Journal of Finance – Marketing; Vol. 64, No. 4; 2021
ISSN: 1859-3690
DOI: https://doi.org/10.52932/jfm.vi64
ISSN: 1859-3690
TẠP CHÍ
Journal of Finance – Marketing
NGHIÊN CỨU
TÀI CHÍNH - MARKETING
Số 64 - Tháng 08 Năm 2021
JOURNAL OF FINANCE - MARKETING
http://jfm.ufm.edu.vn
FACTORS AFFECTING RICE-GROWING FARMERS’ INCOME
IN TAN HONG DISTRICT, DONG THAP PROVINCE
Lam Van Sieng1
The University of Labour and Social Affairs (Campus II)
1
ARTICLE INFO
ABSTRACT
DOI:
The objective of this study is to analyze the factors affecting the income of
10.52932/jfm.vi64.188 rice farmers in rural areas in Tan Hong district, Dong Thap province. Based
Received:
May 27, 2021
Accepted:
July 05, 2021
Published:
August 25, 2021
Keywords:
Rice,
farmer household,
famers’ income.
on the framework of economic theory and the real income of farmers, the
author builds a multivariable linear regression model to quantify the factors
affecting the income of rice farmers. The study was conducted directly
from 200 households in rural areas of Tan Hong district. The analytical
methods used in this study are descriptive statistics and multivariable linear
regression. The results of the regression model show that there are seven
factors affecting the income of rice farmers, including: (1) Agricultural
land area, (2) Size of loans from credit institutions, ( 3) Labor involved in
production, (4) Education level of household head, (5) Biological cost, (6)
Mechanization cost and (7) Rice yield.
*Corresponding author:
Email: sienglv@ldxh.edu.vn
66
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing
Số 64 – Tháng 8 Năm 2021
ISSN: 1859-3690
TẠP CHÍ
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing
NGHIÊN CỨU
TÀI CHÍNH - MARKETING
Số 64 - Tháng 08 Năm 2021
JOURNAL OF FINANCE - MARKETING
http://jfm.ufm.edu.vn
NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP CỦA HỘ NÔNG DÂN
TRỒNG LÚA TẠI HUYỆN TÂN HỒNG, TỈNH ĐỒNG THÁP
Lâm Văn Siêng1
Trường Đại học Lao động – Xã hội (cơ sở II)
1
THÔNG TIN
TÓM TẮT
DOI:
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thu
10.52932/jfm.vi64.188 nhập của hộ nông dân trồng lúa ở khu vực nông thôn huyện Tân Hồng,
tỉnh Đồng Tháp. Dựa vào khung lý thuyết kinh tế học và thực tiễn thu
nhập của hộ nông dân, tác giả xây dựng mô hình hồi quy tuyến tính đa
Ngày nhận:
biến để định lượng các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ nông dân
27/05/2021
trồng lúa. Nghiên cứu được tiến hành điều tra trực tiếp từ 200 hộ gia đình
Ngày nhận lại:
ở khu vực nông thôn huyện Tân Hồng. Các phương pháp phân tích được
05/07/2021
sử dụng trong nghiên cứu này là thống kê mô tả và hồi qui tuyến tính đa
Ngày đăng:
biến. Kết quả mô hình hồi quy cho thấy có bảy yếu tố ảnh hưởng đến thu
25/08/2021
nhập của hộ nông dân trồng lúa bao gồm: (1) Diện tích đất nông nghiệp,
(2) Quy mô vốn vay từ các tổ chức tín dụng, (3) Lao động tham gia sản
Từ khóa:
xuất, (4) Trình độ học vấn của chủ hộ, (5) Chi phí sinh học, (6) Chi phí cơ
Lúa gạo, hộ nông dân,
giới và (7) Năng suất lúa.
thu nhập hộ nông dân.
1. Giới thiệu
thâm nhập và tăng được khối lượng xuất khẩu
vào một số thị trường cao cấp như Hồng Kông,
Singapore, Úc, Nhật Bản (Tổng cục thống kê,
2014). Bên cạnh những thành tựu nổi bật thì
ngành lúa gạo Việt Nam cũng bộc lộ những
hạn chế như: Chất lượng, hiệu quả, giá trị gia
tăng và tính cạnh tranh thấp; Xuất khẩu gạo
khối lượng lớn nhưng giá trị thấp; Sản xuất
lúa thiếu tính bền vững, tác động tiêu cực đến
môi trường và biến đổi khí hậu; Đời sống của
nông dân còn nhiều khó khăn, thu nhập từ
sản xuất lúa không đủ bù đắp chi phí để sản
xuất ra chúng, lao động trẻ di cư sang các vùng
công nghiệp, các đô thị lớn để sinh kế ngày
càng nhiều; Chi phí sản xuất nông nghiệp theo
Sau hơn 30 đổi mới kể từ 1986 đến nay, Việt
Nam liên tiếp giữ vị trí là một trong những
nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Lúa gạo
đã trở thành một trong những mặt hàng nông
sản xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Xuất
khẩu gạo mang về cho đất nước nguồn ngoại tệ
mỗi năm trên dưới 2 tỷ USD, góp phần không
nhỏ vào công cuộc phát triển và hội nhập kinh
tế quốc tế của đất nước. Xuất khẩu gạo được
mở rộng tới nhiều quốc gia trên thế giới, đã
*Tác giả liên hệ:
Email: sienglv@ldxh.edu.vn
67
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing
Số 64 – Tháng 8 Năm 2021
hoặc toàn bộ diện tích đất cho canh tác lúa, lúa
sử dụng cho mục đích kép: tự tiêu – hàng hóa
và đóng góp vào nguồn thu nhập của nông hộ.
chiều hướng tăng, chưa được cơ khí hóa, tiếp
cận thị trường còn hạn chế, nông hộ còn thiếu
vốn đầu tư sản xuất nên phải vay vốn ngân
hàng..v.v. Thực tế đó cho thấy, việc tìm kiếm
các giải pháp có căn cứ khoa học nhằm nâng
cao thu nhập cho hộ nông dân trồng lúa là vấn
đề quan trọng. Để thực hiện điều này, tác giả
tiến hành nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng
đến thu nhập của nông hộ, bài viết tập trung
vào hai vấn đề chính đó là: Nhận diện các yếu
tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ nông dân
trồng lúa và gợi ý các giải pháp nhằm nâng cao
thu nhập cho nông hộ trồng lúa.
Tổng cục Thống kê (2014) định nghĩa “Thu
nhập của hộ là toàn bộ số tiền và giá trị hiện
vật quy thành tiền sau khi đã trừ chi phí sản
xuất mà hộ và các thành viên của hộ nhận được
trong một khoản thời gian nhất định, thường là
một năm”.
“Hộ nông nghiệp là những hộ có toàn bộ
hoặc 50% số lao động thường xuyên tham gia
trực tiếp hoặc gián tiếp các hoạt động trồng trọt,
chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp (làm đất, thủy
nông, giống cây trồng, bảo vệ thực vật,…) và
thông thường nguồn sống chính của hộ dựa vào
nông nghiệp” (Phạm Tấn Hòa, 2014).
2. Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu
1.1. Cơ sở lý thuyết
1.1.1. Cơ sở lý thuyết về thu nhập của hộ sản
xuất nông nghiệp
Quan điểm của Park (1992), trong giai đoạn
phát triển, tăng trưởng nông nghiệp là do nâng
cao năng suất lao động nông nghiệp và chính
nó quyết định nâng cao thu nhập cho nông dân.
Theo Hồ Cao Việt (2009), hộ nông dân
trồng lúa được hiểu là hộ nông dân sản xuất
lúa – gọi tắt là hộ trồng lúa có dành một phần
Hình 1. Năng suất lao động và thu nhập của một lao động nông nghiệp
Hình 1 cho thấy khi thay đổi vốn theo hướng
tăng lên sẽ làm tăng năng suất lao động, tương
ứng sẽ giảm bớt số lượng lao động ở khu vực
nông nghiệp và từ đó thu nhập tăng lên (Đinh
Phi Hổ, 2011). Như vậy, thu nhập của người
nông dân phụ thuộc vào năng suất lao động,
khi tác động vào các yếu tố để nâng cao năng
suất lao động của người nông dân cũng chính
là tác động đến thu nhập của người nông dân.
Park (1992) cho rằng quá trình phát triển
nông nghiệp trải qua 3 giai đoạn: Sơ khai, đang
phát triển và phát triển. Yếu tố quyết định cho
mỗi giai đoạn lần lượt là quy mô lao động,
trình độ ứng dụng công nghệ sinh học và trình
độ cơ giới.
Theo Lewis (1954), Oshima (1993), thu nhập
của hộ gia đình nông dân bị ảnh hưởng bởi
68
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing
Số 64 – Tháng 8 Năm 2021
Cham, Campuchia xác định các yếu tố tác
động đến thu nhập của nông dân trồng lúa dựa
trên mô hình hàm logarit tuyến tính. Nhóm
nghiên cứu tiến hành cuộc điều tra nông hộ tại
ba huyện đại diện cho các mức thu nhập thấp,
trung bình và cao ở tỉnh Kampong Cham,
Campuchia theo phương pháp lấy mẫu ngẫu
nhiên với quy mô 150 mẫu. Kết quả nghiên
cứu cho thấy thu nhập của hộ nông dân trồng
lúa ở Campuchia có quan hệ tuyến tính dương
với quy mô diện tích đất sản xuất của hộ (DT),
chi phí dịch vụ bằng cơ giới (BC), tình trạng
vay vốn (CA), trình độ kiến thức nông nghiệp
của chủ hộ (KL), và chi phí sinh học trên một
đơn vị diện tích (MC). Biến chi phí lao động
(LC) không tác động đến thu nhập của hộ gia
đình nông dân trồng lúa ở Campuchia.
các yếu tố: Qui mô diện tích đất nông nghiệp
của hộ, trình độ cơ giới (chi phí cơ giới), vốn
vay, trình độ kiến thức nông nghiệp của chủ
hộ, trình độ sinh học (chi phí giống, phân bón,
thuốc hóa học).
Theo Singh và cộng sự (1986), thu nhập của
hộ gia đình gồm thu nhập từ nông nghiệp và
thu nhập từ phi nông nghiệp.
Barker (2002), năng suất lao động nông
nghiệp phụ thuộc vào năng suất đất (Giá trị
tổng sản phẩm tính trên một ha đất nông
nghiệp) và quy mô đất (diện tích đất nông
nghiệp tính trên một lao động nông nghiệp).
Theo các nguyên cứu của Abdulai và
CroleRees (2001), Demurger và cộng sự (2010),
Janvry và Sadoulet (2001), Yang (2004), thu
nhập của nông hộ chịu ảnh hưởng của nhiều
yếu tố, bao gồm vốn, đất đai, trình độ học vấn,
kinh nghiệm sản xuất, số lao động, khả năng đa
dạng hóa thu nhập, cơ hội tiếp cận thị trường.
Đinh Phi Hổ và Nguyễn Hữu Trí (2010) đã
nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất
lao động nông nghiệp ở tỉnh Bến tre theo mô hình
hồi quy tuyến tính đa biến (dạng hàm Logarit).
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành cuộc điều tra
nông hộ tại 3 huyện Giồng Chôm, Châu Thành
và Chợ Lách theo phương pháp lấy mẫu ngẫu
nhiên với quy mô là 210 mẫu. Kết quả nghiên
cứu cho thấy các yếu tố như diện tích đất nông
nghiệp của gia đình (DT), chi phí dịch vụ bằng
cơ giới (MC), quy mô vốn vay (LS), trình độ kiến
thức nông nghiệp của chủ hộ (KL) và mô hình áp
dụng sản xuất đa dạng hóa (DM) có ảnh hưởng
đến năng suất lao động nông nghiệp, đồng thời
ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình nông
dân ở tỉnh Bến Tre. Biến giới tính của chủ hộ
không có ý nghĩa thống kê trong mô hình.
1.1.2. Nghiên cứu thực nghiệm có liên quan đến
thu nhập của hộ nông dân trồng lúa
Nghiên cứu của Huỳnh Trường Huy (2007)
phân tích tác động của khoa học kỹ thuật đến
hiệu quả sản xuất lúa tại Cần Thơ và Sóc Trăng.
Nghiên cứu này mô tả thực trạng áp dụng
khoa học kỹ thuật và các yếu tố ảnh hưởng
đến hiệu quả sản xuất lúa của nông hộ. Số liệu
nghiên cứu được phỏng vấn từ 261 nông hộ.
Các phương pháp phân tích được sử dụng là
thống kê mô tả và phân tích hồi quy đa biến.
Phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc cũng
được sử dụng nhằm làm cơ sở để đánh giá tính
khả thi của các giải pháp trong việc áp dụng
kỹ thuật hiệu quả. Kết quả nghiên cứu chỉ ra
rằng trình độ học vấn, lực lượng lao động, chi
phí giống, chi phí phân bón, chi phí thuỷ lợi,
chi phí chuẩn bị đất có tác động cùng chiều
đến thu nhập của nông hộ và chi phí thuốc bảo
vệ thực vật có tác động nghịch chiều đến thu
nhập của nông hộ. Kinh nghiệm sản xuất là
yếu tố không phản ánh sự tương quan với thu
nhập của nông hộ sản xuất lúa.
Nghiên cứu của Nguyễn Quốc Nghi và cộng
sự (2011) xác định các nhân tố ảnh hưởng đến
thu nhập của hộ gia đình ở khu vực nông thôn
bằng mô hình hồi quy tuyến tính Logarit.
Thông tin sơ cấp của đề tài được thu thập bằng
cách phỏng vấn các chủ hộ ở khu vực nông
thôn huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Phương
pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng được sử
dụng để thu thập số liệu với các tiêu chí như:
Địa bàn, qui mô gia đình, đặc điểm sinh kế.
Tổng số mẫu điều tra là 182 hộ gia đình tại các
xã Vĩnh Xuân, Thuận Thới, Tích Thiện, Tân
Mỹ, Thiện Mỹ. Kết quả nghiên cứu cho thấy
Nghiên cứu của Đinh Phi Hổ và Chiv Vann
Dy (2010) được thực hiện ở tỉnh Kampong
69
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing
Số 64 – Tháng 8 Năm 2021
Trình độ học vấn của chủ hộ (HOCVAN):
Trình độ học vấn của chủ hộ là một yếu tố
quyết định chất lượng của nguồn lực con người
trong sản xuất nông nghiệp. Học vấn quyết
định lợi thế của mỗi người trong việc tạo ra thu
nhập bởi học vấn cao sẽ dễ tiếp thu, áp dụng kỹ
thuật mới vào sản xuất và sử dụng hiệu quả các
nguồn lực khác. (Foster & Rosenzweig, 1996;
Pitt & Sumodiningrat, 1991 trích bởi Nguyễn
Lan Duyên, 2014), Yang (2004) cho rằng: Học
vấn giúp tăng cường khả năng nắm bắt và xử lý
thông tin thị trường để tạo ra cơ hội tham gia
các hoạt động nông nghiệp, qua đó làm tăng
thu nhập.
thu nhập bình quân của hộ gia đình nông thôn
chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố: Số nhân khẩu
(X1), kinh nghiệm làm việc của chủ hộ (X2),
trình độ học vấn của chủ hộ (X3), số hoạt động
tạo thu nhập (X4) và độ tuổi của lao động (X5).
Trong đó có 4 biến tác động cùng chiều với thu
nhập bình quân của hộ gia đình và một biến
nghịch chiều đó là số nhân khẩu trong hộ.
1.2. Mô hình nghiên cứu và giả thuyết
nghiên cứu
Diện tích đất nông nghiệp (DTDAT): Ở
nông thôn, đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và
khó thay thế trong nông nghiệp, đất dùng để
trồng trọt, chăn nuôi, do đó diện tích đất của
chủ hộ sở hữu càng nhiều thì việc sản xuất
càng thuận lợi. Theo Manjunatha và cộng sự
(2013); Nguyễn Tiến Dũng và Lê Khương
Ninh (2014): Việc không có hoặc có ít đất sản
xuất làm hạn chế khả năng cải thiện thu nhập,
bởi diện tích nhỏ hẹp thì sẽ khó áp dụng kỹ
thuật canh tác hiện đại.
Chi phí sinh học (MC): Bao gồm chi phí
giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, nước
tưới. Theo Huỳnh Trường Huy (2007); Đinh
Phi Hổ và cộng sự (2010); Phạm Lê Thông
(2010): Nhóm chi phí này có đặc điểm là người
trồng lúa chỉ đạt được hiệu quả mong muốn
khi đáp ứng đúng mức yêu cầu sinh lý của cây
lúa. Trong trường hợp sử dụng quá mức không
chỉ làm gia tăng chi phí sản xuất, giảm thu
nhập mà còn gây tác hại xấu đến môi trường
đất và nguồn nước.
Quy mô vốn vay (VONVAY): Là yếu tố
đầu vào không thể thiếu đối với nông hộ bởi
nông dân cần vốn để mua vật tư, giống, máy
móc, thuê lao động,… đảm bảo tính thời vụ.
Nguyễn Lan Duyên (2014); Đinh Phi Hổ và
Chiv Vann Dy (2010) cho rằng: Vốn giúp nông
hộ đầu tư phát triển hệ thống tưới tiêu cũng
như áp dụng kỹ thuật mới, đa dạng hóa loại
hình sản xuất để tránh phải bán sản phẩm với
giá thấp. Thiếu vốn đầu tư dẫn đến năng suất
thấp, kéo theo thu nhập thấp.
Chi phí lao động (LC): Theo Phạm Lê Thông
(2010) cho rằng: “Chi phí thuê lao động chiếm
khoảng 33% tổng chi phí. Lao động thường được
thuê để thực hiện các công việc: Làm đất, gieo
trồng, làm cỏ, bón phân, phun xịt thuốc nông
dược, cắt lúa, suốt lúa, bốc vác, vận chuyển,
phơi sấy”. Nông dân cũng tận dụng lao động
gia đình để giảm bớt chi phí lao động thuê.
Số lao động tham gia sản xuất trong
hộ (LDONG): Đây là nguồn nhân lực quan
trọng trong sản xuất nông nghiệp. Abdulai &
CroleRees (2001), Yang (2004): “Trong điều
kiện sản xuất ít được cơ giới hóa, số lượng lao
động sẽ là yếu tố cơ bản giúp làm tăng thu nhập
cho nông hộ”. Nguyễn Quốc Nghi và cộng sự
(2011) chỉ ra rằng số lao động trong hộ ảnh
hưởng đến thu nhập của hộ. Tuy nhiên, do
tính thời vụ và trình độ của người lao động
còn hạn chế nên tình trạng lao động nhàn rỗi ở
nông thôn còn khá phổ biến, do đó nông hộ có
thể có nhiều lao động nhưng thu nhập không
cao bởi một số lao động không trực tiếp làm ra
thu nhập.
Chi phí cơ giới (BC): Là chi phí mà hộ sản
xuất lúa phải mua hoặc thuê các thiết bị cơ giới
phục vụ sản xuất (máy cày, xới, tuốt lúa). Cơ
giới có tác động thay thế lao động thủ công,
giảm chi phí sản xuất giúp nâng cao năng suất
lao động của người nông dân qua đó nâng cao
thu nhập cho hộ.
Năng suất lúa (NSLUA): Theo lý thuyết
kinh tế học về năng suất lao động nông nghiệp,
Park (1992) cho rằng sản lượng sản phẩm của
hộ gia đình nông dân tăng lên là do ứng dụng
thành tựu của khoa học và công nghệ vào
trong quá trình sản xuất làm tăng năng suất
70
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing
Số 64 – Tháng 8 Năm 2021
đất, nâng cao năng suất lao động của người
nông dân và nâng cao thu nhập cho hộ gia
đình nông dân. Nghiên cứu của Nguyễn Tiến
Dũng và Lê Khương Ninh (2014) cho rằng sản
lượng lúa có quan hệ tuyến tính dương lên thu
nhập của nông hộ trồng lúa.
Giả thuyết 8: Năng suất lúa trên diện tích đất
nông nghiệp có tác động cùng chiều (+) với thu
nhập của nông hộ trồng lúa.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để ứng dụng mô hình trong thực tiễn, tác
giả tiến hành điều tra hộ gia đình theo tiêu chí
địa bàn, qui mô gia đình và đặc điểm sinh kế
bao gồm: Xã Tân Hộ Cơ có hai ấp: Gò Bói, Dinh
Bà; Xã Bình Phú có hai ấp: Gò Da, Công Tạo;
Xã An Phước có hai ấp: An Tài, An Lộc; Xã
Tân Phước có hai ấp: Tân Bảnh, Hoàng Việt;
Xã Tân Thành B có hai ấp: ấp II, ấp III thuộc
địa bàn huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp.
Từ tổng quan cơ sở lý thuyết tác giả đề xuất
mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến
thu nhập của hộ nông dân trồng lúa tại huyện
Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp như sau:
LnTHUNHAP = B0 + B1LnDTDAT +
B2LnVONVAY + B3LnLDONG
+ B4LnHOCVAN – B5LnMC – B6LnLC
– B7LnBC + B8LnNSLUA (*)
Với quy mô mẫu điều tra 200 hộ theo
phương pháp chọn mẫu theo cụm, nhóm,
nhiều bước, quá trình quản lý khảo sát được
thực hiện thông qua phỏng vấn trực tiếp chủ
hộ gia đình bằng bảng câu hỏi được thiết kế
với 14 câu hỏi có ba phần: Phần thông tin về
hộ, nhân khẩu, phần nội dung và phần những
khó khăn, kiến nghị của hộ. Tiếp theo là hoàn
chỉnh bảng câu hỏi phù hợp với thực tế địa
phương, sau đó tiến hành điều tra đại trà tại
các địa bàn nghiên cứu.
Các giả thuyết nghiên cứu:
Giả thuyết 1: Diện tích đất có tác động cùng
chiều (+) với thu nhập của nông hộ trồng lúa.
Giả thuyết 2: Quy mô vốn vay có tác động cùng
chiều (+) với thu nhập của nông hộ trồng lúa.
Giả thuyết 3: Số lao động tham gia sản xuất
trong hộ có tác động cùng chiều (+) với thu
nhập của nông hộ trồng lúa.
Giả thuyết 4: Trình độ học vấn của chủ hộ có
tác động cùng chiều (+) với thu nhập của nông
hộ trồng lúa.
Phương pháp phân tích hồi quy đa biến
được sử dụng để phân tích các yếu tố ảnh
hưởng đến thu nhập của hộ nông dân trồng
lúa được thực hiện thông qua sự hỗ trợ của
phần mềm SPSS 20.0.
Giả thuyết 5: Chi phí sinh học có tác động nghịch
chiều (-) với thu nhập của nông hộ trồng lúa.
Giả thuyết 6: Chi phí lao động có tác động nghịch
chiều (-) với thu nhập của nông hộ trồng lúa.
4. Kết quả nghiên cứu
Giả thuyết 7: Chi phí cơ giới có tác động nghịch
chiều (-) với thu nhập của nông hộ trồng lúa.
4.1. Thống kê mô tả các biến theo mô hình
nghiên cứu
Bảng 1. Thống kê mô tả các biến theo mô hình nghiên cứu
Tiêu chí
Tên biến
ĐVT
Thu nhập
Diện tích đất nông nghiệp
Quy mô vốn vay/1.000 m2
Lao động tham gia sản xuất
Trình độ học vấn của chủ hộ
Chi phí sinh học/1.000 m2
THUNHAP
DTDAT
VONVAY
LDONG
HOCVAN
MC
1000 Đồng
1.000 m2
1000 Đồng
Người
Năm
1000 Đồng
71
Nhỏ
nhất
0
3
0
1
0
0,15
Lớn
nhất
1.089,00
150
1.300
5
12
2.451,71
Bình
quân
532,03
25,15
587,84
2,42
8,04
1.526,98
Độ lệch
chuẩn
186,26
22.81
439,14
0,89
2,99
497.37
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing
Số 64 – Tháng 8 Năm 2021
Tiêu chí
Tên biến
ĐVT
Chi phí lao động/1.000 m2
Chi phí cơ giới/1.000 m2
Năng suất lúa/1.000 m2
LC
BC
NSLUA
1000 Đồng
1000 Đồng
Kg
Kết quả phân tích thống kê mô tả cho thấy
có sự chênh lệch giữa các hộ và độ lệch chuẩn
cao. Biến thu nhập, có giá trị nhỏ nhất là 0 và
lớn nhất là 1.089.000 đồng, các biến chi phí
sinh học, quy mô vốn vay cũng có sự cách biệt.
Hộ có thu nhập bằng 0 là những hộ nông dân
Nhỏ
nhất
0
200
278
Lớn
nhất
380,00
430
745
Bình
quân
188,99
306,73
582,52
Độ lệch
chuẩn
131,71
48,96
111,03
trồng lúa hòa vốn, có những chủ hộ không đi
học (số năm đi học = 0), và có hộ không vay
vốn (Quy mô vốn vay = 0) và hộ không thuê
mướn lao động (chi phí lao động = 0).
4.2. Kết quả phân tích hồi quy
Bảng 2. Kết quả hồi quy mô hình lần thứ nhất
Hệ số hồi quy chưa chuẩn hóa
Hệ số
Sai số
Hằng số
11,161
3,631
LnDTDAT
0,131
0,035
LnVONVAY
0,482
0,156
LnLDONG
0,145
0,056
LnHOCVAN
0,110
0,037
LnMC
-0,179
0,052
LnLC
-0,114
0,144
LnBC
-0,411
0,131
LnNSLUA
0,473
0,130
Biến phụ thuộc: LnTHUNHAP
Kết quả hồi quy ở Bảng 2 cho biết, có 07
biến độc lập đảm bảo có ý nghĩa thống kê với
độ tin cậy lớn hơn 95% (giá trị Sig. < 0,05).
Riêng biến LnLC (Chi phí lao động) không
đảm bảo có ý nghĩa thống kê vì có giá trị
Sig. = 0,429 lớn hơn 0,05. Kiểm tra hệ số tương
quan r (Correlation) các biến độc lập và biến
phụ thuộc bằng kiểm định Pearson cho thấy,
hệ số tương quan r của biến LnLC (Chi phí lao
động) không có ý nghĩa thống kê ở mức 95% vì
hệ số Sig. của biến LnLC = 0,582 lớn hơn 0,05.
Hệ số hồi quy
chuẩn hóa
0,286
0,206
0,182
0,184
-0,224
-0,046
-0,208
0,255
Giá trị t
Ý nghĩa
(Sig.)
3,294
3,789
3,097
2,601
2,987
-3,443
-0,795
-3,142
3,632
0,001
0,000
0,003
0,011
0,004
0,001
0,429
0,002
0,000
Vì vậy biến giải thích LnLC (chi phí lao động)
sẽ được loại khỏi mô hình là hợp lý và tiến hành
hồi quy lần thứ hai với các biến còn lại. Mô hình
hồi quy (*) ở trên sau khi loại biến chi phí lao
động (LnLC) được hiệu chỉnh như sau:
LnTHUNHAP = B0 + B1LnDTDAT
+ B2LnVONVAY + B3LnLDONG +
B4LnHOCVAN
– B5LnMC – B7LnBC + B8LnNSLUA
Thực hiện hồi quy mô hình này ta được:
Bảng 3. Hệ số hồi quy lần thứ hai (Coefficients)
Hệ số hồi quy chưa chuẩn hóa Hệ số hồi quy Giá trị Ý nghĩa
chuẩn hóa
t
(Sig.)
Hệ số B
Sai số
Biến phụ thuộc: LnTHUNHAP
Hằng số
11,306
2,883
3,921 0,000
72
VIF
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing
Các biến độc lập
LnDTDAT
LnVONVAY
LnLDONG
LnHOCVAN
LnMC
LnBC
LnNSLUA
Các kiểm định
R2
R2 hiệu chỉnh
Thống kê F (sig)
Số 64 – Tháng 8 Năm 2021
Hệ số hồi quy chưa chuẩn hóa Hệ số hồi quy Giá trị Ý nghĩa
chuẩn hóa
t
(Sig.)
Hệ số B
Sai số
VIF
0,117
0,409
0,184
0,146
-0,199
-0,350
0,424
1,666
1,387
1,348
1,102
1,340
1,183
1,467
0,028
0,145
0,047
0,032
0,045
0,112
0,111
0,275
0,171
0,232
0,242
-0,261
-0,175
0,237
4,157
2,830
3,909
4,503
-4,398
-3,137
3,826
0,000
0,005
0,000
0,000
0,000
0,002
0,000
0,686
0,668
37,427 (0,000)
Kiểm định mức độ phù hợp của mô hình
Mô hình có R2 hiệu chỉnh là 0,668 > 0,5
(50%), điều này có nghĩa là 66,8% thay đổi thu
nhập trên 1.000 m2 đất của hộ nông dân trồng
lúa được giải thích bởi các biến độc lập của mô
hình. Kết quả phân tích ANOVA cho biết, giá
trị kiểm định F = 37,427 và có ý nghĩa thống kê
vì Sig. = 0,000 < 0,01. Vì vậy, mô hình hồi quy
là phù hợp với dữ liệu nghiên cứu.
Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến của các
biến độc lập
4.3. Các kiểm định mô hình hồi qui
Kiểm định tương quan từng phần của các
hệ số hồi quy
Bảng 3 cho biết, các biến LnDTDAT
có Sig. = 0,000; Biến LnVONVAY có
Sig. = 0,005; Biến LnLDONG có Sig. = 0,000;
Biến LnHOCVAN có Sig. = 0,000; Biến LnMC
có Sig. = 0,000; Biến LnBC có Sig. = 0,002; Biến
LnNSLUA có Sig. = 0,000; Nghĩa là các biến này
tương quan có ý nghĩa với biến LnTHUNHAP
với độ tin cậy 99% (Sig. < 0,01).
Bảng 4. Ma trận tương quan giữa các biến độc lập (Correlations)
LnDTDAT
LnDTDAT 1,000
LnVONVAY 0,443
LnLDONG 0,433
LnHOCVAN 0,117
LnMC
-0,150
LnBC
-0,225
0,308
LnNSLUA
LnVONVAY LnLDONG LnHOCVAN LnMC LnBC LnNSLUA
1,000
0,252
0,058
-0,229
-0,264
-0,030
1,000
0,153
0,109
-0,184
0,310
Bảng 4 cho thấy, hệ số tương quan r
(Correlations) của các biến độc lập với nhau
đều nhỏ hơn 0,5 và kết hợp với kết quả hồi quy
ở Bảng 3 nói lên rằng hệ số phóng đại phương
sai VIF (Variance Inflation Factor – VIF) của
các biến độc lập là rất nhỏ (nhỏ hơn 10), theo
1,000
-0,062
-0,273
0,071
1,000
0,062 1,000
0,383 -0,123 1,000
đó các biến độc lập không có quan hệ chặt chẽ
với nhau. Do đó, mối quan hệ giữa các biến
độc lập không ảnh hưởng đáng kể đến kết quả
giải thích của mô hình hồi qui, kết luận không
có hiện tượng đa cộng tuyến xảy ra giữa các
biến độc lập có ý nghĩa trong mô hình.
73
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing
Số 64 – Tháng 8 Năm 2021
Kiểm định phương sai của phần dư thay
đổi (phần dư của mô hình)
Kiểm định phần dư có phân phối chuẩn
(Std. Residual)
Với mô hình đa biến, Park đề xuất sử dụng
hệ số Z thay cho biến phụ thuộc Y (Huỳnh
Thị Đan Xuân & Mai Văn Nam, 2011). Theo
đó: Ln(u2) = b1 + b2LnZ (Z là ước lượng của
biến phụ thuộc trong mô hình hồi quy chính
với Z = LnTHUNHAP). Và xác định u2 (phần
dư chuẩn hóa bình thường của mô hình chính,
standardized residual square). Mô hình hồi
quy phụ Ln(u2) = b1 + b2LnZ được ước lượng
bằng phương pháp bình phương bé nhất (OLS)
để kiểm định giả thiết: H0: b2 = 0 (không có
phương sai sai số thay đổi); H1: b2 ≠ 0 (phương
sai sai số thay đổi). Kết quả mô hình hồi quy
phụ cho thấy hệ số Sig. trong kiểm định t của
biến LnZ bằng 0,671 > 0,05, theo đó chấp nhận
giả thuyết H0, kết luận cho thấy phần dư có
phương sai không đổi.
Để đảm bảo phần dư trong mô hình được
thực hiện bằng ước lượng bình phương bé
nhất (OLS) thỏa điều kiện giả thiết phương sai
có phân phối chuẩn. Phân tích cho thấy, phân
phối phần dư xấp xỉ chuẩn (Std. Residual) với
trung bình (Mean) = 0 và độ lệch chuẩn (Std.
Deviation) = 0,996 (xấp xỉ bằng 1), do đó có thể
kết luận rằng giả thiết phân phối chuẩn không
bị vi phạm khi sử dụng phương pháp hồi qui
bội. Đồng thời, hình ảnh trực quan trên hình
2 cho thấy, phần dư của mô hình có dạng đồ
thị hình chuông úp xuống đối xứng với tầng
số cao nhất nằm ngay giữa và các tầng số thấp
dần nằm ở hai bên, trị trung bình (mean) và trị
trung vị (mediane) gần bằng nhau và độ xiên
(skewness) gần bằng zero, kết luận giả thiết
phân phối chuẩn không bị vi phạm.
Hình 2. Tần số của phần dư chuẩn hóa
có ý nghĩa thống kê. Do đó, mô hình nghiên
cứu chính thức về các yếu tố ảnh hưởng đến
thu nhập của hộ nông dân trồng lúa tại huyện
Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp được xác định là:
4.4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Từ các kết quả kiểm định mô hình hồi quy
cho thấy không có hiện tượng đa cộng tuyến,
không có sự vi phạm về phương sai và mô hình
LnTHUNHAP = 11,306 + 0,117LnDTDAT + 0,409LnVONVAY + 0,184LnLDONG
+ 0,146LnHOCVAN – 0,199LnMC – 0,350LnBC + 0,424NSLUA
74
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing
Số 64 – Tháng 8 Năm 2021
Kết quả mô hình nghiên cứu được giải thích
như sau:
có thu nhập cao với số lao động nhiều hơn
sẽ chiếm tỷ trọng cao hơn so với nhóm hộ
có số lao động ít. Điều này được giải thích
phù hợp với kết quả nghiên cứu của Abdulai
& CroleRees (2001), Yang (2004), Huỳnh
Trường Huy (2007). Nguyễn Quốc Nghi và
cộng sự (2011) cho rằng quy mô hộ có ảnh
hưởng tích cực đến thu nhập.
i) LnDTDAT (Diện tích đất nông nghiệp) có
hệ số β1 = 0,117. Trong trường hợp các yếu
tố khác không đổi, nếu diện tích đất tăng
lên 1% thì thu nhập trên 1.000m2 đất sẽ tăng
lên 0,117%. Kết quả này phù hợp với nghiên
cứu của Phạm Tấn Hòa (2014), Đinh Phi Hổ
và cộng sự (2010). Liên quan đến các vấn
đề về phân tích những thay đổi chính sách
ở cấp độ nhóm hộ gia đình ở Việt Nam có
một số vấn đề cụ thể đặc biệt quan trọng, đó
là ảnh hưởng của tích tụ ruộng đất, chính
sách giá cả đầu vào/đầu ra, công nghệ kỹ
thuật, chính sách tín dụng và thuế.
iv) LnHOCVAN (Trình độ học vấn của chủ
hộ) có hệ số β4 = 0,146. Trường hợp các yếu
tố khác không đổi khi trung bình số năm
đi học của chủ hộ tăng 1% thì thu nhập sẽ
tăng 0,146%. Kết quả này phù hợp với các
nghiên cứu của Nguyễn Lan Duyên (2014),
Xiong và Niu (2010), Nguyễn Quốc Nghi và
cộng sự (2011), Huỳnh Trường Huy (2007),
Lê Khương Ninh (2014). Trình độ học vấn
ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu kiến thức
nông nghiệp, tiến bộ kỹ thuật sản xuất, tiếp
cận thông tin, tính toán và lập kế hoạch sản
xuất, ảnh hưởng đến các thành viên trong
hộ trong quá trình tham gia sản xuất và tạo
thu nhập. Theo kết quả nghiên cứu trong
sản xuất lúa thì chủ hộ có trình độ học vấn
cao hơn sẽ cho thu nhập cao hơn.
ii) LnVONVAY (Vốn vay) có hệ số β2 = 0,409.
Giả định các yếu tố khác không đổi khi trung
bình vốn vay tăng 1% thì thu nhập sẽ tăng
0,409%. Kết quả này phù hợp với thực tế
tình hình vay vốn tại địa phương và kết quả
nghiên cứu của Nguyễn Lan Duyên (2014),
Đinh Phi Hổ và cộng sự (2010), Nguyễn Tiến
Dũng và cộng sự (2014), Phạm Tấn Hòa
(2014) vì mục đích vay vốn của hộ nông dân
chủ yếu để phục vụ sản xuất nông nghiệp
(chiếm 83%), kết quả phân tích thống kê thu
nhập theo quy mô vốn vay cũng cho thấy
nhóm hộ có nhu cầu vay vốn có thu nhập
cao hơn nhóm hộ không vay (với mức thu
nhập từ 200 đến 500 ngàn đồng, nhóm hộ có
vay vốn chiếm tỷ trọng 65,5% so với nhóm
hộ không vay là 34,5%). Hộ nông dân có vay
vốn sẽ có điều kiện nhiều hơn về yếu tố vốn
nên có điều kiện cải thiện thu nhập, vì vậy
điều này phù hợp với lý thuyết nghiên cứu.
v) LnMC (Chi phí sinh học) có hệ số
β5 = –0,199. Trong trường hợp các yếu tố
khác không đổi, nếu chi phí sinh học tăng
1% thì thu nhập sẽ giảm 0,199%, phù hợp
với kết quả nghiên cứu của Adil và cộng sự
(2004), Đinh Phi Hổ (2010), Huỳnh Trường
Huy (2007) vì các nguyên nhân sau: Một là,
chi phí phân bón, thuốc BVTV là khoản chi
quan trọng mà nông hộ trồng lúa đang lo
lắng vì không có được sự trợ giúp từ phía
chính quyền về vấn đề sử dụng vật tư nông
nghiệp kém chất lượng (hiện tượng phân
bón giả, thuốc bảo vệ thực vật gây ô nhiễm
môi trường, v.v.) nhưng chi phí lại cao. Hai
là, tình hình biến đổi khí hậu khó lường
như hiện nay khiến cho việc canh tác lúa
càng trở nên khó khăn, đòi hỏi phải tăng
cường các biện pháp phòng trừ sâu bệnh
hại, nghĩa là nông dân phải tăng lượng
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật vì họ thiếu
kiến thức và trình độ sản xuất lúa. Những
điều này làm tăng giá thành, tăng chi phí
iii) LnLDONG (Lao động) có hệ số β3 = 0,184.
Trong trường hợp các yếu tố khác không
đổi, nếu số người lao động tăng 1% thì thu
nhập sẽ tăng 0,184%. Kết quả nghiên cứu
cho thấy số lao động bình quân của hộ tại
huyện Tân Hồng là 2,42 người/hộ và số
nhân khẩu bình quân là 3,92 người, nghĩa
là số người phụ thuộc khoảng 1,5 người/hộ,
nếu hộ nông dân tăng số lao động sẽ giảm số
tỷ lệ phụ thuộc, kết quả phân tích thu nhập
của hộ theo số lao động cho thấy nhóm hộ
75
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing
Số 64 – Tháng 8 Năm 2021
5. Kết luận và hàm ý chính sách
sản xuất làm giảm đáng kể thu nhập của hộ
nông dân trồng lúa.
Từ kết quả mô hình hồi quy cho thấy các
yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ nông
dân trồng lúa là: Diện tích đất nông nghiệp
(DTDAT), lao động tham gia sản xuất trong
hộ (LDONG), quy mô vốn vay từ các tổ chức
tín dụng chính thức (VONVAY), trình độ học
vấn của chủ hộ (HOCVAN), chi phí sinh học
(MC), chi phí cơ giới (BC) và năng suất lúa
(NSLUA). Qua đó, để nâng cao thu nhập cho
hộ nông dân trồng lúa tại huyện Tân Hồng,
tỉnh Đồng Tháp, cần tập trung giải quyết các
vấn đề sau:
vi) LnBC (Chi phí cơ giới) có hệ số β7 = –0,350,
nếu các yếu tố khác không đổi khi chi phí
tăng lên 1% sẽ làm giảm thu nhập 0,350%,
điều này phù hợp với kỳ vọng dấu ban đầu,
tuy nhiên trái với kết luận nghiên cứu của
Đinh Phi Hổ và Phạm Ngọc Dưỡng (2010)
cho rằng chi phí cơ giới thể hiện trình độ
ứng dụng công nghệ máy móc của nông dân
sản xuất lúa ở Bến Tre cho nên chi phí cơ
giới có tác động làm tăng thu nhập. Có vấn
đề này là vì những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, hộ nông dân trồng lúa hiện nay
chủ yếu phải thuê máy thu hoạch, máy làm đất
như cày, xới, cải tạo đất bằng các hình thức
thanh toán tính theo công (1.000 m2) với giá
cả chủ yếu theo thông lệ địa phương, nghĩa là
với các loại máy móc này họ không tự trang bị
để giúp kiểm soát chi phí, giá một chiếc máy
gặt liên hợp khoảng trên 500 triệu đồng, do đó
nông hộ sẽ bị lệ thuộc vào giá thuê mướn này.
Thực trạng diện tích đất manh mún, nhỏ lẻ
nên nông hộ sản xuất một cách tự phát do đó
đòi hỏi hộ nông dân trồng lúa cần phải thực
hiện tinh thần hợp tác với nhau và hợp tác với
Nhà nước giúp giảm chi phí đầu tư, tăng chất
lượng lúa và nâng giá bán. Hộ nông dân nên
tham gia vào các mô hình sản xuất mới như
mô hình Hợp tác xã, tổ hợp tác ở địa phương,
đa dạng hóa nguồn thu nhập, hay sản xuất lúa
theo mô hình VIETGAP.
Thứ hai, vì diện tích đất nhỏ lẻ, manh mún
không có quy mô lớn nên việc cơ giới hóa máy
móc trong sản xuất gặp nhiều khó khăn, do đó
hộ nông dân không thể tận dụng được lợi thế
quy mô để giảm thiểu chi phí lao động, chi phí
thuê máy móc.
Cần giải quyết vấn đề nguồn lực lao động
gia đình. Yếu tố lực lượng lao động trong gia
đình đóng góp 14,54% đối với thu nhập của
hộ nông dân. Hộ nông dân cần phải: i) Đảm
bảo sức khỏe gia đình, duy trì ổn định nguồn
lao động hiện có. ii) Tăng cường áp dụng tiến
bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất nhằm hạn
chế sự phụ thuộc vào lao động con người, thay
thế bằng máy móc trong các khâu sản xuất lúa
từ làm đất, gieo xạ, chăm sóc đến thu hoạch.
vii) LnNSLUA (Năng suất lúa) có hệ số
β8 = 0,424. Trong trường hợp các yếu tố khác
không đổi, nếu năng suất lúa trên 1.000 m2
tăng lên 1% thì thu nhập trên 1.000 m2 sẽ
tăng lên 0,424%. Điều này phù hợp với kết
quả nghiên cứu của Nguyễn Tiến Dũng và
cộng sự (2014) cho rằng sản lượng lúa có
quan hệ tuyến tính dương khá mạnh đến
thu nhập của nông hộ ở Cần Thơ. Kết quả
này phù hợp với tình hình thực tế vì tình
hình sản xuất và cơ chế quản lý giá lúa hiện
tại của Nhà nước ở mức giá ấn định nông
dân không có cách nào khác nếu muốn tăng
lợi nhuận thì phải tăng sản lượng và đồng
nghĩa là tăng năng suất.
Chủ hộ phải nâng cao trình độ học vấn để
tiếp cận, áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản
xuất lúa bằng nhiều cách. Thực tế cho thấy
trong tiến trình hội nhập, nông sản sẽ đối mặt
với nhiều thách thức. Nhiều sản phẩm nông
nghiệp do quy mô nhỏ lẻ, năng suất lao động
thấp, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật hạn
chế nên giá thành cao. Nguy cơ này đặc biệt
nguy hiểm đối với mặt hàng gạo gắn liền với
đối tượng dễ bị tổn thương trong hội nhập là
nông dân.
76
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing
Số 64 – Tháng 8 Năm 2021
dùng, sau khi thu hoạch, họ bán sản phẩm trả
nợ vay, rồi lại vay để tiêu dùng tiếp. Vật tư sản
xuất họ thường mua theo cách ghi sổ nợ ở các
đại lý.
Đối với chi phí sinh học (chi phí phân bón,
thuốc bảo vệ thực vật, nước tưới, giống) và chi
phí cơ giới (chi phí thuê máy móc, thiết bị), hộ
nông dân cần phải tính toán hợp lý trong việc
chi tiêu các khoản đầu vào cho cây lúa, bởi vì
khi canh tác liên tục ba vụ lúa trong điều kiện
ruộng thường xuyên bị ngập nước sẽ phát sinh
bệnh hại, cây lúa còi cọc thì nông dân lại bón
thêm phân, sử dụng phân hóa học nhiều thì
kích thích sâu bệnh nên phải dùng nhiều thuốc
bảo vệ thực vật hơn, khi đó thiên địch có lợi bị
tiêu diệt, sâu rầy càng sinh sôi, lại càng dùng
thuốc nhiều hơn nữa. Đây là vòng luẩn quẩn
làm gia tăng gánh nặng chi phí sản xuất.
Để nâng cao năng suất lúa nông dân phải
nâng cao trình độ sản xuất, học hỏi và áp dụng
các phương pháp, kỹ thuật canh tác mới. Sản
xuất lúa phụ thuộc rất nhiều vào trình độ canh
tác của chủ hộ, do đó hộ nông dân cần phải
thực hiện hiệu quả năm nội dung kiến nghị
ở phần trình bày trên để nâng cao năng suất
lúa trong điều kiện mang lại hiệu quả kinh tế,
nhằm tránh tình trạng năng suất cao giá bán
thấp. Năng suất lúa đạt hiệu quả không đồng
nghĩa với sản lượng cao mà chất lượng kém,
vì năng suất cao phải có chất lượng cao thì
giá bán sẽ cao, ngược lại hộ nông dân chỉ chú
trọng tăng sản lượng để có năng suất cao trong
khi chất lượng gạo làm ra kém thì giá bán sẽ
thấp và hộ nông dân sẽ rơi vào trường hợp
được mùa mất giá.
Hộ nông dân cần phải nhận thức được rằng
vay vốn không phải là một gánh nặng “nợ” mà
phải biết tính toán sử dụng vốn vay một cách
hiệu quả. Thực tế cho thấy nhu cầu vay vốn của
hộ chiếm tỷ lệ 65,5%, trong đó mức vay bình
quân từ 587.000 đồng/1.000 m2 chiếm 42% tỷ
trọng so với mức vay bình quân là khoảng 2,5
triệu. Thực tế, các nông hộ chủ yếu vay để tiêu
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Abdulai, A., & CroleRees, A. (2001). Determinants of income diversification amongst rural households in
Southern Mali. Food policy, 26(4), 437-452.
Démurger, S., Fournier, M., & Yang, W. (2010). Rural households’ decisions towards income diversification:
Evidence from a township in northern China. China Economic Review, 21, S32-S44.
Đinh Phi Hổ & Phạm Ngọc Dưỡng (2010). Một số giải pháp nhằm nâng cao thu nhập của người trồng cà phê
ở khu vực Tây Nguyên. Tạp chí Phát triển Kinh tế, 8(250), 2-6.
Đinh Phi Hổ & Chiv Vann Dy (2010). Mô hình định lượng các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ nông
dân. Tạp chí Phát triển Kinh tế, 4(234), 32-36.
Đinh Phi Hổ & Nguyễn Hữu Trí (2010). Từ mô hình định lượng, nhận diện các yếu tố ảnh hưởng đến năng
suất lao động nông nghiệp ở tỉnh Bến Tre. Tạp chí Phát triển Kinh tế, 11(241), 29-33.
Đinh Phi Hổ (2011). Phương pháp nghiên cứu định lượng và những nghiên cứu thực tiễn trong kinh tế phát
triển – nông nghiệp. Nhà xuất bản Phương Đông.
Hồ Cao Việt (2009). Động thái kinh tế – xã hội hộ nông dân trồng lúa vùng đồng bằng sông Cửu Long trong thời
kỳ mới. Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
Huỳnh Thị Đan Xuân & Mai Văn Nam (2011). Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của các hộ chăn
nuôi gia cầm ở đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 17(17b), 87-96.
Huỳnh Trường Huy (2007). Phân tích tác động của khoa học kỹ thuật đến hiệu quả sản xuất lúa tại Cần Thơ
và Sóc Trăng. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường. Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 8(8),
47-56.
77
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing
Số 64 – Tháng 8 Năm 2021
De Janvry, A., & Sadoulet, E. (2001). Income strategies among rural households in Mexico: The role of offfarm activities. World development, 29(3), 467-480.
Lewis, W.A. (1954). Economic Development with Unlimited Supplies of Labour. Manchester school of
Economic and Social Studies, 5(22). 131-191.
Lê Khương Ninh (2014). Thực trạng nông hộ ở đồng bằng sông Cửu Long sau 7 năm thực hiện chính sách tam
nông (2006-2013). Nghiên cứu kinh tế, 11(438), 62-70.
Manjunatha, A. V., Anik, A. R., Speelman, S., & Nuppenau, E. A. (2013). Impact of Land Fragmentation, Farm
Size, Land Ownership and Crop Diversity on Profit and Efficiency of Irrigated Farms in India. Land Use
Policy, 31(3), 397–405.
Nguyễn Quốc Nghi, Trần Quế Anh & Bùi Văn Trịnh (2011). Các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia
đình ở khu vực nông thôn huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Tạp chí Khoa học trường Đại học Mở Thành
phố Hồ Chí Minh, 6(3), 66-72.
Nguyễn Đình Thọ (2013). Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh. NXB Lao động Xã hội.
Nguyễn Lan Duyên (2014). Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của nông hộ ở An Giang. Tạp chí Khoa học
Trường Đại học Cần Thơ, 3(2), 63-69.
Nguyễn Tiến Dũng & Lê Khương Ninh (2014). Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế trong sản xuất lúa
của nông hộ ở thành phố Cần Thơ. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 36(36), 116-125.
Oshima, H.T. (1993). Strategic Processes in Monsoon Asia’s Economic Development. Baltimore: The Johns
Hopkins University Press.
Park, S.S. (1992). Tăng trưởng và phát triển. Viện nghiên cứu quản lý Trung ương. Trung tâm thông tin – tư liệu.
Phạm Lê Thông (2010). Hiệu quả kinh tế của vụ lúa Đông Xuân ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Tạp chí Khoa
học Trường Đại học Cần Thơ, 18(18a), 267-276.
Phạm Tấn Hòa (2014). Phân tích thu nhập của hộ gia đình khu vực Đồng Tháp Mười, tỉnh Long An. Luận văn
Thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Mở, Thành phố Hồ Chí Minh.
Singh, I., & Strauss, J. (1986). Agricultural Household Models: Extensions, Applications, and Policy. Baltimore:
The Johns Hopkins University Press.
Adil, S. A., Badar, H., & Sher, T. (2004). Factors affecting gross income of small farmers in district JhangPakistan. Pakistan Journal of Life and Social Sciences, 2(2), 153-155.
Tổng Cục thống kê (2014). Niên giám thống kê năm 2014. Hà Nội.
Xiong, Z., & Niu, Y. (2010). Factors affecting the income of farmers. Asian Agricultural Research, 2(5), 18-26.
Yang, D. (2018). Education and Allocative Efficiency: Household Income Growth during Rural Reforms in
China. Journal of Development Economics, 74(1), 137-162.
78