You are on page 1of 206

GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

GIÁO TRÌNH
GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG
Tác giả: TS. Trần Thị Hương (Chủ biên)

LỜI MỞ ĐẦU

Giáo dục học là một môn khoa học nghiên cứu việc giáo dục con
người, cụ thể Giáo dục học nghiên cứu bản chất, qui luật của hoạt động giáo
dục, những con đường, cách thức giáo dục có hiệu quả để nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo con người đáp ứng yêu cầu xã hội trong những
giai đoạn lịch sử nhất định.

Trong trường Sư phạm, Giáo dục học là môn khoa học nghiệp vụ - môn
học "cốt lõi", đặc trưng, mang tính chất ứng dụng, có vai trò rất quan trọng
trong việc rèn luyện "tay nghề" cho người giáo viên tương lai. Giáo dục học
không chỉ cung cấp cho sinh viên hệ thống lý luận chung về dạy học - giáo
dục, mà còn rèn luyện tư duy và kỹ năng sư phạm, từ đó giúp sinh viên hình
thành, phát triển những tình cảm, đạo đức và lý tưởng nghề nghiệp.

Để hỗ trợ việc học tập của sinh viên, Bộ môn Giáo dục học, Khoa Tâm
lý - Giáo dục, Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh biên soạn bộ giáo trình môn
Giáo dục học theo chương trình mới được thực hiện chính thức ở trường từ
năm học 2007 - 2008. Bộ giáo trình Giáo dục học bao gồm hai cuốn: Giáo
trình "Giáo dục học đại cương" và giáo trình "Giáo dục học phổ thông".

* Nội dung giáo trình "Giáo dục học đại cương" gồm hai phần
chính:

Phần 1: Những vấn đề chung của Giáo dục học bao gồm 3
chương.

- Chương 1: Giáo dục học là một khoa học


- Chương 2: Vai trò của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách

- Chương 3: Mục đích, nhiệm vụ và các con đường giáo dục

Phần 2: Lý luận dạy học đại cương bao gồm 5 chương.

- Chương 4: Những vấn đề chung về hoạt động dạy học

- Chương 5: Tính qui luật và nguyên tắc dạy học

- Chương 6: Nội dung dạy học

- Chương 7: Phương pháp dạy học, phương tiện dạy học

- Chương 8: Hình thức tổ chức dạy học

Giáo trình được biên soạn trên cơ sở kế thừa những tài liệu đã có đồng
thời cập nhật, bổ sung những kiến thức mới, hiện đại đáp ứng với yêu cầu đổi
mới giáo dục phổ thông nói chung và đổi mới công tác đào tạo giáo viên nói
riêng ở các trường sư phạm. Mặc dù tập thể giảng viên Bộ môn Giáo dục học
đã có nhiều cố gắng trong việc biên soạn, nhưng giáo trình cũng không tránh
khỏi những khiếm khuyết. Vì vậy, chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp của các nhà sư phạm, giảng viên và sinh viên. Chúng tôi xin chân
thành cảm ơn!

Tập thể tác giả

Chương 1: GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC


I. GIÁO DỤC LÀ MỘT HIỆN TƯỢNG XÃ HỘI ĐẶC BIỆT
1. Giáo dục là nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội loài người

Ngay từ khi xuất hiện trên trái đất, để tồn tại con người phải tiến hành
hoạt động lao động. Trong lao động và trong cuộc sống hàng ngày con người
tiến hành nhận thức thế giới xung quanh, dần dần tích luỹ được một kho tàng
kinh nghiệm phong phú bao gồm các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cùng những giá
trị văn hóa xã hội như các chuẩn mực về đạo đức, niềm tin, các dạng hoạt
động giao lưu của con người trong xã hội… Để duy trì sự tồn tại và phát triển
của xã hội loài người, con người có nhu cầu trao đổi và truyền thụ lại những
kinh nghiệm đã tích lũy ấy cho nhau. Sự truyền thụ và tiếp thu hệ thống kinh
nghiệm đó chính là hiện tượng giáo dục.

Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt vì chỉ có trong xã hội loài
người giáo dục mới nảy sinh, phát triển và tồn tại vĩnh hằng. Lúc đầu giáo dục
xuất hiện như một hiện tượng tự phát, diễn ra theo lối quan sát, bắt chước
ngay trong quá trình lao động (săn bắt, hái lượm, chăn nuôi, trồng trọt…). Về
sau giáo dục trở thành một hoạt động tự giác có tổ chức, có mục đích, nội
dung và phương pháp… của con người. Xã hội loài người ngày càng biến
đổi, phát triển, giáo dục cũng phát triển và trở thành một hoạt động được tổ
chức chuyên biệt: có chương trình, kế hoạch, có nội dung; phương pháp khoa
học… Như vậy, giáo dục là hoạt động truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm lịch
sử - xã hội từ thế hệ trước cho thế hệ sau nhằm chuẩn bị cho thế hệ sau
tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội.

Một quy luật của sự tiến bộ xã hội là thế hệ trước phải truyền lại cho thế
hệ sau những hiểu biết, năng lực, phẩm chất cần thiết cho cuộc sống của mỗi
cá nhân, gia đình, cộng đồng. Thế hệ sau không chỉ lĩnh hội, kế thừa các tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo, giá trị… mà còn phải tìm tòi, sáng tạo và làm phong
phú hơn những giá trị đó. Nhờ lĩnh hội, tiếp thu, phát triển những kinh nghiệm
mà mỗi cá nhân hình thành và phát triển nhân cách của mình. Nhân cách mỗi
người được phát triển ngày càng đầy đủ, phong phú, đa dạng, sức mạnh về
tinh thần và thể chất của mỗi con người được phát huy sẽ tạo nên nguồn lực
cơ bản đáp ứng các yêu cầu phát triển xã hội trong những giai đoạn lịch sử
cụ thể. Như vậy, sự truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm được tích lũy
trong quá trình phát triển xã hội loài người chính là nét đặc trưng cơ bản của
giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội đặc biệt. Giáo dục là hoạt động
có ý thức, có mục đích của con người, là hệ thống các tác động nhằm làm
cho người học nắm được hệ thống các giá trị văn hoá của loài người và tổ
chức cho người học sáng tạo thêm những giá trị văn hoá đó. Giáo dục làm
nhiệm vụ chuyển giao những tinh hoa văn hoá, đạo đức, thẩm mỹ của nhân
loại cho thế hệ sau, là cơ sở giúp các thế hệ sau nối tiếp nhau sáng tạo, nâng
cao những gì mà nhân loại đã học được. Cho nên có thể coi giáo dục như
một kiểu di truyền xã hội - giáo dục thực hiện cơ chế di sản xã hội: là cơ chế
truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm đã được tích lũy trong quá trình phát triển
của xã hội loài người. Chúng ta có thể thấy nếu không có cơ chế di sản xã hội
- không có giáo dục thì loài người không tồn tại với tư cách loài người, không
có tiến bộ xã hội, không có học vấn, không có văn hoá, văn minh. Vì vậy, bất
kỳ xã hội nào muốn tồn tại và phát triển được đều phải tổ chức và thực hiện
hoạt động giáo dục liên tục đối với các thế hệ con người. Giáo dục là nhu cầu
tất yếu của xã hội loài người và sự xuất hiện hiện tượng giáo dục trong xã hội
là một tất yếu lịch sử.

Tóm lại, giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt chỉ có trong xã hội
loài người, giáo dục nảy sinh, biến đổi và phát triển cùng với sự nảy sinh, biến
đổi và phát triển của xã hội loài người. Bản chất của hiện tượng giáo dục là
sự truyền thụ và lãnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài
người, chức năng trọng yếu của giáo dục đối với xã hội là hình thành và phát
triển nhân cách con người. Với ý nghĩa đó giáo dục là nhu cầu không thể
thiếu được cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.

2. Các tính chất cơ bản của giáo dục

2.1. Tính phổ biến và vĩnh hằng

Giáo dục hiện diện trong tất cả các chế độ, các giai đoạn lịch sử của
nhân loại, không hoàn toàn lệ thuộc vào tính chất, cơ cấu xã hội như thế nào.
Trong bất kì một chế độ xã hội hay một giai đoạn lịch sử nào thì mục đích của
giáo dục vẫn là chăm sóc, dạy dỗ, đào tạo con người, là truyền thụ một cách
có ý thức cho thế hệ trẻ những kinh nghiệm xã hội, những giá trị văn hoá, tinh
thần của loài người và dân tộc, làm cho thế hệ trẻ có khả năng tham gia mọi
mặt vào cuộc sống xã hội. Vì vậy giáo dục tồn tại và phát triển mãi cùng với
sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.

2.2. Tính nhân văn


Giá trị nhân văn là những giá trị chung đảm bảo cho sự sống, tồn tại và
phát triển chung của mọi người, mọi dân tộc, quốc gia trên trái đất, là những
giá trị vì con người, cho con người, những giá trị vì sự sống hôm nay và ngày
mai. Giáo dục luôn phản ánh những giá trị nhân văn - giá trị văn hóa, đạo đức
thẩm mỹ chung nhất của nhân loại và những nét bản sắc văn hóa truyền
thống của từng dân tộc, từng quốc gia. Giáo dục luôn hướng con người đến
những cái hay, cái đẹp, cái tốt phát huy những yếu tố tích cực trong mỗi con
người nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách mỗi người.

2.3. Tính xã hội - lịch sử

Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, giáo dục có mối liên hệ có tính
quy luật với trình độ phát triển của xã hội, thể hiện tính qui định của xã hội đối
với giáo dục. Giáo dục nảy sinh trên cơ sở kinh tế - xã hội nhất định, do đó
tính chất, mục đích, nhiệm vụ, nội dung của một nền giáo dục bao giờ cũng
chịu sự quy định của các quá trình xã hội trong xã hội đó. Lịch sử phát triển
của xã hội loài người đã trải qua các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, do
đó các nền giáo dục tương ứng cũng khác nhau. Khi những quá trình xã hội
biến đổi bắt nguồn từ những biến đổi về trình độ sức sản xuất, tính chất của
quan hệ sản xuất xã hội kéo theo những biến đổi về chính trị - xã hội, cấu trúc
xã hội, hệ tư tưởng xã hội thì toàn bộ hệ thống giáo dục tương ứng với hình
thái kinh tế xã hội đó cũng phải biến đổi theo. Chẳng hạn, lịch sử loài người
đã phát triển qua 5 giai đoạn và có 5 nền giáo dục tương ứng với 5 giai đoạn
phát triển của xã hội, đó là nền giáo dục công xã nguyên thuỷ, nền giáo dục
chiếm hữu nô lệ, nền giáo dục phong kiến, nền giáo dục tư bản chủ nghĩa và
nền giáo dục xã hội chủ nghĩa.

Ngay trong một xã hội nhất định, ở mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể giáo dục
mang những tính chất và hình thái cụ thể khác nhau. Mục đích, nội dung,
phương pháp giáo dục, hình thức tổ chức giáo dục, chính sách giáo dục… tại
một giai đoạn phát triển của xã hội luôn chịu sự qui định bởi các điều kiện xã
hội ở giai đoạn xã hội ấy. Vì vậy trong quá trình phát triển của giáo dục luôn
diễn ra việc cải cách, đổi mới giáo dục nhằm làm cho nền giáo dục đáp ứng
ngày càng cao những yêu cầu phát triển của thực tiễn xã hội trong từng giai
đoan nhất định

Từ tính chất này của giáo dục có thể thấy giáo dục "không nhất thành
bất biến"; việc sao chép nguyên bản mô hình giáo dục của một nước này cho
một nước khác, giai đoạn này cho giai đoạn khác là một việc làm phản khoa
học. Những cải tiến, thay đổi, điều chỉnh, cải cách giáo dục qua từng thời kỳ
phát triển xã hội là một tất yếu khách quan.

2.4. Tính giai cấp

Trong xã hội có giai cấp, giáo dục bao giờ cũng mang tính giai cấp - đó
là một tính qui luật quan trọng trong việc xây dựng và phát triển giáo dục. Tính
giai cấp của giáo dục là sự phản ánh lợi ích của giai cấp đó trong các hoạt
động giáo dục, thể hiện giáo cho ai? Giáo dục nhằm mục đích gì? Giáo dục
cái gì? và giáo dục ở đâu?… Trong xã hội có giai cấp giáo dục là một phương
thức đấu tranh giai cấp, nhà trường là công cụ của chuyên chính giai cấp,
hoạt động giáo dục cũng như môi trường nhà trường là một trận địa đấu tranh
giai cấp. Tính giai cấp của giáo dục thể hiện trong toàn bộ hệ thống giáo dục
và trong toàn bộ hoạt động của nhà trường, từ mục đích giáo dục, nội dung
giáo dục đến phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục…

Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì giai cấp thống trị bao giờ cũng
dành độc quyền về giáo dục và dùng giáo dục làm công cụ, phương thức
truyền bá tư tưởng, duy trì vị trí xã hội, củng cố nền thống trị và sự bóc lột của
nó đối với nhân dân lao động. Do đó toàn bộ nền giáo dục từ mục đích, nội
dung, phương pháp giáo dục đến việc tổ chức các kiểu học, các loại trường
và việc tuyển chọn người học, người dạy… đều nhằm phục vụ cho mục đích
và quyền lợi của giai cấp thống trị xã hội. Nên giáo dục trong xã hội có giai
cấp đối kháng mang tính chất bất bình đẳng, phản dân chủ rõ rệt và tính chất
phát triển phiến diện trong việc đào tạo con người.

Nền giáo dục xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền giáo dục mang tính dân
chủ, tính nhân đạo sâu sắc, hướng vào việc phát triển toàn diện và hài hoà
nhân cách của mọi thành viên trong xã hội. Nhà trường của chúng ta là công
cụ của chuyên chính vô sản theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nên mục tiêu
chung của giáo dục là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
cho đất nước; tạo cơ hội và điều kiện cho mọi người đều được học tập, được
phát triển toàn diện về nhân cách và trở thành người công dân, người lao
động sáng tạo, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển đất nước giàu
mạnh.

3. Các chức năng xã hội cơ bản của giáo dục

Trong quá trình tồn tại và phát triển, giáo dục và xã hội có một mối quan
hệ ràng buộc, tất yếu, hữu cơ mang tính quy luật. Chính sự phát triển của mối
quan hệ đó làm cho xã hội và giáo dục đều phát triển. Đặc biệt trong thời đại
ngày nay giáo dục được xem không chỉ là sản phẩm của xã hội mà đã trở
thành nhân tố tích cực - động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài người.

3.1. Chức năng kinh tế - sản xuất

Xã hội loài người muốn tồn tại và phát triển thì phải có việc thế hệ đi
trước truyền lại những kinh nghiệm lịch sử - xã hội cho thế hệ đi sau để họ
tham gia vào đời sống xã hội, phát triển sản xuất, thoả mãn ngày càng cao
nhu cầu của con người. Công việc đó do giáo dục đảm nhận. Bất kỳ một
nước nào muốn phát triển kinh tế, sản xuất thì phải có đủ nhân lực và nhân
lực phải có chất lượng cao. Nhân lực là lực lượng lao động của xã hội, là đội
ngũ những người lao động đang làm việc trong tất cả các ngành nghề, các
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội… đảm bảo cho xã hội vận động và phát triển
đúng quy luật.

Chức năng kinh tế - sản xuất của giáo dục thể hiện tập trung nhất thông
qua việc đào tạo nhân lực. Cụ thể là giáo dục đào tạo những người lao động
có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và phẩm chất nhân cách cao, giáo dục tạo
ra sức lao động mới một cách khéo léo, tinh xảo, hiệu quả để vừa thay thế
sức lao động cũ bị mất đi, vừa tạo ra sức lao động mới cao hơn, góp phần
tăng năng suất lao động, đẩy mạnh sản xuất phát triển kinh tế - xã hội. Chính
giáo dục đã tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo ra lực lượng trực tiếp sản
xuất và quản lý xã hội với trình độ, năng lực cao. Giáo dục giúp cho mọi thành
viên trong xã hội các cơ hội được mở mang trí tuệ trau dồi nhân cách, phát
triển các sức mạnh tinh thần và thể chất để vươn lên làm chủ trong lao động,
trong cuộc sống cộng đồng…. Khi mọi thành viên của xã hội đều được tiếp
nhận một nền giáo dục đúng đắn thì xã hội thực sự được tái sản xuất sức lao
động với chất lượng cao hơn. Người lao động, do kết quả đào tạo của nhà
trường sẽ được phát triển hài hòa các năng lực chung và riêng và do đó xã
hội sẽ được tăng thêm sức lao động mới thay thế sức lao động cũ bị mất đi.
Sức lao động mới có chất lượng hơn sẽ đem lại năng suất lao động nhiều
hơn.

Đặc biệt trong xã hội hiện dại, khi trình độ phát triển của nền kinh tế là
do trình độ của con người được giáo dục và đào tạo ra quyết định thì vai trò
của giáo dục càng được khẳng định. Trong nền kinh tế thị trường, nguồn
nhân lực còn được gọi là nguồn vốn nhân lực (cùng với nguồn vốn tài
nguyên, nguồn vốn sản xuất và nguồn vốn khoa học - công nghệ) với tư cách
là một nhân tố tăng trưởng kinh tế. Trong các nguồn vốn thì vốn nhân lực
được coi quan trọng nhất bởi lẽ nó không đơn thuần là một nguồn vốn mà nó
còn giữ vai trò chủ thể đối với các nguồn vốn khác, nó quyết định khả năng
khai thác và hiệu quả sử dụng các nguồn vốn khác. Theo lí thuyết tăng
trưởng kinh tế hiện đại; tỉ lệ tăng GDP phụ thuộc vào tốc độ tăng của các yếu
tố đầu vào: nhân lực, vốn sản xuất, tài nguyên khoa học - công nghệ và hiệu
quả sử dụng chúng. Tuy nhiên những nghiên cứu của các nhà kinh tế học,
quản lý xã hội và quản lý kinh tế đã thừa nhận vốn và kỹ thuật chỉ góp một
phần nhỏ vào tăng trưởng kinh tế, còn phần rất quan trọng của "sản phẩm
thặng dư" gắn liền với chất lượng nguồn nhân lực (trình độ được giáo dục về
thể lực trí lực tâm lực). Vai trò của nhân lực ở chỗ, trước hết nó là một đầu
vào của tăng trưởng GDP, sau nữa nó còn có ý nghĩa quyết định đối với tỷ lệ
tăng của các nguồn lực khác.

Như vậy, với chức năng kinh tế - sản xuất giáo dục là động lực chính
thúc đẩy nền kinh tế phát triển và giáo dục phải đi trước sự phát triển kinh tế -
xã hội. Khi nền khoa học và công nghệ đạt đến trình độ phát triển cao, nhu
cầu xã hội đa dạng, người lao động phải là những người có trình độ học vấn
cao, có kiến thức rộng, có tay nghề vững, có tính năng động sáng tạo… thì
giáo dục phải đào tạo nhân lực một cách có hệ thống, chính qui ở trình độ
cao.

3.2. Chức năng chính trị - xã hội

Bên cạnh chức năng tái sản xuất sức lao động xã hội, giáo dục còn
mang chức năng chính trị -xã hội. Giáo dục không đứng ngoài chính trị mà nó
là phương thức tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách…
của một chế độ chính trị, giai cấp hay chính đảng cầm quyền. Giáo dục trực
tiếp truyền bá hệ tư tưởng chính trị, đường lối chính sách của giai cấp nắm
quyền và trực tiếp đào tạo chuẩn bị cho thế hệ trẻ tham gia vào cuộc sống,
bảo vệ chế độ chính trị, xã hội đương thời.

Xã hội nào cũng có cấu trúc của nó - đó là một tổng thể, một tập hợp
bao gồm các bộ phận, các yếu tố tạo thành xã hội như cộng đồng xã hội dân
tộc, giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội v.v… đã được hình thành một cách lịch
sử - tự nhiên, tất yếu khách quan trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất
định. Giáo dục tác động đến cấu trúc xã hội là tác động đến tập hợp các bộ
phận xã hội và tính chất của các mối quan hệ giữa các bộ phận đó. Trong xã
hội phong kiến, giáo dục góp phần không nhỏ trong việc khoét sâu thêm sự
phân chia giai cấp, xây dựng một cấu trúc xã hội mang tính chất giai cấp và
đẳng cấp rõ rệt. Những chính sách giáo dục phân biệt, bất bình đẳng trong xã
hội phong kiến đã duy trì vị trí đối kháng giữa các đẳng cấp và giai tầng xã
hội. Giáo dục xã hội chủ nghĩa góp phần làm cho cấu trúc xã hội trở nên
thuần nhất hơn bằng cách xoá bỏ sự phân chia giai cấp và làm cho các tầng
lớp xích lại gần nhau. Nền Giáo dục xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền giáo
dục "của dân, do dân, vì dân", nền giáo dục bình đẳng cho tất cả mọi người,
giáo dục góp phần nâng cao trình độ học vấn chung đã làm cho các tầng lớp
xã hội được xích lại gần nhau. Nhờ đó, trong xã hội ta các tầng lớp xã hội tuy
khác nhau về lợi ích xã hội, về tính chất và trình độ xã hội, về hoạt động và
phát triển xã hội, song cùng đoàn kết, hợp tác đấu tranh xây dựng xã hội
nhằm đạt tới mục tiêu chung: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh".

3.3. Chức năng tư tưởng - văn hóa

Giáo dục có tác dụng to lớn đến việc xây dựng một hệ tư tưởng chi
phối toàn xã hội, hình thành ở mỗi cá nhân thế giới quan, tư tưởng chính trị, ý
thức, tình cảm và hành vi đạo đức phù hợp với các chuẩn mực xã hội. “Nền
giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc,
khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng” (Điều 3, chương I, Luật giáo dục 2005). Nền giáo dục Việt Nam
phải phục vụ mục đích chính trị tốt đẹp và tư tưởng cao quý của Đảng Cộng
sản Việt Nam, hướng tới mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước giàu
mạnh.

Giáo dục là quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội
của các thế hệ, quá trình này giúp cho mỗi cá nhân tích lũy kiến thức, mở
mang trí tuệ, hình thành và nâng cao trình độ văn hóa, đạo đức thẩm mỹ cho
mỗi cá nhân và cho toàn xã hối. Một quốc gia giàu mạnh là một quốc gia có
nền kinh tế vững mạnh, khoa học công nghệ tiên tiến, chính trị bền vững và
trình độ dân trí cao. Giáo dục góp phần xây dựng và nâng cao trình độ dân trí
- trình độ văn hóa chung cho toàn xã hội. Nền giáo dục không chỉ hướng vào
việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực mà còn hướng vào quá trình phát hiện
và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.

Giáo dục không chỉ thực hiện sứ mệnh lịch sử là chuyển tải nền văn
hóa của thế hệ này cho thế hệ kia mà còn là phương thức đặc trưng cơ bản
để bảo tồn và phát triển nền văn hóa của dân tộc và nhân loại. Giáo dục bảo
tồn, phát triển nền văn hoá dân tộc và nhân loại thông qua các con đường
giáo dục, trong đó dạy học là con đường cơ bản nhất. Thông qua các con
đường giáo dục học sinh không chỉ biết gìn giữ mà còn có khả năng làm
phong phú, sáng tạo thêm những giá trị văn hóa, những loại hình văn hóa đa
dạng, đậm đà bản sắc dân tộc…
Tóm lại, thông qua ba chức năng xã hội, giáo dục đã góp phần vào sự
phát triển của xã hội, đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao về sự phát triển
của lực lượng sản xuất, quan hệ xã hội, ý thức xã hội… Đặc biệt, trong thời
đại ngày nay, giáo dục được quan niệm không chỉ là một bộ phận thuộc kiến
trúc thượng tầng, mà nó còn là một bộ phận thuộc hạ tầng cơ sở, “Giáo dục
không chỉ là sự phản ánh đơn thuần các lực lượng kinh tế và xã hội đang
hoạt động trong một xã hội. Nó còn là một phương tiện quan trọng để cấu
thành các lực lượng kinh tế - xã hội và văn hóa và quyết định chiều hướng
phát triển của các lực lượng này. Đến lượt mình động lực của các lực lượng
này lại tác động đến đặc điểm của giáo dục. Do vậy, có một mối quan hệ vòng
tròn trong mối quan hệ qua lại giữa giáo dục và một loạt các nhân tố xã hội và
con người khác”. (Raja Roy Singh). Thế giới coi giáo dục là động lực cơ bản,
là đòn bẩy mạnh mẽ, là điều kiện tiên quyết thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội. Đảng CSVN khẳng định phát triển giáo dục là “quốc sách hàng đầu” và
“đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển bền vững nhất”.

II. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA GIÁO
DỤC HỌC
Trước khi nghiên cứu bất kỳ một khoa học nào, muốn có một hướng đi
đúng đắn trong quá trình lĩnh hội hệ thống tri thức của khoa học đó, cần phải
nhận thức được đối tượng nghiên cứu, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
của khoa học đó.

1. Đối tượng nghiên cứu của Giáo dục học

1.1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của Giáo dục học

Giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội xuất hiện cùng với sự
xuất hiện của xã hội loài người. Giáo dục học với tư cách là một khoa học về
giáo dục con người lại được hình thành muộn hơn nhiều. Những công trình
nghiên cứu cho thấy Giáo dục học ra đời khi giáo dục đóng một vai trò rõ rệt
trong cuộc sống xã hội và xã hội có nhu cầu tổng kết những kinh nghiệm giáo
dục, đặc biệt là nhu cầu xây dựng những cơ quan chuyên biệt phụ trách việc
chuẩn bị một cách có kế hoạch cho thế hệ trẻ đi vào cuộc sống. Điều này đã
được chứng minh trong lịch sử phát triển của Giáo dục học:

- Thực tiễn tổ chức và tiến hành quá trình giáo dục đã làm nảy sinh
những kinh nghiệm giáo dục. Những kinh nghiệm giáo dục (đặc biệt trong lĩnh
vực giáo dục đạo đức, lao động, thẩm mỹ và giáo dục gia đình) đã được ghi
lại trong kho tàng văn hóa dân gian: ca dao, tục ngữ, truyền thuyết, truyện
kể…

- Từ thời kỳ cổ đại, những kinh nghiệm giáo dục đã bắt đầu được tổng
kết, song dưới dạng những tư tưởng giáo dục. Những tư tưởng giáo dục này
được hình thành với những tư tưởng triết học và được trình bày trong những
hệ thống triết học của Xôcrát (469 - 399 TCN), Đêmôcrít (460 - 370 TCN),
Aristốt (384 - 322 TCN), Khổng tử (551 - 479 TCN) v.v…

- Đến cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV, khi mầm mống của Chủ nghĩa tư
bản xuất hiện, nhân loại bước vào thời kỳ Phục hưng. Theo các nhà nghiên
cứu thì chính bước quá độ từ chế độ Phong kiến qua Chủ nghĩa tư bản đã
làm xuất hiện những hệ thống tri thức mới, trong đó có nhiều khoa học tách ra
khỏi Triết học, trong đó có Giáo dục học… Đầu thế kỷ thứ XVII Giáo dục học
với tư cách là một khoa học được tách ra từ Triết học và trở thành một khoa
học độc lập gắn liền với tên tuổi của J. A. Cômenxki (1592-1670) - nhà giáo
dục người Sec vĩ đại với tác phẩm lớn nhất của ông: “Phép giảng dạy vĩ đại”.

- Tiếp đó, nhiều nhà lịch sử tư tưởng giáo dục tiếp tục góp phần phát
triển Giáo dục học như là một khoa học độc lập: J. Lôccơ (1632 - 1701) - nhà
triết học Anh; các nhà giáo dục Pháp như: J.J. Rútxô (1712 - 1778), Đ.Điđơrô
(1713 - 1784), nhà giáo dục Thụy sĩ J.G.Pextalôgi (1746 - 1827), nhà giáo dục
Đức F. Đixtervec (1790 - 1866), nhà giáo dục Nga K.D. Usinxki (1824 - 1870)
… Đến giữa thế kỷ XIX với sự xuất hiện của học thuyết Mac - Lênin về giáo
dục thì Giáo dục học đã thực sự trở thành một khoa học về giáo dục con
người, có cơ sở phương pháp luận đúng đắn và vững chắc.

Như vậy, Giáo dục học đã được hình thành và phát triển qua một quá
trình lịch sử lâu dài: từ chỗ là một bộ phận của Triết học đến chỗ trở thành
một khoa học độc lập; từ chỗ dựa trên những tư tưởng giáo dục đến chỗ xây
dựng được hệ thống lý luận ngày càng phong phú, đa dạng; từ chỗ chưa có
đầy đủ cơ sở khoa học đến chỗ thực sự là một khoa học dựa trên phương
pháp luận Mácxít. Giáo dục học là một khoa học với đầy đủ 4 tiêu chí:

- Đối tượng nghiên cứu

- Nhiệm vụ nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu

- Hệ thống khái niệm, phạm trù, lý thuyết, giả thuyết khoa học…

1.2. Đối tượng nghiên cứu của Giáo dục học

Có rất nhiều khoa học nghiên cứu về con người, Giáo dục học nghiên
cứu lĩnh vực nào về con người? Giáo dục học là một khoa học về việc giáo
dục con người. Nó có đối tượng nghiên cứu là bản chất, qui luật của hoạt
động giáo dục con người, mục đích, mục tiêu giáo dục, nội dung, phương
pháp, phương tiện và các hình thức tổ chức giáo dục con người một cách
hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất
định.

Việc giáo dục con người diễn ra theo qui luật trong quá trình giáo dục
(có mở đầu, diễn biến, kết thúc) hay hoạt động giáo dục (có chủ thể, đối
tượng). Ở đây chúng ta tiếp cận giáo dục với tư cách là một hoạt động giáo
dục. Họat động giáo dục (HĐGD) - đối tượng nghiên cứu của Giáo dục học
được hiểu với hàm nghĩa rộng, bao gồm toàn bộ các tác động giáo dục được
định hướng theo mục đích xác định, được tổ chức một cách hợp lý, khoa học
nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người.

Giáo dục với tư cách là một hoạt động xã hội nên nó có những đặc
trưng chung như: tính định hướng, độ lâu về thời gian, là một dạng vận động
và phát triển liên tục, kế tiếp của các trạng thái, vận động do tác động của
những điều kiện bên trong và bên ngoài, tuân theo những qui luật khách quan
vốn có của nó và biểu hiện thông qua hoạt động của con người… Tuy nhiên
hoạt động giáo dục có những đặc trưng chủ yếu, riêng biệt:
- HĐGD là một hoạt động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch hợp lý,
khoa học hướng vào việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách con
người theo những mục đích và điều kiện do xã hội qui định ở những giai đoạn
lịch sử nhất định.

- HĐGD luôn có sự tương tác và phối hợp chặt chẽ, thống nhất giữa
hoạt động của nhà giáo dục (người dạy) và hoạt động của người được giáo
dục (người học), trong đó nhà giáo dục giữ vai trò chủ đạo và người được
giáo dục là chủ thể hoạt động độc lập sáng tạo. Mối quan hệ giữa nhà giáo
dục và người được giáo dục trong HĐGD là một mối quan hệ xã hội đặc biệt -
quan hệ giáo dục.

- HĐGD là một dạng vận động và phát triển liên tục của các hiện tượng,
các tình huống dạy học và giáo dục, các loại hình hoạt động, giao lưu của
người được giáo dục… được nhà giáo dục tổ chức, hướng dẫn thực hiện
theo những qui trình nhất định.

- HĐGD (theo nghĩa rộng) hay hoạt động sư phạm bao gồm hoạt động
dạy học và hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp). Các hoạt động này phản ánh
những qui luật chung của hoạt động giáo dục tổng thể, nhưng chúng cũng
phản ánh các qui luật đặc thù riêng của từng hoạt động cụ thể.

- HĐGD có mối quan hệ chặt chẽ với các hoạt động xã hội khác…

HĐGD tổng thể là một hệ thống lớn (vĩ mô) bao gồm những hệ thống
nhỏ (vi mô) là những hoạt động giáo dục bộ phận: hoạt động dạy học và hoạt
động giáo dục (theo nghĩa hẹp). Những hoạt động bộ phận này thống nhất với
nhau, có mối quan hệ mật thiết, hỗ trợ nhau và có thể thâm nhập vào nhau,
nhưng chúng không phải đồng nhất mà có tính độc lập tương đối của nó.
Hoạt động dạy học với chức năng trội là trau dồi học vấn, truyền thụ và lĩnh
hội hệ thống tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo nhận thức và thực hành cho
người học. Hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp) với chức năng trội là hình
thành, phát triển thế giới quan khoa học, những phẩm chất đạo đức, pháp
luật, lao động, thẩm mỹ, thái độ, tính cách, thói quen… cho người được giáo
dục. Hai hoạt động này gắn bó chặt chẽ với nhau: dạy học phải đi đến giáo
dục và giáo dục dựa trên cơ sở dạy học, thúc đẩy dạy học. Sau đây là sơ đồ
về cấu trúc tổng thể của hoạt động giáo dục:

Hoat dong giao duc tong the


(nghia rong)

Hoat dong day Hoat dong giao


hoc duc (nghia hep)
GD tri tue GD dao duc; GD
tham my; GD the
chat; GD lao
dong

Hoạt động giáo dục tổng thể cũng như mỗi hoạt động giáo dục bộ phận
đều là các hệ thống và được tạo thành bởi các nhân tố sau:

- Chủ thể giáo dục: Nhà giáo dục là chủ thể đóng vai trò chủ đạo trong
hoạt động giáo dục. Chủ thể giáo dục cũng chính là người được giáo dục.

- Khách thể giáo dục: Người được giáo dục vừa là đối tượng giáo dục
vừa là chủ thể tự giáo dục.

- Mục đích, nhiệm vụ giáo dục

Mục đích giáo dục là mẫu nhân cách con người mà giáo dục cần đào
tạo đáp ứng yêu cầu của xã hội trong từng giai đoạn phát triển của xã hội.
Đây là nhân tố hàng đầu của hoạt động giáo dục định hướng cho sự vận
động và phát triển của toàn bộ hoạt động giáo dục. Để thực hiện tốt mục đích
này, giáo dục phải thực hiện các nhiệm vụ giáo dục: giáo dục trí tuệ giáo dục
đạo đức, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động. Các nhiệm
vụ giáo dục có mối quan hệ biện chứng với nhau.

- Nội dung giáo dục


Nội dung giáo dục là hệ thống những kinh nghiệm xã hội được chọn lọc
trong kho tàng kinh nghiệm của nhân loại, tạo nên nội dung hoạt động thống
nhất cho nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm đạt được mục đích giáo
dục đã định.

- Phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức giáo dục

Phương pháp, phương tiện, hình tức tổ chức giáo dục là cách thức,
phương tiện, hình thức hoạt động của nhà giáo dục và người được giáo dục
nhằm thực hiện những nhiệm vụ giáo dục và đạt tới mục đích giáo dục đã
định.

- Kết quả giáo dục

Kết quả giáo dục là kết quả tổng hợp của toàn bộ hoạt động giáo dục
nhưng thể hiện tập trung nhất ở mức độ phát triển nhân cách của người được
giáo dục sau mỗi hoạt động giáo dục nhất định

- Tham gia vào hoạt động giáo dục còn có những điều kiện giáo dục
bên ngoài (môi trường KT-XH và KH-CN…), những điều kiện bên trong (môi
trường sư phạm).

Những nhân tố của HĐGD có mối quan hệ thống nhất, tác động biện
chứng với nhau đồng thời những nhân tố này còn có mối quan hệ mật thiết,
biện chứng với môi trường bên ngoài và môi trường bên trong. Khi một nhân
tố thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của các nhân tố khác.
Sơ đồ và cấu trúc thành tố HĐGD:

Muc dich, Nhiem vu


giao duc

Nha giao duc

Moi
Moi Noi dung PP, PT, truong
truong giao duc HTTCGD KT-CH
KT-XH

Nguoi duoc GD

KQGD

2. Nhiệm vụ nghiên cứu của Giáo dục học

- Nghiên cứu bản chất của giáo dục và mối quan hệ giữa giáo dục với
các bộ phận khác của xã hội.

- Nghiên cứu các qui luật của giáo dục.

- Nghiên cứu các nhân tố của HĐGD (mục đích, nội dung, phương
pháp, phương tiện, hình thức tổ chức giáo dục…). Từ đó tìm tòi con đường
nâng cao chất lượng và hiệu quả HĐGD.

Cùng với sự phát triển và đổi mới giáo dục, nhiều vấn đề mới trong
thực tiễn nảy sinh, đòi hỏi sự đáp ứng của Giáo dục học trong giai đoạn mới.
Vì vậy nhiệm vụ của Giáo dục học còn thể hiện ở việc giải quyết những vấn
đề sau:

- Nghiên cứu và hoàn thiện những vấn đề thuộc phạm trù phương pháp
luận khoa học giáo dục.
- Nghiên cứu góp phần giải quyết mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu vừa phải
phát triển nhanh qui mô giáo dục, vừa phải nâng cao chất lượng trong khi khả
năng và điều kiện đáp ứng yêu cầu còn nhiều hạn chế.

- Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn giáo dục trong nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục trong những điều kiện mới…

- Các vấn đề trong hệ thống giáo dục quốc dân, trong quản lý giáo dục
và đào tạo…

3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Giáo dục học

3.1. Phương pháp luận nghiên cứu Giáo dục học

Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là lý thuyết về phương pháp
nhận thức khoa học. Phương pháp luận nghiên cứu Giáo dục học là lý thuyết
về phương pháp nghiên cứu các hiện tượng giáo dục nhằm phát hiện ra bản
chất và qui luật của chúng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Những
quan điểm phương pháp luận còn được gọi là quan điểm tiếp cận đối tượng
nghiên cứu hay phương pháp tiếp cận. Những quan điểm phương pháp luận
nghiên cứu Giáo dục học là "kim chỉ nam" định hướng, dẫn dắt nhà nghiên
cứu trên con đường tìm tòi, sáng tạo. Trong nghiên cứu Giáo dục học có
những quan điểm phương pháp luận sau đây:

- Quan điểm hệ thống - cấu trúc

Quan điểm này đòi hỏi trong quá trình nghiên cứu phải xem xét đối
tượng một cách toàn diện, nhiều mặt, nhiều chiều, nhiều mối quan hệ khác
nhau và trong trạng thái vận động, phát triển của chúng, từ đó tìm ra bản chất
và qui luật vận động của đối tượng nghiên cứu.

- Quan điểm lịch sử - lôgic

Quan điểm này đòi hỏi trong quá trình nghiên cứu cần tìm hiểu, phát
hiện nguồn gốc nảy sinh, phát triển của đối tượng trong những thời gian và
không gian cụ thể với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, từ đó phát hiện bản
chất, chất lượng mới và quy luật phát triển tất yếu của đối tượng nghiên cứu
- Quan điểm thực tiễn

Quan điểm này đòi hỏi trong quá trình nghiên cứu phải xuất phát từ
thực tiễn giáo dục, do yêu cầu của thực tiễn giáo dục đề ra. Đối tượng nghiên
cứu của Giáo dục học phải là một trong những vấn đề cấp thiết của thực tiễn
khách quan mà khi giải quyết vấn đề đó thì góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục.

3.2. Các phương pháp nghiên cứu Giáo dục học

3.2.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận

Đây là nhóm phương pháp nhận thức khoa học giáo dục bằng con
đường suy luận dựa trên các tài liệu lý thuyết đã được thu thập từ các nguồn
khác nhau như sách báo, tạp chí, tài liệu tham khảo, văn bản, nghị quyết,
công trình nghiên cứu của người khác v.v…Các tài liệu được phân tích, tổng
hợp, phân loại, hệ thống hóa để tạo thành những tri thức, lý thuyết giáo dục
mới làm cơ sở khoa học cho vấn đề nghiên cứu.

3.2.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

Đây là các phương pháp xem xét, phân tích đối tượng khoa học một
cách trực tiếp trong thực tiễn.

a. Phương pháp quan sát sư phạm

- Quan sát sư phạm là phương pháp thu thập thông tin về đối tượng
nghiên cứu bằng cách tri giác có chủ định đối tượng và các yếu tố liên quan
đến đối tượng. Quan sát với tư cách là phương pháp nghiên cứu khoa học là
một hoạt động có mục đích, có kế hoạch và hệ thống của nhà nghiên cứu
nhằm thu thập những tài liệu về thực tiễn giáo dục làm cơ sở cho việc đánh
giá thực trạng và đề xuất giải pháp tương ứng hoặc kiểm chứng cho lý thuyết,
giả thuyết..

- Theo mối quan hệ giữa đối tượng quan sát và chủ thể quan sát thì có
các dạng quan sát trực tiếp, quan sát gián tiếp, quan sát công khai, kín đáo.
Theo dấu hiệu về thời gian thì có quan sát lâu dài, quan sát thời gian ngắn.
Theo nhiệm vụ thì có quan sát phát hiện, quan sát kiểm nghiệm…

- Những yêu cầu của phương pháp quan sát:

+ Xác định rõ ràng mục đích, nhiệm vụ và đối tượng quan sát

+ Xây dựng kế hoạch, tiến trình quan sát

+ Chuẩn bị chu đáo về mọi mặt: lý luận, thực tiễn, phương pháp,
phương tiện quan sát…

+ Tiến hành quan sát cẩn thận và có hệ thống theo kế hoạch

+ Ghi chép kết quả quan sát khách quan, chính xác

+ Kiểm tra lại kết quả quan sát.

b. Phương pháp điều tra giáo dục

* Điều tra bằng trò chuyện (phỏng vấn)

Điều tra bằng trò chuyên là phương pháp thu thập thông tin về đối
tượng nghiên cứu qua trao đổi ý kiến trực tiếp với những người được nghiên
cứu.

Các loại trò chuyện: trò chuyên trực tiếp; trò chuyện gián tiếp; trò
chuyện thẳng; trò chuyện đường vòng; trò chuyện bổ sung; trò chuyện đi sâu;
trò chuyện phát hiện; trò chuyện kiểm nghiệm.

Muốn trò chuyện có kết quả cần đảm bảo các yêu cầu:

- Xác định rõ ràng mục đích, yêu cầu cuộc trò chuyện

- Thiết kế hệ thống câu hỏi cơ bản phù hợp với mục đích trò chuyện

- Tìm hiểu người đối thoại để lựa chọn cách trò chuyện phù hợp

- Biết cách điều khiển câu chuyện và đúng mục đích

- Tạo không khí tự nhiên, thân mật, cởi mở trong khi trò chuyện

* Điều tra bằng phiếu câu hỏi (ankét)


Điều tra bằng phiếu hỏi (ankét) là phương pháp sử dụng một hệ thống
câu hỏi nhất loạt đặt ra cho một số lượng lớn đối tượng được nghiên cứu
nhằm thu thập ý kiến của họ về vấn đề nghiên cứu dưới hình thức viết. Căn
cứ vào mục đích, tính chất của việc điều tra, người ta có thể sử dụng nhiều
dạng câu hỏi khác nhau:

- Câu hỏi “đóng” là những câu hỏi có kèm theo phương án trả lời.
Người được trưng cầu ý kiến có thể lựa chọn một số phương án phù hợp với
nhận thức của mình.

- Câu hỏi "mở" là những câu hỏi không có sẵn phương án trả lời và
người được trưng cầu ý kiến tự trả lời theo yêu cầu của người hỏi.

Điều tra bằng ankét có thể phân loại như sau:

- Điều tra thăm dò (câu hỏi rộng và nông) nhằm thu nhập tài liệu ở mức
sơ bộ về đối tượng.

- Điều tra sâu (câu hỏi hẹp và đi sâu) nhằm khai thác sâu sắc một vài
khía cạnh nào đó của đối tượng nghiên cứu.

- Điều tra bổ sung nhằm thu nhập tài liệu bổ sung cho các phương
pháp khác.

Những yêu cầu của phương pháp điều tra bằng ankét:

- Xác định rõ mục đích và nội dung điều tra

Xây dựng hệ thống câu hỏi rõ ràng, chính xác, đảm bảo cho mọi người
hiểu dễ dàng và như nhau, có nhiều loại câu hỏi có thể bổ sung và kiểm tra
lẫn nhau.

- Hướng dẫn trả lời rõ ràng

- Phải điều tra nhiều lần và đảm bảo số lượng người được hỏi đủ lớn.

- Sau khi thu thập thông tin phải xử lý thông tin chính xác khách quan.

c. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm


Phương pháp tổng kết kinh nghiệm là phương pháp phân tích, đánh
giá, khái quát hóa và hệ thống hóa những kinh nghiệm trong thực tiễn giáo
dục nhằm rút ra những những bài học bổ ích, góp phần nâng cao hiệu quả
giáo dục.

Tiêu chuẩn lựa chọn kinh nghiệm giáo dục:

- Kinh nghiệm phải mới

- Kinh nghiệm có chất lượng và hiệu quả giáo dục cao

- Phù hợp với những thành tựu khoa học giáo dục tiên tiến

- Có tính ổn định

- Có khả năng ứng dụng được

Các bước tổng kết kinh nghiệm:

- Chọn điển hình (phát hiện, xác định đúng đối tượng nghiên cứu)

- Mô tả lại sự kiện một cách khách quan dựa trên nhiều phương pháp
khác nhau như: quan sát, trò chuyện, điều tra…

- Khôi phục lại sự kiện đã xảy ra bằng mô hình lý thuyết: phân tích sự
kiện, hệ thống hoá các sự kiện, rút ra các khái quát lý luận.

- Những lý luận tổng kết từ kinh nghiệm cần được phổ biến rộng rãi và
ứng dụng vào thực tế.

d. Phương pháp thực nghiệm sư phạm

Thực nghiệm sư phạm là phương pháp nghiên cứu một cách chủ động,
có hệ thống một hiện tượng giáo dục nhằm xác định mối quan hệ giữa tác
động giáo dục với hiện tượng giáo dục được nghiên cứu trong những điều
kiện đã được khống chế.

Nét đặc trưng của phương pháp này là nhà nghiên cứu chủ động tạo ra
điều kiện nghiên cứu và khi cần thiết có thể lặp lại nhiều lần điều kiện đó.

Có 2 loại thực nghiệm: thực nghiệm tự nhiên và thực nghiệm trong


phòng thí nghiệm.
Các bước tiến hành thực nghiệm:

- Xác định vấn đề thực nghiệm với mục đích rõ ràng

- Nêu giả thuyết và xây dựng đề cương thực nghiệm

- Tổ chức thực nghiệm: chọn mẫu thực nghiệm; bồi dưỡng cộng tác
viên; theo dõi thực nghiệm: quan sát, ghi chép, đo đạc…

- Xử lý kết quả thực nghiệm, rút ra kết luận khoa học.

Lưu ý: Khi tiến hành thực nghiệm sư phạm không được làm đảo lộn
hoạt động bình thường của quá trình sư phạm và chỉ được tiến hành trong
những điều kiện và tiêu chuẩn nghiêm ngặt với luận cứ khoa học; Tiến hành
thực nghiệm ở nhiều địa bàn, trên các đối tượng khác nhau và thực nghiệm
nhiều lần trên một đối tượng; Sử dụng các phương pháp hỗ trợ: quan sát điều
tra, thống kê toán học…

e. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động

Đây là phương pháp phân tích các sản phẩm hoạt động của đối tượng
nghiên cứu (giáo viên, học sinh, cán bộ quản lý) nhằm thu thập những thông
tin cần thiết về cá nhân hay tập thể

Những yêu cầu:

- Thu thập nhiều tài liệu khác nhau, phân loại, hệ thống hóa tài liệu với
những dấu hiệu cơ bản, đặc thù…

- Kết hợp với những tài liệu lưu trữ…

- Dựng lại quá trình hoạt động đưa đến sản phẩm (làm như thế nào?)

- Tìm hiểu đầy đủ các mặt khác của người tạo ra sản phẩm.

g. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia

Là phương pháp thu thập thông tin khoa học, nhận xét đánh giá một
sản phẩm khoa học bằng cách sử dụng trí tuệ một đội ngũ chuyên gia có trình
độ cao về lĩnh vực nghiên cứu.
Tiến hành lấy ý kiến chuyên gia bằng cách: trực tiếp phỏng vấn xin ý
kiến; Thông qua thư từ; Thông qua hội thảo, tranh luận, đánh giá, nghiệm thu
công trình khoa học…

Yêu cầu:

- Chọn đúng chuyên gia có trình độ chuyên môn cao về lĩnh vực đang
nghiên cứu, có phẩm chất trung thực trong khoa học.

- Xây dựng hệ thống các chuẩn đánh giá, các tiêu chí cụ thể, dễ hiểu,
tường minh để nhận xét, đánh giá theo các chuẩn ấy.

- Hạn chế thấp nhất ảnh hưởng qua lại của các chuyên gia về ý kiến,
quan điểm…

3.2.3. Nhóm phương pháp toán học

Sử dụng các lý thuyết Toán học, các phương pháp lôgic Toán học để
xây dựng các lý thuyết giáo dục hoặc để xác định thông số liên quan tới đối
tượng nghiên cứu của một đề tài nhằm tìm ra qui luật vận động của đối
tượng.

Sử dụng Toán thống kê để xử lý các tài liệu thu thập từ các phương
pháp khác nhau.

III. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA GIÁO DỤC HỌC


1. Giáo dục

1. 1. Giáo dục (theo nghĩa rộng)

Giáo dục (theo nghĩa rộng) là hoạt động giáo dục tổng thể hình thành
và phát triển nhân cách được tố chức một cách có mục đích, có kế hoạch
nhằm phát triển tối đa những tiềm năng (sức mạnh thể chất và tinh thần) của
con người. Như vậy giáo dục là một bộ phận của quá trình xã hội hình thành
cá nhân con người, bao gồm những nhân tố tác động có mục đích, có tổ chức
của xã hội, do những người có kinh nghiệm, có chuyên môn gọi là nhà giáo
dục, nhà sư phạm đảm nhận. Nơi tổ chức hoạt động giáo dục một cách có hệ
thống có kế hoạch chặt chẽ nhất là nhà trường. Với nghĩa rộng như trên, giáo
dục là một hoạt động tổng thế bao gồm giáo dục trí tuệ, giáo dục đạo đức,
giáo dục thể chất, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục lao động do nhà trường phụ
trách trước xã hội.

1.2. Giáo dục (nghĩa hẹp)

Giáo dục (nghĩa hẹp) là một bộ phận của hoạt động giáo dục (nghĩa
rộng), là hoạt động giáo dục nhằm hình thành thế giới quan khoa học, tư
tưởng chính trị đạo đức, thấm mỹ, lao động, phát triển thể lực, những hành vi
và thói quen ứng xử đúng đắn của cá nhân trong các mối quan hệ xã hội.
Theo nghĩa này giáo dục (nghĩa hẹp) bao gồm các bộ phận: đức dục, mỹ dục,
thể dục, giáo dục lao động.

2. Dạy học

Dạy học là một bộ phận của giáo dục (nghĩa rộng), là hoạt động tương
tác, phối hợp thống nhất giữa hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học
của người học nhằm truyền thụ và lĩnh hội hệ thống tri thức khoa học, kỹ
năng, kỹ xảo phát triển năng lực nhận thức và hành động, trên cơ sở đó hình
thành thế giới quan khoa học, phẩm chất đạo đức nói riêng và nhân cách nói
chung cho người học…

3. Giáo dưỡng

Giáo dưỡng được hiểu là quá trình người học nắm vững hệ thống tri
thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo tương ứng, hình thành phương pháp nhận
thức và thực hành sáng tạo. Nói cách khác, giáo dưỡng chính là quá trình bồi
dưỡng học vấn cho người học (học vấn là kết quả của việc nắm vững những
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tương ứng…).

- Giáo dưỡng có thể được thực hiện thông qua con đường dạy học
trong nhà trường hoặc có thể thông qua con đường tự học, tự bồi dưỡng của
cá nhân hoặc kết hợp cả hai con đường

4. Tự học
Tự học là hoạt động tự giác, có mục đích của cá nhân, là tự mình động
não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp cùng các
phẩm chất, động cơ, tình cảm… để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó
của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình. Cốt lõi của học là tự
học. Tự học là nói đến nội lực của người học, chất lượng của học tuỳ thuộc
chủ yếu vào nội lực. Dù điều kiện tác động từ bên ngoài đối với hoạt động học
tốt đến mấy, nhưng nếu con người không có đủ nỗ lực bản thân để tự học, tự
biến đổi mình đến mức cần thiết thì không thể nào đạt được mục tiêu mong
muốn.

5. Tự giáo dục

Tự giáo dục là một bộ phận của giáo dục, là hoạt động tự giác có ý
thức, có mục đích của cá nhân nhằm tự hoàn thiện những phẩm chất nhân
cách của bản thân cho phù hợp với yêu cầu chuẩn mực của xã hội. Bản chất
của tự giáo dục là quá trình ý chí. Trong tự giáo dục có sự nỗ lực tích cực hóa
một hoạt động nào đó và song song với quá trình đó là việc kìm hãm những
ước muốn không hợp lý. Tự giáo dục là những biểu hiện có ý thức của sự tự
phát triển, của sự tự vận động cá nhân, là gia tốc của sự phát triển cá nhân,
nó thúc đẩy sự hình thành những phẩm chất quan trọng và cần thiết nhất đối
với cá nhân.

6. Giáo dục hướng nghiệp

Giáo dục hướng nghiệp là một hệ thống biện pháp tác động của gia
đình, nhà trường, xã hội, trong đó nhà trường đóng vai trò chủ đạo nhằm giáo
dục học sinh trong việc chọn nghề, giúp học sinh tự quyết định nghề nghiệp
tương lai trên cơ sở phân tích khoa học về năng lực, hứng thú của bản thân
và nhu cầu nhân lực của các ngành sản xuất trong xã hội. Mục tiêu chung của
giáo dục hướng nghiệp nhằm phát triển và bồi dưỡng phẩm chất nhân cách
nghề nghiệp; giúp học sinh hiểu mình, hiểu yêu cầu của nghề; định hướng
cho học sinh đi vào những lĩnh vực mà xã hội có yêu cầu. Nhiệm vụ của giáo
dục hướng nghiệp bao gồm định hướng nghề, tư vấn nghề và tuyển chọn
nghề.
7. Giáo dục cộng đồng

Theo UNESCO thì giáo dục cộng đồng được xem như là một tư tưởng,
một cách làm mới mẻ nhằm xây dựng mối quan hệ bền vững, gắn bó giữa
giáo dục với các quá trình xã hội, với đời sống và lợi ích của cộng đồng. Đó là
cách thức tốt và có hiệu quả nhằm tạo ra những điều kiện, cơ hội để thực
hiện sự công bằng xã hội, tạo lập nền tảng cho sự phát triển và sự ổn định
của xã hội. Giáo dục cộng đồng được hiểu là giáo dục cho tất cả mọi người,
là áp dụng cho mọi người trong xã hội. Nói một cách cụ thể hơn giáo dục
cộng đồng là quá trình biến đổi các loại trường học thành các trung tâm giáo
dục và câu lạc bộ văn hóa cho mọi lứa tuổi. Nếu thực hiện thành công đường
lối giáo dục cộng đồng, xã hội sẽ là một trường học khổng lồ, trong đó giáo
dục trở thành một động lực phát triển trực tiếp và quan trọng nhất của toàn xã
hội.

8. Giáo dục thường xuyên

Giáo dục thường xuyên được hiểu là một hệ thống giáo dục nhằm mục
đích tạo cơ hội giáo dục liên tục, thường xuyên, thoả mãn nhu cầu học tập
suốt đời của mọi thành viên trong xã hội, giúp họ thích ứng với sự tiến bộ
nhanh chóng về khoa học - kỹ thuật, tham gia tích cực vào quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.

9. Công nghệ giáo dục

Sự tác động mạnh mẽ, sâu sắc và thường xuyên của khoa học kỹ thuật
vào nền sản xuất đại công nghiệp làm nảy sinh một khái niệm khoa học
chuyên biệt: công nghệ. Đối với nền sản xuất ra của cải vật chất công nghệ là
một khoa học chuyên nghiên cứu cách thức xử lý, chế tác, biến đổi trạng thái,
tính chất, hình dáng của nguyên vật liệu (hay bán thành phẩm) thành sản
phẩm. Nó phát hiện ra các qui luật cơ, lý, hóa có thể vận dụng vào các quá
trình sản xuất ra của cải vật chất nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng
suất.
Một trong những xu thế của thời đại mới là đầu tư công nghệ phát triển.
Khi đầu tư trong lĩnh vực giáo dục nói chung và dạy học nói riêng, xu thế
chung là đầu tư theo chiều sâu. Việc đầu tư dạy học theo chiều sâu thực chất
là đầu tư công nghệ dạy học. Theo nghĩa hẹp, công nghệ dạy học là việc sử
dụng những phát minh, những sản phẩm công nghiệp hiện đại về thông tin và
các phương tiện kỹ thuật vào dạy học. Theo nghĩa rộng, công nghệ giáo dục
là khoa học về giáo dục, nó xác lập các nguyên tắc hợp lý của công tác dạy
học và những điều kiện thuận lợi nhất để tiến hành quá trình đào tạo cũng
như xác lập các phương pháp và phương tiện có kết quả nhất để đạt mục
đích đào tạo đề ra đồng thời tiết kiệm được sức lực của thầy và trò
(UNESCO).

IV. CẤU TRÚC CỦA GIÁO DỤC HỌC VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA GIÁO DỤC
HỌC VỚI CÁC KHOA HỌC KHÁC
1. Hệ thống các khoa học về giáo dục

Giáo dục học bao gồm nhiều ngành khoa học cụ thể tạo thành một hệ
thống các khoa học giáo dục:

1.1. Giáo dục học đại cương

- Những vấn đề chung của giáo dục học

- Tổ chức hoạt động dạy học

- Tổ chức hoạt động giáo dục

- Tổ chức quản lý nhà trường

- Lịch sử giáo dục…

1.2. Giáo dục học chuyên ngành

- Lý luận và phương pháp dạy học các môn học

- Giáo dục học đặt biệt

- Giáo dục học mầm non


- Giáo dục học phổ thông

- Giáo dục học nghề nghiệp

- Giáo dục học đại học

- Giáo dục học quân sự

- Xã hội học giáo dục

- Kinh tế học giáo dục…

2. Mối quan hệ của Giáo dục học với các khoa học khác

2.1. Triết học:

Là khoa học về các qui luật chung nhất của sự phát triển tự nhiên, xã
hội và tư duy con người, là nền tảng cho sự phát triển Giáo dục học. Triết học
cung cấp các quan điểm phương pháp luận và các qui luật cho việc nghiên
cứu sự vận động và phát triển của giáo dục.

2.2. Xã hội học:

Nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường xã hội đối với con người và
quan hệ con người, vạch ra những đặc điểm phát triển kinh tế - văn hóa, xã
hội và ảnh hưởng của chúng đến sự hình thành nhân cách con người. Từ đó
giúp Giáo dục học giải quyết những vấn đề về mục đích, nội dung giáo dục.

2.3. Sinh lý học thần kinh:

Muốn nghiên cứu về sự phát triển của con người, Giáo dục học phải
dựa vào các phát hiện, các kiến thức của sinh lý học thần kinh như: sự phát
triển của hệ thống thần kinh, các đặc điểm của hệ thần kinh…

2.4. Tâm lý học lứa tuổi, Tâm lý học sư phạm, Tâm lý học xã hội

Có vai trò rất quan trọng đối với việc nghiên cứu và phát triển của Giáo
dục học.

2.5. Lý thuyết thông tin, điều khiển học, tin học

Ngày càng được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi trong Giáo dục học.
V. ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC HỌC TRONC
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ,
sự hình thành nền kinh tế tri thức, xã hội thông tin và xu thế toàn cầu hóa…
đã tác động mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có
giáo dục. Xu thế phát triển giáo dục thế giới đã được UNESCO khái quát
thành 21 điểm với các tư tưởng chủ yếu:

- Giáo dục thường xuyên phải là điểm chủ đạo của mọi chính sách giáo
dục; giáo dục suốt đời, giáo dục bằng mọi cách, giáo dục cho mọi người, xây
dựng một xã hội học tập. Giáo dục phải làm cho mỗi người trở thành người
dạy và người kiến tạo nên sự tiến bộ văn hóa của bản thân.

- Giáo dục không chỉ dạy cho con người có học vấn mà phải thực hành,
thực nghiệm để có tay nghề, vào đời không bỡ ngỡ. Phát triển giáo dục gắn
liền với phát triển kinh tế - xã hội, chú ý giáo dục hướng nghiệp để có thể lập
thân, lập nghiệp

- Giáo dục trẻ em trước tuổi đến trường phải là một mục tiêu lớn trong
chiến lược giáo dục. Giáo dục phổ thông cơ sở phải là mục tiêu hàng đầu của
chính sách giáo dục.

- Giáo viên phải được đào tạo để trở thành những nhà giáo dục hơn là
những chuyên gia truyền đạt kiến thức. Việc giảng dạy phải thích nghi với
người học chứ không phải áp đặt máy móc buộc người học tuân theo.

Các nước trên thế giới đang tiến hành cải cách giáo dục theo các
hướng lớn sau:

- Tăng cường giáo dục nhân văn

- Công nghệ - thông tin

- Đào tạo những con người vừa có tri thức, vừa có kỹ năng, năng lực
thực sự đóng góp vào sự phát triển xã hội.
- Hiện đại hóa các phương pháp day học - giáo dục

Nền giáo dục Việt Nam cũng đang trên con đường đổi mới nhằm đáp
ứng với những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước. Các giải pháp chiến lược phát triển giáo dục trong giai đoạn hiện nay
là:

- Tăng cường các nguồn lực cho giáo dục - đào tạo.

- Xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người dạy - người học.

- Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo và tăng cường cơ
sở vật chất các trường học.

- Đổi mới công tác quản lý giáo dục.

- Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục.

2. Các định hướng phát triển giáo dục trên thế giới và trong nước ở trên
đã vạch ra cho Giáo dục học những nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu:

- Nghiên cứu và hoàn thiện các vấn đề về phương pháp luận khoa học
giáo dục

- Nghiên cứu hoàn thiện các cơ sở lý luận và thực tiễn của giáo dục
trong giai đoạn mới, xác định mối quan hệ biện chứng giữa giáo dục và sự
phát triển kinh tế - xã hội.

- Nghiên cứu các vấn đề về đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp
dạy học - giáo dục đáp ứng với sự phát triển thực tiễn

- Nghiên cứu ứng dụng các thành tựu của khoa học - công nghệ vào
quá trình dạy học - giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục…

Tóm lại, tất cả các vấn đề trong Giáo dục học đều cần phải được
nghiên cứu, phát triển và hoàn thiện theo hướng nâng cao tính khoa học, tính
thực tiễn, làm cho Giáo dục học góp phần thúc đẩy mạnh mẽ nến giáo dục
quốc dân đáp ứng với đòi hỏi của sự phát triển kinh tế - xã hội.

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 1


1. Giải thích giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt

2. Phân tích các tính chất và chức năng xã hội cơ bản của giáo dục. Từ
đó nêu lên vai trò của giáo dục đối với sự phát triển xã hội hiện đại.

3. Giải thích đối tượng nghiên cứu của Giáo dục học

4. Phân biệt các khái niệm cơ bản của Giáo dục học: Giáo dục (nghĩa
rộng) - Dạy học - Giáo dục (nghĩa hẹp) và mối quan hệ của chúng.

5. Phác thảo các phương pháp nghiên cứu Giáo dục học để tiến hành
một đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục cụ thể.

6. Trình bày các định hướng nghiên cứu và phát triển Giáo dục học
trong giai đoạn hiện nay.

Chương 2: VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
I. KHÁI NIỆM VỀ NHÂN CÁCH VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
1. Khái niệm về nhân cách

Theo Tâm lý học, nhân cách là tổ hợp các thái độ, thuộc tính riêng
trong quan hệ hành động của từng người với thế giới tự nhiên, thế giới đồ vật
do con người sáng tạo ra, với xã hội và với bản thân. (Phạm Minh Hạc - Một
số vấn đề giáo dục và khoa học giáo dục - 1986). Nhân cách là bộ mặt tâm lý
- đạo đức của mỗi người, đó là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất tâm lý qui
định giá trị xã hội và hành vi xã hội của người đó.

Nhân cách của con người được phân tích trên ba bình diện khác nhau
và được đánh giá ở ba mức độ khác nhau:

- Mức độ bên trong cá nhân, nhân cách con người được thể hiện ở
dạng cá tính, ở sự khác biệt của người này với những người khác. Ở bình
diện này, nhân cách bộc lộ trong tính không đồng nhất với mọi người, với cái
chung, giá trị của nhân cách là ở tính tính cực của nó trong việc khắc phục
những sự hạn chế của hoàn cảnh và sự hạn chế tự nhiên của mình.
- Mức độ giữa các cá nhân, nhân cách được thể hiện trong mối quan
hệ mà nó tham gia trong quá trình hoạt động cộng đồng. Giá trị của nhân
cách được thể hiện trong các hành vi, cử chỉ xã hội của nó.

- Mức độ cao nhất, nhân cách dường như vượt ra ngoài khuôn khổ của
cá tính và ra ngoài khuôn khổ của những mối quan hệ thực sự với các cá
nhân khác. Ở đây nhân cách được xem xét như là một chủ thể hoạt động
đang thực hiện một cách tích cực, có chủ định hay không chủ định, những
biến đổi trong những người khác (có liên quan, quen biết hoặc không liên
quan, không quen biết). Giá trị của nhân cách thể hiện ở những tác động mà
nhân cách này gây ra đối với những biến đổi của các nhân cách khác. Tất cả
những biến đổi cơ bản mà cá nhân tạo ra được ở những cá nhân khác, đặc
biệt là ở bản thân thình như là "một người khác" đã tạo thành nét đặc trưng
đầy đủ và có giá trị nhất của cá nhân ấy như là một nhân cách.

Như vậy nhân cách con người là mức độ phù hợp giữa thang giá trị và
thước đo giá trị của người ấy với thang giá trị và thước đo giá trị của xã hội,
độ phù hợp càng cao thì nhân cách càng lớn.

Theo Giáo dục học, nhân cách bao gồm tất cả các nét, các mặt, các
phẩm chất có ý nghĩa xã hội trong một con người. Nhân cách là toàn bộ các
đặc điểm tâm sinh lý của cá nhân được xã hội đánh giá tạo nên giá trị của cá
nhân đó. Tùy theo trình độ phát triển của xã hội mà các đặc điểm của cá nhân
được nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Những đặc điểm của cá nhân cũng
được đánh giá khác nhau tương ứng với những vai trò khác nhau của họ.

- Theo quan niệm truyền thống nhân cách là sự thống nhất giữa phẩm
chất và năng lực của cá nhân bao gồm các phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo
đức, tác phong và các năng lực, sở trường, năng khiếu. Người có nhân cách
phải là người thống nhất được hai mặt phẩm chất và năng lực, tức là thống
nhất giữa mặt đức và tài.

- Theo cách tiếp cận giá trị thì cốt lõi của nhân cách là hệ thống định
hướng giá trị mà mỗi cá nhân lựa chọn cho mình, bao gồm:
+ Các giá trị tư tưởng: lý tưởng, niềm tin…

+ Các giá trị đạo đức: lương tâm, trách nhiệm, lòng nhân ái lòng trung
thực…

+ Các giá trị nhân văn: học vấn, nghề nghiệp, tình yêu, thời trang, tài
năng…

Như chúng ta biết, giá trị là tất cả những gì có ý nghĩa đối với xã hội,
tập thể và cá nhân, phản ánh những mối quan hệ chủ thể - khách thể, được
đánh giá xuất phát từ những điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể và phụ thuộc vào
trình độ phát triển của nhân cách. Khi đã được nhận thức, đánh giá và chọn
lựa, giá trị trở thành một trong những động lực thúc đẩy con người đi theo
một xu hướng nhất định. Trong thực tế, định hướng giá trị phản ánh nhu cầu,
nguyện vọng của con người, phản ánh cái mà họ yêu thích và cho là quý giá.
Định hướng giá trị chỉ đạo hoạt động của con người, nó có ý nghĩa rất quan
trọng, biết được định hướng giá trị của con người thì biết được thái độ, hành
vi của họ. Nắm được định hướng giá trị con người sẽ dễ dàng hơn trong việc
đối nhân xử thế và tổ chức, điều khiển hoạt động cộng đồng. Định hướng giá
trị được hình thành và củng cố bởi năng lực, nhận thức, kinh nghiệm sống
của từng cá nhân. Quá trình hình thành định hướng giá trị rất phức tạp, gắn
liền với việc giải quyết các mâu thuẫn như mâu thuẫn giữa các động cơ khác
nhau, mâu thuẫn giữa ý thức nghĩa vụ và lòng ham muốn, mâu thuẫn giữa
kích thích thực dụng với hành vi đạo đức.

2. Khái niệm về sự phát triển nhân cách

Con người khi mới sinh ra chưa có nhân cách. Nhân cách chỉ hình
thành và phát triển trong quá trình con người sống, hoạt động và giao lưu
trong đời sống xã hội. Sự phát triển nhân cách là quá trình tăng trưởng, tích
lũy, hoàn thiện về thể chất, tâm lý và xã hội của cá nhân.

- Sự phát triển về mặt thể chất: biểu hiện ở những biến đổi về chiều
cao, trọng lượng, cơ bắp, sự hoàn thiện các giác quan và sự phối hợp vận
động cơ thể.
- Sự phát triển về mặt tâm lý: thể hiện ở những biến đổi của các quá
trình nhận thức, tình cảm, ý chí… và ở sự hình thành những thuộc tính tâm lý
mới của cá nhân.

- Sự phát triển về mặt xã hội: thể hiện ở những biến đổi trong thái độ cư
xử với người xung quanh, ở sự tham gia tích cực vào các quan hệ và hoạt
động xã hội.

Quá trình hình thành và phát triển nhân cách chịu tác động của nhiều
yếu tố như bẩm sinh - di truyền, môi trường, giáo dục và hoạt động cá nhân.

II. VAI TRÒ CỦA DI TRUYỀN, MÔI TRƯỜNG VÀ HOẠT ĐỘNG CÁ NHÂN
ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
1. Vai trò của di truyền đối với sự phát triển nhân cách

Di truyền là sự tái tạo lại ở thế hệ sau những thuộc tính sinh học giống
với thế hệ trước. Các thuộc tính sinh học được di truyền bao gồm cấu tạo giải
phẫu, sinh lý cơ thể, những đặc điểm như màu mắt, màu tóc, vóc dáng, thể
tạng, các giác quan, tư chất, một số đặc điểm của hệ thần kinh…

Di truyền tạo tiền đề vật chất cho sự phát triển nhân cách. Điều đó có
nghĩa là nếu cá thể không tiếp nhận được vật chất di truyền của người thì sẽ
không có được tiền đề vật chất cho sự phát triển nhân cách. Một cơ thể lành
mạnh, các giác quan đầy đủ, hệ thần kinh bình thường sẽ tạo tiền đề thuận
lợi cho sự phát triển nhân cách.

Các đặc tính cơ thể có ảnh hưởng đến tốc độ, mức độ và tính chất của
việc hình thành các kỹ năng, kỹ xảo, năng lực của cá nhân chứ không quyết
định sẵn cho sự phát triển nhân cách con người. Những tư chất di truyền định
hướng cho con người vào các lĩnh vực hoạt động rộng rãi chứ không vào một
lĩnh vực hoạt động cụ thể và cũng không qui định trước năng lực cụ thể của
cá nhân. Nhưng để tư chất biến thành khả năng hiện thực còn tùy thuộc vào
hoàn cảnh sống, vào sự giáo dục và nhất là tùy thuộc vào ý chí rèn luyện của
cá nhân.
Hoàn cảnh, giáo dục, hoạt động cá nhân…

Tư chất --------------------------------------------------------------> Năng lực

Trong công tác giáo dục chúng ta cần chú ý đúng mức vai trò của di
truyền trong sự phát triển nhân cách để tránh những thái độ sau đây:

- Không quan tâm đến những đặc điểm tư chất của học sinh và đòi hỏi
mọi học sinh phải có khả năng hoàn thành những nhiệm vụ học tập như nhau
hoặc không chú ý phát huy những tư chất thuận lợi ở một số học sinh cũng
như không tìm cách hỗ trợ cho những học sinh không có tư chất thuận lợi.

- Đề cao ảnh hưởng của yếu tố di truyền đến mức cho nhân cách là
bẩm sinh và phủ nhận khả năng biến đổi bản chất con người

- Hạ thấp vai trò của giáo dục qua việc tổ chức giáo dục theo mức độ
phát triển đã bị qui định bởi yếu tố đi truyền.

2. Vai trò của môi trường đối với sự phát triển nhân cách

Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự
nhiên và xã hội cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của cá nhân. Môi
trường gồm hai loại: môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.

- Vai trò của môi trường tự nhiên

Những đặc điểm về địa hình, thời tiết, khí hậu tạo điều kiện rèn luyện
hình thành những phẩm chất nhân cách của cá nhân. Thông thường tính
cách của con người liên quan đến đặc điểm địa lý của khu vực sinh sống. Tuy
nhiên môi trường tự nhiên không ảnh hưởng trực tiếp hay có ý nghĩa quyết
định mà chỉ có ảnh hưởng gián tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân
cách. Môi trường tự nhiên ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách nhưng
không mạnh mẽ và quan trọng bằng ảnh hưởng của môi trường xã hội.

- Vai trò của môi trường xã hội

Môi trường xã hội gồm có: môi trường xã hội lớn và môi trường xã hội
nhỏ.
MTXH lon
VAN HOA
KINH
TE

KHU PHỐ

CONG CA NHAN GIA


KH-CN DONG DINH

NHA TRUONG

MTXH nho
CHINH TRI

Môi trường xã hội có ảnh hưởng quan trọng đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách. Trước hết sự hình thành và phát triển nhân cách chỉ có
thể thực hiện trong một môi trường xã hội, cá nhân không sống trong môi
trường xã hội sẽ không hình thành phát triển nhân cách người. Điều đó được
chứng minh qua những trường hợp trẻ em bị lưu lạc trong rừng tuy được thú
vật nuôi dưỡng nhưng chỉ có thể sống theo kiểu động vật chứ không thể phát
triển nhân cách cho dù sau đó đã được con người đưa về nuôi dạy trong môi
trường xã hội. Mặt khác, môi trường xã hội qui định mục đích, nội dung và
chiều hướng của sự phát triển nhân cách, nó giúp con người hình thành nhân
cách nhờ giao tiếp và hoạt động xã hội.

* Cơ chế tác động của môi trường xã hội đến cá nhân:

- Môi trường xã hội lớn không tác động trực tiếp đến cá nhân mà tác
động gián tiếp thông qua môi trường xã hội nhỏ. Môi trường xã hội lớn
thường khó thay đổi nhưng nếu nó thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi tính chất
và các mối quan hệ của môi trường xã hội nhỏ.

- Môi trường xã hội nhỏ ảnh hưởng trực tiếp và tác động thường xuyên,
mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Mỗi cá nhân tham gia
cùng lúc vào nhiều môi trường nhỏ. Tính chất của các môi trường nhỏ này chi
phối rõ rệt đến cá nhân. Tuy nhiên môi trường xã hội nhỏ có thể bị biến đổi dễ
dàng bởi sự thay đổi của môi trường xã hội lớn và bởi hoạt động của các
thành viên.

- Tác động của môi trường xã hội không hoàn toàn trực tiếp chi phối
đến cá nhân mà phải thông qua "bộ lọc cá nhân" (những kinh nghiệm, vốn
sống và những định hướng giá trị đã hình thành trong mỗi cá nhân). Điều này
góp phần lý giải hiện tượng những người cùng sống trong một khu vực, một
cộng đồng xã hội nhưng có nhiều sự khác biệt về nhân cách.

Tre em
Bo
MTXH lon MTXH nho loc Ca
ca nhan
nhan
Nguoi truong thanh

Hoat dong
nghe nghiep

Đối với trẻ em, vì chưa tham gia các hoạt động xã hội, nghề nghiệp nên
môi trường xã hội nhỏ (gia đình, nhà trường, nhóm bạn) có ảnh hưởng quan
trọng; còn đối với người trưởng thành, hoạt động nghề nghiệp tác động đến
cá nhân thông qua bộ lọc cá nhân mạnh hơn tác động của môi trường nhỏ.
Ngoài ra cá nhân không chỉ là đối tượng nhận sự tác động của môi trường mà
còn là chủ thể tham gia biến cải môi trường như câu nói của Marx: "Hoàn
cảnh sáng tạo ra con người trong chừng mực con người sáng tạo ra hoàn
cảnh".

Như vậy, môi trường không đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển
nhân cách, mức độ ảnh hưởng của môi trường tùy thuộc vào lập trường,
quan điểm, thái độ, xu hướng, năng lực của cá nhân. Trong công tác giáo
dục, điều quan trọng là giúp cá nhân hình thành khả năng tự giáo dục theo hệ
thống định hướng giá trị phù hợp với các chuẩn mực xã hội, để họ biết chọn
lựa học hỏi những điều tích cực lành mạnh và biết loại bỏ tránh xa những
điều xấu xa tiêu cực trong môi trường sống.

3. Vai trò của hoạt động cá nhân đối với sự phát triển nhân cách

* Hoạt động cá nhân

Hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người (chủ thể) và
thế giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới, cả về phía con
người. Cuộc sống của con người là một chuỗi hoạt động, bởi lẽ hoạt đọng là
phương thức tồn tại của con người, là nhân tố quyết định trực tiếp sự hình
thành và phát triển nhân cách. Hoạt động giúp cá nhân trải nghiệm và thu
thập vốn sống để trưởng thành, phát triển; hoạt động giúp con người thích
nghi được với hoàn cảnh và tự khẳng định nhân cách của mình. Thông qua
hai quá trình chủ thể hóa và khách thể hoá, nhân cách con người bộc lộ và
hình thành. Thông qua hoạt động, con người dần dần hoàn chỉnh bản thân,
hình thành những nét nhân cách thích hợp với yêu cầu của hoạt động và của
xã hội. Quá trình phát triển nhân cách của trẻ em thường diễn ra trong các
hoạt động cơ bản như sau: hoạt động giao tiếp, hoạt động vui chơi, hoạt động
học tập, hoạt động lao động và hoạt động xã hội. Những hoạt động cơ bản
này cũng là những dạng hoạt động chủ đạo của từng thời kỳ lứa tuổi, chi phối
mạnh mẽ đến sự phát triển nhân cách ở lứa tuổi đó.

* Giao tiếp là một dạng hoạt động

Giao tiếp là sự tác động qua lại giữa người với người trong xã hội nhằm
thỏa mãn nhu cầu về người khác. Giao tiếp là nhu cầu không thể thiếu của sự
phát triển nhân cách. Quá trình giao tiếp giúp cá nhân gia nhập vào các quan
hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội, chuẩn mực xã hội, từ đó tạo nên bản
chất con người, làm cho nhân cách phát triển. Trẻ em khi mới sinh ra đã có
nhu cầu giao tiếp với người lớn (người mẹ), càng lớn lên nhu cầu giao tiếp
càng phát triển và mở rộng dần. Nhờ sự giao tiếp này trẻ mới có thể tồn tại và
phát triển tâm lý ổn định. Những trẻ mồ côi được các tổ chức xã hội nuôi
dưỡng thường phát triển tâm lý chậm chạp do mức độ giao tiếp của trẻ với
người lớn ít hơn so với những trẻ em được nuôi dưỡng trong gia đình bình
thường. Đối với trẻ em các quan hệ giao tiếp với bạn bè và người lớn gần gũi
có uy tín như cha mẹ, thầy cô ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển nhân cách.

Như vậy, hoạt động và giao tiếp cá nhân là yếu tố trực tiếp quyết định
đối với sự hình thành và phát triển nhân cách. Con người luôn sống trong một
môi trường, nhưng môi trường không quyết định nhân cách của họ mà chính
những hoạt động và các mối quan hệ giao tiếp của cá nhân trong môi trường
đó mới chi phối đến đời sống tâm lý và hình thành những tính cách của cá
nhân. Điều này được minh họa trong câu ngạn ngữ Pháp: "Anh hãy cho tôi
biết, bạn của anh là ai, tôi sẽ cho anh biết, anh là người như thế nào" hoặc
tục ngữ Việt Nam "Đi một ngày đàng học một sàng khôn"… Sự phát triển
nhân cách của trẻ được thúc đẩy mạnh mẽ bởi tính chất và mức độ giao tiếp
của trẻ với người lớn và bởi các hoạt động chủ đạo tương ứng với mỗi giai
đoạn lứa tuổi.

III. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
NHÂN CÁCH
Giáo dục là hoạt động hình thành toàn vẹn nhân cách được tổ chức
một cách có mục đích, có kế hoạch và hệ thống thông qua hai hoạt động dạy
học và giáo dục để làm phát triển các sức mạnh thể chất và tinh thần của con
người, giúp họ tham gia có hiệu quả vào đời sống xã hội.

1. Vai trò chủ đạo của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách

Theo thuyết sinh học hay thuyết tiền định: Sự phát triển nhân cách do
yếu tố di truyền quyết định, môi trường và giáo dục không có vai trò gì trong
sự phát triển nhân cách. Sai lầm cơ bản của thuyết này là tuyệt đối hóa ảnh
hưởng của yếu tố di truyền.

Theo thuyết duy cảm: Môi trường là yếu tố quyết định sự phát triển
nhân cách, giáo dục là "vạn năng". Thuyết này cho rằng trẻ em như "tờ giấy
trắng", môi trường và giáo dục tác động như thế nào thì trẻ sẽ phát triển như
thế ấy. Sai lầm cơ bản của thuyết này là tuyệt đối hóa ảnh hưởng của yếu tố
môi trường và giáo dục.

Theo quan điểm Mácxít: Giáo dục chỉ là một trong những yếu tố ảnh
hưởng đến sự phát triển nhân cách, giáo dục không có tính "vạn năng",
không có tính quyết định mà chỉ đóng vai trò chủ đạo đối với sự phát triển
nhân cách. Vai trò chủ đạo của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách thể
hiện:

1.1. Giáo dục định hướng và tổ chức dẫn dắt quá trình hình thành,
phát triển nhân cách của cá nhân

- Xác định mục đích giáo dục cho cả hệ thống, cho từng bậc học, cấp
học, trường học và từng hoạt động giáo dục cụ thể.

- Xây dựng nội dung, chương trình, kế hoạch dạy học và giáo dục, lựa
chọn phương pháp, phương tiện và hình thức giáo dục đáp ứng mục đích
giáo dục, phù hợp với nội dung và đối tượng, điều kiện giáo dục cụ thể.

- Tổ chức các hoạt động, giao lưu

- Đánh giá, điều chỉnh nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục…

Sự định hướng của giáo dục không chỉ thích ứng với những yêu cầu
của xã hội hiện tại mà còn phải thích hợp với yêu cầu phát triển của tương lai
để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Vì vậy, giáo dục phải đi trước, đón đầu sự
phát triển. Muốn đi trước, đón đầu sự phát triển, giáo dục căn cứ trên những
dự báo về gia tốc phát triển của xã hội, thiết kế nên mô hình nhân cách của
con người thời đại với hệ thống định hướng giá trị tương ứng.

1.2. Giáo dục can thiệp, điều chỉnh các yếu tố khác nhằm tạo sự
thuận lợi cho quá trình phát triển nhân cách

Các yếu tố bẩm sinh - di truyền, môi trường và hoạt động cá nhân đều
có ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách ở các mức độ khác nhau, tuy
nhiên yếu tố giáo dục lại có thể tác động đến các yếu tố này để tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho sự phát triển nhân cách.
* Đốí với di truyền

Giáo dục tạo điều kiện thuận lợi để những mầm mống của con người
có trong chương trình gène được phát triển. Chẳng hạn, trẻ được di truyền
cấu tạo cột sống, bàn tay và thanh quản… nhưng nếu không được giáo dục
thì trẻ khó có thể đi thẳng đứng bằng hai chân, biết sử dụng công cụ hay phát
triển ngôn ngữ…

- Giáo dục rèn luyện, thúc đẩy sự hoàn thiện của các giác quan và vận
động cơ thể.

- Giáo dục phát hiện những tư chất của cá nhân và tạo điều kiện để
phát huy năng khiếu thành năng lực cụ thể.

- Giáo dục tìm cách khắc phục những khiếm khuyết cơ thể để hạn chế
những khó khăn của người khuyết tật trong sự phát triển nhân cách (phục hồi
chức năng hoặc hướng dẫn sử dụng công cụ hỗ trợ). Ngoài ra giáo dục còn
góp phần tăng cường nhận thức trong xã hội về trách nhiệm của cộng đồng
đối với người khuyết tật và tổ chức cho toàn xã hội chia sẻ, hỗ trợ người
khuyết tật vượt qua khó khăn và sự bất hạnh của mình.

* Đối với môi trường

- Giáo dục tác động đến môi trường tự nhiên qua việc trang bị kiến thức
và ý thức bảo vệ môi trường của con người, khắc phục được sự mất cân
bằng sinh thái, làm cho môi trường tự nhiên trở nên trong lành, đẹp đẽ hơn.

- Giáo dục tác động đến môi trường xã hội lớn thông qua các chức
năng kinh tế - xã hội, chức năng chính trị - xã hội, chức năng tư tưởng - văn
hóa của giáo dục.

- Giáo dục còn làm thay đổi tính chất của môi trường xã hội nhỏ như
gia đình, nhà trường và các nhóm bạn bè, khu phố…, để các môi trường nhỏ
tạo nên những tác động lành mạnh, tích cực đến sự phát triển nhân cách con
người. Hiện nay công tác giáo dục xã hội đang chú tâm xây dựng gia đình là
một mái ấm dân chủ, bình đẳng, ấm no, hạnh phúc; nhà trường là một môi
trường thân thiện đối với học sinh, cộng đồng dân cư là khu vực văn hóa của
một xã hội văn minh tiến bộ.

* Đối với hoạt động cá nhân

- Giáo dục tổ chức nhiều loại hình hoạt động giao tiếp bổ ích, lành
mạnh nhằm phát huy những phẩm chất và năng lực cá nhân (sân chơi ở các
nhà và hóa cho mọi lứa tuổi, các câu lạc bộ xây dựng gia đình hạnh phúc tại
địa phương,…); xây dựng những động cơ đúng đắn của cá nhân khi tham gia
hoạt động, giao tiếp đồng thời hướng dẫn cá nhân lựa chọn các hoạt động và
giao tiếp phù hợp với khả năng của bản thân. Đặc biệt công tác giáo dục luôn
xây dựng các mối quan hệ giao tiếp tích cực giữa thầy trò, giữa bạn bè với
nhau đồng thời tổ chức và định hướng cho trẻ tham gia vào các hoạt động
chủ đạo ở từng giai đoạn lứa tuổi để thúc đẩy sự phát triển nhân cách.

- Giáo dục tạo tiền đề cho tự giáo dục của cá nhân. Tự giáo dục thể
hiện tính chủ thể của cá nhân khi con người đáp ứng hoặc tự vận động nhằm
chuyển hóa các yêu cầu của giáo dục thành phẩm chất và năng lực của bản
thân. Nếu cá nhân thiếu khả năng tự giáo dục thì các phẩm chất và năng lực
của họ sẽ hình thành ở mức độ thấp hoặc thậm chí không thể hình thành.
Trình độ, khả năng tự giáo dục của cá nhân phần lớn bắt nguồn từ sự định
hướng của giáo dục. Giáo dục đúng đắn và đầy đủ sẽ giúp con người hình
thành khả năng tự giáo dục, đề kháng trước những tác động tiêu cực của xã
hội để phát triển nhân cách mạnh mẽ. “Chỉ có những người biết tự giáo dục
mới là những người thực sự có giáo dục”. (Bennet - Anh)

2. Điều kiện để giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự phát triển
nhân cách

Như vậy thông qua các tác động đón đầu sự phát triển, giáo dục không
chỉ thúc đẩy sự phát triển nhân cách cá nhân mà còn thúc đẩy sự phát triển
của xã hội. Tuy nhiên giáo dục không phải là vạn năng, không thể một mình
quyết định toàn bộ tiến trình phát triển nhân cách. Giáo dục chỉ là một trong
những yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển nhân cách thông qua
những tác động có tính chủ đạo. Vì vậy, để giáo dục thực sự đóng vai trò chủ
đạo đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cần có các điều kiện sau:

- Công tác dự báo về xu hướng phát triển của xã hội phải đưa ra những
định hướng đúng đắn để giáo dục thực hiện tốt chức năng đón đầu sự phát
triển:

- Các yếu tố trong quá trình giáo dục phải thống nhất với nhau, nhà
giáo dục phải giữ vai trò chủ đạo, người được giáo dục phải thê hiện vai trò
chủ động.

- Phải có sự kết hợp chặt chẽ ba lực lượng giáo dục: gia đình nhà
trường và xã hội, trong đó nhà trường đóng vai trò chủ đạo. Những yếu kém
của giáo dục thường có nguyên nhân từ sự thiếu phối hớp đồng bộ giữa ba
lực lượng giáo dục này.

- Nhà giáo dục phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của người được
giáo dục.

- Nhà giáo dục phải có phẩm chất và năng lực để làm tốt công tác giáo
dục

IV. GIÁO DỤC VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH THEO LỨA
TUỔI
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự hình thành và phát triển nhân
cách của con người diễn ra có tính quy luật theo từng lứa tuổi. Mỗi giai đoạn
phát triển đều có những đặc điểm riêng, đặc biệt là đều có những bước nhảy
vọt về chất và tạo tiền đề cho sự phát triển ở các giai đoạn tiếp theo. Giáo dục
bao giờ cũng hướng vào con người cụ thể với những đặc điểm tâm lý riêng
về lứa tuổi, giới tính… và những đặc trưng độc đáo trong nhân cách. Do đó,
giáo dục phải xuất phát từ những đặc điểm tâm sinh lý của đối tượng để đề ra
các nội dung, cách thức tác động tương ứng và phù hợp.

1. Giáo dục và sự phát triển nhân cách trẻ hài nhi (0 - 1 tuổi)

* Sự phát triển nhân cách


Đứa trẻ khi mới sinh ra chỉ là một sinh vật mang mầm mống người,
nhân cách chưa hình thành. Thông qua sự giao lưu với những người lớn trực
tiếp chăm sóc (cha mẹ, ông bà, mẹ nuôi…) trẻ hài nhi mới học được cách hòa
nhập với cuộc sống xã hội ở ngoài bụng mẹ. Sự phát triển của trẻ hài nhi chủ
yếu là về mặt cơ thể được thể hiện ở những tiến bộ trong các hoạt động của
các giác quan và của vận động (nhìn, nghe, ngửi, nếm, lật, ngồi, bò, đứng, đi,
cầm nắm…). Chiều hướng phát triển của các giác quan và vận động cơ thể
trong giai đoạn này cũng nói lên tính chất và mức độ phát triển về trí tuệ và
tinh thần của đứa trẻ.

* Nội dung giáo dục

- Thúc đẩy nhanh sự hoàn thiện của các giác quan và vận động cơ thể.

- Cho trẻ tiếp xúc, làm quen dần với thế giới đồ vật để dần dần hình
thành thái độ và phương thức tác động vào đồ vật sau này.

* Cách thức giáo dục

Người lớn trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ thông qua sự
giao lưu tiếp xúc và đáp ứng các nhu cầu của trẻ. Tuỳ theo cách thức chăm
sóc, nuôi dưỡng, tùy theo thái độ cư xử của người lớn đối với trẻ mà đứa trẻ
nhận được các loại ấn tượng, hình thành các thói quen hành vi trong nếp
sống và sinh hoạt sau này (ăn, ngủ, vệ sinh cá nhân…) Ngoài ra cách tiếp xúc
với trẻ em và tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với thế giới cũng giúp đứa trẻ cảm
nhận, hình thành được các loại cảm xúc, các thái độ đối với đồ vật, con
người… làm nền tảng để sau này trẻ có kinh nghiệm cư xử với thế giới xung
quanh.

2. Giáo dục và sự phát triển nhân cách trẻ ấu nhi (1 - 3 tuổi)

* Sự phát triển nhân cách

Đây là giai đoạn trẻ ấu nhi nhận được các tác động xã hội hóa một
cách phong phú và mạnh mẽ. Nhờ các tiến bộ về cơ thể và tâm lý, đặc biệt là
với ba thành tựu lớn: luyện tập dáng đi thẳng, hoạt động với đồ vật - công cụ,
sự phát triển ngôn ngữ đã góp phần thúc đẩy sự phát triển khả năng tự ý thức
của trẻ, một yếu tố thể hiện nhân cách con người.

* Nội dung giáo dục

- Giúp trẻ ấu nhi đạt được ba thành tựu của sự phát triển: luyện tập
dáng đi thẳng đứng; hướng dẫn, tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc sử dụng các
loại đồ vật theo đúng chức năng và có tính sáng tạo; giúp trẻ phát triển ngôn
ngữ (tập cho trẻ nói, diễn đạt suy nghĩ và hiểu điều người khác nói).

- Bước đầu cho trẻ học tập cách thức cư xử theo những qui tắc hành vi
trong xã hội đối với người khác (người trong gia đình, cô giáo, bạn bè…)

- Kích thích trẻ phát triển khả năng tư duy ở mức độ trực quan hành
động.

* Cách thức giáo dục

- Thông qua việc tiếp xúc với những người thân trong gia đình trẻ học
được các qui tắc hành vi đối với thế giới xung quanh. Người lớn cần chú ý
đến các biểu hiện của mình về lời nói, hành vi, cử chỉ, thái độ đối với trẻ để
giúp trẻ có một khuôn mẫu tốt đẹp để noi theo.

- Tạo điều kiện cho trẻ được tiếp xúc với nhiều loại đồ vật khác nhau,
hướng dẫn trẻ cách thức sử dụng, kích thích trẻ suy nghĩ sáng tạo ra trò chơi
với các đồ vật ấy.

- Xây dựng những cách thức ứng xử thích hợp với các biến chuyển tâm
lý của trẻ (sự tự ý thức, thái độ bướng bỉnh…) để sự phát triển nhân cách của
trẻ được thuận lợi.

3. Giáo dục và sự phát triển nhân cách trẻ mẫu giáo (3 - 6 tuổi)

* Sự phát triển nhân cách

Đây là giai đoạn hình thành nhân cách của trẻ thể hiện ở khả năng
hành động theo động cơ gián tiếp. Sự hình thành nhân cách lệ thuộc nhiều
vào khuôn mẫu hành vi của người lớn mà trẻ em tiếp xúc (cha mẹ, cô giáo,
bạn bè, người xung quanh…). Những dấu ấn ban đầu trên nhân cách của trẻ
thường được lưu giữ lại. Sự phát triển nhân cách của trẻ trong giai đoạn này
chỉ đạt mức độ thấp nhưng diễn ra với tốc độ cao. Đặc điểm nhân cách trẻ
mẫu giáo nổi bật ở khuynh hướng muốn được độc lập hoạt động không có sự
kềm kẹp của người lớn, đặc biệt là sự cuốn hút trẻ vào trong các loại trò chơi.
Thông qua đó trẻ nắm được các phương thức hành động? định hướng và ý
thức được các chuẩn mực trong các mối quan hệ giữa người với người và
với thế giới xung quanh

* Nội dung giáo dục

- Hình thành những nét nhân cách tốt đẹp làm cơ sở cho một nhân
cách hoàn thiện sau này thông qua sự gương mẫu trong nhân cách của nhà
giáo dục.

- Phát triển các khả năng tâm lý của trẻ như: trí tưởng tượng khả năng
tư duy, trí nhớ, các loại tình cảm cấp cao… như những phương tiện giúp trẻ
thu nhận các tác động giáo dục.

- Tiếp tục trang bị cho trẻ những qui tắc ứng xử trong cuộc sống xã hội.

- Giúp trẻ hình thành tâm thế đi học trường phổ thông vào cuối tuổi mẫu
giáo.

* Cách thức giáo dục

- Thông qua sự gương mẫu của các nhà giáo dục như: cha mẹ, cô
giáo…

Tổ chức cho trẻ tham gia các loại trò chơi bổ ích, thích hợp với lứa tuổi:
sắm vai, học tập, vận động…

- Đưa trẻ tham gia vào các loại quan hệ để rèn luyện cách thức cư xử
phù hợp với các chuẩn mực xã hội.

4. Giáo dục và sự phát triển nhân cách học sinh tiểu học (6 - 11
tuổi)

* Sự phát triển nhân cách


Đây là giai đoạn học sinh bắt đầu tham gia vào hoạt động học tập
mang tính xã hội hóa mạnh mẽ để tiếp nhận hệ thống trí thức khoa học của
loài người. Dưới ảnh hưởng của hoạt động học tập, nhân cách của học sinh
có nhiều biến đổi phong phú và sâu sắc. Đặc điểm nhân cách của học sinh
tiểu học nổi bật ở những nét sau:

- Khả năng nhận thức phát triển nhanh chóng nhờ hoạt động học tập.

- Đời sống xúc cảm, tình cảm chiếm ưu thế hơn và chi phối mạnh mẽ
đến các hoạt động, nhận thức của trẻ.

- Tính hồn nhiên, vui tươi hướng về những cảm xúc tích cực

- Hay bắt chước những người gần gũi, có uy tín với trẻ (cha mẹ, thầy
cô, bạn bè…)

- Hành vi ý chí chưa cao, bản tính hiếu động, khó kềm chế, kém tự chủ
nên dễ phạm lỗi, nhất là đối với các yêu cầu có tính nghiêm ngặt, đòi hỏi sự
tập trung cao độ, gây căng thẳng.

Nhân cách của học sinh tiểu học chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: gia
đình, nhà trường, xã hội. Trong đó những ảnh hưởng từ cha mẹ, thầy cô là
rất quan trọng vào đầu tuổi và sau đó là các ảnh hưởng từ bạn bè và phương
tiện thông tin đại chúng, sách báo, phim ảnh…

* Nội dung giáo dục

- Phát triển khả năng nhận thức và phẩm chất trí tuệ thông qua hoạt
động học tập.

- Rèn luyện tác phong và các thói quen hành vi đạo đức cơ bản của
con người theo chuẩn mực xã hội.

- Khắc phục dần các nhược điểm trong đời sống tình cảm (tính hay thay
đổi, cách biểu lộ tình cảm không phù hợp…), giúp trẻ biết cảm nhận và biểu lộ
tình cảm của mình.

- Rèn luyện các phẩm chất của hành vi ý chí (tính tự chủ, độc lập, khả
năng tự kềm chế…)
- Giúp trẻ biết chọn lựa, thu nhận những tác động lành mạnh từ những
phương tiện thông tin.

* Cách thức giáo dục

- Lấy sự gương mẫu của các nhà giáo dục làm phương tiện giáo dục.

- Xây dựng, hướng dẫn các nhóm bạn bè của trẻ để tạo nên những ảnh
hưởng tích cực trên nhân cách.

- Tổ chức, quản lý chặt chẽ các phương tiện thông tin đại chúng.

- Căn cứ trên những nhu cầu của lứa tuổi để tổ chức, hướng dẫn trẻ
tham gia các hoạt động cần thiết cho sự phát triển như: học tập, vui chơi, lao
động, hoạt động xã hội…

5. Giáo dục và sự phát triển nhân cách học sinh trung học cơ sở
(11 - 15 tuổi)

* Sự phát triển nhân cách

Sự phát triển tâm lý, nhân cách của thiếu niên có nhiều biến động và rất
phức tạp, gây ra những khó khăn trong nội tâm thiếu niên cũng như trong mối
quan hệ giữa người lớn với các em. Cùng với những biến đổi quan trọng
trong cơ thể liên quan đến sự phát triển giới tính, đời sống tâm lý của các em
xuất hiện những nhu cầu tâm lý mới như: khuynh hướng muốn làm người lớn
(muốn sống tự lập, muốn làm những việc có ý nghĩa), nhu cầu tự khẳng định
mình (khẳng định giá trị và phẩm chất, năng lực của bản thân)… Những thúc
đẩy tâm lý này thường được thỏa mãn trong quan hệ bạn bè của thiếu niên,
nên những tác động từ cha mẹ, giáo viên có khi bị giảm nhẹ trước các chi
phối của những bạn bè cùng lứa. Tuổi thiếu niên hay có những suy nghĩ
mạnh dạn và có tính tuyệt đối. Các em đòi hỏi và mong muốn được đáp ứng
mà ít chịu suy xét điều kiện thỏa mãn. Tình cảm rất phức tạp, mạnh mẽ, dễ
đưa đến kiểu hành động quá khích, gây hấn.

* Nội dung giáo dục


- Tiếp tục phát triển các khả năng trí tuệ và rèn luyện tác phong đạo
đức cho thiếu niên.

- Giúp thiếu niên có những hiểu biết cần thiết về giới tính, về các chuẩn
mực trong quan hệ cư xử với người khác giới.

- Tạo điều kiện cho thiếu niên thỏa mãn các nhu cầu tâm lý một cách
hợp lý và lành mạnh.

* Cách thức giáo dục

- Nhà giáo cần đóng vai trò là người bạn lớn tuổi, gần gũi, đáng tin cậy
của thiếu niên để có thể kịp thời giúp các em vượt qua những khó khăn trong
sự phát triển của bản thân

- Xây dựng, hướng dẫn các nhóm bạn của thiếu niên đi vào các hoạt
động cần thiết cho sự phát triển lứa tuổi.

- Tổ chức các loại hình hoạt động đáp ứng những nhu cầu nhận thức
và vui chơi của thiếu niên.

6. Giáo dục và sự phát triển nhân cách học sinh trung học phổ
thông (15 - 18)

* Sự phát triển nhân cách

Nhân cách đang trong giai đoạn định hình với nội dung phong phú và
có chiều sâu. So với học sinh THCS, học sinh trung học phổ thông có khả
năng nhận thức hoàn thiện hơn, các em có thể tìm hiểu sâu và nắm được bản
chất của vấn đề chứ không nhìn nhận sự việc cách nông nổi và phiến diện.
Nếu được khuyến khích sẽ có những suy nghĩ, mạnh dạn độc đáo xem xét
các hoạt động và sản phẩm trí tuệ của các em thể hiện trong hoạt động học
tập hoặc sinh hoạt ngoại khóa, chúng ta dễ nhận ra sự tiến bộ nhanh chóng
về mặt nhận thức của các em. Trên một bài báo tường, một học sinh lớp 11
đã viết: “Vậy đó trong vòng tay của cha mẹ, thầy cô: bạn bè, em đã lớn, mười
sáu, mười bảy tuổi. Mười sáu hay mười bảy, cái tuổi của một thời mộng mơ
dạt dào chắp cánh cho bao kỳ vọng vươn lên. Giờ đây em đã thôi làm thơ ca
ngợi đoá hồng trước ngõ mà biết rằng con người phải đổ bao nhiêu máu
xương cho đất nở được hoa hồng, em thôi mơ làm công chúa hay hoàng tử
trên tiên giới, mà muốn rằng hôm nay, mình phải sống xứng đáng, biết cho đi
và quên mình trong hạnh phúc chung…".

Đời sống nội tâm phát triển, các em ý thức rõ rệt hơn về cái tôi và thích
hình dung về hình ảnh bản thân. Nhu cầu bộc lộ bản thân để tự khẳng định
trở nên mạnh mẽ hơn. Các em thích chia sẻ với bạn bè hoặc đối diện với
chính mình trên những trang nhật ký. Học sinh trung học cũng mang nhiều
suy nghĩ về kế hoạch cuộc đời và định hướng nghề nghiệp trong tương lai,
điều này bị chi phối bởi thần tượng của các em. Việc lựa chọn thần tượng lại
phụ thuộc vào khả năng xác định hình ảnh bản thân của các em. Những học
sinh không nhận thức rõ về bản thân thường định hướng vào những thần
tượng xa vời với khả năng phấn đấu, do đó thường nhanh chóng thay đổi
thần tượng và càng hoang mang về bản thân. Lứa tuổi này cũng đã quan tâm
đến tình cảm giữa nam và nữ nhưng chưa đủ điều kiện để xây dựng tình yêu
đôi lứa bền vững. Hoạt động học tập vẫn là hoạt động quan trọng cho sự phát
triển nhân cách và cuộc sống tương lai của các em.

* Nội dung giáo dục

- Trang bị cho thanh niên những hiểu biết về tính chất và cách thức cư
xử trong tình bạn, tình yêu.

- Hướng dẫn thanh niên xây dựng kế hoạch cuộc đời phù hợp với sự
phát triển cá nhân trong xã hội.

- Giúp thanh niên xây dựng lý tưởng sống cao đẹp và biết định hướng
vào hệ thống giá trị lành mạnh, tích cực theo chuẩn mực xã hội.

- Tạo điều kiện cho thanh niên lựa chọn đúng loại nghề nghiệp của bản
thân bằng cách cung cấp thông tin về các loại nghề nghiệp trong xã hội (đặc
điểm, nhu cầu của nghề đối với người lao động). Xác định cho các em biết
những nghề nghiệp mà địa phương đang có nhu cầu phát triển. Giúp học sinh
THPT nhận ra hứng thú nghề nghiệp và khả năng tương ứng của bản thân.
* Cách thức giáo dục

- Xây dựng một cách đa dạng, phong phú các loại hình hoạt động sôi
nổi, hấp dẫn lôi cuốn thanh niên tham gia để phát triển nhân cách lành mạnh.

- Tăng cường các ảnh hưởng tích cực qua phương tiện thông tin đại
chúng đến lứa tuổi thanh niên (sản xuất phim ảnh, xuất bản sách, phát hành
các loại báo chí thích hợp).

- Xây dựng hệ thống giá trị đáp ứng yêu cầu của thời đại và tuyên
truyền, thuyết phục thanh niên có niềm tin lựa chọn các giá trị được xã hội
đánh giá cao.

- Nhà giáo dục thật sự là người bạn đáng tin cậy đối với họ, có thái độ
tôn trọng, khuyến khích các khả năng sáng tạo, độc đáo của thanh niên.

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 2

1. Nêu khái niệm nhân cách và sự phát triển nhân cách?

2. Trình bày vai trò của yếu tố di truyền, môi trường và hoạt động cá
nhân đối với sự hình thành và phát triển nhân cách

3. Phân tích vai trò của yếu tố giáo dục đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách

4. Lứa tuổi học sinh THPT có những đặc điểm nhân cách như thế nào?
Những nội dung và cách thức giáo dục đối với lứa tuổi này là gì?

5. Sưu tầm một số câu tục ngữ, ca dao, danh ngôn, quan niệm… nói về
ảnh hưởng của các yếu tố đến sự phát triển nhân cách và trình bày quan
điểm cá nhân về các quan niệm đó.

Chương 3: MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ CÁC CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC


I. MỤC ĐÍCH, MỤC TIÊU GIÁO DỤC
1. Khái niệm, ý nghĩa của việc xác định mục đích, mục tiêu giáo
dục
1.1. Khái niệm về mục đích, mục tiêu giáo dục

a. Mục đích, mục tiêu

Trước khi tiến hành một hoạt động nhất định, con người có khả năng ý
thức trước sự cần thiết của hoạt động, dự kiến trước kết quả của hoạt động
đó. Chẳng hạn, trong hoạt động tập bắn thì đích mà người tập ngắm để bắn
trúng có thể là cái bia. Người tập bắn nhìn thấy đối tượng cần bắn trúng (cái
bia), cho nên mục đích ở đây là nhìn thấy cái đích cần bắn trúng là cái bia.
Như vậy, trước khi thực hiện hoạt động nào đó con người đã xác định được
đích đến của hoạt động, hoạt động để làm gì?

Mục đích được hiểu là sự dự kiến trước (hình dung trước) kết quả của
hoạt động.

Mục tiêu được hiểu là sự cụ thể hóa của mục đích, hình dung mục đích
theo các giai đoạn, cấp độ, phạm vi, mức độ nhất định với kết quả cụ thể.

Mục tiêu có thể xem xét ở tầm chiến lược (định hướng) và ở phạm vi
tác nghiệp (hoạt động). Khi xác định mục tiêu thường dự kiến về số lượng,
chất lượng, cơ cấu, chế độ và thể chế.

- Mục tiêu về số lượng là dự kiến số lượng sản phẩm sẽ đạt được. Ví


dụ như số lượng học sinh vào học, lên lớp, ra trường; Số lượng giáo viên; đạt
chuẩn, vượt chuẩn; Số lượng trường học (mầm non, phổ thông, dạy nghề,
cao đẳng, đại học)…

- Mục tiêu về chất lượng là dự kiến sẽ đạt được các yêu cầu của chất
lượng sản phẩm. Ví dụ như chất lượng tuyển sinh, chất lượng về học lực và
hạnh kiểm, chất lượng tốt nghiệp; Trường chất lượng cao, đào tạo nhân tài và
người lao động chất lượng cao…

- Mục tiêu về cơ cấu là dự kiến về các thành phần, cấu trúc đảm bảo
cân đối, phù hợp, phong phú, toàn diện. Ví dụ như cơ cấu các môn học trong
chương trình giáo dục, ngành nghề đào tạo nhân lực, nhân tài, các loại hình
trường lớp đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và khoa học -
công nghệ trong giai đoạn hiện nay…
- Mục tiêu về thể chế là xem xét các chế độ, chính sách nhằm đáp ứng
yêu cầu phát triển con người và xã hội. Ví dụ như xây dựng thể chế giáo dục
hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa có cơ cấu hợp lý, hoàn chỉnh, toàn
diện, chế độ linh hoạt, đa dạng; Phát triển các loại hình trường lớp ngoài công
lập, cho phép mở các trường học của người nước ngoài; đảm bảo chế độ tiền
lương cho nhà giáo; khuyến khích và tạo điều kiện cho việc học và học lên
cao…

Liên quan mật thiết với mục tiêu là kết quả đạt được so với mục tiêu.
Kết quả chính là mức độ đạt được mục tiêu về các mặt nói trên (số lượng,
chất lượng, cơ cấu, thể chế).

b. Mục đích, mục tiêu giáo dục

Giáo dục là một quá trình (có mở đầu, diễn biến, kết thúc) hay được
hiểu là một hoạt động (chủ thể và đối tượng hoạt động). Kết quả của quá trình
giáo dục hay của hoạt động giáo dục trước hết là sự biến đổi nhân cách của
người được giáo dục.

Theo cách hiểu mục tích như trình bày ở trên thì mục đích giáo dục là
sự dự kiến trước kết quả của hoạt động giáo dục. Kết quả của hoạt động giáo
dục chính là nhân cách của người được giáo dục. Vì vậy, có thể hiểu mục
đích giáo dục là mô hình nhân cách của con người (người học) mà giáo dục
cần đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội trong một giai đoạn lịch sử cụ
thể.

Mục đích giáo dục có thể được hình dung ở các cấp độ vĩ mô và vi mô.
Cấp độ vĩ mô hay còn gọi là mục đích giáo dục tổng quát là nhấn mạnh mục
đích chung của toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân, phản ánh các yêu cầu
của xã hội đối với một nền giáo dục. Chẳng hạn mục đích giáo dục tổng thể
của hệ thống giáo dục quốc dân là trình độ dân trí, chất lượng nguồn nhân lực
và nhân tài của một quốc gia ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Cấp độ vi mô
hay còn gọi là mục tiêu giáo dục thể hiện ở từng bậc học, cấp học, ngành
học… ở các giai đoạn nhất định như là mục tiêu giáo dục mầm non, phổ
thông (mục tiêu giáo dục tiểu học, THCS, THPT), mục tiêu giáo dục đại học…
Mục đích, mục tiêu giáo dục có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đó là
mối quan hệ gắn bó, hữu cơ giữa cái toàn thể và cái bộ phận, giữa cái chung
và cái riêng. Mục tiêu giáo dục là thành phần, bộ phận cấu thành của mục
đích giáo dục. Việc xác định và thực hiện tốt các mục tiêu giáo dục là góp
phần thực hiện và hoàn thiện mục đích giáo dục tổng thể.

Tóm lại, mục đích giáo dục là một phạm trù cơ bản của giáo dục học
phản ánh trước kết quả mong muốn trong tương lai của hoạt động giáo dục.
Đó là ước mơ, là hy vọng vào tương lai của sự phát triển con người, phát
triển xã hội.

1.2. Ý nghĩa của việc xác định mục đích, mục tiêu giáo dục

Mục đích, mục tiêu giáo dục có giá trị định hướng cho toàn bộ hoạt
động giáo dục. Ở tầm vĩ mô, việc xác định mục đích giáo dục thường là do
các cấp lãnh đạo - quản lý giáo dục thực hiện, đảm bảo cho hệ thống giáo
dục phát triển thống nhất với sự phát triển về chính trị, kinh tế - xã hội, văn
hóa… của đất nước; góp phân thực hiện mục tiêu: "Dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh". Ở các trường học, việc xác định rõ mục
tiêu của hoạt động giáo dục định hướng cho việc chọn lựa, sử dụng và điều
chỉnh nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục.

Mục đích, mục tiêu giáo dục còn là tiêu chuẩn, thước đo đánh giá chất
lượng giáo dục. Xem xét chất lượng đầu vào, đầu ra để quyết định tuyển sinh,
tuyển dụng, so sánh chất lượng tuyển sinh và yêu cầu về chất lượng tốt
nghiệp để quyết định tổ chức các hoạt động giáo dục và huy động các nguồn
lực đáp ứng yêu cầu của chất lượng giáo dục.

Việc xác định đúng đắn mục đích, mục tiêu giáo dục có tác dụng kích
thích tích tích cực hoạt động của con người, tạo động lực cho hoạt động giáo
dục. Việc xác định mục đích, mục tiêu giáo dục thường hay quan tâm đến nhu
cầu của cuộc sống, của cá nhân do đó nó có sức hấp dẫn, tạo ra nhu cầu,
động cơ cho hoạt động của người học và cả người dạy. Vì vậy cần hướng
dẫn, tư vấn cho người học xác định và lựa chọn mục tiêu giáo dục.
2. Cơ sở xác định mục đích giáo dục

Lịch sử phát triển giáo dục về cả thực tiễn và lí luận cho thấy có mối
quan hệ biện chứng giữa sự phát triển giáo dục, phát triển nhân cách với sự
phát triển xã hội về kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ…, với những điều
kiện và hoàn cảnh thực hiện giáo dục. Từ mối quan hệ biện chứng đó có thể
tìm thấy các cơ sở lí luận và thực tiễn của việc xác định mục đích giáo dục.

2.1. Quan điểm về sự hình thành và phát triển nhân cách

Nhân cách được hình thành và phát triển dưới những ảnh hưởng của
các yếu tố: di truyền, môi trường, giáo dục và hoạt động - giao tiếp cá nhân.
Sự tương tác biện chứng giữa cá nhân và môi trường thông qua hoạt động và
giao tiếp cá nhân làm cho nhân cách hình thành và phát triển. C.Mác đã nói:
hoàn cảnh sáng tạo ra con người trong chừng mực con người sáng tạo ra
hoàn cảnh.

Giáo dục là hoạt động được tổ chức một cách có mục đích, có kế
hoạch, có nội dung, phương pháp khoa học… nhằm hình thành và phát triển
nhân cách con người phù hợp với nhũng yêu cầu của xã hội trong những giai
đoạn phát triển nhất định. Tính định hướng của giáo dục đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách biểu hiện thông qua việc giáo dục có thể thiết
kế được mô hình nhân cách có tính toàn vẹn của con người trong xu thế phát
triển và tiến bộ xã hội và thiết kế được mục tiêu giáo dục cho các giai đoạn
khác nhau. Mục đích, mục tiêu giáo dục là phạm trù rất cơ bản trong giáo dục
học, nó vừa định hướng cho sự phát triển giáo dục, vừa là phương tiện để
thực thi, tạo nên sự biến đổi và phát triển trong giáo dục.

2.2. Quan điểm về con người phát triển toàn diện và sự phát triển
toàn diện nhân cách

Các quan điểm hướng vào sự phát triển toàn diện nhân cách con người
đã có một bề dày trong lịch sử. Nhưng ở mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ lịch sử,
khái niệm phát triển toàn diện nhân cách có một nội dung riêng. Sự phát triển
của các quan điểm về sự phát triển toàn diện nhân cách con người trong lịch
sử là cơ sở lý luận để xây dựng mục đích giáo dục hiện nay.

Từ những cơ sở khoa học, học thuyết của Mác - Ăng ghen đã thể hiện
mô hình nhân cách về con người phát triển toàn diện: Con người phát triển
toàn diện là con người phát triển về mọi mặt? hoàn thiện về thể chất, trong
sáng về đạo đức phong phú về trí tuệ, có nhiều nhu cầu và năng lực, là con
người biết làm mọi việc, đảm nhận nhiều chức năng xã hội khác nhau. Trong
lịch sử cũng như trong xã hội hiện đại, việc hình thành nhân cách phát triển
toàn diện cho thế hệ đang lớn lên với những đặc trưng bản chất trên vẫn là
mục đích lý tưởng của nền giáo dục các nước.

2.3. Những đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại

Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, khởi đầu từ giữa thế
kỷ XX ngày càng phát triển với những bước đi thần tốc. Việc áp dụng. những
thành tựu khoa học - công nghệ làm thay đổi nhanh chóng và sâu sắc đời
sống vật chất và tinh thần của xã hội. Khoa học trở thành một lực lượng sản
xuất trực tiếp và nòng cốt là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế - xã
hội. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển như "vũ bão" đã thể
hiện rõ nét ở các yếu tố sau:

- "Bùng nổ" thông tin và sự lạc hậu nhanh chóng của thông tin.

- Việc sử dụng các thế hệ máy tính điện tử và các phương tiện công
nghệ hiện đại vào sản xuất và đời sống ngày càng được gia tăng nhanh
chóng.

- Việc ứng dụng các thành tựu mới của khoa học - công nghệ vào sản
xuất và đời sống đang là cơ hội và thách thức đối với các quốc gia đang phát
triển và chính những con người của các quốc gia ấy.

Sự phát triển của khoa học - công nghệ với những đặc điểm nói trên
đòi hỏi con người phải có khả năng cập nhập và ứng dụng thông tin - công
nghệ tiên tiến, sử dụng được phương tiện hiện đại. Khả năng tự học để học
suốt đời là yêu cầu tất yếu đối với con người trong thời đại ngày nay.
Xu thế phát triển của xã hội ngày nay cũng đang đặt ra những yêu cầu
mới đối với con người, đó là:

- Sự hình thành nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin.

- Xu thế toàn cầu hóa, xu thế hội nhập, giao lưu quốc tế ngày càng
được mở rộng và thân thiện.

- Ước muốn về chung sống hòa bình, dân chủ, bình đẳng, công bằng
và khả năng gìn giữ hòa bình đang được củng cố.

- Các vấn đề có tính toàn cầu như xung đột về sắc tộc, dân tộc, tôn
giáo; dân số và sự di cư tìm kiếm việc làm, suy giảm môi trường và sinh thái,
phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng, nạn thất nghiệp… đòi hỏi các quốc gia
phải quan tâm giải quyết.

- Tệ nạn xã hội và bạo hành đang có xu hướng gia tăng trong các nhà
trường.

Tất cả các vấn đề trên cần được đặt ra, xem xét và giải quyết bắt đầu
từ giáo dục, bằng giáo dục.

2.4. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam

Từ những thập kỷ 80 của thế kỷ XX, Việt Nam chuyển từ nền kinh tế
tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết của nhà nước. Sự biến chuyển
của nền kinh tế - xã hội đã ảnh hưởng tích cực đến mỗi cá nhân như:

- Phát huy cao độ tính tích cực, sáng tạo của con người, kích thích con
người nắm bắt nhanh nhạy yêu cầu của kinh tế - xã hội.

- Đòi hỏi thế hệ trẻ Việt Nam khả năng thích nghi trước những biến đổi
của môi trường kinh tế xã hội, năng động và sáng tạo, có tri thức văn hoá,
khoa học, có kĩ thuật nghề nghiệp vững vàng, có phẩm chất đạo đức và thái
độ đúng đắn…

Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định mục tiêu tổng
quát của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 là: “Đưa đất nước
ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn
hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá”. Từ đó Đảng và
Nhà nước Việt Nam đã xác định Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo
(2001 -2010) với những quan điểm chủ yếu là:

- Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy, là
điều kiện cơ bản đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội.

- Giáo dục và đào tạo phải đi trước sự phát triển kinh tế - xã hội

- Đầu tư cho giáo dục là một hướng chính của đầu tư phát triển.

- Đa dạng hoá các hình thức dào tạo, thực hiện công bằng trong giáo
dục.

- Giáo dục và đào tạo phải gắn chặt với yêu cầu phát triển của đất
nước và phù hợp với tiến bộ của thời đại.

2.5. Những đặc điểm truyền thống của dân tộc Việt Nam

“Giá trị truyền thống của 1 dân tộc là nguyên lý đạo đức lớn mà con
người trong nước thuộc các thời đại, các giai đoạn lịch sử đều dựa vào để
phân biệt phải trái, để nhận định nên chăng nhằm xây dựng độc lập tự do và
tiến bộ của dân tộc đó”. (GS. Trần Văn Giàu). Dân tộc Việt Nam có bề dày lịch
sử trên 4.000 năm văn hiến đã hun đúc được những truyền thống có giá trị
trong quá trình dựng nước và giữ nước:

- Truyền thống yêu nước, anh hùng.

- Truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, lạc quan.

- Truyền thống nhân ái.

- Truyền thống văn hóa lâu đời.

Các giá trị truyền thống đó phải được kế thừa gìn giữ và phát huy sẽ
trở thành nội lực tiềm năng, sức mạnh của con người Việt Nam…
3. Mục đích giáo dục Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa -
hiện đại hóa (CNH - HĐH)

3.1. Mục đích giáo dục tổng quát

3.1.1. Mục đích giáo dục xét trên bình diện xã hội

Mục đích giáo dục của nền giáo dục XHCN Việt Nam là hình thành và
phát triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam. Mục đích đó được thể
hiện cụ thể trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, gắn chặt với việc
thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Mục đích giáo dục trong giai đoạn hiện nay đã được khẳng định trong
Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VII (1993):
“Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài…”.

a. Mục tiêu nâng cao dân trí

Xây dựng nền giáo dục phục vụ sự nghiệjp nâng cao dân trí đó là tư
tưởng chỉ đạo toàn bộ sự phát triển giáo dục của nước ta. Bác Hồ đã đúc kết
thành chân lý: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Vì vậy, ngay sau khi
giành độc lập vào tháng 8/1945, một trong những nhiệm vụ cấp bách là làm
sao cho mọi người biết đọc, biết viết, có kiến thức, hiểu biết được quyền lợi
và bổn phận của mình. Vấn đề nâng cao dân trí trở thành quốc sách và là
mục tiêu hàng đầu của nền giáo dục nước ta.

Dân trí được hiểu là trình độ hiểu biết, trình độ văn hóa của người dân
trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Dân trí biểu hiện trữ lượng hiểu biết văn
hoá của một dân tộc. Mặt bằng dân trí được thể hiện bằng số năm học trung
bình của người dân một nước vào một thời điểm nhất định.

Dân trí có liên quan đến hạnh phúc, lối sống của con người, đến sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đến các vấn đề liên quan đến dân tộc
và toàn cầu như vấn đề dân quyền, dân sinh, dân chủ… Một quốc gia có trình
độ dân trí cao là quốc gia đó có đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân cao,
thể hiện trong đời sống chính trị, văn hóa, đạo đức, truyền thống xã hội, trong
ý thức, hành vi của cá nhân…

Hiện nay nước ta đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, nhưng với
trình độ này so với các nước trong khu vực và với yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta còn phải phấn đấu nâng
cao trình độ dân trí rất nhiều.

Mục tiêu nâng cao dân trí đến 2020:

- Củng cố và nâng cao thành quả phổ cập giáo dục Tiểu học và xoá mù
chữ. Thực hiện và hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm
2010 và trung học phổ thông vào năm 2020.

- Xây dựng hoàn chỉnh và phát triển bậc học Mầm non cho hầu hết trẻ
em trong độ tuổi.

- Phát triển giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số, vùng khó khăn, phấn
đấu giảm chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng lãnh thổ.

Nâng cao dân trí là kết quả tổng hợp của nhiều lĩnh vực giáo dục như
giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội, giáo dục gia đình, tuy nhiên, giáo dục
nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân bao giờ cũng giữ vai trò nòng
cốt. Để đạt đến trình độ dân trí ngày càng cao, giáo dục luôn phải đổi mới và
phát triển liên tục theo hướng nhân văn hoá, xã hội hoá, đa dang hoá với
những phương thức thích hợp, huy động mọi lực lượng, mọi tiềm năng của
xã hội làm giáo dục; nâng cao chất lượng và bảo đảm số lượng giáo viên cho
toàn bộ hệ thống giáo dục…

b. Mục tiêu đào tạo nhân lực

Nhân lực là lực lượng lao động. Nói đến nguồn nhân lực là nói đến sức
mạnh trí tuệ, tay nghề, năng lực, phẩm chất, sức khỏe của nhân lực. Chất
lượng và hiệu quả lao động trong thời đại cách mạng khoa học - công nghệ
phụ thuộc vào trình độ đào. tạo nhân lực. Người lao động có trình độ sẽ luôn
luôn tiếp cận với cái mới, năng động sáng tạo trong sản xuất, trong công
nghệ, sẽ có năng lực thích nghi cao với những biến động và phát triển của
nền kinh tế - xã hội.

Trong thực tế, nước ta dồi dào về nhân lực (khoảng trên 44 triệu người)
nhưng chất lượng thấp, chưa đáp ứng với những yêu cầu của sự nghiệp
CNH - HĐH đất nước. Theo tính toán của Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội, Việt Nam mới có khoảng hơn 20% lực lượng lao động đã qua đào tạo từ
sơ cấp trở lên. Trên thực tế, chưa có con số thống kê chính xác về bao nhiêu
phần trăm lao động đáp ứng được yêu cầu sử dụng. Hiện chất lượng lao
động Việt Nam còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Khi Việt Nam hội nhập sâu
hơn vào nền kinh tế thế giới thì chất lượng lao động thấp sẽ có tác động xấu
tới khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Đây là ý kiến của phần lớn các
chuyên gia lao động khi nói về chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam. Vì vậy
mục tiêu đào tạo nhân lực ở nước ta càng trở nên cấp thiết.

Mục tiêu đào tạo nhân lực trên 2020:

- Đào tạo nhân lực cho sự nghiệp CNH - HĐH, trong đó đặc biệt chú ý
nhân lực khoa học - công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý giỏi và công nhân
kỹ thuật lành nghề, đào tạo nhân lực cho các lĩnh vực công nghệ ưu tiên
(công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ
tự động hóa), đào tạo nhân lực cho nông thôn để thực hiện việc chuyển dịch
cơ cấu lao động.

- Phát triển đào tạo đại học, cao đẳng trung cấp chuyên nghiệp và dạy
nghề, phấn đấu đến năm 2010 đạt 40% tỷ lệ lao động qua đào tạo ở các trình
độ.

- Thay đổi cơ cấu lực lượng lao động đáp ứng với yêu cầu CNH -
HĐH…

- Nâng cao chất lượng và bảo đảm đủ số lượng giáo viên cho toàn hệ
thống giáo dục. Tiêu chuẩn hóa và hiện đại hóa các điều kiện dạy và học.
Phấn đấu sớm có một số cơ sở đại học, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề
đạt tiêu chuẩn quốc tế…
Việc đào tạo nhân lực là trách nhiệm chính của hệ thống giáo dục quốc
dân mà trực tiếp ở hệ thống trường đào tạo nghề từ thấp đến cao. Các bộ
phận của hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống các trường dạy nghề từ thấp
đến cao cần phải đổi mới về mục tiêu, nội dung phương thức đào tạo, cơ cấu
tổ chức hệ thống; nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, đầu tư về cơ sở vật
chất, thiết bị dạy học để đội ngũ người lao động được đào tạo luôn luôn tiếp
cận với cái mới trong kĩ thuật, trong công nghệ, rèn luyện tính năng động,
sáng tạo trong sản xuất để họ có thể thích ứng với quá trình biến động và
phát triển của nền kinh tế - xã hội đang phát triển trong cơ chế mới, đảm bảo
chất lượng đào tạo đi liền với sự phát triển về quy mô đào tạo.

c. Mục tiêu bồi dưỡng nhân tài

Nhân tài là những người có tài năng, nghĩa là người thông minh, trí tuệ
phát triển, có năng lực làm việc giỏi, có một số phẩm chất nổi bật, giàu tính
sáng tạo. Tài có cấu trúc gồm 4 tầng: khiếu (còn gọi là năng khiếu) - năng lực
- tài năng - thiên tài. Cấu trúc này được hình thành trên nền tảng những tác
động phức tạp qua lại giữa một bên là hoạt động của con người (chủ thể) và
một bên là sự phát triển của các yếu tố di truyền được khơi dậy nhờ hoạt
động có định hướng của chủ thể.

Nhân tài có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển xã hội: Họ là những
người mở ra những mũi đột phá trong văn hóa, khoa học - công nghệ, tạo
nên đà phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội và khoa học - kỹ thuật ở một
nước. Vì vậy, ở thời đại nào, ở quốc gia nào người tài cũng được coi trọng.

Trong điều kiện đất nước ta, phải đặt ra vấn đề bồi dưỡng nhân tài có
khả năng sáng tạo cao, có khả năng khai phá nhanh chóng những con đường
mới mẻ, góp phần xây dựng cho đất nước một nền văn hóa, khoa học - công
nghệ cao. Muốn vậy:

- Hình thành từng bước những trung tâm chất lượng cao ở các cấp
học, bậc học, các trường lớp trọng điểm, có chất lượng cao.
- Mở rộng hệ thống trường lớp năng khiếu, chuyên chọn ở phổ thông.
Đào tạo lực lượng công nhân lành nghề bậc cao, phát triển hệ đào tạo bồi
dưỡng sau đại học.

- Tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật, tài chính để hiện thực
hóa các chủ trương, tư tưởng chiến lược về bồi dưỡng nhân tài.

- Bồi dưỡng nhân tài phải đi đôi với thu hút và sử dụng nhân tài hợp lý,
tạo điều kiện để đội ngũ trí thức, các nhà khoa học có điều kiện tiếp cận và
phát huy tiềm năng của họ.

Việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài là trách nhiệm của cả ba môi
trường giáo dục (gia đình, nhà trường và xã hội), trong đó, gia đình giữ vai trò
quan trọng.

Tóm lại, ba mục tiêu giáo dục trên có một mối quan hệ thống nhất biện
chứng, tác động qua lại với nhau. Vì vậy, để thực hiện thành công sự nghiệp
CNH - HĐH đất nước phải tiến hành thực hiện đồng thời 3 mục tiêu: “nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.

3.1.2. Mục đích giáo dục xét trên bình diện nhân cách

Phát triển con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
xã hội. Mục tiêu phát triển con người thực chất là xây dựng và phát triển nhân
cách con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển và tiến bộ của xã hội
trong thời kì mới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều 2 của Luật
Giáo dục 2005 đã nêu: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát
triển toàn diện, có đạo đức tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung
thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Thành phần cơ bản trong cấu trúc nhân cách con người Việt Nam trong
thời kì mới bao gồm: Thái độ - Kỹ năng - Tri thức

a. Thái độ:
Hệ thống thái độ đối với tổ quốc, dân tộc, với lao động, đời sống xã hội,
với bản thân như thiết tha với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước; kế thừa các giá trị văn hoá nhân loại đồng thời giữ gìn và phát huy giá
trị văn hoá dân tộc; có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỉ luật; có
đạo đức trong sáng, phát huy tính tích cực, có sức khoẻ.

b. Kỹ năng:

Kỹ năng thực hành giỏi là khả năng vận dụng đúng, thành thạo, sáng
tạo nhưng tri thức khoa học và công nghệ đã lĩnh hội vào thực tiễn nghề
nghiệp nhằm tạo ra các sản phẩm có chất lượng, có sức cạnh tranh trên thị
trường.

c. Tri thức:

Làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại có nghĩa là hiểu, nhớ
và vận dụng được tri thức khoa học ở cả ba phương diện: sự kiện, hiện
tượng; quy luật chi phối sự kiện, hiện tượng (khái niệm và logic của nó); và
cách thức hành động với khái niệm để vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo
tri thức khoa học đã lĩnh hội trong các tình huống hoạt động khác nhau nhằm
tạo ra các giá trị mới cho xã hội và phát triển tư duy sáng tạo ở chủ thể hoạt
động.

Ba thành phần thái độ - kỹ năng - tri thức trong cấu trúc nhân cách con
người mới Việt Nam có mối quan hệ nhân quả Thái độ (thế giới quan, lí
tưởng, niềm tin, đạo đức) định hướng, hình thành động cơ cho cá nhân trong
hoạt động chiếm lĩnh các tri thức khoa học, công nghệ và vận dụng chúng vào
hoạt động nghề nghiệp. Mặt khác, tri thức, kỹ năng là điều kiện, phương tiện
cho cá nhân thực hiện lí tưởng, bồi dưỡng tình cảm, củng cố niềm tin và các
giá trị đạo đức ở cá nhân.

3.2. Mục tiêu giáo dục của các bậc học

Điều 22 của Luật Giáo dục 2005 nêu mục tiêu của giáo dục mầm non:
“Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình
cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách,
chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp một”.

Điều 27 của Luật Giáo dục 2005 nêu mục tiêu của giáo dục phổ thông:

1. Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện
về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng
lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn
bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2. Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban
đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức trí tuệ, thể chất, thẩm
mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.

3. Giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển
những kết quả của giáo dục tiểu học; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở
và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung
học phổ thông, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động.

4. Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát
triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở hoàn thiện học vấn phổ
thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có
điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục
học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống do động.

Điều 33 của Luật Giáo dục 2005 nêu mục tiêu của giáo dục nghề
nghiệp: “Mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp là đào tạo người lao động có kiến
thức, kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau, có đạo đức, lương tâm
nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo
điều kiện cho người lao động có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc
tiếp tục học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh.
Trung cấp chuyên nghiệp nhằm đào tạo người lao động có kiến thức,
kỹ năng thực hành cơ bản của một nghề có khả năng làm việc độc lập và có
tính sáng tạo, ứng dụng công nghệ vào công việc.

Dạy nghề nhằm đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch
vụ có năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo”.

Điều 39 của Luật Giáo dục 2005 nêu mục tiêu của giáo dục đại học:

1. Mục tiêu của giáo dục đại học là đào tạo người học có phẩm chất
chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực
hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khoẻ, đáp ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2. Đào tạo trình độ cao đẳng giúp sinh viên có kiến thức chuyên môn và
kỹ năng thực hành cơ bản để giải quyết những vấn đề thông thường thuộc
chuyên ngành được đào tạo.

3. Đào tạo trình độ đại học giúp sinh viên nắm vững kiến thức chuyên
môn và có kỹ năng thực hành thành thạo, có khả năng làm việc độc lập, sáng
tạo và giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo.

4. Đào tạo trình độ thạc sĩ giúp học viên nắm vững lý thuyết, có trình độ
cao về thực hành, có khả năng làm việc độc lập sáng tạo và có năng lực phát
hiện, giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo.

5. Đào tạo trình độ tiến sĩ giúp nghiên cứu sinh có trình độ cao về lý
thuyết và thực hành, có năng lực nghiên cứu độc lập, sáng tạo, phát hiện và
giải quyết những vấn đề mới về khoa học, công nghệ, hướng dẫn nghiên cứu
khoa học và hoạt động chuyên môn.

II. CÁC NHIỆM VỤ GIÁO DỤC TOÀN DIỆN


Để thực hiện mục tiêu giáo dục đã xác định, nhà trường phổ thông cần
thực hiện các nhiệm vụ giáo dục cụ thể. Những nhiệm vụ này chứa đựng
những nội dung giáo dục toàn diện nhằm phát triển toàn diện nhân cách học
sinh.

1. Giáo dục đạo đức

Đức là gốc của nhân cách, Bác Hồ đã nói: "dạy cũng như học, phải biết
chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách máng. Đó là cái gốc rất quan
trọng". Nhân cách của học sinh trước hết thể hiện ở bộ mặt đạo đức. Giáo
dục đạo đức là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong các loại hình trường, là
nền tảng của các mặt giáo dục khác.

Những nhiệm vụ cụ thể của giáo dục đạo đức:

- Giáo dục cho người học thế giới quan khoa học, hiểu được tính qui
luật cơ bản của sự phát triển tự nhiên, xã hội; nhận thức đúng về quyền lợi,
nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi cá nhân với tư cách là những công dân chân
chính đối với xã hội và cộng đồng, có ý thức phấn đấu thực hiện tốt nghĩa vụ
của người công dân trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước giàu
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

- Giáo dục cho người học hiểu và nắm vững những vấn đề cơ bản
trong đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, những cơ sở pháp luật
của hiến pháp, các luật pháp hiện hành, có ý thức, hành động và lối sống theo
pháp luật.

- Giáo dục cho người học thấm nhuần các nguyên tắc và chuẩn mực
đạo đức do xã hội qui định về lối sống, phong cách và thái độ ứng xử trong
cộng đồng như lòng yêu nước, ý thức dân tộc, thái độ lao động, lòng nhân ái,
ý thức công dân…

- Giáo dục cho người học tính tích cực tham gia các hoạt động lao
động, xã hội, chính trị… có ý thức đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực,
lối sống lạc hậu, lỗi thời không phù hợp với xã hội hiện đại.

2. Giáo dục trí tuệ


Giáo dục trí tuệ (trí dục) có vai trò to lớn trong việc phát triển trí tuệ, là
điều kiện quan trọng để phát triển toàn diện nhân cách con người. Nhờ có sự
phát triển trí tuệ, con người có phương tiện phát triển nhu cầu nâng cao trình
độ học vấn và tự hoàn thiện nhân cách…

Những nhiệm vụ cụ thể của giáo dục trí tuệ.

- Tổ chức, điều khiển người học nắm vững hệ thống tri thức khoa học,
phổ thông, cơ bản, hiện đại, phù hợp với những yêu cầu của thực tiễn về tự
nhiên, xã hội, con người.

- Rèn luyện cho người học hệ thống kỹ năng, kỹ xảo tương ứng, phát
triển năng lực và phẩm chất trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo.

- Bồi dưỡng cho người học thế giới quan khoa học, những phẩm chất
đạo đức tốt đẹp của người công dân.

3. Giáo dục thẩm mỹ

Trong nhà trường, giáo dục thẩm mỹ là một bộ phận quan trọng của
quá trình giáo dục nhân cách, bởi vì văn hóa thẩm mỹ là một bộ phận hợp
thành nền tảng của trình độ ván hóa nói chung. Văn hóa thẩm mỹ của người
học bao gồm trình độ phát triển nhất định về mặt thẩm mỹ của ý thức, tình
cảm, hoạt động và hành vi. Đó là những rung cảm thẩm mỹ, nhãn quan thẩm
mỹ (tri thức, quan niệm, lý thuyết, chuẩn mực về những giá trị thẩm mỹ), hứng
thú, nhu cầu, năng lực sáng tạo cái đẹp… Giáo dục thẩm mỹ là quá trình
hướng vào việc tổ chức cho người học lĩnh hội những nền tảng của văn hóa
thẩm mỹ.

Nhiệm vụ cụ thể của giáo dục thẩm mỹ:

- Giáo dục cho học sinh năng lực nhận thức và cảm thụ cái đẹp trong
trong tự nhiên, trong cuộc sống và trong nghệ thuật vẻ đẹp chân chính ở mỗi
con người.

- Bồi dưỡng cho học sinh những xúc cảm, tình cảm, những thị hiếu
thẩm mỹ đúng đắn trước cái đẹp… Từ đó giáo dục học sinh thái độ đúng đắn
khi nhận xét, đánh giá cái đẹp trong cuộc sống cũng như trong nghệ thuật và
vẻ đẹp của mỗi con người.

- Bồi dưỡng cho học sinh năng lực vận đụng và sáng tạo cái đẹp trong
tự nhiên, trong cuộc sống và nghệ thuật, góp phần làm cho cuộc sống ngày
càng đẹp hơn.

4. Giáo dục thể chất

Phát triển thể chất là một mặt quan trọng của sự phát triển toàn diện
nhân cách, là quá trình biến đổi và hình thành những thuộc tính tự nhiên về
mặt hình thái và về mặt chức năng của cơ thể trong cuộc sống con người.
Trong cuộc sống và hoạt động của con người, việc gì cũng cần có sức khỏe
mới thành công. Bác Hồ nói: "Mỗi một người dân yếu ớt, tức là nước yếu ớt,
mỗi người dân mạnh khoẻ tức là nước mạnh khỏe".

Giáo dục thể chất là một bộ phận hữu cơ của quá trình giáo dục có mục
tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức tác động nhằm củng cố sức khỏe
và bảo đảm phát triển thể chất đúng đắn cho học sinh, đồng thời phát triển
văn hóa thể chất ở họ. Trong quá trình giáo dục, giáo dục thể chất được xem
là một nhiệm vụ quan trọng vì nó ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển chung
về thể lực, điều chỉnh sự phát triển của cơ thể con người, kể cả những khuyết
tật bẩm sinh, làm cho cơ thể trở nên cân đối hài hòa. Giáo dục thể chất cũng
có tác dụng rất tích cực đối với trí dục, đức dục, mỹ dục và giáo dục lao
động…

Nhiệm vụ cụ thể của giáo dục thể chất:

- Truyền đạt và lĩnh hội hệ thống tri thức phổ thông, cơ bản, hiện đại về
thể dục, thể thao, vệ sinh thường thức, giữ gìn, chăm sóc, bảo vệ và phát
triển sức khỏe, rèn luyện kỹ năng cơ bản về các bài tập thể dục phổ thông
theo chương trình giáo dục thể chất của nhà trường phổ thông.

- Hình thành cho học sinh hứng thú, nhu cầu, ý chí, nghị lực thói quen
rèn luyện TDTT và giữ gìn vệ sinh để nâng cao sức khoẻ; Giáo dục học sinh ý
thức giữ gìn, bảo vệ và rèn luyện sức khỏe cho học sinh, góp phân phát triển
đúng đắn thể chất và nâng cao năng lực làm việc cho cơ thể.

- Phát hiện và bồi dưỡng nhân tài thể dục thể thao.

- Giáo dục cho học sinh những phẩm chất đạo đức khác.

5. Giáo dục lao động

Lao động là một loại hình đặc biệt của con người nhằm sản xuất ra các
sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội. Lao động là hoạt động cơ bản của
con người và là nguồn gốc của mọi sự tiến bộ xã hội. Lao động cũng là điều
kiện cần thiết cho sự phát triển nhân cách mỗi con người…

Giáo dục lao động là một bộ phận hữu cơ của hoạt động giáo dục, là
quá trình tổ chức đưa học sinh vào hoạt động lao động và bằng lao động mà
hình thành thái độ tích cực đối với lao động, trang bị cho học sinh những tri
thức và kỹ năng lao động cần thiết, đồng thời bồi dưỡng những năng lực và
phẩm chất của người lao động mới.

Nhiệm vụ của giáo dục lao động:

- Truyền đạt và lĩnh hội hệ thống tri thức cơ bản về các loại hình lao
động phổ biên, giúp học sinh nắm vững nguyên tắc chung của lao động,
những kỹ năng sử dụng các công cụ lao động phổ thông, phổ biến, những
hiểu biết ban đầu về kinh tế, bước đầu hình thành tư duy kỹ thuật, sáng tạo
và tổ chức lao động tập thể.

- Hình thành những cơ sở ban đầu của phẩm chất người lao động trong
thời đại mới, những thói quen và kỹ năng lao động tập thể, kết hợp lao động
trí óc và lao động chân tay, giữ gìn vệ sinh trong lao động…

- Tạo mọi điều kiện hợp lý để học sinh vận dụng tri thức, kỹ năng vào
cuộc sống. Giúp học sinh bước đầu đóng góp sức mình xây dựng xã hội.

Các nhiệm vụ giáo dục có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với
nhau, đan xen, chứa đựng trong nhau, tạo thành nội dung giáo dục toàn diện
nhân cách. Nhiệm vụ này vừa là tiền đề, vừa là điều kiện cho sự vận động và
phát triển của các nhiệm vụ khác. Vì vậy trong quá trình thực hiện phải đồng
bộ, không được coi nhẹ một nhiệm vụ nào.

III. HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN VIỆT NAM


1. Hệ thống chuẩn phân loại giáo dục quốc tế của Unesco

1. Giáo dục tiền học đường

- Thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ 3 tháng tuổi
đến 6 tuổi.

- Hoạt động chủ đạo là chơi.

- Đội ngũ giáo viên cũng cần được đào tạo.

- Cơ sở giáo dục đảm bảo đủ điều kiện cho việc nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục trẻ.

- Tổ chức tập trung.

- Có chương trình phù hợp.

2. Giáo dục tiểu học

- Bậc học phổ cập (5 - 6 năm).

- Hoạt động chủ đạo là học.

- Đội ngũ giáo viên có trình độ ít nhất là tốt nghiệp trung học sư phạm.

- Cơ sở giáo dục đảm bảo đủ điều kiện cho việc giáo dục toàn diện.

- Tổ chức tập trung.

- Có chương trình và sách giáo khoa phù hợp.

3. Giáo dục trung học cơ sở

- Bậc học phổ cập (3 - 4 năm).

- Hoạt động chủ đạo là học.

- Đội ngũ giáo viên có trình độ ít nhất là tốt nghiệp cao đẳng sư phạm.
- Cơ sở giáo dục đảm bảo đủ điều kiện cho việc giáo dục toàn diện.

- Tổ chức tập trung.

- Có chương trình và sách giáo khoa phù hợp.

4. Giáo dục trung học phổ thông

- Thu nhận sinh viên có bằng tốt nghiệp THCS (3 năm).

- Hoạt động chủ đạo là học.

- Đội ngũ giáo viên có trình độ ít nhất là tốt nghiệp đại học sư phạm.

- Cơ sở giáo dục đảm bảo đủ điều kiện cho việc giáo dục toàn diện và
hướng nghiệp.

- Tổ chức tập trung.

- Có chương trình và sách giáo khoa phù hợp

5. Giáo dục sau trung học

- Thu nhận học sinh tốt nghiệp THPT

- Chương trình đào tạo đứng giữa giáo dục THPT và giáo dục cao
đẳng, đại học.

- Thời gian học từ 1- 2 - 3 - 4 năm.

- Tập trung đào tạo năng lực hoạt động nghề nghiệp.

- Bộ GD-ĐT phối hợp với các Bộ chuyên ngành quy định chương trình
khung.

6. Giáo dục cao đẳng, đại học giai đoạn 1 và 2

2. Hệ thống giáo dục quốc dân của việt Nam

Luật giáo dục 2005 qui định hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam bao
gồm:

- Giáo dục mầm non

- Giáo dục phổ thông


- Giáo dục nghề nghiệp

- Giáo dục đại học

- Giáo dục thường xuyên

2.1. Giáo dục mầm non

Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ
em từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi.

Cơ sở giáo dục mầm non bao gồm:

- Nhà trẻ, nhóm trẻ nhận trẻ em từ 3 tháng tuổi đến 3 tuổi;

- Trường, lớp mẫu giáo nhận trẻ em từ 3 tuổi đến 6 tuổi;

- Trường mầm non là cơ sở giáo dục kết hợp nhà trẻ và mẫu giáo,
nhận trẻ em từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi.

2.2. Giáo dục phổ thông

* Giáo dục phổ thông bao gồm:

1/ Giáo dục tiểu học được thực hiện trong 5 năm học, từ lớp 1 đến lớp
5. Tuổi của học sinh vào học lớp 1 là 6 tuổi.

2/ Giáo dục trung học cơ sở được thực hiện trong 4 năm học, từ lớp 6
đến lớp 9. Học sinh vào học lớp 6 phải hoàn thành chương trình tiểu học, có
tuổi là 11 tuổi.

3/ Giáo dục trung học phổ thông được thực hiện trong 3 năm học, từ
lớp 10 đến lớp 12. Học sinh vào học lớp 10 phải có bằng tốt nghiệp trung học
cơ sở, có tuổi là 15 tuổi.

Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định những trường hợp có thể
học trước tuổi đối với học sinh phát triển sớm về trí tuệ; học ở tuổi cao hơn
tuổi quy định đối với học sinh ở những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn, học sinh người dân tộc thiểu số, học sinh bị tàn tật, khuyết tật học sinh
kém phát triển về thể lực và trí tuệ, học sinh mồ côi không nơi nương tựa, học
sinh trong điện hộ đói nghèo theo quy định của Nhà nước, học sinh ở nước
ngoài về nước; những trường hợp học sinh học vượt lớp, học lưu ban; việc
học tiếng Việt của trẻ em người dân tộc thiểu số trước khi vào học lớp một.

* Cơ sở giáo dục phổ thông bao gồm:

- Trường tiểu học;

- Trường trung học cơ sở;

- Trường trung học phổ thông;

- Trường phổ thông có nhiều cấp học;

- Trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp.

2.3. Giáo dục nghề nghiệp

* Giáo dục nghề nghiệp bao gồm:

1/ Trung cấp chuyên nghiệp được thực hiện từ 3 đến 4 năm học đối với
người có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, từ 1 đến 2 năm học đối với người
có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông.

2/ Dạy nghề được trực hiện dưới 1 năm đối với đào tạo nghề trình độ
sơ cấp, từ 1 đến 3 năm đối với đào tạo nghề trình độ trung cấp, trình độ cao
đẳng.

* Cơ sở giáo dục nghề nghiệp bao gồm:

- Trường trung cấp chuyên nghiệp

- Trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề,
lớp dạy nghề (gọi chung là cơ sở dạy nghề).

- Cơ sở dạy nghề có thể được tổ chức độc lập hoặc gắn với cơ sở sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ, cơ sở giáo dục khác.

2.4. Giáo dục đại học

* Giáo dục đại học bao gồm:

1/ Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện từ 2 đến 3 năm học tùy
theo ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ
thông hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp; từ 1,5 năm đến 2 năm học đối với
người có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành.

2/ Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ 4 đến 6 năm học tùy theo
ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông
hoặc bằng tốt nghiệp trong cấp; từ 2,5 năm đến 4 năm học đối với người có
bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành, từ 1,5 năm đến 2 năm học đối
với người có bằng tốt nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành.

3/ Đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện từ 1 đến 2 năm học đối với
người có bằng tốt nghiệp đại học.

4/ Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện trong 4 năm học đối với
người có bằng tốt nghiệp đại học, từ 2 đến 3 năm học đối với người có bằng
thạc sĩ. Trong trường hợp đặc biệt, thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ có thể
được kéo dài theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Thủ tướng Chính phủ quy định cụ thể việc đào tạo trình độ tương
đương với trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ ở một số ngành chuyên môn đặc
biệt.

* Cơ sở giáo dục đại học bao gồm:

- Trường cao đẳng đào tạo trình độ cao đẳng;

- Trường đại học đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học; đào tạo
trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ khi được Thủ tướng Chỉnh phủ giao.

Viện nghiên cứu khoa học đào tạo trình độ tiến sĩ, phối hợp với trường
đại học đào tạo trình độ thạc sĩ khi được Thủ tướng Chính phủ giao.

2.5. Giáo dục thường xuyên

Giáo dục thường xuyên giúp mọi người vừa làm vừa học, học liên tục,
học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình
độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm
việc làm, tự tạo việc làm và thích nghi với đời sống xã hội.
Nhà nước có chính sách phát triển giáo dục thường xuyên, thực hiện
giáo dục cho mọi người, xây dựng xã hội học tập.

Cơ sở giáo dục thường xuyên bao gồm:

- Trung tâm giáo dục thường xuyên được tổ chức tại cấp tỉnh và cấp
huyện;

- Trung tâm học tập cộng đồng được tổ chức tại xã, phường, thị trấn
(sau đây gọi chung là cấp xã).

Chương trình giáo dục thường xuyên còn được thực hiện tại các cơ sở
giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học và
thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng.

Trung tâm giáo dục thường xuyên thực hiện các chương trình giáo dục
thường xuyên quy định tại khoản 1 Điều 45 của Luật này, không thực hiện
các chương trình giáo dục để lấy bằng tốt nghiệp trung cấp, bằng tốt nghiệp
cao đẳng, bằng tốt nghiệp đại học. Trung tâm học tập cộng đồng thực hiện
các chương trình giáo dục quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 45 của
Luật này.

Cơ sở giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục
đại học khi thực hiện các chương trình giáo dục thường xuyên phải bảo đảm
nhiệm vụ đào tạo của mình, chỉ thực hiện chương trình giáo dục quy định tại
điểm d khoản 1 Điều 45 của Luật này khi được cơ quan quản lý nhà nước về
giáo dục có thẩm quyền cho phép. Cơ sở giáo dục đại học khi thực hiện
chương trình giáo dục thường xuyên lấy bằng tốt nghiệp cao đẳng, bằng tốt
nghiệp đại học chỉ được liên kết với cơ sở giáo dục tại địa phương là trường
đại học, trường cao đẳng, trường trung cấp, trung tâm giáo dục thường xuyên
cấp tỉnh với điều kiện cơ sở giáo dục tại địa phương bảo đảm các yêu cầu về
cơ sở vật chất, thiết bị và cán bộ quản lý cho việc đào tạo trình độ cao đẳng,
trình độ đại học.
IV. CÁC CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC
Giáo dục là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch, có
phương pháp của nhà giáo dục nhằm hình thành, phát triển nhân cách cho
thế hệ trẻ theo mục đích giáo dục xác định. Quá trình này được thực hiện
bằng các con đường giáo dục. Các con đường giáo dục thực chất là những
hoạt động cơ bản được tổ chức với sự tham gia tự giác, tích cực và sáng tạo
của học sinh dưới tác động chủ đạo của nhà giáo dục; nhằm hình thành và
phát triển nhân cách học sinh theo mục đích, nhiệm vụ giáo dục. Các hoạt
động giáo dục bao gồm:

1. Hoạt động dạy học

Hoạt động dạy học là hoạt động đặc trưng cho bất cứ loại hình nhà
trường nào và dạy học chính là một con đường giáo dục. Dạy học được xem
là con đường cơ bản nhất, thuận lợi nhất và có hiệu quả nhất giúp cho thế hệ
trẻ chiếm lĩnh được nội dung học vấn, tự rèn luyện để hoàn thiện nhân cách,
thể hiện:

- Dạy học là con đường thuận lợi nhất giúp học sum với tư cách là chủ
thể nhận thức chiếm lĩnh được hệ thống tri thức khoa học, cơ bản, hiện đại,
phù hợp với thực tiễn về tự nhiên xã hội, tư duy, đồng thời rèn luyện được hệ
thống kỹ năng và kỹ xảo tương ứng.

- Dạy học là con đường cơ bản hình thành và phát triển ở học sinh
năng lực hoạt động trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy sáng.tạo. Thông qua
con đường dạy học, học sinh không những tiếp thu hệ thống các giá trị mà
còn “góp phần sáng tạo ra hệ thống các giá trị mới”.

- Dạy học là một trong những con đường chủ yếu góp phần giáo dục
cho học sinh thế giới quan khoa học, nhân sinh quan và những phẩm chất
đạo đức tốt đẹp nói riêng, phát triển nhân cách nói chung.

Những điều kiện để phát huy tính giáo dục của con đường dạy học:

- Dạy học phải hướng vào học sinh, phải lấy học sinh làm trung tâm:
tạo mục đích, động cơ, nhu cầu, hứng thú học tập đúng đắn, kích thích được
tính tự giác, tích cực độc lập, sáng tạo của học sinh trên cơ sở định hướng, tổ
chức, điều khiển của giáo viên.

- Hoạt động dạy học phải có trọng tâm, phải ưu tiên cho chất lượng.
Muốn vậy phải không ngừng cải tiến và đổi mới phương pháp, phương tiện,
hình thức tổ chức dạy học…

- Xã hội cần tạo một điều kiện bảo đảm cho người học nhận được sự
nuôi dưỡng, bảo vệ sức khỏe, sự hỗ trợ chung về thể chất và tình cảm…

2. Các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (HĐGDNGLL)

Giáo dục không những được thực hiện qua con đường dạy học trên lớp
mà còn qua các HĐGDNGLL. HĐGDNGLL là sự tiếp nối hoạt động dạy học
trên lớp, là con đường gắn lý thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa
nhận thức và hành động của học sinh. HĐGDNGLL nhằm các mục tiêu sau
đây:

- Củng cố và khắc sâu những kiến thức của các môn học, mở rộng và
nâng cao hiểu biết cho học sinh về các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm
phong phú thêm vốn tri thức, kinh nghiệm hoạt động tập thể của học sinh.

- Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng cơ bản phù hợp với từng lứa tuổi
như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tổ chức quản lý, kỹ năng kiểm tra đánh giá…
Củng cố, phát triển các hành vi thói quen tốt trong học tập, lao động và công
tác xã hội.

- Bồi dưỡng thái độ tự giác tích cực tham gia các hoạt động tập thể và
hoạt động xã hội, hình thành tình cảm chân thành, niềm tin trong sáng với
cuộc sống, với quê hương, đất nước, có thái độ đúng đắn đối với tự nhiên, xã
hội…

Các loại hình HĐGDNGLL bao gồm:

2.1. Hoạt động lao động

Lao động là hình thức hoạt động đặc biệt của con người, lao động tạo
ra sản phẩm vật chất và tinh thần nhằm thoả mãn nhu cầu cuộc sống của con
người và chính trong lao động con người cũng cải tạo cơ bản bản thân
mình… Hoạt động lao động được đưa vào nhà trường với tư cách là một con
đường giáo dục có ý nghĩa vô cùng quan trọng:

- Lao động là phương tiện hữu hiệu để phát triển các mặt giáo dục toàn
diện của nhân cách như trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, thể chất…

- Hoạt động lao động được tổ chức một cách đúng đắn trong nhà
trường không những giúp cho học sinh biết làm một số công việc lao động
trước mắt mà còn chuẩn bị thiết thực cho học sinh về mặt tâm lý cũng như
các phẩm chất và năng lực cần thiết khác để tham gia lao động trong tương
lai.

Những dạng hoạt động lao động cơ bản của học sinh như lao động tự
phục vụ; Lao động sản xuất; Lao động công ích…

Một số yêu cầu cơ bản:

- Lao động phải mang ý nghĩa giáo dục…

- Đảm bảo tính tập thể, tính vừa sức, tính sáng tạo của hoạt động lao
động.

- Đảm bảo tính thường xuyên liên tục của các hoạt động lao động, tăng
dần tính phức tạp của hoạt động lao động theo lứa tuổi.

- Tổ chức cho học sinh tự giác, tích cực tham gia vào nhiều hình thức
lao động khác nhau, kích thích tính sáng tạo của học sinh trong lao động…

2.2. Hoạt động xã hội - chính trị

Hoạt động xã hội- chính trị là hình thức hoạt động của cá nhân với các
mối quan hệ giao tiếp đa dạng trong cộng đồng, trong một môi trường xã hội
nhất định. Tham gia vào các hoạt động xã hội, con người được giao lưu với
nhiều cá nhân và tập thể khác nhau, nhờ đó các phẩm chất nhân cách của
mỗi cá nhân càng phát triển, đồng thời cá nhân cũng góp phần tham gia phát
triển xã hội. Ý nghĩa của hoạt động xã hội thể hiện:
- Hoạt động xã hội tạo cơ hội và điều kiện cho học sinh thâm nhập vào
cuộc sống, gắn bó với cuộc sống, có ý thức ngày càng đầy đủ và sâu sắc
mình là một thành viên của xã hội. Trong quá trình tham gia vào cuộc sống xã
hội học sinh nhận thức và chấp nhận những khuôn mẫu và chuẩn mực xã hội,
thích nghi với các chuẩn mực ấy và chuyển chúng thành những giá trị của
bản thân:

- Thông qua các hoạt động xã hội, kiến thức của học sinh về con người,
về xã hội càng thêm phong phú và mở rộng, kỹ năng giao tiếp, ứng xử có văn
hóa với mọi người sẽ đa dạng, sâu sắc và nhuần nhuyễn hơn; trình độ văn
hóa và phẩm chất đạo đức của học sinh được nâng cao hơn.

- Các hoạt động xã hội không chỉ đem lại hệ thống giá trị cho cá nhân,
tạo điều kiện cho cá nhân thích ứng với nếp sống và các định chế của xã hội,
mà còn tạo điều kiện và cơ hội cho cá nhân đóng góp sức lực, trí tuệ của
mình vào sự phát triển xã hội, phát triển tính tích cực của cá nhân trong việc
sáng tạo thêm và làm phong phú kho tàng văn hóa của xã hội.

Nội dung và hình thức hoạt động xã hội rất phong phú và đa dạng. Tuỳ
lứa tuổi học sinh mà chọn những hình thức phù hợp. Đó là những hoạt động
có liên quan đến những dịp kỉ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị, xã
hội trong nước và quốc tế các hoạt động tìm hiểu truyền thống tốt dẹp của
nhà trường địa phương, dân tộc; các hoạt động nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa,
hoạt động từ thiện…

Một số yêu cầu khi tổ chức các hoạt động xã hội:

- Nhà trường cần tổ chức nhiều dạng hoạt động xã hội phong phú, đa
dạng, có liên quan đến nhiều lĩnh vực phù hợp với những đặc điểm tâm sinh
lý học sinh.

- Những hoạt động xã hội cần gắn với cộng đồng, trước hết là với cộng
đồng địa phương, tạo nên sự gắn bó giữa học sinh và cộng đồng…
- Cần phát huy tinh thần tự giác, tích cực và sáng tạo, tinh thần tự quản
của học sinh. Giáo viên đóng vai trò cố vấn, định hướng, hướng dẫn cho học
sinh hoạt động.

- Trong quá trình tổ chức các hoạt động xã hội, cần phối hợp với các tổ
chức Đoàn, Đội, Hội cha mẹ học sinh…

2.3. Hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao

Hoạt động văn hoá, nghệ thuật có tác dụng giáo dục rất tích cực đối với
học sinh. Đây được xem là “món ăn tinh thần” không thể thiếu được trong đời
sống tập thể hàng ngày:

- Hoạt động văn hóa, nghệ thuật giúp tinh thần học sinh sảng khoái
hơn, bớt được những căng thẳng trong việc học tập.

- Hoạt động này giáo dục học sinh biết cách cảm thụ nghệ thuật, cảm
thụ cái hay, cái đẹp của con người, của cuộc sống… tạo nên ở học sinh
những xúc cảm thẩm mỹ, những tình cảm đẹp đẽ, phát triển tâm hôn tự
nhiên, trong sáng.

- Hoạt động này giáo dục cho học sinh những phẩm chất đạo đức như
tình yêu quê hương, đất nước, yêu con người.

Nội dung và hình thức hoạt động văn hoá nghệ thuật trong nhà trường
rất đa dạng như hát, múa, kể chuyện, ngâm thơ, tấu hài, vẽ, kịch, tạo hình,
biểu diễn thời trang…

Những yêu cầu:

- Các hoạt động phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, hứng
thú, sở thích học sinh.

- Đảm bảo phát huy, phát triển được tính tích cực, độc lập sáng tạo của
học sinh, rèn luyện kỹ năng tự quản.

- Đa dạng hóa các hình thức hoạt động văn hoá nghệ thuật, có sự thay
đổi liên tục nhằm kích thích, thu hút và phát triển tiềm năng của học sinh.

2.4. Hoạt động vui chơi, tham quan, du lịch


Vui chơi là một dạng hoạt động có ý nghĩa giáo dục quan trọng:

- Giúp học sinh phát triển nhiều phẩm chất đạo đức như tình thân ái,
đoàn kết, lòng trung thực, tinh thần cộng đồng trách nhiệm, khắc phục những
nét xấu như tính ích kỷ, chơi trội, giả dối…

- Giúp học sinh có cơ hội nâng cao hiểu biết về tự nhiên, xã hội, phát
triển trí thông minh, sáng tạo, phát triển năng khiếu…

- Giúp học sinh phát triển óc thẩm mỹ, cảm thụ cái đẹp, sáng tạo cái
đẹp trong cuộc sống.

- Giúp học sinh thoải mái dễ chịu, phục hồi sức khoẻ sau những giờ
học tập, lao động, phát triển những phẩm chất vận động qua những trò chơi
vận động, qua các hoạt động dã ngoại, du lịch…

- Giúp học sinh hình thành và phát triển các kỹ năng hoạt động: tổ
chức, điều khiển, thích ứng, giao tiếp, hợp tác, kiểm tra, đánh giá…

Những yêu cầu để hoạt động vui chơi phát huy tốt tác dụng:

- Hoạt động vui chơi phải có nội dung phong phú, hình thức đa dạng,
hấp dẫn, các hoạt động vui chơi phải liên quan đến nhiều lĩnh vực như khoa
học - kỹ thuật (trò chơi điện tử, đố vui) văn học - nghệ thuật (diễn kịch, hài…),
văn hoá, TDTT, tham quan du lịch, giải trí thư giãn…

- Kích thích hứng thú và tính tự nguyện tự giác của học sinh trong hoạt
động vui chơi dưới sự quản lý của giáo viên.

- Tổ chức các hoạt động vui chơi một cách có kế hoạch với những điều
kiện cần thiết (sân bãi, đồ chơi, dụng cụ…).

- Thu hút các lực lượng xã hội và tận dụng các điều kiện có sẵn hợp lý.

Tóm lại, các con đường giáo dục có mối quan hệ biện chứng đan kết,
xâm nhập và hỗ trợ nhau. Trong quá trình giáo dục cần tổ chức tốt từng con
đường đồng thời phối hợp đồng bộ hài hoà các con đường giáo dục.

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 3


1. Nêu khái niệm và ý nghĩa của việc xác định mục đích, mục tiêu giáo
dục

2. Trình bày những cơ sở xác định MĐGD

3. Phân tích nội dung MĐGD tổng quát và MĐGD nhân cách trong thời
kỳ CNH- HĐH đất nước. Nêu MTGD các bậc học, cấp học.

4. Trình bày các nhiệm vụ giáo dục toàn diện ở nhà trường phổ thông.
Tìm hiểu và nhận xét việc thực hiện các nhiệm vụ giáo dục toàn diện ở một
trường phổ thông cụ thể.

5. Trình bày cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam
theo Luật giáo dục; Các loại hình trường lớp, phương thức đào tạo.

6. Trình bày khái niệm, ý nghĩa, yêu cầu tổ chức thực hiện các con
đường giáo dục. Tìm hiểu và nhận xét việc thực hiện các con đường giáo dục
ở một trường phổ thông cụ thể.

Chương 4: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC


I. KHÁI NIỆM VÀ CẤU TRÚC CỦA HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
1. Khái niệm hoạt động dạy học

Hoạt động dạy học dùng ở đây được hiểu là dạy học trong nhà trường -
một bộ phận của hoạt động giáo dục tổng thể chứ không hàm ý nói đến dạy
học nói chung (dạy học trong cuộc sống).

Khi xem xét hoạt động dạy học, có nhiều cách tiếp cận khác nhau như
tiếp cận hướng vào hoạt động dạy của thầy hoặc tiếp cận hướng vào hoạt
động học của trò. Dạy học hướng vào hoạt động học của trò thì trọng tâm của
hoạt động dạy học được đặt vào hoạt động học của học sinh chứ không phải
vào hoạt động dạy của giáo viên. Nói cách khác, giáo viên là người tạo ra việc
học, gợi cho học sinh khám phá và tạo dựng kiến thức, tạo ra các môi trường
học tập mạnh mẽ; nâng cao chất lượng học tập, v.v…
Kiểu dạy học truyền thống ở nhà trường Việt Nam thường tiếp cận dạy
học hướng vào hoạt động dạy của giáo viên hơn là hướng vào hoạt động học
của học sinh nên có nhiều hạn chế trong việc phát huy tính tích cực, độc lập
sáng tạo của học sinh. Theo cách tiếp cận hiện đại, dạy học ở nhà trường
Việt Nam đã và đang dịch chuyển dần sang cách tiếp cận hướng vào hoạt
động học của học sinh bằng cách ứng dụng các hướng dạy học gia tăng tính
tích cực, độc lập và sáng tạo của người học trong quá trình tìm tòi, khám phá
tri thức dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên. Trong những xu hướng
dạy học tích cực đó, chúng ta phải nói đến "Dạy học cho tương lai của Intel"
(Intel Teach to the Future of Intel).

"Dạy học cho tương lai của Intel" không chỉ giúp học sinh lĩnh hội tri
thức, kĩ năng của bài học, môn học và liên môn, mà quan trọng hơn là hình
thành ở học sinh các kỹ năng tư duy, kĩ năng sống (kĩ năng phát hiện và giải
quyết vấn đề, kĩ năng thu thập và xử lí thông tin, kĩ năng phổ biến thông tin
v.v…). Những kỹ năng này giúp học sinh có thể học tập thường xuyên nhờ sự
hỗ trợ của đa phương tiện, đặc biệt là công nghệ thọng tin nhằm đáp ứng tốt
yêu cầu của nghề nghiệp, yêu cầu của cuộc sống đầy biến động và thách
thức. Để thực hiện "Dạy học cho tương lai của Intel", các thành phần chính
của kế hoạch bài dạy gồm: ý tưởng, bộ câu hỏi định hướng, các bài tập của
học sinh và công cụ đánh giá.

Như vậy, hoạt động dạy học là hệ thống những hành động phối hợp,
tương tác giữa giáo viên và học sinh, trong đó dưới tác động chủ đạo của
giáo viên, học sinh tự giác, tích cực, chủ động lĩnh hội hệ thống tri thức khoa
học,kỹ năng, kỹ xảo, phát triển năng lực nhận thức, năng lực hành động, hình
thành thế giới quan khoa học và những phẩm chất của nhân cách.

Từ khái niệm trên, có thể rút ra một số đặc trưng cơ bản của hoạt động
dạy học như sau:

- Dạy học là một hoạt động kép gồm hoạt động dạy của giáo viên và
hoạt động học của người học. Trong đó, Dạy (giáo viên) giữ vai trò chủ đạo,
dạy hướng đến học, dạy thúc đẩy học và làm cho học thành công; Học (người
học) giữ vai trò chủ động, tự giác, tích cực, độc lập và sáng tạo.

- Hai hoạt động Dạy và Học tồn tại trong sự thống nhất và tương tác lẫn
nhau.

- Hai hoạt động Dạy và Học cùng hướng đến thực hiện mục tiêu và
nhiệm vụ dạy học.

Nếu tiếp cận dạy học như là một quá trình, không chỉ nói đến thời gian,
không gian hoạt động dạy học diễn ra, mà chủ yếu muốn nói đến logic của
hoạt động dạy học gồm một chuỗi những hành động của giáo viên và học
sinh phối hợp, thống nhất với nhau, được sắp xếp và thay đổi theo một trình
tự phù hợp với logic khoa học và nhận thức của học sinh nhằm thực hiện mục
tiêu, nhiệm vụ dạy học. Nếu tiếp cận dạy học như là một hoạt động là tiếp cận
dạy học dưới góc độ hoạt động tương tác, phối hợp thống nhất của giáo viên
và học sinh. Theo chúng tôi cách tiếp cận này là hợp lí hơn cả.

2. Cấu trúc hoạt động dạy học

Thông thường, khi tiếp cận dạy học như là một hoạt động có các nhân
tố cấu trúc: chủ thể, đối tượng của hoạt đông dạy học, mục đích, nhiệm vụ
dạy học; nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học, kết
quả dạy học. Các nhân tố của hoạt động dạy học không tồn tại biệt lập với
nhau, chúng có quan hệ, tác động qua lại một cách biện chứng, phản ánh các
tính qui luật của hoạt động dạy học. Sự biến đổi của nhân tố này đòi hỏi sự
biến đổi tương ứng phù hợp của các nhân tố khác. Cho nên muốn nâng cao
chất lượng và hiệu quả của hoạt động dạy học phải nâng cao chất lượng của
từng nhân tố, đồng thời, nâng cao chất lượng tổng hợp của toàn hệ thống.
Hoạt động dạy học với tư cách là một hệ thống tồn tại và phát triển trong mối
quan hệ với môi trường bên ngoài ở cả hai phương diện vĩ mô và vi mô.

Tiếp cận hoạt động dạy học theo quan điểm sư phạm tương tác, chúng
ta tiếp cận đến một quan điểm mới về cấu trúc hoạt động dạy học như sau:

2.1. Các yếu tố cấu trúc hoạt động dạy học


Dạy (giáo viên) và Học (học sinh) là hai yếu tố không thể thiếu nước
trong cấu trúc hoạt động dạy học. Mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh
(quan hệ chủ thể - chủ thể) không phải là quan hệ trực tiếp mà là gián tiếp
qua một yếu tố trung gian - đối tượng của hoạt động - nội dung (khái niệm
khoa học). Từ đây ta có cấu trúc ba yếu tố: Dạy (giáo viên) - đối tượng (nội
dung) - chủ thể (học sinh).

Nội dung là yếu tố trung gian giữa dạy - học; còn giữa học - nội dung
(tài liệu học tập), yếu tố trung gian chính là thầy giáo (nhân cách của người
cộng sự với chủ thể). Thầy giáo (trình độ tri thức, phương pháp giảng dạy,
kinh nghiệm học của thầy) giúp học sinh tri giác tốt hơn, thông hiểu sâu hơn,
cảm nhận phong phú hơn đối tượng của hoạt động học (nội dung học tập). Vì
thế, cấu trúc ba yếu tố của hoạt động dạy học xuất hiện từ khi có hoạt động
dạy học.

Nhưng dần dần các nhà nghiên cứu nhận ra ảnh hưởng không nhỏ của
yếu tố môi trường đến hoạt động dạy học và chất lượng của nó. Lúc đầu, yếu
tố môi trường chỉ được nhìn nhận ở phạm vi rộng như là những yêu cầu của
xã hội đặt ra cho giáo dục và nhà trường, hoặc môi trường được nhìn nhận ở
phạm vi hẹp như là cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học. Thực ra, môi
trường không chỉ hiểu một cách đơn giản và tĩnh tại như vậy. Trong thực tiễn
dạy học, môi trường được xem xét một cách đa dạng, phức tạp và biện
chứng. Môi trường dạy học bao gồm môi trường rộng (quan điểm, đường lối
giáo dục của Đảng, tốc độ phát triển kinh tế, sự quan tâm của gia đình đến
việc học tập của con cái) và môi trường hẹp (cơ sở vật chất nhà trường, sự
đoàn kết của tập thể giáo viên), môi trường bên trong (trình độ của thầy giáo,
của học sinh) và môi trường bên ngoài (xã hội, nhà trường, gia đình), môi
trường vật chất và môi trường tinh thần (Jean - Mar Denommé và Madeleine
Roy - "Tiến tới một phương pháp sư phạm tương tác”).

Vào những năm 70 của thế kỉ XX, một nhóm các nhà giáo dục Pháp
thuộc Viện Đào tạo Giáo viên ở tỉnh Grenoble như G.Broussea, Commiti,
C.Margolinas, v.v… cũng nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường đến hoạt
động dạy học - môi trường sư phạm. Môi trường sư phạm là môi trường do
giáo viên tạo ra cho học sinh hoạt động, qua đó học sinh hoạt động học và cả
môi trường cùng phát triển. Cấu trúc bốn yếu tố: Dạy - Học - Nội dung - Môi
trường ra đời.

2.2. Chức năng của từng yếu tố

- Dạy (Giáo viên) giữ vai trò truyền thụ và tổ chức, điều khiển.

- Học (Trò) giữ vai trò lĩnh hối và tự tổ chức, tự điều khiển.

- Nội dung (Khái niệm) là cơ sở vật chất của hoạt động day và học. Dạy
học không có nội dung sẽ trở thành trống rỗng. Nội dung được bắt đầu từ
thầy và kết thúc ở trò.

- Môi trường - Những điều kiện dạy học cụ.thể trong đó hoạt động dạy
học diễn ra và ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động dạy học.

2.3. Mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố

Các yếu tố cấu trúc của hoạt động dạy học không tồn tại độc lập bên
cạnh nhau mà luôn tác động biện chứng, qui định chi phối và ảnh hưởng lẫn
nhau. Sự tác động qua lại giữa các yếu tố không chỉ làm thay đổi tính chất
của từng yếu tố mà còn làm thay đổi tính chất của cả hệ thống dạy học - hệ
toàn vẹn cân bằng động. Trong hệ thống cấu trúc này, yếu tố dạy và học là
hai yếu tố chính vì:

- Đây là hai yếu tố động nhất trong các yếu tố, nó có thay đổi theo thời
gian, hoàn cảnh, tình huống… Ví dụ, thái độ của Thầy đối với hoạt động dạy
và hoạt động học của Trò thay đổi theo bầu không khí lớp học trong từng bài
dạy, từng pha của bài dạy trên lớp hoặc vốn tri thức và kinh nghiệm sống của
Thầy và Trò sẽ được khai thác và sử dụng hiệu quả hay không thể hiện trong
từng tình huống dạy học cụ thể, v.v…

- Sự thay đổi một trong hai yếu tố sẽ kéo theo sự thay đổi các yếu tố
khác trong hệ thống. Ví dụ, khi giáo viên thay đổi phương pháp dạy sẽ kích
thích học sinh huy động các điều kiện bên trong (tri thức, kỹ năng và phong
cách học đã hình thành) và các nguồn lực bên ngoài (tài liệu và sự trợ giúp
của giáo viên, v.v…) để tác động vào nội dung, qua đó lĩnh hội nội dung đạt
chất lượng cao.

- Thay đổi sự tương tác giữa dạy - học sẽ tạo nên một chất lượng mới
cho cả hệ, vì những yếu tố nội dung, môi trường đặt trong sự tương tác giữa
dạy - học sẽ trở nên sống động vì được khai thác một cách hiệu quả.

Việc xác định chức năng cơ bản của từng thành tố và mối quan hệ qua
lại giữa chúng là một vấn đề lí luận mấu chốt đối với cả lí luận và thực tiễn
dạy học, nó hướng dẫn cho những quyết định đúng đắn trong tác động dạy
học. Vì thế, nếu tuyệt đối hoá nhân tố này và làm lu mờ vai trò của nhân tố
khác trong cấu trúc hoạt động dạy học đều dẫn đến những quyết định sai lầm,
lệch lạc trong tác động dạy học và làm giảm hiệu quả dạy học.

Trong hai yếu tố Dạy - Học, thì dạy hướng đến học, dạy thúc đẩy học,
dạy làm cho học thành công. Chẳng hạn, dạy xác định các kết quả mà học
phải hướng đến và đạt được. Dạy kích thích học thông qua việc thiết kế nội
dung dưới dạng các tình huống có vấn đề, lựa chọn các phương pháp,
phương tiện và điều kiện giải quyết tình huống có kết quả, qua đó, các yếu tố
bên trong và bên ngoài hoạt động học được khai thác một cách tối đa và
được phát triển. Vì vậy, cần hoàn thiện yếu tố dạy (giáo viên) về nhiều
phương diện như chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức của người thầy.

II. NHIỆM VỤ DẠY HỌC


1. Khái quát các nhiệm vụ dạy học

Dựa trên những cơ sở chủ yếu như mục tiêu đào tạo, sự tiến bộ của
khoa học - công nghệ, đặc điểm tâm sinh lí học sinh và đặc điểm hoạt động
dạy học có thể đề ra ba nhiệm vụ dạy học sau:

1.1. Nhiệm vụ thứ nhất

Tổ chức, điều khiển học sinh lĩnh hội hệ thống tri thức khoa học phổ
thông cơ bản, hiện đại phù hợp với thực tiễn của đất nước về tự nhiên, xã hội
- nhân văn, đồng thời rèn luyện hệ thống kĩ năng, kĩ xảo tương ứng.
Để tồn tại và phát triển, cùng với quá trình lao động loài người đã
không ngừng đi sâu khám phá những bí mật của thế giới khách quan để nhận
thức nó, cải tạo nó phục vụ cho lợi ích của con người. Trong quá trình nhận
thức, loài người đã tích luỹ và khái quát hóa được một kho tàng kinh nghiệm
phong phú, sâu sắc… Những kinh nghiệm này được các thế hệ sau kế thừa
một cách có phê phán, đồng thời không ngừng phát triển và hoàn thiện. Nhờ
vậy, xã hội loài người luôn luôn vận động và phát triển.

- Tri thức thực chất là những kinh nghiệm của loài người đúc kết được
trong quá trình phản ánh thế giới khách quan, là bức tranh tổng quát về thế
giới.

- Tri thức khoa học là những tri thức được loài người đúc kết được
bằng các phương pháp khoa học, đã được thực tiễn kiểm nghiệm và chứng
minh, đảm bảo độ tin cậy, tính chân thực cao. Do không phải là tổng số
những tri thức về thế giới khách quan xung quanh chúng ta mà là hệ thống
những tri thức khoa học nhất định về tự nhiên, xã hội, tư duy đã được khái
quát hóa trong các khoa học cụ thể. Hệ thống tri thức khoa học này bao gồm
các sự kiện khoa học, khái niệm, định luật định lý tư tưởng, lý thuyết, học
thuyết khoa học…, những tri thức về cách thức hành động, về phương pháp
nhận thức khoa học, về kinh nghiệm hoạt động sáng tạo… Người học khi
nắm vững hệ thống tri thức khoa học này, mới có khả năng hiểu biết về bức
tranh chân thực của thế giới và có phương pháp đúng đắn khi tham gia các
hoạt động lý thuyết và thực tiễn.

- Tri thức phổ thông cơ bản là tri thức được lựa chọn và xây dựng từ
các lĩnh vực khoa học khác nhau, tri thức tối thiểu cần thiết nhất làm cơ sở,
nền tảng cho học sinh có thể học lên những bậc học cao hơn hay tham gia
vào lao động sản xuất…

- Tri thức hiện đại là tri thức phản ánh những thành tựu mới nhất của
khoa học - công nghệ, phù hợp với chân lí khách quan và xu thế phát triển
của thời đại.
- Tri thức hiện đại nhưng phải phù hợp với thực tiễn của đất nước, đặc
điểm tâm sinh lí học sinh, đảm bảo tính hệ thống, lọgic và mối liên hệ chặt chẽ
giữa các môn học.

Trong quá trình dạy học học sinh phải lĩnh hội (chiếm lĩnh) được hệ
thống tri thức nói trên nghĩa là học sinh phải hiểu, nhớ và vận dụng được tri
thức vào thực tiễn. (Theo I.M. Xêsênơp, sự lĩnh hội là hoà những sản phẩm
kinh nghiệm của người khác với những kinh nghiệm của bản thân).

Bốn trình độ lĩnh hội:

- Tìm hiểu: Nhận biết, xác định, phân biệt, nhận ra.

- Tái hiện: Tái hiện về đối tượng theo trí nhớ hay ý nghĩa.

- Kỹ năng: Vận dụng kiến thức vào tình huống quen thuộc (kỹ năng),
nếu thành thạo, tự động hóa thì gọi là kĩ xảo.

- Biến hoá: Vận dụng kiến thức vào tình huống mới.

Cùng với quá trình lĩnh hội tri thức, học sinh được hình thành hệ thống
kĩ năng, kĩ xảo tương ứng. Trước hết đó là những kỹ năng, kĩ xảo chung liên
quan đến hoạt động học tập và tự học như kĩ năng thu thập, xử lý, lưu trữ,
vận dụng thông tin; kĩ năng làm việc có hiệu quả trong một nhóm cộng đồng;
kĩ năng vận dụng ngoại ngữ và tin học; kĩ năng phân tích và giải quyết các
tình huống…. Mặt khác, tùy theo từng môn học mà hình thành và rèn luyện
cho học sinh hệ thống các kỹ năng, kỹ xảo chuyên biệt phù hợp với mục tiêu
đào tạo.

Học sinh chỉ thực sự nắm vững tri thức khi bản thân tự giác, tích cực và
tự lực giành lấy tri thức đó, biến nó thành vốn hiểu biết của chính mình một
cách sáng tạo. Nghệ thuật dạy học của giáo viên thể hiện ở sự chỉ đạo thế
nào để học sinh không chỉ lĩnh hội được khái niệm mà cả phương pháp tìm ra
khái niệm.

1.2. Nhiệm vụ thứ hai


Tổ chức, điều khiển học sinh phát triển năng lực hoạt động trí tuệ, đặc
biệt là năng lực tư duy sáng tạo.

Những công trình nghiên cứu về tâm lý học và giáo dục học đã khẳng
định rằng sự phát triển trí tuệ nói chung được đặc trưng bởi sự tích luỹ vốn tri
thức và phát triển năng lực hoạt động trí tuệ. Vì vậy, trong hoạt động dạy học,
cùng với quá trình lĩnh hội tri thức học sinh phát triển năng lực hoạt động trí
tuệ. Năng lực hoạt động trí tuệ biểu hiện ở năng lực nhận thức và năng lực
hành động.

- Năng lực nhận thức là những đặc điểm tâm lí đảm bảo cho quá trình
nhận thức hiện thực có hiệu quả như cảm giác, tri giác, chú ý, trí nhớ, tư duy,
tưởng tượng… Năng lực hoạt động trí tuệ (năng lực tư duy) thể hiện cao nhất
ở năng lực vận dụng thành thạo các thao tác trí tuệ như phân tích, so sánh,
trừu tượng hoá, tổng hợp, khái quát hoá… Khả năng thực hiện các thao tác
tư duy là cơ sở của sự thông minh sáng tạo. Các thao tác trí tuệ được rèn
luyện, dần hình thành các phẩm chất trí tuệ như tính định hướng, bề rộng,
chiều sâu, tính linh hoạt, tính mềm dẻo, tính độc lập, tính nhất quán, tính phê
phán, tính khái quát trong hoạt động trí tuệ.

- Năng lực hành động là khả năng tổ chức các hoạt động tự học, tự
nghiên cứu như:

+ Kĩ năng và thói quen tổ chức lao động của cá nhân (lập kế hoạch,
triển khai kế hoạch, kiểm tra và điều chỉnh kế hoạch v.v…).

+ Biết chọn con đường tối ưu để hoàn thành công việc một cách hợp lí,
khoa học, sáng tạo.

+ Biết kiểm tra công việc, tuân thủ những quy tắc an toàn lao động.

+ Giữ gìn nơi làm việc sạch sẽ, ngăn nắp.

+ Sắp xếp và sử dụng thời gian hợp lí.

+ Biết tổng kết công việc…


Năng lực nhận thức, năng lực hành động được hình thành trên cơ sở
của sự nắm vững kiến thức khoa tiệc và thông qua chính quá trình lĩnh hội
kiến thức. Do đó, phát triển trí tuệ liên quan nhiều đến phương pháp giảng
dạy của giáo viên hơn là liên quan đến nội dung môn học.

1.3. Nhiệm vụ thứ ba

Hình thành thế giới quan khoa học, những phẩm chất đạo đức nói riêng
và phát triển nhân cách nói chung cho học sinh.

- Thế giới quan là hệ thống quan điểm về thế giới, về những hiện tượng
trong tự nhiên và xã hội: thế giới quan quy định xu hướng chính trị tư tưởng,
đạo đức và những phẩm chất khác. Nó chi phối cách nhìn nhận, thái độ và
hành động của mỗi cá nhân. Trong xã hội có giai cấp thế giới quan mang tính
giai cấp. Do đó, trong hoạt động dạy học phải hình thành cơ sở của thế giới
quan khoa học để học sinh có thái độ hành động đúng đắn.

- Bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức như lòng yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội; Năng động, chủ động, sáng tạo, tiết kiệm, thích ứng nhanh…

1.4. Mối quan hệ giữa ba nhiệm vụ dạy học

Các nhiệm vụ dạy học có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó:

- Nhiệm vụ một là cơ sở và nền tảng cho nhiệm vụ hai và ba, vì thiếu tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo tương ứng, thiếu phương pháp nhận thức thì không thể
phát triển trí tuệ và thiếu cơ sở để hình thành thế giới quan khoa học.

- Nhiệm vụ hai là kết quả và điều kiện của việc nắm vững tri thức kỹ
năng, kĩ xảo và là cơ sở để hình thành thế giới quan khoa học và những
phẩm chất đạo đức, vì phải có trình độ phát triển nhận thức nhất định mới
giúp học sinh có cách nhìn, có thái độ và hành động đúng đắn.

- Nhiệm vụ ba là mục đích và kết quả của hai nhiệm vụ trên vì nó kích
thích và chỉ đạo việc nắm tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo và phát triển
năng lực nhận thức.

2. Xác định nhiệm vụ dạy học chuyên biệt


Các nhiệm vụ dạy học được hiểu theo nhiều mức độ rộng, hẹp khác
nhau. Ở cấp độ rộng có thể hiểu nhiệm vụ đào tạo - là nhiệm vụ của cả một
khoá đào tạo. Nhiệm vụ dạy học ở cấp độ này được phát biểu một cách khái
quát, mang tính định hướng cho từng môn và từng hoạt động dạy học cụ thể.
Ở cấp độ trung gian, nhiệm vụ dạy học của một môn học - đó là các nhiệm vụ
của một môn, một giáo trình nên được phát biểu cụ thể cho từng lĩnh vực như
lĩnh vực nhận thức, lĩnh vực tình cảm và lĩnh vực hành động. Còn ở cấp độ vi
mô (chuyên biệt), nhiệm vụ dạy học của một bài dạy cụ thể được gọi là nhiệm
vụ học tập. Nhiệm vụ học tập là khả năng được hình thành ở học sinh sau khi
kết thúc bài học ấy. Do đó, khi xác định và viết các mục tiêu học tập cần đảm
bảo các yêu cầu sau:

- Nhiệm vụ học tập phải được xác định đầy đủ như về tri thức về kĩ
năng và về thái độ.

- Nhiệm vụ học tập được phát biểu hướng về nguời học.

- Nhiệm vụ học tập được phát biểu một cách ngắn gọn, rõ ràng, phải
quan sát được và thực thi được.

Thông thường, mục tiêu học tập được diễn đạt bằng những động từ
đơn nghĩa.

Trong "Kế hoạch bài dạy của Intel" cũng có mục "Mục tiêu bài dạy / Kết
quả học tập". Tại mục này, người dạy phải xác định các mục tiêu ưu tiên cần
đạt đến. Các mục tiêu này được phát biểu tương ứng với từng mức độ của
nội dung cơ bản, quan trọng của bài dạy. Vì thế, giáo viên cần đọc và phân
tích kĩ nội dung bài dạy để phân biệt những nội dung cơ bản, nội dung chính
so với những nội dung ít cơ bản, ít chính yếu hơn, những nội dung quá khó
so với những nội dung ít khó hơn. Sau đó, xác định mức độ phải đạt đến của
từng nội dung và chọn động từ tương ứng để phát biểu mục tiêu.

Ví dụ: Để phát biểu mục tiêu về tri thức, các động từ có thể được dùng,
đó là nêu lên, trình bày, phát biểu, gọi tên, chỉ ra, liệt kê, gạch chân hoặc giải
thích, phân tích, so sánh, sắp xếp phân biệt, chứng minh… Để phát biểu mục
tiêu về kĩ năng, các động từ có thể là vẽ, viết, dựng, tính, vận dụng, giải,… Để
phát biểu mục tiêu về thái độ có thể là "nhận ra tác dụng … mà có hành vi tích
cực…" Chẳng hạn nhận ra hậu quả của ô nhiễm môi trường mà giữ gìn vệ
sinh trường lớp, không xả rác bừa bãi v.v…

III. BẢN CHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC


1. Cơ sở xác định bản chất hoạt động dạy học

Khi xem xét bản chất hoạt động dạy học, chúng ta dựa trên hai mối
quan hệ mang tính qui luật của dạy học, đó là quan hệ giữa hoạt động nhận
thức của loài người với hoạt động dạy học và quan hệ giữa dạy và học, giữa
giáo viên và học sinh trong hoạt động dạy học.

Trong quá trình phát triển của lịch sử, loài người không ngừng nhận
thức và cải tạo thế giới khách quan; tích luỹ, hệ thống hóa, khái quát hóa
những kinh nghiệm thành tri thức. Hệ thống những tri thức này được truyền
lại cho thế hệ sau và được thế hệ sau lĩnh hội đồng thời không ngừng làm
phong phú thêm lên. Quá trình truyền thụ và lĩnh hội tri thức cho các thế hệ
sau được thực hiện bằng hoạt động dạy học. Như vậy, hoạt động nhận thức
có trước còn hoạt động dạy học có sau nên khi xem xét bản chất hoạt động
dạy học phải dựa vào bản chất hoạt động nhận thức của loài người.

Hoạt động dạy học là một hoạt động kép, trong đó hoạt động dạy do
giáo viên đảm nhận, hoạt động học do học sinh thực hiện. Hai hoạt động này
không tồn tại độc lập mà có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó, giáo
viên giữ vai trò chủ đạo, còn học sinh giữ vai trò chủ động, tích cực. Vì thế,
xem xét bản chất hoạt động dạy học phải xem xét cả bản chất hoạt động học
và bản chất hoạt động dạy trong mối quan hệ nói trên.

2. Bản chất hoạt động dạy học

Từ hai cơ sở đã trình bày ở trên, có thể khái quát bản chất của hoạt
động dạy học là hoạt động nhận thức độc đáo của học sinh dưới sự hướng
dẫn của giáo viên.
2.1. Học tập của học sinh là hoạt động nhận thức độc đáo

- Học tập của học sinh là một hoạt động nhận thức - quá trình học sinh
phản ánh hiện thực khách quan vào trong ý thức cá nhân. Học sinh là chủ thể
phản ánh tích cực, học sinh chỉ lĩnh hội những gì thực sự có ý nghĩa và phù
hợp với trình độ lĩnh hội của mình. Điều này được thực hiện rất rõ trong dạy
học theo dự án: học sinh luôn chọn chủ đề dự án gắn liền với hoàn cảnh cụ
thể, với những tình huống của thực tiễn xã hội, nghề nghiệp, đời sống…

- Học tập của học sinh cũng tuân theo qui luật nhận thức, đó là từ trực
quan sinh động đến tư duy cừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.

- Học tập làm cho vốn hiểu biết của học sinh phong phú và hoàn thiện
hơn. Chính vì thế, khi thực hiện dự án, học sinh phải khai thác các nguồn
thông tin khác nhau rồi phân tích tổng hợp, đánh giá và rút ra tri thức cho
mình, học sinh (nhóm học sinh) cần kết hợp giữa nghiên cứu lí thuyết và vận
dụng lí thuyết vào hoạt động thực tiễn, thực hành.

Hoạt động nhận thức của học sinh có những nét độc đáo so với hoạt
động nhận thức nói chung, đó là:

- Hoạt động nhận thức của - học sinh diễn ra trong môi trường sư
phạm, trong đó có vai trò tổ chức, hướng dẫn, điều khiển của giáo viên. Vì
vậy? hoạt động nhận thức của học sinh theo con đường đã được khám phá,
ngắn và ít khó khăn. Nếu thiếu sự điều khiển của giáo viên, hoạt động nhận
thức của học sinh sẽ mò mẫm, theo kiểu thử và sai. Trên con đường thử và
sai ấy học sinh sẽ gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng không đáng có làm cho
họ thiếu sự trách nhiệm đến cùng đối với việc học của mình.

- Hoạt động nhận thức của học sinh không tìm ra cái mới cho nhân loại
mà chỉ tái tạo lại chân lí loài người đã khám phá. Nói một cách khác, tri thức
học sinh lĩnh hội chỉ mới so với học sinh chứ không mới so với nhận thức của
nhân loại.

- Trong thời gian ngắn, học sinh có thể lĩnh hội một khối lượng tri thức
lớn một cách gián tiếp hoặc chỉ lặp lại một vài bước hình thành khái niệm nên
cần phải củng cố, luyện tập; củng cố để kiến thức trở lên vững chắc và cần
kiểm tra kết quả lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kỹ xảo ở học sinh.

- Trong hoạt động nhận thức của học sinh, đặc điểm lứa tuổi, đặc biệt
năng lực nhận thức được quan tâm và tiến hành giáo dục học sinh.

2.2. Vai trò tổ chức, hướng dẫn của giáo viên

- Giáo viên là người định hướng cho hoạt động học tập thông qua việc
xác định mục đích, mục tiêu học tập (kết quả học tập cần đạt đến) và chuyển
giao mục tiêu ấy đến học sinh ở trên lớp.

- Giáo viên lựa chọn các tình huống dạy học và áp dụng các phương
pháp dạy học tương ứng để hình thành tri thức, kĩ năng và cả phương pháp
tiếp cận tri thức ở học sinh. Chỉ có giáo viên là người quyết định dạy cái gì và
dạy như thế nào.

- Giáo viên phát hiện những khó khăn mà học sinh thường gặp phải
trong quá trình học tập để can thiệp sư phạm một cách hợp lí. Sự can thiệp
sư phạm của giáo viên không làm thui chột tính tích cực, độc lập của học
sinh, và không quá đề cao vai trò của người dạy.

- Giáo viên kiểm tra, điều chỉnh và xác nhận kết quả học tập của học
sinh, từ đó mở ra một qui trình dạy học mới. Có thể nói, giáo viên là người mở
ra và cũng là người kết thúc một qui trình dạy học.

Ví dụ, trong chương trình "Dạy học cho tương lai của Intel", vai trò của
giáo viên được thể hiện rất rõ:

- Vai trò định hướng: xác định các mục tiêu bài học, xây dựng các câu
hỏi định hướng (câu hỏi khái quát, câu hỏi bài học và câu hỏi nội dung).

- Vai trò tổ chức, điều khiển: chuyển giao nhiệm vụ, phân công nhân
sự, gợi ý các nguồn tài nguyên…

- Vai trò điều chỉnh hoạt động học của học sinh: thiết kế ba bài tập mẫu
cho học sinh, đó là bài PPT, Pub và Web.
- Vai trò kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh: các bài
đánh giá sản phẩm và tiêu chuẩn đánh giá các sản phẩm…

IV. ĐỘNG LỰC CỦA HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC


1. Khái quát về động lực của hoạt động dạy học

1.1. Động lực hoạt động dạy học là gì?

Dạy học là một quá trình vận động và phát triển liên tục. Vậy cái gì là
nguồn gốc của sự vận động và phát triển của quá trình dạy học (chủ yếu là sự
phát triển nhân cách của học sinh)? Cái gì là động lực của quá trình dạy học?

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mọi sự vật và hiện
tượng trong thế giới khách quan luôn vận động và phát triển không ngừng.
Nguyên nhân của sự vận động và phát triển là sự đấu tranh và giải quyết các
mâu thuẫn nội tại trong chính bản thân sự vật hiện tượng hay giữa các sự vật
và hiện tượng.

Hoạt động dạy học cũng như mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong
thế giới khách quan, tồn tại như là một hệ thống và luôn ở trạng thái vận
động, phát triển không ngừng. Sự vận động và phát triển của hoạt động dạy
học cũng nhờ việc giải quyết hợp lý các mâu thuẫn bên trong và bên ngoài
của nó.

a. Mâu thuẫn bên ngoài của hoạt động dạy học

Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các nhân tố của hoạt động dạy
học với môi trường bên ngoài. Ví dụ, yêu cầu của xã hội về người lao động có
đủ tri thức, kỹ năng và phẩm chất đạo đức mâu thuẫn với khả năng, thực lực
của nhà trường, trong đó có hoạt động dạy học. Giải quyết mâu thuẫn này
bằng cách xây dựng lại nội dung chương trình, đầu tư cơ sở vật chất trường
học… góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, chất lượng dạy học. Như vậy,
nếu phát hiện và giải quyết có hiệu quả mâu thuẫn bên ngoài sẽ tạo điều kiện
thúc đẩy hoạt động dạy học phát triển.
b. Mâu thuẫn bên trong của hoạt động dạy học

Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa các nhân tố hay giữa các yếu
tố trong một nhân tố thuộc cấu trúc hoạt động dạy học. Ví dụ, nội dung dạy
học mâu thuẫn với trình độ sư phạm của giáo viên hoặc mâu thuẫn giữa giáo
viên với học sinh, hay trong học sinh, động cơ học tập mâu thuẫn với phương
pháp, phong cách học, trong bản thân giáo viên trình độ chuyên môn sâu và
rộng không tương xứng với khả năng sử dụng các phương pháp và kĩ thuật
dạy học còn thấp v.v… Nếu phát hiện và giải quyết có hiệu quả mâu thuẫn
bên trong sẽ tạo động lực thúc đẩy hoạt động dạy học phát triển. Vậy, động
lực của hoạt động dạy học là việc giải quyết có hiệu quả các mâu thuẫn bên
trong.

c. Mâu thuẫn cơ bản của hoạt động dạy học

Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn bên trong tồn tại trong suốt hoạt động
dạy học; giải quyết mâu thuẫn cơ bản sẽ có tác dụng giải quyết các mâu
thuẫn khác và giải quyết mâu thuẫn cơ bản học sinh sẽ lĩnh hội được tri thức,
kỹ năng, kĩ xảo mới. Mâu thuẫn cơ bản của hoạt động dạy học là mâu thuẫn
giữa nhiệm vụ học tập (nhiệm vụ nhận thức) ngày càng cao với trình độ, khả
năng hiện có của học sinh (trình độ tri thức kĩ năng, phát triển trí tuệ đã được
hình thành). Việc giải quyết có hiệu quả mâu thuẫn cơ bản tạo nên động lực
chủ yếu của hoạt động dạy học.

1.2. Điều kiện để mâu thuẫn trở thành động lực dạy học

- Mâu thuẫn phải có nội dung (chứa đựng những khó khăn, đòi hỏi một
sự tìm tòi căng thẳng nhưng vừa sức với tiềm năng nhận thức của học sinh).
Trường hợp tốt nhất, mâu thuẫn chứa đựng tính chất nêu vấn đề thì nó sẽ
kích thích động cơ học tập của học sinh một cách mạnh mẽ.

- Mâu thuẫn được học sinh ý thức sâu sắc (họ phải nhận thức rõ những
yêu cầu của nhiệm vụ đề ra và đánh giá đúng trình độ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo,
trình độ phát triển trí tuệ của bản thân, cảm thấy khó khăn trong nhận thức và
có nhu cầu giải quyết khó khăn đó).
- Mâu thuẫn được xuất hiện tự nhiên trong tiến triển của sự dạy học, do
logic của quá trình này quy định.

Tuy nhiên không nên xem xét các khó khăn các mâu thuẫn một cách
rời rạc. Điều quan trọng đối với người giáo viên là tạo ra hệ thống những khó
khăn tăng dần, phức tạp hóa những nhiệm vụ nhận thức và tổ chức cho học
sinh giải quyết tự lực các bài toán ấy. Những bài toán nhận thức đòi hỏi tính
tự lực sáng tạo của học sinh là những phương tiện rất tốt để tạo ra động lực
của sự dạy học. Tổ chức một cách khéo léo những công tác tự lực của học
sinh để rèn luyện cho họ phương pháp học tập hợp lí và cả những phương
pháp tìm tòi sáng tạo. Những bài toán nhận thức thường được đưa ra cho
học sinh khi chuyển sang nghiên cứu vấn đề mới, làm cho họ suy nghĩ căng
thẳng, nhờ đó rèn luyện khả năng tư duy sáng tạo của học sinh. Học tập như
vậy sẽ hào hứng vì học sinh cảm thấy niềm vui của nhận thức và của lao
động sáng tạo.

2. Xây dụng “Bộ câu hỏi định hướng cho một bài dạy cụ thể theo
Intel”

Thực chất của việc xây dựng động lực của hoạt động dạy học là xác
định các mâu thuẫn bên trong của hoạt động dạy học, đặc biệt là mâu thuẫn
cơ bản và tìm các biện pháp để giải quyết các mâu thuẫn đó. Việc xác định
mâu thuẫn nhận thức của học sinh trong bài học dưới dạng bài toán nhận
thức hay các câu hỏi có tác dụng kích thích học sinh tích cực tìm tòi câu trả
lời được đặt ra ngay từ đầu của bài học. Như đã trình bày ở phần trên, "Kế
hoạch bài dạy theo Intel" là một bộ Hồ sơ bài dạy và thành phần quan trọng
không thể thiếu trong bộ Hồ sơ bài dạy ấy là Bộ câu hỏi định hướng, gồm câu
hỏi khái quát, câu hỏi bài học và câu hỏi nội dung. Theo quan điểm của Intel
thì phương pháp thiết kế bài dạy mấu chốt là xây dựng bài dạy trên những
câu hỏi để nâng cao kiến thức về nội dung chứ không phải chỉ đơn giản dạy
học sinh những câu trả lời có sẵn trong sách giáo khoa. Nhờ các câu hỏi mà
các hoạt động của học sinh sẽ không bị rời rạc và học sinh sẽ nắm được các
ý tưởng quan trọng, đồng thời cũng giảm bớt tính hời hợt, nông cạn và không
có mục đích trong hoạt động dạy của giáo viên.

* Bộ câu hỏi định hướng của bài học bao gồm:

- Câu hỏi khái quát có phạm vi rất rộng thường nằm trong những vấn
đề gây tranh cãi và có tầm quan trọng lịch sử hoặc trong một chủ đề của một
số lĩnh vực nghiên cứu. Ví dụ: “Phải chăng sách để đọc là sách hay?” hay “Số
học là một phát minh hay chỉ là một khám phá?”; “Mâu thuẫn tạo ra thay đổi
như thế nào?”; “Phải chăng sinh vật có số phận?”… Câu hỏi khái quát có tác
dụng đề xuất phương pháp nghiên cứu có kết quả chứ không dẫn đến những
kết luận sớm hay những câu trả lời vu vơ. Câu hỏi khái quát mang tính bao
quát và kích thích sự hứng thú của nó nên đôi khi quá tổng quát, quá trừu
tượng và khó tiếp cận đối với học sinh. Câu hỏi khái quát là những câu hỏi
mở, là cầu nối giữa môn học và bài học.

- Câu hỏi bài học cũng là câu hỏi mở nhưng bó hẹp trong một chủ đề
hoặc bài học cụ thể, nó hỗ trọ và phát triển câu hỏi khái quát. Ví dụ: "Môi
trường tác động đến quá trình tiến hóa của sinh giới ra sao?", "Nội chiến đã
làm thay đổi nền kinh tế như thế nào?"

Hãy quan sát sự khác nhau giữa hai loại câu hỏi này qua một vài ví dụ
ở bảng dưới đây:

Câu hỏi khái quát Câu hỏi bài học


Một người bạn là người Có phải Ếch và Cóc là những người bạn thực sự?
như thế nào?
Ánh sáng là gì? Mèo nhìn trong bóng tối bằng cách nào?

Ánh sáng là hạt hay là sóng?


Phải chăng chúng ta Mỉa mai, châm biếm, trào phúng là gì?
thường nghĩ sao nói Những thể loại này đã trợ giúp như thế nào trong
vậy? việc diễn tả những ý mà chúng ta không cần nói
thẳng?
- Câu hỏi nội dung là câu hỏi hỗ trợ trực tiếp về nội dung và mục tiêu
bài học và trả lời các câu hỏi nội dung thì hoàn thành kiến thức của bài học.
Ví dụ: Câu hỏi khái quát: “Làm thế nào để chúng ta có cuộc sống tốt hơn?”;
Câu hỏi bài học: “Chiến tranh có thể ngăn chặn được không?” và câu hỏi nội
dung: “Nguyên nhân nào dẫn đến chiến tranh thế giới thứ II?”

* Một số cách xây dựng các câu hỏi định hướng bài học

- Hãy bắt đầu… đừng lo ngại về cách thức và ngôn ngữ. Chú trọng vào
cách tư duy tập thể.

- Suy nghĩ về các câu hỏi học sinh sẽ hỏi khi bạn dạy bài này và chú
trọng vào việc làm sao để cuốn hút họ.

- Tìm xem điều gì làm cho học sinh ghi nhớ từ bài học này trong vòng 5
năm nữa.

- Bạn có thể viết câu hỏi như một mệnh đề trước, sau đó phát triển nó
thành câu hỏi.

- Nếu cần, trước hết hãy viết câu hỏi bằng ngôn ngữ "người lớn" để
diễn đạt được nội dung chính, sau đó viết lại bằng ngôn ngữ "học trò".

- Đảm bảo rằng mọi câu hỏi, kể cả các câu hỏi bài học, có nhiều hơn
một câu trả lời hiển nhiên "đúng" - nhằm phát triển kỹ năng tư duy mức cao.

- Luôn hỏi lại khi học sinh hỏi: "Vậy thì sao?"

V. LÔGIC CỦA HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC


1. Khái niệm và các khâu của hoạt động dạy học

1.1. Khái niệm

Logic của hoạt động dạy học là trình tự vận động hợp quy luật có hiệu
quả tối ưu của hoạt động dạy học nhằm đảm bảo cho học sinh chuyển trình
độ từ khi bắt đầu nghiên cứu môn học (đề mục) đến trình độ tương ứng khi
kết thúc môn học (đề mục).
Trình tự vận động hay sự tiến triển tối ưu thể hiện ra ở trình độ sắp xếp
và phối hợp (sau khi đã lựa chọn kĩ càng và có cân nhắc) thành một thể thống
nhất hoàn chỉnh giữa 3 yếu tố: mục đích dạy học - nội dung dạy học và
phương pháp dạy học. Logic của hoạt động dạy học là hợp kim, là sự thống
nhất hữu cơ của logic khoa học của tài liệu giáo khoa và logic tâm lí học của
sự lĩnh hội của học sinh.

- Logic khoa học của tài liệu giáo khoa là trình tự vận động và phát triển
hợp quy luật của đối tượng khoa học (sự kiện, khái niệm, quy luật, lí
thuyết…), là chủ đề của tài liệu đó, đi từ đơn giản đến phức tạp, hiện tượng
đến bản chất, từ bản chất cấp thấp đến bản chất cấp cao (quy luật ở đây
chính là quy luật nhận thức của khoa học mà tài liệu giáo khoa dựa vào).

- Logic tâm lí học của sự lĩnh hội tài liệu giáo khoa ở học sinh. Đành
rằng logic khoa học giữ vai trò chỉ đạo, quyết định sự tồn tại và chất lượng
của logic quá trình dạy học. Nhưng tự bản thân nó, một tài liệu khoa học
thuần túy (một lí thuyết khoa học mới được phát minh) chưa thể đem ra dạy
học trực tiếp ngay được, tức chưa phải là một tài liệu giáo khoa thực thụ. Vì
nó chưa phù hợp với trình độ lĩnh hội của trò. Ta cần xử lí tài liệu khoa học
một cách riêng biệt (lựa chọn, sắp xếp, phối hợp các yếu tố của tài liệu khoa
học, đưa thêm những kiến thức liên môn hỗ trợ, liên kết chung với những thí
nghiệm, đồ dùng trực quan và những thao tác của thầy (lời giải thích, câu hỏi)
và của trò để tài liệu khoa học phù hợp với trình độ lãnh hội của trò, với đặc
điểm tâm lí cá nhân học sinh và cả với những điều kiện tổ chức dạy học của
lớp học. Tài liệu khoa học đã được cải biên thành tài liệu giáo khoa tương
ứng phù hợp với tổ hợp bốn yếu tố sau:

a) Mục đích dạy học quy định tài liệu đang xét.

b) Kiểu của nội dung (kiến thức hay kĩ năng, kĩ xảo hay bài làm sáng
tạo).

c) Tính chất đặc thù của giai đoạn diễn ra sự học tập (tiếp thu ban đầu,
tự học hay ứng dụng).
d) Những đặc điểm riêng của học sinh về tâm lí học là chủ yếu là sự
phát triển trí tuệ.

Tổ hợp bốn yếu tố trên gọi là tâm lí học của sự lĩnh hội tài liệu giáo
khoa bởi học sinh cũng có quy luật riêng của sự vận động của nó.

Logic của bài giảng xuất phát từ logic khoa học của bài giảng thống
nhất với logic của tâm lí học của sự lĩnh hội của những học sinh cụ thể sẽ
nghiên cứu bài học đó.

Trong lí luận dạy học, người ta còn đưa ra thuật ngữ logic môn học.
Môn học là hệ thống những đề tài của các bài giảng. Nó có logic riêng của nó
gọi là logic môn học. Logic môn học là trình tự vận động và phát triển tối ưu
cửa hệ thống những kiến thức, kỹ năng, kĩ xảo của môn học, tuân theo logic
khoa học và phù hợp với tâm lí học của sự lĩnh hội kiến thức bởi học sinh.

Logic của hoạt động dạy học có thể diễn ra theo con đường quy nạp
hoặc diễn dịch; khái quát hóa kinh nghiệm hay khái quát hóa lí thuyết; so sánh
đối chiếu hay ngoại suy. Một logic cứng nhắc, rập khuôn hay máy móc của
quá trình dạy học đều có hại cho chất lượng lĩnh hội.

1.2. Các khâu của hoạt động dạy học

Mặc dù logic của hoạt động dạy học phải mang tính linh hoạt, biện
chứng nhưng nó cũng có một cấu trúc chung gồm một số bước (khâu, giai
đoạn) sau:

1) Đề xuất và gây ý thức về nhiệm vụ học tập, kích thích động cơ học
tập.

2) Tổ chức, điều khiển học sinh lĩnh hội trí thức mới (tri giác tài liệu mới,
khái quát hóa hình thành khái niệm khoa học).

3) Tổ chức, điều khiển học sinh củng cố và hoàn thiện kiến thức, luyện
tập (rèn kĩ năng, kĩ xảo).

4) Tổ chức, điều khiển học sinh vận dụng kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo để
giải quyết những bài tập với độ khó và phức tạp tăng dần (uốn nắn những sai
lệch trong việc hiểu tri thức, các thao tác tư duy hay thao tác chân tay); vận
dụng tri thức giải thích những hiện tượng, giải quyết những vấn đề thực tiễn
đề ra một cách vừa sức.

5) Tổ chức, điều khiển, kiểm tra, đánh giá việc nắm vững tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo ở học sinh: phối hợp nhiều hình thức kiểm tra, đánh giá, đảm
bảo những nguyên tắc kiểm tra, đánh giá; bồi dưỡng ý thức năng lực tự kiểm
tra, đánh giá ở học sinh.

6) Phân tích kết quả từng giai đoạn từng bước của hoạt động dạy học:
Đối chiếu kết quả thu được với mục đích, nhiệm vụ đề ra, phát hiện ưu,
nhược, nguyên nhân và tìm ra hướng giải quyết.

Mỗi bước (khâu) của hoạt động dạy học một mặt hoàn thành mục đích
dạy học chung, mặt khác còn có chức năng riêng biệt (mục đích lí luận dạy
học riêng). Hai mặt chung và riêng phải được kết hợp chặt chẽ với nhau trong
mỗi bước (khâu).

Thực hiện các khâu trong hoạt động dạy học, tuỳ theo nhiệm vụ cụ thể
mà thực hiện ở những mức độ khác nhau cho từng khâu; không nhất thiết
phải thực hiện theo trình tự cố định trên.

2. Xây dựng các bước thực hiện bài dạy theo Intel

Các bước thực hiện bài dạy theo Intel về thực chất là trình tự chuyển
giao và thực hiện một dự án nên có các bước sau:

Bước 1: Học sinh hay nhóm học sinh nhận nhiệm vụ học tập dưới dạng
một dự án, lên kế hoạch thực hiện dự án như đưa ra các phương án triển
khai dự án, lựa chọn phương án khả thi phân công nhiệm vụ cho từng thành
viên, xác định mức độ đạt đến của từng công việc và thời gian hoàn thành.

Bước 2: Học sinh thực hiện dự án bao gồm thu thập thông tin từ các
nguồn, xử lí thông tin như phân tích, so sánh, lựa chọn, tổng hợp và khái quát
hoá.
Bước 3: Viết kết quả của dự án dưới dạng bài word hay bài trình diễn
đa phương tiện (PPT) hoặc một pub hay một web tuỳ theo sản phẩm mà giáo
viên yêu cầu.

Bước 4: Phổ biến kết quả dự án ở tình huống mà học sinh đóng vai.

Bước 5: Thảo luận chung ở trên lớp về kết quả dự án và viết thu hoạch
cá nhân về dự án.

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 4

1. Phát biểu khái niệm hoạt động dạy học; chỉ ra những yếu tố cấu
thành hoạt động dạy học và mối quan hệ giữa chúng.

2. Giải thích các nhiệm vụ dạy học và mối quan hệ giữa chúng. Vận
dụng để xác định các nhiệm vụ dạy học cho một bài dạy cụ thể.

3. Giải thích bản chất hoạt động dạy học là tính hai mặt của nó. Liên hệ
với thực tiễn dạy học hiện nay.

4. Giải thích động lực của hoạt động dạy học. Chỉ ra động lực dạy học
trong một bài dạy có thể.

5. Vận dụng các khâu của quá trình dạy học để tổ chức một bài dạy cụ
thể.

Chương 5: TÍNH QUY LUẬT VÀ NGUYÊN TẮC DẠY HỌC


I. TÍNH QUY LUẬT CỦA HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
1. Khái niệm quy luật và tính quy luật

Qui luật được hiểu là mối liên hệ bên trong cơ bản, tất yếu, bền vững,
tồn tại khách quan và lặp đi lặp lại giữa các sự vật, hiện tượng hoặc quá trình,
chi phối sự phát triển tất yếu của chúng… Qui luật biểu hiện một trật tự nhất
định của mối liên hệ nhân quả, cần thiết, bền vững giữa các sự vật, hiện
tượng của thế giới khách quan, trong đó sự thay đổi một số hiện tượng này
gây ra những thay đổi rõ rệt ở các hiện tượng khác. Khái niệm qui luật gần
gũi với khái niệm bản chất: là toàn bộ những mối liên hệ sâu sắc của các quá
trình xác định những đặc điểm quan trọng nhất và những xu thế phát triển của
sự vật. Việc nhận thức qui luật đòi hỏi phải chuyển hóa từ hiện tượng đến bản
chất. Qui luật tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý thức của con người.
Bản thân con người không sáng tạo ra qui luật mà phát hiện ra nó, hiểu biết
qui luật, hạn chế hay mở rộng phạm vi tác dụng của qui luật phù hợp với nhu
cầu và lợi ích của mình.

Tính quy luật được hiểu như là quy luật chưa được nhận thức chưa
đầy đủ, chính xác, chưa diễn đạt được một cách chặt chẽ về định lượng và
định tính - là bước đầu của sự nhận thức quy luật. Song, về bản chất, tính
quy luật cũng như quy luật đều là phạm trù biểu thị mối liên hệ bên trong,
khách quan, cơ bản của các hiện tượng, chi phối sự phát triển tất yếu của
những hiện tượng ấy.

Hoạt động dạy học vận động và phát triển không ngừng và cũng tuân
theo những tính qui luật khách quan, phản ánh những mối liên hệ, tất yếu,
chủ yếu và bền vững vốn có của nó. Trên cơ sở các yêu cầu cơ bản của quan
điểm hệ thống - cấu trúc có thể phân tích, nghiên cứu một hệ thống phong
phú, đa dạng các tính qui luật chung và đặc thù của hoạt động dạy học.

2. Những tính quy luật của hoạt động dạy học

Đến nay, người ta đã phát hiện được những tính quy luật của hoạt
động dạy học sau:

- Tính quy luật về tính quy định xã hội đối với hoạt động dạy học.

- Tính quy luật thống nhất biện chứng giữa dạy và học.

- Tính quy luật thống nhất biện chứng giữa dạy học và phát triển trí tuệ
người học.

- Tính quy luật thống nhất biện chứng giữa dạy học và giáo dục.

- Tính quy luật thống nhất biện chứng giữa mục đích dạy học, nội dung
dạy học với phương pháp, phương tiện dạy học.
- Tính quy luật thống nhất biện chứng giữa việc xây dựng kế hoạch,
việc tổ chức, việc kiểm tra và điều chỉnh hoạt động của người học trong quá
trình dạy học.

Những tính quy luật dạy học được trình bày trên đây là một trong
những căn cứ để đề xuất các nguyên tắc dạy học góp phần nâng cao chất
lượng của dạy học.

II. NGUYÊN TẮC DẠY HỌC


1. Khái niệm chung về nguyên tắc dạy học

1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc dạy học

Nguyên tắc dạy học là các luận điểm cơ bản có tính quy luật của lý luận
dạy học, có tác dụng chỉ đạo toàn bộ tiến trình dạy học nhằm thực hiện tốt
các nhiệm vụ dạy học phù hợp với mục đích dạy học đã đề ra.

Nguyên tắc dạy học có tác dụng chỉ đạo toàn bộ tiến trình dạy học, tức
là chỉ đạo cả hoạt động dạy của thầy và cả hoạt động học của trò một cách
hợp quy luật. Nói cách khác, chúng chỉ đạo việc lựa chọn và vận dụng nội
dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học nhằm thực hiện được tốt
nhất các nhiệm vụ dạy học phù hợp với mục đích dạy học.

1.2. Cơ sở khoa học xây dựng nguyên tắc dạy học

- Căn cứ vào mục đích giáo dục

- Căn cứ vào bản chất và các tính quy luật của hoạt động dạy học

- Căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý người học

- Căn cứ vào những tư tưởng giáo dục tiến bộ…

2. Hệ thống các nguyên tắc dạy học ở nhà trường phổ thông Việt
Nam

2.1. Nguyên tắc dạy học đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa
học và tính giáo dục
Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học phải trang bị cho học
sinh hệ thống những tri thức khoa học cơ bản, hiện đại về các lĩnh vực tự
nhiên, xã hội và tư duy; phải giúp học sinh tiếp cận với những phương pháp
học tập - nhận thức và phương pháp nghiên cứu khoa học ở những mức độ
khác nhau, hình thành được thói quen và suy nghĩ, làm việc một cách khoa
học, nghiêm túc. Thông qua đó mà dần dần hình thành cơ sở của thế giới
quan khoa học, tình cảm; niềm tin, những phẩm chất đạo đức cao quý của
con người.

Như vậy có nghĩa là bằng bản thân những trí thức khoa học chân
chính, chính xác, bằng phương pháp và tổ chức nắm những tri thức đó,
chúng ta bồi dưỡng cho học sinh một cách có hệ thống những quan điểm đối
với tự nhiên, xã hội và tư duy, những phẩm chất dạo đức như ý thức làm chủ
tập thể ý thức lao động, lòng yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản và những
tình cảm trong sáng v.v… Ngược lại, chính những quan điểm, phẩm chất, tình
cảm này một khi đã đi vào học sinh thì chúng sẽ có tác dụng thúc đẩy các em
hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập.

Đảm bảo sự thống nhất giữa tính khoa học và tính giáo dục trong dạy
học là đảm bảo sự thống - nhất giữa hai mặt phẩm chất và năng lực trong
nhân cách học sinh. Có nghĩa là trong dạy học, người giáo viên phải coi trọng
cả hai mặt: "dạy chữ" và "dạy người", phải thông qua "dạy chữ để dạy người".
Muốn vậy, trong hoạt động dạy học cần phải:

- Trang bị cho học sinh những chân lý đã được khẳng định vững chắc
trong khoa học, những quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội. Thông qua
đó hình thành ở họ cơ sở thế giới quan khoa học, nhân sinh quan tiến bộ.
Bên cạnh đó, ở một chừng mực nhất định, giáo viên có thể giới thiệu cho học
sinh những vấn đề có liên đến môn học, còn đang tranh luận trong giới khoa
học.

- Ở những nội dung bài học, giáo viên cần làm cho học sinh hiểu được
thiên nhiên, xã hội và con người Việt Nam, những truyền thống đấu tranh và
xây dựng đất nước của dân tộc ta, từ đó giáo dục lòng yêu quê hương, tinh
thần trách nhiệm trong học tập và tu dưỡng.

- Bồi dưỡng cho học sinh năng lực phân tích và phê phán những hiện
tượng mê tín, dị đoan có liên quan đến nội dung bài học.

- Trình bày những tri thức khoa học theo một hệ thống logic chặt chẽ.

- Giúp học sinh làm quen với một số phương pháp nghiên cứu khoa
học đơn giản như quan sát, tham khảo tài liệu, thí nghiệm, lập dự án gắn với
lợi ích của cộng đồng dân cư nhằm giúp học sinh rèn luyện những phẩm chất,
tác phong của nhà nghiên cứu.

- Vận dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học theo hướng
phát triển ở học sinh năng lực tư duy khoa học, thói quen và phương pháp
học tập khoa học đồng thời ngăn ngừa tình trạng học vẹt và giáo điều…

2.2. Nguyên tắc dạy học đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn

Triết học chủ nghĩa duy vật biện chứng đã chỉ ra mối quan hệ thống
nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận là toàn bộ những hiểu biết,
kinh nghiệm của loài người đã được khái quát hóa trong các lĩnh vực khoa
học - đó là toàn bộ những kiến thức về thế giới khách quan. Thực tiễn là hiện
thực khách quan tồn tại xung quanh con người và toàn bộ hoạt động của con
người nhằm bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Lý luận và thực
tiễn có mối quan hệ biện chứng: lý luận được đúc kết nên từ thực tiễn, được
vận dụng để giải quyết những nhiệm vụ thực tiễn, chỉ đạo thực tiễn, được
thực tiễn kiểm nghiệm và chứng minh. Thực tiễn vừa là nguồn gốc, vừa là
động lực của nhận thức, vừa là tiêu chuẩn của chân lý (xác minh hay phủ
nhận sự đúng đắn của những quan điểm lý thuyết so với thực tế khách quan),
vừa là mục đích của nhận thức.

Về mặt cơ sở triết học, mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn hay giữa
lý thuyết và thực hành đúng cho sự nhận thức khoa học nói chung và cho
hoạt động dạy học nói riêng. Bản thân nội dung lý luận liên hệ với thực tiễn
phản ánh nội dung học đi đôi với hành. Bác Hồ đã nói: "Lý luận phải đem ra
thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận, lý luận cũng như cái tên (hoặc
viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn hoặc
bắn lung tung cũng như không có tên… Vì vậy, chúng ta phải gắng học, đồng
thời học phải hành".

Nguyên tắc này đòi hỏi giáo viên trong quá trình dạy học phải tổ chức,
điều khiển học sinh nắm vững chắc hệ thống tri thức lý thuyết khoa học, thấy
được tác dụng của những tri thức này đối với đời sống, đối với thực tiễn đồng
thời hình thành cho học sinh kỹ năng vận dụng tri thức đã học vào việc giải
quyết những vấn đề của thực tiễn.

Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong dạy học là sự thống nhất
giữa kiến thức và kỹ năng, giữa lý thuyết và thực hành. Giáo viên không nên
quá thiên lệch về một phía nào cả. Vì nếu đề cao lý thuyết mà xem nhẹ thực
hành thì chúng ta chỉ đào tạo ra những người chỉ biết nói mà không biết làm.
Và nếu chúng ta quá đề cao thực hành mà xem nhẹ lý thuyết, thì việc thực
hành ấy tỏ ta mù quáng; thiếu cơ sở khoa học. Sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn được thể hiện ở vai trò của từng yếu tố: lý luận có tác dụng soi
đường cho thực tiễn, còn thực tiễn góp phần phát triển lý luận lên một tầm
cao mới. Nguyên tắc này góp phần nâng cao giá trị thực tiễn của dạy học, làm
cho người học thấy được việc học tập của họ là có ích cho bản thân, gia đình
và xã hội.

Để thực hiện nguyên tắc này, cần phải:

- Khi gây dựng chương trình dạy học cần lựa chọn những môn học đáp
ứng được các yêu cầu của xã hội; khi soạn giáo án, cần khai thác thực tiễn
địa phương để làm phong phú bài giảng.

- Về nội dung dạy học, cần làm cho học sinh thấy rõ các khoa học nẩy
sinh là do nhu cầu- của thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn, cần chỉ ra những
phương hướng ứng dụng những tri thức đã học vào thực tiễn, cần khai thác
vốn sống của học sinh để minh họa cho những điều đã học.
- Về phương pháp dạy học, cần vận dụng các phương pháp dạy học
như thí nghiệm, giải quyết vấn đề. Đặc biệt là khi ra đề thi, đề kiểm tra cần
chú ý đến tỉ lệ thực tế trên toàn bộ bài thi, tránh ra đề theo lối kiểm tra việc
học thuộc kiến thức mà không chú ý kiểm tra khả năng vận dụng kiến thức để
giải quyết các vấn đề thực tiễn.

- Về hình thức tổ chức dạy học cần tăng cường sử dụng các hình thức
tổ chức dạy học như thực hành, nghiên cứu khoa học, dạy học theo dự án,…
nhằm gắn việc dạy học với thực tiễn cuộc sống.

2.3. Nguyên tắc dạy học đảm bảo sự thống nhất giữa cái cụ thể và
cái trừu tượng trong dạy học

Bản chất của hoạt động dạy học là hoạt động nhận thức độc đáo của
học sinh dưới sự tổ chức và điều khiển của giáo viên. Hoạt động nhận thức
của học sinh về cơ bản cũng diễn ra theo qui luật: "Từ trực quan sinh động
đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn". Như vậy, ở đây
diễn ra sự di chuyển từ cái cụ thể đến cái trừu tượng và ngược lại. Học sinh
có thể nhận thức bằng con đường từ cụ thể đến trừu tượng và từ trừu tượng
đến cụ thể. Ở đây, cái cụ thể và cái trừu tượng thống nhất với nhau, đảm bảo
cho học sinh hoàn thành quá trình nhận thức được trọn vẹn.

Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học phải làm cho học sinh
trực tiếp tiếp xúc với những sự vật hiện tượng hay những hình tượng của
chúng để hình thành các biểu tượng, từ đó lĩnh hội các khái niệm, quy luật, lý
thuyết trừu tượng. Ngược lại, đối với học sinh trung học phổ thông với vốn
biểu tượng phong phú, ta có thể giới thiệu những khái niệm trừu tượng,
những định luật rồi sau đó giải thích, chứng minh bằng những trường hợp cụ
thể.

Đồng thời trong dạy học phải đảm bảo mối liên hệ qua lại giữa tư duy
cụ thể và tư duy trừu tượng. Tư duy cụ thể là tư duy với phương tiện trực
quan như các đồ vật, thường xuất hiện ở lứa tuổi nhỏ (nhà trẻ, mẫu giáo, lớp
1…). Nó là tiền đề, nền tảng nảy sinh và phát triển tư duy trừu tượng (tư duy
bằng khái niệm). Ngược lại, nếu tư duy trừu tượng phát triển sẽ giúp tư duy
cụ thể diễn ra nhanh chóng. Đó cũng chính là hai con đường nhận thức của
loài người nói chung và học sinh nói riêng: từ cụ thể đến trừu tượng và ngược
lại.

Trong lịch sử giáo dục học, nguyên tắc này có tên gọi: Đảm bảo tính
trực quan do nhà sư phạm I.A. Cô-men-xki (thế kỷ XVII) khởi xướng và được
các nhà tư tưởng, nhà giáo dục sau đó phát triển.

Để thực hiện nguyên tắc này, cần chú ý:

- Sử dụng phối hợp nhiều loại phương tiện trực quan khác nhau với tư
cách là các phương tiện nhận thức (ví dụ: kính hiển vi, kính lúp là phương
tiện quan sát) và các nguồn nhận thức (các vật thật và vật thay thế). Có thể
sử dụng chúng khi giảng tri thức mới, khi rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, khi củng
cố tri thức, kiểm tra tri thức kỹ năng, kỹ xảo.

- Kết hợp việc trình bày trực quan với lời nói. Sử dụng lời nói giàu hình
ảnh để giúp học sinh vận dụng những biểu tượng đã có nhằm hình thành
những biểu tượng mới.

- Rèn luyện óc quan sát và năng lực khái quát hóa cho học sinh.

- Tổ chức, điều khiển học sinh nhận thức theo hai con đường: cụ thể
đến trừu tượng và ngược lại.

2.4. Nguyên tắc dạy học đảm bảo sự thống nhất giữa tính vững
chắc của tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và tính mềm dẻo của tư duy

Sự lĩnh hội kiến thức và sự phát triển các năng lực nhận thức của học
sinh là hai mặt của cùng một quá trình có tính quy luật: quy luật thống nhất
biện chứng giữa dạy học và phát triển trí tuệ. Học sinh chỉ thực sự nắm vững
được kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo khi nào trong quá trình đó họ huy động mọi
năng lực nhận thức (tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng) và khả năng vận
dụng tri thức. Từ đó nhiệm vụ của dạy học là vừa giúp học sinh nắm vững
chắc tri thức, kỹ năng, kỹ xảo để có một vốn tri thức cơ bản, vững chắc, lại
vừa phát triển tư duy một cách mềm dẻo linh hoạt để vận dụng vốn tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo đó trong những tình huống khác nhau.
Nguyên tắc dạy học này đòi hỏi trong quá trình dạy học phải làm cho
học sinh nắm vững chắc hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, đồng thời giúp
học sinh rèn luyện và phát triển được các năng lực và phẩm chất trí tuệ, đặc
biệt tính linh hoạt, mềm dẻo của tư duy.

Tính vững chắc của tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thể hiện ở chỗ tri thức do
học sinh tiếp thu được lưu giữ lâu dài trong trí nhớ của họ; kỹ năng, kỹ xảo
được hình thành và tồn tại lâu ở bản thân học sinh. Muốn vậy, cần giúp học
sinh hiểu bài, nắm được bản chất và trọng tâm của vấn đề, sau đó ôn tập
thường xuyên. Tránh tình trạng học sinh chưa hiểu bài đã vội củng cố hoặc
chấp nhận cho học sinh học vẹt. Giáo viên cần giúp học sinh phương pháp
tìm hiểu, tóm tắt nội dung giáo khoa khi tự học ở nhà, hình thành một số kỹ
năng tự học, kỹ năng thực hành.

Tính mềm dẻo của tư duy được thể hiện ở chỗ học sinh có thể vận
dụng nhũng điều đã học từ tình huống quen thuộc sang tình huống mới.

Tính vững chắc của tri thức và tính mềm dẻo của tư duy có mối quan
hệ thống nhất và biện chứng với nhau. Tính mềm dẻo của tư duy chỉ hình
thành ở mỗi học sinh khi các em đã lĩnh hội hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
một cách vững chắc và chính thông qua sự vận dụng linh hoạt, mềm dẻo tri
thức đã học trong các tình huống sẽ giúp học sinh củng cố vững chắc những
điều đã lĩnh hội.

Để thực hiện nguyên tắc, cần chú ý:

- Giáo viên cần làm rõ, nhấn mạnh trọng tâm bài học để học sinh ghi
nhớ dễ dàng.

- Trong quá trình tự học, học sinh phải biết sử dụng phối hợp các loại
ghi nhớ: ghi nhớ chủ định và ghi nhớ không chủ định, ghi nhớ máy móc và ghi
nhớ có ý nghĩa. Điều quan trọng là giáo viên cần chỉ cho học sinh những nội
dung cần phải ghi nhớ chính xác (định luật, định lý, công thức) và những nội
dung chỉ cần nhớ đại ý (nội dung một đoạn văn). Tất cả đều dựa trên cơ sở
hiểu bài rồi mới ghi nhớ, tránh học vẹt. Khi ra đề kiểm tra không nên buộc học
sinh chỉ đơn thuần trình bày lại những điều đã có trong sách mà nên đặt học
sinh vào những tình huống buộc họ phải vận dụng kiến thức đã học để giải
quyết. Có như vậy thì những phẩm chất như tính mềm dẻo của tư duy và
những phẩm chất khác như tính sáng tạo mới được hình thành và phát triển.

- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh tự soạn những bài ôn tập cuối
chương, cuối chương trình thay vì soạn sẵn cho họ. Nếu giáo viên soạn sẵn
bài ôn tập cho học sinh thì năng lực khái quát hoá tài liệu của họ sẽ không
được hình thành và phát triển.

2.5. Nguyên tắc dạy học đảm bảo sự thống nhất giữa tính vừa sức
chung với tính vừa sức riêng

Dựa vào những đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, trong quá trình dạy
học bao giờ cũng diễn ra sự phân hóa trình độ của học sinh trong một lớp. Do
vậy, người giáo viên trong quá trình xác định nhiệm vụ, lựa chọn nội dung,
phương pháp dạy học, cần phải căn cứ vào khả năng học tập thực sự của
học sinh ở mỗi lứa tuổi, trong từng lớp học cụ thể. Nếu nội dung quá cao thì
việc tạo động cơ học tập giảm đi, nỗ lực ý chí kém, dẫn đến hiện tượng quá
tải về trí tuệ. Ngược lại, nội dung học tập quá đơn giản cũng sẽ làm mất hứng
thú học tập và giảm khả năng phát triển của học sinh.

Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình dạy học, giáo viên phải vận dụng
nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với trình độ
phát triển của trình độ chung trong lớp, đồng thời cũng phù hợp với trình độ
phát triển của từng đối tượng học sinh, thậm chí của từng cá nhân học sinh,
đảm bảo cho mọi học sinh đều có thể phát triển ở mức tối đa so với khả năng
của mình.

Theo quan điểm dạy học phát triển, dạy học vừa sức có nghĩa là những
yêu cầu, nhiệm vụ học tập do giáo viên nêu ra phải phù hợp với giới hạn cao
nhất của vùng phát triển trí tuệ gần nhất của học sinh mà học sinh có thể
hoàn thành được với sự nỗ lực cao nhất về trí tuệ và thể lực.

Cần chú ý những vấn đề sau đây khi thực hiện nguyên tắc:
- Nắm vững đặc điểm của đối tượng học sinh. Chẳng hạn, thông qua
bài kiểm tra chất lượng đầu năm học giáo viên sẽ biết được trình độ chung
của lớp cũng như trình độ riêng của từng học sinh. Từ đó giáo viên sẽ có cơ
sở chuẩn bị giáo án phù hợp với trình độ chung của lớp và trình độ riêng của
từng đối tượng cũng như từng cá nhân học sinh.

- Trong quá trình dạy học phải đi từ dễ đến khó, từ việc nắm tri thức
đến việc hình thành kỹ năng, từ việc vận dụng tri thức vào những tình huống
tương tự, quen thuộc đến việc vận dụng tri thức vào những tình huống mới.

- Giáo viên phải thường xuyên theo dõi tình hình lĩnh hội của học sinh
để có thể kịp thời điều chỉnh hoạt động của bản thân cũng như của học sinh,
nhất là học sinh thuộc đối tượng yếu kém.

- Cần cá biệt hoá việc dạy học là biện pháp nhằm giúp đỡ riêng từng
loại đối tượng học sinh thậm chí từng học sinh.

+ Đối với học sinh khá - giỏi, giáo viên có thể hướng dẫn họ đọc thêm
tài liệu tham khảo, giải thêm những bài tập khó hoặc tham gia các loại hình
hoạt động khoa học đơn giản như: Câu lạc bộ các nhà khoa học trẻ, câu lạc
bộ thơ văn…

+ Đối với học sinh yếu kém, giáo viên cần xác định nguyên nhân yếu
kém để có biện pháp giúp đỡ phù hợp. Nếu yếu kém do năng lực học tập hạn
chế (có lỗ hổng trong sự phát triển tư duy, trong kiến thức, có kỹ xảo học tập
ở trình độ thấp) giáo viên cần bồi dưỡng phương pháp học tập, bổ sung tri
thức, hướng dẫn hoàn thành các bài tập nhận thức. Nếu yếu kém về tư tưởng
đạo đức (có thái độ tiêu cực đối với học tập, thiếu ý chí, kỷ luật) giáo viên cần
giáo dục tư tưởng đạo đức; động viên tinh thần, thái độ học tập. Nếu yếu kém
do cả hai thì cần phối hợp cả hai nhóm biện pháp đã nêu trên để giúp đỡ học
sinh…

2.6. Nguyên tắc dạy học đảm bảo sự thống nhất giữa vai trò tự
giác, tích cực, độc lập của học sinh dưới tác dụng chủ đạo của giáo viên
Quá trình nhận thức của học sinh là quá trình trong đó, học sinh với tư
cách là chủ thể phản ánh thế giới khách quan vào ý thức của mình, nắm
được bản chất các quy luật của nó, vận dụng các quy luật này để biến đổi nó.
Vì vậy, quá trình nhận thức của học sinh với những bước nhảy vọt từ nhận
thức cảm tính sang nhận thức lý tính và từ nhận thức sang thực tiễn chỉ có
thể đạt hiệu quả nếu như học sinh phát huy được tính tự giác, tích cực, độc
lập trong hoạt động nhận thức. Hơn nữa, quá trình nhận thức đó được hoàn
thành với chất lượng và hiệu quả nhanh hơn nhờ vào sự tác động qua lại
giữa giáo viên và học sinh, giữa dạy và học.

Xuất phát từ tính quy luật thống nhất biện chứng giữa dạy và học,
nguyên tắc này đòi hỏi trong hoạt động dạy học phải phát huy tính tự giác,
tính tích cực, tính độc lập của học sinh dưới tác dụng chủ đạo của giáo viên
trong mọi khâu của quá trình dạy học.

- Tính tự giác nhận thức thể hiện ở chỗ học sinh ý thức được đầy đủ
mục đích nhiệm vụ học tập; có ý thức trong việc lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ
năng, kỹ xảo; có ý thức trong việc lưu trữ những thông tin đã thu được; có ý
thức trong việc vận dụng những điều đã học; và có ý thức tự kiểm tra, tự đánh
giá toàn bộ quá trình học tập của mình.

- Tính tích cực nhận thức thể hiện ở thái độ cải tạo của chủ thể đối với
đối tượng nhận thức. Nghĩa là tài liệu học tập được phản ánh vào não học
sinh được chế biến đi, được vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào các tình huống
khác nhau nhằm cải tạo hiện thực, cải tạo bản thân mình. Dưới góc độ tâm lý
học, tính tích cực nhận thức được diễn đạt dưới dạng mô hình tâm lý của
hoạt động nhận thức bao gồm nhận thức, tình cảm và ý chí, trong đó nhận
thức đóng vai trò chủ yếu.

- Tính độc lập nhận thức của học sinh được đặc trưng ở chỗ học sinh
có thể tự mình phát hiện và giải quyết được vấn đề.

Ba phẩm chất nói trên liên quan mật thiết với nhau: tính tự giác là cơ sở
để hình thành tính tích cực; tính tích cực phát triển đến mức nào đó thì làm
nảy sinh tính độc lập. Như vậy tính độc lập chứa đựng trong nó tính tích cực
và tính tự giác. Chúng được hình thành và phát triển dưới ảnh hưởng chủ
đạo của giáo viên.

Vai trò chủ đạo của giáo viên trong quá trình dạy học được thể hiện ở
sự tổ chức, điều khiển, hướng dẫn học sinh học tập chứ không làm thay hoạt
động học tập nhận thức của học sinh. Nếu giáo viên làm thay học sinh hoạt
động nhận thức của học sinh tức là hoạt động của giáo viên đã lấn át tính tự
giác, tính tích cực, tính độc lập nhận thức của học sinh.

Để thực hiện nguyên tắc này, cần phải:

- Giáo dục học sinh ý thức đầy đủ, sâu sắc mục đích, nhiệm vụ học tập,
từ đó có động cơ, thái độ học tập đúng đắn. Việc khen thưởng, phê bình,
khiển trách cũng có tác dụng lớn đối với việc học tập của học sinh. Vì vậy cần
sử dụng phương pháp này kịp thời, đúng mức, có tác dụng sâu sắc.

- Dạy học nêu vấn đề có ý nghĩa đặc biệt đối với việc phát huy ở học
sinh tính tự giác, tính tích cực và tính độc lập nhận thức. Tùy thuộc vào mức
độ khó của bài học mà giáo viên sử dụng dạy học nêu vấn đề ở những mức
độ khác nhau.

- Trong quá trình dạy học, cần bồi dưỡng cho học sinh óc hoài nghi
khoa học, không lĩnh hội và không tin tưởng mù quáng những tri thức mà bản
thân chưa hiểu; không rèn luyện những kỹ năng khi không biết cơ sở lý luận
cũng như ý nghĩa thực tiễn của chúng, không làm bài tập, không trả lời câu
hỏi khi chưa nắm được lý thuyết.

- Trong suốt quá trình dạy học, phải đảm bảo thu được những tín hiệu
ngược trong và ngược ngoài. Nhờ đó các hoạt động của học sinh cũng như
của giáo viên được điều chỉnh, hoàn thiện kịp thời trên cơ sở duy trì và phát
triển tính tự giác, tính tích cực, tính độc lập của học sinh và tính chủ đạo trong
hoạt động của giáo viên.

Toàn bộ các nguyên tắc dạy học hợp lại thành một hệ thống có liên
quan mật thiết với nhau, thâm nhập vào nhau và hỗ trợ lẫn nhau.

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 5


1. Trình bày khái niệm, ý nghiã và cơ sở xác định nguyên tắc dạy học

2. Phân tích cơ sở xuất phát, nội dung và yêu cầu thực hiện từng
nguyên tắc dạy học. Cho ví dụ về việc vận dụng nguyên tắc dạy học này trong
một bài dạy cụ thể thuộc môn học mà anh/ chị phụ trách trong chương trình
THPT.

3. Phân tích mối lên hệ biện chứng giữa các nguyên tắc dạy học.

4. Phân tích, đánh giá những ưu điểm và phê phán những thiếu sót
trong việc vận dụng các nguyên tắc dạy học của giáo viên phổ thông.

Chương 6: NỘI DUNG DẠY HỌC


I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ NỘI DUNG DẠY HỌC
1. Khái niệm nội dung dạy học

Nội dung dạy học là một nhân tố cơ bản của hoạt động dạy học, cùng
với các nhân tố khác góp phần đạt tới mục tiêu và nhiệm vụ dạy học. Nội
dung dạy học tạo nên nội dung hoạt động dạy và hoạt động học trong sự
thống nhất với nhau. Nó quy định hệ thống những tri thức, kỹ năng, kĩ xảo mà
người học cần nắm vững để đảm bảo hình thành và phát triển nhân cách toàn
điện. Hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo này chính là một bộ phận của nền văn
hóa, của kinh nghiệm xã hội phong phú, đa dạng mà loài người đã tích luỹ,
khái quát hóa qua bao thế hệ. Nội dung dạy học là một bộ phận được chọn
lọc trong nền văn hóa của dân tộc và nhân loại đó là hệ thống những tri thức,
những cách thức hoạt động, những kinh nghiệm hoạt động sáng tạo và
những tiêu chuẩn về thái độ đối với thế giới, con người phù hợp về mặt sư
phạm nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân cách người học.

2. Cấu trúc của nội dung dạy học

Cấu trúc của nội dung dạy học phản ánh cấu trúc của nền văn hóa, bao
gồm 4 thành phần cơ bản sau đây:
2.1. Hệ thống tri thức về tự nhiên, xã hội, tư duy, kĩ thuật và
phương pháp nhận thức

Tri thức thực chất là những kinh nghiệm loài người đúc kết được trong
quá trình phản ánh thế giới khách quan, là bức tranh tổng quát về thế giới. Tri
thức là sản phẩm của nhận thức, là tài sản của xã hội, nó độc lập với chủ thể
nhận thức chủ thể lĩnh hội, và nằm ngoài cá nhân. Tuy nhiên, dưới góc độ
của Giáo dục học, tri thức là thông tin khách quan về đối tượng được người
học tiếp thu, lĩnh hội và vận dụng một cách sáng tạo nên tri thức đó được xem
xét như là tài sản của cá nhân, là kết quả của sự nhận thức và lĩnh hội của cá
nhân. Vì vậy, thiếu tri thức thì con người không thể tiến hành hoạt động có
chủ đích được. Từ đó, có thể thấy tri thức có 3 chức năng sau đây:

- Tri thức là cơ sở của những quan niệm về hiện thực.

- Tri thức có chức năng định hướng hoạt động (hoạt động trí tuệ hay
hoạt động thực hành).

- Tri thức có chức năng đánh giá.

Tri thức là thành phần đầu tiên, đồng thời là thành phần cơ bản của nội
dung dạy học. Thành phần này có tác dụng giúp người học hình dung được
bức tranh chung về thế giới; trang bị cho họ phương pháp luận đúng đắn
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.

Trong nhà trường phổ thông, tri thức bao gồm nhiều dạng khác nhau,
thể hiện trong các môn học. Thông thường có 6 dạng tri thức sau:

- Tri thức có tính chất kinh nghiệm: đó là những biểu tượng cụ thể, cảm
tính về sự vật hiện tượng của thế giới khách quan, những dấu hiệu và tính
chất của chúng, những sự kiện phản ánh tiến trình hiện tượng, những hành vi
của những nhân vật trong văn học, lịch sử, những sự kiện lịch sử khoa học…
Những tri thức này được phản ánh một cách trực tiếp và thiếu nó thì không
thể hình thành và hiểu được khái niệm, định luật, quy luật…, Không thể
chứng minh, bảo vệ những ý kiến, tư tưởng của mình, do đó không thể hình
thành được niềm tin sâu sắc vào khái niệm hay quy luật khoa học.
- Tri thức lý thuyết: là những kết quả khái quát của sự nhận thức thế
giới có tính chất xã hội - lịch sử và khoa học, bao gồm: khái niệm, thuật ngữ
cơ bản về khoa học, định luật, lí thuyết quy luật tư tưởng khoa học cơ bản,
những quy tắc đạo đức, thẩm mĩ, pháp lí…

- Tri thức thực hành: là những tri thức về cách thức hành động nhằm
làm cho học sinh nắm được những kĩ năng, kĩ xảo.

- Tri thức thiết kế sáng tạo: dạng tri thức này bao gồm tri thức thiết kế
nghệ thuật và thiết kế kĩ thuật.

- Tri thức về phương pháp nghiên cứu và tư duy khoa học: là tri thức về
phương pháp luận, về quá trình và lịch sử nhận thức về phương pháp cụ thể
của khoa học, về những cách thức hoạt động khác nhau.

- Tri thức đánh giá: lấy tiêu chuẩn về thái độ đối với những đối tượng
khác nhau, ý nghĩa của những tiêu chuẩn đó giúp học sinh hình thành thái độ,
hệ thống những giá trị của nhân cách.

Tất cả những dạng tri thức trên có vai trò khác nhau và thực hiện
những chức năng khác nhau trong dạy học, giáo dục, nhưng chúng tác động
và ảnh hưởng lẫn nhau. Vì vậy, cần phải tổ chức lĩnh hội và sử dụng những
dạng tri thức đó một cách hiệu quả và chỉ bằng tổng hợp tất cả những dạng tri
thức đó thì chúng mới đảm bảo thực hiện những chức năng của mình. Tuy
nhiên, tuỳ thuộc vào đặc trưng môn học và bậc học mà sử dụng thích hợp các
dạng tri thức.

2.2. Hệ thống kĩ năng, kĩ xảo hoạt động trí tuệ và thực hành

Trong thành phần thứ nhất của nội dung dạy học đã bao gồm những tri
thức về cách thức hành động. Hệ thống tri thức này rất quan trọng vì thiếu
chúng thì không thể thực hiện một cách tự giác những cách thức hoạt động.
Nhưng chỉ nắm những tri thức đó thì chưa đủ, mà người học cần phải nắm
kinh nghiệm vận dụng chúng vào thực tiễn. Hệ thống kinh nghiệm này đã
được loài người tích luỹ trong quá trình lao động, và chỉ biến thành tài sản,
kinh nghiệm của mỗi cá nhân khi được cá nhân nắm vững và vận dụng trong
hoạt động thực tiễn. Đó chính là hệ thống kĩ năng, kĩ xảo cần thiết đã được
quy định và bắt buộc học sinh phải nắm vững trong nội dung dạy học.

Kĩ năng là khả năng thực hiện có kết quả những thao tác, hành động
của một hoạt động nhất định trên cơ sở vận dụng tri thức có được phù hợp
với điều kiện cho phép. Nói khác đi kĩ năng là tri thức trong hành động.

Kĩ xảo là những hành động đã được tự động hóa.

Ngay trong quá trình học tập, người học cần phải nắm vững hệ thống kĩ
năng, kĩ xảo cần thiết trên cơ sở hệ thống tri thức đã học. Nhờ đó, họ có thể
tiến hành hoạt động học tập tự học, nghiên cứu và đặc biệt là chuẩn bị tiến
hành các hoạt động nghề nghiệp trong tương lai.

Hệ thống kĩ năng, kĩ xảo mà học sinh cần nắm vững và vận dụng là
những kĩ năng, kĩ xảo hoạt động trí tuệ và hoạt động thực hành liên quan
chung đến mọi môn học như kĩ năng, kĩ xảo lập dàn bài, lập kế hoạch, so
sánh, rút ra kết luận, sử dụng các phương tiện học tập… hoặc kĩ năng, kĩ xảo
riêng liên quan đến từng môn học như kĩ năng làm thí nghiệm trong các môn
lí, hóa; vẽ bản đồ trong môn địa lí; giải phẫu trong môn sinh vật; giải bài tập
trong môn toán; lập thư mục, sử dụng sách báo tra cứu trong các môn khoa
học xã hội v.v…

Thành phần này của nội dung dạy học có tác dụng giúp học sinh tái tạo
và bảo tồn giá trị văn hóa, hình thành năng lực cải tạo thực tiễn.

2.3. Hệ thống kinh nghiệm hoạt động sáng tạo

Kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo là tiền đề cho hoạt động sáng tạo nhưng tự
thân chúng không dẫn đến sự sáng tạo. Việc trang bị và huấn luyện kinh
nghiệm hoạt động sáng tạo cho học sinh là một nhiệm vụ hết sức quan trọng
của dạy học và nó cần được tổ chức tiến hành theo những quy trình riêng,
không hoàn toàn giống với việc trang bị tri thức, kĩ năng, kỹ xảo.

Hệ thống kinh nghiệm hoạt động sáng tạo này được loài người tích lũy
trong quá trình phát triển các hoạt động thực tiễn. Nó có tác dụng chuẩn bị
cho học sinh khả năng tìm tòi, giải quyết những vấn đề mới, tham gia cải biến
một cách sáng tạo hiện thực khách quan. Nhờ vậy, học sinh sẽ phát triển
được tính tích cực, độc lập sáng tạo không chỉ trong hoạt động nhận thức mà
cả trong hoạt động thực tiễn. Như vậy nền văn hóa không những được bảo
tồn mà còn được phát triển không ngừng.

Các nhà nghiên cứu đã chứng minh hoạt động sáng tạo có những dấu
hiệu đặc trưng:

- Tự lực chuyển tri thức và kĩ năng vào tình huống mới.

- Nhìn thấy vấn đề mới trong tình huống quen thuộc.

- Độc lập tổng hợp những cách thức hoạt động đã biết thành cách thức
hoạt động mới.

- Nhìn thấy cấu trúc, chức năng mới của đối tượng.

- Nhìn thấy những cách giải quyết khác nhau về một vấn đề nào đó và
tìm ra cách thức giải quyết tối ưu.

- Xây dựng những cách thức giải quyết hoàn toàn mới.

Chỉ có thể rèn luyện kinh nghiệm hoạt động sáng tạo cho học sinh khi
giáo viên có ý thức đầy đủ để tiến hành việc này trong toàn bộ quá trình dạy
học, đặc biệt là trong các hoạt động thực hành và nghiên cứu khoa học. Nhờ
có những kinh nghiệm hoạt động sáng tạo mà hoạt động học tập của học sinh
không bị theo khuôn mẫu có sẵn, ngược lại, sẽ được thiết kế và thi công một
cách tối ưu với sự chi phí cần thiết, tiết kiệm thời gian, công sức, kinh phí mà
đạt kết quả cao nhất

Để hình thành hệ thống kinh nghiệm hoạt động sáng tạo cho người
học, trong hoạt động dạy học cần:

- Tích cực hoá hoạt động nhận thức của người học.

- Tối ưu hoá hoạt động giảng dạy và học tập.

- Gắn chặt hoạt động học tập, nghiên cứu với thực tế cuộc sống.
- Rèn luyện cho học sinh cách thức giải quyết vấn đề theo nhiều cách,
nhiều góc cạnh khác nhau, biết tìm cách giải quyết tối ưu biết lật đi lật lại vấn
đề…

2.4. Hệ thống những kinh nghiệm về thái độ đối với thế giới và con
người

Thực chất thành phần này thể hiện tính giáo dục của nội dung dạy học,
nó bao gồm những chuẩn mực về thái độ: thái độ đánh giá, thái độ ứng xử,
thái độ xúc cảm đối với thế giới khách quan, con người và hoạt động. Hệ
thống kinh nghiệm này cùng với tri thức, kỹ năng sẽ tạo nên điều kiện để hình
thành niềm tin, lí tưởng, phẩm chất đạo đức, hệ thống giá trị đúng đắn, cách
ứng xử đúng đắn, thích hợp của học sinh đối với thế giới, con người. Việc bồi
dưỡng cho học sinh những chuẩn mực về thái độ, xúc cảm, giá trị thông qua
nội dưng dạy học có tầm quan trọng đặc biệt trong việc giáo dục cho học sinh
cách ứng xử đúng đắn, thích hợp với mọi mối quan hệ không những trong
thời gian còn học trong nhà trường mà cả khi bước vào cuộc sống đa dạng
sau này.

Thành phần này được thể hiện một cách trực tiếp ở một số môn học
như Đạo đức, Giáo dục công dân; trong các hoạt động lao động, hoạt động xã
hội, sinh hoạt tập thể… và phản ánh gián tiếp qua tất cả các môn học khác
trong nhà trường.

Cả 4 thành phần của nội dung dạy học có mối liên hệ mật thiết với
nhau, quy định lẫn nhau. Thiếu tri thức thì không thể hình thành kĩ năng, kĩ
xảo. Hoạt động sáng tạo được thực hiện trên cơ sở tri thức và kinh nghiệm
hoạt động đã biết. Đến lượt mình, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo sẽ giúp
lãnh hội nhanh, vững chắc và sâu sắc tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, làm cho chúng
có tính linh hoạt, mềm dẻo hơn. Tính giáo dục của nội dung dạy học đòi hỏi
phải nắm vững tri thức và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, ngược lại nhờ có
tính giáo dục mà việc nắm tri thức, kinh nghiệm, kĩ xảo tốt hơn.
II. CHƯƠNG TRÌNH, SÁCH GIÁO KHOA VÀ TÀI LIỆU DẠY HỌC TRONG
NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG
Nội dung dạy học được thể hiện cụ thể trong chương trình giáo dục,
sách giáo khoa và các tài liệu dạy học khác.

1. Chương trình giáo dục phổ thông

Theo quan niệm truyền thống, chương trình là văn bản quy định mục
tiêu dạy học, các nội dung dạy học và thời gian dành cho việc thực hiện
chương trình. Ngày nay thuật ngữ "chương trình" đã được hiểu theo một
nghĩa rộng hơn nhiều so với trước đây phản ánh quan điểm hệ thống về sự
nhận thức đầy đủ hơn mối quan hệ biện chứng, sự vận hành trong thực tiễn
các yếu tố của quá trình giáo dục, dạy học. Chương trình giáo dục không còn
được hiểu chỉ quy định mục đích yêu cầu, nội dung chi tiết môn học và thời
gian dành cho nó mà được hiểu là một bản thiết kế tổng hợp, đồng bộ bao
quát các hoạt động chính của một kế hoạch giáo dục trong một thời gian dài
xác định.

Theo quan niệm hiện đại "chương trình giáo dục là sự trình bày có hệ
thống một kế hoạch tổng thể các hoạt động giáo dục trong một thời gian xác
định, trong đó nêu lên các mục tiêu học tập mà người học cần đạt được, đồng
thời xác định rõ phạm vi, mức độ nội dung học tập, các phương pháp,
phương tiện, cách thức tổ chức học tập, các cách thức đánh giá kết quả học
tập… nhằm đạt được mục tiêu học tập đề ra"

(Nguyễn Hữu Chí, Viện khoa học giáo dục, 2002).

Như vậy, chương trình giáo dục khung chuẩn mực cấp quốc gia là một
phức hợp gồm các bộ phận cấu thành:

- Mục tiêu giáo dục của môn học (chuẩn kiến thức, kỹ năng, thái độ của
các môn học).

- Cấu trúc nội dung môn học (Số lượng, phạm vi, mức độ nội dung học
tập môn học).
- Các phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức học tập môn
học.

- Định hướng kiểm tra, đánh giá môn học.

Điều 29, chương II Luật Giáo dục 2005 nêu rõ: "Chương trình giáo dục
phổ thông thể hiện mục tiêu giáo dục phổ thông, quy định chuẩn kiến thức, kỹ
năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục phổ thông, phương pháp và hình
thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với
các môn học ở mỗi lớp và mỗi cấp học của giáo dục phổ thông". Chương
trình giáo dục phổ thông không chỉ nêu nội dung và thời lượng dạy học mà
thực sự là một kế hoạch hành động sư phạm, kết nối mục tiêu giáo dục với
các lĩnh vực nội dung và phương pháp giáo dục, phương tiện dạy học và
cách thức đánh giá kết quả học tập của học sinh, đảm bảo sự phát triển liên
tục giữa các cấp học, bậc học, đảm bảo tính liên thông giữa giáo dục phổ
thông với giáo dục chuyên nghiệp. Chương trình giáo dục phổ thông gồm có:

- Chương trình cấp học (Tiểu học, THCS, THPT) quy định mục tiêu, kế
hoạch giáo dục của cấp học với các giải thích cần thiết; các định hướng về
phương pháp tổ chức giáo dục, đánh giá kết quả giáo dục, sự phát triển lôgic
của các nội dung kiến thức ở từng môn học, lớp học. Chương trình cấp học
còn đề cập tới những yêu cầu tối thiểu về kiến thức, kỹ năng và thái độ trên
các lĩnh vực học tập mà học sinh cần và có thể đạt được sau khi hoàn thành
cấp học.

- Chương trình các môn học của các cấp học thể hiện mục tiêu môn
học, quan điểm chính của việc xây dựng chương trình môn học, chuẩn kiến
thức, kỹ năng môn học, gợi ý cần thiết về phương pháp, phương tiện dạy học
và kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn học của học sinh.

Chương trình giáo dục phổ thông do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
sử dụng chính thức, ổn định, thống nhất trong toàn quốc đảm bảo sự bình
đẳng thực sự trong giáo dục và là căn cứ pháp lí để Nhà nước tiến hành chỉ
đạo, giám sát công tác dạy học của nhà trường, giáo viên tiến hành giảng dạy
và học sinh tiến hành học tập theo yêu cầu chung. Vì vậy, giáo viên phải nắm
vững chương trình các môn học và thực hiện một cách nghiêm chỉnh, không
được tùy tiện thay đổi, những vận dụng linh hoạt theo từng vùng, miền, từng
loại đối tượng học sinh.

2. Sách giáo khoa và tài liệu dạy học

Sách giáo khoa là tài liệu "cụ thể hóa các yêu cầu về nội dung kiến thức
và kỹ năng quy định trong chương trình giáo dục của các môn học ở mỗi lớp
của giáo dục phổ thông, đáp ứng yêu cầu về phương pháp giáo dục phổ
thông" (Điều 29, Luật Giáo dục - 2005). Đây là ý nghĩa pháp lí của sách giáo
khoa. Sách giáo khoa bảo đảm tính khoa học, tính giáo dục trong nội dung và
đạt trình độ kĩ thuật và mĩ thuật cao trong trình bày hình thức văn bản. Sách
giáo khoa có những chức năng quan trọng đối với người học và người dạy:

- Đối với người học sách giáo khoa có chức năng truyền đạt kiến thức,
phát triển các kĩ năng và phương pháp, củng cố các hiểu biết, đánh giá kiến
thức, tra cứu, tham khảo và giáo dục văn hóa - xã hội.

- Đối với người dạy sách giáo khoa có chức năng cung cấp thông tin,
bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, giúp đỡ hoạt động học tập của học sinh và
quản lý lớp học. Như vậy sách giáo khoa có tính chất đa chức năng và đóng
vai trò chủ yếu trong việc thực hiện mục tiêu môn học.

Trong xu thế đổi mới dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học
tập của học sinh, sách giáo khoa hiện nay được biên soạn không đơn giản là
tài liệu thông báo kiến thức có sẵn mà là tài liệu học tập chủ yếu của học sinh,
giúp học sinh tự học, tự phát hiện và giải quyết vấn đề, vận dụng kiến thức
một cách chủ động, sáng tạo. Sách giáo khoa trong nhà trường phổ thông
hiện nay đảm bảo các yêu cầu đổi mới như bám sát chương trình môn học,
đảm bảo tính kế thừa, có chú ý tới xu thế tiên tiến trên thế giới; đảm bảo các
tiêu chuẩn phổ thông, cơ bản, hiện đại, sát thực tiễn Việt Nam; đảm bảo tính
liên môn; tạo điều kiện trực tiếp giúp học sinh nâng cao năng lực tự học và
đổi mới phương pháp dạy học; đồng thời sách giáo khoa mới cũng đảm bảo
yêu cầu phân hóa đối với các đối tượng học sinh (bài đọc thêm; câu hỏi, bài
tập cho học sinh khá giỏi, gợi ý về những hoạt động nghiên cứu, thực nghiệm,
thực hành…).

Bên cạnh sách giáo khoa, còn có các loại tài liệu học tập và giảng dạy
khác như sách hướng dẫn giảng dạy cho giáo viên, sách tham khảo, sách
hướng dẫn thực hành, thí nghiệm, sách tra cứu, từ điển…

III. NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG NỘI DUNG DẠY HỌC PHỔ THÔNG
Nội dung dạy học là bộ phận được lựa chọn trong nền văn hóa của dân
tộc và nhân loại. Nền văn hóa nhân loại ngày càng đồ sộ, khối lượng kiến
thức tích luỹ được ngày càng lớn, trong khi đó thời gian đào tạo học sinh
trong nhà trường là có hạn. Vì vậy,việc lựa chọn và xây dựng nội dung dạy
học cần tuân theo những nguyên tắc nhất định thì mới đáp ứng tốt những yêu
cầu của mục tiêu đào tạo.

1. Nội dung dạy học phải bám sát mục tiêu giáo dục phổ thông nói
chung và mục tiêu giáo dục của từng cấp học nói riêng

Mục tiêu và nội dung là những thành tố của quá trình dạy học có mối
quan hệ thống nhất biện chứng. Mục tiêu phải được xem là điểm xuất phát,
chi phối việc xây dựng nội dung dạy học, nội dung dạy học phải bám sát mục
tiêu giáo dục.

Nội dung dạy học ở nhà trường phổ thông trong giai đoạn hiện nay
nhằm thực hiện mục tiêu: "Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí
tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân,
tính năng động và sáng tạo hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh
tiếp tục học lên hoặc di vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc" (Điều 27, Luật giáo dục 2005). Vì vậy, nội dung dạy học ở nhà
trường phổ thông phải phản ánh mục tiêu giáo dục phổ thông dã được cụ thể
hóa trong mục tiêu giáo dục của các cấp học (Giáo dục tiểu học; Giáo dục
trung học cơ sở; Giáo dục trung học phổ thông) bao gồm những yêu cầu về
các mặt giáo dục đạo đức trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ, lao động kĩ thuật.

2. Nội dung dạy học phải đảm bảo tính giáo dục toàn điện, cân đối,
trong đó đặc biệt coi trọng giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, pháp
luật cho học sinh

Tính toàn diện và cân đối của nội dung dạy học thể hiện nội dung dạy
học phải là một thể thống nhất hài hoà cân đối hỗ trợ lẫn nhau giữa các mặt
giáo dục (đức, trí, thể, mĩ và lao động - hướng nghiệp), các lĩnh vực tri thức
qua hệ thống các môn học, các hoạt động giáo dục với thời lượng thích hợp.
Mỗi môn học đều có nhiệm vụ góp phần đẩy mạnh các mặt giáo dục, phối
hợp hữu cơ những mặt giáo dục với nhau, kết hợp đúng đắn giữa học với
hành… Mỗi môn học có chức năng riêng những đều phải phát huy khả năng
tiềm tàng của mình trong việc giáo dục toàn diện con người.

Nhà trường trong giai đoạn hiện nay phải bồi dưỡng, giáo dục thế hệ
trẻ thành những người lao động phát triển toàn diện, tích cực tham gia vào sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó, cần tăng cường giáo
dục học sinh về tư tưởng chính trị, đường lối chính sách của Đảng, phương
hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, đạo đức, pháp
luật…, bồi dưỡng tình cảm đúng và lối sống đẹp trong các mối quan hệ xã
hội… Hơn nữa, thế giới ngày nay là một thế giới phụ thuộc lẫn nhau, thế giới
của sự liên thông, liên kết và hợp tác để giải quyết những vấn đề toàn cầu…
Điều đó đòi hỏi phải nhân văn hóa nội dung học vấn phổ thông dưới nhiều
hình thức. Việc hình thành và phát triển hệ thống giá trị nhân cách trên cơ sở
đề cao các giá trị nhân văn phải được thực hiện trong hệ thống nhà trường.
Giáo dục nhân văn trong nhà trường thông qua nội dung dạy học sẽ góp phần
định hướng cho thế hệ trẻ biết kế thừa có phê phán những giá trị truyền
thống, biết tiếp thu có chọn lọc những giá trị mới xuất hiện… biết và có thái độ
ứng xử đúng đắn đối với các vấn đề sống còn của dân tộc và nhân loại.

3. Nội dung dạy học phải gắn liền với thực tiễn cuộc sống, tính
đến nhu cầu xã hội và năng lực, nguyện vọng của người học đồng thời
phải đảm bảo tính liên thông, liên kết giữa giáo dục phổ thông và giáo
dục nghề nghiệp

Với xu thế phát triển của thời đại và đặc điểm của nền kinh tế thị trường
hiện nay, nội dung dạy học phải phản ánh, cập nhật những thành tựu, tiến bộ
của khoa học - công nghệ, phải gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội, nội
dung dạy học phải là kết quả của sự lựa chọn những nguồn đa dạng và rất
phong phú về các tri thức, thông tin khoa học, các kinh nghiệm thực tiễn, các
vấn đề nóng bỏng của cuộc sống và xử lí chúng theo yêu cầu của mục tiêu
đào tạo.

Nội dung dạy học liên quan mật thiết tới yêu cầu xã hội. Vì vậy, khi xây
dựng nội dung dạy học cần tính toán đến những vấn đề mà xã hội hiện đại
đặt ra cho nhà trường. Ở nước ta hiện nay, nhu cầu về nhân lực có trình độ
cao hơn trước. Số học sinh học hết trung học phổ thông ngày càng nhiều
nhưng sẽ không được thoả mãn hoàn toàn yêu cầu vào đại học. Vì vậy, nhà
trường phải giải quyết hai nhiệm vụ: vừa chuẩn bị cho học sinh tham gia vào
đời sống xã hội, vừa chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên các bậc cao hơn.
Để giải quyết hai nhiệm vụ này, nhà trường cần phải kết hợp chặt chẽ học
vấn phổ thông, học vấn kỹ thuật tổng hợp và học vấn nghề nghiệp nhằm đảm
bảo kết hợp chặt chẽ việc chuẩn bị cho học sinh tham gia lao động với việc
chuẩn bị cho các em tiếp tục học, nâng cao trình độ giáo dục phù hợp với yêu
cầu xã hội.

Học vấn phổ thông là kết quả học sinh nắm vững hệ thống những kinh
nghiệm xã hội của loài người ở mức độ tối thiểu cần thiết nhất, cơ bản nhất
để chuẩn bị cho họ bước vào cuộc sống, trở thành người lao động có văn
hóa. Đó cũng là vốn hiểu biết không thể thiếu được làm cơ sở cho họ tiếp tục
học lên các bậc học cao hơn. Học vấn phổ thông là bộ phận nền tảng, phổ
biến; chung nhất, cần thiết cho mọi người để họ thích ứng với xã hội hiện tại.
Để trang bị cho học sinh học vấn phổ thông, nội dung dạy học trong nhà
trường phổ thông phải đảm bảo cho học sinh nắm vững hệ thống tri thức
khoa học phổ thông cơ bản, hiện đại, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, rèn
luyện hệ thống kỹ năng, kỹ xảo tương ứng, phát triển năng lực hoạt động trí
tuệ, tính thông minh sáng tạo, qua đó mà hình thành thế giới quan khoa học,
bồi dưỡng các phẩm chất của nhân cách.

Học vấn kĩ thuật tổng hợp là kết quả học sinh nắm vững hệ thống
những tri thức về các nguyên lí, nguyên tắc cơ bản của các quá trình sản xuất
chủ yếu, của tổ chức, quản lí sản xuất và các kĩ năng, kỹ xảo sử dụng các
công cụ sản xuất phô thông. Giáo dục kĩ thuật tổng hợp là một trong những
cơ sở của việc giáo dục toàn diện.

Học vấn nghề nghiệp là kết quả học sinh nắm được hệ thống tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo về một lĩnh vực nghề nghiệp hoặc chuyên ngành cụ thể nào đó.
Học vấn nghề nghiệp được bồi dưỡng chủ yếu trong các trường dạy nghề,
các trường trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học. Nội dung dạy học
ở nhà trường phổ thông có nhiệm vụ giáo dục hướng nghiệp cho học sinh.

Giữa học vấn phổ thông, học vấn kĩ thuật tổng hợp và học vấn nghề
nghiệp có mối quan hệ với nhau rất chặt chẽ. Học vấn phổ thông là cơ sở ban
đầu quan trọng để giáo dục học vấn kĩ thuật tổng hợp và hai loại học vấn này
sẽ là điều kiện thuận lợi cho học sinh nắm được nghề nghiệp của mình trong
tương lai. Ngược lại, trong quá trình giáo dục kỹ thuật tổng hợp và hướng
nghiệp dạy nghề, học sinh sẽ hiểu sâu hơn các lí thuyết đã được hình thành
nhờ có học vấn phổ thông và có thể phát huy sáng tạo để làm giàu thêm các
tri thức của loài người đã có.

4. Nội dung dạy học phải đảm bảo học đi đôi với hành, học tập kết
hợp với lao động sản xuất

Nội dung dạy học phải đảm bảo trang bị cho học sinh hệ thống tri thức
lí thuyết trong mối liên hệ hữu cơ với thực tiễn, điều đó có nghĩa là: trong nhà
trường, khi tiếp thu cơ sở của các khoa học, học sinh không những mô tả và
giải thích những hiện tượng tự nhiên và xã hội, mà còn có khả nặng chứng
minh tính đúng đắn của những tri thức lí thuyết trong thực tiễn, giúp cải tạo
thực tiễn. Trong khi nhận thức hệ thống tri thức lí thuyết, học sinh có khả
năng vận dụng vào thực tiễn.
Nội dung dạy học phải đảm bảo cho học sinh hiểu biết về đất nước, lịch
sử, thiên nhiên, xã hội, con người Việt Nam nói chung, từng địa phương nói
riêng; tạo cho học sinh khả năng phân tích và giải quyết những vấn đề cụ thể
của thực tiễn; thực hành những điều đã học để phục vụ cải tạo xã hội, chinh
phục thiên nhiên và cải tạo mình, phù hợp với điều kiện nước ta. Trong việc
lựa chọn và xây dựng nội dung dạy học cần chú ý phát triển ở học sinh cả
kiến thức lẫn kĩ năng cùng với các phương pháp nhận thức khoa học,
phương pháp hoạt động.

5. Nội dung dạy học phải đảm bảo thống nhất chung cả nước,
đồng thời có sự quan tâm đến đặc điểm từng vùng, đặc điểm lứa tuổi,
giới tính của học sinh

Nội dung dạy học phải thống nhất chung cho cả nước, đồng thời phải
chiếu cố đến đặc điểm từng vùng, từng địa phương khác nhau. Chẳng hạn:

- Tùy theo từng môn học, chương trình sẽ dành thời gian thích đáng để
học sâu hơn những phần có liên quan đến đặc điểm từng vùng, từng địa
phương.

- Đối với một số môn học nào đó, ngoài sách giáo khoa phản ánh tình
hình chung của đất nước, cần có những tài liệu riêng cho một số vùng lớn
như tài liệu về kỹ thuật lâm nghiệp cho vùng núi, kĩ thuật nông nghiệp cho
vùng sản xuất nông nghiệp v.v…

- Học lí thuyết về nguyên lí chung, còn khi thực hành thì căn cứ vào
điều kiện thực tế của từng vùng.

- Những vấn đề trong nội dung chương trình được dạy trước tiên với
những dẫn chứng thực tế lấy ở địa phương…

Nội dung dạy học phải phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, chú ý tính động
của đặc điểm lứa tuổi học sinh. Bên cạnh đó, nội dung dạy học phải xây dựng
phù hợp theo giới tính. Học sinh gái và trai có những đặc điểm tâm sinh lí
khác nhau. Vì vậy trong các hoạt động của nhà trường như học tập, lao động,
vui chơi phải chú ý đúng mức đến những đặc điểm giới tính.
Các phương hướng chỉ đạo việc xây dựng nội dung dạy học trên đây
có mối quan hệ mật thiết với nhau, thâm nhập vào nhau. Vì vậy, trong quá
trình xây dựng nội dung dạy học cần có quan điểm tiếp cận phức hợp đối với
những mối quan hệ đó.

6. Một số xu hướng xây dựng nội dung dạy học

Với những thay đổi của xã hội hiện đại và quan niệm coi chương trình
là một kế hoạch giáo dục tổng thể nhằm thực hiện những mục tiêu phát triển
giáo dục đã định, đã có nhiều xu hướng xây dựng nội dung chương trình dạy
học.

- Xây dựng nội dung, chương trình môn học theo cách tiếp cận mới về
chương trình hiện đại.

- Xây dựng nội dung, chương trình dạy học theo hướng tiếp cận tích
hợp nhiều môn học thành những lĩnh vực kiến thức mang tính liên môn, liên
ngành (Khoa học tự nhiên, Khoa học xã hội, nhân văn, Khoa học phục vụ đời
sống và gia đình…).

- Xây dựng nội dung, chương trình theo các hoạt động giáo dục (hoạt
động ngoài giờ lên lớp, hoạt động giáo dục hướng nghiệp…).

- Xây dựng nội dung, chương trình dạy học theo chủ đề, dựa trên vấn
đề có tính thực tiễn, vừa sát với cuộc sống, vừa thuận lợi cho phương pháp
dạy học giải quyết vấn đề nhằm đáp ứng với yêu cầu của xã hội hiện đại.

- Xây dựng chương trình cốt lõi với các yêu cầu tối thiểu về tri thức và
kỹ năng, sau đó xác định các nội dung phân ban, tự chọn và nâng cao.

Tóm lại: Nội dung dạy học là một nhân tố cơ bản của hoạt động dạy
học, luôn vận động và phát triển do ảnh hưởng của môi trường kinh tế - xã
hội và sự tiến bộ của khoa học - công nghệ. Vì vậy cần luôn đổi mới và hoàn
thiện nội dung dạy học theo hướng hiện đại hóa, tính đến những đặc điểm
của hoạt động dạy học trong các loại hình trường.

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 6


1. Trình bày khái niệm về nội dung dạy học.

2. Trình bày những hiểu biết về chương trình giáo dục, sách giáo khoa,
tài liệu dạy học ở nhà trường phổ thông và các phương hướng chỉ đạo việc
xây dựng nội dung dạy học phổ thông.

3. Tìm hiểu chương trình và sách giáo khoa của môn học ở cấp học mà
Anh/ Chị sẽ giảng dạy.

5. Phác thảo việc xây dưng nội dung một bài dạy cụ thể thuộc môn học
mà Anh/ Chị phụ trách. Xác định các thành phần cơ bản của nội dung dạy học
trong bài dạy đó.

Chương 7: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VÀ PHUƠNG TIỆN DẠY HỌC


I. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
1. Khái niệm phương pháp dạy học

Phương pháp (méthode) là con đường, cách thức hoạt động nhằm đạt
được mục đích đã định.

Phương pháp có cấu trúc phức tạp bao gồm mục đích cần đạt đến, hệ
thống hành động, những phương tiện cần thiết, chủ thể và kết quả sử dụng
phương pháp.

Dạy học là hoạt động kép gồm hoạt động dạy và hoạt động học tồn tại
trong mối quan hệ phối hợp, tương tác và cùng hướng đến mục đích chung
của hoạt động dạy học. Từ những phân tích trên, chúng ta có thể hiểu
phương pháp pháp dạy học là cách thức hoạt động tương tác, phối hợp,
thống nhất của giáo viên và học sinh trong hoạt động dạy học, được tiến hành
dưới vai trò chủ đạo của giáo viên nhằm thực hiện các nhiệm vụ dạy học.

Trong quan hệ tương tác, phương pháp dạy chỉ đạo phương pháp học,
phương pháp học ảnh hưởng đến phương pháp dạy. Do đó, thay đổi phương
pháp dạy học cần thay đổi cả phương pháp dạy và cả phương pháp học. Tuy
nhiên, thay đổi phương pháp dạy sẽ kéo theo sự thay đổi phương pháp học.
Phương pháp dạy học được tiếp cận theo nhiều cấp độ rộng hẹp khác
nhau:

- Phương pháp được hiểu như là quan điểm tiếp cận, mọt lí thuyết
trong dạy học. Ví dụ "Phương pháp dạy học lấy hoạt động của học sinh làm
trung tâm".

- Phương pháp được hiểu như là một kiểu hay hệ dạy học. Ví dụ
"Phương pháp dạy học nêu vấn đề" gồm nhiều phương pháp dạy học cụ thể
như đàm thoại ơristic, giải quyết từng phần v.v…

- Phương pháp được hiểu như là những cơ sở lí luận và thực tiễn, các
phương pháp và cả các kĩ thuật dạy học của một môn dạy cụ thể. Ví dụ
"Phương pháp dạy học môn Toán, hay còn gọi là "Lý luận dạy học môn
Toán".

- Phương pháp được hiểu như là cách thức, hành động, thao tác thực
hiện cụ thể nhằm giải quyết các nhiệm vụ dạy học đạt đến mục đích dạy học
cơ bản. Ví dụ "Phương pháp thuyết trình", hay "phương pháp đàm thoại".

Phương pháp và biện pháp có mối liên hệ hữu cơ: xét theo phạm vi thì
biện pháp là bộ phận của phương pháp hay nói cách khác phương pháp là
tổng thể những biện pháp. Tuy nhiên trong thực tế dạy học thì biện pháp và
phương pháp có khi chuyển hoá cho nhau trong những tình huống dạy học cụ
thể

2. Phân loại các phương pháp dạy học

Phương pháp dạy học được tiếp cận theo nhiều quan điểm phức hợp.
Xin giới thiệu một vài quan điểm phân loại phương pháp dạy học như sau:

* Dựa trên quan điểm hoạt động (đại diện I.K.Babanxki) chia phương
pháp dạy học thành ba nhóm:

- Nhóm phương pháp tổ chức và thực hiện hoạt động nhận thức - học
tập
- Nhóm phương pháp kích thích và hình thành động cơ hoạt động nhận
thức - học tập

- Nhóm phương pháp kiểm tra đánh giá hoạt động nhận thức - học tập

Mặt khác, hoạt động học tập của học sinh là hoạt động nhận thức đặc
biệt, để nhận thức phải dựa vào ba nguồn là ngôn từ, trực quan và thực hành
nên trong từng nhóm phương pháp tổ chức thực hiện hoạt động nhận thức -
học tập bao gồm nhiều nhóm phương pháp dạy học bộ phận như:

- Nhóm phương pháp dạy học dùng lời

- Nhóm phương pháp dạy học trực quan

- Nhóm phương pháp dạy học thực hành

* Dựa trên mức độ, tính chất hoạt động nhận thức của học sinh (đại
diện M.N.Scatkin, I.Ia.Lecne…) phân ra từ mức thấp đến mức cao của
phương pháp dạy học:

- Phương pháp dạy học minh họa - giải thích

- Phương pháp dạy học tái hiện

- Phương pháp trình bày có tính chất vấn đề

- Phương pháp tìm tòi bộ phận

- Phương pháp nghiên cứu

* Dựa vào các mục đích dạy học cơ bản được thực hiện trong quá trình
dạy học (đại diện M.A. Đanhilôp, B.P.Exipôp…), phương pháp dạy học được
chia thành:

- Nhóm phương pháp hình thành tri thức (thuyết trình, đàm thoại, trực
quan…)

- Nhóm phương pháp hình thành kỹ năng (luyện tập, làm thí nghiệm…)

- Nhóm phương pháp kiểm tra, đánh giá tri thức, kỹ năng, kĩ xảo học
sinh.
* Dựa trên các bước triển khai một bài dạy, người ta chia phương pháp
dạy học thành ba nhóm:

- Nhóm phương pháp mở đầu (khởi động) bài dạy

- Nhóm phương pháp triển khai bài dạy

- Nhóm phương pháp kết thúc bài dạy

Các nhà giáo dục học Việt Nam căn cứ vào mục đích dạy học cơ bản
và phương tiện dạy học chủ yếu được sử dụng trong quá trình dạy học đã
chia phương pháp dạy học thành bốn nhóm, đó là:

- Nhóm phương pháp dạy học dùng lời

- Nhóm phương pháp dạy học trực quan

- Nhóm phương pháp dạy học thực tiễn

- Nhóm phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập

II. HỆ THỐNG CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRUYỀN THỐNG


1. Nhóm phương pháp dạy học dùng lời

1.1. Phương pháp dạy học thuyết trình

Phương pháp thuyết trình là cách thức chuyển giao và tiếp nhận một
khối lượng kiến thức lớn có hệ thống bằng ngôn ngữ nói của giáo viên trong
những khoảng thời gian nhất định. Phương pháp thuyết trình được dùng với
mục đích cơ bản là hình thành tri thức mới ở học sinh hoặc củng cố, hệ thống
hóa tri thức, kĩ năng, kỹ xảo.

a. Phân loại phương pháp thuyết trình

* Dựa vào tính chất của nội dung thuyết trình, có thể phân ra các
phương pháp giảng giải, giảng thuật và diễn giảng phổ thông.

- Giảng thuật là một trong những phương pháp thuyết trình có chứa
đựng yếu tố miêu tả, trần thuật. Giảng thuật không chỉ được sử dụng trong
việc dạy học các môn khoa học xã hội- nhân văn mà còn cả những bộ môn
khoa học tự nhiên khi mô tả những thí nghiệm, hiện tượng hay nói về cuộc
đời sự nghiệp của một nhà bác học… Trong giảng thuật giáo viên cũng có thể
sử dụng phương tiện trực quan, phương tiện kĩ thuật (máy chiếu hay
computer và projector) để minh họa cho việc trình bày của mình, cũng có khi
nêu ra những câu hỏi nhằm thu hút sự chú ý hay kích thích tính tích cực trong
quá trình lĩnh hội ở học sinh.

- Giảng giải là phương pháp thuyết trình bằng cách sử dụng những
luận cứ, số liệu để giải thích và chứng minh một hiện tượng, sự kiện, định
luật, định lí… Giảng giải chứa đựng những yếu tố suy đoán, suy lí nên có
nhiều khả năng phát triển tư duy logic của học sinh. Giảng giải thường được
kết hợp với giảng thuật trong quá trình dạy học.

- Diễn giảng phổ thông nhằm trình bày một vấn đề có tính phức tạp,
trừu tượng và khái quát trong một thời gian tương đối dài. Phương pháp này
thường ít đùng ở trường phổ thông, nếu có dùng thường được kết hợp với
hai dạng thuyết trình trên.

* Dựa trên mức độ, tính chất hoạt động nhận thức của học sinh, thuyết
trình được phân thành hai loại thuyết trình thông báo - tái hiện và thuyết trình
nêu vấn đề.

- Thuyết trình thông báo - tái hiện như tên gọi của nó đã chỉ rõ tính chất
thông báo trong lời giảng của thầy và tính chất tái hiện sau khi lĩnh hội ở trò.
Mô hình của phương pháp này như sau:

+ Giáo viên tác động vào đối tượng nghiên cứu (nội dung tài liệu học
tập), lần lượt thông báo cho học sinh những kết quả tác động đồng thời giáo
viên trực tiếp điều khiển luồng thông tin đến với học sinh.

+ Học sinh thì tiếp nhận những thông tin đó. Họ nghe, nhìn, cùng tư duy
theo lời giảng của giáo viên, hiểu ghi chép và ghi nhớ những tri thức đã được
giáo viên "chuẩn bị sẵn".
Phương pháp thuyết trình thông báo - tái hiện chỉ cho phép học sinh đạt
đến trình độ tái hiện của sự lãnh hội mà thôi nên sự hoạt động của trò là
tương đối thụ động.

+ Thuyết trình nêu vấn đề là một kiểu thuyết trình chứ không phải là sự
phối hợp thuyết trình với nêu vấn đề. Thuyết trình nêu vấn đề không thay đổi
bản chất, cấu trúc của phương pháp thuyết trình, song nó phát triển theo một
hướng khác tích cực hơn - trình bày của nó mang tính "nêu vấn đề" Thuyết
trình nêu vấn đề là phương pháp giáo viên trình bày hệ thống tri thức theo
một trình tự logic hợp lí dưới dạng nêu vấn đề gợi mở, "tính nêu vấn đề" thể
hiện ở chỗ "vấn đề" được nêu ra không nhất thiết phải mang tính thường
xuyên, liên tục và không phải là một giai đoạn, một bước hay một chu kì như
dạy học nêu vấn đề. Việc "nêu vấn đề" ở đây mang tính định hướng cho tư
duy của học sinh và định hướng cho sự trình bày của giáo viên. Việc “nêu vấn
đề” không làm thay đổi bản chất của phương pháp mà lại có khả năng kích
thích được tư duy của học sinh.

Như vậy, thuyết trình nêu vấn đề đã hướng vào chỗ yếu nhất khắc
phục được nhược điểm cơ bản nhất của phương pháp thuyết trình. Nó chính
là sự phát triển theo một hướng mới của phương pháp thuyết trình truyền
thống.

b. Cấu trúc logic của phương pháp thuyết trình:

Bước 1: Đặt vấn đề

Vấn đề mới chỉ được thông báo dưới dạng chung nhất, có phạm vi
rộng, nhằm gây ra sự chủ ý ban đầu của học sinh, tạo ra tâm thế làm việc.
Chẳng hạn, khi học về "Phương pháp thuyết trình" giáo viên có thể đặt vấn
đề: "…Ta hãy nghiên cứu một trong các phương pháp dạy học - phương
pháp thuyết trình".

Bước 2: Phát biểu vấn đề

Giáo viên nêu ra những câu hỏi cụ thể hơn, khoanh phạm vi nghiên
cứu lại, vạch ra trọng điểm cần xem xét một cách cụ thể minh bạch nhằm tạo
ra nhu cầu của học sinh đối với kiến thức, gây hứng thú và động cơ học tập,
đồng thời cũng vạch ra nội dung cần nghiên cứu. Chẳng hạn, với ví dụ trên có
thể đưa ra những câu hỏi như "Phương pháp thuyết trình là gì?"; "Có các loại
phương pháp thuyết trình nào?; "Sự khác biệt cơ bản nhất giữa các loại
thuyết trình là gì?" "Phương pháp thuyết trình có ưu, nhược điểm và các yêu
cầu sử dụng như thế nào?"…

Bước 3: Giải quyết vấn đề

Giáo viên có thể giải quyết vấn đề theo hai logic phổ biến: quy nạp hay
diễn dịch. Cách giải quyết vấn đề theo hướng quy nạp là con đường nhận
thức từ sự kiện, hiện tượng đến cái chung, cái khái quát, từ những trường
hợp cụ thể đến các nguyên lí, quy luật. Cách giải quyết vấn đề theo hướng
diễn dịch là con đường nhận thức từ cái khái quát (khái niệm, định lí, định
luật, công thức…) đến các dạng biểu hiện của định lí, định luật…

Bước 4: Kết luận

Giáo viên chốt lại các ý chính một cách chính xác, cô đọng và hệ thống,
tránh nhắc lại một cách máy móc, hình thức các ý chính đã trình bày hoặc
không lặp lại một cách rườm rà những điều đã trình bày. Kết luận là câu trả
lời cô đọng cho những câu hỏi đã nêu ta ở bước một và bước hai.

c. Ưu điểm, nhược điểm của phương pháp thuyết trình

* Về ưu điểm của phươngpháp thuyết trình:

- Cho phép trình bày nội dung lí thuyết tương đối khó, phức tạp, chứa
đựng nhiều thông tin mà học sinh không tự tìm hiểu được.

- Cho phép trình bày mô hình mẫu của tư duy logic, của cách trình bày
và lí giải một vấn đề khoa học (đầy đủ bước đi của quy trình này); mô hình
của cách dùng ngôn ngữ để diễn đạt vấn đề khoa học.

- Hình thành tư tưởng tình cảm tốt đẹp, niềm tin và hoài bão qua ngôn
ngữ và nhân cách của giáo viên.
- Tạo điều kiện phát triển năng lực chú ý, tư duy bằng khái niệm ở học
sinh.

- Tính kinh tế cao.

* Về nhược điểm của phương pháp thuyết trình:

- Dễ làm người học thụ động, mệt mỏi vì kích thích đơn điệu.

- Ít phát triển tư duy độc lập, sáng tạo và kĩ năng.

- Thông tin ngược không được đảm bảo tốt.

d. Yêu cầu khi sử dụng phương pháp thuyết trình

- Bài thuyết trình phải đảm bảo tính hệ thống, tính logic và được giáo
viên nắm vững.

- Chuẩn bị những ví dụ, liên hệ thực tế cho bài giảng thêm tính thuyết
phục.

- Giáo viên phải làm chủ ngôn ngữ nói trong thuyết trình. Ngôn ngữ của
giáo viên có tác dụng giúp trò hiểu được tư tưởng chủ đạo của nội dung bài
học, là nhân tố giáo dục tư tưởng tình cảm, mẫu mực phát triển tư duy biện
luận, văn hóa của ngôn ngữ, chỉ đạo sự suy nghĩ của trò. Do đó, ngôn ngữ
của giáo viên phải chính xác, đủ độ to đến từng học sinh trong lớp, có trường
độ, tốc độ, khoảng dừng. Ngôn ngữ phải trong sáng, giản dị, dễ hiểu, gọn
gàng, cụ thể (giàu hình tượng) nhằm tạo ra và duy trì sự tập trung chú ý,
hứng thú ở học sinh. Vì thế, giáo viên hơn ai hết cần phải luyện giọng nói, cử
chỉ điệu bộ, điều chỉnh âm sắc, nhịp điệu của giọng

- Phương pháp thuyết trình có nhiều ưu điểm, tuy nhiên vẫn còn những
hạn chế mà nổi bật là chưa phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo
của học sinh. Vì vậy, cần phối hợp phương pháp thuyết trình với các phương
pháp dạy học khác để phát huy sức mạnh tổng hợp, ví dụ như phương pháp
đàm thoại, phương pháp trực quan… Song, có những tình huống dạy học do
điều kiện thời gian eo hẹp, không gian hẹp, số lượng sinh viên đông, tính chất
của nội dung trình bày không cho phép sử dụng phương pháp thuyết trình kết
hợp với các phương pháp thì giáo viên không còn cách nào khác là phải hoàn
thiện chính bản thân phương pháp thuyết trình theo hướng phát huy tính tích
cực nhận thức của học sinh, đó là thuyết trình nêu vấn đề đã trình bày ở trên.

1.2. Phương pháp đàm thoại

Phương pháp đàm thoại là cách thức giáo viên đặt ra một hệ thống câu
hỏi, tổ chức cho học sinh trả lời, có thể trao đổi qua lại, tranh luận với nhau và
với giáo viên, qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học.

Linh hồn của phương pháp đàm thoại là hệ thống câu hỏi và chất
lượng, hiệu quả của phương pháp này phụ thuộc nhiều vào chúng.

a. Phân loại phương pháp đàm thoại

* Dựa vào các khâu của quá trình dạy học có thể phân thành đàm thoại
mở đầu, đàm thoại phát triển, đàm thoại củng cố và đàm thoại kiểm tra.

- Với khâu mở bài, câu hỏi cần nêu bật vấn đề cần tìm hiểu nhằm gây
sự chú ý của học sinh đối với bài mới, đồng thời tạo được ở các em ý thức về
những nhiệm vụ chủ yếu khi nghiên cứu bài học. Đó cũng là những nội dung
chính của bài mà học sinh cần nắm vững. Hãy xem dạng câu hỏi này ở hai ví
dụ dưới đây:

Ví dụ 1, để vào bài "Phân số cùng tử" giáo viên ra bài tập: “so sánh 3/5
với 3/8", chắc chắn nhiều học sinh sẽ không do dự gì mà làm ngay việc quy
đồng mẫu của hai phân số. Lúc đó giáo viên mới hỏi: có cách nào nhanh hơn
không?”.

Ví dụ 2; khi dạy bài "Nhân một số có hai chữ số với 11" giáo viên ra bài
tập “14 x 11 = ?”; “125 x 11 = ?”, ngay lúc đó học sinh sẽ đặt tính cột dọc để
nhân hay tách 11 = 10 + 1. Giáo viên nêu câu hỏi “Có cách tính nào nhanh
hơn mà không cần đặt phép tính hay không?”. Câu hỏi có thể là bất ngờ đối
với nhiều học sinh, do đó tạo được sự chú ý ở các em và sau khi trả lời được
câu hỏi thì các em cũng lĩnh hội được nội dung bài học.
- Với khâu tổ chức, điều khiển học sinh lĩnh hội tri thức mới, giáo viên
cần sử dụng câu hỏi để hướng dẫn tri giác và tư duy của học sinh.

Ví dụ 3, khi học sinh quan sát “Cấu tạo trong của chim bồ câu: Hệ tiêu
hoá và hệ hô hấp” và so sánh với cấu tạo trong của thằn lằn (tiết trước đó),
giáo viên nêu câu hỏi: “Thực quản bồ câu có gì khác với thực quản thằn lằn?
Diều giữ vai trò gì trong việc tiêu hoá? Tại sao ở bồ câu phải có thêm diều để
chứa thức ăn?”

Hoặc giáo viên phải dùng những câu hỏi để khai thác vốn sống, kinh
nghiệm của học sinh để lĩnh hội tri thức như: “Những con vật nào vừa sống
được trên cạn, vừa sống ở dưới nước? Chúng có những đặc điểm gì mà có
thể sống được như vậy?”…

- Với khâu củng cố kiến thức, giáo viên có thể đưa ra những câu hỏi để
học sinh tái hiện tri thức, đòi hỏi sự cụ thể hoá các khái niệm như: “Chúng ta
đã biết… các em hãy nhắc lại (bằng lời, hình vẽ này bằng công thức, lập
bảng…)?” hoặc “Hãy diễn đạt cách khác (hoặc cho ví dụ, bài tập…)?”…

- Với khâu kiểm tra, giáo viên có thể đặt các câu hỏi đòi hỏi học sinh tái
hiện tri thức, kĩ năng, kĩ xảo đã biết. Ví dụ, "Phát biểu định nghĩa, định luật,
định lí….và cho ví dụ (trong trường hợp có thể)"; Vẽ sơ đồ, lập bảng số
sánh…". Câu hỏi yêu câu học sinh vận dụng những điều đã học để giải quyết
vấn đề như “Từ… giải quyết vấn đề này như thế nào?”; “Cách giải nào tốt
nhất?” hoặc “Đề xuất vấn đề mới?”…

* Dựa theo mức độ của quá trình nhận thức có các loại: đàm thoại tái
hiện, đàm thoại giải thích - minh họa và đàm thoại sáng tạo.

- Câu hỏi tái hiện yêu cầu học sinh nhận ra, tái tạo được kiến thức cơ
bản, thực hiện lại được đúng cách thức hoạt động đã có hoặc đã được thay
đổi chút ít so với cái đã được học. Ví dụ: “Thế nào là sự quang hợp?” hay
“Vào ban đêm, ở lá cây có diễn ra sự quang hợp hay không? Tại sao?”, “Đối
với những cây không có lá thì bộ phận nào của cây thực hiện sự quang
hợp?”…
- Câu hỏi giải thích - minh họa yêu cầu học sinh giải thích, làm sáng tỏ
và có ví dụ minh hoạ cho lời giải thích.

Câu hỏi sáng tạo là loại câu hỏi yêu cầu học sinh lựa chọn, áp dụng
kiến thức đã học để giải quyết nhiệm vụ lí thuyết hay thực tiễn trong tình
huống biến đổi, đòi hỏi học sinh phải vận dụng phối hợp các kiến thức, các
phương pháp đã biết để giải quyết vấn đề. Ví dụ “Với những cây có lá màu
vàng hoặc tím thì ở lá có diễn ra quá trình quang hợp hay không? Tại sao?
Với ánh sáng điện cây xanh có diễn ra quá trình quang họp hay không?”…

b. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp đàm thoại

- Kích thích tính tích cực hoạt động nhận thức của học sinh.

- Bồi dưỡng cho học sinh năng lực diễn dạt bằng lời những vấn đề
khoa học một cách chính xác, đầy đủ và súc tích.

- Giúp giáo viên thu tín hiệu ngược từ học sinh nhanh, kịp thời điều
chỉnh hoạt động dạy và học, học sinh cũng thu được tín hiệu ngược để kịp
thời điều chỉnh hoạt động học tập - nhận thức của mình.

- Nhưng nếu vận dụng không khéo léo, phương pháp đàm thoại sẽ làm
mất thời gian ảnh hưởng đến kế hoạch dạy học; biến đàm thoại thành cuộc
đối thoại giữa giáo viên và một vài học sinh mà không thu hút toàn lớp tham
gia vào hoạt động chung. Nếu các câu hỏi đưa ra chỉ cần nhớ lại một cách
máy móc sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển tư duy logic, tư duy sáng tạo ở
học sinh.

c. Những yêu cầu đối với phương pháp đàm thoại

Phương pháp đàm thoại được áp dụng thành công hay không phụ
thuộc vào hai yếu tố, đó là, xây dựng hệ thống câu hỏi và triển khai hệ thống
câu hỏi ở trên lớp.

* Yêu cầu đối với hệ thống câu hỏi

- Câu hỏi cần được diễn đạt rõ ràng, ngắn gọn, không mơ hồ hoặc quá
chung chung. Trong câu hỏi không dùng các thuật ngữ trừu tượng hoặc
không phổ biến. Câu hỏi được phát biểu chính xác về mặt khoa học, về từ
ngữ và cấu trúc câu. Sử dụng ngôn ngữ đơn giản để phát biểu câu hỏi.

- Câu hỏi cần nêu bật vấn đề phải giải quyết, gợi cho học sinh suy nghĩ
về cách giải quyết vấn đề đó, thúc đẩy học sinh tìm tòi, phát hiện.

- Câu hỏi chỉ thúc đẩy học sinh tư duy khi chúng nằm trong vùng phát
triển gần nhất - học sinh cố gắng hết mức cộng với sự giúp đỡ của giáo viên
chắc chắn các em tìm ra câu trả lời. Câu hỏi quá khó, thậm chí quá dễ đều
không kích thích học sinh tìm kiếm lời giải đáp. Cần xây dựng những câu hỏi
chính và những câu hỏi phụ, những câu hỏi tương đối dễ và những câu hỏi
khó để tạo cơ hội cho từng đối tượng học sinh trong lớp tham gia.

* Yêu cầu khi triển khai hệ thống câu hỏi ở trên lớp

- Để kích thích hoạt động chung của cả lớp, cần nêu câu hỏi chung cho
cả lớp rồi mới chỉ định học sinh trả lời; cho phép học sinh tham gia nhận xét,
bổ sung cho câu trả lời của bạn.

- Cần có thái độ bình tĩnh khi học sinh trả lời sai hay chưa đúng trọng
tâm câu hỏi, tránh nôn nóng, cắt ngang ý của học sinh; cần thiết đặt thêm câu
hỏi gợi mở, dẫn dắt để họ tự tìm ra lời đáp. Cần tạo điều kiện để học sinh tự
mình nêu ra câu hỏi, những thắc mắc trong quá trình lĩnh hội tri thức bài học.

- Nên khen ngợi khi học sinh trả lời đúng.

- Thừa nhận phần đúng, đề nghị những học sinh khác bổ sung phần
thiếu.

- Khi học sinh trả lời sai, giáo viên động viên ghi nhận sự đóng góp sau
đó sửa câu trả lời chứ không nên phê bình.

- Mỗi lần chỉ hỏi một câu, ưu tiên cho các câu hỏi mở, có thể hỏi thêm
khi học sinh có khả năng phát triển câu hỏi, lắng nghe học sinh.

- Nếu học sinh không trả lời phải nghĩ rằng có điều gì đó ở câu hỏi của
giáo viên.
1.3. Phương pháp làm việc với sách giáo khoa và các tài liệu tham
khảo

Sách giáo khoa và tài liệu tham khảo là một nguồn tri thức vì nó phản
ánh những kinh nghiệm đã được loài người khái quát hoá, hệ thống hoá trong
suốt quá trình phát triển lịch sử của mình. Trong quá trình làm việc tự lực với
sách giáo khoa và các tài liệu, sách báo khác, học sinh không chỉ nắm vững,
đào sâu và mở rộng tri thức mà còn hình thành kĩ năng, kĩ xảo đọc sách để
học tập suốt đời - học qua sách. Làm việc với sách giáo khoa và tài liệu sách
báo khác có thể diễn ra trên lớp và ngoài lớp.

* Những yêu cầu khi sử dụng phương pháp làm việc với sách giáo khoa
và các tài liệu sách báo khác

- Học sinh sử dụng sách tại lớp để tự nghiên cứu những nội dung của
bài học mà giáo viên không giảng. Tuy nhiên trước khi tổ chức cho học sinh
tự nghiên cứu sách giáo khoa và tài liệu giáo viên cần tiến hành đàm thoại
một cách cặn kẽ, tỉ mỉ về chủ đề học tập, nêu lên những vấn đề cơ bản của
tài liệu phải nghiên cứu và xác định trình tự và phương pháp nghiên cứu theo
trình tự ấy.

- Cần đặt ra những câu hỏi về những nội dung học sinh tự nghiên cứu
và kích thích họ trả lời nhằm biết được trình độ lĩnh hội nội dung, qua đó điều
chỉnh, sửa chữa những điều họ hiểu chưa đúng.

- Cần kết hợp các phương pháp dạy học khác với phương pháp làm
việc với sách trong một tiết dạy.

- Việc sử dụng sách giáo khoa và tài liệu tham khảo ở nhà giúp cho học
sinh bổ sung, đào sâu những kiến thức tiếp thu trong thời gian hạn chế ở lớp
và rèn kỹ năng, kỹ xảo, thói quen sử dụng sách.

Để việc sử dụng sách có hiệu quả cần hình thành cho học sinh một số
kĩ năng như kĩ năng tìm sách ở thư viện hay thư viện điện tử, kỹ năng đọc
(đọc lướt để tìm ý chính, biết bố cục; đọc kĩ để nắm ý chính, luận điểm chính;
đọc nhanh (đọc nhanh không phải để đọc nhiều mà để tiết kiệm thời gian vào
việc suy nghĩ về những điều đã đọc được); kĩ năng ghi chép (ghi dàn ý, ghi đề
cương, ghi trích dẫn, ghi tóm tắt…).

Cần phải có sự kiểm tra chặt chẽ những yêu cầu, nhiệm vụ đọc sách
cộng với sự chỉ dẫn rõ ràng, sự giúp đỡ kịp thời những khó khăn về phương
pháp đọc và ghi chép khi đọc sách ở học sinh để nâng cao hiệu quả của việc
đọc sách và rèn kĩ năng, kĩ xảo đọc sách ở các em.

Trong thời đại bùng nổ thông tin, phương tiện thông tin đại chúng được
cài đặt đến từng hộ dân và công nghệ thông tin ứng dụng khá nhiều vào dạy
học, học sinh có nhiều cơ hội tìm kiếm thông tin trên mạng (intemet) để hoàn
thành các bài tập chuẩn bị các đề cương thảo luận hay để mở rộng kiến thức
từ bài học trên lớp. Cần hướng dẫn học sinh tìm kiếm và lựa chọn thông tin
trên mạng một cách nhanh chóng và hiệu quả.

Tìm kiếm tổ chức thông tin có thể căn cứ vào đuôi của webside. Ví dụ
các web có đuôi như: .com: tổ chức thương mại; .gov: tổ chức chính phủ; .mil:
tổ chức kinh doanh; .biz: tổ chức thương mại v.v… Hoặc đuôi phân loại quốc
gia, ví dụ: .vn: của Việt Nam; .sg: Sigapore; .jp: Nhật Bản; .uk: Anh; .ru:
Russia v.v…

Tìm giới hạn phạm vi thông tin dùng từ khóa: site. Ví dụ, tìm tổ chức
giáo dục của Singapore, gõ: site:edu.sg; hoặc tìm kiếm với Google ta có thể
gõ trong ngoặc kép các cụm từ cần tìm để giới hạn phạm vi thông tin cần tìm.
Ví dụ; muốn tìm những trang thông tin nói về luật giao thông, ta gõ: “luật giao
thông” vào thanh công cụ tìm kiếm nâng cao rồi enter…

2. Phương pháp dạy học trực quan

Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp sử dụng những
phương tiện trực quan, phương tiện kĩ thuật dạy học để hình thành, củng cố,
hệ thống hoá và kiểm tra tri thức, kĩ năng, kĩ xảo ở học sinh (phương tiện trực
quan sẽ được trình bày ở phần dưới).

2.1. Phân loại phương pháp trực quan


- Phương pháp quan sát: cách thức giáo viên tổ chức và hướng dẫn
học sinh độc lập quan sát các sự vật, hiện tượng một cách có mục đích và có
kế hoạch… Từ đó rút ra kết luận hình thành tri thức mới (phương pháp này
dùng nhiều trong khoa học tự nhiên).

- Phương pháp trình bày trực quan: cách thức giáo viên trình bày nội
dung bài học dựa trên các phương tiện trực quan khác nhau tuỳ mục đích,
yêu cầu, nội dung bài học. Phương pháp này thường được thể hiện dưới 2
hình thức là minh hoạ (bản mẫu, bản đồ, tranh ảnh, chân dung, hình vẽ…) và
trình bày (thí nghiệm, thiết bị kỹ thuật, chiếu phim đèn chiếu…)

Hai phương pháp này luôn có mối quan hệ tương hỗ với nhau, không
tách rời nhau.

2.2. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học trực quan

- Giúp học sinh có thông tin (biểu tượng) đầy đủ và sâu sắc về đối
tượng hoặc hiện tượng nghiên cứu trên cơ sở huy động nhiều giác quan tham
gia vào quá trình tri giác đối tượng nhận thức, từ đó, phát triển tư duy trừu
tượng, hình thành khái niệm về đối tượng…

- Làm thỏa mãn và phát triển hứng thú của người học.

- Làm cho tài liệu học tập vừa sức hơn đối với học sinh bằng tính trực
quan thông qua những phương tiện dạy học.

- Tăng cường lao động của người học và bằng cách đó nâng cao nhịp
điệu nghiên cứu tài liệu học tập.

- Nếu lạm dụng sẽ làm học sinh phân tán sự chú ý, thiếu tập trung vào
các dấu hiệu bản chất, hạn chế phát triển tư duy trừu tượng…

2.3. Yêu cầu khi sử dụng phương pháp trực quan

- Lựa chọn phương tiện dạy học phù hợp với mục đích, nội dung tài liệu
học.

- Chú ý đến tính năng của từng phương tiện, qua đó sử dụng phối hợp
các phương tiện đạt hiệu quả sư phạm cao. Xác định chính xác thời điểm sử
dụng phương tiện trong tiết học hay nói một cách khác sử dụng đúng lúc và
đúng chỗ.

- Xác định độ dài thời gian sử dụng phương tiện dạy học.

- Suy nghĩ cẩn thận những biện pháp, cách thức chuẩn bị cho học sinh
tri giác tài liệu học tập cũng như việc nghiên cứu tài liệu sau khi đã quan sát
đầy đủ (xác định mục đích, nhiệm vụ quan sát, hướng dẫn quan sát, cách ghi
chép và rút ra những kết luận đúng đắn, khái quát và biểu đạt dưới dạng văn
nói hay văn viết một cách rõ ràng, chính xác).

- Xây dựng kế hoạch tiết học có phối hợp sử dụng phương tiện nhằm
phát huy tính tích cực của học sinh trong việc lĩnh hội tài liệu học tập.

- Phối hợp lời nói của giáo viên với việc sử dụng phương tiện trực
quan.

Lời nói của giáo viên có thể đảm nhận các chức năng khác nhau như
hướng dẫn quan sát, giúp học sinh tìm ra các quan hệ bên trong mà bằng tri
giác học sinh không phát hiện ra.

3. Nhóm phương pháp dạy học thực hành

Nhóm phương pháp dạy học thực hành phương pháp giáo viên tổ chức
cho học sinh trực tiếp hoạt động thực hành, thực tiễn để tìm tòi tri thức mới
hay vận dụng tri thức vào thực tiễn nhằm củng cố, rèn luyện kỹ năng, kỹ
xảo… Nhóm phương pháp này bao gồm phương pháp luyện tập, ôn và
phương pháp làm việc trong phòng thí nghiệm.

3.1. Phương pháp luyện tập

Phương pháp luyện tập là phương pháp dưới sự hướng dẫn của giáo
viên, học sinh lặp lại nhiều lần những hành động nhất định trong những hoàn
cảnh khác nhau nhằm hình thành và phát triển kĩ năng, kỹ xảo.

Bất cứ môn học nào cũng cần và có thể tổ chức cho học sinh luyện tập.
Việc luyện tập không chỉ hình thành những kỹ năng, kĩ xảo tùng môn học mà
còn hình thành kỹ năng, kĩ xảo chung như kĩ năng tư duy, kĩ năng tổ chức học
tập một cách khoa học.

Có nhiều loại luyện tập như luyện tập tái hiện (theo mẫu) và luyện tập
sáng tạo (không theo mẫu); luyện tập nói, luyện tập viết và luyện tập lao động.
Có nhiều loại bài luyện tập (như câu hỏi, bài tập, tình huống, bài toán thường
gặp).

Những yêu cầu cơ bản khi sử dụng phương pháp luyện tập

- Luyện tập phải nhằm mục đích, yêu cầu nhất định.

- Luyện tập phải tiến hành theo một trình tự chặt chẽ

- Phải nắm lí thuyết rồi mới luyện tập và qua luyện tập để củng cố và
hiểu sâu lí thuyết.

- Luyện tập phải đảm bảo mức độ khó vừa sức với những hoàn cảnh
khác nhau.

3.2. Phương pháp ôn tập

Ôn tập là phương pháp dạy học giúp học sinh mở rộng, đào sâu khái
quát hoá, hệ thống hoá tri thức đã học, kĩ năng, kỹ xảo đã được hình thành,
phát triển trí nhớ, tư duy và qua đó điều chỉnh những sai lầm trong nhận thức
của họ.

Căn cứ vào chức năng ôn tập có thể phân thành các hình thức sau:

- Ôn ngay sau khi lĩnh hội tri thức, kĩ năng kĩ xảo: hình thức ôn này
thường diễn ra thường ngày, sau khi lĩnh hội nội dung bài học nhằm củng cố
sơ bộ tri thức, kĩ năng, kĩ xảo.

- Ôn khái quát, hệ thống hoá tri thức: thường diễn ra sau khi học xong
một chương, một môn học nhằm khái quát hoá, đào sâu mở rộng kiến thức,
hoàn thiện kĩ năng, kĩ xảo.

Những yêu cầu khi sử dụng phương pháp ôn

- Ôn phải có kế hoạch, hệ thống và kịp thời.


- Ôn bằng nhiều hình thức khác nhau.

- Ôn trước khi quên, ôn rải ra và xen kẽ nhiều môn.

- Ôn phải mang tính tích cực.

3.3. Phương pháp công tác thí nghiệm

Đây là phương pháp dạy học dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh
sử dụng thiết bị và tiến hành thí nghiệm nhằm kiểm chứng lại những vấn đề lí
thuyết mà giáo viên đã trình bày, qua đó củng cố hay vận dụng tri thức hình
thành kỹ năng, kĩ xảo…

Thí nghiệm giữ vai trò cơ bản trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo của
nhà trường vì:

- Thí nghiệm là mô hình đại diện cho hiện thực khách quan nó là cơ sở,
điểm xuất phát cho quá trình nhận thức - học tập của học sinh. Từ đây xuất
phát quá trình nhận thức cảm tính của trò để rồi tiến lên sự trừu tượng hoá và
từ trừu tượng đến cụ thể trong tư duy.

- Thí nghiệm do giáo viên trình bày sẽ làm mẫu mực về thao tác cho trò
học tập mà bắt chước, khi học sinh làm thí nghiệm, các em học được cả cách
thức làm thí nghiệm (kĩ năng, kĩ xảo thực hành).

- Thí nghiệm là cầu nối giữa lí thuyết và thực tiễn, là tiêu chẩn đánh giá
tính chân thực của kiến thức, hỗ trợ đắc lực cho tư duy sáng tạo, phương tiện
để hình thành tư duy kĩ thuật.

Thí nghiệm trong nhà trường được phân làm hai loại:

- Thí nghiệm biểu diễn bởi giáo viên

- Thí nghiệm do học sinh thực hiện (để học bài mới, luyện tập, hay để
thực hành trong phòng thí nghiệm, hay tại nhà)

Khi giáo viên biểu diễn thí nghiệm cần lưu ý:

- Bảo đảm an toàn cho cả người học lẫn người dạy.

- Bảo đảm kết quả và tính khoa học của thí nghiệm.
- Bố trí thiết bị để cả lớp cùng quan sát tốt.

- Thí nghiệm đơn giản vừa sức học sinh.

- Tính toán hợp lí số lượng thí nghiệm cần làm trong một bài lên lớp.

- Nội dung thí nghiệm phù hợp với chủ đề bài học.

- Cần kết hợp lời nói với thí nghiệm biểu diễn (định hướng, hướng dẫn
sự quan sát thí nghiệm ở học sinh, chỉ đạo sự suy nghĩ và đi đến kết luận
đúng đắn).

4. Nhóm phương pháp kiểm tra, đánh giá

Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh được xem xét như là
một khâu của quá trình dạy học, đồng thời với tư cách là một phương pháp
dạy học.

Thông qua kết quả kiểm tra, đánh giá mà giáo viên nắm được trình độ
học tập, lĩnh hội tri thức của học sinh, từ đó điều chỉnh những tác động dạy.
Học sinh căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá của giáo viên mà tự đánh giá
mức độ chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng so với yêu cầu của môn học, từ đó tự điều
chỉnh hoạt động học và thúc đẩy quá trình học tập phát triển không ngừng.

Các hình thức kiểm tra, đánh giá cơ bản trong hoạt động dạy học bao
gồm kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kì và kiểm tra tổng kết.

Để đạt được các mục đích yêu cầu của kiểm tra đánh giá, cần sử dụng
một hệ thống các phương pháp kiểm tra khác nhau.

4.1. Phương pháp kiểm tra “hỏi - đáp”

Phương pháp kiểm tra hỏi - đáp là cách thức giáo viên đưa ra cho học
sinh một số câu hỏi và học sinh trả lời trực tiếp với giáo viên, qua câu trả lời
đó cho phép giáo viên nắm được mức độ lãnh hội tài liệu học tập.

Ưu điểm của phương pháp kiểm tra hỏi - đáp là giúp giáo viên thu được
tín hiệu ngược một cách nhanh chóng và kịp thời để điều chỉnh việc giảng dạy
tiếp theo, phát triển kỹ năng diễn đạt bằng ngôn ngữ nói của học sinh.
Hạn chế của phương pháp kiểm tra này là ở chỗ tốn thời gian (vì kiểm
tra được một số ít học sinh), kết quả kiểm tra không được lưu lại để cần thiết
còn xem xét, đối chứng, hiệu quả của phương pháp kiểm bị ảnh hưởng bởi
thái độ của giáo viên khi hỏi thi…

Yêu cầu khi sử dụng phương pháp kiểm tra hỏi - đáp:

- Giáo viên cần xây dựng hệ thống câu hỏi phản ánh những nội dung
cơ bản, chính yếu của bài học, môn học. Các câu hỏi vừa sức với học sinh và
đáp ứng mục tiêu của bài học, môn học. Câu hỏi đặt ra cho học sinh phải
chính xác, rõ ràng và có tính xác định để học sinh không thể hiểu theo hai
nghĩa khác nhau dẫn tới trả lời lạc đề. Câu hỏi đòi hỏi ít nhiều sự phát triển tư
duy của học sinh. Giáo viên cần chuẩn bị các câu hỏi bổ sung, gợi mở v.v…
để dẫn dắt và phát triển tính tích cực của học sinh.

- Giáo viên cần xây dựng kế hoạch kiểm tra và thông báo cho học sinh
biết sớm (thời gian, địa điểm, số lượng học sinh vào phòng thi, thời gian
chuẩn bị và trả lời câu hỏi v.v…).

- Giáo viên cần có thái độ cởi mở, tin cậy, bình tĩnh trong quá trình hỏi
thi. Sự tế nhị và dạy cảm sư phạm là những yếu tố quan trọng giúp giáo viên
thấy rõ thực chất trình độ kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo của họ. Do vậy, giáo viên
cần biết lắng nghe câu trả lời của học sinh, biết gợi ý khuyến khích khi cần
thiết tránh cắt ngang khi không cần thiết làm học sinh mất bình tĩnh, cần có lời
nhận xét câu trả lời của học sinh kèm với cho điểm.

4.2. Phương pháp kiểm tra viết

Phương pháp kiểm tra viết là cách thức học sinh làm những bài kiểm
tra viết trong các khoảng thời gian khác nhau tuỳ theo yêu cầu của người ra
đề đối với các môn học (15 phút hay 45 phút). Kiểm tra viết được sử dụng
sau khi học một bài, phần, chương hay nhiều chương, hoặc toàn bộ giáo
trình.

Ưu điểm của phương pháp kiểm tra viết là trong cùng một thời gian
nhất định kiểm tra được toàn lớp, do đó dễ dàng thống nhất yêu cầu kiểm tra
đồng thời có thể đánh giá, đối chiếu, so sánh được trình độ học sinh trong lớp
với nhau. Phương pháp kiểm tra này có khả năng kiểm tra từ một vấn đề nhỏ
đến một vấn đề lớn có tính chất tổng hợp. Kết quả bài làm của học sinh giúp
giáo viên đánh giá tương đối toàn diện không chỉ mức độ năm kiến thức mà
còn cả kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Mặt khác, kiểm tra viết giúp
học sinh rèn luyện năng lực hệ thống hóa, khái quát hoá, tổng hợp hóa nội
dung học vấn và trình bày, biểu đạt bằng ngôn ngữ viết của chính mình.

Hạn chế của phương pháp kiểm tra viết thể hiện ở chỗ nội dung kiểm
tra không bao hàm được nhiều vấn đề, không phủ kín toàn bộ nội dung môn
học, dễ gây thói quen học tủ, học lệch… Với kiểm tra viết, thiếu mất sự tiếp
xúc sinh động giữa giáo viên và học sinh nên khó nắm bắt thông tin ngược
một cách kịp thời. Kết quả bài kiểm tra đôi khi bị ảnh hưởng bởi kĩ năng, kinh
nghiệm chấm của giáo viên (nhất là môn khoa học xã hội), chẳng hạn như
tình trạng sức khỏe, tâm trạng vui hay buồn, có thâm niên trong nghề hay
giáo viên mới ra trường đều ảnh hưởng đến việc đánh giá bài kiểm tra. Khi sử
dụng phương pháp kiểm tra viết, cần chú ý những vấn đề sau:

- Giáo viên chuẩn bị kế hoạch cụ thể về các bài kiểm tra viết và thông
báo cho học sinh (trừ những bài kiểm tra 15 phút không báo trước). Đề kiểm
tra viết phải bám sát mục tiêu được chuẩn bị một cách kỹ lưỡng, đề được
phát biểu chính xác, dễ hiểu, thống nhất đối với mọi học sinh, vừa sức, phù
hợp với thời gian làm bài, phát huy được tư duy sáng tạo của học sinh.

- Tổ chức kiểm tra viết một cách khách quan, nghiêm túc. Tạo điều kiện
cho học sinh bình tĩnh tập trung tư tưởng, thoải mái tự nhiên, tự tin làm bài
đầy đủ và cẩn thận. Thu bài đúng giờ quy định.

- Chấm bài kiểm tra viết phải có đáp án và biểu điểm chính xác, chi tiết
để việc cho điểm đúng và công bằng. Chấm bài cẩn thận, chính xác, có lời
nhận xét gọn, rõ và cụ thể. Trả bài đúng hạn, công khai đáp án, có lời nhận
xét chung về kết quả, sai lầm, thái độ làm bài của cả lớp và rút ra những kinh
nghiệm. Nếu có sai sót về phía giáo viên cần xem xét lại, sửa điểm và xin lỗi
học sinh.
4.3. Phương pháp kiểm tra thực hành

Kiểm tra thực hành là cách thức học sinh làm những bài kiểm tra có
tính chất thực hành như đo đạc, làm thí nghiệm, vẽ mô hình, thực hiện các
thao tác lao động, trình diễn động tác thể dục… ở trên lớp, trong phòng thí
nghiệm, ở vườn trường, xưởng trường, ngoài thiên nhiên. Phương pháp kiểm
tra nay nhằm kiểm tra kĩ năng, kĩ xảo thực hành, không chỉ đơn thuần kiểm
tra kĩ năng biết làm một cái gì đó mà là kĩ năng vận dụng lí thuyết vào các tình
huống khác nhau trong thực tiễn.

Trong quá trình kiểm tra giáo viên cần theo dõi trình tự, độ chính xác,
trình độ thành thạo của các thao tác, kết hợp kiểm tra lí thuyết - cơ sở lí luận
của các thao tác. Tùy thuộc vào nội dung và yêu cầu kiểm tra mà hình thức
kiểm tra được thực hiện với nhóm hoặc cá nhân học sinh, với thời gian dài
hay ngắn, và mức độ vận dụng lí thuyết đến đâu…

4.4. Phương pháp trắc nghiệm

Thông thường, trắc nghiệm được hiểu là những bài tập nhỏ hoặc câu
hỏi có sẵn các phương án trả lời, yêu cầu học sinh suy nghĩ và chọn phương
án trả lời đúng nhất bằng một kí hiệu đã quy ước.

Câu hỏi trắc nghiệm có các loại như trắc nghiệm đúng - sai, trắc
nghiệm có nhiều phương án lựa chọn, trắc nghiệm ghép đôi, trắc nghiệm điền
thế.

Một bài kiểm tra có thể chỉ có một hay hai loại câu trắc nghiệm, nhưng
có thể bao gồm các loại câu trắc nghiệm nêu trên, tùy thuộc vào tính chất,
mục đích kiểm tra và trình độ soạn câu trắc nghiệm của giáo viên.

Ưu điểm của phương pháp kiểm tra bằng trắc nghiệm là cho phép trong
một khoảng thời gian ngắn có thể kiểm tra được nhiều kiến thức cụ thể của
từng môn học; kết quả bài kiểm tra phụ thuộc vào khả năng của học sinh chứ
không phụ thuộc vào kỹ năng chấm của giáo viên; chấm bài nhanh và có thể
chấm bằng máy.
Tuy nhiên, sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan cũng có mặt
hạn chế của nó như trắc nghiệm khách quan chỉ nghiên cứu được kết quả
chứ không nghiên cứu được quá trình tư duy đi đến kết quả; chỉ chú ý đến
mặt định lượng chứ ít chú ý đến mặt định tính, mà những hạn chế trên chủ
yếu do kỹ thuật soạn câu trắc nghiệm của giáo viên.

Vì vậy để đảm bảo bài trắc nghiệm có hiệu quả cần xây dựng các câu
hỏi trắc nghiệm phản ánh trình độ tri thức, kĩ năng và thái độ học tập tích cực
của học sinh; các câu hỏi phải được xây dựng một cách kĩ lưỡng để kiểm tra
được nội dung cần kiệm tra và có tác dụng phát triển trí tuệ, phương pháp tư
duy độc lập, sáng tạo của học sinh.

4.5. Đánh giá tri thức, kĩ năng, kĩ xảo ở học sinh

Các kết quả kiểm tra hoạt động học tập, nhận thức của học sinh thể
hiện trong việc đánh giá hoạt động đó, do vậy, kiểm tra phải đi liền với đánh
giá.

Có nhiều cách hiểu về đánh giá nói chung:

- Đánh giá là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về kết
quả của công việc trên cơ sở các thông tin thu được và so sánh đối chiếu với
các mục tiêu đưa ra từ trước. Từ đó đề xuất những quyết định thích hợp để
cải thiện thực trạng, điều chỉnh nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc.

- Đánh giá trong dạy học là một quá trình tiến hành có hệ thống để xác
định mức độ đạt được của học sinh về các mục tiêu dạy học.

Quá trình đánh giá bao gồm bốn bộ phận cấu thành trong một dây
chuyền, đó là đo - lượng giá - đánh giá - ra quyết định.

- Đo (measurement) là quá trình xác định các số cho các cá nhân hay
cho các đặc điểm của cá nhân theo những nguyên tắc đã định rõ. Như vậy,
kết quả bài kiểm tra của học sinh được thể hiện bằng một số đo dựa theo
những quy tắc nhất định. Đó có thể là một điểm số, một thứ bậc, một loại
hạng. Công cụ đo là thang điểm. Hiện nay, ở các nước trên thế giới, người ta
áp dụng những hệ thống đánh giá bằng điểm số trong nhà trường rất khác
nhau. Thang điểm ở nước Nga gồm 5 bậc, trong đó điểm 5 là cao nhất, thấp
nhất là 1 điểm. Ở Đức hệ thống điểm 5 bậc nhưng điểm 1 lại cao nhất. Ở
nước Pháp, kết quả được xác định theo hệ thống 20 điểm… Ở Việt Nam ngày
nay dùng hệ thống thang điểm 10 bậc.

- Lượng giá là việc dựa vào các số đo, người ta đưa ra những thông tin
ước lượng trình độ tri thức; kỹ năng, kỹ xảo của một học sinh. Lượng giá là
một bước trung gian giữa đo và đánh giá. Nó cho biết trình độ tương đối của
một học sinh trong lớp so với tiêu chuẩn đề ra ban đầu, nhưng nó chưa trực
tiếp nói lên thực chất trình độ của học sinh đó. Có hai cách lượng giá: Lượng
giá theo chuẩn là so sánh trình độ của học sinh với trình độ trung bình chung
của tập hợp (tập thể lớp); còn lượng giá theo tiêu chí là so sánh trình độ của
học sinh vơi những tiêu chí đã đề ra ban đầu.

- Đánh giá là bước quyết định trong toàn bộ quá trình đánh giá. Đó là
việc giáo viên đưa ra những nhận xét, phán đoán về chất lượng của học sinh
trước vấn đề đã được kiểm tra, đồng thời đề xuất những giải pháp thích hợp.
Tình hình phổ biến hiện nay là đa số giáo viên khi chấm bài chỉ cho điểm số
chứ chưa phê những nhận xét, chỉ ra cho học sinh những mặt mạnh, yếu và
hướng khắc phục. Như vậy, giáo viên chỉ mới lượng giá mà chưa đánh giá.

- Ra quyết định là khâu cuối cùng của quá trình đánh giá. Dựa vào
những nhận xét, nhận định về kết quả học tập của học sinh trong các khâu
đánh giá mà giáo viên đưa ra những quyết định hợp lí về các biện pháp cụ
thể để giúp học sinh khắc phục thiếu sót, phát huy những mặt mạnh và đạt
kết quả tốt hơn. Giáo viên cũng có thể đưa ra những quyết định đối với bản
thân như phải thay đổi cách dạy như thế nào…

Như vậy, thuật ngữ đánh giá (evaluation) không đồng nhất với thuật
ngữ cho điểm (mark). Khái niệm đánh giá rộng hơn khái niệm cho điểm. Đánh
giá biểu hiện dưới hình thức thái độ cảm xúc, nhận xét và cho điểm.

Giáo viên cần tuân thủ những yêu cầu sư phạm của kiểm tra đánh giá
như tính khách quan, tính liên tục, hệ thống, tính toàn diện, tính chính xác,
công bằng và công khai. Cần kết hợp các hình thức, phương pháp kiểm tra
đánh giá truyền thống với các phương pháp hiện đại. Chẳng hạn, cần kết hợp
các phương pháp kiểm tra, thi tự luận với phương pháp kiểm tra đánh giá
bằng trắc nghiệm khách quan (test). Bên cạnh đó tăng cường sử dụng các
phương tiện kĩ thuật hiện đại hỗ trợ cho việc kiểm tra đánh giá (máy kiểm tra).

III. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC HIỆN ĐẠI


1. Vài nét về xu thế đổi mới phương pháp dạy học hiện nay

- Một trong những đặc điểm của thời đại hiện nay là cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ đang phát triển như vũ bão dẫn đến sự bùng nổ thông
tin. Trước tình hình đó, đòi hỏi không ngừng đổi mới, hiện đại hoá nội dung
dạy học để phản ánh những thành tựu hiện đại về các lĩnh vực khoa học. Sự
thay đổi về khối lượng và tính chất của nội dung dạy học đã mâu thuẫn với
thời hạn học tập không thể gia tăng. Để giải quyết mâu thuẫn này phải đổi
mới phương pháp theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của người
học, mà bản chất của xu hướng này là khơi dậy và phát huy năng lực tìm tòi
độc lập, sáng tạo của người học thông qua việc tạo điều kiện cho họ phát
hiện và giải quyết vấn đề, nhờ vậy mà họ lĩnh hội khái niệm khoa học và học
được cách học.

- Trong cơ chế thị trường hiện nạy, giáo dục được quan niệm như là
động lực của sự phát triển - bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực thúc đẩy
kinh tế phát triển. Đổi mới mục tiêu, nội dung lẫn phương pháp dạy học, giáo
dục là lẽ sống còn của nhà trường trong cơ chế thị trường. Nhà trường muốn
tồn tại và phát triển phải sáng tạo ra những hệ dạy học mềm dẻo, đa năng và
hiệu nghiệm thích ứng học sinh (khách hàng) rất khác nhau về nhu cầu, trình
độ, khả năng nhưng giống nhau ở mong muốn đạt chất lượng và hiệu quả
trong học tập. Do đó, hoạt động dạy học được phân hoá - cá thể hoá cao độ,
nó cho phép người học có thể "vào" hay "ra" khỏi hệ không mấy khó khăn và
tiến lên theo nhịp độ cá nhân. Sự điều khiển của giáo viên phần lớn được
chuyển vào trong giáo trình, sách hướng dẫn học tập và hình thức tổ chức
dạy học. Đấy là hệ dạy học theo nguyên lí "tự học có hướng dẫn", đòi hỏi
người học phải tự lực rất cao và sự điều khiển thông minh, khéo léo của
người thầy (khác với tự học thuần tuý).

- Sự thâm nhập giữa các lĩnh vực khoa học cho phép người ta chuyển
dịch những tiếp cận khoa học: Tiếp cận hệ thống, tiếp cận mô đun… vào hoạt
động dạy học, làm xuất hiện những tổ hợp phương pháp dạy học phức hợp
như Algorit dạy học, mô đun dạy học… chúng rất thích hợp với những hệ dạy
học mới trong điều kiện cơ chế thị trường hiện đại và cũng chỉ có chúng cho
phép giáo viên sử dụng phối hợp, hiệu quả những hệ truyền thông đa kênh,
kể cả kĩ thuật vi tính (CNTT - DH), điều mà các phương pháp dạy học cổ
truyền thống khó có khả năng.

Từ những đặc điểm của hoạt động dạy học trong giai đoạn hiện nay,
việc đổi mới phương pháp dạy học theo ba xu hướng sau:

- Tích cực hóa hoạt động dạy học (tâm điểm là dạy học giải quyết vấn
đề)

- Cá biệt hóa hoạt động dạy học (tâm điểm là dạy học chương trình
hóa),

- Công nghệ hóa hoạt động dạy học (tâm điểm là ứng dụng công nghệ
thông tin vào trong dạy học).

2. Một số phương pháp dạy học hiện đại

2.1. Dạy học giải quyết vấn đề

Dạy học giải quyết vấn để là một cách tiếp cận trong lĩnh vực phương
pháp. Nó là một tập hợp nhiều phương pháp dạy học mà trung tâm là phương
pháp bài toán (bài toán nhận thức).

Bài toán có các đặc điểm cơ bản sau:

- Nó phải xuất phát từ cái quen thuộc, vừa sức học sinh (không quá dễ
hay quá khó).
- Không mang tính tái hiện đơn thuần, mà đòi hỏi học sinh phải xử lí dữ
kiện "đã cho" của bài toán, tìm tòi phát hiện để đi tới đáp số. Tóm lại, bài toán
phải chứa đựng một trở ngại nhận thức, buộc học sinh phải tự lực vượt qua.

- Mâu thuẫn chủ chốt của bài toán phải kích thích sự tìm tòi phát hiện
của học sinh, đặt học sinh vào tình huống có vấn đề - có nghĩa là phải cấu tạo
lại mâu thuẫn của bài toán, sao cho nó mang tính tìm tòi, khám phá. Đây là
đặc điểm quan trọng nhất.

- Mâu thuẫn của bài toán được học sinh tự giác nhận thức như một nhu
cầu bên trong, bức thiết phải giải quyết bằng được khi đó học sinh được đặt
trong tình huống có vấn đề.

- Trong và bằng cách tổ chức giải quyết bài toán, học sinh chiếm lĩnh
được cả kiến thức, cách thức giải và cả niềm vui của nhận thức.

Dạy học giải quyết vấn đề bao gồm một (hoặc một chuỗi) bài toán nhận
thức chứa đựng mâu thuẫn giữa cái đã cho và cái: phải tìm, được cấu trúc
một cách sư phạm làm cho bài toán mang tính chất ơrixtic. Bài toán nêu vấn
đề - ơrixtic - hạt nhân của phương pháp dạy học này.

Như đã trình bày ở trên, dạy học giải quyết vấn đề là một hệ phương
pháp phức hợp đa năng, nên nó có thể áp dụng trọn vẹn theo công nghệ theo
quy trình riêng của nó lúc đó nó có tác dụng như một phương pháp dạy học,
cụ thể:

* Quy trình xây dựng bài toán nhận thức:

a) Xác định mục tiêu bài dạy,

b) Xác định đơn vị kiến thức bài dạy (nắm rất chắc nội dung kiến thức
bài dạy),

c) Thiết kế bài toán nhận thức cho từng đơn vị kiến thức (chọn loại tình
huống phù hợp với nội dung kiến thức. Ví dụ, tình huống tại sao hay tình
huống nhiều lựa chọn…
d) Kiểm tra bài toán xây dựng có phù hợp với mục đích, nội dung và
trình độ của học sinh hay không. Chú ý những câu hỏi cuối bài toán.

* Quy trình giải quyết bài toán nhận thức ở trên lớp:

a) Tóm tắt và phân tích dữ kiện (những dữ kiện bề ngoài và dữ kiện


bên trong)

b) Nêu vấn đề cần giải quyết (dữ kiện cơ bản)

c) Xác định hướng giải quyết

d) Đề ra giả thuyết

e) Phân tích từng giả thuyết để tìm giả thuyết đúng

f) Rút ra kết luận và hoàn chỉnh nội dung bài học

Ngoài ra, dạy học giải quyết vấn đề có khả năng thâm nhập vào các
phương pháp dạy học khác, như thuyết trình nêu vấn đề, đàm thoại ơrixtic,
hay trực quan mang tính nêu vấn đề, thực hành mang tính tìm tòi khám phá
(bài luyện tập không theo mẫu), nghiên cứu theo nhóm (học sinh có thể giải
quyết một phần của bài học), dạy học theo dự án (học sinh tham gia giải
quyết trọn vẹn chủ đề học tập)…

* Ưu điểm và nhược điểm của dạy học giải quyết vấn đề:

- Giúp học sinh nắm tri thức và phát triển hoạt động trí tuệ một cách sâu
sắc và vững chắc đặc biệt là phát triển năng lực tư duy độc lập sáng tạo.

- Nâng cao hứng thú học tập, rèn luyện năng lực tìm kiếm, phát hiện
vấn đề, năng lực vận dụng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, bước đầu làm quen với
phương pháp học tập và nghiên cứu khoa học.

- Bồi dưỡng những phẩm chất, tác phong của người làm khoa học,
người lao động mới tự chủ, năng động, sáng tạo: bết thu thập, phân tích, xử lí
thông tin, biết giải quyết vấn đề…

- Tốn nhiều thời gian để nghiên cứu tài liệu học tập.
- Khó thực hiện đối với tất cả nội dung dạy học hoặc các nội dung dạy
học quá mới hay phức tạp

- Khó thực hiện đối với học sinh yếu

- Đòi hỏi giáo viên sự chuẩn bị bài công phu và kinh nghiệm tổ chức

2.2. Dạy học theo nhóm nhỏ

Theo A.T. Francisco (1993): "Học tập nhóm là một phương pháp học
tập mà theo phương pháp đó học viên trong nhóm trao đổi, giúp đỡ, và hợp
tác với nhau trong học tập". Dạy học theo nhóm nhỏ là kiểu phương pháp dạy
học, trong đó học sinh được chia thành nhóm và dưới sự chỉ đạo của giáo
viên, trao đổi những ý nghĩ nguồn kiến thức, giúp đỡ hợp tác với nhau trong
việc lĩnh hội tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo.

* Tiến trình thực hiện dạy học theo nhóm trên lớp

Bước 1: Thành lập nhóm học tập

- Việc phân chia nhóm thường dựa trên số lượng học viên, chủ đề bài
học, và đặc điểm của học sinh. Có thể chia nhóm theo cách ngẫu nhiên, hoặc
tùy theo tiêu chuẩn của giáo viên đặt ra như giới tính, học lực… Cấu trúc của
các nhóm có thể được giữ nguyên hoặc thay đổi. Số lượng thành viên trong
nhóm có thể từ 2 - 20 người, tuy nhiên nhóm lí tưởng là 4 - 6 người.

- Cần thiết phải cử nhóm trưởng, thư kí nhóm. Nhóm trưởng có nhiệm
vụ chuẩn bị nội dung, xác định mục tiêu, cung cấp tư liệu cho từng nhóm viên,
phân công nhiệm vụ cho từng người, bố trí chỗ ngồi hợp lý, khởi động buổi
thảo luận tạo bầu không khí bằng cách vào đề một cách sinh động. Trong khi
thảo luận, nhóm trưởng có tránh nhiệm điều động mọi thành viên tham gia
tích cực bằng cách: lắng nghe, khuyến khích, đảm bảo an toàn cho người rụt
rè, khéo ngăn chặn những người nói nhiều, theo dõi quan sát phản ứng của
từng người. Ngoài ra, nhóm trưởng còn có thể khai thác nội dung bằng cách
bản thân hay nhờ người khác đặt câu hỏi kích thích tư duy của mọi người,
phát hiện những khác biệt hay mâu thuẫn trong các phát biểu, nối kết những ý
rời rạc thành một hệ thống. Vì vậy mà nhóm trưởng phải là người có uy tín, có
khả năng lôi cuốn mọi người cùng hoạt động và phải có học lực khá giỏi. Thư
ký có thể luân phiên nhau trong nhóm.

Bước 2: Giáo viên giới thiệu nội dung và cung cấp một số thông tin để
định hướng cho hoạt động nhóm. Nên giới thiệu mục tiêu và nội dung theo
cách nhìn của học sinh để họ có thể hiểu ngay yêu cầu và lý do cho hoạt
động của họ. Sau đó đề ra nhiệm vụ cụ thể cho các nhóm.

Bước 3: Thảo luận nhóm

Từng nhóm ngồi từng cụm với nhau để dễ dàng trao đổi ý kiến, để giáo
viên dễ dàng quan sát, động viên hoặc gợi ý nếu cần trong quá trình hoạt
động của nhóm. Mỗi nhóm có nhiệm vụ thu thập các ý kiến trong nhóm để
báo cáo trước lớp.

Bước 4: Thảo luận lớp

Các nhóm báo cáo trước lớp, nếu cần các nhóm có thể thảo luận với
nhau để đi đến kết luận.

Bước 5: Giáo viên tổng kết và khái quát kết quả bài học

Trong quá trình học sinh hoạt động nhóm, nhiệm vụ của giáo viên là:

- Điều động: giáo viên di chuyển khắp các nhóm theo dõi công việc
nhằm xem các nhóm có tìm ra cách giải quyết hợp lý nhất hay không; tìm
những sai lầm mà các nhóm mắc phải, sai lầm điển hình, sai lầm chưa được
sửa chữa.

- Đặt câu hỏi bổ sung: giáo viên có thể dừng các kĩ thuật như nhắc lại
các ý kiến, nhấn mạnh các khái niệm, ý quan trọng hay tóm tắt, liên kết các
báo cáo của nhóm trong nội dung bài học.

Nếu có nhóm nào đó gặp khó khăn giáo viên có thể tham gia vào với tư
cách chỉ đạo thảo luận nhằm giải quyết khó khăn đó.

* Ưu điểm và nhược điểm của dạy học theo nhóm nhỏ:

- Các thành viên cùng có cơ hội tham gia chia sẻ ý kiến và kinh nghiệm.
- Có thể thay đổi cấu trúc của các nhóm, tạo cơ hội cho các thành viên
có dịp trao đổi nhiều người với nhau.

- Tạo cơ hội để hội họp các ý kiến và quan điểm khác nhau, giúp quá
trình giải quyết vấn đề.

- Xây dựng ý thức làm việc theo nhóm.

- Một hoặc hai thành viên của nhóm có thể trội hơn thì các thành viên
khác có thể bị co lại và bớt tham gia vào hoạt động của nhóm.

- Phương pháp này tốn nhiều thời gian hơn để có sự tham gia của tất
cả các thành viên.

- Không phù hợp với lớp đông sinh viên, nên đòi hỏi số lượng sinh viên
trong lớp và số giảng viên / số sinh viên (1 / 25).

2.3. Dạy học theo dự án

Thuật ngữ dự án (project) được hiểu theo nghĩa phổ thông là một đề
án, một dự thảo, một kế hoạch được thực hiện nhằm đạt mục đích đề ra.
Thuật ngữ này được sử dụng phổ biến trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã
hội. Khái niệm dự án đã đi từ lĩnh vực kinh tế - xã hội vào lĩnh vực giáo dục -
đào tạo không chỉ với ý nghĩa là các dự án phát triển giáo dục mà còn được
sử dụng như một phương pháp dạy học.

Các nhà sư phạm Mỹ từ đầu thế kỷ XX đã xây dựng cơ sở lý luận cho


phương pháp dự án và coi đó là phương pháp dạy học quan trọng để thực
hiện quan điểm dạy học định hướng vào học sinh, nhằm khắc phục nhược
điểm của dạy học truyền thống coi giáo viên là trung tâm. Ban đầu dạy học
theo dự án được sử dụng trong dạy học thực hành các môn học kỹ thuật, về
sau được dùng trong hầu hết các môn học khác cả các môn khoa học xã hội.
Hiện nay dạy học theo dự án được sử dụng phổ biến trong các trường phổ
thông và đại học trên thế giới, đặc biệt ở những nước phát triển.

Dạy học theo dự án, gọi tắt là dạy học dự án (DHDA) được hiểu như
một phương pháp dạy học hướng học sinh đến việc tiếp thu tri thức và kỹ
năng thông qua quá trình giải quyết một bài tập tình huống, được gọi là một
dự án (project) mô phỏng môi trường các em đang sống và sinh hoạt.

Hay có thể hiểu: dạy học theo dự án là phương pháp trong đó cá nhân
hay nhóm học sinh thiết lập một dự án có nội dung gắn kết với nội dung học
tập. Dựa vào tri thức, kinh nghiệm và kỹ năng vốn có, trên cơ sở phân tích
thực tiễn thuộc phạm vi học tập, cùng với tài liệu, phương tiện, học sinh đề
xuất ý tưởng, thiết kế dự án, soạn thảo và hoàn chỉnh dự án.

Trong cách học theo dựa án, học sinh học tập theo nhóm để giải quyết
những vấn đề có thật trong cuộc sống (authentic), theo sát chương trình học
(curriculum - based) và có phạm vi kiến thức liên môn (interdisciplinary). Học
sinh có thể đóng các vai trong các ngành nghề khác nhau và hoàn thành vai
trò đó dựa trên những kiến thức và kỹ năng nhất định. Còn giáo viên thì tạo
vai trò cho học sinh sao cho gắn với nội dung bài học và giúp đỡ họ hoàn
thành vai trò ấy. Các phương tiện thực hiện dự án gồm rất nhiều nguồn như
sách giáo khoa, Intemet, đĩa CD, các chuyên gia và nhiều tài liệu khác. Dự án
có thể chỉ bó hẹp trong phạm vi lớp học và kéo dài trong 1-2 tuần, cũng có khi
vượt ra ngoài phạm vi lớp học và kéo dài trong suốt một học kì hay một khoá
học.

* Vai trò của học sinh và giáo viên trong dạy học dựa trên dư án:

- Học sinh quyết định cách tiếp cận vấn đề và các hoạt động cần tiến
hành để giải quyết vấn đề. Chính học sinh là người thu thập tài liệu từ nhiều
nguồn khác nhau, rồi tổng hợp (synthesize), phân tích (analyze) và tích luỹ
kiến thức từ quá trình làm việc của họ. Bằng cách này mỗi bài học đều thật sự
hấp dẫn đối với học sinh vì vấn đề mà các em giải quyết là vấn đề có thật
trong cuộc sống, và việc giải quyết vấn đề đòi hỏi những kĩ năng của người
lớn như kĩ năng hợp tác, kĩ năng diễn giải.

- Trong suốt quá trình học sinh thực hiện dự án, giáo viên giữ vai trò
như người hướng dẫn (guide), người tham vấn (advise) chứ không "cầm tay
chỉ việc" cho học sinh của mình.
* Qui trình dạy học theo dự án, gồm các bước sau:

- Vấn đề trong thực tiễn

- Phát hiện dự án

- Xác định mục tiêu dự án

- Lập kế hoạch thực hiện dự án (phân nhóm, gợi ý nguồn tài nguyên)

- Triển khai dự án (thu thập và xử lí thông tin, theo dõi đôn đốc)

- Trình bày kết quả của dự án (trình bày sản phẩm, đánh giá sản phẩm)

* Ưu điểm và nhược điểm của dạy học dựa trên dự án

- Học sinh là người chịu trách nhiệm chính của việc học, và tự xây
dựng kiến thức của mình.

- Thiết lập mối liên hệ với cuộc sống ở ngoài môi trường lớp học.

- Hướng đến các vấn đề của thế giới thật

- Phát triển các kĩ năng sống như kĩ năng làm việc tốt với người khác,
kĩ năng đưa ra các quyết định chín chắn, kĩ năng chủ động giải quyết các vấn
đề phức tạp.

- Tạo điều kiện cho nhiều phong cách học khác nhau được triển khai,

- Nhiệm vụ học đến được với tất cả học sinh.

- Công nghệ thông tin được tích hợp vào quá trình học tập học sinh
không học công nghệ thông tin một cách riêng lẻ vì có lí do để học công nghệ
thông tin chẳng hạn như để trình bày sản phẩm của dự án.

- Tuy nhiên, dạy học theo dự án cần có các điều kiện như phương tiện
và điều kiện dạy và học, tốn thời gian và đôi khi việc giải quyết dự án không
gắn với nội dung môn học và không giải quyết được nội dung môn học trong
chương trình dạy học.

Một số ví dụ về phương pháp dạy học dự án:

* Ví dụ 1:
- Mục tiêu: Học sinh có khả năng chỉ ra một hệ sinh thái và giải thích sự
liên hệ hoặc độc lập giữa các cá thể trong hệ sinh thái như thế nào?

- Câu hỏi khái quát: Làm sao để tất cả chúng ta sống hòa thuận

- Câu hỏi bài học: Làm sao để động vật hoang dã sống chung với con
người?

- Dự án (project): Sử dụng dữ liệu thực về động vật hoang dã bị thương


từ trung tâm cứu hộ động vật hoang dã của địa phương, học sinh biết những
loài động vật nào đang bị thương, nguyên nhân bị thương và ảnh hưởng đến
đời sống hoang dã của chúng. Học sinh đưa ra khuyến cáo để giảm những
nguyên nhân do con người gây ra và trình bày tóm tắt những nghiên cứu của
mình và khuyến nghị đối với các tổ chức Xã hội nhân đạo và các tổ chức khác
quan tâm. Vào cuối mỗi buổi trình bày, học sinh thu thập ý kiến phản hồi và
xuất bản các nghiên cứu cùng các ý kiện đưa vào bản giới thiệu cho cộng
đồng.

* Ví dụ 2:

- Mục đích: Hiểu rõ các loại ô nhiễm môi trường khác nhau hiện có.

- Câu hỏi khái quát: Làm sao để giữ cho trái đất chúng ta được khỏe
mạnh?

- Dự án: Học sinh đóng vai chuyên gia về môi trường và nghiên cứu
tình hình về môi trường tại khu vực đang sống. Nhóm phải làm ra một tường
trình (phim, PPT, ấn phẩm…) để thông tin về vấn đề này cũng như là đề ra
biện pháp đối phó.

Ngoài hướng cải tiến phương pháp dạy học nhằm phát huy cao độ tính
tích cực của học sinh (lấy hoạt động học tập của học sinh làm trung tâm), lí
luận dạy học hiện đại còn ứng dụng thành tựu của nhiều khoa học khác vào
việc tổ chức quá trình dạy học nhằm đáp ứng cao nhất khả năng và điều kiện
dạy học của từng cá nhân người học (dạy học chương trình hoá). Triển khai
xu hướng này trong thực tiễn dạy học, các thầy cô cáo đang xúc tiến viết sách
giáo khoa, giáo trình theo hướng tự học có hướng dẫn để đào tạo từ xa (tài
liệu in và giáo trình điện tử - E-learning).

Ứng dụng công nghệ thông tin vào trong dạy học (công nghệ dạy học)
là một xu thế tất yếu nhằm nâng cao tính tích cực của người học và giảm bớt
những công việc không cần tính sáng tạo của giáo viên trên lớp. Việc giáo
viên sử dụng các phần mềm trình chiếu, hình vẽ, biểu đồ, sơ đồ, cao hơn nữa
là ứng dụng các phần mền tin học (như Windows Movie Maker) vào việc thiết
kế bài dạy sinh động, hấp dẫn có tác dụng kích thích hứng thú học tập, đòi hỏi
học sinh huy động nhiều giác quan tham gia vào quá trình thu thập thông tin.
Mặt khác việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học về phía học sinh
còn đòi hỏi, tạo điều kiện để học sinh khai thác hiệu quả các nguồn thông tin,
chia sẻ hiểu biết, hợp tác và giúp đỡ nhau qua mạng giữa giáo viên với học
sinh và giữa các học sinh với nhau (như sử dụng trang web: www.nicenet.org
để tạo lớp học ảo trên mạng, hoặc trang web:
www.pc.innovativeteachers.com). Việc sử dụng các phần mền tin học trong
dạy học không chỉ có tác dụng phát huy tính tích cực, độc lập của học sinh
mà còn rèn luyện kỹ năng tự học (kĩ năng tìm tòi và xử lí thông tin), kỹ năng
công nghệ thông tin để học tập thường xuyên, học tập suốt đời trong thời đại
bùng nổ thông tin như hiện nay.

IV. LỰA CHỌN VÀ SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC


Trong hoạt động dạy học, các phương pháp dạy học có mối quan hệ
thống nhất biện chứng với nhau, mỗi phương pháp dạy học đều có những ưu,
nhược điểm nhất định. Do vậy cần lựa chọn và vận dụng phối hợp các
phương pháp dạy học một cách linh hoạt và sáng tạo, không có một phương
pháp dạy học nào là "vạn năng".

Phương pháp dạy học là một yếu tố thuộc cấu trúc hoạt động dạy học
nên phương pháp dạy học bị chi phối bởi các mối quan hệ với các yếu tố bên
trong của hoạt động dạy học (nội dung, giáo viên, học sinh và môi trường dạy
học) và các yếu tố của môi trường bên ngoài. Vì lẽ đó, khi lựa chọn và sử
dụng phương pháp dạy học cần dựa nên các cơ sở như mục đích, nội dung
dạy học, khả năng của học sinh, điều kiện dạy học và khả năng của chính
giáo viên.

- Mục đích nào phương pháp ấy, không có phương pháp "vạn năng"
chung cho mọi hoạt động. Vì thế muốn cho phương pháp hiệu nghiệm, hoạt
động thành công, phải đảm bảo hai điều kiện, đó là xác định được mục đích
và tìm được phương pháp thích hợp với mục đích. Tính có mục đích của
phương pháp là nét đặc trưng cơ bản nổi bật nhất của nó. Ví dụ, để thực hiện
mục đích chủ yếu của bài dạy là hình thành tri thức mới thì phương pháp
thuyết trình, phương pháp đàm thoại và trực quan rất thích hợp.

- Nội dung nào, phương pháp ấy, không có phương pháp "vạn năng"
ứng với mọi nội dung. Ví dụ, phương pháp công tác thí nghiệm rất phù hợp
với môn Hóa, môn Lí, môn Sinh nhưng không phù hợp với môn Toán, môn
Văn và môn Giáo dục công dân. Sự tương ứng giữa nội dung và phương
pháp thể hiện ở logic phát triển của bản thân đối tượng nghiên cứu. Theo
Hêgen, phương pháp là hình thức về cách thức vận động bên trong của nội
dung. Nội dung chính là cấu trúc, tổ chức bên trong của hệ - những bộ phận,
những mối liên hệ cấu tạo nên hệ; còn hình thức là cách thức tồn tại và biểu
hiện của nội dung, cách thức tổ chức bên trong của nội dung, cách thức liên
hệ các bộ phận lại với nhau. Rõ ràng là cấu trúc của nội dung quy định cách
thức tổ chức của nó, tức là quy định phương pháp.

- Phương pháp dạy học phải phù hợp với đặc điểm, khả năng của học
sinh - đối tượng của phượng pháp dạy. Giáo viên cần lựa chọn những thao
tác hướng vào đối tượng sao cho phù hợp với những quy luật tâm sinh lí lứa
tuổi, phù hợp với tri thức kĩ năng, vốn sống và cả phong cách học đã được
hình thành ở học sinh. Vì thế, khi lựa chọn phương pháp giáo viên cần căn cứ
vào đặc điểm, khả năng và trình độ lĩnh hội của học sinh. Với những học sinh
có động cơ học tập đúng đắn thái độ học tập tích cực, luôn có ý thức tìm tòi,
khám phá, học lực khá giỏi thì phương pháp đàm thoại, sử dụng sách và
phương pháp thí nghiệm sẽ rất thích hợp. Từ sự phân tích trên, đòi hỏi giáo
viên phải có những hiểu biết nhất định về học sinh lớp mình phụ trách và trên
cơ sở đó thao tác đúng đắn với đối tượng.

- Khả năng của giáo viên được coi là mặt chủ quan của phương pháp
dạy. Khi lựa chọn phương pháp dạy học, giáo viên cần căn cứ vào trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, cá tính và cả phong cách dạy của mình. Nếu một
giáo viên có khiếu về ngôn ngữ chắc chắn sẽ ưu tiên sử dụng phương pháp
thuyết trình. Hoặc một thầy có nhiều khả năng về công nghệ thông tin chắc
chắn sử dụng phương pháp trực quan có sự hỗ trợ của các phần mềm máy
tính như Powerpoint… rất thành công.

- Điều kiện, phương tiện dạy học, cơ sở vật chất nhà trường hỗ trợ cho
phương pháp dạy học. Điều kiện dạy học thuận lợi như phòng học rộng,
thoáng mát, bàn ghế tiện di dời, thiết bị kĩ thuật dạy học đầy đủ cho phép giáo
viên chọn phương pháp đàm thoại kết hợp với làm việc nhóm thật thích hợp.

V. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC TRỰC QUAN


1. Khái niệm và ý nghĩa của phương tiện trực quan

Phương tiện dạy học là những phương tiện nghe nhìn và tương tác,
được sử dụng trực tiếp vào quá trình dạy học để chuyển biến nội dung thành
mục đích dạy học. Phương tiện dạy học trực quan là tập hợp những đối
tượng vật chất được giáo viên sử dụng với tư cách là những phương tiện tổ
chức, điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh, qua đó mà thực hiện
những nhiệm vụ dạy học.

Sử dụng phương tiện trực quan có tác dụng đơn giản hóa thông tin
phức tạp và làm cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ; thúc đẩy quá trình học tập,
tăng hứng thú cho người học; dùng phương tiện hiệu quả truyền thông tốt
hơn là chỉ nói và viết.

2. Các loại phương tiện dạy học trực quan

* Dựa vào tính chất biểu hiện của hương tiện, phương tiện dạy học
được chia thành các nhóm sau:
- Nhóm các vật thật như các vật mẫu, các vật nguyên mẫu, các loại
máy móc công cụ, nguyên liệu…

- Nhóm các vật tượng hình như mô hình, tranh ảnh, sơ đồ lược đồ tài
liệu sao, ảnh chụp…

- Nhóm các loại phương tiện hoạt động tương tác như thí nghiệm, máy
luyện tập, thực hành…

- Nhóm các phương tiện kĩ thuật dạy học như máy chiếu rọi, máy dạy
học, máy kiểm tra…

* Dựa vào sự tác động qua các giác quan của con người có các nhóm
phương tiện dạy học sau:

- Nhóm phương tiện nghe: các phương tiện thu phát, kênh truyền thanh
giáo dục…

- Nhóm phương tiện nhìn: gồm trực quan phẳng như các loại bảng và
trực quan khối như mô hình, mẫu vật…

- Nhóm phương tiện nghe nhìn như phim điện ảnh, truyền hình, Video
dạy học, máy vi tính…

- Nhóm phương tiện tương tác như thí nghiệm, tham quan máy kiểm
tra…

Khi lựa chọn phương tiện trực quan cần cân nhắc đến các yếu tố bên
trong như mục đích, nội dung dạy học, đặc điểm của học sinh và khả năng
của giáo viên và các yếu tố bên ngoài như không gian, cơ sở vật chất của
nhà trường…

Một số nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học trực quan:

- Sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, không quá lạm dụng phương tiện trực
quan.

- Đảm bảo độ to, rõ, sáng, có giá nâng đỡ để tất cả học sinh trong lớp
đều quan sát tốt phương tiện trực quan.
- Đảm bảo an toàn, đặc biệt với các phương tiện trực quan trong phòng
thí nghiệm.

- Đảm bảo các yêu cầu như tính sư phạm, tính chính xác tính thẩm mỹ
và tính kinh tế.

3. Phương pháp khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên từ


phương tiện kĩ thuật dạy học

Khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên từ phương tiện kĩ thuật dạy
học phải kể đến máy vi tính với các phần mềm chuyên dụng như Powerpoint.

Sử dụng Powerpoint có các tính năng như dễ sử dụng, vấn đề trở nên
bớt khô khan, cho phép sử dụng đa phương tiện, dễ cập nhật và không tốn
giấy mực, in ấn, sử dụng nhiều lần.

Để tạo một bài Powerpoint cần làm theo các bước đơn giản sau:

- Khởi động Powerpoint

- Tạo một Presentation (bài) mới, trong đó phải lập đề cương cho bài và
thiết lập màu nền.

- Đưa nội dung vào Slide (trang)..Chú ý phông chữ, cỡ chữ. Nên viết
chữ đơn giản, thống nhất, màu chữ và nền tương phản nhau. Chỉ nên viết từ
8 - 10 chữ/ dòng, từ 8 - 10 dòng/ trang. Mỗi dòng là một ý, mỗi trang là một ý
lớn, không dùng nguyên văn trong sách giáo khoa.

- Tạo kĩ thuật hoạt hình (hiệu ứng). Cần tránh những hiệu ứng quá
phức tạp, những âm thanh quá khó nghe, và thời gian chờ quá lâu.

- Có thể chèn thêm ảnh tĩnh hay ảnh động và âm thanh vào bài
Powerpoint cho thêm phần sinh động và hấp dẫn đồng thời nâng cao tính
hiệu quả của bài Powerpoint.

- Hiện nay trên mạng Intemet có các bài viết hướng dẫn chi tiết cách
thức, kỹ thuật thiết kế một bài Powerpoint cụ thể.

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 7


1. Nêu khái niệm và phân loại phương pháp dạy học

2. Trình bày hệ thống các phương pháp dạy học (khái niệm, phân loại,
đánh giá ưu nhược điểm, yêu cầu thực hiện từng phương pháp dạy học)

3. Giải thích vì sao phải lựa chọn và sử dụng phối hợp các phương
pháp dạy học trong hoạt động dạy học trên lớp?

4. Nêu những hướng cải tiến phương pháp dạy học nhằm phát huy cao
độ tính tích cực của học sinh trong quá trình học tập

5. Nhận diện, các phương pháp dạy học trong một tình huống dạy học
cụ thể và xác nhận những thành công hoặc những hạn chế trong việc sử
dụng các phương pháp dạy học trong tình huống dạy học đó.

6. Thiết kế phương pháp dạy học cho một bài dạy cụ thể.

Chương 8: HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC


I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC
1. Khái niệm về hình thức tổ chức dạy học

Trong thực tiễn dạy học, phải tổ chức một cách khoa học hoạt động của
giáo viên và học sinh nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học. Hoạt động
dạy học được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau gọi là các hình thức tổ
chức dạy học (HTTCDH). Hình thức tổ chức dạy học được hiểu là cách tổ
chức, sắp xếp hoạt động dạy học theo một trật tự và chế độ nhất định nhằm
thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học.

Hình thức tổ chức dạy học được xác định tùy thuộc vào những mối
quan hệ của các yếu tố chơ bản như:

- Dạy và học có tính chất tập thể hay cá nhân, phối hợp hay hoạt động
chủ yếu thuộc về một phía nào đó (hình thức tổ chức dạy học cá nhân, nhóm,
tập thể).
- Phương thức tổ chức, điều khiển của giáo viên và mức độ hoạt động
tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh (hình thức tổ chức lớp - bài, thảo
luận, xêmina, phụ đạo, tự học, nghiên cứu khoa học…)

- Cách sắp xếp, cấu trúc các yếu tố trong quá trình dạy học thành một
thể hoàn chỉnh, chặt chẽ phù hợp với mục đích sư phạm (có các khâu, các
hoạt động, các bước tiến hành theo quy định của nội dung chương trình, thời
khóa biểu một cách nghiêm ngặt, trình tự công việc của giáo viên và học sinh
được quy định cụ thể… (hình thức lớp - bài).

- Địa điểm, thời gian học tập, vị trí địa lí… (học ở nhà, học tại lớp, học
trong phòng thí nghiệm, học tại vườn trường, tham quan, ngoại khóa, dạy học
lớp ghép, dạy học từ xa…).

Do có nhiều cách tổ hợp và phương thức thực hiện của những mối
quan hệ từ những yếu tố cơ bản trên dẫn đến sự đa dạng, phong phú của các
hình thức tổ chức dạy học. Mỗi hình thức tổ chức dạy học có những đặc điểm
riêng, điểm mạnh, điểm yếu, có thể bổ sung, hỗ trợ cho nhau trong quá trình
dạy học. Vì vậy, trong nhà trường cần phải vận dụng phối hợp các hình thức
tổ chức dạy học khác nhau nhằm phát huy hết ưu điểm và hạn chế đến mức
tối đa những nhược điểm của mỗi hình thức.

2. Vài nét về lịch sử của các hình thức tổ chức dạy học

Các hình thức tổ chức dạy học đã được hình thành và phát triển trong
lịch sử dưới ảnh hưởng của những biến đổi về kinh tế, chính trị, xã hội, khoa
học - công nghệ.

2.1. Hình thức dạy học cá nhân

- Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, khi nền sản xuất còn ở trình độ
rất thấp, việc truyền thụ kinh nghiệm từ thế hệ trước sang thế hệ san mang
tính chất thực tiễn - tự phát và hình thức truyền thụ mang tính chất cá nhân.

- Đến xã hội nô lệ, có nhà trường, có chữ viết, việc dạy học được tổ
chức có hệ thống, học sinh được học theo từng nhóm, song thầy giáo vẫn
dạy cho từng học sinh riêng lẻ nên hình thức truyền thụ tri thức vẫn mang tính
chất cá nhân.

- Thời kỳ Trung cổ, ở phương Tây, học sinh trong các trường giáo hội
được tổ chức theo nhóm nhưng giáo viên vẫn dạy cho từng cá nhân. Ở
phương Đông, hình thức dạy học cá nhân tồn tại trong trường học của các
thầy đồ ở nước ta cho đến thế đầu kỉ XX.

Nhìn chung, hình thức dạy học cá nhân có những đặc điểm chủ yếu
sau:

- Có thể nhận học sinh vào bọc bất kỳ lúc nào trong năm, nghĩa là
không có năm học với ngày khai giảng và ngày kết thúc nhất định.

- Có thể nhận học sinh thuộc các lứa tuổi và trình độ khác nhau vào
học, nghĩa là không tổ chức lớp theo lứa tuổi và trình độ nhất định.

- Dạy cho học sinh mỗi bài khác nhau, nghĩa là đối với mỗi học sinh
thầy giáo áp dụng một nội dung và phương pháp dạy học riêng.

2.2. Hình thức dạy học theo lớp học

Đến cuối thế kỉ XVI, đầu thế kỉ XVII, ở châu Âu, nền công thương
nghiệp phát triển mạnh mẽ đòi hỏi nhà trường phải cung cấp cho xã hội hàng
loạt người có trình độ văn hóa và kĩ thuật nhất định phù hợp với yêu cầu của
nền sản xuất lúc bấy giờ. Vì vậy, với hình thức dạy học cá nhân, nhà trường
không thể đáp ứng được đòi hỏi của xã hội mà phải tìm ra những hình thức tổ
chức dạy học mới.

J.A.Cômenxki (1592 - 1670) - nhà giáo dục người Séc vĩ đại đã nghiên
cứu, tổng kết kinh nghiệm tốt của các trường học tiên tiến thời bấy giờ, trong
đó có cả kinh nghiệm của các trường ở tây nam nước Nga và lần đầu tiên
trong lịch sử nhà trường, ông đã xây dựng lí luận cho hình thức lớp - bài, gọi
tắt là hình thức lên lớp.

Với hình thức này, học sinh được tổ chức thành từng lớp với thành
phần không đổi, với lứa tuổi và trình độ nhận thức như nhau, với thời gian
biểu nhất định, cùng được nghe giảng theo từng bài với cùng một mục đích
xác định. Có thể nói rằng đây là một phát minh to lớn về mặt sư phạm và J.A.
Cômenxki xứng đáng được công nhận là “cha đẻ” của hệ thống lớp - bài.

Hiện nay hình thức dạy học này đang được áp dụng rộng rãi dưới
nhiều dạng khác nhau nhằm đáp ứng ở mức cao nhất mục đích giáo dục đề
ra.

II. HỆ THỐNG CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC TRONG NHÀ
TRƯỜNG PHỔ THÔNG
Trong nhà trường phổ thông nước ta hiện nay, hệ thống các hình thức
tổ chức dạy học đang được sử dụng rộng rãi và có hiệu quả bao gồm:

- Hình thức lớp - bài (hình thức lên lớp)

- Hình thức tự học của học sinh

- Hình thức học tập theo nhóm

- Hình thức hoạt động ngoại khóa học tập.

- Hình thức tham quan học tập

- Hình thức giúp đỡ riêng.

1. Hình thức tổ chức dạy học lớp - bài

1.1. Đặc điểm của hình thức lớp - bài

Hình thức tổ chức dạy học lớp - bài là hình thức tổ chức dạy học được
tiến hành cho từng lớp học sinh, gồm nhiều bài học cụ thể, có những quy định
chặt chẽ về nội dung, kết quả, thời gian, địa điểm học, thành phần học sinh và
sự tương tác giữa hoạt động dạy của giáo viên với hoạt động học của học
sinh. Từ đó có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của hình thức lớp - bài như
sau:

- Hoạt động dạy học được tiến hành chung cho toàn lớp với số lượng
học sinh nhất định và học sinh trong lớp có cùng độ tuổi, trình độ nhận thức
gần như nhau, đảm bảo cho hoạt động giảng dạy tiến hành phù hợp với năng
lực học tập chung của cả lớp.

- Hoạt động dạy học được tiến hành theo từng bài học với thời gian và
địa điểm nhất định. Nội dung bài học được chọn lọc sắp xếp một cách khoa
học và được thực hiện kế tiếp nhau theo một chương trình cụ thể trên cơ sở
đặc điểm tâm sinh lí trình độ nhận thức… của học sinh và những yêu cầu vệ
sinh học đường khác của nhà trường phổ thông.

- Trên lớp, giáo viên trực tiếp tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức
của học sinh cả lớp, đồng thời chú ý đến đặc điểm riêng của từng học sinh.

Những đặc điểm trên là những dấu hiệu đặc trơ cơ bản của hình thức
lớp - bài. Nếu thiếu một trong ba dấu hiệu đó thì không thể gọi là hình thức
lớp - bài.

1.2. Đánh giá hình thức lớp - bài

a. Ưu điểm

- Đào tạo được nhiều học sinh, đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh
và yêu cầu về nhân lực của xã hội.

- Học sinh lĩnh hội tri thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo một cách có kế
hoạch, hệ thống phù hợp với các yêu cầu giáo dục.

- Tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa học
sinh trong học tập cũng như giáo dục học sinh những phẩm chất đạo đức
khác như tinh thần tập thể, ý thức tổ chức kỉ luật, tác phong làm việc khoa
học…

b. Nhược điểm

- Không đủ thời gian, điều kiện để học sinh nắm vững tri thức rèn luyện
kỹ năng, kỹ xảo trên lớp theo chương trình học tập, hạn chế việc mở rộng
kiến thức cho học sinh.

- Giáo viên khó tiến hành cá biệt hóa hoạt động dạy học.
Với những ưu nhược điểm chủ yếu trên, hình thức tổ chức dạy học lớp
- bài là hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở nhà trường phổ thông, nhưng
không phải là duy nhất mà cần được bổ sung và hỗ trợ bởi những hình thức
tổ chức dạy học khác.

1.3. Phân loại bài học và cấu trúc của bài học

a. Phân loại bài học trên lớp

Phân loạt bài học là một vấn đề quan trọng giúp cho việc tổ chức khoa
học và nâng cao chất lượng của bài học. Hiện nay, có nhiều cách phân loại
bài học, chẳng hạn phân loại theo nội dung dạy học, theo mục đích dạy học,
theo phương thức tiến hành v.v… nhưng cách phân loại hợp lý hơn cả là xuất
phát từ mục đích dạy học cơ bản của bài học. Trên cơ sở đó có thể xác định
các loại bài học sau đây:

- Loại bài lĩnh hội tri thức mới

- Loại bài củng cố tri thức, hình thành và rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo

- Loại bài khái quát hóa, hệ thống hóa tri thức, kĩ năng, kĩ xảo

- Loại bài vận dụng tri thức, kĩ năng, kĩ xảo

- Loại bài kiểm tra tri thức, kỹ năng, kĩ xảo

- Loại bài tổng hợp

Quá trình dạy học là một quá trình có tính chất toàn vẹn. Để đảm bảo
tính chất đó trong hình thức lớp - bài, cần sử dụng các loại bài học trên với
những tỉ lệ khác nhau tùy theo nội dung môn học và mục đích của giờ học.

b. Cấu trúc của bài học trên lớp

Theo lí luận dạy học hiện đại, bài học là đơn vị cấu trúc nguyên tố cơ
bản và trọn vẹn của quá trình dạy học, hạn chế về mặt thời gian cho nên bài
học là một hệ thống toàn vẹn. Chỉ có thể đảm bảo cho bài học có một cấu trúc
toàn vẹn mới có thể đạt được kết quả tích hợp của nó.
Cấu trúc bài học trên lớp được hiểu là sự phân chia bài học thành các
giai đoạn (yếu tố, bước) được sắp xếp theo một trình tự logic nhất định và có
mối liên hệ mật thiết với nhau.

Giáo viên cần xây dựng được cấu trúc vĩ mô và cấu trúc vi mô của bài
học:

- Cấu trúc vĩ mô của bài học là cấu trúc trong đó đề cập tới những yếu
tố cơ bản (yếu tố vĩ mô) của bài học được sắp xếp theo một trình tự nhất định
trong mối quan hệ mật thiết với nhau.

- Cấu trúc vi mô là tổ chức bên trong của cấu trúc vĩ mô, trong đó đề
cập tới những yếu tố góp phần thực hiện các yếu tố vĩ mô như là: mục đích
của bài học, nội dung của bài học, phương pháp, phương tiện, biện pháp dạy
học và kết quả đạt được của bài học. Các yếu tố này gắn bó chặt chẽ với
nhau, tương tác, quy định lẫn nhau và tạo nên rường cột cơ bản của bài học.

Cấu trúc của bài học là một tổng thể các yếu tố của bài học, các yếu tố
này liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại với nhau, được thực hiện theo một
trình tự xác định. Điều đó không có nghĩa cấu trúc của bài học có tính khuôn
sáo, hay áp dụng theo “mẫu” đã quy định một cách không đổi, cứng nhắc rập
khuôn, mà đó là cấu trúc “động”. Hay nói một cách khác, cấu trúc đó vừa có
tính chất ổn định, vừa có tính chất linh hoạt. Sự biến đổi linh hoạt trong cấu
trúc của bài học được thể hiện ở chỗ:

- Có thể thay đổi trình tự thực hiện các yếu tố vĩ mô hoặc thực hiện các
yếu tố này xen kẽ nhau, thâm nhập và bổ sung cho nhau, song vẫn đảm bảo
tính độc lập, tính rõ ràng của các yếu tố đó trong cấu trúc của bài học. Chẳng
hạn: Khi giảng bài thới có thể kết hợp củng cố tri thức, hoặc khi củng cố tri
thức có thể kết hợp kiểm tra tri thức, kĩ năng, kĩ xảo…

- Sử dụng các yếu tố vi mô (phương pháp, phương tiện dạy học) không
giống nhau trong các tình huống dạy học khác nhau. Chẳng hạn: Từng loại
bài học khác nhau thì lựa chọn và vận dụng những phương pháp và phương
tiện dạy học khác nhau, hay cùng một bài học nhưng dạy cho các lớp khác
nhau thì các phương pháp, phương tiện, biện pháp dạy học có thể thay đổi,
thậm chí khi tiến hành một bài học cho một lớp, việc vận dụng các yếu tố vi
mô có thể phải thay đổi linh hoạt so với dự kiến trước khi lên lớp…

Trong những tình huống cụ thể, có khi sử dụng cấu trúc không đầy đủ,
nhưng vẫn đảm bảo các yếu tố cơ bản.

Như vậy, có thể thấy rằng cấu trúc của bài học rất phong phú và đa
dạng, không thể có một khuôn mẫu duy nhất. Cấu trúc bài học có thể thay đổi
phụ thuộc vào các loại bài học, vị trí bài học trong cả quá trình dạy học mục
đích đề ra và nội dung tài liệu học tập, đặc điểm lứa tuổi và trình độ học sinh,
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể… Trong quá trình thực hiện đòi hỏi giáo viên cần
vận dụng nội cách linh hoạt và sáng tạo.

Sau đây là ví dụ về cấu trúc vĩ mô ở mức độ ổn định tương đối của loại
bài lĩnh hội tri thức mới:

1- Tổ chức lớp

2- Tích cực hóa những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo cũ của học sinh.

3- Định hướng cho hoạt động nhận thức của học sinh

4- Tổ chức, điều khiển học sinh nắm vững tri thức và kỹ năng mới

5- Tổng kết tài học

1.4. Thiết kế kế hoạch bài học trên lớp

Trước khi thiết kế kế hoạch bài học cụ thể trên lớp giáo viên cần xây
dựng kế hoạch dạy học cho từng môn học hay từng chương, chủ đề trong
thời gian dài (năm học, học kì). Kế hoạch dài hạn này sẽ đảm bảo cho quá
trình dạy học trên lớp phát triển hợp lí, đảm bảo sự phối hợp các hình thức tổ
chức dạy học khác nhau với bài học trên lớp theo những yêu cầu thống nhất,
nhờ đó nâng cao kết quả học tập.

Muốn lập được kế hoạch dạy học môn học giáo viên cần phải:

- Nghiên cứu kĩ chương trình, nội dung, sách giáo khoa, tài liệu dạy học
môn học, chương, chủ đề toàn năm học, học kì, tháng, tuần.
- Tìm hiểu tình hình học sinh: tình hình và kết quả học tập năm trước,
đặc điểm nhận thức chung của lớp và riêng của từng học sinh, thái độ, tác
phong, đạo đức… của học sinh.

- Tìm hiểu phương tiện, điều kiện cơ sở vật chất - kĩ thuật hiện có ở
nhà trường phục vụ cho hoạt động dạy học, đồng thời tính đến khả năng sử
dụng và sáng tạo mới của giáo viên và học sinh.

Khi lập kế hoạch dài hạn, giáo viên cần tuân thủ nghiêm túc kế hoạch
dạy học, nội dung chương trình của Bộ cũng như nhà trường quy định, nhất
là số thời gian phân cho từng môn, từng phần, từng chương, từng bài học cụ
thể. Trên cơ sở kế hoạch dạy học dài hạn giáo viên tiến hành xây dựng kế
hoạch cho từng bài học trên lớp cụ thể.

a. Những căn cứ thiết kế kế hoạch bài học trên lớp

- Chương trình môn học, vị trí, nhiệm vụ bài học trong hệ thống bài học
của chủ đề, của môn học.

- Sách giáo khoa, tài liệu tham khảo… liên quan tới nội dung của bài
học.

- Trình độ của học sinh đối với nội dung cụ thể của bài học.

- Trình độ chuyên môn và khả năng sư phạm của giáo viên.

- Phương tiện dạy học, cơ sở vật chất kĩ thuật nhà trường.

b. Một số vấn đề chung về kế hoạch bài học trên lớp

Trong hoạt động dạy học, kế hoạch bài học (KHBH) còn gọi là giáo án
là văn bản ghi chép chi tiết trình tự lôgic nội dung bài học và các hoạt động
học tập thực hiện nội dung đó nhằm đạt tới những mục tiêu học tập nhất định.
Nói một cách cụ thể hơn, KHBH là sự kết hợp chặt chẽ, cụ thể những thiết kế
về mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, đánh giá và hướng dẫn
học sinh học tập theo những kỹ thuật nhất định KHBH giúp giáo viên định
hướng rõ ràng cho hoạt động dạy học, hiểu rõ học sinh cần học cái gì? như
thế nào? vì sao?…, đồng thời chủ động trong hoạt động dạy học tránh những
sai sót và dễ dàng ứng phó với những tình huống sư phạm.

Một trong những xu hướng đổi mới dạy học hiện nay là tích cực hoá
(TCH) hoạt động học tập của học sinh. Bản chất chung của tích cực hoá hoạt
động học tập của học sinh là một tập hợp các hoạt động nhằm chuyển biến vị
thế của họ từ chỗ là chủ thể tiếp nhập học vấn một cách thụ động, một chiều
trở thành chủ thể tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo thực hiện quá trình học
tập. Với ý nghĩa đó, thiết kế KHBH theo hướng tích cực hoá hoạt động học
tập của học sinh dựa trên nguyên tắc dựa vào hoạt động học tập của học
sinh, phát huy vai trò chủ thể của học sinh, tạo điều kiện và môi trường hoạt
động học tập cho học sinh.

Khi bắt đầu thiết kế một KHBH, người giáo viên phải trả lời các câu hỏi:
Tại sao phải tiến hành bài học này? Sau khi học xong bài học học sinh đạt
được kết quả gì? Những điều kiện để tiến hành bài học? Lựa chọn, tổ chức
dạy và học cái gì? Tổ chức hoạt động dạy và học như thế nào? Làm thế nào
để biết học sinh học như thế nào và có kết quả ra sao?… Như vậy các câu
hỏi trên tập trung vào các vấn đề cơ bản của một KHBH bao gồm:

- Xác định mục tiêu bài học;

- Phân tích những điều kiện dạy học;

- Xây dựng nội dung bài học;

- Lựa chọn phương pháp, phương tiện dạy học;

- Đánh giá;

- Xây dựng cấu trúc.

Có thể mô tả 7 nội dung chủ yếu của KHBH theo sơ đồ sau:


1. Muc tieu 2. Dieu kien

3. Noi dung 4. Phuong phap 5. Phuong tien

6. Danh gia

7. Cau truc
c. Cách thức thiết kế kế hoạch hài học theo hướng tích cực hóa
hoạt động học tập của người học

1- Phần mở đầu

* Định hướng hoạt động nhận thức của học sinh

- Mục tiêu: lôi cuốn sự chú ý, tạo nhu cầu, hứng thú của học sinh vào
bài học.

- Yêu cầu: Xây dựng tình huống có vấn đề và đặt học sinh vào tình
huống có vấn đề.

- Biện pháp: Giáo viên có thể thuyết trình ngắn, kể một câu chuyện viết
một câu không hoàn chỉnh, đưa ra những số liệu thống kê gây chú ý, trình
chiếu một hình ảnh, tổ chức một trò chơi nhận thức, biểu diễn một thí
nghiệm… Tất cả các biện pháp này đều phải chứa đựng tình huống có vấn đề
và chuyển hóa tình huống đó thành tình huống học tập của bản thân học sinh.
Kết thúc nội dung này, giáo viên phải thông báo được chủ đề học tập cho học
sinh.

* Thông báo mục tiêu học tập

- Mục tiêu học tập là kết quả học sinh phải đạt được sau khi bài học kết
thúc. Việc thiết kế mục tiêu bài học của giáo viên phải tuân theo chuẩn học
vấn đã qui định trong chương trình môn học, chủ đề của bài học và đặc điểm
của người học.

- Yêu cầu viết mục tiêu bài học:

+ Bảo đảm tính chất toàn vẹn của bài học hoặc chủ đề học tập.
+ Bao hàm đủ cả 3 lĩnh vực học tập của người học: Tri thức, Kĩ năng,
Thái độ.

+ Các yếu tố trong mục tiêu phải được diễn đạt bởi những động từ mô
tả những hành động có thể quan sát và đo lường được.

Ví dụ: Khi bắt tay viết mục tiêu bài học cần đặt câu hỏi: “Sau khi học
xong bài này học sinh cần biết / làm / cảm thấy gì? mà trước đó họ không biết
/ không làm được / không cảm thấy?”.

* Khái quát nội dung chính của bài học

Nêu khái quát nội dung chính của bài với ý nghĩa đây là những nội
dung mà học sinh khi chiếm lĩnh được nó thì các mục tiêu học tập sẽ được
thực hiện. Giáo viên có thể trung thành với kết cấu nội dung bài học theo
chương trình hoặc có thể thiết kế lại nội dung theo các mục tiêu đã xác định.

* Thông báo các hoạt động học tập

Hoạt động là môi trường bên ngoài chứa nội dung học tập hay có thể
hiểu nội dung học tập là đối tượng của các hoạt động của người học. Từ các
nội dung chính của bài học mà dự kiến cấu trúc, cơ cấu, tính chất, cường độ
của các hoạt động mà người học phải thực hiện.

* Thông báo phương tiện, tài liệu học tập

Chỉ rõ các loại phương tiện kĩ thuật được sử dụng để thực hiện nội
dung bài học. Chỉ rõ nguồn tài liệu để người học học theo yêu cầu của giáo
viên và theo nhu cầu của từng học sinh

2- Các hoạt động dạy - học chủ yếu

Đây là phần giáo viên chuẩn bị các hoạt động để thực hiện nội dung
nhằm đạt mục tiêu bài học. Công việc của giáo viên là sắp xếp các đoạn
thông tin của nội dung bài học và thiết kế các hoạt động, các phương pháp để
vận hành nội dung ấy.

* Phân chia đơn vị nội dung học tập


Những nội dung chính của bài học đã được khái quát ở trên phải được
phân chia, sắp xếp theo các đơn vị nội dung học tập (đoạn thông tin) tương
đối độc lập nhưng có mối liên hệ logic chặt chẽ. Mỗi đơn vị nội dung học tập
có dung lượng tương ứng với một khoảng thời gian nhất định tuỳ thuộc vào
mục tiêu đã xác định và thời gian qui định cho bài học đó: Ví dụ: Ở cấp THPT,
một tiết học 45 phút, nội dung của bài thường được chia thành hai đến ba
đơn vị nội dung học tập tương ứng với 15 - 20 phút thực hiện. Ở bậc cao hơn
thời gian cho các đơn vị học tập có thể dài hơn.

Việc phân chia đơn vị nội dung học tập như vậy làm cơ sở cho việc
thiết kế các hoạt động tương ứng, đảm bảo cho học sinh tham gia các hoạt
động, tạo ra các chu kỳ chú ý kế tiếp nhau để học tập có hiệu quả hơn.

* Thiết kế các hoạt động học tập của học sinh

Tương ứng với mỗi đơn vị nội dung học tập sẽ thiết kế các hoạt động
cụ thể, các phương pháp, phương tiện để học sinh thao tác với các thông tin
đó. Thiết kế các hoạt động của học sinh là trọng tâm và điểm quyết định chất
lượng của thiết kế bài học. Từ hoạt động của người học mới dự kiến cách
thức hoạt động của giáo viên để tổ chức hoạt động của học sinh. Sau khi đã
có các hoạt động cụ thể, GV sắp xếp các hoạt động đó theo tiến trình lôgic.
Như vậy, tiến trình bài học là tiến trình của một chuỗi các hoạt động của học
sinh mà GV tổ chức.

3- Phần tổng kết

* Tổng kết bài học

- GV hệ thống hoá một cách cô đọng, đầy đủ những quan điểm nền
tảng, những khái niệm chủ chốt, những giá trị cơ bản… bằng lời hoặc sơ đồ,
mô hình, tài liệu trực quan…

- Nhận xét đánh giá giờ học.

* Đánh giá kết quả học tập của người học


- Căn cứ vào mục tiêu học tập, GV lựa chọn phương pháp kiểm tra phù
hợp: câu hỏi ngắn, làm bài tập, điền trắc nghiệm…

* Hướng dẫn học tập

- Nhấn mạnh ý nghĩa của các kết quả học tập của HỌC SINH vừa đạt
trong bài học đối với các nhiệm vụ học tập và nhiệm vụ tiếp theo.

- Giao nhiệm vụ học tập về nhà cho HỌC SINH.

- Gợi ý đọc thêm, luyện tập bổ sung, chỉ dẫn tài liệu, nêu mối liên hệ với
bài sau, những hướng nghiên cứu tiếp theo…

d. Trình bày nội dung trong thiết kế bài học dưới dạng văn bản

Không có một khuôn mẫu duy nhất cho KHBH của mỗi giáo viên, mà
mỗi GV tự sáng tạo trong hình thức trình bày KHBH của mình. Trong xu thế
ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt đống dạy học hiện nay, giáo viên có
thể thiết kế bài giảng điện tử, sử dụng các phần mềm trình chiếu (Thiết kế bài
giảng điện tử sẽ được biên soạn trong một tài liệu riêng).

Sau đây là một mẫu KHBH theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập
của học sinh:

Tên bài học:

- Ngày …… tháng …… năm ……

- Lớp: …… trường …….

- Số tiết:

- Địa điểm:

- Người dạy:

1. Mục tiêu học tập

1.1. Về tri thức

1.2. Về kĩ năng

1.3. Về thái độ
2. Khái quát những nội dung chính

3. Phương pháp dạy h ác chủ yếu

4. Phương tiện, tài liệu học tập

5. Tiến trình hoạt động

Hoạt động của giáo


Các bước / thời gian Nội dung
viên và học sinh
1. Mở đầu

- Định hướng bài học

- Thông báo mục tiêu, nội dung


chính, phương pháp, phương tiện
dạy học.

2. Các hoạt động học tập

2.1. Hoạt động 1…

2.2. Hoạt động 2…

2.3. Hoạt động 3…

………………………………

3. Tổng kết

3.1. Tổng kết bài học

3.2. Đánh giá

3.3. Hướng dẫn học tập ở nhà


1.5. Thực hiện kế hoạch bài học trên lớp

Tiến hành bài học trên lớp là hoạt động cụ thể của giáo viên và học
sinh nhằm thực hiện toàn bộ kế hoạch bài học đã vạch ra. Hoạt động này thể
hiện tính khoa học, tính nghệ thuật trong công tác dạy học và giáo dục, thể
hiện tầm hiểu biết, hứng thú, niềm tin, tính cách và toàn bộ nhân cách của
người giáo viên. Do vậy, khi tiến hành thực hiện bài học trên lớp, giáo viên
cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Thực hiện đầy đủ KHBH, đảm bảo tiến trình dự kiến, thời gian quy
định và các yêu cầu cơ bản của bài học trên lớp.

- Đảm bảo mối quan hệ tương tác, thống nhất giữa hoạt động dạy của
giáo viên và hoạt động học của học sinh.

- Duy trì bầu không khí làm việc tích cực có hiệu quả suốt từ đầu đến
cuối giờ học. Bao quát, nhạy cảm, linh hoạt, kịp thời xử lí các tình huống sư
phạm xảy ra.

- Giáo viên phải có tư thế, tác phong đàng hoàng, đúng mực; thái độ
nghiêm túc nhưng chan hòa, thân mật, dân chủ; ăn mặc gọn gàng, giản dị,
ngôn ngữ rõ ràng trong sáng, truyền cảm, nhịp điệu nói phù hợp với từng
hoàn cảnh cụ thể, biết kết hợp lời nói với cử chỉ, điệu bộ… phù hợp, ứng xử
khéo léo

- Kết thúc bài học trong không khí phấn khởi, tin tưởng

- Sau khi thực hiện bài học trên lớp, giáo viên cần căn cứ vào giáo án,
tự đánh giá những ưu, nhược điểm và rút kinh nghiệm về kết quả của tiết học.

2. Giới thiệu mẫu kế hoạch bài dạy theo "Chương trình dạy học
cho tương lai của Intel"

2.1. Giới thiệu chung về "Chương trình dạy học cho tương lai của
Intel"

"Chương trình Dạy học cho tương lai của Intel" do Viện công nghệ máy
tính (ICT) và Tập đoàn Intel thiết kế. Đây là một sáng kiến có tính toàn cầu
của Intel nhằm giúp các giáo viên khai thác sử dụng công nghệ một cách hiệu
quả vào chương trình dạy học phổ thông. Chương trình được thiết kế nhằm
giúp giáo viên phát huy khả năng sáng tạo của họ và của học sinh qua các bài
giảng trên lớp, cụ thể là giúp giáo viên sử dụng công nghệ máy tính để phát
triển trí tưởng tượng của học sinh và mục đích cuối cùng là tạo ra một
phương pháp học hiệu quả hơn - phương pháp học tích hợp công nghệ.
Chương trình là sự tích hợp của việc sử dụng Intemet, thiết kế trang web và
phần mềm đa phương tiện.
Chương trình này nhằm giúp cho người dạy học:

- Biết gắn các công cụ và tài nguyên công nghệ thông tin “bằng cách
nào”, "khi nào", “ở đâu” vào bài dạy.

- Biết thiết kế bài học theo đúng trọng tâm chương trình và thiết kế tốt
các công cụ đánh giá.

- Biết thiết kế bộ "Hồ sơ bài dạy" theo phương pháp của Chương trình
dạy học của Intel thu hút học sinh tham gia hoạt động theo từng nhóm thông
qua các dự án và giả lập tình huống do giáo viên ủy thác. Trong quá trình
tham gia đó học sinh sẽ dần hình thành các kỹ năng cơ bản về công nghệ
thông tin như: sử dụng Internet, trao đổi email, truy tìm tài nguyên trên
Intemet, thiết kế web, soạn tài liệu bằng MS Word, báo cáo bằng Powerpoint,
tuyên truyền bằng Publisher,… và đồng thời nhờ đó kiến thức cần chuyển
giao của bài học sẽ được hình thành (hoặc được củng cố, nâng cao) nơi học
sinh. Hơn nữa, các hoạt động đó giúp hình thành ở học sinh kỹ năng làm việc
theo nhóm (biết diễn đạt, giao tiếp, thuyết phục, bảo vệ ý kiến,…), khai thác,
thu thập, xử lý và chia sẻ thông tin trong cộng đồng để giải quyết những vấn
đề phát sinh trong công việc. Đó là những kỹ năng mà một "con người tương
lai của thời đại công nghệ thông tin" không thể không có.

Một "Hồ sơ bài dạy" đầy đủ bao gồm:

- Một Kế hoạch bài dạy với các mục tiêu học tập của học sinh, tuân
theo chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

- Các thí dụ mẫu của học sinh:

+ Mẫu trình bày đa phương tiện học sinh

+ Mẫu ấn phẩm học sinh (bản tin hoặc tờ giới thiệu)

+ Mẫu trang Web học sinh

- Các công cụ đánh giá:

+ Công cụ đánh giá đa phương tiện nhằm đánh giá kiến thức của học
sinh
+ Công cụ đánh giá ấn phẩm nhằm đánh giá kiến thức của học sinh

+ Công cụ đánh giá trang Web nhằm đánh giá kiến thức của học sinh

- Bài trình bày, bản tin, tờ giới thiệu hoặc trang Web của giáo viên hỗ
trợ cho bài giảng

- Tờ phân phát, mẫu, hoặc bài kiểm tra hỗ trợ cho bài giảng

- Kế hoạch thực hiện bài giảng

- Tài liệu phục vụ quản lý lớp học

- Tài liệu trích dẫn

2.2. Mẫu kế hoạch bài dạy theo Intel

- Tiêu đề bài dạy

- Các câu hỏi khung chương trình

- Tóm tắt bài dạy

- Lĩnh vực môn học - cấp độ - chuẩn nội dung (theo quy định của sở,
bộ)

- Mục tiêu bài dạy

- Các bước tiến hành - ước tính thời gian cần

- Kỹ năng cần có để tiếp thu bài học

- Trang thiết bị

- Điều chỉnh với đối tượng học sinh khác nhau

- Đánh giá học sinh

Mẫu Kế hoạch Bài dạy

I. Người soạn bài


Họ và tên
Địa chỉ E-mail
Khoa
Khoá
Tên khoá học
Tên giảng viên hướng dẫn
Tổng quan bài dạy
Tiêu đề Kế hoạch Bài dạy Mô tả tên bài dạy của bạn
Bộ câu hỏi xây dựng bài dạy
Câu hỏi khái quát Câu hỏi bao quát toàn diện có thể liên quan
đến nhiều bài học và môn học. Xem thư
mục Các câu hói Khái quát trong CD-ROM
Chương trình.
Các câu hỏi bài học Các câu hỏi hướng dẫn cho bài dạy của
bạn.

Xem thư mục Các câu hỏi Khái quát trong


CD-ROM Chương trình.
Câu hỏi nội dung Các câu hỏi nội dung hay các câu hỏi định
nghĩa.
Tóm tắt Bài dạy

Một cái nhìn tổng quan súc tích bài dạy của bạn bao gồm các chủ đề trong
môn học sẽ được trình bày, một mô tả các khái niệm chính đã được học, và
một giải thích ngắn gọn các hoạt động giúp học sinh trả lời các câu khái quát
và câu hỏi bài học.
Lĩnh vực môn học (Liệt kê tất cả các môn học)

Bao gồm tất cả các môn học mà bài dạy hướng tới
Cấp độ [Chọn tất cả các mức độ mà Bài dạy hướng tới]

 1-2  3-5

 6-8  10-12

 Học sinh tiếp thu trung bình  Học sinh tiếp thu chậm

 Học sinh giỏi/ Năng khiếu  Khác


II. Khung công việc / Các chuẩn nội dung / Các điểm chuẩn
Một danh mục đã phân mức ưu tiên các tiêu chuẩn được nhắm tới trong bài
dạy
Mục tiêu bài dạy / Kết quả học tập

Một danh mục đã phân mức ưu tiên các mục tiêu nội dung mà học sinh sẽ
nắm được sau khi kết thúc bài học.
Các bước tiến hành bài dạy

Một bức tranh rõ ràng của chu kỳ giảng dạy. Một mô tả về phạm vi và trình tự
hoạt động của học sinh và giải thích các hoạt động này sẽ thu hút học sinh
trong việc lập kế hoạch cho việc học của họ.
Ước tính thời gian cần thiết

Ví dụ: 8 tiết trên lớp, 6 tuần, 3 tháng…


Kỹ năng cần có

Kiến thức và kỹ năng công nghệ mà học sinh cần phải có để tham gia bài dạy
này
Trang thiết bị

Công nghệ - Phần cứng (Chọn các phần cứng cần thiết)
 Máy ảnh  Đĩa CD-ROM  Đầu Video

 Máy tính  Máy in  Máy quay phim

 Máy ảnh KTS  Máy chiếu  Thiết bị hội thảo truyền hình

 Đầu đọc DVD  Máy quét ảnh  Khác

 Kết nối Internet  Tivi


Công nghệ - Phần mềm (Chọn các phần mềm cần thiết)
 Cơ sở dữ liệu/ Bảng tính  Xử lý ảnh  Xây dựng trang Web

 Chế bản  Trình duyệt Internet  Soạn thảo văn bản

 Phần mềm E-mail  Đa phương tiện  Khác

 CD-ROM Microsoft Encarta


Tài liệu in sẵn Sách giáo khoa, chuyện đọc, tài liệu hướng
dẫn, tài liệu tra cứu…
Cung cấp Những gì bạn muốn đặt hàng hoặc thu thập
để thực hiện bài dạy của bạn.
Tài nguyên Internet Địa chỉ Web hỗ trợ thực hiện bài dạy của
bạn. Nên bổ sung thêm những từ khoá giáo
viên cần gợi ý cho học sinh khi tra mạng.
Khác Khách mời, tư vấn…
Điều chỉnh cho các đối tượng học khác nhau
Học sinh tiếp thu chậm Yêu cầu bị thay đổi, nội dung giảng dạy và
tiêu chí đánh giá thay đổi, thời gian dài hơn,
có các mẫu hướng dẫn, các cấu trúc hỗ trợ
và nhân sự
Học sinh không ở các nước nói Internet và các tài nguyên khác bằng tiếng
tiếng Anh mẹ đẻ. Có nhiều cách để thể hiện mức độ
học của học sinh, nhân sự hỗ trợ, giúp đỡ
lẫn nhau
Học sinh năng khiếu / giỏi Nhiều công việc khó hơn, mở rộng tới mức
độ chuyên sâu, tìm hiểu, mở rộng tới các
chủ đề liên quan đến thiên hướng của học
sinh, đồ án mở.
Đánh giá học sinh
Mô tả cách đánh giá. Ngữ cảnh và các thủ tục cụ thể để đánh giá việc học
của học sinh. Việc đánh giá có thể thông qua phỏng vấn, quan sát, nhật ký,
viết bài luận, thi vấn đáp, kiểm tra và đồ án. Những đánh giá có thể do giáo
viên hoặc giữa học sinh với nhau thực hiện
3. Các hình thức tổ chức dạy học khác

3.1. Hình thức tự học ở nhà

Hình thức tự học ở nhà là hình thức học tập hỗ trợ cho hình thức lớp -
bài. Đây là một loại hình thức học tập không có sự hướng dẫn trực tiếp của
giáo viên, mặc dù các nhiệm vụ học tập là do giáo viên giao cho, do đó đòi hỏi
tính tự lực học tập của học sinh rất cao.

Học tập ở nhà có tác dụng củng cố, đào sâu, khái quát hóa, hệ thống
hóa tri thức đã học, làm cho vốn hiểu biết được hoàn thiện; rèn luyện kỹ năng,
kĩ xảo học tập và vận dụng những tri thức đã học vào các tình huống khác
nhau; đồng thời giúp học sinh chuẩn bị lĩnh hội những tri thức mới. Thông qua
việc tự học ở nhà mà bồi dưỡng, rèn luyện cho học sinh tinh thần trách
nhiệm, tính tự giác, độc lập, tính kỉ luật có tổ chức, có kế hoạch trong học tập.
Ngoài ra hình thức học tập ở nhà còn cho phép thực hiện được sự cá biệt
hóa việc dạy học, giúp lấp những lỗ hổng trong tri thức của những học sinh
kém và phát triển năng lực sáng tạo ở những học sinh giỏi.

Nội dung học tập ở nhà thường bao gồm:

- Nắm vững tài liệu học tập: là nghiên cứu bài giảng của giáo viên, sách
giáo khoa và tài liệu tham khảo để nắm vững bài học. Công việc này đòi hỏi
học sinh phải suy nghĩ để hiểu, ghi nhớ và vận dụng được những vấn đề
trọng tâm, cốt lõi của bài học (định nghĩa, định lí, quy tắc, công thức, khái
niệm…).

- Hoàn thành các bài tập: Trên cơ sở nắm vững những nội dung có tính
chất lí thuyết của bài học, học sinh tự lực thực hiện các loại bài tập khác nhau
(bài tập nói, bài tập viết) nhằm vận dụng tri thức một cách sáng tạo.

- Thực hiện các công tác thực hành như làm thí nghiệm, tiến hành quan
sát về các sự vật hiện tượng…

- Chuẩn bị cho các bài học sắp tới: đọc trước những nội dung của bài
học mới trong sách giáo khoa, trả lời các câu hỏi hoặc soạn trước đàn ý của
bài…

Để đạt hiệu quả tốt trong việc tổ chức học tập ở nhà, cần tuân theo một
số yêu cầu cơ bản sau đây:
- Phải làm cho học sinh ý thức được rõ ràng mục đích, nhiệm vụ của
công việc tự học ở nhà. Từ đó tạo cho học sinh có hứng thú và nhu cầu thực
sự học tập ở nhà.

- Bài làm ở nhà phải vừa bảo đảm trình độ chung của cả lớp phải vừa
chú ý đến đặc điểm của những học sinh yếu kém, khá giỏi, chú ý tính da
dạng, phong phú của các loại bài tập đồng thời đảm bảo số lượng bài tập phù
hợp với điều kiện thời gian cho phép và sức khỏe học sinh.

- Bồi dưỡng cho học sinh phương pháp và cách thức tổ chức học tập ở
nhà.

- Phối hợp với các giáo viên khác, với gia đình học sinh quản lí tổ chức,
giúp đỡ các em về cách học, tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất và thời
gian cho học sinh tự học ở nhà: tổ chức góc học tập đảm bảo vệ sinh, yên
tĩnh và thời khóa biểu rõ ràng, chăm sóc sức khỏe, giáo dục ý thức và thói
quen tự học ở nhà…

- Thường xuyên kiểm tra việc học tập ở nhà dưới nhiều hình thức khác
nhau để nâng cao ý thức trách nhiệm của học sinh và có biện pháp điều chỉnh
kịp thời

3.2 Hình thức học tập theo nhóm

Hình thức học tập theo nhóm là hình thức tổ chức dạy học trong đó học
sinh được cho thành từng nhóm, trao đổi, thảo luận, tranh luận… với nhau về
những vấn đề nhất định của nội dung tài liệu học tập dưới sự chỉ đạo của giáo
viên.

Hình thức học nhóm đã có từ lâu trong lịch sử, hiện nay đang được
phát triển một cách có hiệu quả hơn. Trước đây, việc học theo nhóm được tổ
chức để một số học sinh cùng học tập ở nhà nhằm giúp đỡ nhau học tập tốt
hơn. Hiện nay, trước yêu cầu đổi mới nội dung và phương pháp dạy học
nhằm đào tạo những con người chủ động, sáng tạo, việc học tập theo nhóm
thường được tiến hành ở trên lớp.
Với hình thức học tập theo nhóm, không diễn ra sự tiếp xúc trực tiếp
thường xuyên giữa giáo viên và học sinh. Đặc trưng cơ bản của hình thức
học tập theo nhóm là sự tác động trực tiếp giữa học sinh với nhau, sự cùng
phối hợp hoạt động của họ. Trong hình thức học tập theo nhóm, các hoạt
động của những cá nhân riêng lẻ được tổ chức lại, liên kết hữu cơ với nhau
trong một hoạt động chung nhằm thực hiện nhiệm vụ học tập, đồng thời trong
quá trình liên kết đó sẽ hình thành và tích hợp các quan hệ: Giáo viên, nhóm,
học sinh. Vị thế của mỗi nhân tố đó trong các quan hệ tương tác được thể
hiện là:

- Học sinh: chủ thể tích cực của hoạt động học tập.

- Nhóm: một môi trường, một phương tiện để hình thành và phát triển
nhân cách người học.

- Giáo viên: người tổ chức, định hướng, chỉ đạo.

Do vậy, hình thức học tập theo nhóm có sự kết hợp tính tập thể và tính
cá nhân rất cao, có thể khắc phục những hạn chế của hình thức dạy học
chung toàn lớp hay hình thức học tập có tính cá nhân

Hình thức học tập theo nhóm có những ý nghĩa quan trọng sau đây:

- Tạo nên môi trường học tập cởi mở, bầu không khí hòa hợp cộng
đồng mà trong đó có sự hợp tác, trao đổi, giúp đỡ tương trợ lẫn nhau giữa
các thành viên trong nhóm.

- Giúp học sinh củng cố, mở rộng, đào sâu tri thức, phát triển năng lực
nhận thức, năng lực hoạt động trí tuệ, đặc biệt là phẩm chất trí tuệ đặc trưng
cho từng môn học thông qua sự tác động qua lại giữa các học sinh trong
nhóm.

- Giúp hình thành và rèn luyện kĩ năng tổ chức, kĩ năng diễn đạt, trao
đổi thông tin, giao tiếp với người khác, thói quen làm việc tự giác, khoa học,
nghiêm túc, có trách nhiệm, thói quen tự đánh giá bản thân và đánh giá người
khác.
- Bồi dưỡng cho học sinh niềm tin khoa học, tính trung thực, khiêm tốn,
mạnh dạn bảo vệ ý kiến, quan điểm của mình; độc lập, sáng tạo trong học
tập… Tham gia vào nhóm học tập, học sinh một mặt dễ dàng lĩnh hội và
chuyển hóa các quan hệ, các chuẩn mực xã hội thành các phẩm chất nhân
cách của bản thân, mặt khác làm phong phú thêm các quan hệ xã hội đó
bằng chính hành động của mình. Nói cách khác, hình thức học tập theo nhím
có ưu thế trong việc phát triển toàn diện nhân cách học sinh.

Có hai dạng hình thức học tập theo nhóm tại lớp:

- Dạng hình thức học tập theo nhóm thống nhất: tất cả các nhóm học
sinh đều thực hiện những nhiệm vụ học tập như nhau.

- Dạng hình thức học tập theo nhóm phân hóa: những nhóm khác nhau
thực hiện những nhiệm vụ học tập khác nhau trong khuôn khổ đề tài chung
cho toàn lớp.

Những yêu cầu cơ bản của hình thức học tập theo nhóm:

- Thành lập nhóm học tập phù hợp với từng môn học, từng chủ đề, phù
hợp với trình độ học lực, mối quan hệ của người học và các điều kiện thực tế
khác (số lượng thành viên tối ưu trong nhóm nên từ 5 - 7 người).

- Xác định rõ ràng mục đích, nhiệm vụ, nội dung của cuộc thảo luận
nhóm. Nội dung thảo luận phải có tính vấn đề; mức độ khó khăn tương đối
cao; có mối liên hệ với những kiến thức và kĩ năng cơ bản mà học sinh đã
biết; có thể phân ra thành những đơn vị tương đối độc lập để những nhóm
khác nhau làm việc và để từng học sinh làm việc trong khuôn khổ một nhóm.

- Giao nhiệm vụ cụ thể và rõ ràng cho từng nhóm tuỳ vào mức độ khó
của vấn đề và đặc điểm của từng nhóm.

- Tạo một môi trường và không khí học tập cởi mở, thoải mái, an toàn
trong tiến trình học tập theo nhóm, khơi gợi hứng thú, kích thích tối đa sự suy
nghĩ và khả năng giải quyết vấn đề ở mỗi học sinh, đồng thời khuyến khích tất
cả học sinh cùng tham gia.
- Trong quá trình thảo luận theo nhóm, giáo viên đóng vai trò là người
tổ chức, hướng dẫn, người cố vấn, người động viên cổ vũ các nhóm làm việc
theo nguyên tắc dân chủ, hợp tác tương trợ và tôn trọng lẫn nhau. Giáo viên
phải vừa là một người đạo diễn có tài, vừa là một "trọng tài khoa học" đáng tin
cậy của sinh viên.

3.3. Hình thức hoạt động ngoại khóa trong dạy học

Một trong những đặc điểm cơ bản của quá trình dạy học hiện đại là học
sinh có xu hướng vượt ra khỏi phạm vi tri thức do chương trình quy định. Do
đó những tri thức mà các em lĩnh hội được qua hoạt động nội khóa không
thỏa mãn được nhu cầu nhận thức của họ. Vì thế, hình thức hoạt động ngoại
khóa trong dạy học nhằm tạo điều kiện cho học sinh có thể mở rộng, đào sâu
tri thức, phát triển hứng thú, năng lực riêng của từng học sinh và góp phần
hướng nghiệp cho họ.

Hoạt động ngoại khóa là một hình thức tổ chức dạy học có tính chất tự
nguyện được tiến hành ngoài giờ lại tớp. Mỗi học sinh có thể căn cứ vào
hứng thú, nhu cầu, năng lực… của mình mà tham gia các hoạt động này hay
khác. Nội dung hoạt động ngoại khóa rất phong phú bao gồm các mặt văn
hóa, khoa học, nghệ thuật, thể dục thể thao, kĩ thuật… và được tổ chức dưới
nhiều hình thức như: tổ ngoại khóa bộ môn, câu lạc bộ khoa học, dạ hội khoa
học hay nghệ thuật, hội nghị chuyên đề…

Để tổ chức các hoạt động ngoại khóa đạt hiệu quả cao cần có sự tham
gia chỉ đạo của giáo viên và tập thể sư phạm của nhà trường, sự tham gia
tích cực của học sinh, sự giúp đỡ của các cơ quan văn hóa, xã hội, các nhà
khoa học, nghệ thuật…

3.4.Hình thức tham quan học tập

Tham quan học tập là hình thức tổ chức dạy học nhằm tổ chức cho học
sinh thâm nhập thực tế cuộc sống bằng trực tiếp quan sát và nghiên cứu
những hiện tượng, sự vật trong thiên nhiên, trong cuộc sống xã hội mà rút ra
những bài học cần thiết.
Tham quan là hình thức dạy học ngoại khóa, hỗ trợ cho hình thức dạy
học nội khóa trên lớp, giúp học sinh mở rộng, đào sâu tích lũy thêm nhiều tri
thức, nâng cao hứng thú học tập phát triển óc quan sát, trí tò mò khoa học.
Bước đầu hình thành cho học sinh phương pháp quan sát, phân tích, tổng
hợp những tài liệu thu được trong quá trình tham quan. Tham quan học tập là
hình thức tốt để thực hiện mối liên hệ giữa lí luận và thực tiễn, gắn nhà
trường với cuộc sống và thực hiện nhiệm vụ giáo dục kỹ thuật tổng hợp cho
học sinh. Ngoài ra, tham quan học tập còn có ý nghĩa to lớn đối với việc giáo
dục thẩm mĩ cho học sinh, bồi dưỡng lòng yêu quê hương đất nước, yêu con
người, yêu cuộc sống lao động.

Trong quá trình dạy học, có thể chia ra 3 hình thức tham quan:

- Tham quan chuẩn bị: là hình thức tham quan được tổ chức trước khi
học một tài liệu nào đó, nhằm chuẩn bị cho học sinh tích lũy những sự kiện
cần thiết để dễ dàng và hứng thú tiếp thu tri thức mới.

- Tham quan bổ sung: là hình thức tham quan được tổ chức trong quá
trình nghiên cứu tài liệu mới nhằm minh họa cho vấn đề đang học tập.

- Tham quan tổng kết: là hình thức tham quan được tổ chức sau khi
học tài liệu học tập nào đó nhằm củng cố đào sâu kiến thức đã học.

Bất kì hình thức tham quan học tập nào cũng được tổ chức theo các
bước sau đây:

1) Chuẩn bị:

Hiệu quả của việc tổ chức tham quan phụ thuộc một phần rất lớn vào
công tác chuẩn bị cho cuộc tham quan đó. Vì vậy trong bước này, giáo viên
cần:

- Xác định rõ mục đích yêu cầu, nội dung cuộc tham quan

- Đến địa điểm tham quan nghiên cứu cụ thể đối tượng tham quan.

- Vạch kế hoạch cuộc tham quan. Kế hoạch tham quan bao gồm mục
đích, yêu cầu, đối tượng cần quan sát, tài liệu cần thu thập, cách tổ chức học
sinh, tổ chức việc hướng dẫn tham quan, phương tiện đồ dùng cần thiết,
phân phối thời gian…

- Phổ biến kế hoạch tham quan cho học sinh một cách đầy đủ rõ ràng.

2) Tiến hành tham quan:

Dưới sự hướng dẫn của giáo viên hoặc cán bộ phụ trách cơ sở tham
quan, học sinh tiến hành tham quan theo kế hoạch định trước. Trong khi tham
quan học sinh quan sát những sự vật, hiện tượng đã quy định, ghi chép
những nội dung và thu nhập những hiện vật cần thiết… Yếu tố trung tâm của
bất kì cuộc tham quan nào cũng là việc tiến hành quan sát các đối tượng có
liên quan đến đề tài tham quan. Do vậy, giáo viên cần chú ý hướng dẫn
những quan sát của học sinh trong thời gian tham quan cho phù hợp với kế
hoạch đã đề ra. Giáo viên có thể đặt những câu hỏi và những nhiệm vụ cụ thể
giúp học sinh tập trung sự chú ý và tích cực suy nghĩ về những nội dung chủ
yếu nhất có thể quan hệ trực tiếp tới đề tài tham quan. Yêu cầu học sinh thực
hiện nghiêm túc nội quy, duy trì kỉ luật tham quan.

3) Tổng kết

Sau khi tham quan, giáo viên hướng dẫn học sinh kiểm tra chỉnh lí tài
liệu thu thập được. Trên cơ sở đó rút ra kết luận, viết thu hoạch, trao đổi hay
thảo luận, làm những bài tập độc lập như tập làm văn, viết báo cáo, xây dựng
bộ sưu tập v.v… để đào sâu, củng cố kiến thức thu được trong quá trình tham
quan.

3.5. Hình thức giúp đỡ riêng

Trong quá trình dạy học luôn có sự phân hoá về trình độ nhận thức của
học sinh và xuất hiện nhiều loại trình độ: yếu - kém, trung bình, khá - giỏi. Để
phát triển khả năng của học sinh, thực hiện sự phân hoá - cá thể hoá trong
dạy học học, cần kết hợp việc dạy học trên cơ sở trình độ chung của lớp với
việc giúp đỡ riêng cho từng học sinh.

Hình thức giúp đỡ riêng (thường gọi là phụ đạo) là hình thức tổ chức
dạy học bằng sự giúp đỡ trực tiếp của giáo viên đối với từng học sinh. Phụ
đạo thường được tiến hành với hai loại đối tượng: học sinh yếu kém và học
sinh giỏi, như vậy, phụ đạo cùng nghĩa với dạy học cá biệt. Hình thức này có
thể do giáo viên thực hiện theo từng nhóm hoặc có tính chất cá nhân hoặc có
thể phân công cho một số học sinh có khả năng thay giáo viên thực hiện một
phần việc nào đó.

Đối với học sinh giỏi, hình thức giúp đỡ riêng giúp các em phát triển
hơn nữa những năng lực sẵn có, nghiên cứu sâu một số vấn đề văn hóa,
khoa học, kĩ thuật, nghệ thuật nào đó mà trên lớp không đủ điều kiện giải
quyết. Do vậy, giáo viên cần chú ý những vấn đề sau:

- Giúp học sinh nắm chắc những tri thức cơ bản của chương trình đang
học một cách có hệ thống, trên cơ sở đó giúp các em mở rộng, đào sâu tri
thức bằng cách: ra bài tập thêm, hướng dẫn đọc sách, tài liệu thêm…

- Bồi dưỡng cho học sinh phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập
sáng tạo, phương pháp nghiên cứu… nhằm phát huy tính tích cực, độc lập.

- Phát hiện những học sinh có năng khiếu, đặc biệt là các lớp gần cuối
cấp để bồi dưỡng phát huy tài năng. Ngăn ngừa tình trạng học tủ, học lệch.

Đối với học sinh yếu kém, hình thức giúp đỡ riêng giúp đỡ họ lấp được
các lỗ hổng tri thức kịp thời, nhờ đó ngăn ngừa tình trạng một bộ phận học
sinh không theo kịp được trình độ chung của lớp. Vấn đề ở đây là giáo viên
cần tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến tình trạng học yếu kém (do một số
chức năng tâm lí không bình thường; do nghỉ học dài ngày vì đau ốm; do
chưa có phương pháp học tập đúng đắn; do lười học hay vì hoàn cảnh gia
đình…), từ đó có biện pháp giúp đỡ thích hợp.

Phương pháp dạy học phụ đạo gắn liền với đặc điểm cá biệt của từng
học sinh, nghĩa là dựa trên những điểm mạnh, điểm yếu của mỗi người để tổ
chức cho họ học tốt nhất. Vì vậy, việc phụ đạo đòi hỏi giáo viên phải kiên trì,
không nôn nóng, tôn trọng nhân cách học sinh và phát huy tính tích cực của
họ. Cần từng bước đề ra những yêu cầu vừa sức, nâng cao dần tính khó
khăn, tạo cho học sinh đạt những kết quả cụ thể, qua đó mà tạo cho học sinh
lòng tự tin vào khả năng của mình.

Tóm lại: Có rất nhiều hình thức tổ chức dạy học trong nhà trường hiện
nay. Mỗi hình thức tổ chức dạy học có chức năng và vai trò nhất định, có
những ưu điểm và hạn chế nhất định. Vì vậy, tất cả các hình thức đó có mối
liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ và bổ sung cho nhau, trong đó hình thức tổ
chức dạy học lớp - bài là hình thức tổ chức dạy học cơ bản. Trong quá trình
dạy học, giáo viên cần vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo các hình thức
tổ chức dạy học trên cho phù hợp với nội dung tài liệu học tập, với đối tượng
học sinh, với điều kiện hoàn cảnh thực tế của nhà trường nhằm đạt được
hiệu quả dạy học cao nhất.

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 8

1. Phát biểu khái niệm hình thức tổ chức dạy học. Phân biệt khái niệm
hình thức tổ chức dạy học và phương pháp dạy học.

2. Giải thích hình thức tổ chức dạy học lớp - bài là hình thức dạy học
cơ bản nhưng không phải là duy nhất ở nhà trường phổ thông? Cần phối hợp
hình thức tổ chức dạy học lớp bài với các hình thức tổ chức dạy học khác
như thế nào?

3. Phác thảo kế hoạch một bài học cụ thể thuộc môn học sẽ giảng dạy
theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh và theo mẫu kế
hoạch bài dạy của Intel.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Bộ Giáo dục & Đào tạo (1995), Giáo dục học đại cương I, II - chương
trình giáo trình đại học.

2. I.U. Babanxki (1986), Giáo dục học, ĐHSP TP. Hồ Chí Minh.

3. Nguyễn Cương (1995), Phương tiện kỹ thuật và đồ dùng dạy học, HN.

4. Đỗ Ngọc Đạt (2000), Bài giảng lí luận dạy học hiện đại, NXBĐHQG, HN.
5. Nguyễn Thị Bích Hồng - Võ Văn Nam (2004), Giáo dục học đại cương,
Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh.

6. Nguyễn Thị Bích Hạnh - Trần Thị Hương (2004), Lí luận dạy học, Trường
ĐHSP TP. Hồ Chí Minh.

7. Nguyễn Văn Hộ - Hà Thị Đức (2002), Giáo dục học đại cương. NXB Giáo
dục, HN.

8. Đặng Thành Hưng (2002), Dạy học hiện đại, NXB Đại học quốc gia HN.

9. Intel teach (2007), Phiên bản Việt Nam.

10. Jean - Mare Denommé và Madeleine Roy (2000), tiến tới một phương
pháp sư phạm tương tác (Nguyễn Quang Tuấn và Tống Văn Quán dịch)
NXB Thanh niên.

11. Ia Lecne (1997), Dạy học nêu vấn đề (Phan Tất Đắc dịch), NXBGD.

12. Lê Nguyên Long (1998), Thử đi tìm những phương pháp dạy học hiệu
quả, NXBGD.

13. Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà
trường, NXB ĐHSP Hà Nội.

14. Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt (1987), Giáo dục học, tập 1, 2, NXB Giáo
dục, HN.

15. Trần Thị Tuyết Oanh (chủ biên 2005), Giáo trình Giáo dục học, tập 1 NXB
Đại học sư phạm Hà Nội.

16. Thái Duy Tuyên (2001), Giáo dục học biện đại, NXB Giáo dục HN.

MỤC LỤC
Lời nói đầu

Chương 1
GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC
I. Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt

II. Đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu của Giáo dục học

III. Các khái niệm cơ bản của Giáo dục học

IV. Cấu trúc của Giáo dục học và mối quan hệ giữa Giáo dục học với
các khoa học khác

V. Định hướng nghiên cứu và phát triển Giáo dục học trong giai đoạn
hiện nay
Hướng dẫn học tập chương 1

Chương 2
VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ĐỐI VỚI SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
NHÂN CÁCH

I. Khái niệm về nhân cách và sự phát triển nhân cách

II. Vai trò của di truyền, môi trường và hoạt động cá nhân đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách

III. Vai trò của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân cách

IV. Giáo dục và các giai đoạn phát triển nhân cách theo lứa tuổi

Hướng dẫn học tập chương 2

Chương 3
MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ CÁC CON ĐƯỜNG GIÁO DỤC

I. Mục đích, mục tiêu giáo dục

II. Các nhiệm vụ giáo dục toàn diện

III. Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam

IV. Các con đường giáo dục

Hướng dẫn học tập chương 3

Chương 4
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
I. Khái niệm và cấu trúc của hoạt động dạy học

II. Nhiệm vụ dạy học

III. Bản chất của hoạt động dạy học

IV. Động lực của hoạt động dạy học

V. Lôgic của hoạt động dạy học

Hướng dẫn học tập chương 4

Chương 5
TÍNH QUY LUẬT VÀ NGUYÊN TẮC DẠY HỌC

I. Tính qui luật của hoạt động dạy học

II. Nguyên tắc dạy học

Hướng dẫn học tập chương 5

Chương 6
NỘI DUNG DẠY HỌC

I. Khái niệm về nội dung dạy học

II. Chương trình, sách giáo khoa và tài liệu dạy học ở nhà trường phổ
thông

III. Nguyên tắc xây dựng nội dung dạy học phổ thông

Hướng dẫn học tập chương 6

Chương 7
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VÀ PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC

I. Khái niệm và phân loại phương pháp dạy học

II. Hệ thống các phương pháp dạy học truyền thống

III. Một số phương pháp dạy học hiện đại

IV. Lựa chọn và sử dụng phương pháp dạy học

V. Phương tiện dạy học trực quan


Hướng dẫn học tập chương 7

Chương 8
HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC

I. Khái niệm chung về hình thức tổ chức dạy học

II. Hệ thống các hình thức tổ chực dạy học trong nhà trường phổ thông

Hướng dẫn học tập chương 8

TÀI LIỆU THAM KHẢO

---//---

GIÁO TRÌNH
GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Tác giả:

TS. TRẦN THỊ HƯƠNG (Chủ biên)


TS. NGUYỄN THỊ BÍCH HẠNH - TS. HỒ VĂN LIÊN - TS. NGÔ ĐÌNH QUA

Nhà xuất bản Đại học Sư phạm TP.HCM

Phản biện:
PGS.TS. HÀ THỊ ĐỨC

Giáo trình GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG của Khoa Tâm lý Giáo dục Trường
ĐHSP TP.HCM, đăng ký phát hành nội bộ năm 2008, theo biên bản số
253/BCTGT ngày 25/12/2008. Ban ấn Bản phát hành nội bộ ĐHSP sao chụp
1000 cuốn khổ A5. In xong ngày 03 tháng 02 năm 2009.

You might also like