Academia.eduAcademia.edu
Hội thảo: Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Đại học Quốc tế Sài Gòn, 04 tháng 7 năm 2020 Workshop: Publicity, transparency and accountability of government agencies meet the requirements of building a socialist law-governed State Saigon International University, 04 July 2020 VAI TRÒ CỦA BÁO GIỚI TRONG ĐẢM BẢO TÍNH CÔNG KHAI, MINH BẠCH VÀ GIẢI TRÌNH CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TẠI BA LAN ROLE OF JOURNALIST ORGANIZATIONS IN ASSURANCE OF PUBLICITY, TRANSPARENCY AND EXPLANATION OF STATE AGENCIES IN POLAND TS. Nguyễn Hoàng Tiến ĐH Quốc tế Sài Gòn Dr Nguyen Hoang Tien Saigon International University Tóm tắt: Tác giả tập trung vào hai vấn đề: Hiện thực hóa quyền công khai thông tin và vai trò của báo chí trong phạm vi làm cho hoạt động của các cơ quan chính quyền công khai minh bạch. Vấn đề truy cập thông tin công cộng là một trong những vấn đề đã trải qua nhiều biến động liên tục. Tại Ba Lan, sau 17 năm chuyển đổi sang cơ chế thị trường, các tổ chức nhà báo nhận thức được sự không hoàn hảo của các quy định pháp luật hiện hành. Cần phải có những thay đổi pháp lý trong phạm vi luật báo chí bao gồm hoạt động công bố thông tin. Từ khóa: Minh bạch, thông tin công khai, truy cập thông tin, phương tiện truyền thông 1. CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH VÀ CÁC VẤN ĐỀ CÔNG KHAI MINH BẠCH VÀ GIẢI TRÌNH TẠI BA LAN Cuộc bầu cử quốc hội ở Ba Lan ngày 4 tháng 6 năm 1989 đã được kết thúc bởi các chính phủ độc đảng, bắt đầu thời kỳ được các nhà sử học gọi là Cộng hòa Ba Lan thứ ba. Báo “Dziennik TVP” đã đi vào lịch sử khi nữ diễn viên nổi tiếng người Ba Lan Joanna Szczepkowska phát biểu: "Thưa quý vị, ngày 4 tháng 6 năm 1989, chủ nghĩa cộng sản chấm dứt ở Ba Lan". Lúc đầu, tuyên bố bất ngờ này được đón nhận một cách lập lờ, nhưng theo thời gian nó đã trở thành biểu tượng. Cuộc bầu cử tháng 6 lần đầu tiên được tự do diễn ra và cho phép các đảng đối lập tranh cử. Cuộc bầu cử vào Sejm (Hạ viện của Quốc hội Ba Lan, số lượng 460 đại biểu) không được diễn ra tự do khi phe đối lập chỉ giành được 161 ghế). Các cuộc bầu cử vào Senat (Thượng viện của Quốc hội Ba Lan, số lượng 100 thượng nghị sĩ) hoàn toàn diễn ra tự do và phe đối lập đã tận dụng giành 99 trong 100 ghế. Tuy nhiên, thành công bầu cử thuyết phục của Ủy ban Công dân Đoàn kết (Komitet Obywatelski Solidarność) tập hợp bởi Lech Walesa chỉ là khởi đầu cho những thay đổi đang được mong đợi. Ngày nay, 18 năm sau những sự kiện này xảy ra, vẫn khó có thể ý thức được người dân vào thời điểm đó với thông tin rằng chính quyền phải là để phục vụ nhân dân. Sau gần 45 năm thống trị của Liên Xô, thiếu sự đa nguyên chính trị, với việc đàn áp mọi biểu hiện sáng kiến xã hội, người dân đã quen với việc coi quyền lực là một từ đồng nghĩa với tội ác. Sự thờ ơ, thu động và thiếu sáng kiến đề xuất từ phía dân đã làm phức tạp hơn quá trình này. Rất khó để loại bỏ sự phân chia xã hội trong ý thức hệ của con người thành hai phe: Chúng ta và Họ. Trong nhiều năm, xã hội đã quen với kiểu chiến đấu với chính quyền vốn được coi là nguồn gốc của mọi tội ác. Xu hướng lách luật đã trở thành một sắc thái trong cuộc sống hàng ngày của nhiều người. Gia đình trị hoặc lạm dụng chức vụ để thực hiện các lợi ích riêng tư đã trở thành một thực tế và đôi khi thậm chí là một điều không thể tránh khỏi. Cải cách hành chính công là một quá trình cực kỳ phức tạp và kéo dài. Chắc chắn các cuộc cải cách tại Ba Lan không phải lúc nào hoàn hảo, bởi vì không có quốc gia đối mặt với một thách thức lớn như vậy mà không mắc sai lầm. Ảnh hưởng đau đớn nhất đối với người dân chắc chắn là tính quan liêu và tham nhũng quá mức ngày càng thể hiện ro nét trong bộ máy nhà nước Ba Lan1. Tuy nhiên, quá trình hội nhập châu Âu và sự tham gia có trách nhiệm của Ba Lan ở Châu Âu được hy vọng răng sẽ ngăn chặn quá trình tiêu cực này. Ba Lan trong bảng xếp hạng Transparency International năm 2006 đã lần đầu tiên cải thiện vị thế về chỉ số nhận thức tham nhũng. Trong số các quốc gia được kết nạp vào EU vào ngày 1 tháng 5 năm 2004, Ba Lan có chỉ số nhận thức tham nhũng cao nhất. Măm 2006 là năm đầu tiên kể từ năm 1997 được thăng hạng trong bảng xếp hạng. Đối mặt với tình trạng này, ngày nay, nguyên tắc công khai minh bạch đã đóng vai trò phòng ngừa trong cuộc chiến chống tham nhũng. Trước niềm tin xã hội khá phổ biến về tham nhũng và gia đình trị, cũng như các biểu hiện tiêu cực khác bộ máy nhà nước, chính sự minh bạch trở thành một yếu tố tạo ra một thực tế mới, tốt hơn. Sự minh bạch trong hành động và quyết định của các cơ quan nhà nước làm cho mỗi chúng ta trở thành người tham gia tích cực và có ý thức hơn trong các sự kiện quần chúng. Mỗi cư dân nhận thức được về thực trạng hành chính công ở địa phương mình, sử dụng các công cụ cho phép tiếp cận với thông tin, trở nên ý thức hơn trong lựa chọn của mình. Có lẽ tính minh bạch và phổ biến của việc tiếp cận thông tin sẽ làm cho các cơ quan hành chính công trở nên trong sạch, minh bạch, và hiệu quả. Quá thường xuyên khẩu hiệu công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình xuất hiện trên áp phích bầu cử, nhưng lại thiếu trong thực tế. Rốt cuộc, đây không chỉ là vấn đề pháp lý để có thể dễ thay đổi nhất. Sự công khai minh bạch không chỉ là việc truy cập thông tin công. Đó cũng là cách xây dựng luật bầu cử, trong đó cử tri có thể chuyển sự ủng hộ của mình cho một đối tượng cụ thể, không chỉ là một đảng cụ thể. Điều đặc biệt quan trọng cũng là vị trí của các phương tiện truyền thông. Tuyển dụng vào các cơ quan hành chính công cũng phải dựa trên các nguyên tắc cạnh tranh và minh bạch. 2. QUYỀN LẬP HIẾN ĐỐI CỦA VIỆC TIẾP CẬN CÁC THÔNG TIN CÔNG CỘNG Lịch sử của nguyên tắc công bố thông tin, từ đó suy ra quyền truy cập thông tin công cộng, là tương đối ngắn ở Ba Lan. Vào ngày 1 tháng 1 năm 2002, Đạo luật về tiếp cận thông tin công cộng2 có hiệu lực, hoàn thành hướng dẫn của điều 61 phần 4 của Hiến pháp Cộng hòa Ba Lan3, trong đó có ủy quyền để xác định theo luật về xác định các nguyên tắc công khai thông tin công cộng. Mặc dù quy định này có hiệu lực khá muộn, nhưng giai đoạn trước nó không tước bỏ các quy định quy phạm trong vấn đề này. Chúng ta nên nhớ về các quy định áp dụng của luật quốc tế có đề cập đến vấn đề công khai minh bạch của các cơ quan công quyền. Năm 2000, sau khi Hiến pháp Ba Lan có hiệu lực từ ngày 2 tháng 4 năm 1997, Tòa án Tối cao ở Ba Lan tuyên bố rằng Hiến pháp Ba Lan đặt ra các tiêu chuẩn cao hơn cho việc bảo vệ quyền tự do ngôn luận so với quy định trong điều 10 của Công ước bảo vệ quyền con người và các quyền tự do cơ bản4. Có thể giả định rằng kể từ khi Hiến pháp Ba Lan có hiệu lực năm 1997, nó đã trở thành tiêu chuẩn mẫu trong lĩnh vực tiếp cận và công khai thông tin công chứ không phải luật quốc tế. Từ năm 1990, Ba Lan đã trải qua ba thời kỳ, được đặc trưng bởi các cơ sở pháp lý khác nhau trong phạm vi quyền được thông tin công khai. A - khoảng thời gian mà quyền tiếp cận thông tin công bắt nguồn từ nội dung của các đạo luật quốc tế hiện hành có chưa các quy định liên quan. Tình huống này là một ví dụ tuyệt vời về tác động của luật pháp quốc tế đối với trật tự pháp lý của từng quốc gia. Tuy nhiên, trên thực tế, quyền truy cập vào thông tin công vẫn là lĩnh vực của các nhà báo tò mò hơn là quyền phổ cập của mọi người dân. B - là thời kỳ vẫn chưa có quy định pháp lý riêng biệt và chỉ có Hiến pháp quy định rõ ràng về nguyên tắc công khai minh bạch trong điều 61. Căn cứ vào điều 8 khoản 2 của Hiến pháp Ba Lan, trong trường hợp không có quy định luật pháp về mặt này, quyền thông tin và tiếp cận thông tin về các hoạt động của nhà chức trách có thể trực tiếp dựa vao điều 61 của Hiến pháp. Các phán quyết của tòa án đã cố gắng lấp đầy khoảng trống do thực tế là luật pháp thông thường quá chung chung về mặt nội dung hoặc thiếu các quy định chi tiết liên quan đến các giới hạn của nguyên tắc công khai. Một ví dụ là phán quyết của Tòa án Hành chính Tối cao năm 1999, trong đó tòa án cho rằng một nghị quyết của hội đồng xã cấm ghi hình ảnh các cuộc hội họp vi phạm nguyên tắc của Hiến pháp về sự công khai minh bạch của các cơ quan công quyền theo quy định của điều 615. C - khoảng thời gian hiệu lực của Đạo luật về quyền truy cập thông tin công khai. Trong thực tế, rất khó để chỉ ra UODIP (Ustawa o Dostępie do Informacji Publicznej – Đạo luật về quyền truy cập thông tin công khai) là một khuôn mẫu trong lĩnh vực truy cập thông tin công khai, bởi vì pháp luật Ba Lan lần đầu tiên đưa ra luật bảo vệ một số lĩnh vực nhất định, ví dụ như Đạo luật bảo vệ dữ liệu cá nhân6 hoặc bảo vệ thông tin mật7 và chỉ sau đó mới khẳng định được là các vấn đề chính sách công cộng là thông tin công khai (đây là định nghĩa pháp lý về thông tin công khai tại Điều 1 Đạo luật 1 của UODIP). Điều này này đã gây bất lợi cho việc củng cố niềm tin vào nguyên tắc ưu tiên công khai minh bạch trong hoạt động của các cơ quan công quyền. Nếu thứ tự của các luật này có hiệu lực ngược lại, chúng ta chắc chắn sẽ tránh được nhiều vấn đề điều chỉnh nguyên tắc công khai minh bạch của các cơ quan nhà nước ngày nay. Mặc dù những phê bình nghiêm trọng, chúng ta cũng nên nhìn nhận những mặt tích cực của tình hình hiện tại. Thực tế là chúng ta có một luật riêng ở Ba Lan xác định quyền truy cập vào thông tin nên điều này phải được coi là một thành công. UODIP đã trở thành đạo luật cơ bản trong phạm vi này, và nó quy định toàn diện tất cả các vấn đề liên quan đến việc thực hiện quyền thông tin. Nội dung của UODIP chứa các quy tắc phổ biến liên quan đến ai có quyền thông tin, thông tin công khai là gì, chi phí cung cấp thông tin công cộng, quy tắc từ chối cung cấp thông tin công cộng, quyền của giới truyền thông đối với thông tin công khai. Theo điều 1 đạo luật 1 của UODIP thông tin công khai là bất kỳ thông tin nào về các vấn đề hoạt động của các cơ quan công quyền. Một định nghĩa chung như vậy là thành công của các nhà lập pháp. Nội dung điều 1 là biểu hiện của cách hiểu mới về thực tế và là nguyên tắc chỉ đạo trong việc áp dụng các quy định của Đạo luật. Nó thiết lập ý tưởng hướng dẫn các nhà lập pháp, từ đó sự thống trị của sự công khai minh bạch đối với việc giữ bí mật thông tin công cộng. Các nhà lập pháp Ba Lan đã bao quát phạm vi của Đạo luật với phạm vi thông tin rất rộng, điều này định hình nguyên tắc chung rằng tất cả thông tin về các vấn đề công cộng là công khai. Sự công khai minh bạch đã được đưa ra đầu tiên, và tất cả các trường hợp ngoại lệ nên được coi là một sự rời khỏi quy tắc và được giải trình nghiêm ngặt. Điều này có tầm quan trọng lớn khi quyết định có tiết lộ thông tin trong một trường hợp cụ thể hay không. Trong trường hợp nghi ngờ, nó nên được quyết định có lợi cho sự công khai minh bạch. Có một quy tắc giải thích chung chỉ ra sự thống trị của nguyên tắc công khai minh bạch là nguyên tắc cơ bản. Việc tiết lộ thông tin không phải vì nó chứa nội dung của một loại nội dung nhất định hoặc bởi vì xuất xứ ở nơi này hay nơi khác. Thông tin được công khai đơn giản vì nó không phải là thông tin mật. Cách tiếp cận này là một dấu hiệu của một sự thay đổi mang tính cách mạng trong nhận thức về các vấn đề công. Các bên quan tâm không phải chứng minh tại sao thông tin đã cho là công khai và có thể được tiết lộ. Các tổ chức bắt buộc phải áp dụng các nguyên tắc phát sinh từ UODIP và phải chứng minh trên cơ sở pháp lý nào mình có thể từ chối cung cấp thông tin. Các nhà chức trách không còn là chủ sở hữu của thông tin, mà chỉ là chủ sở hữu tạm thời của nó. Một quan chức hành chính công trở thành người bảo vệ bí mật, không phải là người bảo vệ thông tin như vậy. Một quy tắc quan trọng khác là kiểm soát các quyết định từ chối truy cập thông tin. Mỗi sự từ chối có thể kháng cáo lên cơ quan thẩm quyền thứ hai, quyết định của cơ quan này người nộp đơn có thể kháng cáo lên Tòa án Hành chính tỉnh. Phán quyết của Tòa án Hành chính tỉnh cuối cùng có thể được kháng cáo lên Tòa án Hành chính Tối cao ở Warsaw là nơi phán quyết cuối cùng. Trong thực tế, việc từ chối tiết lộ thông tin được đưa ra bởi chính quyền ở cấp tối cao như bộ trưởng hoặc thủ tướng hoặc cơ quan trung ương khác. Thủ tục truy cập thông tin công cộng đã được các nhà lập pháp xem xét khá cụ thể về mặt thời hạn xử lý các đơn kháng cáo. Cơ quan có thẩm quyền có 14 ngày để trả lời yêu cầu và trong các trường phức tạp, họ có thể gia hạn xem xét đến tối đa 2 tháng. Bất kỳ sự chậm trễ nào cũng có thể được kháng cáo là hành động bất hợp pháp của đơn vị xử lý đơn kháng cao. Là một phần của việc truy cập thông tin công cộng, vấn đề hiện đang gây ra cảm xúc mạnh mẽ là sự công khai minh bạch về tài chính của các quan chức nhà nước. Những sửa đổi được đưa ra bởi Đạo luật ngày 23 tháng 11 năm 2002 8 nhân danh cuộc chiến chống gia đình trị và tham nhũng dẫn đến sự minh bạch tài sản sâu rộng của các quan chức chính quyền địa phương 9. Các nhà lập pháp đã tạo ra các quy định mới nếu các quan chức không tuân thủ sẽ phải chịu hình phạt nghiêm trọng, bao gồm cả việc mất chức. Mỗi cá nhân quan chức theo quy định của đạo luật này có nghĩa vụ nộp tờ khai tài sản cho cơ quan được chỉ định. Những thay đổi trong khai báo tài sản là nhằm để phòng ngừa những chuyển biến tiêu cực trong cuộc chiến chống tham nhũng. Kể từ tháng 1 năm 2003, những người kê khai tài sản phải chuyển một bản sao cho cơ quan thuế có thẩm quyền thuộc nơi cư trú của mình. Cơ quan thuế phân tích dữ liệu trong các báo cáo, trong trường hợp có sự khác biệt có thể gửi yêu cầu đến giám đốc của cơ quan thanh tra thuế để kiểm tra lại. Ngoài ra, kể từ năm 2003, nội dung kê khai tài sản đã hoàn toàn công khai và bất kỳ ai quan tâm đều có thể tìm hiểu (dữ liệu liên quan đến địa chỉ của người nộp tờ khai và vị trí của tài sản được giữ bí mật). Tất cả các tuyên bố tài sản có sẵn trong Bản tin thông tin công cộng 10. Mọi người quan tâm đều có cơ hội xem tuyên bố của thị trưởng, chủ tịch thành phố hoặc ủy viên hội đồng. Khả năng tương tự áp dụng cho khai báo của đại biểu và thượng nghị sĩ11, nghị sĩ châu Âu12 hoặc thành viên của Hội đồng Bộ trưởng13. Tuy nhiên, việc kê khai tài sản không phải lúc nào cũng được thực hiện mà không có xung đột. Vào đầu năm 2007, hóa ra một số điều khoản trong lĩnh vực này không hợp lý và đe dọa khiến hàng trăm quan chức chính quyền địa phương trên khắp Ba Lan có nguy cơ mất chức, liên quan đến 33 người đứng đầu xã, thị trưởng và chủ tịch14. Toàn bộ sự nhầm lẫn liên quan đến một số nghĩa vụ khai báo bổ sung như có vợ/chồng có hay không tiến hành các hoạt động kinh doanh sử dụng tài sản công trên địa bàn của một đơn vị chính quyền địa phương. Thời hạn nộp hồ sơ bổ sung khác do nhầm lẫn so với việc nộp tờ khai tài sản15. Cuối cùng, Toà án Hiến pháp đã ra phán quyết về tính không hợp hiến của điều khoản16. Tóm lại, dường như hiện nay nhận thức về sự cần thiết công khai minh bạch liên quan đến các quan chức và công chức nhà nước, cần phát huy hơn nữa những nguyên tắc này. Không nên quên rằng truy cập thông tin công là chủ đề được dư luận quan tâm và có ảnh hưởng ngày một lớn. Cần nhấn mạnh không chỉ việc xác định các lĩnh vực và phạm vi cần được công khai và minh bạch tiếp theo, mà cần có những căn cứ để bảo vệ quyền và sự riêng tư cá nhân và những giá trị khác xứng đáng được bảo vệ. Có những giá trị do tính đặc thù của chúng mà không nên tiết lộ như: dữ liệu cá nhân, thông tin mật, và các vấn đề riêng tư của cuộc sống cá nhân mỗi người bất kể họ có là công chức hay không theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, những hạn chế này không đe dọa sự công khai hơn, minh bạch hơn mà sẽ duy trì được tỷ lệ thích hợp giữa sự công khai minh bạch và quyền riêng tư cá nhân. Trong một hệ thống của những điều nghiêm cấm và nghĩa vụ được xây dựng đúng đắn, việc giới hạn lợi ích của một người vì lợi ích công cộng sẽ hợp lý và hiệu quả hơn khi sự minh bạch của các hành động đó được đảm bảo. Theo cách hiểu như vậy, nguyên tắc công khai minh bạch trở thành một công cụ hữu hiệu trong phòng chống tham nhũng. 3. QUYỀN LỰC CỦA TRUYỀN THÔNG TRONG THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC CÔNG KHAI MINH BẠCH VÀ GIẢI TRÌNH TẠI BA LAN Phân tích vấn đề tính minh bạch, công khai và giải trình, nhất thiết phải đề cập vai trò to lớn của giới truyền thông trong lĩnh vực này. Điều quan trọng là các phán quyết đầu tiên của tòa án cho thấy rõ sự cần thiết phải công khai các hoạt động của các cơ quan hành chính công nhờ có sự can thiệp của các đại diện truyền thông. Vào giữa những năm 90, một tuần báo đã đặt câu hỏi về việc từ chối cung cấp thông tin về thu nhập thực tế của thị trưởng, sau một phiên tòa dài dẫn đến Tòa án Hành chính Tối cao xác nhận rằng thu nhập của các nhân vật thuộc công chúng như thị trưởng là thông tin công khai17. Mọi người quan tâm có thể yêu cầu thông tin như vậy. Các phán quyết từ từ định hình đúng đắn cho việc áp dụng luật điều chỉnh quyền truy cập vào thông tin công. Luật báo chí trong bối cảnh thời gian có lẽ là hành lang pháp lý sớm nhất cung cấp khả năng kiểm soát khác nhau đối với các cơ quan công quyền. Tất nhiên, điều này không phải lúc nào cũng thực thi được, đặc biệt trước năm 1990. Ở Ba Lan, Đạo luật Báo chí đã có hiệu lực từ năm 1984, năm 1990 đã được sửa đổi và điều chỉnh phù hợp với các điều kiện hệ chính trị thống mới18. Vào ngày 19 tháng 1 năm 1990, Thủ tướng phi cộng sản Tadeusz Mazowiecki đầu tiên tuyên bố giải thể Tổng Ủy ban Kiểm soát Báo chí, Ấn phẩm và Biểu diễn, một tổ chức quyền lực có trụ sở tại Phố Mysia nổi tiếng ở Warsaw. Khi kiểm duyệt bị loại bỏ, báo chí ở Ba Lan có thể lần đầu tiên có thể hoạt động hoàn toàn độc lập, bắt đầu nhận ra quyền được thông tin kỹ lưỡng của công dân, tính minh bạch của cơ quan nhà nước, sự kiểm soát và phê phán xã hội (Điều 1 của luật báo chí). Theo điều 10 của Hiến pháp Ba Lan, từ năm 1997, hệ thống chính trị Ba Lan dựa trên sự phân chia tam quyền cổ điển cân bằng, gồm: hành pháp, lập pháp và tư pháp. Tuy nhiên, chắc chắn, chúng ta có thể bổ sung danh mục này và tuyên bố rằng truyền thông tự do trên thực tế là quyền lực thứ tư trong một nhà nước dân chủ. Quyền tự do báo chí hoạt động ở Ba Lan được bảo đảm về mặt Hiến pháp. Điều này cho phép tiến hành tìm kiếm và tiết lộ cho công chúng bất kỳ sự bất thường nào trong hoạt động của các cơ quan công quyền. Quyền tự do bày tỏ quan điểm được quy định trong điều 54 của Hiến pháp19. Một nguyên tắc rất quan trọng khác là tự do báo chí thể hiện trong điều 14 của Hiến pháp20. Các quy định hiện hành không tạo ra quá nhiều trở ngại để triển khai các hoạt động báo chí. Xuất bản một tạp chí chỉ yêu cầu đăng ký với tòa án khu vực có thẩm quyền cho văn phòng đăng ký của nhà xuất bản. Cơ quan đăng ký sẽ từ chối đăng ký chỉ khi đơn yêu cầu có đầy đủ thông tin theo yêu cầu của pháp luật, hoặc vi phạm quyền bảo vệ tên của một tạp chí đã tồn tại. Việc đình chỉ phát hành tạp chí chỉ có thể xảy ra trong trường hợp nếu trong một năm, trong quá trình hoạt động tạp chí đã để xảy ra ít nhất ba lần sai phạm. Cách tiếp cận tự do như vậy đối với hoạt động của báo chí đi đôi với định nghĩa pháp lý của một nhà báo. Đó là một người liên quan đến việc chỉnh sửa, tạo hoặc chuẩn bị tài liệu báo chí, có mối quan hệ lao động với ban biên tập viên, hoặc tham gia vào các hoạt động đó với sự ủy quyền của biên tập viên. Vì vậy, nhà báo không cần phải trực tiếp liên quan với ban biên tập viên để có thể thực hiện các quyền mà pháp luật ban cho cho các nhà báo. Mặt khác, cách tiếp cận tự do như vậy sẽ tạo nên nỗi sợ rằng các cá nhân không xứng đáng vẫn có thể hành nghề nhà báo. Tuy nhiên, việc bắt buộc phải là thành viên của hiệp hội nhà báo chuyên nghiệp như một điều kiện để thực hành nghề, đã gặp phải sự phản đối lớn từ môi trường. Tôi không nghĩ rằng những thay đổi lập pháp sẽ có thể ảnh hưởng đến trình độ của nghề báo chí dưới bất kỳ hình thức nào. Chỉ các quy trình từ dưới lên quan tâm đến việc duy trì các nguyên tắc cơ bản của đạo đức nghề nghiệp mới có thể thực hiện thay đổi. Người ta hy vọng rằng chính môi trường sẽ có những biện pháp xử lý đủ mạnh để nghề nhà báo được thực hiện bởi những người được chuẩn về mặt mgheeg nghiệp và tin tưởng vào sứ mệnh của nhà báo. Các tổ chức nhà báo nhận thức được sự không hoàn hảo của pháp luật hiện hành. Người ta thấy cần thiết phải có những thay đổi mang tính pháp lý trong lĩnh vực luật báo chí, có tính đến những thay đổi trong hoạt động xuất bản, có tính đến những thay đổi công nghệ và quá trình toàn cầu hóa. Sự phát triển của đa phương tiện và tốc độ phổ biến thông tin biện minh cho lập trường rằng tính hình thức của quy định nên được hạn chế càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là thoát khỏi cuộc thảo luận về các vấn đề nghiêm trọng đòi hỏi phải kích hoạt toàn bộ môi trường báo chí. A. Stefanowicz thay mặt Hiệp hội các nhà báo Ba Lan 21 bày tỏ niềm tin rằng các vấn đề cơ bản cần xác định lại trong bối cảnh thay đổi chính trị - xã hội ngày nay bao gồm: khái niệm "nhà báo", "báo chí" và "tài liệu báo chí". Quyền của đại diện truyền thông liên quan đến quyền thông tin chính thức giống như đối với bất kỳ thực thể có quan tâm nào khác. Theo điều 3a của UODIP, các quy định của UODIP sẽ được áp dụng cho quyền truy cập báo chí vào thông tin công khai. Tuy nhiên, người ta biết rằng trong thực tế, một nhà báo tìm kiếm thông tin ở một vị trí hoàn toàn khác so với thường dân. Quyền lợi duy nhất mà thường dân không có là quyền được chỉ định trong điều 4 luật báo chí. Nếu doanh nhân và tổ chức ngoài công lập từ chối cung cấp thông tin cho báo chí, việc từ chối đó có thể được tổng biên tập trực tiếp kháng cáo lên tòa án hành chính tỉnh. Điều này hoàn toàn tương ứng với vai trò của phương tiện truyền thông, nhiệm vụ quan trọng nhất của họ là thông báo cho nhân dân về hoạt động của chính quyền. Vai trò của báo chí trong việc làm cho các cơ quan chính quyền công khai minh bạch là rất lớn. Những vụ bê bối lớn nhất ở Ba Lan đã được các nhà báo phát hiện và phanh phui. Nếu không phải vì quyết tâm của họ, đồng thời được bảo vệ mạnh mẽ bởi pháp luật, nhiều trường hợp này sẽ không bao giờ được phát hiện. 4. THỰC TIẾN VỀ QUYỀN LỰC CỦA TRUYỀN THÔNG TẠI BA LAN Trong số các vụ bê bối lớn được phanh phui có RYWIN GATE, được đặt theo tên của Lew Rywin (một đạo diễn phim nổi tiếng người Ba Lan), người bị cáo buộc tham gia cung cấp cho một nhóm không được tiết lộ "nắm giữ quyền lực" với nội dung liên quan của Đạo luật về Hội đồng Phát thanh Quốc gia. Quốc hội Ba Lan thậm chí còn thành lập một ủy ban điều tra, trực tiếp truyền hình trên TVP, và tiết lộ các cơ chế quyền lực trước đây chưa được biết đến với nhiều đối tượng hơn. Công việc của ủy ban điều tra được xã hội Ba Lan đánh giá cao, vì họ cho phép tiết lộ các hiện tượng, nếu không phải vì lợi ích công chúng là sự công khai minh bạch, có lẽ sẽ không bao giờ được công khai. Một số chuyên mục đã cố gắng hạ thấp vụ án, trích dẫn câu nói nổi tiếng của Thủ tướng Otto von Bismarck. "Người dân bình thường không nên biết cách làm xúc xích và hậu trường của chính trị trông như thế nào." Tuy nhiên, sự xôn xao lan rộng đến mức vụ bê bối RYWIN GATE đã gây ra sự sụp đổ của chính phủ cánh tả và thất bại bầu cử trong cuộc bầu cử quốc hội năm 2005. Trong cuộc bầu cử quốc hội năm 2001 Ủy ban bầu cử của Liên minh cánh tả dân chủ đã nhận được 216 ghế, chiếm 45,9% tổng số ghế trong Quốc hội (231 là đủ cho các chính phủ độc lập) Và trong cuộc bầu cử năm 2005 sau khi vụ bê bối được tiết lộ, Ủy ban bầu cử SLD đã nhận được 55 ghế, tức 11,9% tổng số ghế. Nhờ làn sóng không hài lòng của cử tri, đảng của anh em Kaczyński “Luật và Công lý” đã giành chiến thắng, chiếm được 155 ghế, tức 32,6% tổng số ghế. Một năm sau cuộc bầu cử quốc hội, xã hội Ba Lan vào tháng 10 năm 2006 đã bị xúc động bởi một cuộc khiêu khích báo chí được thực hiện bởi hai nhà báo kênh TVN. Khi tham khảo ý kiến, họ đã ghi lại các cuộc trò chuyện với hai bộ trưởng liên quan đến hỗ trợ của chính phủ trong quốc hội để đổi lấy sự hỗ trợ và vị trí cụ thể trong danh sách bầu cử trong cuộc bầu cử chính quyền địa phương vào tháng 11 năm 2006 đã được đề xuất. Việc tiết lộ băng ghi âm gây ra một cuộc khủng hoảng của chính phủ. Phe đối lập yêu cầu chính phủ từ chức và các cuộc bầu cử mới được tiến hành. Tuy không có sự giải thể quốc hội, nhưng sự ủng hộ cho liên minh chính phủ đã sụt giảm đáng kể. Một vấn đề thú vị khác được giới truyền thông kích động là việc Rzeczpospolita (một trong những tờ nhật báo lớn nhất ở Ba Lan) bị cấm xuất bản bất kỳ thông tin nào về cuộc sống cá nhân của một quan chức của một bộ nào đó. Nội dung của tài liệu báo chí gợi ý nghi ngờ về tính trung thực của nhân vật này. Theo điều 730 § 1 của Bộ luật tố tụng dân sự - "Trong bất kỳ vụ kiện dân sự nào chịu sự xem xét của tòa án hoặc tòa trọng tài, các biện pháp thắt chặt an ninh có thể được yêu cầu" khiến cho báo chí không thể công bố bất kỳ thông tin nào liên quan đến nhân vật này. Lệnh cấm được áp dụng cho đến khi kết thúc phiên tòa. Do những hành động phản kháng khổng lồ của toàn bộ giới báo chí, Nghị viện đã khẩn trương sửa đổi các quy định bằng cách đưa ra một điều khoản mới 755 § 2 - "Trong các trường hợp chống lại các phương tiện truyền thông xã hội để bảo vệ quyền cá nhân, tòa án sẽ từ chối bảo mật bao gồm việc cấm công bố thông tin, nếu các biện pháp an ninh đi ngược với lợi ích công cộng quan trọng". Kể từ đó, khả năng đưa ra loại lệnh cấm này đã được giảm thiểu đến không. 5. KẾT LUẬN Những điều này và các vấn đề khác đã khiến xã hội nhận thức được vai trò to lớn mà truyền thông hiện đại ở Ba Lan phải thực hiện. Ước mơ là để các phương tiện truyền thông được hoàn toàn trong sạch, nhưng mọi thứ liên quan đến con người đều có nhiều sai sót. Ngày xưa, khi các phương tiện truyền thông đang hình thành, thông tin rất hiếm, ngày nay nó như là bữa ăn hàng ngày. Thật không may, khi đối mặt với một số lượng lớn thông tin như vậy, chúng ta thường bị hỗn loạn, thay vì truyển tải thông điệp, chúng ta lại để nó thông tin sai lệch đi. Mark Twain đã nói đúng rằng "một lời nói dối tốt có thể đi lang thang một nửa thế giới trước khi sự thật ra khỏi giường". Đối với những đối tượng bình dân, thông điệp được nghe trở thành hiện thực và tạo ra thế giới thực, bởi vì trước sự hỗn loạn, chúng ta không có thời gian để kiểm tra sự thật của nó. Trường hợp xấu nhất là khi các phương tiện truyền thông không để mọi người tự phán xét, không chỉ trong việc thu thập thông tin mà còn trong đánh giá độc lập của họ. Chỉ có thông tin, nhưng không có kiến thức, và tệ hơn, không có lý trí để đánh giá kiến thức này. Manh mối của thời gian không cho phép tâm trí phân tích chính xác thông tin thu được, bởi vì ngay sau đó là những thông tin tiếp theo và tiếp theo. Tuy nhiên, có nhiều giá trị đáng được hy sinh cho sự tự do truyền thông, nhưng rất ít giá trị mà sự vắng mặt của nó có thể thay thế nó. Tài liệu tham khảo 1.www.transparency.pl Nghiên cứu này xếp hạng các quốc gia theo thang đo tham nhũng, được đo bằng thang điểm 10, trong đó 10 có nghĩa là minh bạch cao và tham nhũng không đáng kể, và 0 có nghĩa là thiếu minh bạch và tham nhũng phổ biến. 2. Đạo luật truy cập thông tin công khai ngày 6 tháng 9 năm 2001, Tạp chí Luật pháp 01.112.1198. Sau đây được trích dẫn là uodip viết tắt. 3. Hiến pháp ngày 2 tháng 4 năm 1997, OJ 97,78.483. 4. Phán quyết của Tòa án Tối cao ngày 1 tháng 6 năm 2000, III RN 64/00, OSNAP 20001/6/183. 5. Phán quyết của Tòa án hành chính tối cao ngày 12 tháng 10 năm 1999, II SA. 220/99, Wokanda 2000/7/41. 6. Đạo luật bảo vệ dữ liệu cá nhân ngày 29 tháng 8 năm 1997, tức là Ôi 02.101.926. Sau này d. 7. Đạo luật bảo vệ thông tin mật ngày 22 tháng 1 năm 1999, OJ 99.11,95. với sau d. 8. Đạo luật ngày 23 tháng 11 năm 2002 sửa đổi đạo luật về chính quyền xã và sửa đổi các hành vi khác, Tạp chí Luật pháp 02.214.1806. 9. Hội đồng của cả ba cấp, người đứng đầu xã, phó trưởng xã, thành viên của hội đồng quản trị và hội đồng quản trị, thư ký và kho bạc, người đứng đầu các đơn vị tổ chức xã văn phòng hành chính thay mặt trưởng xã, sao và soái ca. 10.www.bip.gov.pl 11.www.sejm.gov.pl 12.http: //parl.sejm.gov.pl/eu_osw.nsf/WWW-abc 13.http: //bip.kprm.gov.pl 14. Thông tin của Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Hành chính được cung cấp tại một cuộc họp báo vào ngày 17 tháng 1 năm 2007 http://www.mswia.gov.pl/portal.php?serwis=pl&dzial=2&id=4381&search=343646 15. Vụ việc có lẽ sẽ không phải là tin tức số 1 trên truyền thông nếu nó không liên quan đến Chủ tịch Thành phố Thủ đô Warsaw Hanna Gronkiewicz - Waltz (cô đã chiến thắng với ứng cử viên của liên minh chính phủ hiện tại). 16. Phán quyết của Toà án Hiến pháp ngày 13 tháng 3 năm 2007, số tham chiếu hành động K 8/07. www.trybunal.gov.pl 17. Phán quyết của Tòa án hành chính tối cao ngày 6 tháng 5 năm 1997, số tham chiếu II SA / Wr 929/96. 18. Đạo luật ngày 26 tháng 1 năm 1984, Luật Báo chí, Tạp chí Luật năm 1984, Số 5, mục 24, như đã sửa đổi 19. Mọi người sẽ được đảm bảo quyền tự do ngôn luận và thu nhận và phổ biến thông tin. Kiểm duyệt phòng ngừa các phương tiện truyền thông xã hội và cấp phép của báo chí đều bị cấm. Đạo luật có thể đưa ra nghĩa vụ phải có giấy phép vận hành đài phát thanh hoặc đài truyền hình trước. 20. Cộng hòa Ba Lan đảm bảo tự do báo chí và các phương tiện truyền thông xã hội khác. 21. Tổ chức báo chí lâu đời nhất ở Ba Lan, được thành lập năm 1951 Thông tin tác giả: Nguyễn Hoàng Tiến, nguyenhoangtien@siu.edu.vn, 0708741048, Vietinbank:104005373049