PHÙNG HOÀI NGỌC
ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
Lưu hành nội bộ
ĐẠI HỌC AN GIANG 2002
PHẦN MỘT
VĂN HÓA HỌC ĐẠI CƯƠNG
Văn hóa là cái còn lại khi người ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn
thiếu khi người ta đã học tất cả .
Edouard Herriot
Chương I : VĂN HOÁ VÀ VĂN HÓA HỌC
1. Văn hóa là gì ?
Theo cách hiểu thông thường, văn hóa là học thức, trình độ học vấn và lối sống
lành mạnh. Theo nghĩa rộng,VH bao gồm toàn bộ đời sống con người Trên thế giới có
nhiều định nghĩa về VH. Chúng ta chọn định nghĩa đã được UNESCO công nhận:
“Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và
tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn và trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội”
2. Tính chất và chức năng của văn hóa
2.1. Tính hệ thống và chức năng tổ chức xã hội
VH gồm nhiều bộ phận có liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau.
Những con người có chung một nền VH sẽ sống chung thành một cộng đồng ổn định
2.2. Tính giá trị và chức năng thúc đẩy xã hội vận động đi lên
Có nhiều cách phân loại giá trị văn hóa:
Giá trị vật chất, giá trị tinh thần, giá trị hỗn hợp vật chất – tinh thần
Giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ
Giá trị vĩnh cửu, giá trị nhất thời, giá trị lịch sử và giá trị đang hình thành
Tính giá trị còn có vai trò điều chỉnh xã hội, bằng cách tạo ra những mẫu mực để mọi
người noi theo.
2.3. Tính lịch sử và truyền thống có chức năng giáo dục, duy trì cộng đồng
2.4. Tính dân tộc tạo nên cá tính, bản sắc riêng, phân biệt với dân tộc khác
3. Phân biệt văn hóa, văn hiến, văn vật và văn minh.
Văn hoá
Văn hiến
Hài hoà giữa vật Thiên về
chất và tinh thần giá trị tinh thần
Văn vật
Thiên về
giá trị vật chất
Văn minh
Thiên về giá trị vật
chất, kỹ thuật
Có bề dài lịch sử Có bề dài lịch sử Có bề dài lịch sử Có trình độ phát triển
Có tính dân tộc
Có tính dân tộc
Có tính dân tộc
Có tính quốc tế
Thiên về nông
Thiên về nông
Thiên về nông
Thiên về thành thị,
thôn,nông nghiệp, thôn, nông nghiệp, thôn, nông nghiệp, thương mại, và công
phương Đông
phương Đông
phương Đông
nghiệp, phương Tây
4. Cấu trúc của một nền văn hóa
Có thể chia ra 4 thành tố, gồm:
1 Bộ phận văn hóa nhận thức
2 Bộ phận văn hóa tổ chức cộng đồng xã hội và đời sống cá nhân.
3 Bộ phận văn hóa ứng xử trong môi trường tự nhiên.
4 Bộ phận văn hóa ứng xử trong môi trường quốc tế.
5. Các bộ môn nghiên cứu văn hóa
Gồm những chuyên ngành :
Văn hóa học đại cương, còn gọi là Lí thuyết văn hóa, nghiên cứu các khái niệm,
quy luật hình thành và phát triển văn hóa...
Địa lí văn hóa : tìm hiểu vh. của các vùng (theo chiều ngang).
Lịch sử văn hóa: khảo sát quá trình diễn biến của một nền văn hóa dân tộc(theo
chiều dọc)
Cơ sở văn hóa nhằm nghiên cứu một nền văn hóa dân tộc, bao hàm cả địa-văn
hóa và sử -văn hóa, nhằm hướng vào thời hiện đại, với mục đích bảo tồn và phát
triển nền văn hóa ấy .
6. Hai loại hình văn hoá cơ bản trên thế giới
Người ta thường phân chia thế giới ra hai khu vực văn hóa: phương Đông và
phương Tây.
Cách chia như thế chỉ là tạm thời, vì nó thiếu cơ sở khoa học và không chính
xác.Tiêu chí phân loại phải căn cứ vào lối sống chủ yếu (cách sản xuất), mà sản xuất phụ
thuộc vào địa hình, khí hậu .
Thuở xưa, con người trên trái đất có hai nghề sản xuất chủ yếu: trồng lúa nước và
chăn nuôi du mục.
Bảng đối chiếu hai loại hình văn hoá.
Văn hoá du mục
(Chủ yếu ở phương Tây)
Tiêu chí
Văn hoá nông nghiệp
(Chủ yếu ở phương Đông)
Địa hình, khí hậu
đồng bằng, nóng, ẩm, thấp
thảo nguyên, lạnh, khô, cao
Nghề nghiệp chính
trồng lúa nước
chăn nuôi du mục
Cách sống (nơi ở)
định cư, nhà ở ổn định
du cư, cắm trại, lều tạm bợ
Quan hệ với tự nhiên
gắn bó, hoà hợp
chiếm đoạt, khai thác
Ăn uống
đồ ăn thực vật
đồ ăn động vật
Quan hệ xã hội
trọng tình, trọng đức, trọng trọng lý (nguyên tắc), trọng tài,
văn, trọng nữ, dân chủ, trọng võ, trọng nam giới, trọng
trọng tập thể
cá nhân (thủ lĩnh)
Giao lưu đối ngoại
hiếu hoà, dung hợp, mềm hiếu chiến, độc tôn, cứng rắn
dẻo khi đối phó
bằng bạo lực
Đặc điểm tư duy
chủ quan, cảm tính, kinh
khách quan, lý tính, thực
nghiệm, tổng hợp và biện
nghiệm, phân tích và siêu hình
chứng
Văn học nghệ thuật
thiên về thơ, nhạc trữ tình
Xu hướng khoa học
thiên văn, triết học tâm linh,
khoa học tự nhiên, kỹ thuật
tôn giáo
Khuynh hướng chung
thiên về văn hoá nông thôn
thiên về truyện, kịch, múa sôi
động
thiên về văn minh thành thị
Trên đây trình bày những dấu hiệu khác biệt cơ bản nhất giữa hai loại hình văn
hóa chủ yếu của loài người. Trên cơ sở đó, sinh viên tiếp tục tìm hiểu những nét khác
nhau trong các lĩnh vực khác.
PHẦN HAI
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
Chương 2 XÁC ĐỊNH TỌA ĐỘ NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM
Ba yếu tố cơ bản tạo nên một nền văn hóa :
Chủ thể văn hóa
Không gian văn hóa
Thời gian văn hóa
1. Chủ thể văn hóa là các dân tộc Việt Nam
Cách đây trên 30 vạn năm, loài người sống ở hai khu vực chính : phía Tây và phía
Đông. Khu vực phía Tây gồm 2 đại chủng là chủng Âu (Europeoid), và chủng Phi
(Negroid) Còn ở phía Đông, có đại chủng Á (Mongoloid) sống ở phía Bắc, đại chủng Úc
(Australoid ) sống ở phía Nam gồm khu vực Đông Nam Á và nam đảo Thái bình dương.
Cách đây khoảng 10 ngàn năm (thời đồ đá giữa), chủng tộc Melanesien (thuộc đại
chủng Australoid) đang sinh sống trên khu vực Đông nam Aù, tính từ phía nam sông
Dương Tử trở xuống. Một dòng người du mục thuộc đại chủng Á từ phương Bắc thiên di
xuống, vượt qua sông Dương Tử (còn gọi Trường giang), dừng lại và hợp chủng với dân
Melanesien nông nghiệp bản địa, tạo ra một chủng mới gọi là Indonesien (Mã lai cổ),
nước da ngăm đen, tóc hơi quăn, tầm vóc thấp.
Cách đây khoảng 5000 năm (thời đồ đá mới, đầu thời đại đồ đồng), tiếp tục diễn ra
sự tiếp nhận và hợp chủng dòng người Mongoloid phía Bắc đi xuống với dân cư
Indonesien bản địa, tạo ra chủng mới, Austroasiatic -gọi là chủng Nam Á.
Dần dần, chủng Nam Á chia tách ra nhiều dân tộc gọi chung là nhóm Bách Việt,
như Dương Việt, Đông Việt, Điền Việt, Lạc Việt, Mân Việt, Nam Việt... sinh sống từ phía
nam sông Dương Tử cho tới bắc Trung bộ. Nhóm này hình thành theo 4 nhóm ngôn ngữ
là Việt -Mường, Môn-Khmer, Tày-Thái, Mèo-Dao.Trong đó, dân tộc Việt (kinh) chiếm đa
số, tới 90 %.
Trong khi đó, một bộ phận dân Indonesien không muốn ở lại hợp chủng với các
dòng du mục phương Bắc nên đã di chuyển dọc theo dãy Trường Sơn vào phía Nam,
định cư lại ở vùng Tây nguyên và Trung bộ, đó là các dân tộc Bana, Eđê, Gia rai, Churu,
Vân kiều... và dân tộc Chăm ngày nay.
Như vậy, người Việt ngày nay đều có chung một nguồn gốc là chủng Indonesien
nhưng lại đa dạng và sống rải rác khắp từ Bắc đến Nam.
2. Không gian văn hóa (còn gọi : lãnh thổ văn hóa)
2.1. Hai tam giác không gian văn hóa Việt Nam
Hãy xác định vị trí sông Dương Tử trên bản đồ và đường biên giới Việt -Trung
ngày nay.
Tam giác thứ nhất : cạnh đáy là bờ nam sông Dương Tử, còn đỉnh là bắc Trung bộ
(khoảng Đèo Ngang). Đây là giai đoạn các dân tộc phương Nam còn sống chung với các
dân phương Bắc xuống.
Cách đây khoảng 4000 năm, các dân tộc Việt lùi xuống, hình thành quốc gia đầu
tiên gọi là Văn Lang, đồng thời mở mang bờ cõi về phương Nam.
Tam giác thứ hai hình thành, cạnh đáy là đường biên giới Việt -Trung ngày nay
còn đỉnh là chót Mũi Cà Mau (chính xác hơn, đó là các đảo cực Nam của Tổ quốc)
2.2. Sáu vùng văn hóa Việt Nam
Đất nước Việt Nam có địa hình, khí hậu đa dạng nên đã hình thành nhiều vùng
văn hóa khác nhau.
2.2.1. Vùng văn hóa Tây Bắc
Hệ thống núi non trùng điệp bên hữu ngạn sông Hồng,thuộc lưu vực sông Đà., kéo
dài tới phía bắc tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An.Có trên 20 dân tộc sinh sống, tiêu biểu là hai
dân tộc Thái và Mường.
Thành tựu văn hóa nổi bật :
Hệ thống mương phai dẫn nước từ suối vào ruộng trồng lúa.
Trang phục hoa văn sặc sỡ : khăn váy áo.
Ca múa xòe, khèn, sáo...
Gồm các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình và một số vùng của tỉnh Thanh Hóa,
Nghệ An giáp giới nước Lào.
2.2.2. Vùng văn hóa Việt Bắc (còn gọi : vùng Đông bắc)
Núi non hiểm trở bên tả ngạn sông Hồng. Cư dân chủ yếu người Tày và Nùng.
Gồm sáu tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang.
Trang phục giản dị, quần áo chàm
Có hệ thống văn tự sớm, văn học phát triển.
2.2.3. Vùng văn hóa Bắc Bộ (vùng Thăng long, vùng sông Hồng )
Gồm các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ: Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam, Hải Phòng, Quảng
Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Nam Định, Ninh Bình, Thái
Bình,Thanh Hóa, Nghệ An.
Cư dân chủ yếu là người Việt Kinh, sống thành làng xã.Vùng này đất đai trù phú,
phát triển toàn diện, sẽ là nguồn cội của văn hóa Trung bộ và Nam bộ sau này và trở
thành trung tâm văn hóa cả nước.
2.2.4. Vùng văn hóa Trung Bộ
Dải đất hẹp và dài dọc theo biển Đông, từ tỉnh Quảng bình tới tỉnh Phan Thiết.
Khí hậu khắc nghiệt, đất đai khô cằn. Dân Việt từ ngoài vào, sinh sống chủ yếu bằng nghề
biển. Con người chịu đựng gian khổ, cần cù, hiếu học.
Chủ nhân đầu tiên là người Chăm (gốc Indonesien), trước đây dựng nên vương
quốc Chămpa, sau sáp nhập vào nước Đại Việt (thời Lê). Bộ phận văn hóa Chăm chịu
ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ với nhiều thành tựu đặc sắc về kiến trúc và điêu khắc...tiêu
biểu là những Tháp Chàm.
Trung tâm của vùng văn hóa Trung bộ là tỉnh Thừa Thiên - Huế.
2.2.5. Vùng văn hóa Tây Nguyên
Phía đông dãy Trường Sơn, bốn tỉnh Gia Lai, Kontum, Đak Lak, Lâm Đồng.
Trên 20 dân tộc, đây là vùng có nhiều thành tựu văn hóa cổ đặc sắc, như các lễ hội, nhạc
cụ cồng chiêng, dân ca, lễ hội, trường ca cổ (Đam San, Xing Nhã...).
2.2.6. Vùng văn hóa Nam bộ
Hai lưu vực sông Đồng Nai và sông Cửu Long gọi là miền Đông Nam bộ và Tây
Nam bộ, trung tâm là thành phố Sài Gòn - Gia Định.
Đồng bằng rộng rãi, kinh rạch chằng chịt, khí hậu 2 mùa mưa và khô rõ rệt, điều
hòa.
Những cư dân bản địa như Khmer (miền Tây) và Mạ, Stieng, Chơ ro, Mnông sinh
sống (miền Đông) cùng với những cư dân đến sau như Việt, Hoa, Chăm xây dựng cuộc
sống.
Nhà ở dọc theo kênh rạch và đường lộ trong những làng xã mở
Sản xuất chủ yếu làm ruộng lúa nước và nghề đánh bắt cá sông biển.
Đồ ăn thiên về thủy sản.
Tín ngưỡng, tôn giáo rất phong phú và đa dạng.
Tính cách con người phóng khoáng.
Vùng đất này tiếp xúc sớm với phương Tây.
Nhưng trong lòng người dân vẫn in đậm hai câu thơ :
“Từ thuở mang gươm đi mở cõi
ngàn năm thương nhớ đất Thăng long“.
Nhìn chung, các dân tộc Việt liên hệ gắn bó mật thiết với các dân tộc Đông Nam Á
từ trong nguồn gốc : giống người, ngôn ngữ, lối sống. Đây là cơ sở tạo ra sự khác biệt cơ
bản giữa văn hóa Việt Nam và Trung Hoa.
2.3. Mối quan hệ không gian văn hóa Việt Nam - Trung Quốc
Khởi đầu, người Hán một dân tộc du mục, sống ở thượng nguồn sông Hoàng
Hà..Về sau, họ làm thêm nghề nông nghiệp trồng kê mạch (nông nghiệp khô). Dần dần,
họ di chuyển từ Tây sang Đông, dọc theo sông Hoàng hà xuống hạ lưu.Đến đây, định cư
và hình thành nền văn hóa sông Hoàng Hà.Thời kỳ này để lại từ “đông tiến“ như một
phương hướng sinh tồn và quan trọng nhất trong đời sống (đông cung, đông sàng...)
Kế tiếp, người Hán tiếp tục qua sông Hoàng, qua Trung nguyên, vượt sông Dương
Tử (Trường giang) đi xuống phương Nam nơi có khí hậu dễ chịu với đất đai màu mỡ hơn.
Đó là cuộc Nam tiến với khái niệm “kim chỉ nam“ (nhiều dòng người đã hợp chủng với các
dân tộc phương Nam - xem lại phần Chủ thể văn hóa Việt ; nguồn gốc các dân tộc Việt
nam).
Trong giai đoạn này, chắc chắn người Hán đã thu nhận không ít thành tựu văn hóa
phương Nam để góp vào nền văn hóa Hán - sông Hoàng Hà.
Như vậy, ngay từ những buổi đầu hình thành văn hóa, dân tộc Việt và Hán đã có
ảnh hưởng lẫn nhau, qua lại một cách tự nhiên trong thời kì sống chung ở phía Nam sông
Dương Tử.
Văn hóa Trung Hoa = Văn hóa du mục Tây Bắc + Văn hoá nông nghiệp khô Trung
nguyên + Văn hóa lúa nước phương Nam. (hoặc: Văn hóa du mục Tây Bắc + Văn hóa
nông nghiệp khô Trung nguyên = Văn hóa Hoàng Hà)
Văn hóa Việt Nam = Văn hóa nam sông Dương tử + Văn hóa sông Hồng, sông Mã
+ Văn hóa miền Trung và sông Mekong.
3. Thời gian văn hoá Việt Nam
(còn gọi: Llịch sử văn hóa / Tiến trình văn hóa / Diễn trình văn hóa)
Có thể chia thành 6 giai đoạn / ba lớp.
3.1. Lớp văn hóa bản địa
Giai đoạn 1: giai đoạn tiền sử
Kể từ thượng cổ đến khi hình thành nước Văn Lang.
Thành tựu lớn nhất là tạo ra nghề trồng lúa nước (khác hẳn với trồng lúa khô /
nương rẫy)
huần dưỡng một số gia súc (bò trâu, gà vịt, heo)
Trồng dâu nuôi tằm, dệt vải
Làm nhà sàn. Dùng cây thuốc nam chữa bệnh
Uống trà.
Giai đoạn 2: giai đoạn Văn Lang - Âu lạc
Quốc gia đầu tiên ra đời gọi tên là Văn Lang, có lẽ để hạn chế dòng người du mục
phương bắc đi xuống. Sau khi An dương vương đổi tên là Âu Lạc, thời đại Hùng vương
kết thúc với triều đại Triệu Đà kế tiếp.
Thành tựu văn hóa chính:
· Nghề luyện kim đồng, đúc đồng và điêu khắc đồng (thạp đồng, trống đồng...).
· Văn học dân gian, truyền thuyết, thần thoại...
· Có thể đã tạo ra hệ thống văn tự, chữ viết, nhưng về sau bị xóa bỏ.
3.2. Lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và Ấn Độ
Giai đoạn 3: giai đoạn văn hóa chống Bắc thuộc
Kể từ Triệu Đà (238.tr.CN) đến khi Ngô Quyền giành lại độc lập dân tộc (938)
Ý thức đối kháng kiên trì, bất khuất trước nguy cơ xâm lăng của phong kiến phương Bắc.
Tên nước “Nam Việt“ ra đời từ thời Triệu Đà đã tỏ rõ ý thức phân biệt chủ quyền đất nước
; Từ đó về sau, trải nhiều lần đổi tên, chữ “nam” vẫn được duy trì
Những cuộc kháng chiến liên tiếp qua các thế kỉ như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lí
Bí,Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Cha con họ Khúc, Dương Diên Nghệ
và đỉnh cao là cuộc đại thắng của Ngô Quyền năm 938.
Mặc dù lúc này nền văn hóa Văn Lang - Âu Lạc đã lạc hậu, suy thoái cần được sự
tiếp nhận thêm văn hóa khu vực phát triển hơn, nhưng để giữ gìn chủ quyền dân tộc,
nhân dân ta kiên trì tìm mọi cách chối từ văn hóa Hán đang tràn vào theo gót ngựa quân
xâm lược Tuy nhiên, trong khi chối từ, dân tộc ta vẫn chấp nhận tiếp thu một phần văn
hóa Hán.
Giai đoạn này không có những thành tựu văn hóa đáng kể. Nếu có, chúng ta cần
nói đến hai nguồn văn hóa Ấn Độ truyền vào nước ta theo con đường hòa bình, đó là văn
hóa Phật giáo thâm nhập vào miền Bắc và văn hóa Hồi giáo, Bà la môn đi vào miền Trung
bộ tạo dựng nên vương quốc Chămpa.
Bọn phong kiến phương Bắc ra sức phá huỷ, tiêu diệt thành tựu văn hóa dân tộc ta
như: thu gom sách vở, bắt thay thế trang phục Hán.v.v… nhưng không đạt được mục đích
Có thể hệ thống văn tự Việt đã bị xóa bỏ trong suốt ngàn năm đô hộ này.
Giai đoạn 4: Văn hóa Đại Việt thời tự chủ
Sau chiến thắng của Ngô Quyền, nước ta lại xây dựng nền độc lập.Trải qua các
triều đại ngắn Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, phải đến thời nhà Lý nền văn hóa Đại Việt mới phát
triển mạnh với tinh thần phục hưng mãnh liệt.
Tiếp theo là nhà Trần, nền văn hóa Đại Việt đạt được bước phát triển rực rỡ, gọi
chung là thời đại văn hóa Lý - Trần.
Đạt tới đỉnh cao rực rỡ là thời nhà Lê, nước ta đã có một nền văn hóa phong kiến
ngang tầm khu vực, đủ sức tự cường và giữ vững độc lập dân tộc.
Dân tộc ta phát triển về phương Nam vừa nhằm mục đích bảo vệ lãnh thổ, vừa
phát triển đất nước. Xóa bỏ vương quốc Chăm pa ở miền Trung thường quấy phá sau
lưng theo sự xúi giục của bọn xâm lược phương Bắc.
Dân tộc ta khẩn trương tiếp thu văn hóa phong kiến Trung Hoa, chủ yếu là hệ
thống giáo dục Nho Giáo, Phật giáo Trung hoa, kể cả Đạo giáo, theo xu hướng”Tam giáo
đồng quy“. Với phương châm “Việt nam hóa“ những thứ văn hóa ngoại lai, nghĩa là tiếp
nhận văn hóa và vận dụng cho phù hợp hoàn cảnh và bản lĩnh, tính cách dân tộc Việt,
nhân dân ta đã tạo nên một nền Nho giáo Việt Nam, Phật giáo Việt nam...
Nhân dân ta tiếp nhận chữ Hán, nhưng tạo ra cách đọc bằng âm Hán Việt. Rồi lại
sáng tạo ra chữ Nôm để ghi âm tiếng Việt.
Những lớp trí thức Hán học đã đóng vai trò nòng cột trong bộ máy quan lại phong
kiến Việt nam các triều đại Lý, Trần, Lê và Nguyễn.
Thủ đô bền vững từ đây đặt tại Thăng Long, với Quốc Tử Giám được coi là trường
đại học đầu tiên, cùng với Văn Miếu, khẳng định một giai đoạn phát triển cao của dân tộc
3.3. Lớp văn hóa giao lưu với phương Tây và thế giới
Giai đoạn 5: Văn hóa Đại Nam
Đại Nam là quốc hiệu do Nhà Nguyễn Minh Mạng đặt sau tên Việt Nam do Gia
Long đặt. Giai đoạn này tính từ thời các chúa Nguyễn cho đến khi thực dân Pháp chiếm
được nước ta làm thuộc địa.
Sau thời kì hỗn độn Lê - Mạc,Trịnh Nguyễn phân tranh, đến nhà Nguyễn, Nho giáo
lại được phục hồi làm quốc giáo, nhưng nó đã đến hồi suy tàn, không còn đủ khả năng
đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa tiến kịp phương Tây.
Thiên chúa giáo bắt đầu thâm nhập vào Việt Nam do các giáo sỹ phương Tây đến
các vùng duyên hải nước ta truyền đạo. Nhà Nguyễn ban đầu cho họ vào, về sau lại ngăn
cản.Thực dân Pháp kiếm cớ bảo vệ đạo đã kéo quân vào, nổ súng cướp nước ta từ 1858.
Giai đoạn 6: Văn hóa hiện đại
Kể từ khi thực dân Pháp đặt được nền cai trị trên cõi Đông dương và Việt Nam,
đầu thế kỉ 20, văn hóa phương Tây tự do tràn ngập vào nước ta :
Khoa học xã hội-nhân văn nước ta vốn có một bề dày nhưng cần tiếp thu những
phương pháp mới
Khoa học tự nhiên kĩ thuật hầu như hoàn toàn mới đã được tiếp thu nhanh.
. Cơ sở hạ tầng kĩ thuật như đường quốc lộ, nhà máy điện, khai mỏ, nhà Bưu
điện,nhà máy điện.v.v...bắt đầu xây dựng.
· Một số trường trung học, sau đó cao đẳng, được thành lập.
· Tiếng Pháp đưa vào dạy ở nhà trường.
· Hệ thống chữ quốc ngữ được sáng tạo, giúp cho phong trào học tập, truyền bá
văn hóa mới được nhanh chóng.
· Hệ tư tưởng dân chủ tự do tư sản truyền bá vào nước ta.
· Lối sống phương Tây ảnh hưởng chủ yếu ở thành thị.
· Văn học, nghệ thuật phương Tây gây ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống văn
nghệ nước ta (giai đoạn 1930 -1945).
· Đặc biệt, tư tưởng cách mạng vô sản Mác - Lê nin đã được tiếp thu sáng tạo vào
VN qua những trí thức trẻ giàu lòng yêu nước như Nguyễn Ái Quốc.
Nhìn chung, dân ta vừa chấp nhận Âu hoá, vừa chống Âu hóa trong chừng mực
nhất định, bảo đảm vừa tiến kịp trình độ thế giới, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc.
Những giá trị văn hóa mới đang định hình cần có thời gian thử thách và lựa chọn.
Tóm tắt quá trình hình thành văn hóa Việt Nam:
Lớp văn hoá bản địa
Lớp văn hoá giao lưu
Trung Quốc, Ấn Độ
Lớp giao tiếp phương Tây và
thế giới
1. Giai đoạn văn hoá tiền
3. Giai đoạn chống Bắc thuộc 5.Giai đoạn văn hoá Đại Nam
sử
2. Giai đoạn văn hoá Văn
4.Giai đoạn văn hoá Đại Việt 6. Giai đoạn văn hoá hiện đại
Lang - Âu Lạc
Chương III: NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA VĂN HOÁ VIỆT NAM
1. Văn hoá nhận thức (Nhận thức về vũ trụ và con người)
Trải qua lịch sử, con người đạt được những hiểu biết về vũ trụ và về chính bản
thân mình, từng bước từ đơn giản đến phức tạp.