn đối với việc triển khai có hiệu quả hoạt động
thực hiện dân chủ cơ sở.
- Các văn bản hướng dẫn thi hành trên các lĩnh vực cụ thể (xây dựng công
trình công cộng, bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh cấp xã, bầu trưởng thôn, thanh
tra nhân dân, giám sát đầu tư cộng đồng...) chưa phù hợp. Ví dụ trong lĩnh vực huy
động sự đóng góp của nhân dân: các quy định hiện hành thiếu tính linh động, chưa
giải quyết được khó khăn phát sinh trong thực tế (ảnh hưởng của đặc thù vùng miền
trong việc tổ chức họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình, cơ sở vật chất,...).
- Hương ước/ quy ước đang được xây dựng theo phong trào, không có cơ chế
giám sát thực hiện, ít có tác dụng thực tế trong điều chỉnh các quan hệ xã hội tại các
cộng đồng dân cư cơ sở, nhất là vùng đô thị và nông thôn đồng bằng; xu hướng luật
hóa hương ước đang diễn ra ngày càng phổ biến. Thông qua khảo sát có thể thấy,
phần lớn các hương ước/ quy ước hiện nay tại các vùng đồng bằng, đô thị đều rập
khuôn và không có sự đặc thù đáng kể. Các quan hệ xã hội được điều chỉnh trong các
hương ước/ quy ước phần lớn đã được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật, thậm
chí có quy định trái pháp luật. Giá trị điều chỉnh quan hệ xã hội của các hương ước tại
các khu vực đồng bằng, đô thị tương đối mờ nhạt và không tương xứng với chi phí,
nguồn lực của nhà nước, xã hội phải bỏ ra để xây dựng, ban hành và duy trì.
Những bất cập, hạn chế trong thể chế thực hiện dân chủ cơ sở là nguyên
nhân quan trọng dẫn đến công tác thực hiện dân chủ cơ sở trong những năm qua
gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc. Hệ lụy dễ nhận thấy là dân chủ cơ sở chưa
được phát huy, tình trạng vi phạm các quyền dân chủ của nhân dân ở cơ sở tương
đối phổ biến, ở nhiều nơi việc thực hiện dân chủ cơ sở còn mang tính hình thức,
quyền làm chủ của người dân bị xâm hại. Theo đó, mức độ suy giảm niềm tin của
nhân dân vào chế độ gia tăng, hiệu quả hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước
90

thấp, các điểm nóng chính trị - xã hội xuất hiện và có mức độ lan tỏa nhanh. Đây là
những vấn đề hết sức phức tạp cần phải được xử lý trong giai đoạn hiện nay.

3.3. THỰC TRẠNG THIẾT CHẾ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ


Thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở là hệ thống các cơ quan, tổ chức, cá nhân
tham gia vào quá trình hiện thực hóa các quyền của người dân tại cơ sở. Theo đó, hệ
thống này rất đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, đóng vai trò quan trọng là các bộ
phận cấu thành cơ bản của HTCT cơ sở bao gồm: tổ chức Đảng cơ sở, chính quyền
cơ sở và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại cơ sở.
3.3.1. Vai trò tích cực của các thiết chế trong thực hiện dân chủ cơ sở
Theo đánh giá chung được nêu trong Kết luận số 65-KL/TW của Ban Bí thư
ngày 04/3/2010, sau hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị
(khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở:
Cấp ủy, chính quyền, mặt trận, đoàn thể các cấp đã có nhiều biện pháp chỉ
đạo, triển khai sâu rộng, làm chuyển biến tích cực về nhận thức, quan điểm,
chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với việc xây dựng và
thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở… Dân chủ và thực hành dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta, nhất là dân chủ trực tiếp của nhân dân tiếp tục được
coi trọng, tăng cường. Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã
góp phần đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản
lý, điều hành của Nhà nước; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của
mặt trận, các đoàn thể nhân dân; phát huy tính tiền phong, gương mẫu,
chấn chỉnh phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công chức theo hướng
sát dân, trọng dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đáp ứng
nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân; góp phần quan trọng
trong phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí;
tăng cường đoàn kết, đồng thuận xã hội, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân; chống lại các âm mưu lợi dụng dân chủ, dân
tộc, tôn giáo, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc [7].
Các cấp uỷ đảng cơ sở đã không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động, tăng cường sự lãnh đạo toàn diện đối với mọi hoạt động của HTCT ở cơ sở.
Thường xuyên chăm lo công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tích cực chăm lo công
tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực lãnh đạo, tổ chức phân công, phân nhiệm
91

và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đổi mới phương pháp hội họp, đổi mới
cách ra nghị quyết. Hầu hết, các cấp uỷ cơ sở đã tiến hành ra soát, bổ sung và hoàn
thiện quy chế làm việc, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, của tập thể Ban Chấp
hành, Ban Thường vụ và trách nhiệm của từng cấp uỷ viên, phát huy tính tiên
phong gương mẫu của đảng viên trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao
gắn với “việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ chí Minh”.
Tính trên phạm vi cả nước, đã có 100% các huyện, thị xã, thành phố thành
lập Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ và xây dựng quy chế hoạt động; có
100% xã, phường, thị trấn bố trí đồng chí Bí thư, Phó Bí thư hoặc Ủy viên Thường
vụ kiêm Trưởng Ban chỉ đạo. Hệ thống tổ chức chi bộ Đảng và các đoàn thể được
sắp xếp lại theo mô hình thôn, buôn, làng, tổ dân phố, đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp
của chi bộ đối với các chi hội, chi đoàn với phương châm xây dựng Đảng, chính
quyền trong sạch vững mạnh, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, tăng cường
triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở về dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra. Việc nắm bắt, tuân thủ pháp luật trong thực thi công vụ của cán bộ công
chức, nhất là cán bộ chủ chốt có chuyển biến tích cực, phong cách làm việc gần
dân, sát dân, hiểu được tâm tư, nguyện vọng của dân, tính minh bạch, công khai,
dân chủ đã được đề cao. Hoạt động của khối Dân vận, MTTQ và các đoàn thể ở cấp
xã đã tập trung vào việc tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân tăng cường,
củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, hăng hái tham gia phát triển sản xuất, xóa đói,
giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Chú
trọng đổi mới và đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng, đổi mới phương
thức hoạt động với nhiều hình thức phong phú...
Cấp chính quyền cơ sở đã đổi mới phong cách làm việc theo hướng gần dân,
sát dân hơn; tôn trọng, lắng nghe và chân thành tiếp thu ý kiến, nguyện vọng chính
đáng của nhân dân, chăm lo đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân; giải quyết
kịp thời những vướng mắc của nhân dân; đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành
chính theo cơ chế một cửa. Chính quyền cơ sở cũng như các cơ quan, tổ chức đã
gắn việc thực hiện dân chủ cơ sở với việc thực hiện các kế hoạch, chương trình phát
triển kinh tế, xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời
92

sống của người dân, người lao động. Bên cạnh đó chính quyền cơ sở cũng đã gắn
kết việc thực hiện dân chủ cơ sở với việc phát triển văn hóa, nâng cao đời sống tinh
thần của người dân, người lao động.
Vai trò của MTTQ Việt Nam và mối quan hệ giữa chính quyền cơ sở với
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể được tăng cường; quyền và nghĩa vụ của công
dân được thực hiện tốt hơn; vai trò tự quản của cộng đồng dân cư ngày càng phát
huy hiệu quả và được khẳng định. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã đổi mới nội
dung và phương pháp hoạt động, thể hiện rõ trách nhiệm như: Trực tiếp sinh hoạt,
trao đổi và cùng với nhân dân tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc ở cơ sở, động
viên đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia các cuộc vận
động, các phong trào thi đua yêu nước ở cơ sở. Bên cạnh đó, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể còn tham gia giám sát hoạt động của chính quyền cơ sở, góp phần
quan trọng trong xây dựng và củng cố hệ thống chính trị vững mạnh, xây dựng
cộng đồng dân cư tự quản ở thôn, làng, tổ dân phố, làm thay đổi bộ mặt nông thôn,
thành thị.
Ban Thanh tra nhân dân được thành lập ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà
nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước để giám sát việc thực hiện chính
sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở, góp phần phát huy dân chủ, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Thanh tra nhân dân được
pháp luật quy định là một tổ chức quần chúng và hoạt động thanh tra mang tính
nhân dân.
Ban Thanh tra nhân dân là hình thức thực hiện dân chủ cơ sở đồng thời là
thiết chế mang tính nhân dân do các tổ chức Mặt trận, Công đoàn tổ chức, chỉ đạo,
hướng dẫn hoạt động nhằm kết hợp chặt chẽ giữa Thanh tra nhân dân với thanh tra
nhà nước trong kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Theo Báo cáo của Ban
thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổng hợp kết quả báo
cáo của 61 tỉnh, thành phố trong cả nước thì đến hết năm 2013 đã có 100% các xã,
phường, thị trấn đã có Ban Thanh tra nhân dân (với trên 12.400 ban và 81.250 thành
viên) [152, tr.4]. Hầu hết Trưởng Ban Thanh tra nhân dân là Phó Chủ tịch Uỷ ban
93

MTTQ xã, phường, thị trấn hoặc trưởng các đoàn thể. Đa số các thành viên Ban
Thanh tra nhân dân là những người có hiểu biết pháp luật, trung thực, tự nguyện, có
tinh thần trách nhiệm, được nhân dân tín nhiệm. Trong những năm qua, Ban Thanh
tra nhân dân được tích cực hoàn thiện về mặt thể chế, thiết chế và các điều kiện bảo
đảm đã tăng cường phối hợp với tổ chức Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và cơ
quan chức năng của Nhà nước thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn;
quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện có hiệu quả cơ chế "dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra", tạo lập không khí dân chủ, minh bạch nhằm huy động rộng rãi các
nguồn lực cho đầu tư xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
cho nhân dân. Việc Thanh tra nhân dân tham gia tiếp nhận, giải quyết, kiến nghị,
khiếu nại, tố cáo của nhân dân đã góp phần quan trọng khắc phục những vụ việc
phát sinh phức tạp từ cơ sở.
Thực hiện dân chủ cơ sở đã khơi dậy sức mạnh tiềm tàng của nhân dân lao
động, phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của nhân dân trong quá trình xây dựng
Nhà nước và xã hội, giải quyết những vấn đề lớn về quốc kế, dân sinh.
Hiệu ứng tích cực của việc thực hiện khá tốt dân chủ ở cấp xã đã được lan
tỏa. Hoạt động của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể nhân
dân cấp cơ sở và lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn
cơ sở cả nước đã dần đi vào nề nếp, ổn định và tuân theo các quy chế, quy định, quy
trình cụ thể. Các xã, phường, thị trấn đã căn cứ vào pháp luật và tình hình thực tế
của địa phương để tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới các quy
chế, quy định liên quan đến việc thực hiện dân chủ ở cấp xã theo từng lĩnh vực cụ
thể, tập trung vào các hoạt động chính ở cơ sở như Quy chế làm việc của Đảng ủy,
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc cấp xã và các đoàn thể
nhân dân; Quy chế quản lý, sử dụng đất đai, tài chính, xây dựng cơ bản; Quy chế
giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ môi trường, quản lý giao thông, sử dụng điện ở các xã
thôn; Quy chế tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; Quy
chế thực hiện “cơ chế một cửa” về giải tỏa mặt bằng làm đường giao thông và xây
dựng khu công nghiệp, xây dựng hương ước, quy ước làng văn hóa; Quy định về
việc cưới, việc tang… Ví dụ, ở tỉnh Thái Bình, trên 60% số xã, phường, thị trấn có
từ 11 đến 15 bản quy chế, quy định; gần 40% có trên 15 văn bản, cá biệt có nơi xây
94

dựng trên 20 quy chế, quy định [101]. Ở nhiều nơi đã thực hiện hiệu quả cơ chế
“một cửa”, “một cửa liên thông”, tổ chức tiếp dân, giải quyết các khiếu nại của dân
và ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan quản lý nhà nước, góp phần
khắc phục việc gây phiền hà dân và giảm bớt thời gian giao dịch và tiết kiệm chi phí
cho ngân sách; người dân thông qua tổ chức MTTQ Việt Nam góp ý và bỏ phiếu tín
nhiệm Chủ tịch HĐND và Chủ tịch UBND; thực hiện công khai, minh bạch các
nguồn quỹ do nhân dân đóng góp, công khai các dự án, công trình có liên quan đến
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới; các cơ quan nhà nước công
khái niêm yết thủ tục hành chính, thuận tiện cho người dân.
3.3.2. Bất cập, hạn chế của các thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở
Nhìn một cách tổng thể, hiện tại, mô hình HTCT cơ sở với các thiết chế hợp
thành là cấu trúc nhỏ nhất trong mô hình tổ chức và vận hành của HTCT Việt Nam
được áp dụng chung trên địa bàn cả nước, được tổ chức và vận hành theo khuôn
mẫu chung của HTCT. Nếu xét từ khía cạnh quan hệ thứ bậc mang tính pháp lý của
chỉnh thể HTCT thống nhất ở nước ta thì HTCT cơ sở là cấp thấp nhất, tuy nhiên
HTCT cơ sở không đơn thuần là cánh tay nối dài của HTCT cấp trên. Cơ sở là địa
bàn cư trú của dân, là nơi diễn ra mọi hoạt động sinh sống và làm ăn của nhân dân
lao động, vì vậy nói tới cơ sở là nói tới vai trò chủ thể của người dân và hình thức tổ
chức các hoạt động sống của cộng đồng, các mối quan hệ xã hội, cơ sở là nơi trực
tiếp nhất của thực tiển, thể hiện ý thức và năng lực làm chủ của nhân dân bằng cả
phương thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, cũng là nơi đầu tiên đối mặt với
những yêu cầu bức xúc của dân chúng với những mâu thuẫn, thậm chí cả những
xung đột nảy sinh trong đời sống dân sự. Cơ sở là cấp hành động và tổ chức hành
động, nghĩa là cấp tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước. Cơ sở cũng không chỉ là cấp thực hiện chức năng lãnh đạo và quản lý
của Nhà nước mà còn là nơi diễn ra các hoạt động tự quản của cộng đồng xã hội,
quản lý với tự quản đan xen vào nhau, các thể chế quản lý, pháp luật nhà nước và
các quy ước của thôn, làng, ấp, bản tồn tại song hành với nhau. Những đặc điểm nói
trên của cơ sở cho thấy, việc áp dụng thống nhất một cách máy móc mô hình tổ
chức và cơ chế vận hành của HTCT cho đơn vị cơ sở ở nước ta là thiếu thực tế,
chưa phát huy được hết lợi thế trong huy động sức mạnh của cơ sở, thậm chí trong
95

chừng mực nhất định còn có thể gây trở lực cho phát triển kinh tế - xã hội và thực
hiện dân chủ tại cơ sở.
Về phương diện tổ chức, các thiết chế tham gia thực hiện hiện dân chủ cơ sở
tồn tại trong trạng thái liên kết tương đối lỏng với cấp trên và trong mối tương quan
không thực sự thuận chiều với các yếu tố của xã hội tự quản truyền thống. Trạng
thái liên kết lỏng giữa các thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở với hệ thống cấp trên
không mang tính toàn thể đối với mọi thiết chế trong HTCT và cũng không diễn ra
trong mọi lĩnh vực hoạt động của HTCT. Nói cách khác, trạng thái liên kết lỏng
không đồng nghĩa với việc buông lỏng sự lãnh đạo, chỉ đạo từ cấp trên mà là sự thể
hiện mức độ phối, kết hợp trong hoạt động chưa thật sự nhịp nhàng, liên tục cũng
như mức độ không liên tục, thường xuyên trong hoạt động báo cáo, kiểm tra, giám
sát. Ví dụ, trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị các cấp uỷ, các tổ chức đảng
ở cơ sở còn chậm tổ chức triển khai tuyên truyền, phổ biến chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, pháp luật dân chủ của Nhà nước, những chủ trương của cấp trên, do đó lượng
thông tin của Đảng, Nhà nước đến với cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế,
việc đói thông tin là một trong những nguyên nhân khiến cho một số người dân bị
phần tử xấu lợi dụng, lôi kéo, kích động gây mất trật tự, an ninh; từ chiều ngược lại,
một số hiện tượng bất ổn, kể cả tình trạng vi phạm dân chủ tại cơ sở chưa được cấp
trên nắm bắt và chỉ đạo kịp thời… Trạng thái liên kết lỏng này thể hiện rõ nhất
trong hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Nhìn từ mối quan
hệ giữa các thiết chế thuộc HTCT cơ sở với các thiết chế của xã hội tự quản truyền
thống cũng có thể nhận thấy những dấu hiệu bất hợp lý đang tồn tại, ảnh hưởng tới
hiệu quả thực thi dân chủ cơ sở. Cho đến nay, mức độ tương hợp giữa tổ chức và
hoạt động của HTCT cơ sở với vai trò của dòng họ và luật tục vẫn chưa thực sự hợp
lý. Một mặt, HTCT cơ sở chưa khai thác hết các khía cạnh tích cực của các yếu tố
của xã hội tự quản truyền thống, mặt khác cũng chưa ngăn chặn, gạt bỏ kịp thời
những khía cạnh tiêu cực, không phù hợp của chính các yếu tố này. Hệ quả dẫn tới
các cách xử lý không thuận chiều, thậm chí trái chiều nhau khi giải quyết các vấn đề
liên quan tới quyền dân chủ của người dân tại cơ sở.
Cũng trên phương diện tổ chức, biểu hiện của sự bất cập của các thiết chế
thực hiện dân chủ cơ sở nằm ở hạn chế của đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở. Đặc
96

biệt, năng lực của cán bộ, công chức cấp xã liên quan đến việc giải quyết các vấn đề
dân chủ còn nhiều yếu kém. Trình độ chuyên môn, khả năng điều hành, kỹ năng xử
lý các vấn đề do thực tiễn đặt ra đều còn hạn chế. Một số làm việc cảm tính, thụ
động, không nắm bắt được tình hình, không hiểu dân, không có khả năng thu hút sự
ủng hộ của dân, thiếu khả năng truyền tải các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước tới nhân dân, thiếu những kiến thức cơ bản về bảo đảm quyền con người.
Về phương diện hoạt động, mức độ bất cập của các thiết chế thực hiện dân
chủ cơ sở thể hiện rõ nhất trong phương thức hoạt động của cơ quan đại diện và
quyền lực (HĐND cấp xã) và Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân tại cơ sở.
Trên thực tế, mặc dù là cơ quan đại diện gần nhất của nhân dân, trực tiếp do nhân
dân giám sát nhưng hoạt động của HĐND cấp xã mang nhiều tính hình thức và
thiếu hiệu quả. HĐND chưa hội đủ điều kiện, môi trường để thực hiện đầy đủ vai
trò, trách nhiệm của một cơ quan đại diện quyền lực của nhân dân tại địa phương.
Chất lượng của các kỳ họp HĐND vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập so với yêu cầu
của giai đoạn mới. Vì những hạn chế về nhân sự, cơ chế hoạt động và điều kiện làm
việc nên trong nhiều hoạt động của mình HĐND còn thụ động và có phần ỷ lại cho
UBND trong việc chuẩn bị các kỳ họp (chuẩn bị tài liệu và những đảm bảo khác
cho kỳ họp; việc phổ biến và triển khai thực hiện nghị quyết…). Trong thực hiện
chức năng quyết định các vấn đề về phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng,
nhân sự… HĐND còn chờ đợi nhiều vào sự lãnh đạo của cấp ủy. Trong kỳ họp, có
nơi vẫn tồn tại tình trạng trầm lắng, đại biểu ít có ý kiến, ít tranh luận. Quá trình phổ
biến, vận động tổ chức thực hiện nghị quyết và những kế hoạch do mình đề ra,
HĐND cũng còn trông chờ nhiều vào sự tham gia, hỗ trợ của Mặt trận và các đoàn
thể quần chúng hoặc chờ đợi sự hỗ trợ của cấp trên. Ngoài ra, hoạt động giám sát
của HĐND tuy có được cải thiện nhưng những tiến bộ đó chưa nhiều, chưa đồng
đều. Vẫn còn một bộ phận đại biểu có trình độ chuyên môn thấp, năng lực hạn chế,
chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, vì vậy, nhiều đại biểu ngại tiếp xúc với cử tri,
nhất là ở những địa bàn có thành phần cử tri phức tạp, đã làm ảnh hưởng khá lớn
đến chất lượng đại diện và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân tại cơ sở. Trong
khi đó, nội dung và phương thức hoạt động của MTTQ Việt Nam, các đoàn thể
nhân dân chậm được đổi mới, một số phong trào chưa phát huy được tính tự giác, tự
97

nguyện tham gia của đoàn viên, hội viên, chất lượng các hoạt động còn thiếu bền
vững. Công tác tuyên truyền, phổ biến nội dung pháp luật về thực hiện dân chủ ở
xã, phường, thị trấn trong hệ thống các cơ quan Mặt trận và nhân dân ở nhiều địa
phương nhiều nơi còn mang tính thụ động và chưa được quan tâm kịp thời, thậm
chí tại một số địa phương (đặc biệt là vùng núi) Pháp lệnh số 34/2007 về dân chủ cơ
sở mới chỉ triển khai bằng văn bản, chưa thực sự đến được với dân. Hoạt động của
MTTQ và các đoàn thể còn hạn chế trong việc huy động đông đảo nhân dân chủ
động và tích cực đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của nhân dân, thậm chí không ít nơi Mặt trận còn né tránh, ngại
va chạm, do vậy chưa góp phần ngăn chặn có hiệu quả sự gia tăng tệ quan liêu,
tham nhũng, mất dân chủ, các biểu hiện tiêu cực khác trong đời sống kinh tế - xã
hội. Có thể nói, hoạt động của MTTQ tại cơ sở khá mờ nhạt. Bất cập lớn nhất có lẽ
từ những khiếm khuyết trong mô hình tổ chức và hoạt động tổng thể của cả hệ
thống. Với việc xác định MTTQ có chức năng “giám sát” hoạt động và “phản biện”
chính sách đối với hoạt động của bộ máy nhà nước, nhưng việc thiết kế mô hình
trên thực tế lại làm cho MTTQ lệ thuộc (thậm chí phụ thuộc) vào chính đối tượng bị
giám sát, phản biện về ngân sách, biên chế, cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động
thường xuyên... Rõ ràng, MTTQ không thể có vị thế độc lập tương đối và có tiếng
nói khách quan trong quá trình giám sát, phản biện… Vì vậy, hoạt động giám sát
của Mặt trận và nhân dân đối với chính quyền mặc dù đã có chuyển biến nhất định
nhưng chất lượng còn thấp, hiệu quả giám sát chưa cao, nhất là giám sát việc xây
dựng các công trình do ngân sách Nhà nước đầu tư ở cơ sở và giám sát việc thực
hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Liên quan đến những vấn đề cụ thể hơn, có thể thấy một số khía cạnh tổ chức
và hoạt động của thiết chế đang ít nhiều cản trở quá trình vận hành của cơ chế pháp
lý thực hiện dân chủ cơ sở như:
- Các địa phương đang có xu hướng biến thiết chế trưởng thôn/tổ trưởng tổ
dân phố thành một cấp chính quyền tại cấp xã và không có sự xây dựng linh hoạt,
khoa học trong mô hình tổ chức thiết chế này để phù hợp với điều kiện thực tiễn của
các vùng, miền, đặc điểm dân cư. Nhiều công việc lẽ ra phải do chính quyền cấp xã
thực hiện đang bị đẩy về cho trưởng thôn/ tổ trưởng tổ dân phố (như việc thu thuế,
98

thu phí, việc xác minh các thủ tục hành chính...), cách thức tổ chức và hoạt động
của thiết chế này cũng đang từng bước hành chính hóa và theo các khuôn mẫu
chung khá cứng nhắc: không có sự phân biệt giữa các vùng, miền, địa phương; giữa
đô thị, nông thôn và miền núi. Vậy, thiết chế thôn/ tổ dân phố có vị trí như thế nào
trong mô hình tổ chức bộ máy nhà nước? Là cánh tay nối dài của chính quyền cơ sở
hay là thiết chế tự quản tại cơ sở? Có nhất thiết cách thức tổ chức, trình tự hình
thành, địa vị pháp lý thiết chế này ở tất cả các vùng, miền, địa phương là như nhau
hay không? Đây là những câu hỏi đặt ra cần được giải mã.
- Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng đang hoạt
động tương đối hình thức, hiệu quả không cao. Những thiết chế trên không đủ cơ
chế và điều kiện thực tế để hoạt động hiệu quả (phụ thuộc vào chính quyền cơ sở về
ngân sách, kinh phí; các quy định về thẩm quyền mang tính hình thức, thiếu cơ sở
pháp lý để thực hiện; người dân không nhận thức được vị trí, tính chất hoạt động
của thiết chế này; trên thực tế người bị giám sát lại là người có quyền quyết định
những điều kiện làm việc cho người có quyền giám sát…). Ngoài ra, khi phát hiện
dấu hiệu vi phạm thì Thanh tra nhân dân chỉ có quyền kiến nghị xử lý còn việc xử
lý đến đâu, như thế nào, có phải trả lời hay không thì pháp luật chưa quy định.
- Đang xuất hiện vấn đề khó giải quyết liên quan đến số lượng và ngân sách
dành cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Theo thống kê, hiện nay, cả nước có
khoảng 11.148 xã, phường, thị trấn với gần 130.000 thôn, ấp, bản, tổ dân phố… rất
nhiều chức danh cán bộ: cán bộ trưởng thôn, phó trưởng thôn; bí thư chi bộ, trưởng
các đoàn thể chính trị (MTTQ, phụ nữ, cựu chiến binh, thanh niên, nông dân...) và
một số chức danh khác (hòa giải viên nhân dân, thanh tra nhân dân...). Đội ngũ cán
bộ này làm rất nhiều công việc góp phần vào thực hiện dân chủ ở cơ sở và được
hưởng lương/ phụ cấp từ ngân sách nhà nước. Như vậy, vấn đề đặt ra là các thiết
chế này sinh ra để thực hiện công việc của Đảng, Nhà nước hay thực hiện các công
việc của cộng đồng (với tư cách là đại diện cho các thành viên trong cộng đồng cơ
sở - thiết chế tự quản)? Trả lời câu hỏi đó sẽ liên quan đến việc thiết kế hợp lý nội
dung các văn bản pháp luật về chức năng, nhiệm vụ cũng như phụ cấp đối với các
chức danh này.
99

3.4. THỰC TRẠNG CÁC ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ
3.4.1. Thực trạng môi trường chính trị - pháp lý
Có thể khẳng định, hiện nay Việt Nam đang có môi trường chính trị tương
đối thuận lợi cho việc đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở. Trong nhận thức chính trị
của Đảng và Nhà nước Việt Nam, dân chủ và quyền con người là một khái niệm
tích cực, là một giá trị chung của nhân loại được tạo lập bởi sự phấn đấu của các
dân tộc qua các thời đại. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định thực hiện dân chủ trên
các phạm vi không gian khác nhau của đất nước là bản chất và mục tiêu của chế độ
xã hội ta, là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước, vì vậy chính sách nhất quán
của Nhà nước Việt Nam là phát huy dân chủ, tôn trọng và bảo đảm quyền con
người, thể hiện bằng luật pháp, bằng các chính sách cụ thể trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xây dựng và ngày
càng hoàn thiện. Nhà nước nỗ lực xây dựng và kiện toàn các thiết chế nhằm phát
huy dân chủ cơ sở trên thực tế. Hệ thống các cơ quan nhà nước đảm bảo thực hiện
chức năng bảo vệ pháp luật, đảm bảo các quyền dân chủ và lợi ích công dân được
củng cố. Nổi bật là vai trò của Quốc hội trong việc thực hiện chức năng giám sát
hoạt động của cơ quan nhà nước, việc bảo đảm tính độc lập của hệ thống tư pháp,
hiệu quả của hệ thống cơ quan điều tra nhà nước cũng như vai trò ngày càng tăng
của các tổ chức chuyên môn như Đoàn Luật sư, Hội Luật gia, cơ quan Công
chứng, Văn phòng trợ giúp pháp luật… Mặc dù, hiệu quả hoạt động của bộ máy
nhà nước được đánh giá không cao nhưng so với các nước bất ổn trong khu vực
thì được xem là tốt. Mức độ minh bạch hóa các hoạt động của Nhà nước từng
bước được cải thiện. Mức độ ổn định chính trị đạt ở mức lý tưởng so với các nước
trong khu vực. Cạnh tranh chính trị theo nghĩa của phương Tây không diễn ra
nhưng lòng tin và sự ủng hộ của người dân đối với chính phủ rất cao, hơn nữa đã
bắt đầu hình thành cơ chế phản biện xã hội như một hình thái “đối trọng” được
Nhà nước khuyến khích. Vị thế của các tổ chức, đoàn thể xã hội, giới truyền thông
trong việc thúc đẩy dân chủ, nhân quyền ngày càng được nâng cao thông qua việc
tăng cường vai trò giám sát, phản biện xã hội của các thiết chế này theo nguyên
tắc nhà nước pháp quyền. Trên thực tế, môi trường tự do cho hoạt động của công
dân ngày càng được mở rộng hơn. Trên bình diện toàn xã hội, không khí dân chủ,
cởi mở có mức độ lan tỏa nhanh.
100

Trên bình diện pháp lý, Việt Nam đang có điều kiện thuận lợi cho việc đảm
bảo thực thi dân chủ cơ sở nếu xét từ góc độ ghi nhận các quyền dân chủ của con
người và mức độ bao trùm của hệ thống pháp luật đối với các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hóa các nguyên tắc và nội dung dân chủ
thành các quy định làm cơ sở cho việc ban hành các chính sách, pháp luật cụ thể để
hiện thực hóa dân chủ trong thực tiễn đời sống xã hội. Hệ thống luật chế định các
quyền dân chủ cơ bản của con người đang được hoàn thiện dần và đặc biệt phát
triển từ sau khi ban hành bản Hiến pháp năm 2013. Về cơ bản, điều kiện pháp lý
trực tiếp phục vụ dân chủ cơ sở đã có sự tiến bộ rõ rệt, thể hiện trên một số mặt: (1)
Mối quan hệ pháp lý giữa nhà nước và công dân trong các quan hệ pháp luật cụ thể
thể hiện ngày càng bình đẳng hơn về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm. Xu thế dân
chủ hóa xã hội và hoạt động của Nhà nước ngày càng được nâng cao; (2) Hiến pháp
và pháp luật của nước ta có nhiều quy định đề cao trách nhiệm của Nhà nước trong
việc phục vụ nhân dân; thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện trên thực
tế quyền con người, quyền công dân; (3) Hiến pháp và pháp luật ghi nhận đầy đủ
hơn phương thức thực hiện dân chủ của nhân dân bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ
đại diện, tạo điều kiện thuận lợi hơn để nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm soát
quyền lực nhà nước có hiệu quả.
Những tiến bộ trong việc tạo lập điều kiện pháp lý bảo đảm thực thi dân chủ
cơ sở cũng thể hiện qua sự hiện hữu của các cơ chế pháp lý và mức độ hiện thực
hóa các cơ chế có liên quan trong việc đưa các quy định pháp luật về quyền con
người trở thành thực tiễn luật pháp. Có thể nhận thấy rõ nhất là ở mức độ kiện toàn
các thiết chế đảm bảo quyền con người và đặc biệt là ở sự chuyển biến mạnh mẽ
của các cơ chế pháp lý như bầu cử, ứng cử, chất vấn, khiếu nại, tố cáo, phòng chống
tham nhũng,… cho phép sự tham gia trực tiếp của người dân trong việc giám sát đối
với hoạt động của Nhà nước trong lĩnh vực thực hiện quyền con người.
Tuy nhiên, điều kiện chính trị - pháp lý đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở ở
Việt Nam tồn tại không ít bất cập.
Trước hết, đó là sự chưa đồng bộ trong hệ thống nhà nước và cùng với nó là
tình trạng thiếu minh bạch trong hoạt động nhà nước chậm được khắc phục. Nạn
tham nhũng chưa có biện pháp ngăn chặn hữu hiệu mặc dù Chính phủ có quyết tâm
101

rất cao. Đây là yếu tố chính trị bất lợi nhất cho những cố gắng đảm bảo thực hiện
dân chủ ở nước ta hiện nay. Nhận thức chính trị của giới chức lãnh đạo có những
chuyển biến tốt nhưng văn hóa chính trị thể hiện trong ứng xử đối với con người và
tư cách chủ thể quyền lực của con người của đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ
thống hành chính nhà nước còn nhiều tồn tại. Lối sống vị kỷ chỉ lo vun đắp cho bản
thân, thái độ vô cảm trước nỗi đau của con người, sự thiếu trách nhiệm trong thực
hiện chức trách hành chính và chuyên môn... còn diễn ra khá phổ biến.
Môi trường pháp lý ở Việt Nam hiện nay hoàn toàn chưa phải là môi trường
lý tưởng cho việc đảm bảo phát huy dân chủ cơ sở. Nhìn tổng thể hệ thống pháp
luật chế định quyền con người và hoạt động nhà nước phục vụ quyền con người
chưa theo kịp thực tiễn. Vẫn còn một số quyền hiến định liên quan trực tiếp tới thực
thi dân chủ chưa được cụ thể hóa thành luật (các Luật liên quan đến quyền được lập
hội, quyền thông tin, quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng, quyền trưng cầu ý dân,
quyền tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước và xã hội…); mối quan hệ nội tại
trong hệ thống luật còn chồng chéo, mâu thuẫn; trong một số trường hợp, việc “cấy
ghép” khiên cưỡng, nội luật hóa thiếu chọn lọc đã làm cho nội dung luật vừa thiếu
tính cập nhật vừa ít phù hợp với thực tế Việt Nam, không phản ánh được tính đặc
thù của quá trình thực thi quyền con người nói chung, các quyền chính trị nói riêng;
các cơ chế minh bạch hóa pháp luật chưa được quan tâm xây dựng đúng mức…
Nhìn rộng hơn, tính pháp quyền chưa bao trùm, điều chỉnh hết các chủ thể và mối
quan hệ xã hội. Nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động của Nhà nước
chưa được thể chế hóa đầy đủ và thực thi nghiêm túc trên thực tế. Vai trò lãnh đạo
của Đảng, vị trí cầm quyền và phương thức thực hiện còn chưa được xác định đầy
đủ bằng pháp luật.
3.4.2. Thực trạng điều kiện kinh tế - xã hội
Tốc độ thúc đẩy nhanh nhất trong việc tạo lập các điều kiện đảm bảo thực
hiện dân chủ nói chung, dân chủ cơ sở nói riêng ở nước ta nằm trong lĩnh vực kinh
tế. Nhờ công cuộc đổi mới và đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt ở mức cao liên tục
trong hơn một thập kỷ qua. Sau 30 năm đổi mới, thu nhập bình quân đầu người đã
tăng gấp hơn 5 lần, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quốc gia giảm ấn tượng, ở mức 4 lần
102

(từ 60% xuống còn 13,8%). Chuẩn nghèo quốc gia của Việt Nam từng bước được
nâng lên và đang dần tiếp cận với chuẩn nghèo quốc tế. Quỹ tiêu dùng của người
dân được bổ sung rõ rệt, thể hiện qua sức tăng mạnh mẽ của tổng mức bán lẻ hàng
hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng của cả nước. Sau khi gia nhập Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO) năm 2006, Việt Nam đã hoàn thành quá trình hội nhập quốc tế
trên lĩnh vực kinh tế, tạo đà cho sự phát triẻn mới về kinh tế trong bối cảnh toàn cầu
hóa. Nhiều nhà đầu tư có tiềm năng của nước ngoài đã làm ăn có hiệu quả tại Việt
Nam, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động, mặt
khác, các doanh nghiệp Việt Nam bước đầu đã đầu tư ra nước ngoài, góp phần tăng
tổng thu nhập quốc dân của Việt Nam. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng giúp cho Việt
Nam tiếp cận được với những thành tựu của nền kinh tế tri thức. Cơ sở hạ tầng về
công nghệ thông tin thấp song lại là lĩnh vực có tỷ lệ phát triển nhanh chóng, đóng
góp một phần cho sự ra đời của một kênh phản biện xã hội mới. Tăng trưởng kinh
tế ở nước ta diễn ra trong trạng thái tương đối an toàn, chưa gặp phải khủng hoảng
kinh tế trầm trọng, mặc dù một tương quan hợp lý giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển bền vững chưa được xác lập trên bình diện toàn xã hội. Như vậy, môi trường
kinh tế của Việt Nam chưa thực sự ổn định và đủ độ mạnh, chưa phải là môi trường
lý tưởng đảm bảo thực hiện thật tố dân chủ cơ sở nhưng đã có nhiều điểm sáng. Đặc
biệt, tốc độ hình thành các điều kiện kinh tế tăng nhanh đã cho phép duy trì một tinh
thần lạc quan trong việc thu hẹp khoảng cách bất cập giữa trạng thái kinh tế hiện
hành với yêu cầu tạo lập nền tảng kinh tế cần thiết cho mục tiêu bảo đảm tốt nhất
dân chủ, nhân quyền.
Về mặt xã hội, văn hóa nhân quyền ở nước ta đang đạt ở mức độ thấp so với
yêu cầu thực hiện dân chủ cơ sở. Đặc biệt, trong văn hóa nhân quyền, các yếu tố cấu
thành là các giá trị truyền thống (dân chủ, khoan dung) được đánh giá tích cực theo
hướng ủng hộ nhân quyền còn năng lực và thái độ sẵn sàng đối với việc thực thi
nhân quyền thể hiện ở nhận thức về quyền, cách tiếp cận dựa trên quyền và khả
năng vận dụng công cụ thực hiện quyền để giải quyết những công việc hàng ngày
của các chủ thể mang quyền còn rất hạn chế. Điều này phản ánh mức độ thấp trong
việc nâng cao năng lực cho các chủ thể mang quyền và cho thấy hoạt động thông
tin, tuyên truyền, giáo dục về dân chủ, nhân quyền chưa đạt yêu cầu.
103

Dân trí được hiểu là mức độ nhận thức chung của nhân dân trong một phạm
vi nhất định. Dân trí và nhận thức pháp luật luôn đi liền với nhau và có tính tiền đề,
bổ sung nhau. Trình độ dân trí cao thì nhận thức pháp luật của nhân dân cao và
ngược lại. Khi dân trí, kiến thức và hiểu biết pháp luật được nâng lên thì năng lực sử
dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân cũng
được nâng lên. Trong thời gian vừa qua, trạng thái dân trí ở Việt Nam đã được cải
thiện đáng kể, từ đó tính tích cực chính trị, tính tích cực công dân và năng lực hiểu
biết, thực hành pháp luật của người dân được nâng lên. Tuy nhiên, hiện nay dân trí
của nước ta không đồng đều, kiến thức và sự hiểu biết pháp luật của đa số nhân dân
còn hạn chế, mức độ nhận thức có sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa
miền xuôi và miền núi, giữa các dân tộc, tôn giáo với nhau. Công bố của Viện khoa
học thống kê (Tổng cục Thống kê) qua nghiên cứu một đề tài khoa học năm 2011
cho thấy tỉ lệ người biết chữ trên toàn quốc đạt 93,6%. Báo cáo phát triển con người
(HDR) năm 2011 do UNDP công bố cho thấy Việt Nam đã đạt số năm học trung
bình cho người dân là 5,5 năm. Về hiểu biết pháp luật: "Theo con số thống kê, hiện
nay 90% nông dân chưa hiểu biết về pháp luật, trong số đó có 50% không hiểu biết.
Ở vùng cao, vùng sâu, thậm chí nhiều người còn không hiểu luật sư là ai, làm việc
gì" [149, tr.292]. Tình trạng này dẫn đến các biểu hiện tha hoá quyền lực như: lộng
quyền, lạm quyền, quan liêu, tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực khác từ phía cơ
quan nhà nước. Cũng vì thế mà sống và làm việc theo pháp luật, tuân thủ pháp luật
và sử dụng pháp luật để đấu tranh với các hành vi sai trái của cơ quan, cán bộ, công
chức nhà nước chưa trở thành thói quen của người dân. Một bộ phận nhân dân thiếu
niềm tin, tình cảm đối với pháp luật và cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước nên
không tự giác thực hiện pháp luật, dễ bị dân chủ quá đà, bị xúi giục, lôi kéo vào các
hoạt động trái pháp luật...

3.5. THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC HIỆN DÂN
CHỦ CƠ SỞ
3.5.1. Những tác động tích cực
Thứ nhất, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đã tác động tích cực đến
nhận thức và khả năng làm chủ của người dân, tác động mạnh mẽ đến ý thức, trách
nhiệm và năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở.
104

Trình độ dân chủ của xã hội nói chung đã được nâng lên một bước, làm cho
đời sống chính trị của đất nước đã cởi mở hơn, quyền con người, quyền công dân
được bảo đảm tốt hơn. Thực hiện dân chủ cơ sở đã khơi dậy sức mạnh tiềm tàng
của nhân dân lao động, phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của nhân dân trong
quá trình xây dựng Nhà nước và xã hội, giải quyết những vấn đề lớn về quốc kế,
dân sinh.
Đặc biệt, Pháp lệnh năm 2007 là một chủ trương đúng đắn nên có tác dụng
nâng cao nhận thức của cán bộ, chất lượng hoạt động của chính quyền, có tác dụng
tích cực đối với việc rèn luyện, giữ gìn phẩm chất, đạo đức của đội ngũ cán bộ cấp
xã. Việc thực hiện Pháp lệnh năm 2007 giúp cán bộ, chính quyền cơ sở giải tỏa
được một số lo ngại trước đây về việc thực hiện dân chủ ở cấp xã [157].
Theo kết quả điều tra xã hội học của tác giả Nguyễn Hồng Chuyên, trong
việc thực hiện dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn, đối với việc thực hiện những
nội dung công khai để nhân dân biết, 88% cán bộ, công chức cấp xã và 83,7% số
người dân được hỏi khẳng định chính quyền cấp xã đã thực hiện ở mức độ tương
đối tốt. Đối với việc thực hiện những nội dung nhân dân bàn và quyết định,
chính quyền cấp xã các địa phương ở nước ta đã thực hiện khá tốt, 88% cán bộ,
công chức cấp xã và 81% số người dân được hỏi khẳng định như vậy [14]. Trên
địa bàn xã, phường, thị trấn, những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp
gồm có: mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, lập và thu chi các loại quỹ, quy
ước, hương ước làng xã văn hóa, dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp, thành lập
Ban giám sát công trình do dân tự nguyện đóng góp và bảo vệ sản xuất v.v…
Những nội dung công việc nêu trên được thực hiện nghiêm túc bằng cách họp
thôn, làng, tổ dân phố hoặc phiếu lấy ý kiến các hộ gia đình, tạo được sự thống
nhất cao trong nhân dân và thực hiện có kết quả trên thực tế. Ví dụ, ở thành phố
Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, nhân dân được bàn và quyết định trực tiếp về chủ
trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công
cộng ở phường, xã, phố, thôn như: nâng cấp hệ thống điện, đường, trường, trạm,
xây dựng nhà văn hóa, đóng góp các loại quỹ, tham gia xây dựng quy ước,
hương ước phố, làng văn hóa, xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang
105

và lễ hội, phòng chống tệ nạn xã hội và các công việc khác trong nội bộ cộng
đồng dân cư phù hợp với quy định của pháp luật [17]. Đối với những nội dung
nhân dân được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định, đa
số chính quyền cấp cơ sở trên phạm vi cả nước thực hiện khá tốt. Cũng theo kết
quả điều tra xã hội học nêu ở phần trên, 84.28% cán bộ, công chức cấp xã và
78.18% số người dân được hỏi khẳng định như vậy). Các nội dung nhân dân
tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định bao gồm: dự thảo
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của xã; phương án chuyển đổi cơ cấu kinh tế,
cơ cấu sản xuất; phương án phát triển ngành nghề; dự thảo quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất chi tiết và phương án điều chỉnh; việc quản lý, sử dụng quỹ đất của
xã; chủ trương, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở
hạ tầng… Hình thức thực hiện các nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi
cơ quan có thẩm quyền quyết định đã được chính quyền cơ sở triển khai chủ yếu
bằng cách; họp đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố; phát
phiếu lấy ý kiến và sử dụng hòm thư góp ý. Đối với việc thực hiện quyền giám
sát của nhân dân ở cơ sở, phần lớn nhân dân ở các địa phương đã thực hiện ở
mức độ tốt và khá, 79.63% cán bộ, công chức cấp xã và 71.49% số người dân
được hỏi khẳng định như vậy. Theo quy định của Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở
xã, phường, thị trấn, nhân dân được quyền giám sát đối với tất cả các nội dung
mà họ được công khai để biết, được bàn và quyết định trực tiếp, được bàn và
biểu quyết và được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định.
Nhân dân thực hiện việc giám sát những nội dung đó theo các hình thức: thông
qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng
hoặc trực tiếp thực hiện việc giám sát thông qua quyền khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Chẳng hạn, ở thành phố Thanh Hóa,
nhân dân được tham gia giám sát việc quản lý quy hoạch sử dụng đất đai, về
triển khai các dự án, chế độ chính sách đền bù giải phóng mặt bằng, chế độ quản
lý tài chính, quyết toán thu chi ngân sách, các khoản đóng góp của nhân dân để
xây dựng cơ sở hạ tầng của địa phương… Nhờ đó, quyền dân chủ được phát huy,
ý thức trách nhiệm và tinh thần làm chủ của nhân dân được nâng lên, việc huy
106

động sức dân để đầu tư phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô
thị được triển khai thuận lợi, công tác quản lý tài chính, nguồn vốn trong xây
dựng cơ sở hạ tầng ở xã chặt chẽ hơn… [17].
Thứ hai, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đã góp phần củng cố và
hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở.
Hệ thống tổ chức Đảng cơ sở không ngừng phát triển về số lượng và kiện
toàn về tổ chức. Đặc biệt cơ chế thực hiện dân chủ cơ sở đã tạo ra những chuyển
biến tích cực trong hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn. Nhìn chung,
năng lực đội ngũ đảng viên được nâng cao, năng động hơn, hoạt động có hiệu quả
hơn, dám chịu trách nhiệm và biết tổ chức quản lý, xử lý các tình huống dân chủ
theo luật định.
Các cấp chính quyền đã đổi mới phong cách làm việc theo hướng gần dân,
sát dân hơn; tôn trọng, lắng nghe và chân thành tiếp thu ý kiến, nguyện vọng chính
đáng của nhân dân, chăm lo đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân; giải quyết
kịp thời những vướng mắc của nhân dân; đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành
chính theo cơ chế một cửa. Chính quyền cơ sở cũng như các cơ quan tổ chức đã gắn
việc thực hiện dân chủ cơ sở với việc thực hiện các kế hoạch, chương trình phát
triển kinh tế, xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời
sống của người dân, người lao động. Bên cạnh đó chính quyền cơ sở cũng đã gắn
kết việc thực hiện dân chủ cơ sở với việc phát triển văn hóa, nâng cao đời sống tinh
thần của người dân, người lao động.
Mối quan hệ giữa chính quyền với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể được
tăng cường; quyền và nghĩa vụ của công dân được thực hiện tốt hơn; vai trò tự quản
của cộng đồng dân cư ngày càng phát huy hiệu quả và được khẳng định. Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể đã đổi mới nội dung và phương pháp hoạt động, thể hiện
rõ trách nhiệm như: Trực tiếp sinh hoạt, trao đổi và cùng với nhân dân tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc ở cơ sở, động viên đoàn viên, hội viên và các tầng lớp
nhân dân tích cực tham gia các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước ở
cơ sở. Bên cạnh đó, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể còn tham gia giám sát hoạt
động của chính quyền cơ sở, góp phần quan trọng trong xây dựng và củng cố hệ
107

thống chính trị vững mạnh, xây dựng cộng đồng dân cư tự quản ở thôn, làng, tổ dân
phố, làm thay đổi bộ mặt nông thôn, thành thị.
Ở một số địa phương, ngoài vai trò của đội ngũ cán bộ công chức cấp xã còn
phát huy mạnh mẽ vai trò của đội ngũ cán bộ tự quản như trưởng thôn, tổ trưởng
dân phố trong công tác thực hiện dân chủ cơ sở.
Thứ ba, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đã thúc đẩy bầu không khí
dân chủ, đảm bảo quyền lực nhân dân, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế, lành
mạnh hóa các quan hệ văn hóa - xã hội tại địa bàn cơ sở.
Theo đánh giá chung được nêu trong Kết luận số 65-KL/TW của Ban Bí thư
ngày 04/3/2010, sau hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị
(khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở: cấp ủy, chính quyền,
mặt trận, đoàn thể các cấp đã có nhiều biện pháp chỉ đạo, triển khai sâu rộng, làm
chuyển biến tích cực về nhận thức, quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của
Nhà nước đối với việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở… Dân chủ và
thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, nhất là dân chủ trực tiếp của nhân
dân tiếp tục được coi trọng, tăng cường. Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở đã góp phần đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng,
quản lý, điều hành của Nhà nước; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của
mặt trận, các đoàn thể nhân dân; phát huy tính tiền phong, gương mẫu, chấn chỉnh
phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công chức theo hướng sát dân, trọng dân và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của các
tầng lớp nhân dân; góp phần quan trọng trong phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng
quan liêu, tham nhũng, lãng phí; tăng cường đoàn kết, đồng thuận xã hội, củng cố
mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; chống lại các âm mưu lợi
dụng dân chủ, dân tộc, tôn giáo, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Chính quyền cơ sở cũng như các cơ quan tổ chức đã gắn việc thực hiện dân
chủ cơ sở với việc thực hiện các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế, xã hội,
xây dựng cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời sống của người dân,
người lao động. Bên cạnh đó chính quyền cơ sở cũng đã gắn kết việc thực hiện dân
chủ cơ sở với việc phát triển văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần của người dân,
người lao động. Kết quả số liệu khảo sát của Dự án nói trên cho thấy, ở các tiêu chí
108

cơ bản của đời sống xã hội đã nhận được sự đánh giá về chất lượng tăng lên, trong
đó có sự tác động tích cực của công tác triển khai một số công việc cụ thể theo Pháp
lệnh năm 2007.
3.5.2. Những hạn chế, bất cập
Bên cạnh những tác động tích cực đã nêu, việc triển khai cơ chế pháp lý thực
hiện dân chủ cơ sở vẫn còn những bất cập, hạn chế, gây tác động tiêu cực đến nhận
thức và các kết quả phát trển kinh tế, xã hội trên địa bàn cơ sở ở nước ta. Điều này
thể hiện tập trung và rõ nhất ở quá trình triển khai thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở
mà điển hình nhất là Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007.
Theo Kết luận số 65-KL/TW của Ban Bí thư, nhìn chung, việc xây dựng và
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở mới được triển khai tích cực ở loại hình xã,
phường, thị trấn; ở các loại hình cơ sở khác kết quả còn hạn chế. Việc xây dựng và
thực hiện các quy chế, quy ước, hương ước không ít nơi còn hình thức, chất lượng
chưa cao, chưa thành nền nếp. Một số xã, phường, thị trấn chưa làm tốt việc công
khai, dân chủ về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giá cả đền bù khi chuyển mục
đích sử dụng đất, chính sách tái định cư. Không ít cơ quan thiếu công khai, dân chủ
về quản lý thu, chi tài chính công, nâng lương, quy hoạch đào tạo, đề bạt cán bộ.
Phần lớn các doanh nghiệp tư nhân, cơ sở dịch vụ ngoài công lập và một số doanh
nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn chưa xây dựng,
thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; thiếu công khai, dân chủ về sản xuất, kinh doanh,
tiền lương, tiền thưởng và thực hiện chế độ bảo hiểm đối với người lao động. Một
số nơi nội bộ lãnh đạo cấp ủy, chính quyền mất đoàn kết; tình trạng quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa được ngăn chặn kịp thời; tình hình khiếu kiện của
nông dân, đình công, bãi công của công nhân diễn biến phức tạp, ảnh hưởng không
nhỏ đến lòng tin của nhân dân đối với cấp ủy, chính quyền.
Những kết quả đạt được, nếu so với mục tiêu, yêu cầu về dân chủ và thực
hành dân chủ mà Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị đã đề ra, cũng như so với
mong đợi của người dân, thì vẫn còn khoảng cách, mới chỉ dừng lại ở một số việc
cụ thể. Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở diễn ra chưa đồng bộ, chưa đều, có
nơi đã trở thành nề nếp, có nơi triển khai còn chậm. Một số cấp ủy, chính quyền có
biểu hiện “khoán trắng” cho Ban chỉ đạo; Ban chỉ đạo ở một số nơi chậm được kiện
109

toàn, chưa có kế hoạch kiểm tra thường xuyên, vai trò của từng thành viên chưa
được phát huy nên kết quả thực hiện còn hạn chế.
Những hạn chế cụ thể được thể hiện ở các mặt sau đây:
Thứ nhất, nhận thức của nhân dân về các quyền làm chủ của người dân ở cơ
sở còn thấp.
Nhiều người dân vẫn chưa biết đến các văn bản, chính sách, pháp luật về
thực hiện dân chủ ở cơ sở. Theo kết quả điều tra xã hội học của tác giả Nguyễn
Hồng Chuyên, chỉ có 55,58% người dân được hỏi trả lời rằng họ nắm bắt được
phần lớn nội dung pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở và nắm bắt được những
nội dung chính của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở. 27,5% người dân được
hỏi cho biết họ chỉ nắm bắt được một số nội dung mà nhân dân được bàn và quyết
định, tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định hoặc được giám
sát; 13,54% chỉ nắm được một số ít nội dung mà nhân dân được bàn và quyết định
trực tiếp, và 3,38% hầu như không nắm được nội dung của pháp luật về thực hiện
dân chủ ở cơ sở. Không chỉ có người dân mà ngay cả một số cán bộ, công chức cấp
xã cũng thiếu hiểu biết pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở [14]. Ở không ít địa
phương, người dân tỏ ra thờ ơ, cho rằng Quy chế dân chủ ở cơ sở ít có tác dụng cho
bản thân. Một số cán bộ chính quyền, nhất là người có chức, có quyền chưa thực sự
cùng gia đình gương mẫu chấp hành để người dân học tập, noi theo.
Thứ hai, kết quả hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị cơ sở
chưa có đổi mới đột phá, làm hạn chế các quyền dân chủ của người dân. Thể hiện
cụ thể:
Một là, những nội dung công khai để nhân dân biết đôi khi còn chưa đến
được với mọi người dân. Nhiều nơi xem việc công khai thông tin không phải là
nghĩa vụ của chính quyền cấp xã, đôi khi thông tin bị bưng bít, khi mọi thứ đã xong
xuôi thì người dân mới là người nắm thông tin cuối cùng, ví dụ: các vấn đề về địa
giới hành chính, quy hoạch, dự án đầu tư xây dựng, thông tin về các vấn đề về dịch
bệnh… Nhiều người dân đi làm cả ngày nên chưa tiếp xúc nhiều với các nội dung
công khai; hình thức công khai chủ yếu là qua loa truyền thanh, ít người nghe và
chú ý, thời lượng phát thanh còn ngắn nên hiệu quả thấp. Ở một số địa phương, đối
với những việc chính quyền xã phải thông báo công khai để nhân dân được biết,
110

trên thực tế việc này chưa được tổ chức thực hiện hoặc thực hiện chưa đạt yêu cầu,
như quy định công khai dự toán và quyết toán ngân sách xã hàng năm chưa được
minh bạch nên nhân dân chưa thông suốt sinh ra hoài nghi. Về việc chính quyền địa
phương phải thông tin về quyết toán thu - chi các quỹ, dự án, các khoản đóng góp
xây dựng cơ sở hạ tầng ở thôn, tổ dân phố, có một số nơi triển khai chưa chu đáo,
thiếu công khai cụ thể cho dân biết.
Hai là, những nội dung do nhân dân bàn và quyết định trực tiếp, cũng còn
một số tồn tại. Đôi lúc, đôi nơi, chính quyền địa phương tự quyết định những nội
dung mà lẽ ra phải do dân bàn và quyết định, dẫn đến vi phạm quyền dân chủ của
nhân dân. Vẫn còn một bộ phận không nhỏ nhân dân chưa có ý thức đầy đủ về
quyền dân chủ của mình trong xã hội, chưa có sự tham gia đầy đủ trong các hoạt
động chính trị, kinh tế, xã hội, nhiều nơi nhân dân tham gia thảo luận không cởi mở,
sự bàn bạc, thảo luận chỉ dừng lại ở việc thôn đưa ra nội dung để nhân dân thảo
luận, nhân dân không được quyền đưa ra ý kiến mới để thảo luận trong cuộc họp.
Ba là, những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm
quyền quyết định, cũng còn những hạn chế, bất cập. Ở nhiều nơi, nhiều chỗ vẫn còn
mang căn bệnh dân chủ hình thức. Việc lấy ý kiến đóng góp của nhân dân còn gặp
rất nhiều khó khăn, do nhận thức của nhân dân còn thấp nên các nội dung nhân dân
tham gia ý kiến còn ít. Số lượng người dân tham gia đóng góp ý kiến trực tiếp hoặc
qua đại diện còn hạn chế, chất lượng các ý kiến thấp, đôi khi không có đủ thời gian
để nhân dân nghiên cứu, nêu các đề xuất, kiến nghị. Ví dụ, ở thành phố Hải Phòng,
việc lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, nhất là về các công trình dự án, quy hoạch,
quản lý và sử dụng đất đai và các chế độ chính sách có liên quan đến nhân dân chưa
được triển khai có nề nếp, thậm chí còn biểu hiện rất hình thức.
Bốn là, việc nhân dân thực hiện quyền giám sát, đây là khâu yếu hơn cả
trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Hầu hết mọi công việc được giám sát thông
qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân và Ban giám sát cộng đồng, nhân dân
chỉ tham gia được một phần nhỏ. Nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát quá
trình thực hiện công việc của chính quyền cơ sở là rất khó khăn, người dân khó tiếp
cận được với những tài liệu, hồ sơ cần để phục vụ cho việc kiểm tra, giám sát.
Nhiều khiếu nại, tố cáo của nhân dân chưa được giải quyết dứt điểm và thấu đáo
111

dẫn đến kiện tụng và khiếu kiện kéo dài gây bức xúc trong nhân dân, nhiều vụ việc
vi phạm quy chế được nhân dân phát hiện, kiến nghị nhưng bị chính quyền cơ sở
gây khó dễ, không tin tưởng và còn có những thái độ thờ ơ với ý kiến của nhân dân,
do đó, nhiều nơi nhân dân không mặn mà với quyền giám sát của mình. Ví dụ, ở
tỉnh Quảng Nam, những việc nhân dân giám sát, kiểm tra thực hiện còn nhiều yếu
kém. Một số công trình phục vụ dân sinh như nhà sinh hoạt, đường giao thông nông
thôn, nhân dân có giám sát, nhưng một số công trình khác có quy mô lớn do cấp
trên làm chủ đầu tư thì chức năng giám sát của nhân dân chưa được coi trọng [15].
Thứ ba, tác động của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở nói chung, của
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn nói riêng đến xây dựng, phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội tại địa bàn cơ sở còn hạn chế.
Trước hết, tác động của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở diễn ra
không đồng đều ở các địa phương, đặc biệt ở miền núi vẫn tồn tại tương đối phổ
biến tình trạng đói nghèo, lạc hậu, dân trí thấp.
Chất lượng và tính bền vững của tăng trưởng kinh tế ở cơ sở chưa cao, chưa
chủ động. Một số cơ sở chưa kịp thời nắm bắt và giải quyết những vấn đề mới nảy
sinh trong xã hội, đặc biệt là tình trạng bức xúc và khiếu kiện liên quan đến đất đai.
Điều này gắn với nhận thức về dân chủ của một bộ phận dân cư chưa đúng đã dẫn
tới một số diễn biến phức tạp, tạo ra một số điểm nóng về dân chủ tại địa bàn cơ sở,
gây giảm sút niềm tin của nhân dân vào chế độ xã hội.
3.5.3. Nguyên nhân của các kết quả và hạn chế
3.5.3.1. Nguyên nhân của các kết quả
Thứ nhất, đường lối, chính sách pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở đúng
đắn, kịp thời, hợp lòng dân.
Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã được thể hiện
trong nhiều văn kiện, nghị quyết của Đảng và được Nhà nước thể chế hóa thành
pháp luật. Cùng với đó là việc thực hiện tốt phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ” nhằm phát huy quyền làm chủ của dân, thu hút
nhân dân tham gia quản lý, kiểm soát nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái,
quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng, qua đó, xây dựng bộ máy chính quyền
cấp xã ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; góp phần
112

to lớn vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Quá trình này đã
tạo ra bầu không khí dân chủ trong xã hội, được đông đảo các tầng lớp nhân dân
đồng tình, ủng hộ, nhờ đó đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Thứ hai, sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt của các cấp ủy Đảng, chính
quyền các cấp, nhất là cấp cơ sở.
Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về thực hiện Quy chế dân
chủ, cho đến nay, 100% đơn vị hành chính từ cấp tỉnh, cấp huyện cho đến cấp xã
trên toàn quốc đã thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, đồng
thời thường xuyên bổ sung, kiện toàn thành viên và phân công nhiệm vụ cụ thể cho
từng thành viên phù hợp với sự biến động, thay đổi nhân sự của địa phương. Phần
lớn Đảng bộ, chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện trên toàn quốc đã quán triệt đầy đủ,
sâu sắc ý nghĩa, vai trò của việc thực hiện dân chủ cơ sở và lãnh đạo, chỉ đạo quyết
liệt, sát sao, thể chế hóa kịp thời, đầy đủ các quan điểm, chủ trương của Đảng và
Nhà nước về thực hiện dân chủ cơ sở.
Đặc biệt, cấp ủy Đảng và chính quyền cấp xã ở nhiều nơi đã nhận thức sâu
sắc vai trò của hoạt động thực hiện dân chủ cơ sở đối với việc phát huy các quyền
dân chủ của nhân dân nên đã triển khai và thực hiện nghiêm túc, tích cực sự chỉ đạo
của cấp trên.
Tổ chức Đảng cơ sở, đội ngũ công chức lãnh đạo chính quyền, các doanh
nhân, những người đứng đầu các tổ chức xã hội ở cơ sở đã ngày càng ý thức được
rõ ràng vai trò của phát huy dân chủ và đồng thuận xã hội đối với hiệu quả của quá
trình thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương. Trên cơ sở
đó, lực lượng này đã quan tâm thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở như là một
khâu trong chu trình quản lý.
Thứ ba, sự vào cuộc mạnh mẽ, tâm huyết của đội ngũ cán bộ công chức tại
đơn vị cơ sở.
Ở cơ sở, đội ngũ cán bộ công chức là lực lượng nòng cốt, đi tiên phong trong
công tác tuyên truyền, tổ chức, hướng dẫn, vận động các tầng lớp nhân dân thực
hiện dân chủ cơ sở. Cán bộ công chức đảng viên có nhiệm vụ tổ chức, tham gia
thực hiện phải là người gương mẫu, đi đầu thực hiện dân chủ cơ sở để làm gương
cho nhân dân, cho người lao động. Bởi vậy, những kết quả đạt được trong thực hiện
113

dân chủ cơ sở không thể tách rời vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ công
chức, đảng viên tại cơ sở.
Ở một số địa phương, ngoài vai trò của đội ngũ cán bộ công chức cấp xã còn
phát huy mạnh mẽ vai trò của đội ngũ cán bộ tự quản như trưởng thôn, tổ trưởng
dân phố trong công tác thực hiện dân chủ cơ sở.
Thứ tư, sự đồng thuận, ủng hộ và tham gia chủ động, tích cực của các tầng
lớp nhân dân tại đơn vị cơ sở.
Pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta trong những năm qua đã như
luồng sinh khí mới vào đời sống sinh hoạt chính trị, xã hội ở các địa phương. Chính
vì vậy, việc triển khai thực hiện dân chủ cơ sở đã nhận được sự đồng thuận, ủng hộ
và tham gia chủ động, tích cực của các tầng lớp nhân dân, mang lại những thành
tựu, kết quả tích cực. Khi nhân dân đã thông suốt về tư tưởng, đồng thuận cao với
chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước thì việc thực hiện dân chủ cơ sở sẽ
trở nên thuận lợi, dễ dàng. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có tổng kết:
“Dễ mười lần không dân cũng chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
3.5.3.2. Nguyên nhân của hạn chế, bất cập
Thứ nhất, do pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở còn thiếu và bất cập.
Như đã phân tích ở trên, pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở hiện đang
thiếu tính đồng bộ và toàn diện. Nhiều quy định lạc hậu, thậm chí mâu thuẫn, chồng
chéo. Hiện cũng đang thiếu nhiều quy định trong điều chỉnh các quan hệ liên quan
đến cơ chế phối hợp thực hiện dân chủ cơ sở, trong khi nhiều quy định lại chưa cụ
thể, khó áp dụng.
Điều đáng chú ý là vai trò, trách nhiệm của các thiết chế trong hệ thống chính
trị cơ sở đối với thực hiện dân chủ cơ sở chưa được định chế hóa một cách cụ thể.
Thứ hai, một số cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở còn xem nhẹ vai trò của
việc thực hiện dân chủ cơ sở nên công tác lãnh đạo chưa sâu sát, sự chỉ đạo còn
mang tính hình thức, đối phó.
Trong thực hiện dân chủ cơ sở, các cấp ủy Đảng, chính quyền cấp xã giữ vai
trò là chủ thể giữ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức, quản lý. Nếu chủ thể nhận thức
đầy đủ vai trò của mình, có sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt thì hoạt động
thực hiện dân chủ cơ sở sẽ đạt được chất lượng, hiệu quả cao. Ngược lại, chủ thể
114

xem nhẹ vai trò của việc thực hiện dân chủ cơ sở, công tác lãnh đạo chưa sâu sát, sự
chỉ đạo còn mang tính hình thức, đối phó thì chất lượng, hiệu quả thấp là điều chắc
chắn sẽ xảy ra. Thực tiễn thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta cũng đã chứng minh
điều này. Một số cấp uỷ, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ, thiếu chủ động, sáng
tạo trong chỉ đạo thực hiện. Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở một số cơ sở
chưa được bổ sung, kiện toàn kịp thời, hiệu quả hoạt động chưa cao. Sự phối hợp
của chính quyền với các ban, ngành, đoàn thể chưa chặt chẽ, nhiều nơi còn thể hiện
rất hình thức, công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện dân chủ ở cơ sở chưa
thường xuyên. Phương thức lãnh đạo của một bộ phận cấp ủy đảng cơ sở còn hạn
chế, chưa gắn vai trò, trách nhiệm cá nhân trong chỉ đạo, triển khai thực hiện; thiếu
kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện quy chế dân chủ.
Thứ ba, một bộ phận trong đội ngũ cán bộ công chức, đảng viên chưa nhận
thức đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình trong việc triển khai thực hiện dân chủ cơ
sở nên chưa tận lực, tận tâm.
Trong quá trình cải cách hành chính và thực hiện dân chủ ở nước ta, nhận
định chung đều cho rằng, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tuy về trình độ, kiến
thức và trách nhiệm đã được nâng lên, song một bộ phận không nhỏ, nhất là đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới. Bản thân
nhiều cán bộ, công chức, đảng viên chưa nhận thấy đầy đủ tầm quan trọng của thực
hiện dân chủ tại cơ sở nên chưa thật sự tận tâm.
Thứ tư, một bộ phận nhân dân chưa có hiểu biết đầy đủ pháp luật về thực
hiện dân chủ cơ sở nên chưa chủ động, tích cực tham gia vào quá trình này.
Trên thực tế, nhận thức pháp luật về dân chủ của người dân còn hạn chế,
không đồng đều. Đối với việc thực hiện những nội dung nhân dân bàn và quyết
định trực tiếp, tuy dân được bàn bạc, đóng góp ý kiến và quyết định, nhưng do hiểu
biết pháp luật hạn chế nên nhiều ý kiến đưa ra còn cảm tính, thiếu thuyết phục. Mặt
khác, do nhu cầu mưu sinh, nên người dân chưa tham gia được nhiều vào việc phát
huy quyền dân chủ. Đặc biệt, người dân và cán bộ ở cơ sở chưa có nhận thức thống
nhất và đúng đắn về sự tham gia. Nhận thức lợi ích của việc tham gia mới dừng ở
mức chung chung, chưa thực sự hiểu hết được ý nghĩa của nó là nâng cao vị thế,
115

năng lực, nhận thức và hành vi của người dân bao gồm cả việc nâng cao tính minh
bạch, công khai, tính trách nhiệm và giải trình, thúc đẩy việc thực hiện quá trình
phân cấp diễn ra mạnh hơn, là động lực thúc đẩy vận động xã hội, góp phần xây
dựng xã hội dân chủ và văn minh, tạo ra sự công bằng và đồng thuận xã hội. Một số
cán bộ và người dân hiểu khái niệm tham gia chưa đầy đủ, đơn thuần chỉ là việc
đóng góp (tiền, công lao động) hoặc sự có mặt trong các cuộc họp. Gần đây, sự
tham gia đã trở thành một vấn đề được xã hội quan tâm. Tuy nhiên, vẫn thiếu vắng
những hoạt động tuyên truyền, đào tạo nâng cao nhận thức về sự tham gia cho cán
bộ và người dân.
Thứ năm, cơ chế giám sát ở địa phương và năng lực giám sát của các bộ
phận còn nhiều hạn chế. Chưa có có sự phân định quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng
cho các bộ phận và cá nhân trong hệ thống giám sát.
Mặc dù chính quyền cấp cơ sở đã tạo điều kiện cho người dân thực hiện
quyền tham gia, giám sát các hoạt động của chính quyền tại địa phương nhưng
hoạt động giám sát ở cơ sở nhất là đơn vị cơ sở ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số
còn yếu kém. Hệ thống giám sát hiện đã được mở rộng cùng với việc phân cấp
(không chỉ có cơ quan chuyên trách - Ban Thanh tra nhân dân, mà còn có các tổ
chức xã hội và người dân cũng tham gia giám sát). Tuy nhiên, các bộ phận, cá
nhân trong hệ thống giám sát hoạt động thiếu sự phối hợp, chồng chéo lẫn nhau do
chưa được phân định rõ ràng. Cơ chế phản hồi thông tin trở lại người dân một
cách rõ ràng cũng chưa có. MTTQ và các tổ chức thành viên thiếu sự độc lập,
thậm chí, một số ý kiến cho rằng, MTTQ và các tổ chức thành viên chưa thực sự
được trao quyền trong giám sát. Sự kết hợp giữa Ban Thanh tra nhân dân, Ban
giám sát công trình với các tổ chức xã hội, cán bộ thôn thiếu chặt chẽ cũng làm
giảm hiệu quả giám sát các chương trình kinh tế - xã hội ở cơ sở. Với năng lực
như hiện nay, hệ thống giám sát ở cơ sở không đủ khả năng giải quyết được tất cả
những việc cần giám sát và không đạt được những mong muốn đặt ra cho hệ
thống giám sát thực thi dân chủ ở cơ sở.
116

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam
về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Hiến pháp và pháp luật Việt
Nam đã có sự ghi nhận, quy định ngày càng đầy đủ, tiến bộ hơn nhằm bảo đảm để
nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình một cách thực chất, hiệu quả.
Cùng với đổi mới hệ thống chính trị, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở
ở Việt Nam đã có những đổi mới tích cực, toàn diện về các nguyên tắc, thể chế,
thiết chế nhằm xác lập và thực thi các quyền làm chủ của nhân dân. Bên cạnh đó,
các điều kiện đảm bảo thực hiện dân chủ tại cơ sở cũng có rất nhiều chuyển biến
mạnh mẽ. Trên cơ sở đó, sự vận hành của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở có
tác động tích cực trên nhiều phương diện. Điều này cho phép khẳng định tính đúng
đắn trong định hướng phát huy dân chủ cơ sở ở nước ta và là động lực để tiếp tục
hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở.
Tuy nhiên, thực trạng cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta còn
tồn tại nhiều hạn chế, bất cập trên cả phương diện thể chế, thiết chế và các điều kiện
đảm bảo thực thi dân chủ. Hệ quả dễ nhận thấy là làm giảm sút hiệu quả tác động
của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở. Tình trạng này là tổng hòa của nhiều
nguyên nhân, trong đó những nguyên nhân chủ quan thuộc về hệ thống pháp luật và
quá trình triển khai thực hiện pháp luật là nguyên nhân căn bản.
Đặt trạng thái hiện hành của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ và thực trạng
tác động của nó trước nhu cầu phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhân dân tại
địa bàn cơ sở trong bối cảnh đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở
Việt Nam hiện nay đã cho phép nhận diện nhu cầu, tính tất yếu và khả năng tiếp tục
hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay.
117

Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ
THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. DỰ BÁO NHỮNG CHUYỂN BIẾN CỦA XÃ HỘI TÁC ĐỘNG ĐẾN
QUÁ TRÌNH HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở
VIỆT NAM
4.1.1. Mức độ tác động của việc hoàn thành các nhiệm vụ chính trị, kinh
tế, xã hội căn bản của đất nước đến năm 2020, tầm nhìn 2030
Mục tiêu cơ bản đặt ra cho đất nước ta trong giai đoạn tới là xây dựng đất
nước đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đẩy
mạnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Với những dự báo về khả năng tác động
của nó, các mục tiêu này vừa là cơ hội, vừa là thách thức lớn đối với nhiệm vụ hoàn
thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta.
Sự phát triển công nghiệp phúc đáp mục tiêu biến nước ta thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại một mặt đánh dấu sự chín muồi của kinh tế thị
trường, tạo ra nền tảng kinh tế cho việc hiện thực hóa nền dân chủ cơ sở nhưng
đồng thời dẫn đến những biến đổi lớn về mặt kết cấu giai cấp xã hội. Trên lĩnh vực
tinh thần, tư tưởng, có thể dẫn tới sự thay đổi tư duy và lối sống đến mức có thể làm
xoay chuyển các giá trị truyền thống, những giá trị mới mà theo nếp nghĩ truyền
thống là khó chấp nhận nhưng vẫn được khẳng định cùng với ý thức dân chủ và tinh
thần đòi hỏi dân chủ ngày càng lớn trong công chúng. Như vậy, mục tiêu xây dựng
Việt Nam thành một quốc gia công nghiệp theo hướng hiện đại vừa tạo ra cơ hội,
vừa đặt ra những thách thức rất lớn, thúc đẩy hơn nữa quá trình dân chủ hóa sâu
rộng trong mọi mặt đời sống xã hội.
Nhiệm vụ hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính được
xác định là một trong ba đột phá chiến lược từ nay đến năm 2020. Có thể nói, đây là
một nhiệm vụ đòi hỏi cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa theo chiều rộng và chiều sâu; xác định rõ hơn mối quan hệ giữa
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng
118

xã hội chủ nghĩa. Điều này sẽ tạo nên những tiền đề vật chất và môi trường cho
bước phát triển mới đối với các quan hệ xã hội, tác động sâu sắc đến các nhận thức
và đòi hỏi thực thi, phát huy dân chủ.
Những kết quả phát triển kinh tế - xã hội tất yếu sẽ dẫn tới những chuyển
biến trong tâm lý xã hội của các nhóm dân cư. Về vấn đề này, sẽ có hai khả năng
xảy ra: (i) những thất bại trong phát triển kinh tế, trong việc thực thi các chính sách
xóa đói, giảm nghèo và các chương trình xã hội khác sẽ gây ra tâm lý tiêu cực, suy
giảm lòng tin của người dân, phá vỡ khối đồng thuận xã hội và mất động lực phát
triển; (ii) ngược lại, những thành công trong phát triển kinh tế - xã hội sẽ là cơ hội
thuận lợi cho đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin, tạo cơ sở cho các phản ứng tích
cực đối với các chủ trương, quyết sách của Đảng và Nhà nước trong xây dựng, phát
triển địa phương.
Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một định
hướng có tính nguyên tắc trong chiến lược phát triển của đất nước ta. Nhà nước ta
được khẳng định là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo. Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo vệ
các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp [38, tr.52].
Toàn bộ tình hình nói trên đặt nhiệm vụ phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
trước những thách thức lớn. Liên quan trực tiếp đến bối cảnh nói trên là nhu cầu
chuẩn hóa hệ thống lý luận về dân chủ, tiếp thu những hạt nhân hợp lý của các lý
thuyết mới để tiếp tục bổ sung, hoàn thiện lý luận về dân chủ, trong đó dân chủ cơ
sở là một nội dung đặc biệt quan trọng.
4.1.2. Những biến đổi to lớn và sâu sắc của bối cảnh quốc tế với những
thay đổi rất nhanh, phức tạp và khó lường liên quan đến các vấn đề về toàn
cầu hóa, hội nhập
Toàn cầu hoá kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức
biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức
đan xen rất phức tạp. Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng
119

lớn. Quá trình quốc tế hoá sản xuất và phân công lao động diễn ra ngày
càng sâu rộng. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu
đã trở thành yêu cầu đối với các nền kinh tế. Sự phụ thuộc lẫn nhau, hội
nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các nước ngày càng trở thành phổ biến.
Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó con người và tri thức càng trở
thành nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia [38, tr.97].
Cùng với quá trình đó, vị thế kinh tế và chính trị của khu vực châu Á, nhất là
các nước Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ngày càng gia tăng. Đây là giai đoạn
mà nước ta cùng với các nước khác ở Đông Nam Á hoàn thành tiến trình xây dựng
một cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột hội nhập kinh tế, an ninh và xã hội hoạt
động theo Hiến chương ASEAN. Trong bối cảnh đó, nhu cầu hội nhập quốc tế đòi
hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách Nhà nước, cải cách pháp luật, củng cố
hệ thống chính trị, đồng thời đảm bảo mở rộng và phát huy dân chủ, củng cố độc
lập, tự chủ để giữ vững và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Như vậy, thực tiễn sẽ đặt ra nhiều thời cơ và thách thức cho Việt Nam trong
quá trình hội nhập, tiếp tục xây dựng và củng cố vị trí, vai trò trong sự phát triển
chung của thế giới. Điều đó đòi hỏi phải có những thay đổi quan trọng trong tư duy
chính trị, đổi mới quan niệm về các mối quan hệ trong hệ thống chính trị, mà vấn đề
cốt lõi, có tính nguyên tắc là bảo đảm và phát huy dân chủ về mọi mặt.
4.1.3. Mức độ dân chủ hóa và thực hành dân chủ ở đơn vị cơ sở
Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 là sự khẳng định rõ
nét nhất về xu hướng dân chủ hóa đất nước, đẩy mạnh dân chủ trực tiếp, dân chủ
đại diện ở nước ta hiện nay và những năm tiếp theo. Bản Hiến pháp 2013 cũng tạo
lập cơ chế hữu hiệu để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ, thực hiện tốt
hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,thị trấn.
Trong bối cảnh và quyết tâm chính trị đó, có thể dự đoán bước phát triển mới
về dân chủ trong Đảng, trong hoạt động nhà nước và trong toàn xã hội nói chung, ở
đơn vị cơ sở nói riêng.
Về mặt nhận thức, chắc chắn sẽ có sự thay đổi lớn trong quan niệm về dân
chủ và dân chủ tại cơ sở. Một sự thay đổi phù hợp trong giai đoạn tới sẽ đi theo
120

chiều hướng xem dân chủ cũng như quyền làm chủ của người dân là quyền tự
nhiên, vốn có của người dân, không do ai ban phát. Vấn đề không phải là “thu
hút” hay “phát huy” mà là “tôn trọng và bảo đảm” thực hiện dân chủ. Nhận thức
về dân chủ cũng sẽ phải chuyển hướng xem dân chủ không phải tự nhiên đến
được, phải qua rèn luyện và đấu tranh trong thực tế, không một xã hội nào mà dân
chủ có thể “nhảy cóc” từ số không đến nền dân chủ văn minh mà phải theo quy
luật lượng đổi chất đổi và vì vậy, về mặt phương pháp, nếu muốn có dân chủ thật
sự thì dân chúng phải được thực hành ngay trong đời sống chính trị - pháp lý.
Theo đó, dân chủ không chỉ là sự tham gia, đóng góp trí tuệ tập thể, các nguồn lực
của nhân dân vào vận hành của bộ máy nhà nước, mà còn phải xem đây là phương
thức tránh các sai lầm của người lãnh đạo, của nhà nước. Tương tự như vậy, bản
chất của dân chủ ở cơ sở là phát huy quyền làm chủ của người dân trên mọi mặt ở
cơ sở, vì vậy, đây sẽ được xem là một hình thức dân chủ hỗn hợp, ở đó, dân chủ
trực tiếp là một trong những phương thức dân chủ được phát huy một cách cơ bản
và chủ yếu.
Có thể thấy trước một sự chuyển biến quan trọng về nhu cầu và năng lực
thực hành dân chủ trực tiếp của người dân tại địa bàn cơ sở trong thời gian tới. Trên
thực tế, người dân hoàn toàn có thể thực hiện được quyền dân chủ ngay cả khi dân
trí chưa cao. Tuy nhiên, có thể chắc chắn rằng, trong thời gian tới, trình độ dân trí
của người dân sẽ được nâng lên đáng kể, cùng với điều kiện kinh tế và mức sống
được cải thiện, trách nhiệm chính trị và ý thức cộng đồng được vun đắp… sẽ đặt ra
yêu cầu ngày càng cao về đảm bảo quyền dân chủ và tạo ra tiền đề thuận lợi hơn
cho quá trình hiện thực hóa các quyền dân chủ của người dân.
Bối cảnh dự đoán nói trên đòi hỏi cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở
cần phải được hoàn thiện tương thích. Pháp luật và các thiết chế thực hiện dân chủ
cơ sở phải được thiết kế và vận hành hướng tới mục tiêu bảo đảm ngày càng đầy
đủ các quyền dân chủ của người dân. Tuy nhiên, sẽ khó khăn hơn gấp nhiều lần
việc ban hành văn bản pháp luật về dân chủ đó là xây dựng nếp sống dân chủ tại
cơ sở.
121

4.1.4. Xu hướng vận động của hệ thống chính trị Việt Nam trong thời
gian tới
Ở Việt Nam, thực chất của đổi mới hệ thống chính trị là phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa. Với tính cách là hệ thống các thiết chế được nhân dân trao quyền lực
chính trị, hệ thống chính trị là phương thức quan trọng để nhân dân thực hiện quyền
làm chủ của mình dưới các hình thức và cấp độ khác nhau. Mỗi thiết chế trong hệ
thống chính trị đều là một phương thức bảo đảm địa vị “là chủ” và quyền “làm chủ”
của nhân dân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đều có trách nhiệm biến các
giá trị dân chủ thành hiện thực cuộc sống. Vì vậy, xu hướng vận động của hệ thống
chính trị, trong đó có hệ thống chính trị cơ sở có tác động mạnh mẽ tới quá trình
hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam.
Trong thời gian tới, nhiệm vụ đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam có khả
năng xảy ra một trong ba xu hướng sau:
Thứ nhất, hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới, giải quyết thành công
những mục tiêu chính trị quan trọng hàng đầu, tạo được động lực mạnh mẽ cho phát
triển kinh tế và lành mạnh hoá xã hội.
Nội dung căn bản của xu hướng này là đổi mới hệ thống chính trị thành
công, trở thành lực đẩy mạnh mẽ để thúc đẩy kinh tế tăng trưỏng, hướng tới mục
tiêu phát triển bền vững, xã hội trở nên lành mạnh theo các chuẩn mực công bằng,
dân chủ. Quan sát thực tiễn đổi mới, có thể nhận ra nhiều dấu hiệu quan trọng cho
phép tin vào xu hướng phát triển tích cực, thuận chiều của đổi mới hệ thống chính
trị ở nước ta. Đây là một khả năng thực tế nhưng đòi hỏi sự nỗ lực quên mình, sự hy
sinh phấn đấu của toàn đảng, toàn dân ta, trong đó lực lượng chủ đạo quyết định
thành công của đổi mới và đổi mới hệ thống chính trị là Đảng và tính mục đích của
đổi mới hệ thống chính trị là hướng vào phát triển toàn diện kinh tế - xã hội - văn
hoá để phục vụ tốt nhất cuộc sống của nhân dân.
Thứ hai, hệ thống chính trị tiếp tục có những đổi mới nhưng không đồng
bộ,triệt để; tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị tuy có những chuyển biến
từng mặt nhưng hiệu quả thấp không đủ sức để tạo được đột phá và sự phát triển
mới về chất.
122

Xu hướng này cho thấy, đổi mới hệ thống chính trị mới dừng ở những cải
cách chứ chưa ở tầm chuyển biến mang tính cách mạng. Ổn định chính trị vẫn đạt
được nhưng chưa hẳn là tích cực và phát triển. Trong trường hợp có những khó
khăn đột biến về kinh tế xã hội ở trong nước hoặc những tác động bất lợi từ thế giới
dội vào thì hệ thống chính trị với xu hướng nêu trên sẽ không đủ sức để duy trì ổn
định, không thể chủ động định hướng phát triển, rất dễ rơi vào tình trạng bị động,
thụ động trước tình hình. Nguy cơ chệch hướng, mất phương hướng có thể xảy ra.
Xu hướng này là một thực tế không thể xem thường.
Thứ ba, hệ thống chính trị lâm vào tình trạng khủng hoảng, tái sinh những
dấu hiệu trì trệ, ngăn cản xu hướng đổi mới tích cực và phát triển lành mạnh của xã
hội. Các thế lực chống đối núp dưới danh nghĩa phong trào đấu tranh cho dân chủ
và tự do, kích động dân chúng gây rối loạn xã hội và mất ổn định chính trị, thậm chí
đòi thay đổi chế độ.
Đây là tình huống hoàn toàn không mong muốn nhưng có khả năng xảy ra
nếu chúng ta mất cảnh giác, xa rời định hướng, thiếu quyết tâm chính trị và các giải
pháp tích cực. Những dấu hiệu ban đầu của xu hướng này đang tiềm ẩn trong lòng
xã hội. Vấn đề là cần phải làm gì và làm như thế nào để loại trừ những biểu hiện đó,
để ngăn chặn không cho những biến động chính trị có thể xảy ra. Câu trả lời nằm ở
cách xử lý những vấn đề liên quan đến công tác chỉnh đốn Đảng, tăng cường hiệu
lực của Nhà nước và phát huy sức mạnh của các đoàn thể nhân dân, đảm bảo quyền
dân chủ của người dân.
Dự báo về các xu hướng vận động có thể xảy ra của hệ thống chính trị Việt
Nam trong thời gian tới là để đặt vấn đề về một hệ thống các giải pháp cần phải
được triển khai trên phạm vi toàn hệ thống chính trị nói chung, trong các cấp độ của
hệ thống chính trị nói riêng nhằm nâng cao năng lực tổ chức thực hành dân chủ.
Tùy thuộc vào bối cảnh và tình hình cụ thể, các giải pháp có thể có những điểm
nhấn khác nhau nhưng yêu cầu chung là mọi giải pháp đều mang tính chất và ý
nghĩa là giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn cái xấu, hạn chế và giảm thiểu các tình
huống xấu nhất, đồng thời thúc đẩy cái tốt, cái tích cực, thúc đẩy cho những khả
năng tích cực trở thành một hiện thực thực tế.
123

4.2. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC HIỆN DÂN CHỦ
CƠ SỞ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.2.1. Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phải đặt
trong tổng thể mối liên hệ với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa
Một trong những đặc điểm của Nhà nước pháp quyền, đó là yêu cầu thực
hành dân chủ trong một nhà nước bảo đảm được tính chính đáng của mình, dựa trên
cơ sở tuân thủ và tự giới hạn các quyền của mình bằng pháp luật - một thứ pháp luật
mang tính hợp lý, công bằng.
Trong trật tự nhà nước pháp quyền, bất kỳ nhà nước nào cũng phải khẳng
định và bảo đảm được tính chính đáng của mình. Tính chính đáng này trước hết
phải thể hiện ở sự tín nhiệm của nhân dân đối với nhà nước. Có nghĩa là trong mọi
hoạt động của mình, nhà nước phải thể hiện được bản chất của dân, do dân và vì
dân, luôn hướng tới việc chăm lo, bảo vệ, phục vụ lợi ích của nhân dân. Bên cạnh
việc củng cố tổ chức bộ máy vững mạnh, thân thiện, hợp tác với người dân, cần
phải tạo lập các kênh, các thiết chế phản ánh được nguyện vọng, ý chí của nhân dân
một cách hiệu quả, trong đó có cơ chế pháp lý thực thi dân chủ tại cơ sở. Theo
hướng này cần sớm nhận thức lại cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ” để tránh tình trạng giữa Đảng và Nhà nước còn chồng chéo về chức
năng và nhiệm vụ, nhân dân làm chủ nhưng không có thực quyền và không có
quyền quyết định. Cũng cần nghiên cứu sử dụng khái niệm xã hội dân sự vì đây là
vấn đề liên quan rất chặt chẽ với vấn đề dân chủ. Tránh vấn đề này là né tránh một
trong ba trụ cột của sự phát triển.
Yếu tố hạt nhân trong nhà nước pháp quyền, đó là tính tối thượng của pháp
luật, mà Hiến pháp là đạo luật tối cao. Pháp luật ở đây phải là đại lượng của tính
công bằng, hợp lý, bảo đảm, bảo vệ quyền con người. Đặc điểm này của pháp luật
trong nhà nước pháp quyền phản ánh hai nội dung: thứ nhất, pháp luật phải thể
hiện được ý chí, nguyện vọng và những giá trị nhân văn, đã được kết tinh, giữ gìn
124

và bảo vệ, trước hết là của nhân dân trong quốc gia đó; thứ hai, pháp luật ấy phải
là phương tiện, môi trường, hành lang pháp lý để thúc đẩy các cơ chế bảo đảm,
bảo vệ quyền con người, các giá trị dân chủ, văn minh được thực thi trong thực tế.
Dân chủ cơ sở đương nhiên trở thành một nội dung không thể thiếu trong sự phản
ánh của pháp luật, đồng thời là sự thể hiện trên thực tế của sự phản ánh hai nội
dung nói trên.
Như vậy, chính việc thiết kế cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là một
trong những chất keo kết dính quan trọng để các cột trụ phát triển đất nước được
củng cố vững chắc hơn nữa.
4.2.2. Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phải đạt được
sự tương thích với các cơ chế thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện ở
Việt Nam
Việc phân chia các hình thức dân chủ thành dân chủ trực tiếp và dân chủ
đại diện cho đến nay vẫn chỉ mang tính tương đối. Cần phải khẳng định rằng
các hình thức dân chủ đều cần thiết và có vai trò quan trọng như nhau. Phân
chia các hình thức dân chủ không nhằm đặt dân chủ trực tiếp cao hơn dân chủ
gián tiếp hay ngược lại, mà chỉ nhằm phản ánh tính đa dạng của các hình thức
dân chủ mà thôi.
Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện thực chất là hai hình thức dân chủ bổ
sung cho nhau. Hình thức này tạo điều kiện bổ sung những hạn chế của hình thức
kia và ngược lại. Đồng thời, dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện nằm trong tổng
thể các hình thức dân chủ đa dạng, phản ánh chủ thuyết quyền lực gốc của Nhà
nước thuộc về nhân dân.
Dân chủ cơ sở là hình thức dân chủ hỗn hợp, vừa bao gồm dân chủ đại diện
vừa bao gồm dân chủ trực tiếp, trong đó yếu tố dân chủ trực tiếp phổ biến hơn. Vì
vậy, hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phải đảm bảo độ tương thích
với các cơ chế thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay. Tương thích không có nghĩa là
không có sự khác biệt. Vấn đề chỉ nằm ở chỗ là sự khác biệt đó không đi tới chỗ
mâu thuẫn, chồng chéo, phủ nhận lẫn nhau.
125

4.2.3. Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phải đảm bảo
sự đa dạng và tính khả thi của các hình thức thực hiện dân chủ ở cơ sở
Một cơ chế pháp lý thực thi dân chủ cơ sở được coi là hoàn thiện khi pháp
luật quy định nhiều hình thức thực hiện dân chủ đa dạng tại cơ sở, nhất là những
hình thức dân chủ trực tiếp có ảnh hưởng lớn đến quyền lợi ích của người dân và có
khả năng thực hiện được trong những điều kiện hiện tại của đất nước. Việc quy định
các hình thức thực hiện dân chủ tại cơ sở phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội… của đất nước, tâm lý và khả năng nhận thức, sử dụng của nhân
dân ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định là điều kiện quan trọng để có thể thực hiện
chúng trên thực tế. Với nhiều hình thức thực hiện dân chủ tại cơ sở sẽ làm cho cơ
chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở có thể đạt tới kết quả tốt nhất trong quá trình
vận hành. Đồng thời cũng là điều kiện để cơ chế pháp lý thực thi dân chủ cơ sở có
khả năng thích nghi với sự phát triển xã hội ở mỗi giai đoạn nhất định, làm cho cơ
chế luôn luôn có sự đổi mới, hoàn thiện và phát triển đáp ứng nhu cầu dân chủ hóa
đời sống nhà nước và xã hội.
4.2.4. Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phải đảm bảo
sự gắn kết chặt chẽ, thống nhất giữa các thành tố và sự vận hành khoa học,
hiệu quả của toàn cơ chế
Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực thi dân chủ cơ sở không chỉ thuần túy yêu
cầu có sự hiện diện và hoàn thiện của mỗi thành tố trong cơ chế mà còn phải có sự
gắn kết chặt chẽ, sự tác động qua lại nhịp nhàng và sự thống nhất giữa các thành tố
của cơ chế. Một cơ chế chỉ có thể được cho là hoàn thiện khi tất cả các thành tố của
nó luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau, kiểm tra, giám
sát, kiểm soát lẫn nhau trong một thể thống nhất.
Mối quan hệ gắn kết, tác động qua lại và thống nhất giữa các thành tố phải
bảo đảm cho sự vận hành khoa học và hiệu quả của cơ chế pháp lý thực thi dân chủ
cơ sở. Muốn vậy, cấu trúc và vận hành của cơ chế phải bảo đảm tính khoa học,
không quá phức tạp đến mức có thể không thực hiện được trên thực tế. Tất cả các
thành tố thuộc cơ chế phải bảo đảm tính hợp pháp, nghĩa là các thể chế quy định về
dân chủ cơ sở phải phù hợp với Hiến pháp và pháp luật, các thiết chế thực thi dân
126

chủ cơ sở phải được nhà nước cho phép thành lập, cho phép tồn tại, hoạt động, các
điều kiện cho việc thực hiện dân chủ cơ sở phải được pháp luật ghi nhận và bảo
đảm thực hiện.
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở sẽ hiệu quả khi nó được xây dựng và
vận hành phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa truyền thống
của đất nước. Những chi phí cho việc vận hành cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ
sở không quá cao, có khả năng thực hiện được trên thực tế.
4.2.5. Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phải đảm bảo
tạo điều kiện phát huy tính tích cực, chủ động của nhân dân trong thực hiện
quyền làm chủ tại cơ sở
Quan điểm này nhằm khẳng định vai trò trung tâm của nhân dân trong mục
tiêu và nội dung hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở.
Một trong những tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ chế pháp lý
thực thi dân chủ cơ sở ở Việt Nam là mức độ hoàn thiện của các thể chế liên quan
đến dân chủ cơ sở, trước hết là các quy định pháp luật về phạm vi các quyền dân
chủ tại cơ sở; các quy định về trình tự, thủ tục để người dân thực hiện đầy đủ các
quyền dân chủ tại cơ sở; các quy định về trách nhiệm, quyền hạn của các thiết chế
tham gia tổ chức thực hiện dân chủ cơ sở; các quy định về kiểm tra, giám sát quá
trình thực hiện dân chủ ở cơ sở. Tính khả thi của thể chế thể hiện ở việc các quy
định của thể chế được ban hành phải phù hợp với cơ chế thực thi hiện hành. Nếu
không chú đến vấn đề này thì quy định của nhiều thể chế chỉ mang tính hình thức.
Do vậy, khi ban hành các quy định của thể chế phải xem xét tới điều kiện về kinh
tế, chính trị, xã hội của đất nước có cho phép thực hiện được quy định đó hay
không, đồng thời phải tính đến các điều kiện khác như tổ chức bộ máy, trình độ của
đội ngũ cán bộ, nhân viên có cho phép thực hiện được không, dư luận xã hội trong
việc tiếp nhận quy định đó, trình độ văn hoá và kiến thức pháp lý của nhân dân.
Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phải thể hiện ở kết quả, mục đích
cuối cùng mà nó hướng đến và đạt được trên thực tế là quyền làm chủ của nhân dân
được thực hiện đúng pháp luật, đúng mục đích và làm cho cuộc sống của nhân dân
ngày càng tốt đẹp hơn.
127

4.3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC HIỆN DÂN CHỦ
CƠ SỞ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.3.1. Nâng cao nhận thức về dân chủ cơ sở và vai trò của cơ chế pháp lý
thực hiện dân chủ cơ sở
Trước hết, cần phải nhận thức được “dân chủ” theo nghĩa chủ động.
Trên thực tế, nhận thức khá phổ biến về mối quan hệ giữa nhà nước và nhân
dân là xem nhân dân như chủ thể thụ động, cần phải thu hút rộng rãi họ tham gia
vào hoạt động của Nhà nước. Trong nền chính trị hiện đại và dân chủ, điều này
không còn đúng nữa.
Dân chủ trong tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước phải là dân chủ chủ
động, là quyền của nhân dân, quyền của công dân. Dân chủ không chỉ là sự tham
gia, đóng góp trí tuệ tập thể, các nguồn lực của nhân dân vào vận hành của bộ máy
Nhà nước, mà còn phải xem đây là phương thức tránh các sai lầm của người lãnh
đạo, của Nhà nước. Dân chủ là yêu cầu nội tại của mỗi quốc gia và là xu hướng có
tính chất toàn cầu. Nhưng quyền dân chủ đích thực chỉ có khi dân chủ được thực
hiện một cách tự do. Đây là thước đo đánh giá mức độ phát triển một chế độ chính
trị, mức độ tự do của con người. Đương nhiên, không có dân chủ tự do không có
giới hạn. Tự do phải là tất yếu được nhận thức và thực hiện. Giới hạn của tự do của
mỗi người là tự do của người khác. Nền dân chủ càng phát triển cao thì các quyền
tự dân chủ của công dân càng được mở rộng và thực chất.
Đối với nước ta, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, các thành tựu kinh tế
đã đưa nước ta trở thành nước có thu nhập trung bình thấp, đời sống vật chất của
người dân đã được nâng cao hơn. Trong tính quy luật, những thành tựu đạt được
trong lĩnh vực kinh tế sẽ đòi hỏi tương ứng nhu cầu cao hơn về dân chủ, về quyền
chính trị của công dân. Đó không chỉ là nhu cầu của người dân mà còn là cách để
củng cố, bảo đảm duy trì và phát triển các thành quả về kinh tế.
Liên quan đến nhận thức chung về dân chủ là nhận thức về tiêu chí phân chia
các hình thức dân chủ.
Nói dân chủ đại diện người ta nhắc đến hình thức mà người dân ủy quyền
cho những người đại diện cho mình quyết định các công việc nhà nước trong phạm
vi xác định. Dân chủ đại diện thường gắn liền với các cơ quan hoạt động tập thể
128

nghị viện (hoặc tên gọi khác), hội đồng địa phương. Còn khi nói đến dân chủ trực
tiếp, người ta nói đến việc quyết định các công việc nhà nước do công dân trực tiếp
thực hiện không thông qua khâu trung gian. Ở đây có thể sẽ xuất hiện câu hỏi lớn:
giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, có những hình thức thể hiện quyền của
người dân nhưng sẽ xếp vào đâu nếu chỉ theo tiêu chí nói trên? Các hình thức đó
như: khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản biện xã hội, tư vấn xã hội, giám sát trực tiếp
của người dân. Các hình thức này tự nó không có vai trò quyết định trong việc ra
quyết định hoặc thực hiện các hành động, hành vi nào của cơ quan nhà nước, người
có thẩm quyền. Vậy nên chăng, trong nhận thức lý luận cần xem nó như một yếu tố
của công đoạn, hay quy trình không thể thiếu trong các trường hợp nhất định để
chính quyền quyết định về vấn đề nào đó. Về cơ bản, đây là các hình thức đứng
trung gian để thực hiện quyền của người dân, vừa mang yếu tố của dân chủ trực tiếp
(xét về tính chất và mục tiêu), vừa mang yếu tố của dân chủ đại diện (xét về kỹ
thuật thực hiện). Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng khi người dân, qua việc bầu cử,
bầu ra người đại diện của mình để thay mặt mình, thực hiện quyền lực mà nhân dân
ủy thác, thì việc bầu cử ở đây chính là một phương thức để tạo lập nên nền dân chủ
đại diện, một công đoạn của dân chủ đại diện...
Các phân tích nói trên nhằm đi tới yêu cầu nhận thức đúng về dân chủ cơ sở.
Do bản chất của dân chủ ở cơ sở là phát huy quyền làm chủ của người dân trên mọi
mặt ở cơ sở, nên đây là một hình thức dân chủ hỗn hợp, ở đó, dân chủ trực tiếp là
một trong những hình thức dân chủ được phát huy một cách cơ bản và chủ yếu.
Gắn mật thiết với yêu cầu nâng cao nhận thức về dân chủ, dân chủ cơ sở là
nhu cầu cần thiết đổi mới tư duy lý luận về Nhà nước pháp quyền Việt Nam và về
nền chính trị Việt Nam hiện nay. Trên thực tế, trong 30 năm đổi mới vừa qua,
chúng ta đã từng bước hình thành nhận thức về Nhà nước pháp quyền. Đến nay,
những đường nét cơ bản về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
theo đó, những yêu cầu cơ bản của Nhà nước pháp quyền Việt Nam đối với việc
phát huy dân chủ đã được định hình. Tuy nhiên, một chủ thuyết đầy đủ về Nhà
nước pháp quyền Việt Nam vẫn chưa được xác lập, kéo theo những lúng túng trong
nhận diện và triển khai các cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ.
129

Tương tự như vậy, trong tiến trình đổi mới từ năm 1986 đến nay, có thể thấy
nhiều vấn đề của hệ thống chính trị đã được đặt ra nghiên cứu và có những nhận
thức ngày càng rõ ràng hơn. Từ chỗ giáo điều, cứng nhắc và áp đặt, nhận thức các
mối quan hệ trong hệ thống chính trị dần đi tới chỗ bàn luận về các vấn đề gai góc
có tính thực chất, cởi mở hơn. Trên thực tế, mặc dù Đảng ta đề cao vị trí chủ thể
quyền lực của nhân dân, coi hệ thống chính trị là hình thức thực hiện quyền lực
chính trị của nhân dân, là hệ thống các thiết chế được tổ chức để thực hiện các
nhiệm vụ và quyền hạn do nhân dân giao phó nhưng đang tồn tại mâu thuẫn rất lớn
trong nhận thức về mối tương quan giữa nhu cầu đảm bảo tính tối cao của nguyên
lý chủ quyền nhân dân với nhu cầu duy trì sự lãnh đạo duy nhất và toàn diện của
Đảng Cộng sản đối với nhà nước và và xã hội. Dường như chúng ta đang e ngại, né
tránh khi đề cập đến phạm vi, cơ chế, phương thức ủy quyền của nhân dân cho các
thiết chế trong hệ thống chính trị cũng như chưa chú ý đúng mức trong nhận thức về
tính chính đáng và hợp pháp của việc thực thi quyền lực chính trị, quyền lực nhà
nước ở Việt Nam.
Một bộ phận lớn các vấn đề nêu trên đã được nhận thức lại và có những vấn
đề được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Gần đây, trên các phương tiện truyền
thông và trong các hội thảo, hội nghị… có nhiều vấn đề cốt tử của các mối quan hệ
trong nền chính trị, trong đó có các vấn đề liên quan đến dân chủ tại cơ sở lại tiếp
tục được bàn thảo sôi nổi. Tuy nhiên vẫn còn nhiều câu hỏi rất căn bản về hệ thống
chính trị, các mối quan hệ của hệ thống chính trị nếu chưa được giải quyết, chắc
chắn không thể thiết lập được cơ chế pháp lý hữu hiệu thực thi dân chủ cơ sở cũng
như tổ chức và hoạt động nói chung của hệ thống chính trị tại cơ sở.
4.3.2. Hoàn thiện thể chế thực hiện dân chủ cơ sở
4.3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về dân chủ cơ sở
Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của quá trình hoàn thiện thể chế pháp
lý liên quan đến thực hiện dân chủ cơ sở là nhu cầu pháp điển hóa hệ thống quy
định pháp luật hiện hành về dân chủ cơ sở. Theo hướng đó, vấn đề ban hành Luật
Dân chủ cơ sở được bàn thảo rất sôi nổi. Về cơ bản, đã có sự thống nhất cao về
nhu cầu ban hành Luật Dân chủ cơ sở. Tuy nhiên, liên quan đến phạm vi điều
130

chỉnh của Luật này, có nhiều ý kiến khác biệt, thậm chí trái chiều, thể hiện hai xu
hướng chính sau:
1. Ban hành một Luật chung điều chỉnh quá trình thực hiện dân chủ tại tất cả
các loại hình cơ sở (dân chủ ở cấp xã, doanh nghiệp, cơ quan hành chính nhà nước).
Luật này sẽ được hình thành trên cơ sở hợp nhất, chỉnh sửa, bổ sung các Quy chế
dân chủ cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn hiện hành.
Định hướng chung về nội dung của Luật là tăng cường hình thức thực hiện
dân chủ trực tiếp tại cấp cơ sở như tăng số lượng các công việc mà cấp chính quyền
cơ sở phải thông tin, thảo luận tiếp thu các ý kiến nguyện vọng của nhân dân, đồng
thời nâng cao hiệu lực pháp lý của việc tiếp thu ý kiến nhân dân đóng góp, nâng cao
vai trò giám sát của nhân dân đối với các cơ quan dân bầu, dân cử ở các địa phương,
cũng như các cơ quan đại diện ở địa phương do nhân dân hoặc HĐND bầu ra thông
qua các hình thức dân chủ trực tiếp hoặc dân chủ gián tiếp.
2. Xây dựng, ban hành Luật Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên cơ
sở nâng Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn thành Luật với sự sửa
đổi, bổ sung nhiều điểm căn bản. Theo hướng này thì đồng thời với việc ban hành
Luật Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cũng sẽ diễn ra một quá trình tiếp
tục hoàn thiện và ban hành các văn bản để thực hiện Quy chế dân chủ ở các loại
hình cơ sở, các lĩnh vực mới chưa có quy chế; rà soát, sửa đổi, bổ sung các Quy chế
dân chủ tại cơ sở đang hiện hành. Đi đôi với quá trình đó là nhu cầu sửa đổi và ban
hành các văn bản pháp luật có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân
dân, đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo thuận lợi trong mọi hoạt động hợp pháp của
nhân dân. Công khai, minh bạch các chủ trương, chính sách, chế độ của Đảng, Nhà
nước các cấp cho dân, cho công nhân viên chức biết để kiểm tra, giám sát…
Xem xét hai xu hướng nói trên có thể thấy, việc ban hành một luật chung
cũng có ưu điểm là đạt được sự thống nhất về những nguyên tắc chung, giảm bớt
đầu mối văn bản. Tuy nhiên, do sự khác biệt về tính chất của các loại hình cơ sở
cũng như các yêu cầu khác biệt về nội dung, quy trình, thủ tục.. thực hiện dân chủ ở
mỗi loại hình cơ sở nên việc ban hành một Luật chung sẽ dễ dẫn tới sự gom lại một
cách khiên cưỡng các Quy chế dân chủ cơ sở, tạo thành những mảng khác nhau
131

trong một Luật hoặc Luật sẽ rơi vào trạng thái Luật nguyên tắc, quy định chung
chung và tiếp tục cần đến một số văn bản dưới luật để cụ thể hóa hoạt động dân chủ
trong từng loại hình cơ sở.
Vì vậy, trong bối cảnh hiện nay, xu hướng thứ hai mang tính hiện thực và
hợp lý hơn. Theo hướng đó, có thể đồng tình với ý kiến hiện nay của đa số các nhà
khoa học về việc sửa đổi Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và
nâng lên thành Luật Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn theo những hướng cụ
thể sau:
- Kế thừa, tiếp thu được những quy phạm pháp luật phù hợp, đã được thực
tiễn kiểm nghiệm trong quá trình thực hiện những năm qua;
- Mở rộng hơn nữa nội dung các quyền dân chủ của nhân dân, trao cho
nhân dân địa phương quyền được bàn và quyết định trực tiếp nhiều hơn các vấn
đề, nội dung liên quan thiết thực đến các vấn đề kinh tế - xã hội và lợi ích chung
của cộng đồng theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân
quyết định”;
- Bổ sung thêm các hình thức công khai những nội dung nhân dân phải được
biết, như hình thức phát miễn phí tài liệu tới từng hộ gia đình để người dân có thời
gian đọc, nắm bắt kỹ hơn nội dung thông tin...;
- Tăng thêm các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp của nhân dân ở xã,
phường, thị trấn, như nhân dân được tham gia bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch,
Phó Chủ tịch HĐND và Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND cấp xã;
- Quy định cụ thể, rõ ràng thẩm quyền, chức năng của các cấp cao hơn, như
cấp tỉnh, cấp huyện, trong việc theo dõi, kiểm tra và đánh giá việc chính quyền cấp
xã triển khai thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở;
- Ngoài quy định Ủy ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên của
Mặt trận ở cấp xã có trách nhiệm giám sát việc thực hiện và tham gia tuyên truyền,
vận động nhân dân thực hiện dân chủ cơ sở, phải quy định thêm vai trò của các tổ
chức xã hội dân sự trong giám sát độc lập việc thực hiện dân chủ ở cấp xã. Cần xây
dựng được cơ chế kiểm tra, giám sát đồng bộ việc thực hiện dân chủ cơ sở từ Trung
ương tới địa phương nhằm xử lý kịp thời những sai phạm xảy ra;
132

- Quy định cụ thể trách nhiệm cá nhân của những cán bộ lãnh đạo chủ chốt,
ít nhất là các chức danh Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND cấp xã
trong tổ chức thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở. Những nơi không thực hiện hoặc
thực hiện mang tính hình thức, đối phó, không hiệu quả, để xảy ra các vụ việc sai
phạm... thì những chức danh trên phải chịu trách nhiệm cá nhân trước nhân dân địa
phương, trước pháp luật;
- Quy định cụ thể về khen thưởng, kỷ luật, các biện pháp chế tài áp dụng trong
thực hiện dân chủ cơ sở: Quy định những thành tích cụ thể nào đạt được trong thực
hiện dân chủ cơ sở thì được đề nghị khen thưởng, cần lượng hóa thành tích bằng
những tiêu chí càng cụ thể càng tốt nhằm đảm bảo sự công bằng, khách quan, tạo
thuận tiện cho việc đánh giá, xét duyệt; Quy định cụ thể các loại hành vi vi phạm
trong thi hành pháp luật dân chủ cơ sở phải bị xử lý kỷ luật, như tính chất, mức độ
của lỗi, hậu quả xảy ra, ảnh hưởng của hành vi vi phạm trong cán bộ và nhân dân địa
phương. Quy định cụ thể hình thức xử lý kỷ luật đối với từng loại hành vi vi phạm cụ
thể, đảm bảo tính giáo dục đối với bản thân người vi phạm và tính ngăn ngừa, răn đe
đối với những người khác. Trường hợp hành vi vi phạm pháp luật về thực hiện dân
chủ cơ sở mà hội đủ các yếu tố cấu thành tội phạm của một tội nào đó được quy định
trong Bộ luật Hình sự thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Chú trọng đúng mức sự đầu tư nguồn lực cho công tác triển khai thi hành
pháp luật dân chủ cơ sở, đặc biệt là công tác đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ công chức cấp xã.
4.3.2.2. Hoàn thiện một số lĩnh vực pháp luật có liên quan đến thực hiện
dân chủ cơ sở
Song song với việc xây dựng, ban hành Luật Thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn và việc rà soát, sửa đổi bổ sung các Quy chế dân chủ ở các loại hình
cơ sở khác, hiện rất cần hoàn thiện một số lĩnh vực pháp luật có liên quan trực tiếp tới
thực hiện dân chủ cơ sở để tạo ra sự đồng bộ, hỗ trợ cho việc thực hiện dân chủ cơ sở.
Theo tinh thần đó, trước mắt cần chú ý hoàn thiện một số lĩnh vực pháp
luật sau:
Thứ nhất, xây dựng và ban hành Luật về giám sát của nhân dân với sự tham
gia trực tiếp của nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội của người dân
133

Đề xuất xây dựng và ban hành Luật về giám sát của nhân dân đã được nhắc
tới trong nhiều nghiên cứu trước đây. Tuy nhiên, đây vẫn đang là vấn đề mang tính
thời sự cấp bách.
Hiện nay, về phương diện chính trị, chúng ta nói nhiều đến sự kiểm tra, giám
sát của nhân dân, nhưng việc thực hiện quyền này chưa có quy định rõ ràng. Công
dân không biết mình có quyền gì, trong giới hạn nào và trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước ra sao? Chưa có những quy định về quy trình, cách thức tiến hành
kiểm tra, giám sát. Chưa có quy định rõ về hệ quả pháp lý của kiểm tra, giám sát
của công dân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện các kết quả của
hoạt động kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Không có các quy định cụ thể thì quyền này chỉ là những tuyên ngôn chính trị. Vì
vậy, trước mắt cần thực hiện tốt chế độ công khai trách nhiệm, quyền hạn của các
cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, trong đó cần đặc biệt chú trọng chế
độ báo cáo, thông tin, công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà
nước, cán bộ, công chức nhà nước, thực hiện chế độ kê khai tài sản của cán bộ công
chức nhà nước. Đồng thời, trên cơ sở rà soát, hệ thống hóa, pháp điển hóa các quy
định về giám sát của nhân dân trong các văn bản pháp luật để tiến tới xây dựng Luật
về giám sát của nhân dân. Trong Luật này, các vấn đề về thẩm quyền, lĩnh vực, nội
dung, hình thức, thủ tục giám sát của nhân dân cần được xác định rõ. Các quy định
cần bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của công dân trong việc xây dựng chính sách,
pháp luật là việc tiến hành thường xuyên. Trên cơ sở đó, cần có những hướng dẫn
thực hiện quy trình, thủ tục tiến hành đối với từng hình thức kiểm tra, giám sát như:
Tiếp xúc cử tri; Chất vấn đại biểu cơ quan dân cử; Đối thoại trực tiếp giữa các cấp
lãnh đạo Đảng và chính quyền nhà nước với người dân;
Thứ hai, nghiên cứu xây dựng pháp luật về phản biện xã hội
Cũng giống như Luật về giám sát của nhân dân, yêu cầu xây dựng pháp luật
về phản biện xã hội đã được đề cập đến từ khá lâu nhưng cho đến nay vẫn chưa có
được khung pháp lý cần thiết.
Phản biện xã hội là một hình thức nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực.
Nói cách khác, đó thực chất là sự phản biện của nhân dân. Với tư cách là chủ thể
của quyền lực nhà nước, thông qua thực hiện phản biện xã hội, nhân dân thực hiện
134

quyền giám sát của mình đối với Nhà nước. Mặt khác, với tư cách là đối tượng chịu
sự quản lý của Nhà nước, nhân dân có quyền phản biện đối với chủ trương, chính
sách, pháp luật của Nhà nước để bảo vệ quyền lợi của mình. Trên thực tế, chủ thể
phản biện xã hội có tiếng nói độc lập trong quan hệ với chủ thể quyết định chính
sách, pháp luật (Đảng, Nhà nước) về tính hợp pháp và hợp lý của các chính sách,
pháp luật. Nội dung cơ bản của phản biện xã hội là đưa ra nhận xét, đánh giá đối với
dự thảo chính sách, dự thảo văn bản pháp luật hoặc chính sách và văn bản pháp luật
đã ban hành, có thể kèm theo các đề xuất, kiến nghị cụ thể. Tất nhiên, không loại trừ
trường hợp, ý kiến phản biện xã hội bác bỏ hoàn toàn dự thảo chính sách, văn bản
quy phạm pháp luật. Phản biện xã hội thể hiện tính tự giác chính trị cao độ của chủ
thể thực hiện và không mang tính quyết định, áp đặt, không nhất thiết dẫn đến sự thay
đổi trong quyết sách nhưng là tiếng nói xây dựng, đầy trách nhiệm của nhân dân nên
rất cần phải thiết lập cơ chế đảm bảo cho hoạt động này được thực thi đúng đắn, được
tiếp nhận và mang lại hiệu ứng tích cực cho quá trình lãnh đạo, điều hành đất nước.
Để phản biện xã hội sớm được tiến hành như một hình thức dân chủ mang
tính trực tiếp rõ nét và hiệu quả hơn trong đời sống xã hội tại cơ sở, đòi hỏi phải
nhanh chóng nghiên cứu và ban hành pháp luật về vấn đề này. Bước đầu tiên của
quá trình hoàn thiện lĩnh vực pháp luật đó bao gồm cả những thể chế liên quan và
những thể chế trực tiếp về phạm vi đối tượng, nội dung của phản biện xã hội, trình
tự tiến hành phản biện xã hội và xử lý kết quả phản biện xã hội.
Về đối tượng: phản biện xã hội được thực hiện đối với tất cả những hoạt
động có liên quan đến tổ chức và thực hiện quyền lực nhân dân, liên quan đến công
quyền, trước hết và trực tiếp nhất là hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước. Phản
biện xã hội có thể thực hiện đối với cả những vấn đề đang còn ở mức độ dự thảo và
cả những quyết định, dự án đã được thông qua và đang triển khai thực hiện nhưng
trọng tâm và mang tính chất bắt buộc là đối với các dự thảo đường lối, chính sách,
quyết định, dự án, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Về nội dung: phản biện xã hội không nhất thiết tiến hành đối với mọi nội
dung của đối tượng phản biện. Nhìn một cách tổng quan thì nội dung phản biện xã
hội là các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước liên
quan đến các vấn đề quốc kế dân sinh, phát triển kinh tế, xã hội, quyền và lợi ích
135

của công dân, tổ chức bộ máy và cán bộ… Trong những trường hợp cụ thể, nội
dung phản biện xã hội sẽ được chỉ ra chi tiết trong từng bối cảnh nhất định.
Về hình thức: phản biện xã hội có thể áp dụng nhiều hình thức phong phú
phụ thuộc vào chủ thể, đối tượng và nội dung phản biện như: tổ chức hội nghị lấy ý
kiến nhận xét, đánh giá; thành lập các hội đồng tư vấn, ban tư vấn; tổ chức đối thoại
trực tiếp với cơ quan, tổ chức có dự án, đề án được phản biện xã hội; trực tiếp gửi
thư, ý kiến đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền…
Về trình tự: phản biện xã hội được tiến hành theo ba giai đoạn: 1/ Chuẩn bị
phản biện; 2/ Tiến hành phản biện; 3/ Hồi âm, ghi nhận kết quả phản biện. Sự chuẩn
bị phản biện được thực hiện bằng việc công khai hóa càng rộng càng tốt chủ trương,
kế hoạch, dự án trước một khoảng thời gian thích hợp để chủ thể phản biện có đủ
thời gian tiếp cận, nghiên cứu tài liệu và tích lũy tư liệu cho sự phản biện của họ.
Quá trình phản biện là quá trình cung cấp thông tin đầy đủ cho bên phản biện. Tiến
hành phản biện có thể diễn ra dưới hình thức tranh luận trực tiếp với sự hiện diện
của các bên. Tranh luận có thể diễn ra tại cuộc họp hoặc thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng. Các cuộc phản biện đều phải được ghi lại thành biên bản và
trình lên cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Về xử lý kết quả phản biện: các cơ quan, tổ chức được phản biện phải thể
hiện việc tiếp thu kết quả phản biện và trả lời bằng văn bản để chủ thể phản biện
được biết, giải trình và đối thoại với chủ thể phản biện đã có kiến nghị phản biện
trong trường hợp không không tán thành với ý kiến phản biện.
4.3.3. Phát huy vai trò của các thiết chế trong hệ thống chính trị cơ sở và
các thiết chế xã hội khác trong tổ chức thực hiện dân chủ cơ sở
Dân chủ và hệ thống chính trị có mối quan hệ biện chứng, tác động và
chuyển hoá lẫn nhau giữa nguyên nhân và kết quả. Để các giá trị dân chủ được hiện
thực hoá trong cuộc sống, thì vấn đề đòi hỏi khách quan là phải có hệ thống tổng
hợp các tiêu chí, điều kiện, công cụ, phương tiện và biện pháp để hướng dẫn và tổ
chức thực hiện dân chủ. ở đó phải có cơ chế dân chủ cụ thể, có các chỉ dẫn hành
động sát thực cho các chủ thể. Đặc biệt, điều quan trọng hơn là phải vừa tạo ra điều
kiện, vừa thiết lập cơ sở pháp lý nhằm đảm bảo cho việc tổ chức, thực thi và kiểm
136

soát quyền lực, bảo đảm cho tính năng động sáng tạo của mỗi chủ thể và ngăn ngừa
những hành vi thái quá, cũng như khắc phục tình trạng dân chủ hình thức.
Xây dựng mô hình hệ thống chính trị cơ sở ngày càng đổi mới và hoàn thiện
được coi là cơ chế vận hành của nền dân chủ nhằm đảm bảo quyền lực thuộc về
nhân dân. Vì thế, Đảng ta đã xác định: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”. Đồng thời,
Đảng đã nhấn mạnh: “Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực chất của việc đổi
mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây vừa là mục tiêu vừa là động lực của công
cuộc đổi mới”. Đây là phương châm, là những định hướng chính trị đúng đắn và
sáng suốt của Đảng ta trong chỉ đạo và lãnh đạo việc kiện toàn hệ thống chính trị
các cấp. Hơn nữa, giải quyết vấn đề dân chủ ở cơ sở không chỉ là vấn đề kết hợp,
mà còn bao hàm cả nhiệm vụ giải quyết vấn đề dân chủ cả trong Đảng, cả mọi
thành viên trong hệ thống chính trị từ trên xuống. Như vậy, trước hết, đổi mới hệ
thống chính trị không phải là thay đổi chế độ chính trị, mà là làm cho chế độ chính
trị đã được kiến lập ở nước ta ngày càng vững bền hơn, thể hiện đúng đắn và đầy đủ
hơn bản chất dân chủ XHCN.
Trong điều kiện ở cơ sở nước ta hiện nay, đó chính là việc tổ chức và thực
hiện tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của
HĐND, UBND cấp xã, đồng thời thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp để nhân dân
tham gia bàn bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan trọng thiết thực, gắn
liền với lợi ích của họ. Thông qua dân chủ trực tiếp ở cơ sở không chỉ để nhân dân
có điều kiện bày tỏ tâm tư, nguyện vọng chính đáng của mình, mà còn khơi dậy và
phát huy mọi tiềm năng trí tuệ, tính tích cực chính trị - xã hội và trách nhiệm công
dân trong việc xây dựng chính quyền xã trong sạch, vững mạnh. Nếu được thực
hiện tốt, dân chủ trực tiếp ở cơ sở sẽ trở thành hệ thống kiểm tra, giám sát đi vào
thực chất hơn đối với đại biểu của dân, với các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp
xã, góp phần tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với dân. Vấn đề quan
trọng bảo đảm cho việc sử dụng tốt cả dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp là việc
đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở phải gắn liền với phát huy có hiệu
quả pháp luật nội dung về thực hiện dân chủ cơ sở, phù hợp với Hiến pháp, pháp
137

luật, thể hiện tinh thần dân chủ đi đôi với kỷ cương trật tự, quyền hạn gắn liền với
trách nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ, đồng thời phải thiết thực và có tính khả thi.
Đi vào cụ thể, quá trình phát huy vai trò tổ chức thực hiện dân chủ của các
thiết chế trong hệ thống chính trị cơ sở cần triển khai những biện pháp cụ thể sau:
- Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng với việc thực hiện pháp luật về dân
chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn cơ sở. Cấp ủy Đảng tại cơ sở phải xác định
việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn
là nhiệm vụ chính trị có tầm quan trọng hàng đầu. Trong bối cảnh hiện nay khi mà ở
một số nơi nội bộ lãnh đạo cấp ủy, chính quyền mất đoàn kết; tình trạng quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chưa được ngăn chặn kịp thời; tình hình khiếu kiện
của người dân đang diễn biến phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ đến lòng tin của nhân
dân đối với cấp ủy, chính quyền, thì sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy Đảng
cơ sở đối với việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở lại càng phải được đề cao.
Để tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng với việc thực hiện pháp luật về
dân chủ ở các đơn vị cơ sở phải chú trọng: (i) xây dựng đảng bộ, chi bộ cơ sở thực
sự là hạt nhân chính trị lãnh đạo toàn diện các nhiệm vụ ở cấp xã; (ii) nâng cao chất
lượng sinh hoạt cấp uỷ, chi bộ, đảng bộ theo quy định của Điều lệ Đảng, nội dung
sinh hoạt phải thực sự dân chủ để đảng viên tham gia, góp ý thể hiện quan điểm của
mình; (iii) kịp thời giải quyết những vướng mắc phát sinh trong dân cư, không để
phát sinh những “điểm nóng”, tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp, hoặc lợi
dụng dân chủ để làm mất ổn định chính trị ở thôn, buôn, tổ dân phố; (iv) kiên quyết
đưa những người không đủ tiêu chuẩn ra khỏi Đảng, nhất là đảng viên thoái hoá về
tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cố tình vi
phạm kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp và công tác tiếp dân theo
hướng dân chủ, chống quan liêu cửa quyền. Thực hiện đầy đủ các nội dung “dân
biết, dân bàn”, đội ngũ cán bộ công chức và đại biểu Hội đồng nhân dân phải
thường xuyên gặp gỡ, đối thoại, tiếp thu và kịp thời giải quyết các vấn đề do các
đơn vị đóng trên địa bàn và nhân dân đặt ra hoặc đang rất bức xúc. Các quyết định
hành chính của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phải đảm bảo
tính khách quan, chính xác, đúng thẩm quyền, đúng thủ tục ban hành. Tiếp tục thực
138

hiện cải cách thủ tục hành chính, coi đây là khâu đột phá trong toàn bộ quá trình
thực hiện cơ chế “một cửa” và “một cửa liên thông” đối với tất cả các công việc của
dân. Giảm hội họp, cán bộ cấp xã tăng cường xuống các khu dân cư, phân công
trách nhiệm cụ thể của cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở với các địa
bàn dân cư. Bố trí lịch tiếp dân, địa điểm tiếp dân chu đáo. Lấy kết quả thực hiện
nhiệm vụ và phát huy dân chủ của địa bàn khu dân cư được phân công theo dõi, chỉ
đạo làm thước đo đánh giá cán bộ công chức. Công khai chi tiết tất cả các khoản thu
để nhân dân có điều kiện giám sát. Định kỳ tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm, xử
lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về dân chủ.
- Tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể ở đơn vị
cơ sở trong thực hành dân chủ. Cần sớm khắc phục tình trạng hành chính hóa; phát
huy mạnh mẽ vai trò nòng cốt tập hợp, đoàn kết nhân dân, tham gia xây dựng Đảng,
chính quyền trong sạch, vững mạnh; nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Thanh
tra nhân dân và ban Giám sát đầu tư của cộng đồng. Cần có một cơ chế thống nhất
để tổ chức, quản lý và phát huy chức năng nhiệm vụ của Ban Thanh tra nhân dân và
ban Giám sát đầu tư của cộng đồng. Nên trao cho các thiết chế giám sát quyền năng
giám sát tất cả các cá nhân là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước sinh sống trên
địa bàn dân cư về các biểu hiện xa dân, giàu có bất thường hay các hoạt động không
minh bạch khác. Theo đó, cần có quy định về cơ chế thực hiện cụ thể để tránh tình
trạng nể nang, né tránh, xuôi chiều hoặc bị các cơ quan, cá nhân trong bộ máy nhà
nước "tác động", "chi phối"... làm biến dạng kết quả kiểm soát, giám sát của nhân
dân. MTTQ cũng cần tăng cường tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, vận
động các tầng lớp nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa - xã
hội, an ninh - quốc phòng, bảo đảm cho địa phương phát triển nhanh, bền vững.
Tiếp tục đổi mới công tác dân vận cho phù hợp với tình hình mới, hướng mạnh về
cơ sở, bám sát địa bàn, bám dân, tăng cường đối thoại trực tiếp với nhân dân.
MTTQ cần tăng cường tham gia cùng với chính quyền giải quyết những nguyện
vọng chính đáng, đúng pháp luật của nhân dân về các vấn đề có ảnh hưởng, liên
quan trực tiếp đến đời sống, việc làm, thu nhập của nhân dân.
- Cần tổ chức cho người dân địa phương bầu trực tiếp Chủ tịch Ủy ban nhân
dân xã. Lợi ích của việc bầu cử trực tiếp Chủ tịch Ủy ban nhân dân có thể thấy rõ đó
139

là khi được dân bầu, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã sẽ tranh thủ được sự ủng hộ của
nhân dân nhiều hơn và đương nhiên trách nhiệm trực tiếp và cao nhất đối với nhân
dân. Chủ tịch Ủy ban nhân dân sẽ phải chịu trách nhiệm trực tiếp toàn bộ về sự phát
triển hay lụn bại về kinh tế, văn hoá xã hội của xã nhưng đồng thời sẽ có điều kiện
suy nghĩ nhiều hơn, chủ động hơn trong các quyết sách phát huy lợi thế cạnh tranh
của xã mình với xã khác.
- Theo xu hướng chung hiện nay, cần tính đến áp dụng mô hình nhất thể hóa
hai chức danh Bí thư và người đứng đầu tổ chức chính quyền tại cơ sở để đảm bảo
tính hiệu quả, tập trung quyền lực thuộc về nhân dân và góp phần tinh giảm số
lượng cán bộ lãnh đạo.
Vấn đề lý luận phức tạp đặt ra hiện nay liên quan đến mô hình nhất thể hóa
chức danh Bí thư và Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Thực tế cho thấy,
nhất thể hóa chức danh Bí thư và Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn là
mô hình phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại và hội nhập, có khả năng tạo ra
sự đồng bộ, thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành các mặt công tác của địa
phương, góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của
Nhà nước, đề cao trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu. Tuy nhiên, mô hình này
cũng có những mặt hạn chế như: rất khó xác định và phân định được ranh giới lúc
nào thì thực hiện nhiệm vụ của Bí thư cấp uỷ, lúc nào thì thực hiện nhiệm vụ của chủ
tịch Ủy ban nhân dân; đồng chí Bí thư đồng thời là Chủ tịch sẽ mất nhiều thời gian đi
họp hoặc xử lý những công việc cụ thể của Ủy ban nhân dân, ít có thời gian để tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo những mặt công tác trọng tâm của đảng bộ và khi quyền lực
được tập trung vào một người, nếu không có cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ thì dễ
xuất hiện và xảy ra hiện tượng gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, vi phạm nguyên
tắc tập trung dân chủ của Đảng. Hơn nữa đây là vấn đề mới, chưa quy định trong
Điều lệ Đảng, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
Từ sự phân tích nói trên, trước khi được chính thức thừa nhận và nhân rộng
trên địa bàn cả nước thì ở đơn vị cơ sở chỉ nên áp dụng mô hình nhất thể hóa Bí thư
và chủ tịch Ủy ban nhân dân tại cơ sở đối với những cơ sở nào có đủ ba điều kiện:
Thứ nhất, cơ sở phải có tập thể cấp ủy mạnh, đoàn kết thống nhất trong một
quy chế hoạt động lãnh đạo và quản lý khoa học, đổi mới, hiệu quả. Tình hình kinh
140

tế xã hội phát triển tương đối ổn định; nội bộ đoàn kết, thống nhất và đã thực hiện
tốt việc đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ; đại diện
cho các vùng, miền có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau;
Thứ hai, Bí thư kiêm Chủ tịch phải bảo đảm tiêu chuẩn cán bộ và đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của chức danh. Các tiêu chuẩn cơ bản như sau: có phẩm
chất chính trị và đạo đức tốt; có năng lực và kinh nghiệm về công tác đảng, công
tác chính quyền; ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm và tính đảng cao; tác
phong làm việc dân chủ, sâu sát, nói đi đôi với làm; có sức khỏe và uy tín trong
cán bộ, đảng viên và nhân dân địa phương, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và
lý luận chính trị từ trung cấp trở lên, đã đảm nhiệm (hoặc được quy hoạch) một
trong các chức vụ lãnh đạo, quản lý tương ứng với chức vụ đảm nhiệm hoặc
những đồng chí có trình độ, kiến thức và năng lực đủ hoàn thành tốt chức trách,
nhiệm vụ được giao;
Thứ ba, tại cơ sở phải có đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh, có đội ngũ
đảng viên thực sự tiên phong gương mẫu, vững vàng về chính trị, có đạo đức trong
sáng, lối sống lành mạnh, gắn bó với nhân dân.
Ngoài ra, cần chú trọng công tác phát triển đảng viên làm nguồn quy hoạch
đội ngũ cán bộ kế cận, khi xem xét phát triển đảng viên mới nên chú trọng xem
xét động cơ phấn đấu vào Đảng, phẩm chất chính trị, tư cách công dân để làm nền
tảng cho quá trình đào tạo, bồi dưỡng tiếp theo trong tương lai gần. Tiếp tục đổi
mới nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc
tự đánh giá chất lượng hoạt động của tổ chức đảng kết hợp với sự đánh giá của
quần chúng nhân dân và của cấp trên. Thực hiện việc kiểm tra định kỳ và đột xuất,
kết hợp với nắm bắt ý kiến phản ánh của nhân dân để phát hiện kịp thời các sai
phạm của đảng viên nhằm ngăn chặn và xử lý kiên quyết, thích hợp, không bao
che xử lý nội bộ, khi xử lý cần công khai cho nhân dân biết để nhân dân tham gia
giám sát quá trình khắc phục khuyết điểm, sửa chữa sai lầm của đảng viên.
4.3.4. Tăng cường năng lực thực hiện dân chủ của người dân tại cơ sở
Khó khăn hơn gấp nhiều lần việc xây dựng thể chế và thiết kế hệ thống thiết
chế thực hiện dân chủ cơ sở chính là vấn đề xây dựng nếp sống dân chủ, tạo lập khả
năng thực hiện dân chủ của chủ thể mang quyền dân chủ. Nói cách khác, năng lực
141

thực hành dân chủ của người dân là yếu tố có tầm quan trọng đặc biệt đối với hiệu
quả của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở.
Để tăng cường năng lực thực hành dân chủ của người dân tại cơ sở, cần phải
chú trọng thực hiện các biện pháp sau:
Thứ nhất, nâng cao dân trí và ý thức pháp luật cho công dân
Nâng cao dân trí có ý nghĩa không nhỏ đối với năng lực thực hành dân chủ,
bởi năng lực trước hết là một yếu tố mang tính chủ quan, phụ thuộc trước tiên bởi
chính chủ thể ấy, mà nhận thức là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến năng lực, giúp
việc thực hành năng lực mang tính định hướng và có hiệu quả hơn trong thực tế.
Có tính giao thoa với việc nâng cao dân trí là nhiệm vụ nâng cao ý thức
pháp luật cho công dân. Ý thức pháp luật là một phạm trù rộng lớn, luôn được quan
tâm trong mọi Nhà nước, đặc biệt trong trật tự Nhà nước pháp quyền. Khi tri thức
và hiểu biết pháp luật ở một tầm nhất định, mỗi cá nhân sẽ nhận thức được ý nghĩa
của việc tuân thủ pháp luật, cũng như các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình,
để từ đó, có những ứng xử, hành vi thích hợp trong mỗi quan hệ xã hội. Khi nhận
thức tốt về dân chủ, về vai trò của mình trong thực thi dân chủ, người dân sẽ có thái
độ tích cực hơn trong mối quan hệ pháp lý với Nhà nước, đồng thời, trong việc sử
dụng và bảo vệ quyền làm chủ của mình.
Đây là một yếu tố quan trọng có tính then chốt trong việc tăng cường năng
lực thực hành dân chủ của người dân tại cơ sở nhất là trong bối cảnh 2/3 dân số
nước ta đang sống trên địa bàn nông thôn với trình độ dân trí và ý thức pháp luật
không cao bởi những lý do lịch sử và xã hội.
Giải pháp căn bản nhất để nâng cao dân trí và ý thức pháp luật cho người dân
tại đơn vị cơ sở là đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng pháp luật nói chung,
pháp luật về dân chủ cơ sở nói riêng. Kiến thức, hiểu biết pháp luật về thực hiện dân
chủ ở cơ sở là tiền đề, nền tảng để nhân dân phát huy các quyền dân chủ của mình
theo luật định.
Mục đích của công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ
ở cơ sở là nhằm cung cấp, trang bị cho mỗi người dân những kiến thức, hiểu biết
pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở, bao gồm các quyền dân chủ của nhân dân,
trách nhiệm của chính quyền, cán bộ công chức cấp xã, cán bộ thôn, tổ dân phố, của
142

cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và của nhân dân trong việc thực hiện dân chủ
cơ sở, từ đó, làm hình thành trong nhân dân ở cơ sở thái độ, tình cảm, niềm tin đối
với pháp luật, tạo dựng thói quen, lối sống, hành vi xử xự tích cực theo các quy định
của pháp luật về dân chủ cơ sở, thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Trong giai đoạn hiện nay, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về dân
chủ cơ sở cần chú ý một số vấn đề sau:
Về chủ thể, ngoài các chuyên gia pháp luật, chủ thể chính làm công tác phổ
biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở cho các tầng lớp nhân dân
là đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Việc thực hiện vai trò, chức năng này của họ
có tác động rất lớn đến sự hiểu biết, nhận thức, thái độ, tình cảm của nhân dân đối
với pháp luật và thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã. Dù đã được tham dự các
lớp tập huấn chuyên đề, bồi dưỡng pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở song khi
đảm nhiệm vai trò chủ thể phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ cơ
sở cho nhân dân, mỗi cán bộ công chức được giao nhiệm vụ cần chuẩn bị kỹ lưỡng,
chu đáo, nghiêm túc các nội dung pháp luật cần phổ biến, tuyên truyền, dự liệu các
câu hỏi, tình huống thực tế mà nhân dân có thể đặt ra để có sự giải đáp thỏa đáng.
Quá trình đó cũng chính là quá trình giú họ tự nâng cao hiểu biết, kỹ năng và ý thức
trách nhiệm của mình về thực hiện dân chủ cơ sở.
Về phương pháp,cán bộ, công chức làm nhiệm vụ phổ biến, tuyên truyền
pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở cần quán triệt phương pháp “lấy người dân
làm trung tâm” bằng cách đưa ra các ví dụ thực tiễn sinh động gắn liền với thực
hiện pháp luật về dân chủ ở địa phương, nêu các câu hỏi có tính chất gây tranh luận
nhằm tạo sự thảo luận sôi nổi... biến nhân dân thành “người trong cuộc” trong các
hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở.
Về nội dung, cần tập trung vào các văn bản pháp luật liên quan nhiều và trực
tiếp tới quyền con người và đời sống xã hội trên địa bàn cơ sở, như Bộ Luật dân sự,
Luật đất đai, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, pháp luật về an toàn giao thông, phòng
chống tội phạm và các tệ nạn xã hội, các chế độ chính sách... Đối với pháp luật về
thực hiện dân chủ cơ sở, cần tập trung phổ biến, tuyên truyền nội dung các quyền
dân chủ của nhân dân ở xã, phường, thị trấn: quyền được biết; quyền được bàn và
143

quyết định; quyền được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết
định và quyền giám sát...
Về hình thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật, cần lựa chọn những hình
thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật hiệu quả nhất, bao gồm:
- Tổ chức các cuộc họp thôn, hội nghị nhân dân để báo cáo viên pháp luật
trực tiếp phổ biến, tuyên truyền bằng các phương pháp sinh động, hấp dẫn và nội
dung gần gũi, thiết thực với nhân dân.
- Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở bằng cả
hai hình thức viết và nói (có thể sân khấu hóa thông qua các hoạt cảnh, tiểu phẩm
vui, thi tuyên truyền viên pháp luật giỏi...).
- Tăng cường hoạt động phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân
chủ ở cơ sở trên mạng lưới Đài Truyền thanh cấp xã. Khi tiến hành, cần chú ý đến
tần suất, khung giờ… cho phù hợp với nếp sống, tập quán sản xuất của nhân dân địa
phương nhằm đảm bảo hiệu quả thông tin.
- Phát miễn phí các tài liệu pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở cho các hộ
gia đình để nhân dân có thời gian nghiên cứu, hiểu biết sâu hơn.
- Lồng ghép các nội dung phổ biến, tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân
chủ cơ sở vào các cuộc họp, hội nghị, sinh hoạt của Đảng, chính quyền, đoàn thể
cấp xã và các sinh hoạt tại khu dân cư, tổ dân phố.
- Quốc hội đã ban hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012, trong
đó quy định ngày 9/11 hàng năm là Ngày Pháp luật nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam “nhằm tôn vinh Hiến pháp, pháp luật, giáo dục ý thức thượng tôn pháp luật
cho mọi người trong xã hội”. Ủy ban nhân dân nhiều tỉnh/thành phố đã xây dựng và
phê duyệt Kế hoạch thực hiện “Ngày pháp luật” tất cả các cơ quan, đơn vị, địa
phương... và đã tổ chức triển khai thực hiện tốt “Ngày pháp luật” tại các xã, phường,
thị trấn, trong đó có lồng ghép tuyên truyền pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở.
Đây là một sáng kiến hay cần được triển khai nhân rộng trên địa bàn xã, phường, thị
trấn cả nước và cũng là một hình thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật rất hiệu quả.
Thứ hai, tăng cường vai trò tích cực, chủ động của công dân trong mối quan
hệ với Nhà nước
Trong xã hội hiện đại, yêu cầu về tính chính đáng của Nhà nước ngày càng
trở nên mạnh mẽ và thiết yếu. Ở đó, Nhà nước phải đáp ứng được các kỳ vọng và
144

tiêu chuẩn của người dân đối với chính quyền của mình. Ngược lại, phía công dân
cũng cần có thái độ hợp tác tích cực trong ý thức về trách nhiệm và nghĩa vụ công
dân, đồng thời, đòi hỏi được thực thi, bảo vệ các quyền hợp pháp của mình một
cách chủ động và hữu hiệu nhất.
Thứ ba, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân
Có thể nói, thông tin là một nền tảng thiết yếu của nền dân chủ ở mọi cấp độ.
Việc người dân tham gia vào quá trình ra quyết định đạt hiệu quả ở mức độ nào phụ
thuộc vào quyền tiếp cận thông tin, mà một phần quan trọng là các thông tin được
nắm giữ từ các cơ quan công quyền.
Quyền tự do thông tin hay quyền tiếp cận thông tin là một quyền đặc biệt
quan trọng của con người. Trong một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, các cơ
quan công quyền không được phép nắm giữ thông tin cho riêng mình, mà “những
thông tin này phải được các thành viên của cộng đồng tiếp cận và nắm rõ nếu họ có
mong muốn, trừ khi có một lợi ích công cộng khác quan trọng hơn buộc chúng phải
được giữ bí mật" [127, tr.539].
Nội dung này không chỉ đòi hỏi việc bảo đảm cho người dân được chủ động
tiếp cận và được đáp ứng các yêu cầu chính đáng về thông tin, mà còn đòi hỏi sự
chủ động minh bạch, công khai hóa các thông tin từ phía các cơ quan công quyền,
trừ khi có một lợi ích công cộng khác quan trọng hơn buộc phải được giữ bí mật.
Như vậy, để nâng cao năng lực thực hành dân chủ cho người dân thì một
điều kiện quan trọng là phải đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của người dân trên
mọi phương diện, bao gồm cả yêu cầu nâng cao chất lượng, cơ sở vật chất, các
nguồn lực phục vụ cho công tác công khai, minh bạch hóa thông tin ở Việt Nam.
Thứ tư, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nhằm tạo lập kỹ năng thực hiện
quyền của người dân đi đôi với việc phát huy hơn nữa hiệu quả của cơ chế giải
quyết khiếu nại, tố cáo.
Các biện pháp cụ thể để tăng cường hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo
của người dân trong điều kiện nước ta là: 1/ rà soát văn bản, sửa đổi, bổ sung nội
dung không thống nhất và cụ thể về quyền công dân để giảm tải khiếu nại; 2/
tiếp tục hoàn thiện Luật khiếu nại, Luật tố cáo theo hướng quy định về các thủ
tục thông thoáng, đơn giản, rõ ràng hơn cho công dân thực hiện quyền và chặt
145

chẽ hơn cho cơ quan nhà nước trong quan hệ với công dân cùng với các chế tài
cụ thể khi cơ quan nhà nước trì hoãn tiến độ giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân (ví dụ, công dân có thể lựa chọn, hoặc giải quyết bằng con đường hành
chính, hoặc bằng con đường tư pháp để khiếu kiện; tăng cường giám sát, kiểm
tra giải quyết khiếu nại, tố cáo từ các cơ quan dân cử và cơ quan thanh tra); 3/
thực hiện nghiêm chỉnh cơ chế đối thoại trực tiếp giữa người dân với cơ quan
giải quyết khiếu nại, tố cáo; 4/ phát huy vai trò hòa giải của các tổ chức đoàn thể
nhân dân; 5/ đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật về khiếu nại, chuyên nghiệp
hoá hoạt động giải quyết khiếu nại, tăng cường thanh tra, kiểm tra hệ thống hành
chính để tạo một cơ chế hợp lý, khoa học sao cho mọi hành vi, quyết định hành
chính của mọi cơ quan hành chính nhà nước đều bị kiểm soát và các hành vi vi
phạm pháp luật được xử lý nhanh chóng; 6/ ngoài ra, áp dụng quy trình, thủ tục
tư pháp cho việc giải quyết khiếu nại trong cơ quan hành chính nhà nước là xu
thế dân chủ hoá hoạt động quyền lực chính trị nói chung và hoạt động của cơ
quan nhà nước nói riêng cần được nghiên cứu kịp thời, nhất là trong giai đoạn
hoàn thiện mối quan hệ công dân và công quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì dân như hiện nay.
Thứ năm, xây dựng và vận hành các hình thức tổ chức cụ thể để nhân dân
thực hiện quyền dân chủ tại cơ sở.
Để dân chủ thực hiện có hiệu quả, cần phải có những điều kiện cần thiết để
bảo đảm việc thực hiện đó. Theo đó, phải đa dạng hóa các hình thức tổ chức mang
tính tự quản của người dân để họ có thể thực hiện quyền làm chủ tương ứng với
từng hình thức dân chủ tại cơ sở. Mỗi hình thức tổ chức đó phải được xác lập trên
cơ sở tính đến sự khác nhau trong việc vận hành chúng trên các địa bàn khác nhau,
đối với mỗi loại hình cơ sở khác nhau. Mặt khác, cũng cần xem xét đến tính chất
đặc thù của từng hình thức dân chủ để có mô hình tổ chức phù hợp. Ví dụ, cùng là
trong chế độ bầu cử, nhưng những quy định về đối thoại, gặp gỡ cử tri sẽ do Mặt
trận Tổ quốc đứng ra tổ chức còn việc đóng góp ý kiến của nhân dân đối với ứng cử
viên phải quy định là nhân dân - chủ thể quyền lực chủ động thực hiện quyền làm
chủ của mình. Đương nhiên, các quy định về tiếp nhận, xử lý các ý kiến của hai
việc đó phải khác nhau.
146

4.3.5. Tăng cường các đảm bảo cho quá trình hiện thực hóa cơ chế pháp
lý thực hiện dân chủ cơ sở
Về chính trị:
Bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân là nhân tố hàng đầu quyết định sự
đúng đắn, lành mạnh của mối quan hệ nói trên. Không thể chỉ dừng lại trong nhận
thức mà nguyên tắc chủ quyền nhân dân phải trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn
bộ thực tiễn quá trình tổ chức và thực thi quyền lực ở nước ta hiện nay. Việc thực
thi dân chủ và thiết kế cơ chế pháp lý thực thi dân chủ cơ sở phải bảo đảm các
nguyên lý chủ quyền của nhân dân cũng như các nguyên tắc của Nhà nước pháp
quyền, ở đó, mọi hoạt động của các chủ thể trong xã hội phải đặt trong khuôn khổ
pháp luật. Nhân dân ủy quyền do vậy nhân dân cũng có thể thu hồi lại quyền lực
đã ủy quyền. Theo hướng đó, dân chủ hóa nền chính trị và toàn bộ đời sống xã hội
là định hướng quan trọng nhất trong đổi mới nền chính trị ở nước ta hiện nay.
Về kinh tế:
Để bất kỳ một cơ chế nào vận hành cũng cần phải có nền tảng vật chất vững
chắc. Xét từ góc độ cơ sở vật chất, cần có sự đầu tư thích đáng, hỗ trợ cho hoạt
động nghiên cứu, tuyên truyền, phổ biến và thực hiện dân chủ cơ sở.
Đồng thời, việc thiết kế cơ chế pháp lý thực thi dân chủ cơ sở cũng cần phải
được tiến hành trên nền tảng nền kinh tế phát triển với cơ sở vật chất đủ mạnh để
hiện thực hóa các yêu cầu của cơ chế này. Theo hướng đó, các chủ trương đổi mới
nền kinh tế, xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần được triển
khai quyết liệt và hiệu quả.
Về xã hội:
Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nói riêng liên quan tới toàn bộ nền tảng chính trị
và xã hội nước ta, ảnh hưởng tới lợi ích của mỗi người dân đồng thời cũng tạo khả
năng thụ hưởng của mọi người, mọi tầng lớp xã hội. Do vậy, một mặt cần nâng cao
nhận thức của toàn xã hội về ý nghĩa của dân chủ và dân chủ cơ sở trong giai đoạn
mới, mặt khác cần huy động sức mạnh của toàn xã hội vào các hoạt động thực thi
và phát huy dân chủ, trong đó có dân chủ cơ sở. Đặc biệt, cần tăng cường các biện
pháp giáo dục, nâng cao dân trí, nâng cao ý thức chính trị, ý thức pháp luật và trách
nhiệm của công dân để nhân dân thực sự trở thành chủ thể của quyền lực chính trị,
quyền lực nhà nước.
147

Tiểu kết chương 4

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta là nhu
cầu tất yếu và là đảm bảo sống còn cho quá trình phát huy dân chủ XHCN, xây
dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Quá trình hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở phải được đặt
trong bối cảnh cụ thể của đất nước trong giai đoạn tới. Những phân tích mang tính
dự báo trong luận án đóng vai trò tạo ra một cách nhìn định hướng về các phương
án hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta.
Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là một quá trình chính trị
- pháp lý hết sức quan trọng. Vì vậy, quá trình này cần được triển khai trên cơ sở
tuân thủ một số quan điểm có tính chất chỉ đạo. Các quan điểm này được xác định
trên nền tảng chung là lấy người dân làm trung tâm, lấy sự tôn trọng, bảo đảm các
quyền con người, quyền công dân làm mục đích.
Để hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đòi hỏi một quá trình
lâu dài, với nhiều bước đi và sự nỗ lực không ngừng nghỉ của Đảng, Nhà nước, các
thiết chế xã hội và mọi người dân. Trong giai đoạn hiện nay, các giải pháp cần được
triển khai ngay bao gồm: 1/ Nâng cao nhận thức về dân chủ cơ sở và vai trò của cơ
chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở; 2/ Hoàn thiện thể chế thực hiện dân chủ cơ sở;
3/ Phát huy vai trò của các thiết chế trong hệ thống chính trị cơ sở và các thiết chế
xã hội khác trong tổ chức thực hiện dân chủ cơ sở; 4/ Tăng cường năng lực thực
hiện dân chủ của người dân tại cơ sở; 5/ Tăng cường các đảm bảo cho quá trình
hiện thực hóa cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở.
Các giải pháp này cần được thực hiện đồng bộ với một quyết tâm chính trị
rất cao.
148

KẾT LUẬN

Nghiên cứu chủ đề hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt
Nam hiện nay, luận án đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn sau:
1. Dân chủ và dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay là chủ đề nghiên cứu có ý
nghĩa nhận thức, lý luận và thực tiễn rất quan trọng, bởi lẽ xuất phát từ giá trị quyền
con người và phát huy giá trị quyền con người, từ sự cần thiết phải tăng cường hiện
thực hoá quyền con người, từ triển khai thực hiện quan điểm coi con người là trung
tâm của sự phát triển, từ đổi mới căn bản, toàn diện các cơ chế để thực thi quyền lực
nhân dân, từ yêu cầu của xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, từ thực trạng thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta và từ xu hướng căn bản của
cộng đồng quốc tế và khu vực ngày càng quan tâm đến dân chủ và các mô hình
pháp lý để hiện thực hóa nền dân chủ trong thế giới đương đại.
2. Trong thời gian qua, dân chủ ở nước ta đã được quan tâm nghiên cứu và
đã đạt được những kết quả bước đầu. Các công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ và dân chủ cơ sở, về cơ chế pháp lý. Các
công trình nghiên cứu ngoài nước về dân chủ và cơ chế pháp lý đã đạt được những
thành tựu lý luận và thực tiễn đáng kể, làm cơ sở cho việc xây dựng và thực hiện
các mô hình thực hiện dân chủ trên các phạm vi không gian khác nhau. Luận án đã
kế thừa những kết quả nghiên cứu đó để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu
được đặt ra. Đồng thời, luận án đặt vấn đề và xác định những nội dung nghiên cứu
cơ bản hơn, toàn diện hơn, chỉnh thể hơn, hệ thống hơn, sâu sắc hơn tất cả những
vấn đề lý luận và thực tiễn của dân chủ và cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở
nước ta hiện nay.
3. Dân chủ ngày nay được xem xét chủ yếu dưới các giác độ khác nhau: là
chế độ nhà nước; là nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của đời sống xã hội; là giá trị
xã hội (thể hiện ở trình độ đạt được về bảo đảm các quyền, nghĩa vụ, tự do của công
dân và sự tham gia của họ trong đời sống xã hội); là lý tưởng, nhân sinh quan, thế
giới quan, mục đích hoạt động của các lực lượng chính trị - xã hội. Việc thực hiện
dân chủ phụ thuộc chủ yếu vào trình độ dân trí, văn hoá của nhân dân; nhân sinh
149

quan và thế giới quan, phẩm chất và năng lực của chủ thể cầm quyền; các thể chế
dân chủ được chế định bằng nguyên tắc, luật pháp, chuẩn mực văn hoá đạo đức về
đời sống xã hội. Dân chủ ở cơ sở là hình thức thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân ở cơ sở với những phương thức và cơ chế thực hiện riêng, có những mặt mạnh,
mặt hạn chế riêng.
Luận án, dựa trên cách tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội,
chuyên ngành và đa ngành luật học, cách tiếp cận dựa trên quyền đã phân tích, luận
giải và đưa ra quan điểm của tác giả về những vấn đề lý luận về cơ chế pháp lý thực
hiện dân chủ cơ sở. Đó là phân tích, luận giải sâu sắc hơn, toàn diện hơn, chỉnh thể
hơn, hệ thống hơn những vấn đề: quan niệm về dân chủ và dân chủ cơ sở; khái
niệm, đặc điểm, vai trò của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở; các thành tố của
cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở; các tiêu chí xác định mức độ hoàn thiện của
cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở. Những vấn đề lý luận đó trong chỉnh thể đã
hình thành nên mô hình lý luận về cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt
Nam hiện nay. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc nhận thức và tổ
chức thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta.
4. Luận án, dựa trên các tài liệu, số liệu đã được thu thập để tiến hành phân
tích, đánh giá thực trạng cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta thời gian
qua theo cấu trúc của mô hình lý luận về cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở.
Các phân tích cho thấy: trên tất cả các thành tố của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ
cơ sở ở nước ta đều có những chuyển biến theo chiều hướng tích cực, ngày càng
chủ động, cơ bản, hệ thống hơn và đã đạt được những kết quả cần được phát huy
trên các phương diện. Tuy nhiên, cũng trên tất cả các thành tố đó, hiện vẫn đang tồn
tại không ít bất cập, ảnh hưởng không nhỏ đến quyền làm chủ thực sự của người
dân tại địa bàn cơ sở, hạn chế tốc độ phát triển kinh tế và sự lành mạnh của các
quan hệ chính trị - xã hội. Luận án cũng đã chỉ ra nguyên nhân của những kết quả
và hạn chế, xem đó là căn cứ thực tiễn nhằm lập luận cho sự cần thiết tiếp tục hoàn
thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta trong thời gian tới.
5. Luận án, dựa trên mô hình lý luận về cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ
sở, thực trạng cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta và và dự báo bối
150

cảnh đất nước và quốc tế trong thời gian tới đã luận giải nhu cầu, quan điểm và giải
pháp tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Hoàn
thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam trong giai đoạn tới mang
tính tất yếu, xuất phát từ các nhu cầu mang tính toàn cầu, khu vực, và các nhu cầu
trong nước. Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam trong
giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn 2030 cần phải tuân thủ những quan điểm nhất
định với tư cách là những tư tưởng mang tính nguyên tắc chỉ đạo và xuyên suốt quá
trình thực hiện dân chủ cơ sở. Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở
Việt Nam trong giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đòi hỏi phải xây dựng và
thực hiện, thúc đẩy thực hiện một cách đồng bộ, có hệ thống các giải pháp đã được
luận giải trong luận án.
6. Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là một chủ đề nghiên cứu lớn và
mang tính chiến lược lâu dài. Trong quy mô một luận án tiến sĩ, nhiều vấn đề vẫn
đang để ngỏ, mang tính gợi mở. Trong thời gian tới, vẫn rất cần thiết triển khai
nhiều hoạt động nghiên cứu về chủ đề này theo hướng mở rộng hơn và đẩy sâu hơn
những nội dung đã được đề cập. Sự nỗ lực của giới nghiên cứu, các nhà hoạch định
chính sách, các nhà lập pháp, các nhà quản lý và người dân chắc chắn sẽ đem lại
những bước tiến lớn trong quá trình hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ
sở để dân chủ thực sự hiện hữu trong mọi khía cạnh của đời sống xã hội Việt Nam.
151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Tiến Thành (2014), "Năng lực của cán bộ cấp xã / phường trong thực
hiện pháp lệnh dân chủ cơ sở", Tạp chí lý luận chính trị, (10).

2. Nguyễn Tiến Thành (2014), "Sự tham gia của người dân vào quá trình thực
hiện dân chủ cơ sở", Tạp chí Giáo dục lý luận, (220).
152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

* Tài liệu tiếng Việt

1. Vũ Hồng Anh (2003), “Vai trò của Hiến pháp đối với việc phát huy dân chủ, bảo
đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, Tạp chí Luật học, 3(52).
2. B. Agapốp (2009), Luật Hành chính (tái bản lần thứ sáu), Nxb Iurait.
3. Lương Gia Ban (2003), Dân chủ và việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Hoàng Chí Bảo (1992), “Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ:
Quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu”, Tạp chí Thông tin lý
luận, (9), Hà Nội.
5. Hoàng Chí Bảo (2010), Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình
đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Hoàng Chí Bảo (2004), Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Bộ Chính trị (1998), Chỉ thị số 30/CT-TW ngày 18/2/1998 Về việc xây dựng và
thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, Hà Nội.
8. Bộ Giáo dục Liên bang Nga, Đ.N. Bakhrac (2010), Luật Hành chính Nga (tái
bản lần thứ năm), Nxb Exkimô, Mátxcơva.
9. Bộ Tư pháp (2014), Đề án 5 Chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban
hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật, Viện Khoa
học Pháp lý, Hà Nội.
10. Hoàng Trọng Chính (2006), “Nâng cao hiệu quả hoạt động quy chế dân chủ ở
cơ sở”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (358), Hà Nội.
11. Chính phủ (2003), Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 ban hành Quy
chế thực hiện dân chủ ở xã, Hà Nội.
12. Chính phủ (2013), "Hiến pháp Việt Nam 2013", www.chinhphu.vn, [truy cập
ngày 20/2/2015].
13. Nguyễn Hồng Chuyên (2011), Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong
điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ
thực tiễn của tỉnh Thái Bình), Nxb Tư pháp, Hà Nội.
153

14. Nguyễn Hồng Chuyên (2014), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận
án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
15. Đinh Thành Công (2010), "Kinh nghiệm của Hải Phòng trong việc triển khai và
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở", Tạp chí Tổ chức Nhà nước, (01).
16. Ngô Huy Cương (2006), Dân chủ và pháp luật dân chủ, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
17. Cao Thiện Cường (2013), "Kết quả bước đầu trong thực hiện dân chủ ở xã,
phường trên địa bàn thành phố Thanh Hóa", Tạp chí Thanh tra, (4).
18. D.N.Gorhunov (2006), “Những yếu tố tâm lý trong thực thi pháp luật”, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp, (79).
19. Nguyễn Chí Dũng (2009), Cơ chế pháp lý giám sát hoạt động tư pháp ở Việt
Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
20. Đỗ Văn Dương (2013), "Những giải pháp phát huy vai trò hệ thống chính trị cơ
sở nhằm bảo đảm thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các
tỉnh Tây Nguyên", Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, (7).
21. Đỗ Văn Dương (2014), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn
trên địa bàn các tỉnh Tây nguyên, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
22. Huỳnh Đảm (2008), “Nhìn lại 10 năm thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường,
thị trấn”, Tạp chí Cộng sản, (789).
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1989), Nghị quyết Hội nghị lần thứ VI, Ban Chấp
hành Trung ương khóa VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Nghị quyết Hội nghị lần thứ III Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
154

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Chỉ thị số 10 CT/TW ngày 28/3 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Báo cáo tổng kết 6 năm thực hiện Chỉ thị số
30 CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp
hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Kết luận số 65-KL/TW ngày 04/3/2010 của
Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị về
xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Trần Bạch Đằng (2003), “Dân chủ ở cơ sở - một sức mạnh truyền thống của
dân tộc Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, (35).
41. Đặng Viết Đạt (2010), “Pháp luật và dân chủ trong nhà nước pháp quyền”, Tạp
chí Lý luận chính trị và truyền thông, (9), tr.35.
155

42. Nguyễn Minh Đoan (2007), “Dân chủ với pháp luật”, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, (10).
43. Bùi Xuân Đức (2004), Giáo trình Luật Hiến Pháp, Nxb Tư pháp.
44. Trần Ngọc Đường, Chu Văn Thành (1994), Mối quan hệ pháp lý giữa cá nhân
công dân với nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Trần Ngọc Đường (2004), Bàn về quyền con người, quyền công dân, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. G.V. Atamanchuc (2004), Lý thuyết quản lý nhà nước, Nxb Omega, Mátxcơva.
47. Nguyễn Thị Thu Hà (2013), “Thực hiện Quy chế dân chủ trong hệ thống chính
trị cơ sở nông thôn ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lịch sử Đảng, 8 (273).
48. Trương Thị Hồng Hà (2007), Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm chức năng
giám sát của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận
án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
49. Lương Đình Hải (2006), “Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ
hóa xã hội ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, 1 (176).
50. Hoàng Văn Hảo (2003), “Vấn đề dân chủ và các đặc trưng của mô hình tổng
thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, (2).
51. Hoàng Văn Hảo, Các điều kiện đảm bảo quyền con người, quyền công dân, Đề
tài KX.07.16, Hà Nội.
52. Vũ Văn Hiền (chủ biên) (2004), Dân chủ ở cơ sở qua kinh nghiệm ở Thụy Điển
và Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Vũ Văn Hiền (2004), Quy chế Dân chủ ở cơ sở - vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Đỗ Trung Hiếu (2004), Một số suy nghĩa về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Trần Đình Hoan (chủ biên) (2008), Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ
thống chính trị ở Việt Nam giai đoạn 2005-2020, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
156

56. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), "Xây dựng thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Kỷ yếu Hội thảo
khoa học, Hà Nội.
57. Nguyễn Anh Hùng (2009), “Những xu hướng dân chủ hóa ở các nước Mỹ La
tinh ngày nay”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (10).
58. Quách Sĩ Hùng (2009), “Vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân chủ ở
nước ta”, Tạp chí Dân và chủ pháp luật, (6), tr.35-39.
59. Nguyễn Thị Việt Hương (2009), “Truyền thống chính trị - pháp lý làng xã và
khả năng thích ứng trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (1), Hà Nội.
60. Nguyễn Thị Việt Hương (chủ nhiệm) (2013), Dân chủ trực tiếp và hoàn thiện
cơ chế pháp lý thực thi dân chủ trực tiếp trong Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Đề tài cấp Bộ, Hà Nội.
61. Trần Quốc Huy (2005), Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt
Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật, Hà Nội.
62. Lê Xuân Huy (2007), “Pháp luật với vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt
Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, 12 (199), tr.41-46.
63. Jean - Jacques Rousseau (2004), Bàn về khế ước xã hội, Hoàng Thanh Đạm
dịch thuật, chú thích và bình giải, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
64. Joseph Stiglitz (2002), Tham gia và Phát triển: Quan điểm từ mô hình phát
triển toàn diện, World Bank xuất bản.
65. Nguyễn Thọ Khang (2013), “Thực hiện dân chủ ở cấp xã và vấn đề đặt ra đối
với báo chí ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền
thông, (6).
66. Lại Quốc Khánh (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chế độ dân chủ nhân dân”,
Tạp chí Triết học, 7(170).
67. Đỗ Minh Khôi (2006), Mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật trong điều kiện
Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
68. Trần Ngọc Khuê (chủ nhiệm) (2002), Mối quan hệ giữa các yếu tố tâm lý xã hội
với quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn hiện nay, Báo
cáo tổng quan đề tài nghiên cứu cấp bộ của Khoa Tâm lý Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
157

69. Đàm Văn Lợi (2010), "Nhìn lại 10 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở",
http://www.mattran.org.vn, [truy cập ngày 15/8/2014].
70. Nguyễn Khắc Mai (1997), Dân chủ - di sản văn hóa Hồ Chí Minh, Nxb Sự thật,
Hà Nội.
71. Nguyễn Văn Mạnh (1995), Xây dựng và hoàn thiện đảm bảo pháp lý thực hiện
quyền con người trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án Phó
tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
72. Nguyễn Văn Mạnh (2010), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam: lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73. Nguyễn Văn Mạnh (chủ biên) (2010), Thực hiện pháp luật - những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia - Hành chính, Hà Nội.
74. Matinne Lombard, Gille Dumont (2007), Pháp luật hành chính của Cộng hòa
Pháp, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
75. Đinh Văn Mậu (2000), Tổ chức thực hiện quyền lực nhân dân và mối quan hệ
giữa nhà nước và công dân, Đề tài nghiên cứu khoa học 96-98-043/ĐT,
Hà Nội.
76. Lê Quang Minh (2003), “Để thực hiện dân chủ sở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, (11).
77. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
78. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
79. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
80. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
81. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
82. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
83. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Montesquieu (2006), Bàn về tinh thần pháp luật, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
86. N.M.Voskresenskaia, N.B.Davletshina (2009), Chế độ dân chủ: Nhà nước và
xã hội, Nxb Tri thức, Hà Nội.
87. Nguyễn Văn Nam (2013), “Luật tục và việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở
Tây Nguyên thực trạng và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Sinh hoạt Lý
luận, 1(116).
158

88. Neal Tate C (1997), “Về nền dân chủ và pháp luật những bước tiến mới trong lý
luận và phân tích” Thông tin khoa học xã hội, (10), tr.24-29.
89. Nguyễn Thị Ngân (chủ nhiệm) (2003), Quá trình thực hiện quy chế dân chủ cơ
sở ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay, Báo cáo tổng quan đề tài
nghiên cứu cấp Bộ của Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
90. Dương Xuân Ngọc (chủ biên) (2000), Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã, một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
91. Nhà xuất bản Xây dựng (2002), Văn bản hướng dẫn xây dựng và thực hiện Quy
chế Dân chủ ở cơ sở, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
92. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa (2005), Từ điển Bách khoa Việt Nam,
Hà Nội.
93. Ngọ Văn Nhân (2008), “Về đổi mới chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại
diện trên địa bàn cơ sở ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, 5(204),
Hà Nội.
94. Phạm Văn Nhuận (2010), “Để Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính
trị, (8).
95. Vũ Thị Nhung (2011), Hoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công, Hà Nội.
96. Thái Ninh, Hoàng Chí Bảo (1991), Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội.
97. Nguyễn Thị Hiền Oanh (2005), Vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với
việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội.
98. Olivier Vidal (2011), “Nước Cộng hòa Pháp và các cộng đồng lãnh thổ địa
phương: sự trở lại của nhóm Girondins?”, trong cuốn Phân cấp quản lý
nhà nước, Nguyễn Hoàng Anh dịch, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
159

99. Hoàng Phê (Chủ biên) (1988), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
100. Nguyễn Tiến Phồn (2001), Dân chủ và tập trung dân chủ - lý luận và thực
tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
101. Nguyễn Hạnh Phúc (2007), "Thực hiện Quy chế dân chủ ở Thái Bình - thành
tựu và kinh nghiệm", Tạp chí Cộng sản, (775).
102. Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên) (2007), Đổi mới tổ
chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
103. Vũ Đình Quân (2005), “Kinh nghiệm, từ việc thực hiện thể chế dân chủ cơ sở
(thôn tự trị) ở Trung Quốc”, Thông tin Chính trị học, Viện Chính trị học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (1).
104. Phạm Ngọc Quang (2004), “Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong quá trình đổi
mới - thành tựu, vấn đề và giải pháp”, Tạp chí Lý luận chính trị, (3).
105. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Bộ luật Hình sự
(sửa đổi năm 2009), Hà Nội.
106. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Luật Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Hà Nội.
107. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Hiến pháp Việt
Nam, Năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 và Nghị quyết về việc
bổ sung sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 1992, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
108. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Luật Khiếu nại,
Luật Tố cáo, Hà Nội.
109. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật Phổ biến,
giáo dục pháp luật, Hà Nội.
110. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp năm
2013 và tìm hiểu Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ, Nxb Hồng Đức,
Hà Nội.
160

111. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Hoà giải cơ
sở, Hà Nội.
112. Nguyễn Duy Quý (2004), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân, Đề tài KX 04, Hội thảo tại Thành phố
Hồ Chí Minh.
113. Rozdental M.M. (1986), Từ điển triết học, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva.
114. S.L. Montesqieu (1990), Tinh thần pháp luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
115. Đỗ Tiến Sâm (2005), Vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung
Quốc, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
116. Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (đồng chủ biên) (2003), Thực hiện quy chế
dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
117. Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (chủ biên) (2005), Thể chế dân chủ và phát
triển nông thôn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
118. Nguyễn Bắc Son (2010), Hỏi đáp về dân chủ ở cơ sở - sách của Hội đồng chỉ
đạo xuất bản sách xã, phường, thị trấn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
119. Phan Xuân Sơn (2003), Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở
cơ sở hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
120. Phan Xuân Sơn (chủ biên) (2010), Các chuyên đề bài giảng chính trị học
(dùng cho cao học chuyên ngành chính trị học), Nxb Chính trị - Hành
chính, Hà Nội.
121. Nguyễn Chính Tâm (2007), "Phản biện xã hội và sự phát triển của Việt Nam",
http://vietnamnet.vn/chinhtri/, [truy cập ngày 25/8/2015].
122. Đặng Đình Tân, Đặng Minh Tuấn (2002), “Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân
chủ ở cơ sở”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (7), Hà Nội.
123. Tạp chí Thông tin những vấn đề lý luận (2008), "Đảng Cộng sản Trung Quốc
và vấn đề dân chủ", Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
124. Tạp chí Tân Hoa xã (2007), "Xây dựng chế độ dân chủ chính trị ở Trung Quốc
theo tinh thần của chủ nghĩa Mác", dịch đăng trên Thông tin Những vấn đề
lý luận - Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, (22).
161

125. Hồ Bá Thâm, Nguyễn Tôn Thị Tường Vân (đồng chủ biên) (2010), Phản biện
xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
126. Trần Gia Thắng (2002), Hiến pháp Việt Nam, (từ năm 1946 đến năm 1992) và
các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
127. Thái Vĩnh Thắng (2011), Lịch sử hình thành và phát triển của quyền tiếp cận
thông tin, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
128. Kim Thanh, Phan Hiên (2007), “Những điểm mới của Pháp lệnh Thực hiện
dân chủ ở xã, phường, thị trấn”, Tạp chí Dân vận, (10).
129. Nguyễn Kim Thanh (2009), “Một vài suy nghĩ về kết quả 10 năm xây dựng và
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Dân vận, (7).
130. Thanh tra Nhà nước (2002), Phát huy dân chủ và giải quyết khiếu tố ở cơ sở,
Hà Nội.
131. Nguyễn Tiến Thành (2006), Kết hợp dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp
trong thực hiện quy chế dân chủ ở xã trên địa bàn thành phố Hà Nội,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
132. Tống Đức Thảo, Bùi Việt Hương (đồng chủ biên) (2011), Trào lưu xã hội dân
chủ ở một số nước phương Tây hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
133. Nguyễn Trọng Thóc (2005), “Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với việc
xây dựng nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay”, Tạp chí Triết học, 6(169).
134. Thomas Meyer, Nicole Breyer (2007), Tương lai của nền dân chủ xã hội (Die
Zukunft Sozialen Demokratie), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
135. Lê Minh Thông (2000), “Tăng cường cơ sở pháp luật về dân chủ trực tiếp ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (1), tr.17-27.
136. Lê Minh Thông (2000), “Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người
ở nước ta”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (8).
137. Thủ tướng Chính phủ (1998), Chỉ thị số 24/1998 ngày 19/6 của Thủ tướng
Chính phủ về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng,
bản thôn, ấp, cụm dân cư, Hà Nội.
138. Trần Thị Hồng Thúy, Ngọ Văn Nhân (đồng chủ biên) (2004), Tác động của
dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
162

139. Nguyễn Trung Tín (chủ nhiệm) (2010), Vai trò và quyền của nhân dân với tư
cách là chủ thể xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2011-2020, Báo cáo tổng hợp Đề tài cấp Bộ, Đại học
Luật Hà Nội.
140. Đặng Hữu Toàn (2005), “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và vấn đề thực thi quyền làm chủ của nhân dân”, Tạp chí Khoa học xã
hội, (9).
141. Nguyễn Văn Toàn (2008), “Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, kết quả
sau 10 năm thực hiện”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (155), tr.14-18.
142. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Công văn số 1833/TLĐ ngày
04/12/2013 về việc Công đoàn tham gia thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở,
Hà Nội.
143. Trung tâm Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh (2002), Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người, Hà Nội.
144. Trung tâm Nghiên cứu quyền con người Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh và Hội nghiên cứu quyền con người Trung quốc (2003), Quyền con
người ở Trung Quốc và Việt Nam (truyền thống, lý luận và thực tiễn), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
145. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
146. Nguyễn Minh Tuấn (2014), “Các hình thức dân chủ và việc mở rộng dân chủ
ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (6), tr.40.
147. Đào Trí Úc (1998), “Củng cố các hình thức dân chủ vì sự vững mạnh của Nhà
nước ta”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (1).
148. Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh (đồng chủ biên) (2003), Giám sát và cơ chế giám
sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
149. Đào Trí Úc (chủ biên) (2009), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt
động của bộ máy Đảng và Nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
163

150. Đào Trí Úc và các cộng sự (2014), Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ
trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
151. Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội (2007), Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11
ngày 20/4 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Hà Nội.
152. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2013), Báo cáo số 495/BC-
MTTW-ĐCT ngày 18/10/2013 về Tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và
nhân dân, Hà Nội.
153. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 37, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
154. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
155. Chu Thị Trang Vân (2009), “Một số vấn đề đặt ra trong quá trình thực thi
Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn”, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, (5), tr.51-59.
156. Viện Khoa học pháp lý (2005), Thiết chế chính trị và bộ máy nhà nước một số
nước trên thế giới, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
157. Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) (2013), Thực trạng thi hành Pháp
lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Hà Nội.
158. Virginia Beramandi, Andrew Elis và các cộng sự (2014), Dân chủ trực tiếp:
Sổ tay IDEA Quốc tế (Chủ biên bản dịch Đào Trí Úc, Vũ Công Giao),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
159. Đàm Đức Vũ (2008), “Phát triển dân chủ xã hội dân chủ xã hội chủ nghĩa và
xây dựng xã hội hài hòa”, Thông tin Những vấn đề lý luận, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, (13).
160. Trịnh Thị Xuyến (2009), Kiểm soát quyền lực nhà nước-một số vấn đề lý luận
và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
161. Nguyễn Như Ý (2011), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia thành
phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh.
164

* Tài liệu tiếng Anh

162. Adam Przeworski, Michael Alvarez, Jose Antonio Chebub and Fernando
Limongi (1996), What makes Democracies Endure? (Điều gì tạo nên các
nền dân chủ bền vững?), Journal of Democracy 7/January, pag. 39-55.
163. Harold Hongju Koh (2000), The right to Democracy, Towards a community of
democracy (Quyền dân chủ, Hướng tới một cộng đồng dân chủ), Issue of
Democracy, May, p. 9.
164. Harold Hongju Koh (2000), The right to democracy, Towards a community of
democracy, Issue of Democracy, May, 2000, p.9.
165. Przeworski, Alvarez, Cheibub, and Limongi (1996), What makes democracies
endure?. Journal of Democracy 7 (January): 39-55.
166. Robert Alan, Dalh (1991), Democracy and its Critics (Dân chủ và sự phê
phán), New Haven: Yale University Press. USA.
167. Sorensen Georg (2007), Democracy and democractization processes and
prospects in changing world (Dân chủ và quá trình dân chủ hóa và triển
vọng trong một thế giới chuyển đổi), Westview press.

You might also like