Academia.eduAcademia.edu
Một số vai trò của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) - Phần 1 Các TNCs đã có những tác động to lớn đối với sự phát triển của kinh tế thế giới nói chung cũng như các nền kinh tế của các quốc gia nói riêng. Những tác động đó được thể hiện qua hoạt động thương mại, đầu tư, phát triển nguồn nhân lực, nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ 1. Vai trò của TNCs trong thương mại thế giới         1.1. Thúc đẩy hoạt động thương mại thế giới phát triển Một trong những vai trò nổi bật của các TNCs là thúc đẩy hoạt động thương mại thế giới. Trong qúa trình hoạt động của mình các TNCs đã thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu giữa các quốc gia và gia công quốc tế. Hay nói cách khác là TNCs thúc đẩy thương mại phát triển với ba dòng lưu thông hàng hoá cơ bản là: hàng hoá xuất nhập khẩu từ công ty mẹ, hàng hoá bán ra từ các chi nhánh ở nước ngoài và hàng hoá trao đổi giữa các công ty trong cùng một tập đoàn. TNCs chi phối hầu hết chu chuyển hàng hoá giữa các quốc gia bởi các kênh lưu thông xuyên quốc gia của mình. Thật vậy, nếu tổng giá trị xuất khẩu của chi nhánh nước ngoài năm 1982 là 647 tỷ USD thì đến năm 1990 là 1.366 tỷ USD, năm 2004 là 3.733 tỷ USD. Và đến năm 2005, con số này đã tăng gấp 6,5 lần năm 1982 và đạt 4,214 tỷ USD [4]. Hơn nữa, trong tổng giá trị xuất khẩu của các quốc gia thì giá trị xuất khẩu của các chi nhánh TNCs chiếm một tỷ trọng tương đối lớn. Chẳng hạn giá trị xuất khẩu của các chi nhánh TNCs tại nước ngoài trong tổng giá trị xuất khẩu của thế giới trong các năm 2003 và năm 2004 lần lượt là 54,1% và 55,8%, cụ thể như sau: Bảng 1: Tỷ trọng xuất khẩu của chi nhánh nước ngoài năm 2001 Quốc gia Gía trị xuất khẩu (Triệu USD) Giá trị xuất khẩu của TNCs (Triệu USD) Tỷ trọng xuất khẩu của TNCs (% ) Astralia 92.411 24.855 27 Trung Quốc 299.409 133.235 44 Pháp 376.736 59.267 16 Airland 92.794 61.049 66 Nhật Bản 432.547 43.902 10 Tây Ban Nha 34.091 6.812 20 Thuỵ Sỹ 107.111 34.138 32 Mỹ 1.032.830 157.459 15 Nguồn: UNCTAD, World Investment Report 2006. Qua Bảng 1 ta thấy các TNCs chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị xuất khẩu của các quốc gia, đối với Airland là 66%, với Trung Quốc là 44%... Một đặc điểm khác cần chú ý là thương mại nội bộ giữa các công ty trong tập đoàn ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị thương mại thế giới. Nhìn chung trao đổi nội bộ giữa các chi nhánh TNCs chiếm khoảng 1/3 tổng giá trị thương mại thế giới. Giá trị trao đổi nội bộ này ngày càng tăng nhanh và cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị thương mại của các nước. Ví dụ,  trao đổi trong nội bộ các TNCs trong ngành sản xuất thiết bị điện, điện tử của Mỹ chiếm 21,5% tổng giá trị xuất khẩu của TNCs trong ngành này năm 1983 và tăng lên 30,6% năm 1998 [3]. Hoạt động thương mại nội bộ TNCs thường tạo điều kiện cho các chi nhánh tiếp cận với trình độ công nghệ và bí quyết kỹ thuật tiên tiến của công ty mẹ và các chi nhánh khác trong cùng hệ thống. Trong những năm gần đây TNCs chiếm khoảng 40% giá trị nhập khẩu và 60% xuất khẩu của toàn thế giới. Với các hoạt động hướng về xuất khẩu, TNCs hiện đang chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị xuất khẩu của các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển ở Châu Á. Chẳng hạn xuất khẩu của các chi nhánh TNCs đã chiếm tới 50% tổng giá trị hàng hoá chế tạo tại một số quốc gia như Philippin, Srilanka, Malaysia [3]. 1.2. Làm thay đổi cơ cấu thương mại quốc tế Ngày nay, kinh tế thế giới càng phát triển thì vai trò của các TNCs cũng ngày càng cao. Với tỷ trọng lớn trong thương mại thế giới thì các TNCs chính là chủ thể chính làm thay đổi cơ cấu hàng hoá và cơ cấu đối tác trong thương mại thế giới. * Thay đổi trong cơ cấu hàng hoá Chiến lược phát triển của TNCs gắn liền với các hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu. Qua đó ảnh hưởng trực tiếp tới cơ cấu hàng hoá xuất khẩu. Trong những năm gần đây, tỷ suất lợi nhuận trong ngành dịch vụ tăng cao còn trong ngành nông nghiệp và công nghiệp giảm dần. Do đó, các công ty nói chung và các TNCs nói riêng cũng chuyển mạnh sang đầu tư vào các ngành dịch vụ và thúc đẩy giá trị xuất khẩu của hàng hoá dịch vụ tăng cao. Bên cạnh đó, hiện nay giao dịch trên thế giới đang thay đổi theo chiều hướng tăng tỉ trọng hàng hoá có hàm lượng vốn hoặc kỹ thuật cao và giảm dần tỉ trọng hàng sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu. Thật vậy, nếu trong tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới năm 1983, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao chỉ chiếm 24% thì đến năm 1998 con số này đã tăng lên 39,3%. Những sản phẩm quan trọng nhất trong thương mại thế giới hiện nay chủ yếu thuộc ngành sản xuất không dựa vào nguyên liệu trong đó các sản phẩm bán dẫn là một trong những sản phẩm mũi nhọn. Nguyên nhân của xu hướng này xuất phát từ chiến lược tập trung phát triển các ngành có trình độ công nghệ cao của TNCs nhằm duy trì khả năng cạnh tranh cao và thu lợi nhuận tối đa. Điều này được thể hiện qua tỉ trọng hàng xuất khẩu của hàng hoá có hàm lượng công nghệ cao trong nội bộ TNCs chiếm tới 43,1% tổng gía trị hàng hoá xuất khẩu. Như vậy, sự thay đổi trong chiến lược toàn cầu của TNCs tác động trực tiếp tới cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước hướng về xuất khẩu. Ví dụ tại Mêhico, trong số 10 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu thì phần lớn những sản phẩm thuộc ngành ô tô, điện tử do các chi nhánh của TNCs sản xuất [3]. * Thay đổi trong cơ cấu đối tác Cùng với sự thay đổi trong cơ cấu hàng hoá thì cơ cấu đối tác trong thương mại thế giới hiện nay cũng đang dần thay đổi. Tỷ trọng của hàng hoá xuất khẩu của các nước đang phát triển ngày càng cao, đặc biệt là các nước mới công nghiệp.  Sự thay đổi chiến lược của các TNCs và hệ thống sản xuất quốc tế của chúng mở ra nhiều cơ hội cho các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi tham gia vào các hoạt động hướng về xuất khẩu. Theo báo cáo của UNCTAD năm 2005, trong cơ cấu thương mại thế giới, tỷ trọng thương mại của các nước đang phát triển chiếm 33,6% trong khi năm 1985 là 30.3%. Mặc dù các nước phát triển vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong thương mại thế giới (63.5%) song tỉ trọng thương mại của các nước đang phát triển ngày càng tăng lên. Xét một cách riêng rẽ thì bên cạnh các nền kinh tế phát triển (Mỹ, Nhật Bản, Đức) thì chính những nền kinh tế đang phát triển (Trung Quốc, Singapore, Ấn Độ, Đài Loan…) lại chiếm thị phần xuất khẩu lớn trong thương mại thế giới [4]. 2. Vai trò của TNCs đối với đầu tư quốc tế         2.1. TNCs thúc đẩy lưu thông dòng vốn đầu tư trên toàn thế giới Trên thực tế, hầu hết các hoạt động đầu tư nước ngoài được thực hiện qua kênh TNCs. Các TNCs hiện chi phối trên 90% Tổng FDI trên toàn thế giới. Chỉ tính riêng TNCs của tam giác kinh tế (Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu) đã chiếm 1/3 lượng FDI toàn cầu. Giá trị của lượng vốn FDI thực sự là thước đo vai trò to lớn  của các TNCs trong nền kinh tế thế giới vì FDI là công cụ quan trọng nhất của các TNCs trong việc thực hiện chiến lược toàn cầu của mình [3]. Với tư cách là chủ thể của hoạt động đầu tư trên thế giới TNCs là nhân tố đặc biệt quan trọng có ảnh hưởng mang tính quyết định tới toàn bộ hoạt động đầu tư quốc tế. Vai trò điều tiết hoạt động đầu tư trên quy mô toàn cầu của TNCs thể hiện như sau: Vào thời kỳ suy thoái kinh tế năm 2001, hầu hết các ngành đều có tốc độ tăng trưởng chậm lại. Các TNCs giảm hoạt động trên hầu hết các lĩnh vực. Động thái đó ảnh hưởng trực tiếp tới dòng lưu chuyển FDI trên thế giới. Tổng đầu tư vào các nước giảm 51%, từ 1492 tỉ USD xuống còn 735 tỉ USD. Trong xu thế đó thì các nước phát triển lại bị ảnh hưởng nhiều nhất do hầu hết các hoạt động sáp nhập và mua lại (M&A) đều diễn ra tại các nước phát triển. Trong giai đoạn 1982-1994 dòng vốn FDI nước ngoài tăng lên 4 lần và đạt con số 3,2 nghìn tỉ USD vào năm 1996. Trong thời kỳ những năm 2004-2006 nguồn vốn FDI lại tăng lên. Tổng vốn FDI trên toàn cầu năm 2005 tăng 29% và đạt 916 tỉ USD. Nguyên nhân chủ yếu là do các vụ M&A tăng lên cả về số lượng và giá trị. Chủ yếu là từ các TNCs của Mỹ và Tây Âu. Trong thời kỳ này, giá trị của các vụ M&A tăng đến 16% (năm1996), chiếm 47% dòng vốn FDI toàn cầu. Dòng vốn FDI tăng lên cả ở các nước phát triển và đang phát triển. Tuy nhiên. Tốc độ tăng trưởng giảm hơn so với cuối những năm 90 [3].  Hơn nữa, các TNCs làm thay đổi xu hướng đầu tư giữa các quốc gia.  Khác với hai cuộc bùng nổ trước (lần 1: 1979-1981 đầu tư vào các nước sản xuất dầu mỏ, lần 2: 1987-1990: đầu tư giữa các nước công nghiệp phát triển) cuộc bùng nổ đầu tư lần 3 (1995-1996) có sự tham gia đáng kể của các nước đang phát triển. Trong cơ cấu vốn FDI trên thế giới tỷ trọng vốn FDI vào các nước phát triển chiểm phần lớn. Tuy nhiên tỷ trọng này có xu hướng giảm dần trong khi các nước đang phát triển lại có tỷ trọng ngày càng cao. Bảng 2: Tỷ trọng vốn FDI tại các khu vực giai đoạn 1978 - 2005 Đơn vị: % Khu vực Giai đoạn 1978-1980 1988-1990 1998-2000 2003-2005 Các nước phát triển 79.7 82.5 77.3 59.4 Các nước đang phát triển 20.3 17.5 22.7 40.6 Nguồn: UNCTAD, World Investment Report 2006, Cơ cấu dòng vốn FDI đã thay đổi do có sự điều chỉnh trong chiến lược kinh doanh của các TNCs. Cũng chính nhờ mở rộng chính sách tự do hoá FDI, các TNCs ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với thúc đẩy dòng vốn FDI  vào các nước đang phát triển. Nếu trước đây, hầu hết nguồn vốn FDI được thực hiện bởi các TNCs của các nước phát triển thì ngày nay số lượng các TNCs của các nước đang phát triển cũng tăng lên và có ngày càng nhiều vốn FDI đến từ các nước đang phát triển. Theo Hội nghị về thương mại và phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNCTAD), lượng FDI mới từ các quốc gia đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi như Nga và các nước Xô Viết cũ tăng 5% lên mức 133 tỉ USD trong năm 2005. Ngày càng có nhiều công ty của các nước đang phát triển mở rộng hoạt động đầu tư của mình ở các thị trường nước ngoài. Nếu như năm 1990, các công ty của các nước đang phát triển sở hữu 148 tỉ USD vốn FDI thì đến năm 2005 con số này lên tới 1.400 tỉ USD. Tuy nhiên, nguồn vốn này chỉ tập trung vào một số quốc gia nhất định. Trong các nước đang phát triển thì Trung Quốc là nước đầu tư ra nước ngoài nhiều nhất (chiếm tới 1/3 tổng lượng vốn nói trên) sau đó là Singapore, Hàn Quốc, Malaysia. Các TNc lớn của các nước này là Hutchison Whampa (67 tỉ USD), Petronas(22tỉ USD), Singtel (18tỉ), Samsung (14tỉ USD) [3].          2.2. TNCs làm tăng tích luỹ vốn của nước chủ nhà Với thế mạnh về vốn TNCs đóng vai trò là động lực thúc đẩy tích luỹ vốn của nước chủ nhà. Thông qua kênh TNCs, nước chủ nhà có thể tăng cường thu hút vốn FDI đầu tư vào nước mình. Vai trò này của TNCs được thể hiện qua một số khía cạnh sau: Thứ nhất: Bản thân các TNCs khi đến hoạt động ở các quốc gia đều mang đến cho nước này một số lượng vốn nào đó. Hơn nữa, trong quá trình hoạt động các TNCs cũng đóng cho ngân sách của nước chủ nhà qua các khoản như: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu, chi phí về viễn thông, điện nước….  Mặt khác, nhờ có các TNCs mà một bộ phận đáng kể người dân có thêm thu nhập do làm việc trực tiếp trong các công ty chi nhánh nước ngoài hoặc gián tiếp thông qua việc cung cấp các dịch vụ cho các TNCs và hoặc những người lao động khác. Tại các nước có thị trường chứng khoán phát triển thì các TNCs làm ăn hiệu quả chính là kênh để thu hút tiền nhãn rỗi của người dân và của các nhà đầu tư trong việc mua cổ phiếu của các công ty này. Thứ hai: Ngoài việc vốn ban đầu để đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh các TNCs còn thực hiện các biện pháp huy động thêm vốn từ Công ty mẹ, từ các chi nhánh thành viên của tập đoàn, từ các đối tác, các tổ chức tài chính và tín dụng thế giới… Đây chính là hình thức thu hút đầu tư của các nước đang phát triển hiện nay. Thứ ba: TNCs góp phần cải thiện cán cân thanh toán của các nước thông qua việc  tích luỹ ngoại hối nhờ các hoạt động xuất khẩu. Như đã phân tích ở trên. Hoạt động xuất khẩu của TNCs chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước. Điều đó không chỉ thể hiện ở vai trò thúc đẩy thương mại thế giới  của các TNCs mà còn đem lại một nguồn ngoại tệ quan trọng, góp phần tạo thế cân bằng  cho cán cân thanh toán của nước chủ nhà. Tóm lại, TNCs đóng vai trò rât to lớn trong hoạt động đầu tư quốc tế. Xét trên góc độ nền kinh tế toàn cầu thì TNCs thúc đẩy lưu thông dòng vốn FDI  trên phạm vi toàn thế giới. Mặt khác, ở góc độ từng quốc gia riêng thì TNCs góp phần làm tăng tích luỹ vốn cho nước chủ nhà.          3. Vai trò của TNCs đối với hoạt động phát triển và chuyển giao công nghệ 3.1.  TNCs là chủ thể chính trong phát triển công nghệ thế giới Trong chiến lược cạnh tranh, các công ty xuyên quốc gia luôn coi công nghệ là yếu tố quan trọng, giữ vị trí hàng đầu. Do đo, thúc đẩy đổi mới công nghệ bằng hoạt động Nghiên cứu và phát triển (R&D) là nhiệm vụ sống còn của các công ty. Đi đầu trong đổi mới công nghệ đồng nghĩa với nâng cao năng lực cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường và giữ vị trí độc quyền. Ngày nay, nhận thức của các TNCs về khoa học công nghệ đã chuyển biến. Nếu như trước đây, các TNCs thường đầu tư lớn cho các phòng thí nghiệm, các viện nghiên cứu để các cơ sở này tạo ra các phát minh sáng chế này. Tại các TNCs đang diễn ra quá trình quốc tế hoát hoạt động R&D một cách mạnh mẽ. Công nghệ mới ra đời không chỉ từ các phòng thí nghiệm, các viện nghiên cứu, các trường đại  học mà còn từ chính các cơ sở sản xuất của TNCs. Thí dụ Motorola đã thiết lập hệ thống R&D của mình bao gồm 14 cơ quan tại 7 quốc gia, tập đoàn Bristol Myer Squibb có 12 cơ sở hoạt động R&D tại 6 quốc gia [5]. Bước chuyển quan trọng trong chính sách hoạt động R&D của công ty đã có những thay đổi căn bản. Nếu trước đây các công ty đầu tư cao cho công tác R&D tại công ty mẹ thì nay đang thực hiện chính sách phi tập trung hoá do một số lý do sau: Thứ nhất  tiềm năng về tri thức không chỉ bó hẹp trong một vài công ty hoặc một nước nào đó. Như vậy, để tiếp cận với tiềm năng này các công ty phải thiết lập thêm nhiều cơ sở hoạt động R&D mới. Tại những khu vực đó, các công ty có thể làm giầu thêm nguồn tri thức bằng việc mở rộng hoạt động R&D, đồng thời tiếp thu thành quả từ các đối thủ cạnh tranh. Thứ hai: Trong cuộc cạnh tranh toàn cầu để chiếm lĩnh thị trường các công ty buộc phải đưa sản phẩm ra thị trường càng nhanh càng tốt nên buộc các TNCs phải thực hiện R&D ở nước ngoài. Ví dụ, hoạt động R&D của Mỹ đối với các chi nhánh ở nước ngoài tăng rất nhanh. Từ năm 1985 đến 1995 tăng 3-4 lần trong khi doanh số tăng 2,5 lần và lao động tăng 1,7 lần [3]. Các hoạt động R&D thường tập trung tại những khu vực dồi dào nguồn tri thức. Ví dụ năm 1994 khoảng 90% các nghiên cứu do các chi nhánh TNCs của Mỹ thực hiện ở những nước công nghiệp phát triển.Microsoft đã thành lập một phòng nghiên cứu tại Anh để thuê lao động khoa học với chi phí rẻ hơn. Bước vào thiên niên kỷ mới, tầm quan trọng của khoa học công nghệ đối với việc phát triển kinh tế xã hội một lần nữa lại thu hút sự quan tâm đặc biệt của các quốc gia  và các doanh nghiệp. sự thay đổi mau chóng của công nghệ đang tạo ra nền sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn. Trong năm 1985-1998 hàng hoá chế tạo có hàm lượng khoa học cao tăng 21,4%, hàng hoá có hàm lượng khoa học công nghệ trung bình tăng 14,3%. Như vậy, nhờ tiếp thu khoa học công nghệ mà giá trị gia tăng của hàng hoá xuất khẩu qua chế biến của các nước đang phát triển đạt tỷ lệ tăng trưởng cao. Muốn có lợi nhuận cao, các quốc gia đã tăng cường đầu tư cho R&D. Các quốc gia như Mỹ và Nhật Bản đầu tư cho hoạt động R&D 3% GDP, Đức và Pháp là 2,3% ; Singapore là 1,1%. Mức đầu tư bình quân đầu người cho R&D cao nhất là Nhật Bản (1.200USD), Mỹ (680USD), Đức (625USD), Pháp (575USD), Singapore (262 USD). Hàn Quốc là quốc gia theo đuổi chiến lược công nghệ cao và đặt mục tiêu đến năm 2010 trở thành 1 trong 10 nước đứng đầu về khoa học công  nghệ [1], [3]. Trong các ngành hưởng lợi từ các hoạt động R&D thì ngành công nghệ thông tin đứng hàng đầu. Mức đầu tư cho công nghệ thông tin của Mỹ hàng năm là 8% GDP, Nhật Bản là 7%, Hàn Quốc 6% , Pháp và Đức là 4% [3].  Các TNCs không chỉ đầu tư cho hoạt động R&D bằng chính sức lực của mình mà chúng còn nhận được sự hỗ trợ về nhiều mặt từ chính phủ của các nước tư bản. Ví dụ chính phủ Nhật Bản giúp 6 công ty lớn là Fujisu, Hitachi, Mitshubishi, Kinzonku, Nihondenki và  Toshiba cùng nghiên cứu kỹ thuật siêu mạch. Trong khuôn khổ chiến lược phát triển công nghệ, TNCs cũng thiết lập các mối liên kết với các trung tâm nghiên cứu và viện nghiên cứu.