You are on page 1of 100

GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC MẦM NON

GIÁO TRÌNH
GIÁO DỤC HỌC MẦM NON
(Dành cho hệ Cao đẳng Sư phạm Mầm non)

Tác giả: Đinh Văn Vang

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG CỦA GIÁO DỤC HỌC


MẦM NON

I. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP CỦA GIÁO DỤC HỌC


MẦM NON
“Giáo dục học là khoa học về lí luận và thực tiễn nhằm nghiên cứu
những vấn đề cơ bản như giáo dục, giáo dưỡng, dạy học…”

Như vậy, có thể hiểu một cách khái lược nhất: Giáo dục học là khoa
học về giáo dục con người. Giáo dục học mầm non là một bộ phận, một
chuyên ngành của giáo dục học. Với tư cách là một khoa học, Giáo dục học
mầm non có đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu đặc trưng của
nó.

1. Đối tượng của giáo dục học mầm non

Con người là đối tượng của nhiều ngành khoa học (triết học, văn học,
sử học, xã hội học, sinh lí học, tâm lí học…), trong đó, con người cũng chính
là đối tượng của giáo dục.

Giáo dục học mầm non nghiên cứu bản chất của quá trình hình thành
nhân cách trẻ em. Trên cơ sở đó xác định mục đích, mục tiêu giáo dục, xây
dựng nội dung, chỉ ra phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục thích hợp
nhằm tổ chức tối ưu quá trình hình thành nhân cách trẻ em trong điều kiện và
hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Như vậy, đối tượng của giáo dục học mầm non chính là quá trình giáo
dục trẻ em từ 0– 6 tuổi, được tổ chức và thực hiện một cách có ý thức, có kế
hoạch nhằm hình thành ở trẻ những cơ sở ban đầu về nhân cách con người
phát triển toàn diện.

2. Nhiệm vụ của giáo dục học mầm non

Giáo dục học mầm non có nhiệm vụ nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn
đề cơ bản sau đây:

− Mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo
dục trẻ từ 0– 6 tuổi.

– Xây dựng hệ thống các nguyên tắc giáo dục mầm non.

− Tổ chức các hoạt động giáo dục trong các cơ sở giáo dục mầm non.

– Tìm ra phương hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả của quá trình
giáo dục trẻ em.

Ngày nay đường lối đổi mới giáo dục trong thời kì công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước đã vạch ra cho khoa học giáo dục nói chung và giáo
dục học mầm non nói riêng những nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu phù hợp,
đáp ứng các yêu cầu xây dựng và phát triển giáo dục trong giai đoạn mới.

Theo xu thế phát triển chung, giáo dục học mầm non cần nghiên cứu
bổ sung, hoàn chỉnh các vấn đề lí luận cũng như thực tiễn giáo dục mầm non,
đảm bảo vừa có giá trị định hướng, vừa đáp ứng nhu cầu phát triển của hoạt
động giáo dục mầm non theo hướng đa dạng hoá, xã hội hoá, tạo điều kiện
để hoạt động giáo dục mầm non đáp ứng các yêu cầu phát triển của xã hội và
có cơ sở, có điều kiện hội nhập, tham gia vào hoạt động giáo dục mầm non
trên thế giới và khu vực.

Sau đây là một số định hướng nghiên cứu của khoa học giáo dục mầm
non trong giai đoạn hiện nay:
– Nghiên cứu tổng thể hiện trạng giáo dục mầm non ở từng khu vực để
đánh giá chính xác tình hình, có giải pháp từng bước giải quyết các mâu
thuẫn, bất cập.

− Nghiên cứu hoàn thiện mục tiêu giáo dục mầm non, đáp ứng yêu cầu
của xã hội trong giai đoạn đổi mới.

− Nghiên cứu nhu cầu của xã hội đối với giáo dục mầm non trong tình
hình hiện nay và xu thế phát triển của nó.

– Nghiên cứu các loại hình giáo dục mầm non, xu thế và khả năng phát
triển của loại hình công lập, bán công, dân lập, tư thục ở từng khu vực.
Nghiên cứu các mô hình khả thi đặc trưng, thích hợp cho từng vùng, miền.

– Nghiên cứu các giải pháp phát triển giáo dục mầm non ở nông thôn,
vùng sâu, vùng xa, ưu tiên xây dựng chính sách đảm bảo công bằng xã hội,
hỗ trợ người nghèo…

− Nghiên cứu các điều kiện đảm bảo duy trì và nâng cao chất lượng
chăm sóc – giáo dục trẻ.

– Nghiên cứu đổi mới công tác quản lí giáo dục mầm non.

– Nghiên cứu các giải pháp đào tạo giáo viên nhằm tăng cường số
lượng và đảm bảo chất lượng.

– Xác định rõ những tiêu chí cơ bản trong việc đánh giá, phân loại chất
lượng ở mỗi cơ sở giáo dục mầm non của mỗi địa phương theo chuẩn quốc
gia.

− Nghiên cứu, bổ sung các thuật ngữ trong giáo dục mầm non.

Giáo dục mầm non gắn liền và chịu ảnh hưởng trực tiếp trong sự phát
triển chung của xã hội, không chỉ vì trẻ em là nguồn nhân lực tương lai của
đất nước mà còn vì cha mẹ của các em là nguồn nhân lực trực tiếp sản xuất
ra của cải vật chất cho xã hội. Bởi vậy, nghiên cứu giáo dục học mầm non
chính là góp phần đổi mới những vấn đề liên quan tới phát triển nguồn nhân
lực – một yếu tố cực kì quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.

Để thực hiện tốt các nhiệm vụ nói trên, giáo dục học mầm non phải dựa
trên các thành tựu của khoa học hiện đại nghiên cứu về sự phát triển của trẻ
em dưới 6 tuổi và liên kết phối hợp chặt chẽ với nhiều ngành khoa học khác
trong quá trình nghiên cứu về vấn đề này.

3. Phương pháp nghiên cứu giáo dục học mầm non

Khi nghiên cứu giáo dục học mầm non với tư cách là một chuyên
ngành của giáo dục học, chúng ta cần sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học giáo dục nói chung, nhưng xuất phát từ đặc điểm của đối tượng,
phải đặc biệt chú ý một số phương pháp sau:

3.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận

Các phương pháp ngiên cứu lí luận là những cách thức thu thập và xử
lí thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản tài liệu đã có bằng
các thao tác tư duy lôgic để rút ra kết luận khoa học hoặc xây dựng hệ thống
lí thuyết cho vấn đề nghiên cứu mới.

Những kết luận khoa học hoặc hệ thống lí thuyết mới thường được thể
hiện ở một trong những hướng sau:

– Khẳng định hay phủ định những luận điểm khoa học giáo dục mầm
non đang được bàn luận hay tranh cãi.

− Phê phán những sai lầm, thiếu sót, hạn chế của hệ thống lí thuyết
trước đây.

– Kế thừa, phát triển những chân lí khách quan của những lí thuyết
trước đây.

Trong nghiên cứu khoa học nói chung, khoa học giáo dục mầm non nói
riêng, nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận gồm một số phương pháp sau
đây:
– Phương pháp phân tích – tổng hợp lí thuyết. Đó là phương pháp liên
kết từng mặt, từng bộ phận của thông tin khoa học đã thu thập được nhờ
phân tích các văn bản tài liệu nhằm tạo ra một hệ thống lí thuyết mới đầy đủ
và sâu sắc về lĩnh vực nghiên cứu.

– Phương pháp phân loại và hệ thống hoá lí thuyết. Đó là phương pháp


sắp xếp tri thức khoa học đã được phân thành từng mặt, từng vấn đề khoa
học có cùng dấu hiệu bản chất, cùng một hướng phát triển,… thành một hệ
thống nhằm xây dựng một hệ thống lí thuyết mới hoàn chỉnh.

− Phương pháp cụ thể hoá lí thuyết là phương pháp nghiên cứu nhằm
minh hoạ và mô hình hoá lí thuyết làm cho lí thuyết được sáng tỏ.

– Phương pháp giả thuyết là phương pháp nghiên cứu bằng cách dự
đoán những thuộc tính và quy luật phát triển của đối tượng để chỉ đường cho
việc chứng minh những điều dự đoán đó là đúng.

3.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

3.2.1. Phương pháp quan sát sư phạm

Quan sát sư phạm là phương pháp thu thập các thông tin về đối tượng
nghiên cứu bằng cách tri giác có chủ định đối tượng và các yếu tố liên quan
đến đối tượng.

Ví dụ: Quan sát trẻ mẫu giáo trong giờ chơi để thu thập thông tin về
hứng thú chơi của trẻ.

Phương pháp quan sát sư phạm trong giáo dục mầm non được phân
thành các loại như sau:

– Quan sát trực tiếp – quan sát gián tiếp.

− Quan sát toàn diện – quan sát có bố trí.

– Quan sát lâu dài – quan sát thời gian ngắn.

− Quan sát phát hiện – quan sát kiểm nghiệm.

Muốn quan sát đạt hiệu quả cao cần đảm bảo những yêu cầu:
– Xác định mục đích quan sát rõ ràng (quan sát để làm gì?)

– Xây dựng kế hoạch, tiến trình quan sát.

− Chuẩn bị chu đáo về mọi mặt: lí luận, thực tiễn, các phương tiện cần
thiết có liên quan đến mục đích quan sát.

– Tiến hành quan sát cẩn thận và có hệ thống.

– Ghi chép khách quan, chính xác (các sự kiện, hiện tượng, số liệu
đúng như đối tượng bộc lộ).

– Lưu giữ tài liệu quan sát phải cẩn thận và dễ sử dụng.

Phương pháp quan sát sư phạm có khả năng thu thập được nhiều tài
liệu cụ thể, sinh động, tự nhiên, làm cơ sở cho quá trình tư duy khoa học.
Song dây là phương pháp dễ đưa người nghiên cứu rơi vào thế bị động bởi
những yếu tố nhiễu không liên quan đến nhiệm vụ nghiên cứu. Mặt khác, kết
quả nghiên cứu theo phương pháp này phụ thuộc nhiều vào chủ quan của
người quan sát, nếu người quan sát không được trang bị những tri thức và kĩ
năng sử dụng phương pháp này thì sẽ dẫn tới tình trạng tài liệu thu được
thiếu khách quan, không đảm bảo chất lượng.

3.2.2. Phương pháp trò chuyện (đàm thoại)

Trò chuyện là phương pháp đặt ra câu hỏi cho người đối thoại và dựa
vào câu trả lời của họ để thu thập thông tin về vấn đề nghiên cứu.

Ví dụ: Trọ chuyện với giáo viên, trò chuyện với trẻ em.

Trò chuyện được phân thành các loại sau đây:

– Trò chuyện trực tiếp.

− Trò chuyện gián tiếp.

− Trò chuyện thẳng.

– Trò chuyện đường vòng.

− Trò chuyện bổ sung.


− Trò chuyện đi sâu.

− Trò chuyện phát hiện.

– Trò chuyện kiểm nghiệm.

Tuỳ theo mục đích, điều kiện, hoàn cảnh và đặc điểm của đối tượng mà
vận dụng các hình thức trò chuyện cho phù hợp.

Khi trò chuyện, muốn thu được tài liệu có chất lượng phải tôn trọng các
yêu cầu:

– Xác định rõ mục đích, yêu cầu.

− Cần tìm hiểu người đối thoại để lựa chọn cách trò chuyện cho phù
hợp (hiểu tính cách, hứng thú, năng lực, khí chất, hoàn cảnh…).

– Quá trình trò chuyện phải có ý thức khéo léo lái câu chuyện vào đúng
mục đích, tránh tràn lan làm loãng chủ đề.

– Cần tạo không khí tự nhiên, thân mật, cởi mở trong khi trò chuyện.
Không nhất thiết phải ghi chép các câu trả lời của đối tượng.

Phỏng vấn cũng là một dạng của đàm thoại, các câu hỏi phải chuẩn bị
trước và được hỏi theo một trình tự nhất định, các câu trả lời cần được ghi
chép một cách công khai. Trong phỏng vấn, người ta dùng cả phương tiện kỹ
thuật hiện đại như máy ảnh, máy ghi âm hoặc ghi hình để giữ lại tư liệu
nghiên cứu.

3.2.3. Phương pháp điều tra

Điều tra là phương pháp dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt ra cho một
số lượng đối tượng nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến của họ về một vấn đề
nào đó.

Ý kiến trả lời có thể được viết ra hoặc trình bày bằng miệng do người
điều tra ghi lại.

Điều tra có thể phân loại như sau:


– Điều tra thăm dò (câu hỏi rộng và nông) nhằm thu thập tài liệu ở mức
sơ bộ về đối tượng.

– Điều tra đi sâu (câu hỏi hẹp và đi sâu) nhằm khai thác sâu sắc một
vài khía cạnh nào đó của đối tượng nghiên cứu.

– Điều tra bổ sung nhằm thu thập tài liệu bổ sung cho các phương pháp
khác.

Căn cứ vào mục đích, tính chất của việc điều tra, người ta có thể sử
dụng nhiều dạng câu hỏi khác nhau:

+ Câu hỏi “đóng” là những câu hỏi có kèm theo phương án trả lời.
Người được trưng cầu ý kiến có thể lựa chọn một hoặc vài ba phương án phù
hợp với mình.

+ Câu hỏi “mở” là những câu hỏi không có phương án trả lời sẵn và
người được trưng cầu ý kiến tự trả lời.

Sử dụng phương pháp điều tra có thể trong một khoảng thời gian ngắn
thu thập được ý kiến của nhiều người ở một phạm vi rộng, tuy nhiên, độ tin
cậy của tài liệu thu được bị hạn chế, bởi vì nó phụ thuộc vào chủ quan của
người trả lời.

Để có tài liệu tương đối chính xác phải điều tra số lượng người đủ lớn.
Các câu hỏi cần xây dựng theo một hệ thống, chúng ràng buộc lẫn nhau,
kiểm tra lẫn nhau để có thể buộc người trả lời phải bộc lộ ý nghĩ thật của
mình.

3.2.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục

Tổng kết kinh nghiệm giáo dục là phương pháp đi từ thực tiễn giáo dục,
dùng lí luận phân tích thực tiễn, từ phân tích thực tiễn mà rút ra lí luận.

Trong khoa học giáo dục nói chung và giáo dục học mầm non nói riêng,
tổng kết kinh nghiệm, tức là dùng cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin,
đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng, dùng tri thức về khoa học giáo dục
mầm non và các khoa học khác để tìm hiểu, phân tích, đánh giá các kinh
nghiệm có tác dụng tích cực trong thực tiễn giáo dục, từ đó rút ra những bài
học mang tính lí luận, lí luận đó được chỉ đạo trở lại thực tiễn giáo dục.

Ví dụ: Kinh nghiệm phòng chống trẻ suy dinh dưỡng ở trường mầm
non; kinh nghiệm huy động trẻ 5 tuổi đến lớp mẫu giáo; kinh nghiệm của các
điển hình tiên tiến trong công tác chăm sóc – giáo dục trẻ; kinh nghiệm quản lí
của hiệu trưởng trường mầm non…

Khi sử dụng phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục cần đảm bảo
một số yêu cầu sau:

− Phát hiện xác định đúng đối tượng nghiên cứu. Tức là kinh nghiệm có
thật và đang tồn tại chứ không phải là những dự định sẽ làm hoặc đã làm
nhưng chưa tới mức gọi là kinh nghiệm. Muốn vậy phải kiểm tra kĩ và đánh
giá chính xác hiệu quả đã đạt được do kinh nghiệm mang lại.

– Khi thu thập, xử lí các số liệu phải hết sức khách quan. Muốn vậy
phải thu thập, xử lí thông tin từ nhiều nguồn và bằng nhiều phương pháp khác
nhau như: Phương pháp trò chuyện, phương pháp quan sát, phương pháp
điều tra.

− Những lí luận tổng kết từ kinh nghiệm cần tiếp tục khẳng định và phát
triển, đồng thời phải đem ứng dụng vào thực tế để “nhân” kinh nghiệm bằng
cách chỉ đạo điểm hoặc thực nghiệm khoa học.

3.2.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động

Nghiên cứu sản phẩm hoạt động là phương pháp tìm hiểu con người
thông qua sản phẩm do họ tạo ra.

Ví dụ: Nghiên cứu sản phẩm nặn, vẽ, xé, dán của trẻ mẫu giáo 5 tuổi
để hiểu đặc điểm và khả năng sáng tạo của trẻ. Hoặc nghiên cứu sản phẩm
của giáo viên mầm non để hiểu về chính họ.

Khi nghiên cứu sản phẩm hoạt động cần nắm được đầy đủ điều kiện và
quá trình hoạt động của con người đưa đến sản phẩm. Tức là chúng ta không
chỉ tìm hiểu con người làm ra cái gì, mà quan trọng hơn là làm như thế nào?
Bởi vì các sản phẩm và năng lực của con người thường bộc lộ qua những
điều kiện và quá trình làm ra sản phẩm.

3.2.6. Phương pháp thực nghiệm sư phạm

Thực nghiệm sư phạm là phương pháp nghiên cứu một cách chủ động,
có hệ thống một hiện tượng giáo dục nhằm xác định mối quan hệ giữa tác
động giáo dục với hiện tượng giáo dục cần được nghiên cứu trong những
điều kiện đã được khống chế.

Nét đặc trưng của phương pháp thực nghiệm sư phạm là nhà nghiên
cứu chủ động tạo ra điều kiện nghiên cứu và khi cần thiết có thể lặp lại nhiều
lần điều kiện đó.

Thường có hai loại thực nghiệm: thực nghiệm tự nhiên và thực nghiệm
trong phòng thí nghiệm.

– Thực nghiệm tự nhiên là những thực nghiệm được tiến hành trong
điều kiện bình thường của quá trình sư phạm.

– Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm là nhân thực nghiệm được tiến
hành trong điều kiện khống chế nhằm xác định mặt định tính, định lượng và
bản chất của hiện tượng giáo dục.

Phương pháp thực nghiệm cho phép người nghiên cứu tìm hiểu sâu
bản chất của hiện tượng giáo dục để từ đó phát hiện ra cái mới, nhưng đây là
phương pháp đòi hỏi sự chuẩn bị công phu cả về lí luận cũng như công việc
và trang thiết bị kĩ thuật khi tiến hành thực nghiệm.

Thực nghiệm sư phạm có thể được tiến hành theo các bước sau đây:

Bước 1: Xác định được vấn đề thực nghiệm với mục đích rõ ràng.

Bước 2: Nêu giả thuyết và xây dựng đề cương thực nghiệm.

Bước 3: Tổ chức thực nghiệm

Gồm các công việc:

– Chọn mẫu thực nghiệm.


− Bồi dưỡng cộng tác viên.

– Theo dõi thực nghiệm: quan sát, ghi chép, đo đạc.

Bước 4: Xử lí kết quả thực nghiệm, rút ra kết luận khoa học.

Ngày nay, khoa học công nghệ phát triển mạnh, nhiều phương tiện kĩ
thuật hiện đại được sử dụng trong nghiên cứu khoa học giáo dục. Máy vi tính
là một phương tiện hiện đại giúp cho việc xử lí kết quả thực nghiệm nhanh,
chính xác và tiện lợi.

Yêu cầu nghiêm ngặt của thực nghiệm sư phạm là khi tiến hành thực
nghiệm sư phạm không được làm đảo lộn hoạt động bình thường của quá
trình sư phạm, và chỉ tiến hành trong những điều kiện và tiêu chuẩn nghiêm
ngặt với luận cứ khoa học để đảm bảo việc đưa những cái mới đã được kiểm
tra vào quá trình sư phạm.

4. Mối liên hệ giữa giáo dục học mầm non với các khoa học khác

Giáo dục học mầm non là khoa học nghiên cứu việc giáo dục con
người ở độ tuổi từ 0 đến 6 tuổi, có liên quan mật thiết với nhiều ngành khoa
học như triết học, sinh lí học, tâm lí học, xã hội học, đạo đức học, điều khiển
học v.v…

4.1. Với triết học

Triết học là khoa học nghiên cứu các quy luật chung nhất của thế giới
về sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Giáo dục học mầm
non lấy triết học duy vật biện chứng làm cơ sở phương pháp luận để có cách
tiếp cận đúng đắn với con người trong việc xây dựng lí luận khoa học và tổ
chức khoa học quá trình giáo dục trẻ em.

4.2. Với sinh lí học

Sinh lí học được coi là cơ sở tự nhiên của giáo dục học. Việc nghiên
cứu giáo dục học mầm non phải dựa vào các dữ kiện của sinh lí học về sự
phát triển của hệ thần kinh cấp cao, về đặc điểm của hệ thống tín hiệu thứ
nhất và thứ hai, về sự phát triển của các cơ quan cảm giác và vận động, về
nhu cầu của cơ thể v.v…

Chẳng hạn, từ đặc điểm phát triển của trẻ em từ 0 – 6 tuổi mà chúng ta
xây dựng chế độ sinh hoạt trong ngày của trẻ, chế độ dinh dưỡng, học tập,
vận động một cách khoa học.

Những thành tựu khoa học mới về sinh lí trẻ em làm thay đổi cả lí luận
và thực tiễn giáo dục mầm non.

4.3. Với tâm lí học

Tâm lí học trang bị cho giáo dục học cơ sở khoa học về việc xây dựng lí
luận và tổ chức hoạt động thực tiễn giáo dục trẻ em theo các thời kì, với
những đặc điểm phát triển tâm lí theo lứa tuổi.

Hiểu một cách ngắn gọn thì tâm lí học là cơ sở khoa học của giáo dục
học. Chỉ có hiểu biết tâm lí trẻ em mới có thể tổ chức khoa học quá trình giáo
dục trẻ em và tránh được sự áp đặt đối với trẻ.

4.4. Với điều khiển học

Điều khiển học là khoa học điều khiển tối ưu các hệ thống động phức
tạp. Là khoa học nghiên cứu lôgic của những quá trình trong tự nhiên và xã
hội, xác định những cái chung, quy định những điều kiện vận hành các quá
trình đó.

Dựa vào lí thuyết điều khiển học, chúng ta có thể điều khiển quá trình
dạy học và giáo dục đạt hiệu quả tối ưu.

4.5. Với đạo đức học và mĩ học

Đạo đức học, mĩ học giúp cho việc xây dựng cơ sở phương pháp luận
và xác định nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục đạo đức giáo
dục thẩm mĩ cho trẻ mầm non.

Tóm lại: Giáo dục học mầm non có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khoa
học khác nhau và dựa trên các thành tựu nghiên cứu về con người của các
ngành khoa học, giáo dục học mầm non để từng bước hoàn thiện lí luận khoa
học của mình và ngày càng đem đến hiệu quả cao cho công tác bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em.

II. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ CỦA GIÁO DỤC MẦM NON


1. Mục tiêu giáo dục mầm non

Như chúng ta đã biết, mục đích giáo dục là mô hình nhân cách tổng thể
đón trước sự phát triển của mỗi học sinh – mỗi người lao động tương lai của
đất nước phải đạt được trong một giai đoạn lịch, sử cụ thể, ứng với một nền
sản xuất nhất định. Mục đích giáo dục nói chung được thực hiện từng phần,
từng mức độ ở từng lứa tuổi, từng cấp học qua từng giai đoạn phát triển nhất
định của mỗi người. Mục đích giáo dục bộ phận được gọi là mục tiêu giáo
dục, ví dụ: mục tiêu giáo dục mầm non, mục tiêu giáo dục tiểu học, mục tiêu
giáo dục trung học, mục tiêu giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp –
dạy nghề…

Mục tiêu giáo dục mầm non thể hiện ở việc xác định mục tiêu chung và
những yêu cầu chủ yếu đối với việc phát triển nhân cách mà trẻ em Việt Nam
đến 6 tuổi (trước khi bước vào lớp Một) phải đạt được qua việc nhận sự giáo
dục của gia đình và trường mầm non.

1.1. Mục tiêu giáo dục mầm non

Giáo dục mầm non là một bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Giáo dục mầm non nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng tuổi
đến sáu tuổi (Điều 21– Luật Giáo dục 2005).

Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất,
tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho
trẻ em vào lớp Một (Điều 22– Luật Giáo dục 2005).

Mục tiêu giáo dục mầm non được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn tuổi
nhà trẻ và giai đoạn tuổi mẫu giáo. Mục tiêu của mỗi giai đoạn được xác định
là cái đích mà cuối giai đoạn đó trẻ phải đạt được nhờ sự chăm sóc, giáo dục
của người lớn. Những mục tiêu này được thể hiện trong Quyết định số:
5205/QĐ–BGD&ĐT ngày 19 tháng 9 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo. Cụ thể là:

1.1.1. Mục tiêu giáo dục mầm non ở cuối tuổi nhà trẻ

a) Phát triển thể chất

− Trẻ khoẻ mạnh, cơ thể phát triển cân đối. Cân nặng và chiều cao nằm
trong kênh A.

– Thực hiện được các vận động cơ bản.

– Thích nghi với môi trường sinh hoạt ở trường mầm non.

– Có một số thói quen tự phục vụ trong ăn uống, vệ sinh cá nhân.

b) Phát triển nhận thức

– Thích tìm hiểu thế giới xung quanh.

− Có sự nhạy cảm của các giác quan: vị giác, khứu giác, xúc giác, thính
giác, thị giác.

– Nhận biết được về bản thân, một số sự vật, hiện tượng quen thuộc
gần gũi.

– Có khả năng quan sát, chú ý, ghi nhớ, phát triển tư duy trực quan–
hành động và tư duy trực quan– hình ảnh.

c) Phát triển ngôn ngữ

– Nghe, hiểu được các yêu cầu đơn giản bằng lời nói của người khác.

– Diễn đạt được các nhu cầu đơn giản bằng lời nói.

– Có khả năng hỏi và trả lời một số câu hỏi đơn giản.

d) Phát triển tình cảm – xã hội

– Mạnh dạn giao tiếp với những người gần gũi.

– Biết được một số việc được phép làm và không được phép làm.

− Biết thể hiện cảm xúc trước cái đẹp. Thích múa, hát, đọc thơ, nghe kể
chuyện, vẽ, nặn, lắp ghép, xếp hình…
– Thích tự làm một số công việc đơn giản.

1.1.2. Mục tiêu giáo dục mầm non ở cuối tuổi mẫu giáo

a) Phát triển thể chất

– Trẻ khoẻ mạnh, cơ thể phát triển cân đối. Cân nặng và chiều cao nằm
trong kênh A.

– Thực hiện được các vận động cơ bản một cách vững vàng, đúng tư
thế.

– Có khả năng phối hợp các giác quan và vận động; vận động nhịp
nhàng, biết định hướng trong không gian.

– Thực hiện được một số vận động của đôi tay một cách khéo léo.

− Có một số thói quen, kỹ năng tốt về giữ gìn sức khoẻ, vệ sinh cá
nhân, vệ sinh môi trường và biết cách đảm bảo sự an toàn.

b) Phát triển nhận thức

− Ham hiểu biết, thích khám phá tìm tòi những sự vật hiện tượng xung
quanh.

– Có khả năng quan sát, so sánh, phân loại, phán đoán, chú ý và ghi
nhớ có chủ định. Nhận ra một số mối liên hệ đơn giản của các sự vật hiện
tượng xung quanh.

– Có một số hiểu biết ban đầu về bản thân, môi trường tự nhiên và xã
hội.

c) Phát triển ngôn ngữ

– Nghe và hiểu được lời nói trong giao tiếp.

– Có khả năng diễn đạt bằng lời nói rõ ràng để thể hiện ý muốn, cảm
xúc của mình và của người khác.

– Có một số biểu tượng về việc đọc và việc viết để vào học lớp Một.

d) Phát triển tình cảm – xã hội


– Mạnh dạn, hồn nhiên, tự tin, lễ phép trong giao tiếp.

– Nhận ra một số trạng thái cảm xúc và thể hiện tình cảm phù hợp với
đối tượng và hoàn cảnh cụ thể.

− Thực hiện một số quy định đơn giản trong sinh hoạt. Có ý thức tự
phục vụ, kiên trì thực hiện công việc được giao.

– Yêu quý gia đình, trường lớp mầm non và nơi sinh sống.

− Quan tâm, chia sẻ, hợp tác với những người gần gũi.

– Quan tâm chăm sóc vật nuôi, cây trồng và bảo vệ môi trường.

e) Phát triển thẩm mĩ

– Cảm nhận được vẻ đẹp trong thiên nhiên, cuộc sống và trong tác
phẩm nghệ thuật.

– Có nhu cầu, hứng thú khi tham gia vào các hoạt động hát, múa, vận
động theo nhạc, đọc thơ, kể chuyện, đóng kịch… và biết thể hiện cảm xúc
sáng tạo thông qua các hoạt động đó.

1.2. Những yêu cầu cần đạt được đối với trẻ em từng độ tuổi trong
lứa tuổi mầm non

Trên đây là mục tiêu chung – mục tiêu khái quát đến 6 tuổi trẻ em cần
đạt được. Điều này được cụ thể hoá theo từng độ tuổi với từng mức độ yêu
cầu khác nhau (6 tháng, 12 tháng, 18 tháng, 24 tháng… cho đến 6 tuổi).

Căn cứ vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của từng địa phương, yêu cầu
phát triển của nền kinh tế – xã hội ở từng địa phương mà các nhà giáo dục
mầm non cần thực hiện mọi yêu cầu đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo trong
Chương trình giáo dục mầm non ban hành theo Quyết định số:
5205QĐ/BGDĐT ngày 19 tháng 9 năm 2006.

2. Nhiệm vụ của giáo dục mầm non

Trong giai đoạn hiện nay, giáo dục mầm non có những nhiệm vụ cơ
bản sau đây:
– Không ngừng đổi mới nội dung và phương pháp chăm sóc – giáo dục
nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc – giáo dục trẻ.

– Thu hút ngày càng nhiều trẻ em trong độ tuổi vào các loại hình chăm
sóc – giáo dục trẻ thích hợp, trong đó nòng cốt là các nhà trẻ, trường mầm
non để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục mầm non mà Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã ban hành.

– Kết hợp chặt chẽ với gia đình và các tổ chức xã hội trong công tác
chăm sóc – giáo dục trẻ em.

III. BẬC HỌC MẦM NON TRONG HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN
1. Cơ Cấu hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam

Theo Luật Giáo dục 2005, hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam hiện
nay gồm bốn bậc giáo dục sau đây:

− Giáo dục mầm non: Thực hiện việc chăm sóc và giáo dục trẻ em từ 3
tháng tuổi đến 6 tuổi. Bậc học mầm non gồm các cơ sở sau:

+ Nhà trẻ, nhóm trẻ: Nhận trẻ em từ 3 tháng tuổi đến 3 tuổi.

+ Trường, lớp mẫu giáo: Nhận trẻ em từ 3 tuổi đến 6 tuổi.

+ Trường mầm non: là cơ sở kết hợp nhà trẻ và mẫu giáo, nhận trẻ em
từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi.

– Giáo dục phổ thông: Nhận giáo dục trẻ em từ 6 tuổi đến 18 tuổi. Giáo
dục phổ thông được chia làm ba bậc nhỏ:

+ Giáo dục tiểu học: Được thực hiện trong 5 năm học, từ lớp 1 đến lớp
5. Tuổi của học sinh lớp 1 là 6 tuổi.

+ Giáo dục trung học cơ sở: Thực hiện trong 4 năm, từ lớp 6 đến lớp 9.
Học sinh vào lớp 6 phải hoàn thành chương trình tiểu học, có tuổi là 10 tuổi.

+ Giáo dục trung học phổ thông: Thực hiện trong 3 năm, từ lớp 10 đến
lớp 12. Học sinh vào lớp 10 phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, có tuổi
là 15 tuổi.
– Giáo dục nghề nghiệp: Nhận đào tạo công nhân và cán bộ thực hành
cho các lĩnh vực kinh tế và văn hoá xã hội. Bậc giáo dục nghề nghiệp gồm hai
loại trường:

+ Trường trung cấp chuyên nghiệp: Tiếp nhận học sinh tốt nghiệp trung
học cơ sở hoặc trung học phổ thông để đào tạo. Mục tiêu của trường trung
cấp chuyên nghiệp là đào tạo người lao động có kiến thức, kĩ năng thực hành
cơ bản một nghề, có khả năng làm việc độc lập và có tính sáng tạo, ứng dụng
công nghệ vào công việc.

+ Trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề, lớp dạy nghề, nhằm
đào tạo nguồn nhân lực kĩ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực
thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo.

– Giáo dục đại học: Tiếp nhận những học sinh khá, giỏi được sàng lọc
qua các kì thi tuyển sinh để đào tạo thành những chuyên gia cho các lĩnh vực
khoa học và nghiệp vụ, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước. Giáo dục đại học gồm 4 trình độ đào tạo:

+ Trình độ cao đẳng đào từ 2 đến 3 năm học tuỳ theo ngành nghề đào
tạo đối với người có bằng tốt nghiệp THPT hoặc có bằng tốt nghiệp trung cấp;
từ 1,5 năm đến 2 năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng
chuyên ngành.

+ Trình độ đại học được thực hiện từ 4 đến 6 năm học tuỳ theo ngành
nghề đào tạo đối với người có bằng tất nghiệp THPT hoặc bằng tốt nghiệp
trung cấp; từ 2,5 năm đến 4 năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung
cấp cùng chuyên ngành; từ 1,5 năm đến 2 năm học đối với người có bằng tốt
nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành.

+ Trình độ thạc sĩ được thực hiện từ 1 đến 2 năm học đối với người có
bằng tốt nghiệp đại học.

+ Trình độ tiến sĩ được thực hiện trong 4 năm học đối với người có
bằng tốt nghiệp đại học, từ 2 đến 3 năm học đối với người có bằng thạc sĩ.
Các trường đại học đào tạo cán bộ có trình độ cao đẳng, trình độ đại
học (đào tạo trình độ đại học là chủ yếu); đào tạo cán bộ có trình độ thạc sĩ,
trình độ tiến sĩ khi được Thủ tướng Chính phủ giao.

2. Bậc học mầm non trong hệ thống giáo dục quốc dân

Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên – bậc học nền tảng trong hệ
thống giáo dục quốc dân. Như đã trình bày trên đây, mục tiêu của giáo dục
mầm non là xây dựng cơ sở ban đầu về nhân cách con người phát triển toàn
diện. Những cơ sở ban đầu này ảnh hưởng lớn đến sự phát triển nhân cách
sau này. Giáo dục mầm non chưa cần phải trang bị cho trẻ một cách đầy đủ
và hoàn chỉnh những gì mà một người cần có để tham gia vào đời sống xã
hội như một người lớn thực thụ. Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục mầm non là
hình thành cho trẻ những cơ sở ban đầu về nhân cách con người mới, làm
cho trẻ phát triển toàn diện, hài hoà và cân đối, tạo điều kiện tốt cho những
bước phát triển sau này; xây dựng cho mỗi đứa trẻ một nền tảng nhân cách
vừa khoẻ khoắn, vừa mềm mại, đầy sức sống về cả thể chất lẫn tinh thần. Có
nghĩa là giáo dục mầm non một mặt cần làm cho trẻ hồn nhiên, vui tươi tích
cực, chủ động,... mặt khác giáo dục mầm non lại phải ngay từ đầu hướng sự
phát triển của trẻ vào việc hình thành những tiền đề nhân cách con người
mới, chuẩn bị cho trẻ khả năng học tập tốt, sống và làm việc phù hợp với xã
hội mới.

Bậc học mầm non là một bậc học đặc biệt trong hệ thống giáo dục quốc
dân. Đối tượng của bậc học này là những trẻ nhỏ (từ 0 đến 6 tuổi). Đây là thời
kì phát triển mạnh mẽ nhất trong cuộc đời về cả thể chất lẫn tâm lí, tinh thần.
Phương thức giáo dục ở lứa tuổi này vừa mang màu sắc gia đình vừa mang
màu sắc nhà trường. Quan hệ giữa người dạy và người học vừa mang màu
sắc thầy – trò vừa mang màu sắc mẹ – con (“cô giáo như mẹ hiền”). Phương
châm giáo dục chủ đạo ở lứa tuổi này là: “Học mà chơi, chơi mà học”. Nội
dung giáo dục ở lứa tuổi này mang tính tích hợp.

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Hãy nêu đối tượng và nhiệm vụ của giáo dục học mầm non.
2. Hãy trình bày các phương pháp nghiên cứu của giáo dục học mầm
non.

3. Phân tích khái niệm mục đích, mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục
mầm non.

4. Chứng minh rằng bậc học mầm non là bậc học nền tảng của hệ
thống giáo dục quốc dân.

BÀI TẬP THỰC HÀNH

1. Dựa vào xu thế phát triển của xã hội và thời đại rút ra nhận xét về
chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam hiện hành.

2. Theo dõi, ghi chép, mô tả về quá trình hình thành và phát triển nhân
cách của một trẻ em mà bạn gần gũi.

Chương 2. NHIỆM VỤ GIÁO DỤC TRẺ EM LỨA TUỔI MẦM NON

I. NHỮNG CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC GIÁO DỤC TRẺ EM LỨA


TUỔI MẦM NON
1. Cơ sở triết học

Cũng như các lĩnh vực khoa học khác, triết học duy vật biện chứng là
cơ sở phương pháp luận của khoa học giáo dục nói chung và khoa học giáo
dục mầm non nói riêng. Ở đây, triết học duy vật biện chứng cung cấp cơ sở
khoa học cho việc xác định bản chất con người, nguồn gốc của ý thức và mối
quan hệ giữa quá trình giáo dục với các quá trình khác, chỉ ra nguyên lí của
sự phát triển nhân cách con người… Trên cơ sở này, các nhà giáo dục xây
dựng mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục thích hợp nhằm nâng cao
hiệu quả giáo dục mầm non.

Trước hết, về bản chất con người, các nhà triết học duy vật biện chứng
khẳng định rằng, con người không phải do Thượng đế sinh ra mà con người
vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một thực thể xã hội. “Bản chất con người
không phải là một cái trừu tượng, cố hữu của mỗi cá nhân riêng lẻ. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”.
Như vậy, ngay từ khi mới sinh ra, đứa trẻ đã là một con người, một thành viên
của xã hội. Để trở thành một nhân cách, đứa trẻ cần được nuôi dưỡng và
giáo dục theo kiểu người. Người lớn – nhà giáo dục cần phải tạo điều kiện
cho trẻ tham gia vào các mối quan hệ xã hợi phù hợp với sự phát triển của trẻ
em.

Về nguyên lí phát triển, chúng ta thấy sự phát triển nhân cách của trẻ
em cũng tuân theo những quy luật vận động và phát triển chung của mọi sự
vật hiện tượng khách quan mà các nhà triết học duy vật biện chứng đã chỉ ra.
Đó là quá trình biến đổi từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức tạp; đó là quá
trình tích luỹ dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình nảy sinh
cái mới, phủ định cái cũ diễn ra trong sự đấu tranh giữa các mặt đối lập nằm
ngay trong bản thân sự vật hiện tượng. Vấn đề đặt ra là, nhiệm vụ giáo dục
mầm non không những cần phải mang tính toàn diện mà còn phải mang tính
hệ thống – phát triển.

2. Cơ sở sinh lí học

Sinh lí học xem xét trẻ em như một thực thể tự nhiên đang phát triển.
Sinh lí học cung cấp cho ta đặc điểm phát triển sinh lí của trẻ em, đặc biệt là
các dữ kiện và sự phát triển của hệ thần kinh cao cấp, các kiểu loại thần kinh,
về quy luật hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ nhất và hệ thống tín hiệu thứ
hai, về sự phát triển và vận hành của các cơ quan cảm giác và vận động, về
hệ thống tim mạch và hô hấp; về nhu cầu của cơ thể, về đặc điểm phát triển
của các hệ thống cơ thể... Đó là những cơ sở quan trọng trong việc nghiên
cứu các quá trình giáo dục mầm non, trong việc tổ chức các hoạt động chăm
sóc và giáo dục trẻ em. Chẳng hạn, từ đặc điểm phát triển của trẻ lứa tuổi nhà
trẻ (từ 0 đến 36 tháng) mà chúng ta xây dựng được chế độ sinh hoạt hằng
ngày, chế độ dinh dưỡng, vận động và học tập một cách khoa học.

3. Cơ sở tâm lí học

Tâm lí học là khoa học nghiên cứu các quá trình, các trạng thái và các
phẩm chất tâm lí muôn vẻ của con người, là những cái được nảy sinh, phát
triển trong cuộc sống, là sự phản ánh của con người trước hiện thực khách
quan. Tâm lí học trang bị cho giáo dục học cơ sở khoa học về việc xây dựng
lí luận và tổ chức hoạt động thực tiễn giáo dục cho trẻ phù hợp với đặc điểm
phát triển tâm lí lứa tuổi.

Tâm lí học khẳng định, lứa tuổi mầm non, đặc biệt là lứa tuổi nhà trẻ, là
giai đoạn phát triển tâm lí diễn ra cực kì nhanh chóng. Mỗi thời kì lứa tuổi có
những đặc điểm phát triển riêng, thể hiện ở hoạt động chủ đạo. Chẳng hạn,
giao tiếp xúc cảm trực tiếp với người lớn là hoạt động chủ đạo của trẻ hài nhi
(2– 15 tháng), hoạt động với đồ vật là hoạt động chủ đạo của trẻ ấu nhi (15–
36 tháng). Dựa vào đặc điểm này, nhà giáo dục tổ chức các hoạt động thích
hợp nhằm hình thành và phát triển các chức năng tâm lí cho trẻ. Ví dụ, để
phát triển trí tuệ cho trẻ mẫu giáo, nhà giáo dục cần tổ chức cho trẻ tham gia
vào các hoạt động đa dạng, đặc biệt là hoạt động vui chơi.

Như vậy, ta có thể khẳng định rằng, tâm lí học trẻ em là cơ sở khoa học
của giáo dục mầm non. Chỉ có hiểu biết tâm lí trẻ em chúng ta mới có thể tổ
chức quá trình giáo dục trẻ em phù hợp với quy luật phát triển tâm lí của trẻ
và tránh được sự gò bó, áp đặt trong công tác giáo dục trẻ em.

4. Cơ sở xã hội học

Xã hội học là một khoa học về các quy luật và tính quy luật xã hội
chung, về đặc thù của sự phát triển và vận hành của các hệ thống xã hội
được xác định về mặt lịch sử, là khoa học về các cơ chế tác động và các hình
thức biểu hiện của các quy luật đó của các cá nhân, các nhóm xã hội, các giai
cấp và các dân tộc. Xã hội học cung cấp cho giáo dục học những tri thức về
bản chất của hiện thực xã hội và con người; chỉ ra những quy luật, tính quy
luật và cơ chế nảy sinh, vận động, phát triển của các quá trình giáo dục, của
mối quan hệ tác động qua lại giữa giáo dục với đời sống kinh tế– xã hội.

Trên cơ sở nhận thức được quy luật, tính quy luật và các đặc điểm của
sự vận động và phát triển xã hội, các nhà giáo dục học mầm non xây dựng
mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục mầm non đáp ứng được yêu cầu
của sự phát triển của xã hội – thời đại; dự báo được xu hướng phát triển của
giáo dục mầm non… Như vậy, xã hội học là cơ sở xã hội của giáo dục học
nói chung, giáo dục học mầm non nói riêng. Nó định hướng cho giáo dục
trong việc xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục thích hợp
nhằm đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển xã hội – thời đại.

5. Cơ sở lí thuyết điều khiển

Theo lí thuyết điều khiển, quá trình giáo dục mầm non là một quá trình
điều khiển, trong đó nhà giáo dục và tập thể sư phạm là trung tâm điều khiển,
còn trẻ em là đối tượng điều khiển và việc điều khiển quá trình hình thành
nhân cách trẻ em thông qua các kênh liên hệ thuận – nghịch. Để điều khiển
tối ưu quá trình giáo dục mầm non, đòi hỏi phải đảm bảo được mối liên hệ
mật thiết giữa nhà giáo dục (giáo viên mầm non) và trẻ em. Thông tin phát ra
từ nhà giáo dục đến trẻ (gọi là đường liên hệ thuận) và thông tin thu về từ trẻ
em (gọi là đường liên hệ nghịch) phải luôn thông suất, giáo viên mới có thể
điều khiển, điều chỉnh quá trình giáo dục trẻ em. Quá trình giáo dục được diễn
ra trong môi trường, vì thế phải làm cho môi trường truyền thông không bị
nhiễu khi truyền tin và thu tín hiệu nghịch.

Như vậy, điều khiển học là cơ sở khoa học quan trọng giúp cho giáo
dục học tổ chức tốt quá trình giáo dục mầm non.

Tóm lại, dựa trên những thành tựu khoa học về con người của các
ngành khoa học có liên quan, giáo dục mầm non đã hoàn thiện từng bước lí
luận khoa học của mình và ngày càng mang lại hiệu quả cao trong công tác
chăm sóc – giáo dục trẻ em. Sẽ là sai lầm và xa lạ với khoa học nếu giáo dục
mầm non tách biệt với các khoa học nghiên cứu về trẻ em như sinh lí học trẻ
em, tâm lí học trẻ em… và các khoa học khác như triết học, xã hội học, điều
khiển học…

II. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRẺ
LỨA TUỔI MẦM NON
1. Quan điểm về sự tăng trưởng và phát triển của trẻ em
Sự lớn khôn của đứa trẻ được diễn ra thông qua hai quá trình: tăng
trưởng và phát triển:

− Tăng trưởng là quá trình trong đó các bộ phận của cơ thể có sự thay
đổi về số đo (kích thước, khối lượng).

− Phát triển là quá trình trong đó có sự hình thành, hoàn thiện, đa dạng
hoá, phức tạp hoá các chức năng của con người và sự phát triển mang tính
tổng thể.

Hai quá trình trên khác biệt nhau nhưng phụ thuộc vào nhau và diễn ra
suốt quá trình trẻ phản ứng và thích ứng với những yếu tố bẩm sinh và điều
kiện môi trường sống (môi trường tự nhiên và môi trường xã hội).

Nhìn tổng quát, mọi trẻ đều tuân theo một “sơ đồ” với những giai đoạn
tăng trưởng và phát triển nhất định về mặt cơ thể (xương, răng, chiều cao,
cân nặng, năng lực vận động, lẫy, bò, đi, chạy…) và về mặt tâm lí – xã hội
(phát triển ngôn ngữ, tư duy, tình cảm, quan hệ bạn bè…). Trong quá trình
tăng trưởng và phát triển của trẻ, chỉ khi những nhân tố nào đó của cơ thể đạt
đến một độ chín (thành thục) nhất định thì một năng lực, một chức năng
tương ứng mới có cơ sở để hình thành. Như vậy, phải đến một độ tuổi nào
đó, trẻ mới có thể học nói, học vẽ. Và chỉ khi đó, việc luyện tập và giáo dục
mới phát huy được vai trò chủ đạo của mình. Việc tập luyện và giáo dục quá
sớm (đốt cháy giai đoạn) hoặc quá muộn (bỏ lỡ thời cơ) đều gây ra những
hậu quả có hại cho sự phát triển lành mạnh của trẻ. Tuy tất cả các trẻ đều
tuân theo cùng một sơ đồ tăng trưởng và phát triển, nhưng mỗi trẻ lại tăng
trưởng và phát triển một cách riêng biệt, tuỳ thuộc vào nhân tố di truyền, bẩm
sinh, vào hoàn cảnh sống và giáo dục của gia đình và cộng đồng. Mỗi trẻ làm
một cá thể đơn nhất, không trẻ nào giống trẻ nào.

Sự tăng trưởng và phát triển của trẻ được coi là “bình thường” khi đáp
ứng được những yêu cầu sau đây:

– Phải xoay quanh một giá trị trung bình nằm trong một phạm vi có giới
hạn nào đó (giới hạn trên, giới hạn dưới) thuộc số đông của nhóm đối chiếu.
− Có nhịp độ, tốc độ và tiến triển cũng xoay quanh một giá trị trung
bình.

− Giữa các lĩnh vực tăng trưởng và phát triển phải không mất cân đối
(chẳng hạn giữa sự phát triển về tâm lí và sự phát triển vận động phải cân đối
hài hoà). Đây là yêu cầu hàng đầu về sự tăng trưởng và phát triển lành mạnh
của trẻ.

− Trẻ phát triển, vươn lên để đạt được những tiến bộ, những năng lực
mới khi có nhu cầu thôi thúc. Trong những nhu cầu để phát triển của trẻ, có
hai loại nhu cầu cơ bản: nhu cầu được yêu mến, được an toàn, chấp nhận
trong gia đình và cộng đồng; nhu cầu được chơi, tìm hiểu môi trường xung
quanh và nhu cầu tự bộc lộ suy nghĩ, tình cảm, thái độ…

Sự tăng trưởng và phát triển của trẻ diễn ra với một tốc độ rất nhanh,
chưa từng có so với bất kì lứa tuổi nào tiếp theo sau đó. Trẻ càng nhỏ gia tốc
của sự tăng trưởng và phát triển lại càng lớn. Nếu can thiệp, chăm sóc – giáo
dục càng thích hợp bao nhiêu thì càng tạo nên nền tảng vững chắc bấy nhiêu
cho những cơ may tiến bộ sau này của trẻ.

Mặt khác, ở lứa tuổi nhà trẻ, khả năng phục hồi của trẻ khá cao, nhất là
trong năm đầu. Một sự khởi đầu không suôn sẻ không hẳn khiến đứa trẻ phát
triển chậm hơn những đứa trẻ khác. Nếu thay đổi điều kiện sống một cách
hợp lí, trẻ có khả năng phục hồi lại những chậm trễ của mình. Ngược lại, nếu
môi trường sống không được cải thiện, những thiếu hụt của trẻ sẽ tích tụ và
tăng lên.

2. Đặc điểm tăng trưởng và phát triển của trẻ em lứa tuổi nhà trẻ

Như đã trình bày ở trên lứa tuổi mầm non, đặc biệt ở độ tuổi nhà trẻ là
giai đoạn phát triển với tốc độ cực kì nhanh chóng về sinh lí và tâm lí. Trẻ
càng nhỏ, gia tốc phát triển càng nhanh, mạnh, sau đó chậm dần lại. Dưới
đây là một số đặc điểm tăng trưởng và phát triển của trẻ em lứa tuổi nhà trẻ:

2.1. Sự tăng trưởng và phát triển về thể chất


Đây là thời kì tăng trưởng và phát triển thể chất nhanh nhất trong cuộc
đời, đặc biệt là trong năm đầu, ta có thể quan sát thấy từng ngày, từng tuần,
từng tháng. Chẳng hạn về trọng lượng: lúc mới sinh trọng lượng trung bình
của trẻ từ 3,0 đến 3,5kg. Ba tháng đầu, trung bình mỗi tháng tăng từ 600 –
900g (một số trẻ có thể tăng từ 1000 đến 1200g); chiều cao: Chiều cao của
trẻ tăng lên khá nhanh sau đó chậm lại: Lúc mới sinh chiều cao trung bình
của trẻ chỉ vào khoảng 45 – 50cm, trong năm đầu mỗi tháng trung bình trẻ
cao được từ 2 – 3cm, đến cuối năm đầu trẻ cao từ 75 – 80cm (gấp rưỡi so
với sơ sinh). Sang năm thứ hai, chiều cao của trẻ chỉ tăng khoảng 1cm/
tháng. Sang năm thứ ba, chiều cao của trẻ chỉ tăng khoảng 0,5cm/ tháng.

– Vòng đầu: lúc mới sinh chỉ vào khoảng 30– 32cm, sau một tháng: 35–
36cm. Sau đó chậm dần lại, đến tháng thứ 6 chỉ vào khoảng 42– 43cm, tháng
thứ 12 chỉ vào khoảng 45– 46cm; cuối năm thứ hai chỉ vào khoảng 47–
48cm; cuối năm thứ ba vào khoảng 48,5– 49,5cm.

2.2. Sự phát triển vận động

Cũng như sự tăng trưởng về thể chất, khả năng vận động của trẻ cũng
được tiến triển rất nhanh ta có thể quan sát được từng tháng. Điều này đã
được ông cha ta tổng kết: ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò, chín tháng lò
dò bước đi…

Cuối tuổi nhà trẻ, các vận động trườn, bò, chạy, nhảy ngày càng trở
nên hoàn thiện. Đang chạy, trẻ có thể quay sang trái, sang phải được; trẻ có
thể leo trèo, xoay tròn người trên hai mũi chân, nhảy chụm chân, nhảy lò cò,
lên xuống cầu thang được. Sự kết hợp vận động của tay và chân trở nên dễ
dàng và nhịp nhàng hơn. Ví dụ: trẻ có thể đi xe đạp và điều khiển xe theo ý
định; trẻ có thể vận động theo nhạc (chân bước, tay múa theo nhạc)… Đôi tay
của trẻ ngày càng trở nên linh hoạt: trẻ biết xoay tròn cổ tay, tự xúc cơm,
uống nước khá thành thạo; tự mặc áo, đi giầy dép, cầm bút vẽ được; mở
được sách vở từng trang… Trong cuộc sống trẻ tỏ ra hiếu động, đứng ngồi
không yên – suốt ngày mày mò như một thợ thủ công: đào bới, tháo lắp, xếp
dỡ… (thường do bắt chước người khác là chính).
2.3. Sự phát triển đời sống tâm lí của trẻ

Cùng với sự phát triển về thể chất và khả năng vận động, tâm lí của trẻ
trong 3 năm đầu cũng phát triển rất nhanh chóng. Dưới đây là một số dấu
hiệu cơ bản:

Trước hết, là sự phát triển nhận thức. Cùng với hệ thống phản xạ là sự
xuất hiện cảm giác. Lúc đầu là những cảm giác bất phân. Ví dụ: chưa phân
biệt được tay mình với vật nắm trong tay, chưa phân biệt được người này với
người kia, vật này với vật khác. Sau đó là những cảm giác được phân hoá: trẻ
nhận thức được thế giới xung quanh thông qua các giác quan: mắt nhìn phân
biệt được hình thù, màu sắc; tai phân biệt được tiếng nói của người mẹ với
người khác,... Cùng với sự xuất hiện cảm giác phân hoá là sự phát triển của
trí nhớ: trẻ nhận ra được người lạ, người quen, nhận ra những đồ chơi quen
thuộc và hoạt động có đối tượng được hình thành. Sang năm thứ hai, nhất là
năm thứ ba, hoạt động nhận cảm, đặc biệt là xúc giác của đôi bàn tay và sự
tinh tường của đôi mắt ngày càng phát triển. Trẻ thích sờ mó, lục lọi tất cả
mọi đồ vật (ngay cả những cái nguy hiểm đến tính mạng: ổ điện, bếp nóng...).
Trong quá trình thao tác với đồ vật trẻ không chỉ nhận ra phương thức sử
dụng mà còn nhận ra được hình dạng, kích thước, màu sắc, độ nhẵn… của
đồ vật.

Tư duy trực quan hành động được hình thành và phát triển: Trong quá
trình tiếp xúc với thế giới đồ vật, trẻ nhận ra được mối quan hệ giữa các đồ
vật (hình dạng, kích thước…) qua thử và sai (bằng tay): xếp gỗ, lắp thử, đậy
thử…; trẻ phân loại được đồ chơi (đồ vật) theo một dấu hiệu nào đó (màu sắc
hoặc hình dạng…).

Dấu hiệu thứ hai là sự phát triển xúc cảm – tình cảm xã hội. Ngay từ
cuối tháng đầu tiên của cuộc đời, đứa trẻ đã mỉm cười với người lớn (phức
cảm hớn hở). Thoạt đầu không có sự phân biệt lạ – quen: mỉm cười với tất cả
những người nhìn nó âu yếm. Sau đó (6– 7 tháng) trẻ bắt đầu phân biệt được
người lạ – người quen (phân biệt được mẹ với người khác). Trẻ theo, chơi,
chịu dỗ nín với những người quen.
Sang năm thứ hai và thứ ba, tình cảm của trẻ vẫn mang nặng màu sắc
xúc cảm và gắn với những cảnh huống cụ thể, chưa ổn định (thoắt khóc,
thoắt cười). Ở tuổi này, trẻ vừa muốn lệ thuộc, kết giao với mọi người vừa
muốn được độc lập: thích chơi với người lớn và trẻ em nhưng lại không muốn
trẻ khác hay người lớn sử dụng đồ dùng, đồ chơi của mình (tâm lí cá nhân vị
kỉ); thích một mình mò mẫm với đồ chơi (dĩ nhiên là bên cạnh người lớn hay
bạn bè). Do vậy, trong cuộc sống hằng ngày, không nên tách trẻ ra khỏi mối
quan hệ với người lớn và bạn bè, đồng thời cần phải phát huy tính độc lập
của trẻ và giáo dục lòng hiếu thảo cho trẻ.

Như đã trình bày, tình cảm của trẻ còn mang nặng màu sắc xúc cảm.
Do vậy trẻ thường bị lôi cuốn bởi sự hấp dẫn với vẻ bên ngoài của đồ vật. Ta
có thể dễ dàng thay đổi sự chú ý, hứng thú của trẻ khi ta thay đổi đồ chơi, trò
chơi hấp dẫn hơn.

Dấu hiệu thứ ba là sự phát triển ngôn ngữ. Sang tháng thứ hai đứa trẻ
đã biết “hóng chuyện”, thích nhìn vào mặt người lớn khi người lớn nói chuyện.
Chính điều này đã làm cho nhu cầu giao lưu bằng ngôn ngữ của trẻ phát triển
mạnh mẽ. Thoạt đầu là những hợp âm: “gừ, gừ” “âu, ơ” không thành tiếng khi
giao tiếp với người lớn (phức cảm hớn hở). Sau đó đứa trẻ bắt chước người
lớn phát âm được một vài từ dễ và quen thuộc: bà, ba, mẹ… Cuối năm đầu
trẻ biết dùng ngôn ngữ nói kết hợp với ngôn ngữ cử chỉ để giao tiếp với người
lớn, yêu cầu người lớn giúp đỡ trẻ thoả mãn nhu cầu: đi chơi, ăn, uống…

Sang năm thứ hai, do tiếp xúc nhiều với thế giới đồ vật, nhu cầu giao
tiếp của trẻ phát triển (trẻ hỏi về tên gọi, chức năng, phương thức sử dụng…
của mỗi đồ vật) làm cho vốn từ ngày một phong phú và khả năng phát âm của
trẻ ngày càng tốt hơn. Trẻ không chỉ hiểu được ngôn ngữ của người lớn
(nghe, làm theo sự sai bảo...) mà còn nói được những câu đơn giản. Thoạt
đầu là câu một từ, dần dần là câu 2, 3 từ kết hợp với cử chỉ, hành vi để bày tỏ
nhu cầu, mong muốn của mình với người lớn. Tức là ngôn ngữ của trẻ ở lứa
tuổi này thường gắn với một tâm cảnh cụ thể, tách nó ra câu nói của trẻ
không có nghĩa. Người tinh nhạy với tâm cảnh đó là người mẹ (hoặc người
trực tiếp nuôi dạy trẻ).

Đến năm thứ ba, sự phát triển ngôn ngữ diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
Cha ông ta đã tổng kết “Trẻ lên ba cả nhà học nói”. Đúng vậy, trẻ nói, hỏi luôn
miệng. Để thoả mãn nhu cầu giao tiếp của trẻ, người lớn phải luôn luôn tìm
câu trả lời sao cho trẻ hiểu được (đơn giản, phù hợp với khả năng hiểu biết
của trẻ). Người lớn không nên lảng tránh những câu hỏi của trẻ và cũng
không nên trả lời một cách tuỳ tiện cho qua chuyện. Qua giao tiếp với người
lớn, vốn từ của trẻ ngày càng tăng. Trẻ có khả năng diễn đạt bằng lời để
người lớn hiểu được ý muốn của mình. Câu nói của trẻ đơn giản, ngắn gọn
song thường đúng ngữ pháp. Và mọi giao tiếp của trẻ đã tách dần ra khỏi
những tình huống, tâm cảnh (nghĩa là trẻ có thể giao tiếp hoàn toàn bằng lời).

Như vậy, mỗi thời kì, sự tăng trưởng và phát triển về thể chất, tâm lí
của trẻ có những đặc điểm đặc trưng. Nhà giáo dục cần phải nắm được đặc
điểm tăng trưởng và phát triển của trẻ trong từng thời kì để xác định mục tiêu,
nội dung, phương pháp và hình thức chăm sóc và giáo dục thích hợp nhằm
nâng cao hiệu quả chăm sóc và giáo dục trẻ em.

3. Đặc điểm tăng trưởng và phát triển của trẻ em lứa tuổi mẫu giáo

Nói đến sự tăng trưởng và phát triển của trẻ là nói đến sự thay đổi, phát
triển về thể chất và tâm lí của trẻ.

3.1. Sự tăng trưởng và phát triển về thể chất

Ở lứa tuổi này, sự phát triển thể chất diễn ra nhanh nhưng không đều:
sự phát triển chiều cao diễn ra nhanh hơn trọng lượng, trẻ như gầy đi, mất vẻ
tròn trĩnh, mập mạp đã có ở tuổi nhà trẻ. Các cơ quan chức năng trong cơ thể
dần được hoàn thiện, trẻ khoẻ mạnh, cứng cáp hơn, sức đề kháng tăng, trẻ ít
bệnh tật hơn so với tuổi nhà trẻ. Tuy nhiên, sự phát triển cơ thể ở lứa tuổi này
chưa ổn định, người lớn không vì sự phát triển mất cân đối giữa chiều cao và
trọng lượng của trẻ mà tăng chế độ dinh dưỡng quá mức cho phép.

3.2. Sự tăng trưởng và phát triển vận động


Sang tuổi mẫu giáo, khả năng vận động của trẻ ngày càng hoàn thiện
hơn. Trẻ có thể trườn, bò, leo trèo một cách linh hoạt ở mọi địa hình với sự
phối hợp chính xác giữa tay và chân. Trẻ đi, chạy, nhảy, ném, bắt, chuyền
nhanh, chính xác, khéo léo với sự phối hợp của thị giác với vận động của tay,
chân,… Tuy nhiên khả năng làm việc của hệ thần kinh còn yếu, hệ xương của
trẻ chưa hoàn toàn cốt hoá, hệ cơ còn yếu,… do vậy, việc tổ chức cho trẻ vận
động mạnh, kéo dài dễ gây cho trẻ trạng thái mệt mỏi. Cần đặc biệt quan tâm
đến tính vừa sức trong khi tổ chức các hoạt động cho trẻ. Việc thực hiện chế
độ vận động hợp lí sẽ giúp quá trình phát triển cơ thể của trẻ tốt hơn.

3.3. Sự phát triển đời sống tâm lí của trẻ

Cùng với sự phát triển thể chất và khả năng vận động, đời sống tâm lí
của trẻ mẫu giáo phát triển mạnh mẽ về chất so với lứa tuổi trước đó. Sự phát
triển tâm lí của trẻ mẫu giáo được thể hiện rõ ở những khía cạnh sau đây:

– Sự phát triển nhận thức. Trước hết là sự phát triển về hoạt động nhận
cảm: Do các cơ quan phân tích phát triển và trở nên nhạy bén làm cho các
chuẩn cảm giác (về màu sắc, hình dạng, kích thước, trọng lượng, âm
thanh…) ngày càng trở nên chính xác, giúp trẻ định hướng không gian, thời
gian tốt hơn; vốn biểu tượng về thế giới xung quanh ngày càng phong phú.
Dấu hiệu thứ hai của sự phát triển nhận thức là sự phát triển tư duy, tưởng
tượng. Nếu cuối tuổi nhà trẻ, đầu tuổi mẫu giáo tư duy trực quan hành động
chiếm ưu thế thì sang tuổi mẫu giáo nhỡ, đặc biệt là mẫu giáo lớn tư duy trực
quan hình tượng chiếm ưu thế. Đến cuối tuổi mẫu giáo, tư duy lôgic ngày
càng phát triển, trí tưởng tượng của trẻ ngày càng phong phú, trẻ tích cực sử
dụng các kí hiệu tượng trưng (vật thay thế) để giải quyết các nhiệm vụ thực
tiễn.

− Sự phát triển đời sống tình cảm. Đời sống tình cảm của trẻ có những
bước phát triển mạnh mẽ, sâu sắc và phong phú hơn lứa tuổi trước đó. Trẻ
thèm khát sự trìu mến yêu thương và cũng rất sợ thái độ thờ ơ lạnh nhạt của
những người xung quanh đối với mình. Đồng thời trẻ bộc lộ tình cảm của
mình đối với những người xung quanh cũng rất mạnh mẽ: yêu quý, nhường
nhịn, quan tâm đến em bé; gắn bó, thân thiện với bạn bè,… Tình cảm của trẻ
còn được thể hiện qua thái độ của trẻ đối với cây cối, vật nuôi, đồ dùng, đồ
chơi. Trẻ coi chúng như những người bạn và gắn chúng với những sắc thái
tình cảm của con người.

− Sự phát triển ngôn ngữ. Ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo có những bước
phát triển vượt bậc về vốn từ, về khả năng nắm vững ngữ pháp và ngôn ngữ
mạch lạc. Vốn từ của trẻ ngày càng nhiều, phong phú về thể loại (danh từ,
động từ, tính từ…). Trẻ sử dụng khá thành thạo ngữ pháp tiếng mẹ đẻ. Trong
quá trình giao tiếp với người khác, trẻ không chỉ hiểu được lời nói của người
khác mà còn diễn đạt (trình bày) suy nghĩ, mong muốn của mình với người
khác một cách mạch lạc giúp người nghe dễ dàng hiểu được trẻ nghĩ gì,
muốn gì…

Nhà giáo dục cần nắm vững được đặc điểm tăng trưởng và phát triển
về thể chất, vận động và tâm lí của trẻ mẫu giáo để xây dựng nội dung, lựa
chọn các phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động cho phù hợp nhằm
nâng cao hiệu quả chăm sóc, giáo dục trẻ em mẫu giáo.

III. NHIỆM VỤ GIÁO DỤC TRẺ EM LỨA TUỔI MẦM NON


Để xây dựng cơ sở ban đầu cho giáo dục nhân cách con người phát
triển toàn diện, giáo dục mầm non cần phải được tiến hành một cách tổng
hợp và đồng bộ các mặt sau đây:

– Giáo dục thể chất

− Giáo dục trí tuệ

− Giáo dục đạo đức

– Giáo dục thẩm mĩ

− Giáo dục lao động.

Những mặt giáo dục trên đây gắn bó, bổ sung cho nhau trong quá trình
hình thành cơ sở ban đầu về nhân cách con người phát triển toàn diện. Tuy
nhiên, do đặc điểm tăng trưởng và phát triển của trẻ ở mỗi thời kì khác nhau
là khác nhau, nên cần phải xác định được các nhiệm vụ nội dung, phương
pháp, biện pháp… chăm sóc và giáo dục phù hợp với đặc điểm tăng trưởng
và phát triển của từng thời kì.

1. Giáo dục thể chất cho trẻ em lứa tuổi mầm non
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của giáo dục thể chất cho trẻ lứa tuổi
mầm non

1.1.1. Khái niệm giáo dục thể chất

Nói đến giáo dục thể chất là nói đến giáo dục và phát triển thể chất của
con người. Đó là quá trình sư phạm hướng vào việc hoàn thiện cơ thể con
người về mặt hình thái và chức năng, hình thành các kĩ năng, kĩ xảo vận động
cơ bản trong đời sống, phát triển các phẩm chất và khả năng thể lực của con
người, hình thành lối sống lành mạnh trong cuộc sống, học tập và lao động.

Giáo dục thể chất cho trẻ mầm non là quá trình tác động đến nhiều mặt
vào cơ thể trẻ, tổ chức cho trẻ vận động và sinh hoạt hợp lí nhằm bảo vệ và
làm cho cơ thể trẻ được khoẻ mạnh, phát triển hài hoà, cân đối, tạo cơ sở cho
sự phát triển toàn diện của trẻ.

1.1.2. Ý nghĩa của giáo dục thể chất

Giáo dục thể chất là một mặt quan trọng trong giáo dục nhân cách con
người phát triển toàn diện, nó làm cho con người được phát triển và hoàn
thiện về mặt thể chất để có thể tham gia vào các mặt của đời sống xã hội.

Đối với lứa tuổi mầm non, giáo dục thể chất là một trong những nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu của gia đình và trường mầm non. Bởi lẽ, như chúng
ta đã biết, ở lứa tuổi này, quá trình tăng trưởng diễn ra rất nhanh (nhanh nhất
trong cuộc đời con người), nhưng cơ thể của trẻ còn quá non nớt, dễ chịu ảnh
hưởng của những tác động bên ngoài, sức đề kháng của trẻ còn kém nên dễ
mắc các bệnh nguy hiểm. Sự phát triển lệch lạc ban đầu ở tuổi này về thể
chất sẽ để lại hậu quả suốt đời và sửa lại rất khó khăn. Ví dụ: dẹt đầu, lác
mắt, chân vòng kiềng, suy dinh dưỡng... là hậu quả của sự thiếu hiểu biết của
người lớn trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ em trong những năm đầu.
Trẻ có thể phát triển tốt về cơ thể nếu người lớn chú ý đầy đủ và đúng
mức đến việc bảo vệ, chăm sóc, giữ gìn sức khoẻ cho trẻ. Đứa trẻ khoẻ
mạnh, phát triển hài hoà, cân đối về cơ thể sẽ là cơ sở về mặt thể chất để
phát triển toàn diện nhân cách của trẻ sau này. Bàn về vai trò của giáo dục
mầm non, Hồ Chủ tịch đã dạy: “Dạy trẻ như trồng cây non. Trồng cây non
được tốt thì sau này cây lên tốt. Dạy trẻ tốt sau này các cháu thành người
tốt”.

Sự phát triển thể chất của trẻ ở lứa tuổi này đặt cơ sở cho sự phát triển
thể chất suốt đời sau này của trẻ, đồng thời nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển tâm lí và nhân cách của trẻ.

Cơ thể khoẻ mạnh giúp trẻ trở nên hoạt bát, hồn nhiên hơn và có
những xúc cảm, tình cảm lành mạnh với mình, với người khác và với thế giới
xung quanh.

Giáo dục thể chất gắn liền với giáo dục trí tuệ cho trẻ. Bởi lẽ, cơ thể trẻ
phát triển khoẻ mạnh, hệ thần kinh được phát triển thăng bằng, các giác quan
tinh tường… sẽ giúp cho đứa trẻ tích cực hoạt động, tích cực tiếp xúc và làm
quen với môi trường xung quanh. Nhờ đó mà hoạt động nhận cảm của trẻ
thêm phong phú và chính xác, tư duy trở nên nhạy bén. Mặt khác, trẻ khoẻ
mạnh, nhanh nhẹn, khéo léo sẽ say sưa, hứng thú hơn trong quá trình tri giác
cái đẹp của thế giới xung quanh (đồ dùng, đồ chơi…) và tự nó có khả năng
tạo ra cái đẹp và sống theo cái đẹp (biết giữ gìn đồ chơi sạch đẹp, biết gọn
gàng, ngăn nắp,…). Trẻ khoẻ mạnh sẽ thích lao động, thích làm những công
việc tự phục vụ mình và giúp đỡ bạn bè, người lớn xung quanh.

Ở nước ta, trong những năm gần đây đã tăng cường công tác chăm
sóc và bảo vệ sức khoẻ cho trẻ em, song tỉ lệ trẻ mắc các bệnh: còi xương,
suy dinh dưỡng; các bệnh đường hô hấp, đường tiêu hoá… còn khá cao.
Nguyên nhân không hoàn toàn là do điều kiện kinh tế, mà chủ yếu là do thiếu
kiến thức chăm sóc – giáo dục thể chất cho trẻ (thiếu hiểu biết đầy đủ về chế
độ dinh dưỡng, luyện tập, bảo vệ sức khoẻ cho trẻ, về phương pháp chăm
sóc sức khoẻ… cho trẻ).
Như vậy, giáo dục thể chất cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ là rất quan trọng,
các bậc cha mẹ, những người nuôi dạy trẻ cần phải đặt giáo dục thể chất lên
nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình nuôi – dạy trẻ.

1.2. Nhiệm vụ, nội dung và phương pháp của giáo dục thể chất
cho trẻ em lứa tuổi nhà trẻ

1.2.1. Nhiệm vụ

Để tạo cho đứa trẻ có một cơ thể khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, hoạt bát,
phát triển hài hoà, cân đối, người ta đề ra ba nhiệm vụ giáo dục thể chất cho
trẻ em lứa tuổi nhà trẻ như sau:

– Bảo vệ và tăng cường sức khoẻ cho trẻ. Đây là nhiệm vụ quan trọng
nhất của giáo dục trẻ em lứa tuổi nhà trẻ. Bởi vì ở tuổi này cơ thể trẻ phát
triển rất nhanh, nhưng sức đề kháng còn yếu, các cơ quan còn non yếu, cần
phải được chăm sóc đặc biệt nhằm đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát triển
của trẻ diễn ra đúng lúc, nâng cao khả năng miễn dịch đối với những bệnh trẻ
thường mắc phải. Nhiệm vụ này bao gồm: nuôi dưỡng trẻ một cách khoa học
(nuôi bằng sữa mẹ dưới 6 tháng tuổi, cho ăn đủ chất, đủ lượng, hợp vệ sinh
và theo một chế độ sinh hoạt khoa học; chăm sóc hợp lý (tắm, rửa, quần áo,
chơi, học…); rèn luyện một cách khoa học (các bài tập vận động, trò chơi,
dạo chơi…).

– Phát triển và hoàn thiện các vận động của trẻ. Nhờ có tính thích nghi
của hệ thần kinh, khi sức khoẻ của trẻ được bảo vệ và tăng cường, kĩ năng
vận động của trẻ được hình thành, phát triển và hoàn thiện dần. Đó là những
vận động lẫy, bò, ngồi, đứng, đi, chạy, nhảy và vận động của bàn tay, ngón
tay, khả năng phối hợp thị giác, thính giác và vận động.

– Hình thành một số thói quen văn hoá vệ sinh ban đầu cho trẻ. Đó là
những thói quen ăn uống, vệ sinh, sinh hoạt (tắm rửa, chơi tập); thói quen tự
phục vụ… Những thói quen này được hình thành trong quá trình nuôi dưỡng,
chăm sóc và rèn luyện theo mọi chế độ sinh hoạt mang tính khoa học, diễn ra
một cách thường xuyên, liên tục và ổn định.
1.2.2. Nội dung và phương pháp giáo dục thể chất cho trẻ lứa tuổi nhà
trẻ

Để thực hiện được ba nhiệm vụ giáo dục thể chất cho trẻ em lứa tuổi
nhà trẻ, người lớn cần tổ chức tốt chế độ sinh hoạt hằng ngày, tổ chức vận
động hợp lí và có sự quan tâm chu đáo về sức khoẻ, về vệ sinh cho trẻ. Đó là
những nội dung chủ yếu của giáo dục thể chất cho trẻ em lứa tuổi nhà trẻ.

a) Tổ chức chế độ sinh hoạt hằng ngày hợp lí

− Chế độ sinh hoạt hằng ngày và ý nghĩa của nó

Chế độ sinh hoạt hằng ngày của trẻ là một quy trình khoa học nhằm
phân phối thời gian và trình tự các hoạt động trong ngày cũng như việc ăn
uống, nghỉ ngơi một cách hợp lí nhằm đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển
của trẻ.

Chế độ sinh hoạt hằng ngày của trẻ được xây dựng dựa trên đặc điểm
sinh lí và tâm lí của trẻ. Do vậy, nếu xây dựng được chế độ sinh hoạt hằng
ngày hợp lí và thực hiện nó một cách nghiêm túc (đúng mốc thời gian cho
từng hoạt động, luôn điều hoà giữa thức và ngủ, giữa hoạt động tĩnh và hoạt
động động…) có ý nghĩa lớn đối với việc giáo dục thể chất cho trẻ. Trước hết,
chế độ sinh hoạt hằng ngày hợp lí đảm bảo cho trẻ thoả mãn các nhu cầu về
ăn, ngủ, hoạt động, giữ cho hệ thần kinh được thăng bằng, trẻ luôn luôn ở
trạng thái thoải mái, vui vẻ. Đồng thời thực hiện nghiêm túc, ổn định chế độ
sinh hoạt hằng ngày còn hình thành ở trẻ nền nếp và những thói quen tốt
trong cuộc sống.

Chế độ sinh hoạt hợp lí vừa là nội dung vừa là phương tiện để phát
triển tâm lí của trẻ. Thông qua thực hiện chế độ sinh hoạt hằng ngày: ăn
uống, vệ sinh, đặc biệt là chơi tập, hoạt động nhận cảm của trẻ được phát
triển, vốn từ ngày một phong phú, xúc cảm, tình cảm và đạo đức, óc thẩm mĩ
cũng được hình thành và phát triển.
Như vậy, có thể nói rằng chế độ sinh hoạt hằng ngày vừa là nội dung
vừa là phương tiện để giáo dục thể chất nói riêng và giáo dục toàn diện cho
trẻ.

Để có một chế độ sinh hoạt hằng ngày hợp lí cho trẻ cần phải quán triệt
một số yêu cầu sau đây khi xây dựng chế độ sinh hoạt hằng ngày và thực
hiện nó.

− Chế độ sinh hoạt phải làm thoả mãn nhu cầu phát triển của trẻ, phù
hợp với độ tuổi. Bởi lẽ, mỗi thời kì phát triển của cơ thể, nhu cầu ăn, ngủ,
chơi tập… của trẻ khác nhau. Do vậy, để đáp ứng nhu cầu phát triển của trẻ
cần phải có chế độ sinh hoạt phù hợp. Căn cứ vào nhu cầu phát triển của trẻ,
ở trường mầm non người ta có chế độ sinh hoạt cho từng độ tuổi như: chế độ
sinh hoạt cho trẻ từ 3– 6 tháng; chế độ sinh hoạt cho trẻ từ 6– 12 tháng; từ
12– 18 tháng; từ 18– 24 tháng; từ 24 tháng– 36 tháng.

– Chế độ sinh hoạt phải đảm bảo các điều kiện vệ sinh cho trẻ và tạo ra
cảm giác an toàn cho trẻ.

– Không được áp đặt theo ý muốn chủ quan của người lớn, mà phải
xuất phát từ nhu cầu tự nhiên của trẻ; phải tạo điều kiện để trẻ phát triển một
cách tối ưu những khả năng vốn có của trẻ.

– Khi thực hiện chế độ sinh hoạt cần phải linh hoạt, mềm dẻo dựa trên
hoàn cảnh, điều kiện và đặc điểm riêng của trẻ, song không được cắt xén một
nội dung nào.

– Đảm bảo cho trẻ được hoạt động tích cực (nhưng không quá sức),
được nghỉ ngơi một cách thoải mái nhằm phục hồi những năng lượng đã tiêu
hao trong các hoạt động; tạo ra sự cân bằng giữa hoạt động và nghỉ ngơi,
giữa hoạt động tĩnh và hoạt động động.

− Đảm bảo trình tự được lặp đi lặp lại, tránh xáo trộn nhiều các trật tự
cần thiết, nhằm tạo nếp và thói quen cho trẻ.

– Chế độ sinh hoạt phải phù hợp với khí hậu từng mùa, từng vùng và
điều kiện kinh tế của địa phương, gia đình.
− Những nội dung chủ yếu trong chế độ sinh hoạt của trẻ lứa tuổi nhà
trẻ và cách thực hiện

Nội dung chủ yếu trong chế độ sinh hoạt của trẻ lứa tuổi nhà trẻ gồm:

– Tổ chức ăn uống cho trẻ.

– Tổ chức ngủ cho trẻ.

– Tổ chức chơi – tập cho trẻ.

Tuỳ theo từng lứa tuổi cụ thể mà có sự khác nhau trong việc tổ chức
chế độ ăn uống, ngủ, chơi tập cho trẻ. Chẳng hạn, trẻ dưới một tuổi cần đảm
bảo thời gian dành cho ngủ nhiều hơn, còn đối với trẻ 2– 3 tuổi thì thời gian
thức – chơi tập nhiều hơn.

* Tổ chức ăn uống cho trẻ

Ăn uống là nhu cầu tất yếu của mọi sinh vật. Song phương thức thoả
mãn nhu cầu này ở con người khác xa với mọi sinh vật khác. Ăn uống đối với
trẻ em không chỉ cốt no, mà thông qua ăn uống trẻ thoả mãn nhu cầu giao lưu
tình cảm với những người xung quanh, mở mang hiểu biết về thế giới xung
quanh.

– Để tăng cường sức khoẻ, phát triển thể chất và mang lại niềm vui cho
trẻ trong khi ăn uống cần phải đảm bảo một số yêu cầu sau đây:

+ Thức ăn, đồ uống phải đảm bảo vệ sinh và đủ chất dinh dưỡng: prôtit,
lipit, tinh bột, khoáng chất… phù hợp với nhu cầu của trẻ ở độ tuổi của nó
(không ép đứa trẻ ăn vượt quá nhu cầu dinh dưỡng mà nó cần). Bú mẹ là tốt
nhất đối với trẻ trong năm đầu. Ngoài bú mẹ, cần cho trẻ ăn thêm những thức
ăn khác như: hoa quả tươi, rau tươi, sữa và các loại thức ăn bằng sữa được
chế biến từ lỏng đến đặc dần, từ mềm đến rắn dần. Không nên cho trẻ ăn
cơm quá sớm (trước 18 tháng), nhưng cũng không nên kéo dài thời gian cho
trẻ ăn bột, ăn cháo (24– 36 tháng), sẽ không có lợi cho hoạt động tiêu hoá
của dạ dày. Cần tổ chức cho trẻ ăn uống hợp lí, đúng giờ với không khí thoải
mái, vui vẻ để tạo ra cảm giác ngon miệng và mong muốn được ăn khi đến
bữa. Đồng thời phải tập cho trẻ ăn thức ăn đa dạng về khẩu phần và chất
dinh dưỡng nhằm tăng cường sức khoẻ cho trẻ.

– Quá trình tổ chức cho trẻ ăn uống và những yêu cầu cơ bản khi cho
trẻ ăn uống.

+ Trước khi cho trẻ ăn uống, cần vệ sinh chân tay, mặt mũi và đeo yếm
cho trẻ; thức ăn phải được nấu chín, không quá nóng, không quá nguội, lạnh;
bát đĩa, thìa phải khô, sạch; bàn ghế phải vừa tầm thước của trẻ, kê ở nơi
thoáng mát. Một việc rất quan trọng trước khi cho trẻ ăn uống người lớn phải
tạo cho trẻ tâm thế thoải mái, vui vẻ và có nhu cầu ăn uống.

+ Trong quá trình cho trẻ ăn, người lớn tạo cho trẻ cảm giác ăn ngon
miệng, động viên trẻ ăn hết tiêu chuẩn, hình thành mối quan hệ thân thiết
giữa trẻ với người lớn ngay trong khi cho trẻ ăn (nói chuyện với trẻ, âu yếm
trẻ, khuyến khích, động viên trẻ ăn…). Một điều cần quan tâm khi cho trẻ ăn
là, người lớn phải quan sát, theo dõi những biểu hiện của trẻ trong khi ăn: trẻ
có ăn ngon miệng hay không nguyên nhân và những giải pháp cần thiết. Đối
với những trẻ lười ăn, chưa tự xúc cơm… cần phải được giúp đỡ kịp thời.

+ Sau khi cho trẻ ăn. Sau khi trẻ ăn xong, cần giúp trẻ vệ sinh mồm
miệng, chân tay và uống nước tráng miệng (uống đủ lượng nước cần thiết);
không để trẻ vận động mạnh (chạy nhảy, nô đùa) không nên cho trẻ đi ngủ
ngay sau khi ăn, mà cần có một thời gian để trẻ xuôi cơm.

* Tổ chức cho trẻ ngủ

Giấc ngủ tạo ra sự cân bằng giữa hoạt động và nghỉ ngơi, giúp cho cơ
bắp, thần kinh được thư giãn, phục hồi sau những vận động trước đó. Trẻ
càng nhỏ thì sức làm việc của hệ thần kinh càng yếu vì thế trẻ mau mệt mỏi.
Giấc ngủ sâu là liều thuốc bổ giúp trẻ bù đắp lại sức làm việc của não bộ.

Những yêu cầu cơ bản của việc tổ chức cho trẻ ngủ:

+ Khi xác định chế độ sinh hoạt hằng ngày, không chỉ tính đến lứa tuổi
mà còn tính đến đặc điểm cá nhân của trẻ: trạng thái sức khoẻ, kiểu hình thần
kinh. Những đứa trẻ có kiểu hình thần kinh yếu cần được nghỉ ngơi dài hơn.
Nếu trẻ thường ngủ trước giờ quy định theo chế độ hằng ngày, thì cần kéo
dài giấc ngủ của trẻ hoặc quay lại chế độ của nhóm tuổi trước đó.

+ Tạo mọi điều kiện khách quan và chủ quan thuận lợi để trẻ ngủ sâu,
ngon giấc trong một thời gian hợp lí. Thời gian ngủ cần thiết của mỗi độ tuổi
như sau:

Trẻ dưới 4 tháng tuổi: từ 18 – 20 giờ/ ngày.

Trẻ 4 – 5 tháng tuổi: từ 16 – 18 giờ/ ngày.

Trẻ 6 – 12 tháng tuổi: từ 14 – 16 giờ/ ngày.

Trẻ 12 – 24 tháng tuổi: từ 12 – 14 giờ/ ngày.

Trẻ 24 – 36 tháng tuổi: từ 10 – 12 giờ/ ngày.

Không nên cho trẻ thức khuya cùng người lớn.

+ Tập cho trẻ có thói quen ngủ đúng giờ, đã nằm là ngủ ngay (đây là
điều khó nhưng có thể rèn được).

– Quá trình tổ chức cho trẻ ngủ và những yêu cầu khi cho trẻ ngủ.

+ Trước khi trẻ ngủ, người lớn cần tạo cho trẻ cảm giác thoải mái, yên
ổn (an toàn) khi đi ngủ. Không để trẻ chơi đùa quá nhiều trước khi ngủ, không
doạ nạt, kể chuyện gây sợ hãi cho trẻ trước khi ngủ.

Chỗ ngủ của trẻ phải thoáng mát, hợp vệ sinh (mát mẻ về mùa hè, ấm
áp về mùa đông, không quá sáng, không quá tối, không hôi hám, ruồi
muỗi…). Khi trẻ đi ngủ, nên đặt cho trẻ nằm theo tư thế nằm ngửa hoặc nằm
nghiêng, không nên cho trẻ ngủ ở tư thế nằm sấp.

+ Trong khi trẻ ngủ, để trẻ đi vào giấc ngủ một cách nhẹ nhàng cần tạo
ra một không gian yên tĩnh, đầm ấm, an toàn cho trẻ. Hát ru, sự vỗ về âu yếm
là rất cần thiết khi cho trẻ ngủ.

+ Sau giấc ngủ (khi trẻ thức dậy). Khi thức dậy, nhiều trẻ (nhất là trẻ
nhỏ) thường khóc (mếu máo) nếu không thấy người lớn ở gần. Do vậy, người
lớn cần phải có mặt trong thời gian trẻ thức tỉnh. Khi trẻ thức tỉnh không nên
cho trẻ dậy ngay mà cần cho trẻ nằm chơi một mình (nếu trẻ lớn thì đưa đồ
chơi để trẻ tự chơi ở tư thế nằm, hoặc ngồi). Sau đó cho trẻ đi vệ sinh và rửa
mặt mũi cho trẻ.

* Tổ chức vệ sinh cá nhân cho trẻ

Tập cho trẻ nhỏ biết giữ vệ sinh cá nhân là một việc làm khó nhưng rất
cần thiết, nó giúp trẻ quen dần với nếp sống vệ sinh, sạch sẽ, ngăn nắp.
Những nếp sống này có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành và phát triển
nhân cách sau này của trẻ.

Nội dung tổ chức vệ sinh cá nhân cho trẻ bao gồm: vệ sinh thân thể, vệ
sinh răng miệng, mắt, mũi, tai, họng; vệ sinh quần áo cho trẻ và tập cho trẻ đi
tiểu, tiện có giờ giấc, đúng nơi quy định.

* Tổ chức chế độ chơi tập cho trẻ

Trong chế độ sinh hoạt hằng ngày, chế độ chơi tập vừa là nội dung vừa
là phương tiện để giáo dục thể chất cho trẻ. Đồng thời, nó cũng là phương
tiện, con đường để giáo dục trí tuệ, đạo đức,… cho trẻ. Chế độ chơi tập chỉ
có ý nghĩa đối với sự phát triển của trẻ khi nó được tính toán một cách hợp lí
sự luân phiên giữa hoạt động tĩnh và hoạt động động; phát huy được sự tham
gia tích cực của các vận động tay chân và trí não, phù hợp với đặc điểm phát
triển của từng độ tuổi.

Trong chế độ sinh hoạt hằng ngày cũng cần tính đến việc rèn luyện cho
trẻ thích nghi tốt hơn với điều kiện sống. Để trẻ thích nghi được với môi
trường cần phải tổ chức cho trẻ hoạt động ngoài trời, được tiếp xúc với môi
trường thiên nhiên (nắng; gió…). Qua tiếp xúc trực tiếp với môi trường thiên
nhiên, trẻ không chỉ “dạn dày” với nắng, gió mà còn tăng sức đề kháng của
cơ thể trẻ trước những tác động của môi trường. Đành rằng việc tập luyện
này phải diễn ra một cách có hệ thống, thường xuyên và cần tính đến đặc tính
cá nhân của trẻ.

b) Tổ chức tập luyện và phát triển vận động cho trẻ tuổi nhà trẻ
Vận động là nhu cầu tự nhiên của con người, nó giữ vai trò quan trọng
trong cuộc sống con người nói chung và trẻ em lứa tuổi nhà trẻ nói riêng, bởi
vì vận động là cơ sở của mọi hoạt động. Một đứa trẻ hiếu động thường thông
minh hơn đứa trẻ lười vận động và chậm chạp. Sự phát triển vận động của
trẻ không chỉ có ý nghĩa đối với sự phát triển thể chất mà còn kéo theo sự
phát triển tâm lí của trẻ.

Sự phát triển vận động là kết quả không chỉ của sự trưởng thành về cơ
thể mà còn là sản phẩm của việc dạy dỗ. Dạy trẻ dưới ba tuổi những vận
động cơ bản: lẫy, bò, ngồi, đi, chạy, nhảy, bước qua những chướng ngại
vật… là nhiệm vụ cơ bản của người lớn.

Trong ba năm đầu, người lớn cần tạo điều kiện cho trẻ vận động một
cách tích cực, phù hợp với độ tuổi. Khi lập chương trình tập luyện, phát triển
vận động cho trẻ cần quán triệt các nguyên tắc sau đây:

– Chọn các bài tập và trò chơi có tác động chung đến sự vận động của
cơ thể, đặc biệt là sự vận động tích cực của cơ bắp.

− Chọn các bài tập và trò chơi gây hứng thú đối với trẻ, đồng thời đặt ra
nhiệm vụ vừa sức nhằm phát triển các vận động cơ bản.

– Khi tổ chức những buổi tập luyện (dưới hình thức chơi tập hay các
bài tập luyện) cần phải tính đến độ tuổi, thậm chí đến đặc điểm riêng của trẻ
để có những mức độ yêu cầu khác nhau. Ví dụ đối với trẻ dưới 1 tuổi, những
bài tập phù hợp cần tập luyện cho trẻ là xoa bóp, tập lẫy, tập trườn, tập đứng
lên ngồi xuống, tập đi men và bước đầu tập đi. Đối với trẻ 2 – 3 tuổi, ta có thể
sử dụng những trò chơi vận động đơn giản mà trẻ hứng thú nhằm phát triển
các vận động cơ bản như: đi chạy, nhảy, bò…, đặc biệt là dùng các bài tập đi
tự do, những bài tập thể dục buổi sáng…

– Tập luyện cho trẻ vận động một cách thường xuyên, có hệ thống từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp; tạo điều kiện cho mọi trẻ đều được
vận động; động viên, khuyến khích, kích thích trẻ tích cực vận động, song
tránh để trẻ vận động quá sức; luân phiên giữa các hoạt động tĩnh và hoạt
động động, không để trẻ bị mệt vì những vận động quá phức tạp, vượt quá
khả năng của trẻ.

− Dụng cụ tập luyện của trẻ phải phù hợp với vận động cần tập luyện
cho trẻ, phải hấp dẫn – thu hút trẻ tích cực vận động (màu sắc đẹp, hình thức
ngộ nghĩnh, có thể phát ra âm thanh...) và an toàn đối với trẻ (không sắc
nhọn, không gây dị ứng da, an toàn khi trẻ “vô tình” ngậm…).

1.3. Nhiệm vụ, nội dung và phương pháp giáo dục thể chất cho trẻ
em lứa tuổi mẫu giáo

1.3.1. Nhiệm vụ

Mục tiêu của giáo dục mẫu giáo là nhằm hình thành những cơ sở đầu
tiên của nhân cách phát triển hài hoà về tinh thần, đạo đức và thể lực. Để
thực hiện mục tiêu đó, giáo dục thể chất trong trường mẫu giáo có những
nhiệm vụ cụ thể sau:

– Tiếp tục bảo vệ và tăng cường sức khoẻ, đảm bảo sự tăng trưởng hài
hoà của hè

+ Bảo đảm chế độ dinh dưỡng, chế độ sinh hoạt (ăn, ngủ, thức) hợp lí,
tích cực phòng bệnh, phòng tai nạn, làm tốt công tác vệ sinh môi trường, sinh
hoạt và thân thể, không để trẻ mệt mỏi vì hoạt động quá sức hoặc thần kinh
căng thẳng.

+ Tổ chức rèn luyện có thể trẻ một cách hợp lí (tập thể dục và chơi các
trò chơi vận động) nhằm tăng cường sức khoẻ, phát triển cân đối hình dạng
và các chức năng của cơ thể, tăng cường khả năng thích ứng của trẻ với
những thay đổi của thời tiết hoặc môi trường bên ngoài (nóng, lạnh, ẩm,
hanh).

– Rèn luyện các kĩ năng, kĩ xảo vận động cơ bản và những phẩm chất
vận động:

+ Hình thành, phát triển và hoàn thiện các kĩ năng, kĩ xảo vận động cơ
bản (đi, chạy, nhảy, leo trèo), rèn luyện năng lực phối hợp cảm giác (chủ yếu
là thị giác với thính giác), phối hợp các vận động của các bộ phận cơ thể với
nhau (đầu, tay, chân, mình), vận động tĩnh của tay (cánh tay, cổ tay, các ngón
tay), năng lực định hướng trong vận động (phải, trái, trên, dưới, đằng trước,
đằng sau, trình tự các vận động).

+ Từng bước rèn luyện những phẩm chất của vận động, giúp cho trẻ
vận động ngày càng nhanh nhẹn, linh hoạt, dẻo dai, gọn gàng (không có
những động tác thừa như nghoẹo cổ, thè lưỡi, mím miệng khi thao tác tay, xô
cả người về phía trước khi đá v.v…), ngày càng chính xác và khéo léo hơn.

– Giáo dục nếp sống, kĩ năng và thói quen vệ sinh

+ Trường mẫu giáo có nhiệm vụ giáo dục cho trẻ nếp sống có giờ giấc.
Rèn luyện cho trẻ thói quen ăn, ngủ, thức đúng giờ và dễ dàng thích nghi khi
chuyển từ hoạt động này sang hoạt động khác (ăn, ngủ, chơi, lao động v.v…).
Những thói quen này không những khiến trẻ ăn ngon, ngủ say, hoạt động
thoải mái, ảnh hưởng tốt đến sức khoẻ của trẻ mà còn rất cần thiết để trẻ dễ
dàng thích nghi với thời khoá biểu học tập sau này ở trường tiểu học.

+ Giáo dục kĩ năng, kĩ xảo vệ sinh có ý nghĩa lớn lao trong việc bảo vệ
sức khoẻ và tăng cường thể lực.

Có nhiều kĩ năng, kĩ xảo vệ sinh về thân thể, về ăn uống, về quần áo và


vệ sinh môi trường có thể hình thành ở trẻ và từng bước trở thành thói quen
của trẻ.

1.3.2. Nội dung và phương pháp giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo

a) Giáo dục các kĩ năng và thói quen vệ sinh

Như đã trình bày, giáo dục các kĩ năng và thói quen vệ sinh là một khâu
quan trọng trong hệ thống giáo dục thể chất và trong việc hình thành nhân
cách. Việc giáo dục kĩ năng và thói quen vệ sinh cho trẻ mẫu giáo gồm những
nội dung cơ bản sau:

− Vệ sinh thân thể: Có thói quen rửa và giữ gìn sạch sẽ thân thể: biết
rửa tay, súc miệng, biết dùng mùi xoa…
– Vệ sinh ăn uống: Rửa tay trước khi ăn, nhai kĩ, không bốc tay, làm rơi
vãi thức ăn trong khi ăn, ăn xong rửa tay, súc miệng, lau mồm.

b) Tổ chức ăn cho trẻ

Cơ thể trẻ lứa tuổi mẫu giáo đang ở giai đoạn phát triển nhanh nên đòi
hỏi khẩu phần ăn đầy đủ về số lượng và chất lượng. Ăn uống thiếu thốn hay
quá no đều hạn chế sự phát triển, gây rối loạn tiêu hoá, phá hoại quá trình
trao đổi chất và sức đề kháng của cơ thể, làm cho trẻ yếu ớt và do đó ảnh
hưởng đến toàn bộ sự phát triển tâm lí của trẻ.

Chế độ ăn uống hợp lí được xây dựng trên cơ sở mức năng lượng cần
thiết ở độ tuổi (quy ra calo), sự kết hợp các thành phần thức ăn theo cấu tạo
các thành phần hoá học (prôtit, lipit, gluxit, muối khoáng, vitamin), sự đa dạng
của các loại thức ăn và cách nấu nướng.

Một số yêu cầu khi tổ chức bữa ăn cho trẻ:

− Phòng ăn sạch sẽ, thoáng mát. Bàn ghế sắp xếp thuận tiện cho trẻ
ngồi xuống và đứng lên.

− Bàn ăn, bát đĩa phù hợp với lứa tuổi và được xếp có thẩm mĩ, giản
tiện.

– Trước khi ăn khoảng nửa giờ, cần kết thúc các buổi đi dạo, các trò
chơi đòi hỏi vận động căng thẳng. Thời gian này cần các trò chơi, các giờ học
yên tĩnh. Tránh gây ra những căng thẳng thần kinh hoặc sự giận dỗi ở trẻ.

– Cho trẻ rửa tay, rửa mặt trước khi ăn, khi ngồi vào bàn được ăn ngay
không phải chờ đợi lâu.

Hình thành cho trẻ các kĩ năng và thói quen ăn có văn hoá: Không ăn
vội vàng, nhai kĩ; lấy thức ăn từng ít một; cầm thìa, bát, đũa đúng động tác,
nhai nhỏ nhẹ. Với trẻ lớn cần có kĩ năng sử dụng các đồ dùng nhà bếp, có kĩ
năng tự phục vụ. Như vậy, việc tổ chức cho trẻ ăn phải nhằm giáo dục trẻ tính
độc lập và những thói quen văn hoá – vệ sinh thích hợp với lứa tuổi.
– Phát hiện nguyên nhân trẻ ăn không ngon miệng và đưa ra biện pháp
khắc phục.

Bình thường, với bữa ăn tổ chức đúng đắn, trẻ ăn uống tự giác, vui vẻ
và ngon lành. Song có nhiều trường hợp trẻ ghê sợ bữa ăn, có thái độ chống
đối hay ăn uống uể oải. Khi ấy, nếu sử dụng phương pháp ép buộc, thậm chí
cả phương pháp dỗ dành, khen gợi, đánh lạc hướng đều là không đúng và
gây tác hại, gây ra tâm lí tiêu cực với bữa ăn.

− Cần tìm hiểu kĩ nguyên nhân làm cho trẻ em không ngon miệng, thậm
chí ghê sợ bữa ăn để từ đó đưa ra cách khắc phục hợp lí. Các nguyên nhân
rất đa dạng, có thể là:

+ Thức ăn khô, khó nuốt.

+ Do tình trạng sức khoẻ không bình thường.

+ Do thức ăn lạ với trẻ, không thích hợp với trẻ vì gia đình chưa bao giờ
cho ăn.

+ Do các em được nuông chiều ở nhà, khi ăn bao giờ cũng được người
lớn dỗ dành v.v…

Từ các nguyên nhân trên, nhà giáo dục đưa ra các biện pháp khắc
phục tích cực nhất, cần thiết với mỗi trẻ.

Cần thường xuyên trao đổi với cha mẹ về vấn đề ăn uống của trẻ để
cùng phối hợp tất cho việc xây dựng chế độ ăn hợp lí cho mỗi trẻ và có tác
dụng giáo dục hành vi và thói quen có văn hoá khi ăn.

c) Tổ chức cho trẻ ngủ

Giấc ngủ của trẻ có ý nghĩa lớn trong việc phục hồi khả năng làm việc
của các tế bào thần kinh. Một giấc ngủ sâu, đủ độ dài là phương tiện cơ bản
để ngăn ngừa tình trạng quá mệt mỏi của hệ thần kinh và cơ thể.

Tình trạng ngủ nông, thường xuyên ngủ không đủ giấc có liên quan đến
sự rối loạn chức năng của hệ thần kinh. Những trẻ ngủ ít thì sự mệt mỏi thái
quá càng dồn lại và sự hưng phấn xúc cảm tiêu cực càng dễ phát sinh, vì
điều đó thường thể hiện ở sự trái tính trái nết ở đứa trẻ. Một giấc ngủ tốt vừa
là một trong những điều kiện căn bản vừa là một trong những dấu hiệu của
sức khoẻ trẻ em.

Từ lúc mới sinh cho tới 7 tuổi các thông số khác nhau về giấc ngủ có
sự thay đổi:

− Sự hình thành giấc ngủ, độ dài chung của giấc ngủ, số giấc ngủ trong
một ngày đêm giảm đi.

− Nhịp độ luân phiên giữa ngủ và thức cũng thay đổi. Ngủ dài về đêm
và tăng thời gian thức nhiều về ban ngày.

Trong một giấc ngủ có các thời kì ngủ nông và ngủ sâu. Lúc đầu ngủ
thiu thiu (ngủ nông) rồi tới thời kì ngủ sâu và sau đó là thời kì ngủ sâu lần thứ
hai nhưng có yếu đi, cuối cùng là ngủ nông chuyển sang trạng thái thức dậy
tự nhiên. Ở thời kì ngủ sâu thứ hai mới có sự ức chế ngủ sâu nhất và năng
lực hoạt động của các tế bào thần kinh mới được phục hồi hoàn toàn. Ở thời
kì nhất, giấc ngủ còn nông, những kích thích ngoại cảnh dễ dàng đánh thức
trẻ. Bởi vậy, cần biết tổ chức đúng đắn cho giấc ngủ của trẻ.

– Tổ chức cho trẻ ngủ

+ Ngay từ đầu cần rèn luyện cho trẻ có thái độ tích cực đối với giấc
ngủ.

+ Tính chất của sự chuyển từ thức sang ngủ ở các độ tuổi khác nhau là
do những nguyên nhân khác nhau quyết định. Thường thường những khó
khăn chuyển sang giấc ngủ là do trẻ có những hứng thú khác nhau, do sự
phát triển của các quá trình nhận thức, do nhu cầu về các loại hoạt động và
trò chơi ngày càng phức tạp. Nếu chưa tạo được cho trẻ nhu cầu mà cứ bắt
trẻ ngừng chơi vào lúc cho trẻ đi ngủ sẽ làm cho trẻ khó chịu, có xúc cảm tiêu
cực và muốn kéo dài thời điểm đi ngủ.

+ Một phương tiện cơ bản để tạo ra nhu cầu ngủ ở trẻ một cách đúng
đắn (cảm giác hài lòng khi đi ngủ, ngủ thiếp đi nhanh chóng mà không cần tác
động phụ thêm vào) là việc tạo ra một chế độ ngày – đêm thích hợp với lứa
tuổi và những đặc điểm cá nhân trẻ. Muốn vậy cần tạo ra những điều kiện
thuận lợi nhất cho trẻ ngủ nhanh, ngủ sâu vào những giờ giấc đã định cho
giấc ngủ.

+ Cần tạo ra trạng thái yên tĩnh cần thiết trước giờ ngủ: không có
những hoạt động kích thích mạnh hưng phấn của trẻ, không làm ồn, không để
ánh sáng chói chiếu vào phòng ngủ, phòng ngủ phải thoáng khí.

+ Cho trẻ ngủ đúng giờ để tạo ra phản xạ có điều kiện thuận lợi cho
việc rèn luyện thói quen ngủ nhanh, ngủ ngon giấc.

+ Không nên có những hình thức giao tiếp gây xúc cảm tiêu cực và tạo
ra hưng phấn cao ở vùng vỏ đại não.

– Chăm sóc cho trẻ lúc ngủ

+ Đặt cho trẻ ngủ với thái độ ân cần, giúp trẻ nằm đúng tư thế (nằm
nghiêng, không nằm sấp, không co ro đầu gối).

+ Giúp đỡ riêng cho các trẻ yếu.

Gắn liền những công việc chuẩn bị đi ngủ với việc phát triển tính độc
lập ngày càng cao ở các độ tuổi. Biến những thao tác chuẩn bị ngủ (cởi quần
áo, bít tất, chuẩn bị giường chiếu v.v…) thành những nhân tố tích cực kích
thích giấc ngủ.

Do sự khác biệt cá nhân, nên cho trẻ ngủ và thức dậy theo nhóm mà
không nên làm đồng loạt. Tốt nhất là rèn luyện cho trẻ tự mình thức dậy trong
vòng 30 – 45 phút.

Trường mẫu giáo cần phối hợp với gia đình để tổ chức cho trẻ ngủ buổi
tối ở gia đình được tốt. Giúp cho gia đình hiểu rõ các phương pháp đúng đắn
để tổ chức giấc ngủ cho trẻ. Không được cho trẻ dùng đồ uống kích thích
mạnh như chè, cà phê, không kể chuyện sợ hãi; không cho trẻ xem truyền
hình quá nhiều; cho trẻ ngủ đúng giờ trong trạng thái yên tĩnh.

d) Sự phát triển vận động


Giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo được thực hiện trong hai nhóm
phương tiện và phương pháp: nhóm thứ nhất về chế độ sinh hoạt hằng ngày
và nhóm thứ hai thuộc về các vận động của trẻ.

Vận động giữ vị trí quan trọng trong giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo.
Vận động làm cho các cơ bắp và toàn bộ cơ thể hoạt động, do đó tăng cường
hoạt động của các hệ hô hấp, hệ tuần hoàn, tăng cường sự trao đổi chất và
tăng cường sức khoẻ. Các vận động làm cơ sở chung cho mọi hoạt động. Sự
thành công và kết quả của mỗi hoạt động phụ thuộc vào cường độ, sự khéo
léo, nhịp nhàng của các vận động. Sự hoàn thiện các vận động còn có ý
nghĩa đối với sự phát triển tâm lí.

Sự phát triển vận động gắn chặt với sự phát triển toàn bộ cơ thể và tâm
lí của trẻ. Bởi vậy khi lập chương trình giáo dục thể chất nhằm phát triển vận
động cần dựa trên những cơ sở:

– Ưu tiên lựa chọn các bài tập, trò chơi vận động lao động có tác dụng
chung đến cơ thể và động viên nhiều cơ bắp tham gia.

− Chọn các bài tập, trò chơi gây hứng thú và đồng thời đặt ra trước trẻ
một nhiệm vụ vừa sức.

– Tăng cường các nhóm cơ bắp còn yếu về mặt sinh lí và giáo dục tư
thế đúng.

– Giáo dục kĩ năng hành động và vận động trong tập thể.

Sự phát triển vận động được thực hiện thông qua nhiều hình thức
phong phú phù hợp với đặc điểm phát triển của trẻ mẫu giáo như trò chơi vận
động, thể dục buổi sáng, tiết học thể dục, dạo chơi, các trò chơi thể thao, lao
động.

– Các trò chơi vận động, trò chơi thể thao là các hình thức hoạt động
hấp dẫn trẻ em và có tác động giáo dục nhiều vận động cơ bản và sự phối
hợp các vận động ấy. Các trò chơi vận động rất phong phú và đa dạng được
lựa chọn trong chương trình phù hợp với từng độ tuổi. Với trẻ mẫu giáo bé,
trò chơi bao gồm các vận động đơn giản kết hợp một cách khác nhau (đi,
chạy, nhảy thấp) với các luật chơi đơn giản. Với trẻ mẫu giáo nhỡ, lớn thì nội
dung vận động và luật chơi phức tạp hơn, đòi hỏi các em hiểu điều kiện chơi,
vận động chính xác và đúng luật chơi.

Thể dục buổi sáng với tiết học thể dục là các hình thức giáo dục thể
chất có mục đích, có kế hoạch và sự định hướng trong sự phát triển vận động
cho trẻ mẫu giáo. Các bài tập thể dục nhằm phát triển chung, các bài tập phát
triển các nhóm cơ, các bài tập phát triển các vận động cơ bản giúp trẻ từ mức
độ vận động tự do, rời rạc không định hướng tới mức độ thực hiện các vận
động một cách chủ động, phối hợp nhịp nhàng các động tác, giữ được sự cân
bằng cho cơ thể khi hoạt động là một bước tiến lớn lao.

Bài tập thể dục có tác động tốt đến hoạt động sinh lí của cơ thể. Cơ bắp
được vận động thích hợp sẽ tăng cường quá trình trao đổi chất, tăng cường
sự làm việc của các cơ quan bên trong của hệ tim mạch, hệ hô hấp chẳng
hạn, sẽ diễn ra trong các bài tập về tuần hoàn có hệ thống. Đặc biệt là sự làm
việc toàn vẹn của các tế bào thần kinh của não được tăng cường sẽ có tác
động trở lại đối với toàn bộ vận động và hoạt động của các cơ quan. Bởi vậy,
sự phát triển của vận động sẽ phục vụ cho những chỉ số phát triển chung về
tâm lí của trẻ.

Đi dạo của trẻ ở ngoài trời với không khí trong lành có tầm quan trọng
đối với việc phát triển thể lực của trẻ. Đi dạo là phương tiện rèn luyện thích
hợp nhất đối với cơ thể trẻ. Đi dạo giúp trẻ thích nghi với những biến đổi của
thời tiết và môi trường, giúp trẻ vận động nhiều làm tăng cường sự trao đổi
chất, giúp trẻ rèn luyện các phẩm chất linh hoạt, khéo léo, mạnh dạn và dẻo
dai hơn. Trẻ được rèn luyện các kĩ năng và kĩ xảo vận động, củng cố hệ cơ
và nâng cao trương lực sống.

Nội dung đi dạo rất phong phú. Có thể kết hợp trong giờ đi dạo các hoạt
động khác nhau như các trò chơi, học tập, lao động và phát triển ngôn ngữ.

Muốn đạt được hiệu quả cao, cô giáo cần làm các công tác chuẩn bị tất
cho các buổi đi dạo. Chuẩn bị về mặt tâm lí để gây hứng thú cho cuộc đi dạo.
Chuẩn bị cơ sở vật chất như quần áo, giày, dép, mũ, có phương tiện vui chơi
ngoài trời. Đặc biệt cần phải chuẩn bị về nội dung trong cả quá trình đi dạo để
hoạt động của trẻ được liên tục, hấp dẫn và vừa với sức trẻ.

Đi dạo cũng gắn liền với việc xây dựng sân trường của trường mẫu
giáo với những thiết bị cần thiết. Sân chơi phải được thiết kế phù hợp với các
yêu cầu sư phạm, vệ sinh và đáp ứng được các hoạt động đa dạng của trẻ
trong giờ đi dạo, hoạt động ngoài trời.

1.4. Phương tiện giáo dục thể chất cho trẻ lứa tuổi mầm non

Phương tiện giáo dục thể chất cho trẻ mầm non là tập hợp các đối
tượng vật chất và tinh thần được sử dụng trong quá trình nuôi dưỡng, chăm
sóc và rèn luyện thể chất cho trẻ nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục
thể chất cho trẻ. Phương tiện giáo dục thể chất cho trẻ tuổi mầm non rất đa
dạng và phong phú. Trong đó có những phương tiện cơ bản sau:

– Chế độ sinh hoạt hợp lí, phù hợp với từng độ tuổi. Đó là chế độ ăn,
ngủ, chơi tập, vệ sinh cá nhân, vệ sinh trường lớp… được sắp xếp một cách
khoa học sẽ nâng cao hiệu quả giáo dục thể chất nói riêng, giáo dục toàn diện
cho trẻ nói chung. Ví dụ: chế độ ăn uống điều độ và đủ chất sẽ ảnh hưởng
tích cực đến hoạt động tiêu hoá và đáp ứng kịp thời các chất dinh dưỡng cần
thiết cho các cơ quan, giúp cho cơ thể trẻ được tăng trưởng và phát triển tốt.
Giấc ngủ bình thường, hợp lí sẽ đảm bảo sự nghỉ ngơi và tăng khả năng làm
việc của hệ thần kinh.

− Môi trường thiên nhiên xung quanh trẻ. Ánh sáng, không khí và nước
là những yếu tố thiên nhiên rất cần thiết cho cơ thể con người. Tận dụng
được các yếu tố này trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ sẽ góp phần
nâng cao sức khoẻ và khả năng thích ứng của cơ thể đối với môi trường thiên
nhiên, nâng cao sức đề kháng và phòng ngừa bệnh tật cho trẻ.

+ Ánh sáng mặt trời chứa những tia tử ngoại được da hấp thụ để sản
sinh Vitamin D, làm tăng cường khả năng trao đổi chất của cơ thể, giúp
xương phát triển tốt, tăng khả năng làm việc của não.
+ Không khí trong lành có chứa nhiều hợp chất đặc biệt, có khả năng
tiêu diệt vi khuẩn, tăng lượng máu nhờ hấp thụ ô–xi. Cho trẻ tiếp xúc với môi
trường có tác dụng rèn luyện cơ thể, giúp cho cơ thể trẻ thích ứng được với
nhiệt độ môi trường luôn thay đổi. Nhờ đó mà trẻ tránh được những bệnh
cảm lạnh, cảm nắng…

+ Nước sạch không chỉ cần thiết cho việc ăn uống của con người mà
nó còn cần thiết giúp cho việc tắm rửa, vệ sinh cho con người, đặc biệt là trẻ
em. Khi tắm gội, nước giúp rửa sạch các vết bẩn trên da, làm giãn nở và lưu
thông mạch máu, nâng cao trương lực cơ và thúc đẩy chúng hoạt động tích
cực, làm hưng phấn hệ thần kinh, gây cảm giác sảng khoái.

Ngoài ánh sáng, không khí và nước, cây xanh cũng rất cần thiết cho cơ
thể trẻ trong quá trình trao đổi chất với môi trường.

– Các bài tập luyện, các hình thức tổ chức hoạt động, giúp cho trẻ phát
triển và hoàn thiện các vận động cơ bản như: lẫy, bò, ngồi, đi, chạy, cử động
của bàn tay, ngón tay… Đó là các bài tập xoa bóp, các bài tập phát triển
chung, các bài tập phát triển vận động và những trò chơi vận động dành cho
trẻ em từng độ tuổi.

2. Giáo dục trí tuệ cho trẻ em lứa tuổi mầm non
2.1. Khái niệm và ý nghĩa của giáo dục trí tuệ cho trẻ em lứa tuổi
mầm non

2.1.1. Khái niệm giáo dục trí tuệ

Giáo dục trí tuệ cho trẻ mầm non là một quá trình sư phạm được tổ
chức một cách đặc biệt nhằm hình thành những tri thức và kĩ năng sơ đẳng,
phát triển những năng lực và nhu cầu hoạt động trí tuệ cho trẻ em.

Ví dụ: Trong quá trình hoạt động với đồ vật, dưới sự hướng dẫn của
người lớn, trẻ nắm được các thuộc tính bên ngoài của đồ vật (màu sắc hình
dáng, âm thanh…), chức năng và cách sử dụng chúng và biểu đạt được bằng
ngôn ngữ của mình. Đó là tri thức và kĩ năng sơ đẳng về đồ vật mà trẻ tiếp
xúc.
Sự phát triển trí tuệ của trẻ em lứa tuổi mầm non được diễn ra thông
qua các hoạt động đa dạng: giao tiếp, hoạt động với đồ vật (ở lứa tuổi nhà
trẻ), hoạt động vui chơi (ở lứa tuổi mẫu giáo), đi dạo… và sinh hoạt hằng
ngày. Những tri thức mà trẻ tiếp nhận được trong cuộc sống hằng ngày
thường rời rạc, thiếu hệ thống. Sự phát triển trí tuệ có hiệu quả nhất được
diễn ra dưới tác động có tổ chức, có hệ thống của nhà giáo dục. Người ta gọi
đó là quá trình giáo dục trí tuệ.

2.1.2. Ý nghĩa của giáo dục trí tuệ cho trẻ em lứa tuổi mầm non

Giáo dục trí tuệ, đặc biệt là giáo dục và phát triển hoạt động nhận cảm
(cảm giác, tri giác), hoạt động tư duy, tưởng tượng cho trẻ em lứa tuổi mầm
non là điều rất quan trọng, vì đây là cơ hội vàng để rèn luyện các giác quan
cho trẻ, nếu bỏ lỡ cơ hội quý giá này sẽ gây ra hậu quả xấu cho việc phát
triển năng lực nhận cảm của trẻ ở những lứa tuổi tiếp theo. Việc tổ chức các
hoạt động đa dạng giúp trẻ không chỉ có những kinh nghiệm về cuộc sống
xung quanh, hiểu được ý nghĩa và một số tính chất của các sự vật hiện tượng
mà còn có khả năng sắp xếp – phân loại. Từ đó, trẻ có khả năng mở rộng sự
định hướng của mình trong môi trường xung quanh, tích cực khám phá
những điều mới lạ, hấp dẫn trong thế giới xung quanh.

Nhờ sự giúp đỡ của người lớn, kinh nghiệm xã hội của trẻ ngày càng
phong phú. Đó là những biểu tượng sơ đẳng về thiên nhiên, xã hội và mối
quan hệ giữa con người với con người, con người với thiên nhiên… Trên cơ
sở đó mà một vài phẩm chất trí tuệ sơ đẳng được hình thành như: óc quan
sát, năng lực phân biệt và khái quát các sự vật, hiện tượng…

Thực tiễn cho thấy, không được dạy dỗ một cách chu đáo thì những tri
thức mà trẻ có được chỉ mang tính rời rạc, không có tính hệ thống. Do vậy,
những biểu tượng về thế giới xung quanh của trẻ thường sai lệch. K. D.
Usinxki đã chỉ ra rằng: “Sự thông minh của trẻ chẳng qua là hệ thống tri thức
có tổ chức tốt, được người lớn hướng dẫn một cách có định hướng và có
mục đích”.
Giáo dục trí tuệ gắn liền với giáo dục đạo đức cho trẻ, vì người lớn
không chỉ truyền đạt và làm giàu biểu tượng về thế giới xung quanh cho trẻ,
mà còn sử dụng nó để giáo dục đạo đức, tình cảm cho trẻ thơ. Thông qua
những câu chuyện kể, những lời ru, chơi, tập… người lớn hướng cho trẻ biết
yêu cái thiện, không tranh giành đồ chơi với bạn, biết vâng lời người lớn, biết
giữ gìn đồ dùng, đồ chơi… và dần dần hiểu được thế nào là ngoan, không
ngoan, thế nào là tốt, không tốt…

Giáo dục trí tuệ còn góp phần quan trọng vào việc giáo dục thẩm mĩ
cho trẻ. Thông qua tiếp xúc với các loại hình nghệ thuật (những làn điệu dân
ca mượt mà, những điệu nhạc vui tươi, tranh ảnh hấp dẫn…), thông qua hoạt
động với đồ vật (ở lứa tuổi nhà trẻ), hoạt động tạo hình,… được sự hướng
dẫn, giúp đỡ của người lớn, đứa trẻ cảm thụ được cái đẹp từ đó khơi dậy
trong tâm hồn trẻ thơ những xúc cảm tình cảm trong sáng. Đây chính là nền
tảng để sau này trẻ biết nhìn nhận ra cái đẹp và tạo nên cái đẹp trong hoạt
động cá nhân cũng như trong đời sống thường ngày.

2.2. Nhiệm vụ, nội dung và phương pháp giáo dục trí tuệ cho trẻ
em lứa tuổi nhà trẻ

2.2.1. Nhiệm vụ

Các nhà tâm lí học trẻ em khẳng định rằng, ở lứa tuổi nhà trẻ, sự phát
triển tâm lí nói chung, trí tuệ nói riêng gắn liền với sự phát triển vận động của
trẻ. Do vậy, để phát triển trí tuệ cho trẻ lứa tuổi này cần:

– Hình thành và phát triển hoạt động nhận cảm (cảm giác, tri giác) cho
trẻ thông qua việc tổ chức các vận động, các hoạt động chơi – tập nhằm hình
thành ở trẻ các chuẩn cảm giác: màu sắc, mùi, vị…, đặc biệt là chuẩn cảm
giác màu sắc. Trên cơ sở đó, hình thành và phát triển khả năng định hướng
trong không gian cho trẻ (trên – dưới, trước – sau, cao – thấp…) bằng thị giác
và thính giác.

– Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua việc cung cấp vốn từ ngày
càng phong phú cho trẻ. Giúp trẻ thông hiểu ngôn ngữ một cách đơn giản và
tập diễn đạt bằng ngôn ngữ về nhu cầu, nguyện vọng của mình cho người
khác hiểu được.

− Hình thành những biểu tượng sơ đẳng về thế giới xung quanh và
phát triển năng lực tư duy trực quan hành động cho trẻ.

Những nhiệm vụ trên đây quan hệ mật thiết với nhau. Giải quyết tốt và
đầy đủ tất cả những nhiệm vụ này sẽ thúc đẩy tâm lí nói chung, trí tuệ nói
riêng của trẻ phát triển.

2.2.2. Nội dung và phương pháp giáo dục trí tuệ cho trẻ em lứa tuổi nhà
trẻ

a) Giáo dục và phát triển hoạt động nhận cảm cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ

* Ý nghĩa của việc giáo dục và phát triển hoạt động nhận cảm cho trẻ
lứa tuổi nhà trẻ.

Ở lứa tuổi nhà trẻ, tâm lí nói chung và trí tuệ nói riêng phát triển cực kì
nhanh chóng. Về phương diện trí tuệ, hoạt động nhận cảm là hoạt động
chiếm ưu thế, đánh dấu sự khôn lớn của trẻ. Thoạt đầu là những phản xạ
không điều kiện (cầm, nắm…) rồi đến phản xạ định hướng (đưa mắt về nơi có
ánh sáng chiếu tới, nín khóc khi nghe thấy tiếng mẹ…); từ cảm giác bất phân
đến cảm giác được phân định; từ những thao tác mang tính tình cờ khi cầm
nắm một đồ vật đúng tầm với đến việc hoạt động có đối tượng với đồ vật mà
nó thích, nó quen… là những dấu hiệu về sự phát triển trí tuệ của trẻ, ta có
thể quan sát được từng tháng, thậm chí từng tuần. Tất cả những bước phát
triển này không phải do sự tăng trưởng của cơ thể mang lại mà phần lớn là
do các kích thích từ bên ngoài tác động vào cơ quan nhận cảm, thúc đẩy trẻ
vận động, nhờ đó mà hoạt động nhận cảm của trẻ hình thành và phát triển.
Tốc độ phát triển vận động và tính tích cực trong hoạt động nhận cảm của trẻ
phụ thuộc rất lớn vào công tác chăm sóc – giáo dục của người lớn.

Nếu người lớn không chú ý hoặc bỏ qua giai đoạn phát triển quan trọng
này của trẻ thì vô hình chung ta đã bỏ qua một cơ hội vàng để phát triển trí
tuệ cho trẻ và khó có thể bù đắp lại được cho trẻ vào những giai đoạn sau.
Thực tế đã cho hay, một đứa trẻ mà các giác quan của nó kém tinh tường,
khả năng vận động kém (chậm chạp, yếu ớt…) thường là những đứa trẻ
chậm phát triển trí tuệ.

Các nhà giáo dục học Xô Viết cho rằng, ngay từ khi mới sinh ra đứa trẻ
đã có các giác quan tương đối hoàn chỉnh, nhưng bản thân đứa trẻ không có
khả năng tri giác các đồ vật và hiện tượng xung quanh nó. Việc hình thành tri
giác cho trẻ nhỏ là quá trình người lớn truyền thụ cho trẻ kinh nghiệm xã hội
lịch sử một cách vô tình, ngẫu nhiên hoặc bằng dạy học. Nếu quá trình truyền
thụ kinh nghiệm cho trẻ có sự hướng dẫn có chủ định của người lớn sẽ đảm
bảo và tạo điều kiện cho sự phát triển của trẻ có hiệu quả hơn; khắc phục
được tình trạng rời rạc, thiếu hệ thống và sai lệch trong các biểu tượng về thế
giới xung quanh của trẻ.

Mặt khác, nhận thức cảm tính (cảm giác, tri giác) là cơ sở của nhận
thức lí tính (tư duy, tưởng tượng). Nói như cách nói của Lênin: Các cảm giác
là những viên gạch đầu tiên xây lên lâu đài nhận thức. Các nhà tâm lí học trẻ
em khẳng định rằng, sự phát triển tư duy nói riêng và trí tuệ nói chung phụ
thuộc rất lớn vào năng lực nhận cảm của trẻ.

Như vậy, ta có thể khẳng định rằng, giáo dục và phát triển hoạt động
nhận cảm cho trẻ em lứa tuổi nhà trẻ là cực kì quan trọng trong việc giáo dục
trí tuệ nói riêng và giáo dục toàn diện cho trẻ nói chung.

* Nội dung, phương pháp giáo dục và phát triển hoạt động nhận cảm
cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ

Căn cứ vào đặc điểm phát triển của trẻ trong từng độ tuổi, người ta xác
định nội dung chủ yếu của việc giáo dục và phát triển hoạt động nhận cảm
cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ như sau:

- Trong năm đầu:

+ Phát triển và giáo dục nhận cảm vận động (thông qua phát triển các
vận động: lẫy, bò, ngồi, tập đi…) và các cử động của bàn tay, ngón tay.

+ Phát triển xúc giác (cảm giác da), thị giác, thính giác.
+ Luyện tập cho trẻ biết phối hợp thị giác, thính giác với vận động.

- Trong năm thứ hai và năm thứ ba.

+ Hình thành và phát triển năng lực nhận cảm như phân biệt được độ
lớn, màu sắc, hình dáng, âm thanh của đồ vật, vị trí không gian của đồ vật so
với các đồ vật khác.

+ Tiếp tục phát triển cảm giác vận động thông qua việc tổ chức cho trẻ:
bò, trườn, chạy, nhảy và rèn luyện sự linh hoạt và khéo léo của đôi bàn tay.

+ Hình thành “chuẩn nhận cảm” (màu sắc, mùi, vị…), khả năng định
hướng không gian (trước – sau, trên – dưới, trong – ngoài, cao – thấp…) và
khả năng định hướng thời gian (trong ngày: sáng, trưa, chiều, tối; hôm qua,
hôm nay; trong tuần).

Những nội dung giáo dục trên đây cần được tiến hành thông qua việc
tổ chức các hoạt động đa dạng, phù hợp với lứa tuổi cho trẻ. Dưới đây là một
số con đường giáo dục và phát triển nhận cảm cơ bản cho trẻ:

– Tổ chức hoạt động giao lưu giao tiếp giữa trẻ với những người xung
quanh. Chúng ta biết rằng, ngay từ khi sinh ra, giao tiếp đã trở thành nhu cầu
thiết yếu đối với trẻ. Thoạt đầu là giao tiếp xúc cảm rồi giao tiếp bằng lời (lúc
đầu là kết hợp giữa lời nói với cử chỉ, hành động, sau đó chủ yếu bằng lời) là
con đường cơ bản phát triển hoạt động nhận cảm cho trẻ (phát triển thị giác,
thính giác, khả năng định hướng không gian, thời gian…).

− Tổ chức hoạt động với đồ vật cho trẻ trong các giờ chơi tập, chơi tự
do… Thông qua hoạt động với đồ vật, được sự tổ chức hướng dẫn của người
lớn, đứa trẻ nhận ra được các thuộc tính bề ngoài của sự vật, hiện tượng
khách quan: hình dáng, màu sắc, tên gọi, âm thanh và vị trí không gian của
vật này so với vật kia… Nhờ đó, trẻ có được biểu tượng đầy đủ hơn về đồ
vật, hiện tượng.

– Tổ chức cho trẻ thực hiện các bài luyện tập giác quan nhằm phát triển
cảm giác, tri giác, vận động cho trẻ.
Trong quá trình giáo dục và phát triển hoạt động nhận cảm cho trẻ, đồ
dùng, đồ chơi… đặc biệt là sự tổ chức, hướng dẫn của người lớn giữ vai trò
quan trọng. Người lớn, cô nuôi dạy trẻ cần chọn đồ chơi, đồ vật phù hợp để
hướng dẫn và cùng chơi với trẻ (khi cần thiết). Khi trẻ hoạt động với đồ vật,
người lớn không chỉ giúp trẻ nắm được các thuộc tính bề ngoài của chúng
(màu sắc, hình dáng, kích thước, âm thanh…) mà cần giúp trẻ hiểu được cả
chức năng sử dụng chúng trong sinh hoạt hằng ngày. Điều quan trọng ở đây
là, người lớn phải kích thích trẻ hoạt động, tạo điều kiện cho trẻ hoạt động,
gây hứng thú để trẻ có nhu cầu hoạt động, nhu cầu “khám phá” những “bí ẩn”
của đồ dùng, đồ chơi. Quan sát đứa trẻ 2 – 3 tuổi, ta thấy, trẻ rất thích thú khi
tìm ra được công dụng của nhiều đồ dùng trong nhà: thìa để xúc cơm, cốc để
uống nước…

Mặt khác, khi hướng dẫn trẻ luyện các giác quan, cần tập cho trẻ biết
cách quan sát và nhận ra đồ vật, phân biệt vật này với vật kia theo một dấu
hiệu nào đó (màu sắc, hình dáng, âm thanh…), cho trẻ được trực tiếp thao
tác với đồ vật (không làm thay trẻ), hướng dẫn bằng lời kèm theo minh hoạ,
làm mẫu để trẻ bắt chước. Nếu trẻ chưa tự thao tác được, người lớn cần
cùng làm với trẻ; cần làm giàu vốn sống của trẻ bằng cách cho trẻ tham gia
nhiều vào việc nghe, nhìn, ngửi, nếm, sờ mó, cầm nắm…

b) Phát triển ngôn ngữ cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ

* Ý nghĩa của việc phát triển ngôn ngữ đối với việc giáo dục trí tuệ cho
trẻ.

Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp, phương tiện nhận thức thế giới
xung quanh của con người. Mặt khác, sự phát triển ngôn ngữ là một dấu hiệu
của sự phát triển trí tuệ.

Đối với trẻ nhỏ, giao tiếp bằng ngôn ngữ với những người xung quanh
là một nhu cầu bức thiết và được nảy sinh từ rất sớm. Nếu người lớn không
đáp ứng kịp thời sẽ khó hình thành tính tích cực giao tiếp bằng ngôn ngữ ở
trẻ. Thoạt đầu là những tập hợp âm gừ, gừ, âu ơ… chưa thành tiếng ở đứa
trẻ. Nếu người lớn bắt chước những âm thanh đó, thì đứa trẻ sẽ tiếp tục lặp
lại, và đứa trẻ nhận ra rằng, những âm thanh nó phát ra được người lớn đáp
lại, trẻ trở nên thích thú và mong muốn được giao tiếp với người lớn. Trong
quá trình giao lưu giao tiếp bằng ngôn ngữ với người lớn, đứa trẻ tiếp nhận
được ngôn ngữ mà người lớn thường giao tiếp với nó. Đến cuối năm đầu, khi
mà cơ quan phát âm đã phát triển, đứa trẻ bắt đầu bập bẹ những từ đầu tiên
(thường chưa chuẩn, câu một từ, hai từ kèm theo cử chỉ) để thể hiện mong
muốn của mình. Người lớn đáp ứng kịp thời (phản ứng bằng ngôn ngữ kèm
những cử chỉ, việc làm) nhằm thoả mãn nhu cầu của trẻ. Khi đó đứa trẻ nhận
ra rằng, ngôn ngữ là một phương tiện để giao tiếp với người lớn, và trẻ tích
cực giao tiếp với người lớn bằng ngôn ngữ. Vì thế, việc phát triển ngôn ngữ
cho trẻ kịp thời là một nhiệm vụ quan trọng của giáo dục trí tuệ cho trẻ ở lứa
tuổi nhà trẻ.

Ngôn ngữ phát triển kéo theo năng lực định hướng trong môi trường
xung quanh được phát triển. Trong cuộc sống và hoạt động, nhờ giao tiếp với
người lớn, trẻ không chỉ nắm được tên gọi của đồ vật mà còn nắm được vị trí
không gian của nó so với các vật khác, trình tự thời gian (trước, sau) của sự
vật, hiện tượng…

Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ dưới ba tuổi còn liên quan chặt chẽ đến
sự phát triển tư duy trực quan hành động, sự chú ý, trí nhớ của trẻ. Khi tiếp
xúc với đồ vật xung quanh cũng như khi giao tiếp với người lớn, trẻ bắt đầu
phân biệt và khái quát những dấu hiệu đặc trưng, riêng biệt của các đồ vật.
Sự chú ý, trí nhớ của trẻ lứa tuổi này thường là không chủ định. Thông qua
chơi – tập và các hoạt động giáo dục khác mà chú ý có chủ định, ghi nhớ có
chủ định được hình thành.

Thực tiễn cho thấy, nếu ở lứa tuổi nhà trẻ mà đứa trẻ bị hạn chế giao
tiếp với người lớn hoặc người lớn không quan tâm một cách đúng mức đến
việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ thì không những ngôn ngữ của trẻ kém phát
triển mà các mặt khác cũng bị trì trệ.
Như vậy, giáo dục trẻ em lứa tuổi nhà trẻ mà không chú ý đến việc phát
triển ngôn ngữ cho trẻ là một thiếu sót lớn, vì đã bỏ lỡ một thời cơ để phát
triển trí tuệ nói riêng và phát triển toàn diện cho trẻ nói chung.

* Nội dung và phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ

Căn cứ vào sự tăng trưởng và phát triển của trẻ trong 3 năm đầu,
người ta xác định nội dung chủ yếu cua việc phát triển ngôn ngữ của trẻ em
lứa tuổi nhà trẻ như sau:

– Trong năm đầu:

+ Hình thành và phát triển nhu cầu giao tiếp bằng ngôn ngữ cho trẻ.

+ Tập cho trẻ nghe và phát âm những từ quen thuộc (đơn giản); dạy trẻ
nói được một số từ và làm được một số động tác đơn giản theo lời nói của
người lớn.

– Trong năm thứ hai và năm thứ ba:

+ Củng cố và nâng cao nhu cầu giao tiếp bằng ngôn ngữ cho trẻ.

+ Phát triển vốn từ, giúp trẻ hiểu và làm theo lời nói của người khác;
dạy trẻ biết diễn đạt được ý muốn của mình bằng những câu đơn giản.

Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ nhỏ được biểu hiện ở hai mặt cơ bản:
một là hiểu được lời nói của người khác, hai là nói cho người khác hiểu ý
mình.

Về hiểu lời nói của người khác, thì lúc đầu trẻ chỉ hiểu lời nói trong
chính hoàn cảnh giao tiếp. Nghĩa là trẻ chỉ hiểu được lời nói thể hiện sự vật
hay hiện tượng nào đó khi chính sự vật, hiện tượng đó xảy ra trước mắt. Ví
dụ: muốn hiểu được từ “cái ca” thì phải có trước mặt một cái ca hoặc một bức
tranh vẽ cái ca. Lúc đó, trẻ tìm được mối liên hệ giữa lời nói với sự vật, hiện
tượng xung quanh, tức là hiểu được lời nói. Tương tự như vậy, trẻ chỉ phản
ánh đúng lời nói của những người xung quanh nếu các từ ngữ được lặp lại
nhiều lần cùng với những cử chỉ tương ứng. Ví dụ: khi người lớn nói “bắt tay
nào” thì đồng thời người lớn cũng phải đưa tay ra bắt lấy tay trẻ. Làm như
vậy, trẻ sẽ nhanh chóng hành động đáp lại lời nói. Vì lúc đó, trẻ không những
chỉ phản ứng với từ ngữ mà còn đối với toàn bộ tình huống nói chung. Nghĩa
là lời nói phải gắn liền với hoàn cảnh giao tiếp thì mới tạo thành tín hiệu hành
động. Do đó, muốn trẻ hiểu được nội dung lời nói của người lớn thì cần phải
tạo ra tình huống cụ thể.

Nói cho người khác hiểu ý mình là một bước phát triển mới về ngôn
ngữ, trí tuệ của trẻ. Điều này diễn ra khi đứa trẻ hiểu được ngôn ngữ của
người khác không cần kèm theo tình huống cụ thể; làm theo lời chỉ dẫn của
người lớn trong những tình huống khác nhau. Nghĩa là vốn từ của trẻ đã khá
phong phú, nhu cầu diễn đạt bằng lời mong muốn, ý nghĩ của mình cho người
khác hiểu được bộc lộ và phát triển. Thoạt đầu là những câu gồm một từ kèm
theo cử chỉ diễn ra trong một tâm cảnh cụ thể, chỉ người thường xuyên tiếp
xúc với trẻ mới hiểu được (mẹ, cô giáo, người giúp việc…). Sau đó là những
câu hỏi gồm 2, 3 từ, rồi câu đầy đủ (đúng ngữ pháp) người nào cũng hiểu
được trẻ muốn gì.

Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở tuổi nhà trẻ, người lớn cần:

− Hình thành và phát triển nhu cầu giao tiếp bằng ngôn ngữ cho trẻ
càng sớm càng tốt.

– Thường xuyên gần gũi, nói chuyện âu yếm với trẻ (ngay cả khi trẻ
chưa biết nói). Trong quá trình âu yếm, trò chuyện với trẻ, qua vành môi, ánh
mắt, cử chỉ âu yếm của người lớn, đứa trẻ thông hiểu ngôn ngữ của người
lớn. Trên cơ sở đó, trẻ dần dần phát âm thành từ, thành tiếng. Lúc này, người
lớn cần tạo điều kiện cho trẻ tập nói, và tận dụng mọi cơ hội (khi trẻ ăn, khi
cho trẻ đi dạo, khi chơi – tập…) để dạy trẻ nói và mở rộng vốn từ cho trẻ.

− Tổ chức các hoạt động với đồ vật, tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với
người lớn để trẻ có dịp được nói, được nghe và hiểu khi người khác nói.

– Trong hoạt động cũng như sinh hoạt cuộc sống, điều gì trẻ đã biết
nên hỏi trẻ để trẻ tự trả lời. Khi trẻ không trả lời được người lớn nói cho trẻ
nhắc lại. Khi trẻ muốn gì người lớn yêu cầu trẻ nói, nếu trẻ chưa nói được thì
người lớn nói cho trẻ nghe.

– Tập cho trẻ nói rõ ràng, mạch lạc. Nếu trẻ nói lắp hay nói ngọng thì
cần phải uốn nắn kịp thời. Không nên bắt trẻ nói những câu quá dài và cũng
không nên bắt trẻ nói quá nhiều lần một câu.

− Trong sinh hoạt hằng ngày, người lớn cần nói những câu thanh lịch,
có hình ảnh để trẻ bắt chước như: nói đúng từ, đúng câu, rõ ý, không nói
trống không; lời nói có âm điệu, có hình ảnh…

Tóm lại, đối với trẻ em lứa tuổi nhà trẻ, nhất là từ 2 đến 3 tuổi là thời kì
quan trọng để dạy trẻ nói. Người lớn cần phải nắm lấy cơ hội này để dạy trẻ
nói sao cho hiệu quả nhất. Không chỉ dạy trẻ phát âm đúng mà còn dạy trẻ
những lời nói đẹp, biết chào hỏi, xin lỗi… Qua đó dạy trẻ cách ứng xử với mọi
người xung quanh.

c) Hình thành biểu tượng sơ đẳng về thế giới xung quanh và phát triển
năng lực tư duy trực quan hành động cho trẻ

Trong quá trình tổ chức các hoạt động và giao tiếp với trẻ, giáo viên
cần từng bước hình thành cho trẻ những biểu tượng sơ đẳng về một số đồ
vật, hiện tượng thiên nhiên, xã hội xung quanh trẻ (tên gọi, đặc điểm đặc
trưng của nó…). Ví dụ: khi tổ chức cho trẻ quan sát con thỏ, cô hướng dẫn trẻ
biết tên gọi của nó và đặc điểm đặc trưng của nó như có đôi tai dài, mắt đỏ…;
khi tổ chức cho trẻ quan sát đoàn tàu hoả,cô hướng dẫn trẻ biết gọi tên, biết
đoàn tàu hoả có nhiều toa, còi kêu tu tu, chạy kêu xình xịch…

Trong quá trình tổ chức cho trẻ tham gia vào các hoạt động, đặc biệt là
hoạt động với đồ vật, cô cần đưa ra những tình huống, nhiệm vụ nhận thức
và kích thích trẻ thực hiện các thao tác, hành động phù hợp để giải quyết tình
huống, nhiệm vụ mà cô đặt ra, qua đó tư duy trực quan hành động của trẻ
phát triển.

2.3. Nhiệm vụ, nội dung và phương pháp giáo dục trí tuệ cho trẻ
em lứa tuổi mẫu giáo
2.3.1. Nhiệm vụ

a) Hình thành cho trẻ những biểu tượng sơ đẳng về cuộc sống xung
quanh và về bản thân

Nhiệm vụ đầu tiên của trí dục là giúp trẻ tiếp xúc và khám phá thế giới
hiện thực để có được hình ảnh chung về thế giới tự nhiên, xã hội, con người;
hình thành những biểu tượng đúng đắn về thế giới xung quanh, trên cơ sở đó
hình thành thái độ đúng đắn đối với cuộc sống xung quanh.

Nhiệm vụ của giáo viên là thường xuyên tăng cường vốn tri thức cho
trẻ, sắp xếp, giải thích và hệ thống hoá các tri thức đó. Giúp trẻ có những biểu
tượng sơ đẳng về sự vật xung quanh, chức năng và một số phẩm chất của
chúng (màu sắc, kích thước, hình dạng, tính chất vật liệu: dễ vỡ, dễ gãy, dễ
nặn, v.v…). Trẻ cũng cần tiếp thu tri thức về một số hiện tượng tự nhiên, nắm
được mối liên hệ và quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng mang tính quy luật
và những nguyên nhân gần gũi (dấu hiệu đặc trưng các mùa trong năm, mối
liên hệ giữa cấu tạo và hành vi của động vật với môi trường sống của nó…).
Cũng cần giới thiệu cho trẻ về một số hiện tượng và sự kiện trong xã hội; về
lao động của người lớn; về đất nước, thủ đô, lãnh tụ, các dân tộc, các ngày
hội, ngày lễ.

b) Phát triển các quá trình tâm lí nhận thức

Nhiệm vụ quan trọng của trí dục là phát triển các quá trình tâm lí nhận
thức: cảm giác, tri giác, ghi nhớ, tưởng tượng, tư duy và phát triển ngôn ngữ.

Nhận thức thế giới bắt đầu từ cảm giác và tri giác. Ở tuổi mẫu giáo, các
quá trình đó có ý nghĩa rất quan trọng giúp trẻ nhận thức hiện thực xung
quanh. Trường mầm non cần chú ý đặc biệt đến việc giáo dục cảm giác thông
qua việc tổ chức cho trẻ quan sát sự vật, hiện tượng, qua tổ chức các hoạt
động ở trường mầm non.

Hình thành ở trẻ năng lực ghi nhớ có ý thức, tăng khối lượng ghi nhớ,
rèn luyện ghi nhớ có chủ định ở trẻ.
Phát triển trí tưởng tượng. Thời kì đầu, ở trẻ mẫu giáo chỉ có tưởng
tượng tái tạo. Trên cơ sở đó, cùng với sự tích luỹ kinh nghiệm sống và phát
triển tư duy mà hình thành năng lực tưởng tượng sáng tạo.

Phát triển ở trẻ tư duy trực quan – hành động, tư duy trực quan – hình
tượng và tiến tới phát triển tư duy lôgic, tư duy khái niệm ở tuổi mẫu giáo.

Cùng với các quá trình nhận thức, sự phát triển ngôn ngữ là nhiệm vụ
rất quan trọng. Ngôn ngữ là phương tiện của tư duy, của giao tiếp. Việc nắm
được ngôn ngữ tạo ra khả năng nắm tri thức một các gián tiếp (thông qua kể
chuyện, giải thích của giáo viên, các tác phẩm nghệ thuật v.v…) mà không
phải chỉ bằng con đường tri giác trực tiếp các sự vật và hiện tượng. Nhiệm vụ
của trường mầm non là phát triển ngôn ngữ ở trẻ, làm phong phú vốn từ, hình
thành hệ thống ngữ pháp, biết đặt câu, phát triển ngôn ngữ nói mạch lạc.

c) Phát triển lòng ham hiểu biết và năng lực trí tuệ

Lòng ham hiểu biết là phẩm chất vốn có của trẻ em, nó biểu hiện ở tính
tích cực khám phá và nhận thức thế giới xung quanh, nhu cầu muốn xem xét,
sờ mó và hành động. Những câu hỏi trẻ luôn đặt ra chứng tỏ lòng ham hiểu
biết của trẻ đang phát triển

Giáo viên mầm non phải biết khích lệ lòng ham hiểu biết đó của trẻ mẫu
giáo bằng cách tổ chức cho trẻ quan sát, cố gắng trả lời kịp thời những thắc
mắc, hướng trẻ vào việc tự tìm ra câu trả lời. Nhiệm vụ của trí dục là phát
triển lòng ham hiểu biết, óc tò mò của trẻ em và dựa trên cơ sở đó hình thành
hứng thú nhận thức bền vững.

Năng lực trí tuệ của con người biểu hiện ở những dấu hiệu sau đây:

+ Sự nhanh trí (phản ứng trí tuệ nhanh).

+ Có khả năng nhận xét, đánh giá các sự vật, hiện tượng gần gũi xung
quanh một cách đúng đắn.

+ Tính tò mò.
+ Khả năng sử dụng các cách khác nhau để tìm lời giải đáp đúng, để
giải quyết một nhiệm vụ trí tuệ.

Giáo dục trí tuệ có nhiệm vụ phát triển các kĩ năng, kỹ xảo hoạt động trí
tuệ, nghĩa là hình thành các phương pháp đơn giản của hoạt động trí tuệ như:

+ Quan sát các sự vật và hiện tượng.

+ Phân biệt các dấu hiệu cơ bản và không cơ bản, so sánh với các sự
vật khác.

+ Phân tích và tổng hợp các sự vật, hiện tượng v.v…

Các kĩ năng này là các thành phần tạo thành hoạt động nhận thức,
chúng giúp trẻ nắm vững tri thức.

2.3.2. Nội dung và phương pháp giáo dục trí tuệ cho trẻ em lứa tuổi
mẫu giáo

Nội dung của giáo dục trí tuệ cho trẻ em lứa tuổi mẫu giáo trước hết
được hiểu là sự hình thành. Ở trẻ em những tri thức sơ đẳng gần gũi về các
đối tượng và các hiện tượng xung quanh (của đời sống xã hội, của giới tự
nhiên vô sinh và hữu sinh…) và năng lực hoạt động trí tuệ nhất định.

a) Nội dung, phương pháp hình thành và phát triển những tri thức về
các đối tượng và hiện tượng xung quanh

Những tri thức sơ đẳng cần hình thành và phát triển cho trẻ mẫu giáo
gồm:

– Những biểu tượng sơ đẳng về các đồ vật trong cuộc sống sinh hoạt
gần gũi (ở gia đình, trường mầm non), cô giáo dạy trẻ biết được tên gọi, tính
chất, chức năng, cách sử dụng những đồ vật quen thuộc đó.

− Những biểu tượng sơ đẳng về các hiện tượng tự nhiên như thời tiết
khí hậu, các hiện tượng mưa, gió, sấm sét…

– Những biểu tượng sơ đẳng về thực vật, động vật: Cần dạy trẻ biết tên
gọi, đặc điểm, cấu tạo tác dụng của chúng và cách chăm sóc chúng, mối
quan hệ của chúng với các sự vật, hiện tượng xung quanh.
– Những biểu tượng sơ đẳng về các sự kiện, các hiện tượng xã hội mà
trẻ có thể hiểu được như, lao động của người lớn xung quanh, các phương
tiện giao thông và về những ngày hội, ngày lễ, các công trình văn hoá, các di
tích lịch sử của địa phương, của đất nước, về thủ đô, về các miền của đất
nước, về lãnh tụ, về quốc kì, quốc ca…

– Cùng với việc hình thành và phát triển ở trẻ những biểu tượng về thế
giới xung quanh, giáo viên mầm non cần hình thành những biểu tượng toán
học sơ đẳng cho trẻ, giúp trẻ xác định được những mối quan hệ, những thuộc
tính của chúng về số lượng, kích thước, hình dạng, vị trí của chúng trong
không gian, cụ thể:

+ Hình thành cho trẻ những biểu tượng về tập hợp và số lượng trong
phạm vi 10, phân biệt sự khác nhau về số lượng giữa các nhóm đối tượng.

+ Hình thành cho trẻ những biểu tượng về kích thước: to, nhỏ, dài,
ngắn, rộng, hẹp của đồ vật.

+ Hình thành những biểu tượng về hình dạng: tròn, vuông, chữ nhật,
tam giác, khối vuông, khối cầu, khối trụ…

+ Hình thành cho trẻ những biểu tượng về định hướng trong không
gian.

Những biểu tượng phong phú đã nêu ở trên được hình thành và phát
triển thông qua các hoạt động đa dạng, đặc biệt là thông qua hoạt động cho
trẻ khám phá môi trường xung quanh, làm quen với các biểu tượng toán học:

Các nhà giáo dục học Macxit khẳng đình rằng, sự phát triển trí tuệ của
trẻ phụ thuộc vào tính chất của tri thức mà trẻ lĩnh hội. Trong quá trình nhận
thức, những tri thức về các thuộc tính bên ngoài của sự vật hiện tượng, trẻ có
thể sử dụng tri giác là nhận thức được (nhận thức cảm tính). Song với những
tri thức về các mối liên hệ, quan hệ bên trong của sự vật, hiện tượng cũng
như các tri thức về các nguyên nhân sơ đẳng của sự vật, hiện tượng thì bắt
buộc trẻ phải sử dụng tư duy, tưởng tượng. Bởi vậy, muốn phát triển tư duy
và hoạt động trí tuệ cần thiết kế trong nội dung các hoạt động có những tri
thức về mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng (Ví như mối liên hệ giữa hình
thức bên ngoài của đồ vật với công dụng của chúng, giữa hình thức bên
ngoài với chức năng của đồ vật; mối liên hệ giữa hình thức tạo hình hay xây
dựng với công dụng, mối quan hệ giữa các thông số của vận động (độ dài
đường đi, thời gian và tốc độ). Cũng như vậy, có thể giúp trẻ nắm được mối
liên hệ nhân – quả của sự vật, hiện tượng thông qua các hoạt động đối tượng
– cảm tính (Ví dụ: mối quan hệ giữa cấu tạo của động vật với môi trường
sống: vây, đuôi của cá để bơi trong nước).

b) Nội dung, phương pháp hình thành và phát triển năng lực hoạt động
trí tuệ cho trẻ mẫu giáo

Những năng lực trí tuệ chủ yếu cần hình thành và phát triển cho trẻ
mẫu giáo gồm: năng lực quan sát, phân tích, so sánh, khái quát hoá, suy
luận… và năng lực vận dụng tri thức đã biết vào cuộc sống muôn hình, muôn
vẻ. Dưới đây là những nội dung và phương pháp cụ thể:

− Bồi dưỡng năng lực quan sát các sự vật, hiện tượng xung quanh. Cô
giáo cần dạy cho các em biết quan sát những hiện tượng tự nhiên, những sự
biến đổi trong tự nhiên, những biến đổi trong cuộc sống xã hội v.v…

– Phát triển năng lực phân tích đối tượng trong quá trình quan sát
chúng. Để giúp trẻ có biểu tượng về sự vật, hiện tượng, cô giáo không chỉ
hướng dẫn trẻ biết gọi tên sự vật, hiện tượng mà cần hướng dẫn trẻ nhận biết
các dấu hiệu bề ngoài của sự vật, hiện tượng (màu sắc, hình dạng, mùi vị, âm
thanh hay tính chất của nó). Nghĩa là hướng dẫn trẻ biết phân tích sự vật,
hiện tượng dựa trên những dấu hiệu mà trẻ quan sát được. Hoạt động phân
tích là điều kiện quan trọng để hình thành biểu tượng về sự vật, hiện tượng
và là cơ sở để so sánh, khái quát hoá sự vật, hiện tượng.

– Phát triển năng lực so sánh trong quá trình nhận thức các sự vật hiện
tượng. Khi tổ chức hoạt động nhận thức cho trẻ, cô giáo không chỉ hướng
dẫn trẻ quan sát, phân tích các dấu hiệu đặc trưng của sự vật, hiện tượng mà
cần hướng dẫn trẻ so sánh, phát hiện sự giống nhau, khác nhau của các sự
vật, hiện tượng dựa trên một vài dấu hiệu đặc trưng nào đó. Ví dụ: con thỏ và
con mèo khác nhau ở đôi tai và cái đuôi (tai thỏ dài, tai mèo ngắn; đuôi thỏ
ngắn, đuôi mèo dài); con gà khác con vịt (chân vịt có màng, chân gà thì
không)… Phát triển năng lực so sánh, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình
phát triển trí tuệ cho trẻ. Một mặt nó giúp cho sự phân tích đối tượng được
sâu sắc hơn, mặt khác nó tạo cơ sở cho quá trình khái quát hoá các sự vật,
hiện tượng thành nhóm, loại một cách hợp lí.

– Phát triển năng lực khái quát hoá trong quá trình nhận thức các sự
vật, hiện tượng. Khái quát hoá là quá trình hợp nhất các sự vật, hiện tượng
thành nhóm, loại dựa trên một số dấu hiệu đặc trưng nào đó. Do vậy, để phát
triển năng lực khái quát hoá cho trẻ, chúng ta phải thường xuyên hướng dẫn
trẻ dựa trên một vài dấu hiệu đặc trưng của sự vật, hiện tượng để phân loại,
xếp chúng thành từng nhóm, loại. Ví dụ: dựa vào số chân, trẻ xếp con gà, con
vịt, con ngan vào một nhóm (con vật có 2 chân); con chó, con mèo, con lợn
vào một nhóm (con vật có 4 chân).

– Phát triển óc suy luận cho trẻ trong quá trình nhận thức các sự vật
hiện tượng. Cô giáo hướng dẫn trẻ dựa trên những cơ sở thực tiễn, mối quan
hệ giữa các sự vật, hiện tượng để suy luận về những điều có thể xảy ra. Ví
dụ: Cô giáo hướng dẫn trẻ hiểu được cây xanh muốn sống được và trở nên
xanh tốt thì phải thường xuyên tưới nước, chăm bón cho cây. Hiểu được điều
đó, trẻ có thể suy luận: nếu ta không chăm bón và tưới nước cho cây thì cây
sẽ chết. Cần lưu ý rằng, nhiều trẻ có lối suy luận kiểu suy diễn ngây ngô, đó là
suy diễn không dựa trên mối quan hệ lôgic của các sự vật, hiện tượng. Ví dụ:
Trẻ thấy vịt con biết bơi, nghĩ rằng, gà con cũng biết bơi, đem gà con thả
xuống nước để xem gà bơi; đập vỡ quả trứng để lấy gà con vì trẻ suy luận
rằng, gà con sinh ra từ quả trứng… Gặp những lối suy luận như vậy, cần giải
thích cho trẻ hiểu dựa trên mối quan hệ đặc trưng của sự vật, hiện tượng (ví
dụ: cô giải thích cho trẻ hiểu gà con không bơi được vì chân nó không có
màng như vịt con).
− Bồi dưỡng năng lực định hướng và áp dụng tri thức, kĩ năng đã biết
vào cuộc sống muôn hình,muôn vẻ. Cần giáo dục cho các em, ngay từ lúc
nhỏ tuổi nhất, năng lực áp dụng tri thức, kĩ năng đã biết vào cuộc sống. Cần
khuyến khích trẻ tự giải quyết những nhiệm vụ trong cuộc sống, những nhiệm
vụ nảy sinh trong quá trình vui chơi và các hoạt động khác.

Mặt khác, những công tác thực hành của trẻ như trực nhật, làm việc
trong góc thiên nhiên, hoạt động trong các góc đòi hỏi phải được trẻ thông
hiểu, phải nỗ lực trí tuệ để giải quyết nhiệm vụ.

2.4. Phương tiện giáo dục trí tuệ cho trẻ em lứa tuổi mầm non

Chúng ta biết rằng, trí tuệ của trẻ được phát triển thông qua việc người
lớn tổ chức cho trẻ tham gia vào các hoạt động đa dạng, phù hợp với trẻ. Nói
cách khác, hoạt động vừa là con đường, vừa là phương tiện để giáo dục trí
tuệ cho trẻ. Do vậy, việc giáo dục trí tuệ cho trẻ lứa tuổi mầm non được tiến
hành và thực hiện thông qua các phương tiện cơ bản sau:

2.4.1. Phương tiện giáo dục trí tuệ cho trẻ em lứa tuổi nhà trẻ

Ở lứa tuổi nhà trẻ, các phương tiện chủ yếu để giáo dục trí tuệ gồm:

– Chơi – tập hay còn gọi là “tiết học – trò chơi”.

− Chơi tự do với đồ vật, đồ chơi (vào đầu giờ sáng, thời gian đón trẻ,
sau khi ngủ dậy, cuối giờ chiều – thời gian trả trẻ…).

– Hoạt động khác trong ngày (đi dạo, khi ăn, khi mặc quần áo, khi vệ
sinh cá nhân) của trẻ được sự tổ chức, hướng dẫn của người lớn.

– Ngôn ngữ cũng là phương tiện quan trọng để giáo dục trí tuệ cho trẻ.

Trong những phương tiện kể trên thì các giờ chơi – tập với đồ vật, đồ
chơi có sự hướng dẫn của người lớn giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong
việc giáo dục trí tuệ cho trẻ. Những gì trẻ lãnh hội được trên những giờ chơi –
tập sẽ tiếp tục được củng cố trong các giờ chơi tự do với đồ vật đồ chơi. Do
vậy, người lớn cần chú ý đến việc lựa chọn những mẫu đồ chơi phù hợp với
nhiệm vụ giáo dục và biết khêu gợi hứng thú của trẻ đối với đồ vật, đồ chơi
yêu thích của mình.

2.4.2. Phương tiện giáo dục trí tuệ cho trẻ em lứa tuổi mẫu giáo

Ở lứa tuổi mẫu giáo, các phương tiện chủ yếu để giáo dục trí tuệ gồm:

– Tìm hiểu môi trường xung quanh và sinh hoạt hằng ngày là phương
tiện trí dục quan trọng. Thế giới hiện thực xung quanh trẻ em, con người, sự
vật, thiên nhiên, các hiện tượng trong xã hội là nguồn gốc của mọi tri thức của
trẻ và giúp trẻ phát triển các quá trình nhận thức.

Khi sử dụng các vật khác nhau, trẻ phát hiện ra chức năng, tính chất và
phẩm chất, màu sắc của chúng.

Trẻ thu nhận nhiều tri thức mới trong quá trình quan sát, tiếp xúc với tự
nhiên và xã hội: chim chóc, côn trùng, hoa nở, cây đâm chồi, con bọ dừa biết
bay, con ve sầu ca hát, lao động của người lớn, quầy bán hàng v.v… Giáo
viên giúp trẻ nhìn thấy và xác định những cái mà trẻ không nhận ra được
ngay.

Trẻ phát triển óc quan sát và năng lực nhận biết nhanh chóng và dễ
dàng về những thay đổi diễn ra trong môi trường xung quanh. Sự phát triển
óc quan sát cũng góp phần hình thành hứng thú nhận thức bền vững của trẻ.

– Trò chơi. Chơi là một hoạt động chủ đạo của trẻ trong suốt tuổi mẫu
giáo, một hoạt động đặc biệt phản ánh toàn bộ cuộc sống tâm lí của trẻ, phản
ánh hiện thực xung quanh trẻ, phản ánh những hiểu biết của mình và đặt mối
quan hệ với các bạn.

Mỗi hình thức trò chơi tác động khác nhau đến sự phát triển trí tuệ của
trẻ.

+ Trò chơi đóng vai theo chủ đề mở rộng các khái niệm về các sự vật
hiện tượng xung quanh và phát triển ngôn ngữ của trẻ.

+ Trò chơi đóng kịch giúp trẻ cảm thụ sâu sắc hơn các tác phẩm văn
học nghệ thuật và kích thích hoạt động ngôn ngữ của trẻ.
+ Trò chơi lắp ghép – xây dựng phát triển năng lực thiết kế, mở rộng
kiến thức về hình học và quan hệ không gian của trẻ v.v…

+ Trò chơi học tập có vị trí đặc biệt quan trọng trong trí dục. Trong trò
chơi này, nội dung nhận thức và việc thực hiện các nhiệm vụ trí tuệ có tính
chất bắt buộc, song đối với trẻ lại diễn ra dưới hình thức một trò chơi, nên
hình thức học tập qua trò chơi vẫn gây hứng thú cho trẻ và kích thích tính tích
cực nhận thức của chúng. Trò chơi học tập giúp trẻ lĩnh hội tri thức một cách
vững chắc (tên gọi và hình dạng bên ngoài của các loại cây, các dụng cụ lao
động…). Khi giải quyết các nhiệm vụ trí tuệ trong trò chơi, trẻ tập ghi nhớ có
chủ định và tái hiện, tập phân loại các sự vật hoặc hiện tượng theo đặc điểm
chung, tách ra các thuộc tính và tính chất của sự vật, xác định chúng theo các
dấu hiệu riêng lẻ. Như vậy, các thao tác trí tuệ được rèn luyện thúc đẩy hoạt
động tư duy.

– Lao động. Lao động cũng là một phương tiện của trí dục. Trong quá
trình lao động, trẻ có thể khảo sát các sự vật, hiện tượng, tìm hiểu các thuộc
tính của chúng, phát hiện ra các mối quan hệ qua lại giữa chúng v.v… Ví dụ:
đất sét mềm dễ nặn, xà phòng nổi bọt, cây không tươi thì chết; hạt nảy mầm,
cây ở bóng râm mọc chậm hơn ở nơi có ánh nắng. Trẻ còn biết sử dụng các
công cụ lao động: búa, xẻng, xô tưới, kéo v.v…

– Dạy học. Trò chơi, lao động và môi trường xung quanh có tác dụng to
lớn đến sự phát triển trí tuệ của trẻ. Song dạy học vẫn là hình thức giữ vai trò
quan trọng nhất trong giáo dục trí tuệ, được tiến hành thường xuyên theo
chương trình, kế hoạch, theo một trình tự có hệ thống trong việc giúp trẻ lĩnh
hội tri thức, kỹ năng, kĩ xảo, và rên luyện các thao tác hoạt động trí tuệ. Dạy
học đảm bảo tính hiệu quả lớn nhất vì có sự tác động sư phạm tích cực của
người lớn đến trẻ em, phù hợp với sự phát triển tâm sinh lí của trẻ. Do vậy,
dạy học được nghiên cứu kĩ lưỡng trong một chương ở phần sau của giáo
trình.

Các phương tiện trên chỉ thực sự phát huy được hiệu quả khi người lớn
quan tâm đến việc đảm bảo cơ sở vật chất cho việc giáo dục trí tuệ. Đó là
những trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi, vật liệu chơi hợp lí đối với từng độ tuổi
của trẻ. Bởi lẽ, nếu thiếu trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi, vật liệu chơi hoặc
những thứ đó không phù hợp với trình độ phát triển của độ tuổi thì khó có thể
tổ chức các hoạt động kể trên cho trẻ một cách hiệu quả.

3. Giáo dục đạo đức cho trẻ em lứa tuổi mầm non
3.1. Khái niệm và ý nghĩa của giáo dục đạo đức cho trẻ lứa tuổi
mầm non

3.1.1. Khái niệm giáo dục đạo đức

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, thực hiện chức năng xã hội hết
sức quan trọng, là điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Đạo đức được nảy sinh từ nhu cầu của xã hội, điều hoà và
thống nhất lợi ích chung của tập thể xã hội và lợi ích riêng của cá nhân, nhằm
đảm bảo trật tự xã hội và khả năng phát triển của xã hội.

Đạo đức cá nhân được hình thành và phát triển trong quá trình con
người hoạt động, giao lưu, giao tiếp với những người xung quanh. Đạo đức
được biểu hiện ra bên ngoài ở tri thức, hiểu biết của cá nhân về các yêu cầu
của chuẩn mực hành vi đạo đức, hệ thống thái độ – tình cảm đạo đức, hành
vi và thói quen đạo đức trong quan hệ ứng xử giữa con người với con người,
giữa con người với môi trường xung quanh trong cuộc sống hằng ngày.

Giáo dục đạo đức là một bộ phận quan trọng có tính chất nền tảng của
giáo dục nhân cách con người mới. Giáo dục đạo đức là một quá trình lâu
dài, được diễn ra ngay từ khi còn thơ bé cho đến khi trưởng thành, thậm chí
suốt cuộc đời.

Đối với trẻ thơ, giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích, có
kế hoạch nhằm trang bị cho trẻ những hiểu biết sơ đẳng về những yêu cầu
của chuẩn mực hành vi đạo đức trong các mối quan hệ ứng xử, rèn cho trẻ có
tình cảm, hành vi và thói quen đúng đắn trong các mối quan hệ ứng xử hằng
ngày. Trên cơ sở đó hình thành cho trẻ những phẩm chất đạo đức, những nét
tính cách của con người Việt Nam.
3.1.2. Ý nghĩa của giáo dục đạo đức cho trẻ lứa tuổi mầm non

Sinh ra không phải trẻ đã có đạo đức, nhân cách mà đó là kết quả của
quá trình giáo dục và tự giáo dục. Bàn về vấn đề này, Hồ Chủ tịch khẳng.định:

“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn

Phần nhiều do giáo dục mà nên”.

Như trên đã trình bày, giáo dục đạo đức phải được diễn ra ngay từ khi
đứa trẻ còn thơ bé. Mặc dù đây là một công việc khó khăn nhưng rất quan
trọng. Ông cha ta đã từng nói “Dạy con từ thuở còn thơ” là vậy.

Dưới tác động sư phạm của người lớn, ngay từ những năm đầu tiên
của cuộc đời, đứa trẻ đã có những hành vi ứng xử đúng đắn, trên cơ sở đó và
cùng với nó đứa trẻ nhận ra cái gì là tốt, cái gì là xấu, cái gì được phép, cái gì
không được phép… trong quan hệ với người thân, với bạn bè, với đồ vật và
thiên nhiên. Nghĩa là trẻ có biểu tượng sơ đẳng về chuẩn mực hành vi đạo
đức. Những biểu tượng đầu tiên ấy để lại dấu ấn trong suốt cuộc đời. Do vậy,
cần phải xây dựng cho trẻ những khái niệm đó là sơ đẳng nhất nhưng chính
xác và phản ánh được đạo đức của xã hội, mang bản sắc dân tộc Việt Nam.
Đồng thời, người lớn cần phải uốn nắn những nhận thức, hành vi, thái độ lệch
chuẩn của trẻ ngay từ bé, tránh để những lệch lạc ấy trở thành thói quen khó
sửa, khó uốn. Cổ nhân đã dạy: “Tre non dễ uốn, tre già nổ đốt”, “Bé chẳng
vin, cả gẫy cành”. Phải chăng những câu nói ấy của người đời đều khẳng
định ý nghĩa to lớn của việc giáo dục đạo đức cho con người ngay từ thuở
còn thơ.

Giáo dục đạo đức còn ảnh hưởng đến việc giáo dục thể chất, trí tuệ,
lao động và thẩm mĩ cho trẻ em. Nhờ giáo dục đạo đức tốt, trẻ em tự giác,
tích cực trong ăn uống, giữ gìn vệ sinh, rèn luyện thân thể, trong lao động (tự
phục vụ); tự giác, tích cực, sáng tạo trong học tập; biết bảo vệ cái đúng, cái
đẹp, biết làm theo tiêu chuẩn của cái đẹp (ăn mặc sạch sẽ, gọn gàng ngăn
nắp…).
3.2. Nhiệm vụ, nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức cho trẻ
em lứa tuổi nhà trẻ

3.2.1. Nhiệm vụ

Ở lứa tuổi nhà trẻ, giáo dục đạo đức cho trẻ bao gồm những nhiệm vụ
cơ bản sau:

− Phát triển ở trẻ những xúc cảm, tình cảm lành mạnh đối với mọi
người gần gũi xung quanh:

+ Trẻ biết yêu thương, gắn bó, quan tâm đến người thân.

+ Trẻ hồ hởi khi chào hỏi người lớn.

+ Trẻ biết thực hiện những yêu cầu của người lớn.

+ Trẻ có thái độ thân thuộc với bạn bè cùng tuổi.

– Tập cho trẻ tính tự lập, và một số quy tắc hành vi ứng xử xã hội đơn
giản, ban đầu như:

+ Biết cảm ơn, xin lỗi, biết chào hỏi lễ phép.

+ Biết yêu quý cây cối và con vật gần gũi.

+ Thực hiện những công việc người lớn yêu cầu…

– Tập cho trẻ thói quen vệ sinh, ngăn nắp, thật thà… trong sinh hoạt
cũng như chơi tập.

+ Biết giữ gìn chân tay, mặt mũi, quần áo sạch sẽ, gọn gàng.

+ Biết tự xúc cơm, tự uống nước; không làm rơi vãi, đổ nước ra bàn, ra
nhà.

+ Biết lấy đồ dùng, đồ chơi để tập và cất đồ dùng, đồ chơi vào nơi quy
định.

3.2.2. Nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức cho trẻ em lứa tuổi
nhà trẻ

a) Phát triển xúc cảm lành mạnh cho trẻ


Xúc cảm lành mạnh là một nội dung cơ bản của giáo dục đạo đức cho
trẻ em lứa tuổi nhà trẻ. Khi trẻ vui sướng, thoả mãn và cảm thấy an toàn là lúc
thuận lợi nhất để giúp trẻ ngoan và làm theo mong muốn của người lớn.
Trong vòng tay người mẹ, lúc bú mẹ là lúc trẻ cảm thấy an toàn nhất về tinh
thần và thoả mãn nhất về dinh dưỡng, người mẹ cần tận dụng cơ hội đó để
giao tiếp với trẻ. Vừa cho con bú, người mẹ vừa vỗ về nựng nịu, vuốt ve em
bé làm cho em bé cảm thấy đầm ấm, sung sướng (mắt nhìn vào mắt mẹ,
chân đập, tay quờ quạng…) – một xúc cảm tuyệt vời mà không ai có thể tạo
ra được ngoài người mẹ. Những cử chỉ âu yếm, vỗ về, những bài hát ru để
đưa trẻ vào giấc ngủ đã gieo vào lòng con trẻ bao cảm xúc đẹp đẽ, êm đềm.
Cứ thế làm cho đời sống tinh thần của trẻ được phong phú, trẻ cảm thấy yêu
mẹ, yêu mọi người và yêu cả thế giới xung quanh. Sự thờ ơ lạnh nhạt của
người lớn – người mẹ (cho con bú chỉ cốt cho mau no, tắm cho con chỉ cốt
cho mau sạch…) sau đó thả con lê la hoặc nằm nôi để đi làm việc khác, dẫn
đến trẻ có cảm giác không an toàn. Người lớn đã mất thời cơ thuận lợi để
gieo mầm những cảm xúc tốt đẹp trong con trẻ. Với cách giao tiếp như vậy
của người lớn sẽ tạo ra ở trẻ cảm giác lạnh nhạt, thờ ơ, không có nhu cầu
giao tiếp với mọi người, trước mắt là người mẹ, từ đó sinh ra bẳn tính, thậm
chí có trẻ trở nên yếu đuối mà sinh ra bệnh tật.

Đành rằng, sự vỗ về, âu yếm, đùm bọc, che chở cho trẻ là rất cần thiết,
song nếu thái quá, khiến trẻ lúc nào cũng đòi hỏi phải có người lớn bên cạnh
mình sẽ khó hình thành tính tự lập ở trẻ. Cần tập cho trẻ thói quen có lúc ngủ,
chơi một mình.

Người lớn không được để cho trẻ đói giao tiếp, mà cần triệt để tận dụng
việc cho trẻ giao lưu xúc cảm với mẹ và những người xung quanh để tạo nên
cảm xúc lành mạnh cho trẻ. Người mẹ và cô nuôi dạy trẻ cần dành thời gian
để “nói chuyện” với trẻ càng nhiều càng tốt. Trong những cuộc trò chuyện ấy
(có thể bằng cử chỉ, nét mặt, điệu bộ, ánh mắt… khi trẻ chưa nói được) tuy
chưa có gì sâu sắc nhưng chúng thể hiện tình cảm yêu thương giữa người
lớn với trẻ em; người lớn đã nói với trẻ bằng cả tấm lòng và đứa trẻ cũng
nghe với tất cả niềm sung sướng, say mê của mình, từ đó khơi dậy ở trẻ
những xúc cảm tích cực và lòng yêu thương con người.

Người lớn cần tạo điều kiện để trẻ được bộc lộ tình cảm của mình đối
với người thân (hôn mẹ, hôn cô, sờ râu, vuốt má bố…). Tuyệt đối không được
doạ nạt trẻ (ma, cọp, bóng đêm…) làm trẻ kinh hoàng. Tập cho trẻ dễ làm
quen, cởi mở với mọi người, giúp đỡ và dạy trẻ trong giao lưu cảm xúc. Dạy
trẻ biết vui mừng khi thoả mãn nhu cầu (biết cám ơn khi được người khác làm
cho việc tốt, cho quà, đồ chơi…).

b) Dạy trẻ biết yêu quý người thân, gắn bó với bạn bè và biết nghe lời
người lớn

Trên cơ sở hình thành cho trẻ những xúc cảm lành mạnh với mọi người
xung quanh, dần dần hình thành ở trẻ thái độ, tình cảm yêu quý gắn bó với
những người xung quanh (bố mẹ, ông bà, cô giáo, bạn bè…). Từ đó, dạy trẻ
biết nghe lời người lớn. Như đã trình bày trên đây trẻ nhỏ rất nhạy cảm, trong
cuộc sống hằng ngày, ai vỗ về, âu yếm, gắn bó với nó thì nó sẽ gắn bó, tin
yêu và dễ dàng nghe lời người đó. Ngược lại, nếu người lớn thờ ơ, lạnh nhạt
hoặc vì bận bịu với công việc xã hội mà không thường xuyên âu yếm, vỗ về
trẻ thì dần dần đứa trẻ trở nên xa cách, không gắn bó mật thiết với người lớn.
Do vậy, để dạy trẻ biết yêu quý và gắn bó với người thân, cần:

− Phải thương yêu, quý mến trẻ bằng cả tấm lòng nhân hậu của mình.
Được yêu thương, đùm bọc của người lớn là niềm hạnh phúc lớn nhất của trẻ
thơ. Nó như cơm ăn, nước uống, không khí hít thở hằng ngày, làm cho đứa
trẻ phát triển một cách bình thường về thể chất và tinh thần. Bằng tình yêu
thương đùm bọc của người lớn, đứa trẻ trở nên yêu thương, gắn bó với cha
mẹ, ông bà, cô giáo và bạn bè trong cuộc sống hằng ngày. Thực tế cho thấy,
nhiều đứa trẻ khi mới đi nhà trẻ rất sợ sệt, khóc lóc cả tuần, bằng sự yêu
thương, tận tâm với công việc của cô giáo, sau một thời gian ngắn, đứa trẻ
cảm thấy vui khi được đến trường, được nói chuyện với cô, được cùng chơi
với bạn bè. Niềm vui đến trường là một yếu tố rất quan trọng đối với các em
học sinh (ở mọi cấp học), nó thúc đẩy học sinh tích cực, tự giác trong học tập
và sinh hoạt tập thể ở trường, lớp.

− Cần làm cho trẻ dần dần hiểu được những người thân trong gia đình
(ông bà, cha mẹ…) và cô giáo là những người trực tiếp chăm sóc trẻ hằng
ngày và là những người dành cho trẻ những tình cảm thương yêu nhất, nên
phải biết yêu quý ông bà, cha mẹ, cô giáo và biết nghe lời ông bà, cha mẹ, cô
giáo, như vậy mới là bé ngoan.

– Đến 2– 3 tuổi, trẻ bắt đầu có khuynh hướng độc lập, thích tự làm mọi
việc như người lớn, song khả năng, sức lực còn hạn chế chưa cho phép trẻ
làm được như người lớn. Mặt khác, người lớn một mặt vẫn giữ lối cư xử cũ,
một mặt sợ trẻ làm đổ vỡ, nguy hiểm đến tính mạng trẻ nên thường ngăn cấm
hoặc làm thay trẻ. Chính từ những nguyên nhân đó mà nhiều trẻ sinh ra
bướng bỉnh: cứ khăng khăng tự làm lấy, thậm chí không làm theo ý muốn của
người lớn. Các nhà tâm lí học gọi đó là “sự khủng hoảng của tuổi lên ba”. Vì
vậy, trong cuộc sống hằng ngày, người lớn cần phải điều chỉnh lối cư xử với
trẻ: cần tôn trọng nhu cầu của trẻ, tạo điều kiện cho trẻ phát huy tính tự lập
trong công việc, không áp đặt trẻ một cách cực đoan, nhưng cũng không thả
nổi sự phát triển của trẻ. Người lớn phải luôn ở bên cạnh trẻ để động viên
khuyến khích trẻ, giúp đỡ trẻ tháo gỡ những khó khăn khi trẻ gặp phải (cùng
làm với trẻ, giúp đỡ “ngầm” hoặc khéo léo hướng trẻ sang một việc dễ hơn,
đơn giản hơn…).

Người lớn không nên có những việc làm dẫn đến sự coi thường trẻ,
cấm đoán trẻ, trách mắng trẻ trước mặt người khác. Nhưng cũng không được
“bao cấp”, làm thay trẻ, làm mất tính chủ động, sáng tạo của trẻ.

Người lớn cũng cần tỏ rõ thái độ của mình trước những hành vi, việc
làm của trẻ. Nếu trẻ hư, cần tỏ thái độ không đồng tình và ngăn chặn, khi trẻ
bình tâm trở lại mới tìm lời giải thích cho trẻ hiểu. Nếu trẻ còn quá nhỏ nên
dùng biện pháp di chuyển chú ý của trẻ sang đối tượng khác để có thể khắc
phục được tính bướng bỉnh của mình. Không được dập tắt một cách thô bạo
nhu cầu, hứng thú của trẻ bằng những mệnh lệnh hay roi vọt.
Một điều cần lưu ý nữa là, lứa tuổi nhà trẻ, tâm lí cá nhân vị kỉ bộc lộ
khá rõ, trẻ muốn sở hữu tất cả, không muốn nhường nhịn cho người khác,
cho bạn bè. Thông qua chế độ sinh hoạt hằng ngày, những giờ chơi – tập…,
người lớn dạy trẻ biết nhường nhịn, giúp đỡ lẫn nhau, không tranh giành đồ
dùng, đồ chơi của bạn, biết cùng chơi với bạn.

c) Giáo dục cho trẻ một số kĩ năng tự phục vụ và thói quen sinh hoạt
cần thiết

Ngay từ lứa tuổi nhà trẻ, nhất là khi trẻ 2 – 3 tuổi, ta có thể hình thành
cho trẻ một số kĩ năng tự phục vụ:

− Biết tự xúc cơm, uống nước;

– Biết rửa tay, giữ gìn quần áo sạch sẽ, gọn gàng;

– Biết lấy, cất đồ dùng, đồ chơi vào đúng nơi quy định, biết giữ gìn đồ
dùng, đồ chơi…

Những kĩ năng này mới hình thành ở trẻ thường khó khăn và chưa bền
vững, vì vậy, người lớn phải thường xuyên củng cố thông qua những việc làm
cụ thể của trẻ. Nếu cần, người lớn cần phải làm mẫu cho trẻ làm theo. Đồng
thời phải có sự thống nhất giữa gia đình và nhà trường trong việc rèn luyện,
củng cố kĩ năng tự phục vụ cho trẻ. Tránh tình trạng cô giáo cố gắng tạo điều
kiện để trẻ tự phục vụ, trong khi đó ở nhà bố mẹ lại muốn “làm thay” con.

Thông qua những việc làm cụ thể, thường xuyên, người lớn tập cho trẻ
những thói quen sinh hoạt cần thiết: thói quen tự phục vụ, thói quen vệ sinh,
gọn gàng, ngăn nắp…

Tất cả những điều trên chỉ là những nét chung, có tính chất định hướng
trong công tác nuôi dạy trẻ. Cha mẹ, cô giáo cần nắm vững đặc điểm phát
triển của trẻ ở từng độ tuổi để đề ra nhiệm vụ, nội dung, phương pháp giáo
dục một cách cụ thể, hợp lí nhằm kích thích trẻ hoạt động và dạy dỗ trẻ nên
người.
3.3. Nhiệm vụ, nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức cho trẻ
em lứa tuổi mẫu giáo

3.3.1. Nhiệm vụ

Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo là hình thành
ở trẻ tình cảm đạo đức, kĩ năng và thói quen hành vi đạo đức trong sự thống
nhất với những biểu tượng (khái niệm) đạo đức và động cơ hành vi.

– Trong quá trình giáo dục đạo đức, việc hình thành những tình cảm
đạo đức có vị trí quan trọng hàng đầu. Bởi lẽ, ở lứa tuổi này mọi hành động
của trẻ đều bị chi phối của tình cảm. Khi trẻ yêu mến ai đó thì trẻ luôn nghe
theo người đó và sẵn sàng làm mọi việc để người đó vui lòng và yêu quý nó.
Mặt khác, tình cảm đạo đức là cơ sở, là động lực thúc đẩy trẻ có những hành
vi, việc làm tốt.

Tình cảm đạo đức cần được hình thành ở trẻ là lòng nhân ái – tình yêu
thương con người (ông bà, cha mẹ, anh chị em, cô giáo, bạn bè, em nhỏ,…)
và loài vật (cỏ cây hoa lá, những con vật gần gũi). Trên cơ sở đó hình thành
mầm mống ban đầu về tình yêu quê hương, đất nước.

– Việc hình thành các thói quen đạo đức cho trẻ mẫu giáo là nhiệm vụ
quan trọng thứ ba trong quá trình giáo dục đạo đức. Đặc điểm đặc trưng của
trẻ mẫu giáo là khả năng bắt chước. Khi bắt chước hành vi của người khác,
nhiều trẻ chưa hiểu được nội dung đạo đức hành vi của mình, do vậy dễ dẫn
đến hành vi sai. Bởi vậy, cần hình thành ở trẻ những thói quen hành vi khác
nhau trong quan hệ ứng xử với người lớn, bạn bè, nơi công cộng, với chính
bản thân…

− Nhiệm vụ cơ bản thứ ba là hình thành ở trẻ những biểu tượng về


chuẩn mực hành vi đạo đức và động cơ hành vi đạo đức đúng đắn. Trên cơ
sở có tình cảm đạo đức đúng đắn, đứa trẻ tích cực, tự giác thực hiện những
hành vi phù hợp với các yêu cầu của chuẩn mực hành vi đạo đức, dần dần
nhận ra được các yêu cầu của chuẩn mực hành vi (thế nào là ngoan, thế nào
là hư, là xấu…). Được người lớn khích lệ, động viên khi có những hành vi,
việc làm đúng đắn, trẻ càng tích cực, tự giác hơn trong hành vi, việc làm – tức
là động cơ hành vi đạo đức được hình thành.

Các nhiệm vụ giáo dục tình cảm đạo đức, hình thành thói quen đạo đức
và biểu tượng đạo đức được thực hiện thống nhất trong quá trình giáo dục
đạo đức cho trẻ mẫu giáo.

3.3.2. Nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức cho trẻ em lứa tuổi
mẫu giáo

Nội dung giáo dục đạo đức ở trường mẫu giáo được hình thành trên cơ
sở những quan điểm đạo đức mới, song cần được cụ thể hoá cho phù hợp
với lứa tuổi mẫu giáo.

a) Giáo dục lòng nhân ái (tình thương) và những nhân tố sơ đẳng của
lòng yêu quê hương, đất nước

Sống trong tình thương (được mọi người yêu mến và yêu mến mọi
người) là hạnh phúc của trẻ thơ. Giáo dục tình thương cũng đồng thời đáp
ứng một nhu cầu sống của trẻ. Tình thương suy cho cùng, cũng là gốc đạo
đức của con người. Vì vậy, giáo dục lòng nhân ái cần được coi là nhiệm vụ
trung tâm của công tác giáo dục đạo đức cho trẻ.

Giáo dục lòng nhân ái cho trẻ bao gồm một số nội dung cơ bản sau:

Giáo dục tình yêu gia đình. Trẻ cần hiểu mọi người trong gia đình đều
gắn bó với nhau trên tình ruột thịt, cần thường xuyên sống hoà thuận và quan
tâm chăm sóc lẫn nhau. Trong gia đình, ai cũng làm việc, học hành, đó là
những việc làm nghiêm túc có ích cho gia đình và xã hội, cần được tôn trọng
(chẳng hạn, không quấy rầy, vòi vĩnh khi bố mẹ đang làm việc, anh hoặc chị
đang học bài).

Giáo dục tình yêu và thái độ quan tâm đến mọi người. Yêu mến và sẵn
sàng giúp đỡ cô giáo và các bạn trong lớp; kính trọng và quan tâm giúp đỡ
người lớn; yêu mến, nhường nhịn, chăm sóc các em nhỏ…
Giáo dục tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, có ý thức bảo vệ thiên
nhiên.

Cùng với việc giáo dục lòng nhân ái, cần chú ý từng bước, những nhân
tố sơ đẳng, tạo nên nền tảng ban đầu cho việc giáo dục lòng yêu quê hương,
đất nước sau này khi trẻ đủ khôn lớn.

Đối với trẻ mẫu giáo, cần giáo dục tình yêu đối với Bác Hồ, biết lá cờ
Tổ quốc, quan tâm đến những ngày lễ lớn, những sự kiện quan trọng trong
nước hoặc ở địa phương, những truyền thuyết lịch sử, những biến đổi tích
cực trong đời sống địa phương… Sự hiểu biết của trẻ ở đây còn rất nhiều hạn
chế, nhưng sự đồng cảm mang ý nghĩa xã hội của trẻ, dù còn non nớt và
chưa thực sự hình thành, cũng có những tác dụng tiềm năng, tích cực đối với
sự phát triển tình cảm đạo đức của trẻ.

Những nội dung trên đây cần được giáo dục cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi,
mọi hoạt động (trong sinh hoạt, trong giao tiếp, trong quá trình tổ chức các
hoạt động). Trong mỗi hoạt động, ở mọi hoàn cảnh khác nhau, cô giáo cần
hướng dẫn cho trẻ có những xúc cảm, tình cảm đúng đắn đối với người khác,
đối với thiên nhiên, đối với cuộc sống… Đồng thời, cô cũng cần phải dùng
tình cảm (âu yếm, ân cần, quan tâm…) để cảm hoá, thúc đẩy trẻ có những
tình cảm tích cực trong quan hệ ứng xử giữa con người với con người, con
người với thiên nhiên, cuộc sống…

b) Giáo dục quan hệ bạn bè

Đến lứa tuổi mẫu giáo, nhu cầu cùng chơi với nhau trở nên bức thiết.
Một quan hệ mới giữa các trẻ bắt đầu hình thành và phát triển, đồng thời có
ảnh hưởng sâu sắc đến việc hình thành nhân cách, đến bộ mặt đạo đức của
từng trẻ: đó là quan hệ bạn bè.

Giáo dục quan hệ bạn bè cho lứa tuổi mẫu giáo vừa là một nhiệm vụ
giáo dục đạo đức quan trọng, vừa là công việc phức tạp, đòi hỏi cô giáo phải
nắm vững nội dung cơ bản theo từng độ tuổi để có những tác động thích hợp
và kịp thời.
Đối với mẫu giáo bé, cần khuyến khích trẻ làm quen với nhau, biết sống
hoà thuận “bên nhau” (không cản trở lẫn nhau), biết tuân thủ những quy tắc
ban đầu của sinh hoạt tập thể (chấp nhận sự phân công đồ chơi, nhường
nhịn giúp đỡ bạn…) đồng thời nhen nhóm dần cho trẻ nhu cầu cùng nhau
hoạt động (muốn chơi bán hàng thì phải có người mua), tập cho trẻ bước đầu
biết phối hợp với nhau.

Đối với trẻ mẫu giáo nhỡ, cần từng bước mở rộng nhóm chơi của trẻ,
mở rộng vốn kinh nghiệm về hoạt động chung (cùng nhau) của trẻ, kịp thời
biểu dương những hành vi tốt, uốn nắn, ngăn chặn những hành vi không tốt,
hướng dẫn trẻ tự giải quyết những xích mích trong khi chơi chung.

Đối với trẻ mẫu giáo lớn, biết tự tập hợp nhau lại và tự đề xuất trò chơi
chung. Trẻ đã nhận ra và biết những quy tắc ứng xử cần thiết trong quan hệ
bạn bè. Quan hệ bạn bè phong phú, đa dạng hơn và đã trở thành một nhân tố
quan trọng trong đời sống của trẻ. Trẻ ham chơi với bạn hơn là quấn quýt
quanh người lớn, giữa trẻ đã có ảnh hưởng lẫn nhau về tính cách và hành vi
đạo đức. Giáo dục quan hệ bạn bè cho trẻ lúc này cần đặc biệt quan tâm mở
rộng vốn kinh nghiệm và hiểu biết của trẻ về tình bạn tốt, người bạn tốt, về
những cách cư xử cụ thể (đoàn kết, thân ái, quan tâm đến nhau, giúp đỡ và
học tập lẫn nhau…).

Quá trình trưởng thành về quan hệ bạn bè của trẻ cũng là quá trình
hình thành và phát triển của tập thể trẻ – lớp, đặc biệt là lớp nhỡ và lớp lớn,
có ảnh hưởng rõ rệt đến sự phát triển đạo đức của trẻ. Trẻ rất thích tham gia
vào những hoạt động chung của lớp, dễ a dua theo số đông trong lớp, dễ chú
ý đến “dư luận” của bạn bè, của lớp (bạn A ngoan, bạn B ki bo lắm…) để điều
chỉnh hành vi của mình. Vì vậy, xây dựng lớp thành một tập thể đoàn kết,
thân ái, có xu hướng đạo đức tốt đẹp đồng thời, giáo dục trẻ gắn bó với lớp,
biết quan tâm đến tình hình chung của lớp, biết tự giác góp phần vào sự tiến
bộ của lớp là một nhiệm vụ không thể thiếu trong việc giáo dục đạo đức cho
trẻ.

c) Hình thành cho trẻ những thói quen đạo đức đúng đắn
Những thói quen đạo đức cần hình thành ở trẻ mẫu giáo gồm:

– Thói quen văn minh trong giao tiếp với những người xung quanh như,
chào hỏi lễ phép khi gặp người lớn; biết cảm ơn khi được người khác giúp
đỡ, biết xin lỗi khi làm phiền người khác; đoàn kết với bạn bè; nhường nhịn,
giúp đỡ em nhỏ; biết chia sẻ tình cảm với mọi người xung quanh.

– Thói quen vệ sinh trong sinh hoạt (vệ sinh thân thể, vệ sinh ăn
uống…).

– Thói quen bảo vệ, giữ gìn đồ dùng, đồ chơi, thói quen gọn gàng, ngăn
nắp…

– Thói quen văn minh nơi công cộng: không vứt rác bừa bãi, không vẽ
bẩn lên tường, không bẻ cành, ngắt hoa nơi công cộng; không cười nói ồn ào
làm ảnh hưởng đến người khác…

Trên cơ sở những thói quen, cần hình thành ở trẻ những đức tính cần
thiết:

– Tính tự lập: Thích “tự làm lấy” – tự giác làm những việc trẻ tự làm
được, không nhõng nhẽo, không ỷ lại vào người lớn.

– Tính mạnh dạn: mạnh dạn khi giao tiếp với mọi người, khi đến chỗ xa
lạ, khi cần tiêm chủng, uống thuốc, khi người lớn yêu cầu (hát, múa) hoặc sai
bảo, không nhút nhát, e dè; không “sợ nước” khi tắm rửa, không “sợ ma”.

– Tính ngăn nắp: ăn mặc gọn gàng, sắp lại đồ chơi ngăn nắp sau khi
chơi, không bày bừa, vứt đồ vật lung tung.

– Tính kỉ luật: biết nghe lời, biết tôn trọng những quy tắc sinh hoạt
chung, biết tự kiềm chế…

Đồng thời, cần giáo dục những quy tắc hành vi, những nét tính cách
cho trẻ phải phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, không làm cho trẻ mất đi cái ngây
thơ, hồn nhiên của lứa tuổi. Một nền tảng đạo đức tốt khiến trẻ càng dễ hoà
mình vào cuộc sống xung quanh, tạo nên sự thoải mái, hạnh phúc của tuổi
thơ, tuyệt nhiên không làm cho trẻ thêm xét nét, lo hãi, sống mất hồn nhiên
“già trước tuổi”.

Những thói quen đạo đức trên đây được hình thành trong quá trình giao
tiếp giữa trẻ em với người lớn; thông qua việc tổ chức các hoạt động giáo dục
ở trường mầm non một cách thường xuyên, liên tục. Cũng như nếp sống sinh
hoạt nói chung, thói quen đạo đức chỉ trở nên bền vững khi người lớn tạo
điều kiện thuận lợi cho trẻ được rèn luyện thường xuyên, liên tục, ở mọi lúc,
mọi nơi, mọi hoạt động. Đồng thời, cũng phải uốn nắn kịp thời những hành vi
sai ở trẻ. Bởi lẽ, việc hình thành một thói quen tốt cũng như xoá đi một thói
quen xấu ở trẻ đều không phải là chuyện dễ dàng.

d) Hình thành những biểu tượng về các chuẩn mực hành vi đạo đức
cho trẻ mẫu giáo

Đồng thời với việc hình thành tình cảm, thói quen hành vi đạo đức cho
trẻ, người lớn cần giúp trẻ hiểu được tính đúng đắn của các chuẩn mực hành
vi đạo đức mà người lớn yêu cầu trẻ phải thực hiện. Chẳng hạn, cô giải thích
cho trẻ hiểu người con ngoan là người biết vâng lời ông bà, cha mẹ, cô
giáo…; người bạn tốt là người biết nhường nhịn đồ chơi cho bạn, biết giúp đỡ
bạn khi cần thiết… Như vậy, việc hình thành những biểu tượng về các chuẩn
mực hành vi đạo đức như thế nào là tốt, thế nào là xấu; thế nào là ngoan, thế
nào là hư… cần dựa trên những hình ảnh, hành vi đạo đức cụ thể để trẻ dễ
hiểu, dễ nhớ, dễ bắt chước. Đồng thời, người lớn cần phải mở rộng, nâng
dần yêu cầu về chuẩn mực hành vi đạo đức trong quá trình rèn luyện thói
quen đạo đức cho trẻ. Trên cơ sở đó nâng cao khả năng đánh giá và tự đánh
giá thái độ, hành vi đạo đức của người khác và của bản thân.

3.4. Điều kiện và phương tiện giáo dục đạo đức cho trẻ em lứa tuổi
mầm non

3.4.1. Điều kiện để giáo dục đạo đức cho trẻ

– Người lớn phải thực sự yêu thương, đùm bọc, che chở cho trẻ. Được
người lớn nâng niu, vỗ về, được vui đùa quấn quýt bên người thân thì dù ở
nhà hay ở trường mầm non, trẻ luôn tìm thấy ở đó sự “an toàn”, niềm vui và
độ tin cậy. Do vậy, cô nuôi dạy trẻ phải là người mẹ thứ hai của trẻ thì công
tác dạy dỗ mới có hiệu quả.

Trẻ nhỏ rất tinh, nó dễ dàng nhận ra tình yêu thương của người lớn đối
với nó, nó sẽ tin yêu và nghe lời người nào yêu thương nó. Trẻ nhỏ ưa tình
cảm, giáo dục bằng tình cảm và thông qua tình cảm sẽ mang lại hiệu quả
hơn. Quát mắng không phải là biện pháp giáo dục trẻ lứa tuổi này. Mặt khác,
ở gia đình cũng như ở trường mầm non, người lớn không nên phân biệt đối
xử giữa các cháu (yêu đứa này, ghét đứa kia). Đối xử như vậy, những trẻ
không được yêu,dễ bị tủi thân, dễ sinh tự ti, tự ái và dễ có những phản ứng
tiêu cực, còn những trẻ được yêu chiều lại dễ sinh ra tính ích kỉ, kiêu căng,
coi thường người khác.

− Người lớn phải có sự thống nhất với nhau trong việc giáo dục trẻ. Ở
gia đình cũng như ở trường mầm non, người lớn cần phải thống nhất với
nhau trong việc yêu cầu trẻ thực hiện các chuẩn mực hành vi đạo đức văn
hoá trong quan hệ ứng xử, có thái độ nhất quán đối với những hành vi, lời
nói, việc làm của trẻ. Tránh tình trạng “trống đánh xuôi kèn thổi ngược”. Cùng
một hành vi, việc làm của trẻ, người thì yêu cầu thế này, người thì yêu cầu
thế khác, người thì đồng tình, người thì phản ứng…

Thực tế cho thấy rằng, khi hình thành cho trẻ một nền nếp, thói quen
nào đó (ví dụ, thói quen chào hỏi lễ phép, ăn uống vệ sinh, ngăn nắp trong
sinh hoạt…) nếu không có sự thống nhất về yêu cầu, về phương pháp giáo
dục và rèn luyện giữa gia đình và nhà trường hay giữa bố và mẹ của trẻ… thì
việc hình thành nền nếp, thói quen đó sẽ khó khăn hơn và việc hình thành
mềm tin vào các yêu cầu của chuẩn mực hành vi đạo đức cũng khó khăn
hơn. Trẻ không biết làm theo ai (bố, mẹ, hay cô giáo) là đúng.

– Người lớn luôn luôn gương mẫu, là hình ảnh tốt đẹp để trẻ noi theo.
Đối với trẻ thơ, bố mẹ, ông bà, cô giáo là những “thần tượng” mà trẻ bắt
chước, làm theo. Trẻ bắt chước lời ăn tiếng nói, hành vi, việc làm, cách cư xử
của người lớn với nhau, người lớn với trẻ trong hành vi, việc làm, cách ứng
xử của mình. Dĩ nhiên, sự bắt chước này không ngoại trừ những cái xấu.
Trong thực tế, nhiều khi cái xấu dễ tiêm nhiễm và tiêm nhiễm nhanh hơn vào
cuộc sống của trẻ. Do vậy, người lớn gương mẫu còn là điều quan trọng hơn
cả những lời khuyên bảo, dạy dỗ trẻ.

– Người lớn cần tạo điều kiện cho trẻ được luyện tập những hành vi
đạo đức tốt đẹp thông qua giao lưu giao tiếp với người lớn, với bạn bè, với
môi trường thiên nhiên, thông qua các hoạt động đa dạng: chơi – tập dạo
chơi, hát múa, đi dạo và trong sinh hoạt (ăn uống, vệ sinh…).

– Người lớn phải biết động viên, khuyến khích kịp thời những hành vi,
cử chỉ, lời nói đẹp của trẻ và uốn nắn kịp thời những hành vi, cử chỉ, lời nói
chưa đúng mực của trẻ.

3.4.2. Phương tiện giáo dục đạo đức cho trẻ em lứa tuổi mầm non

Phương tiện giáo dục đạo đức cho trẻ lứa tuổi mầm non rất đa dạng và
phong phú. Ở đây chỉ giới thiệu một số phương tiện cơ bản:

– Các hoạt động giao lưu, giao tiếp của trẻ với môi trường sống xung
quanh trẻ, đó là:

+ Mối quan hệ giao tiếp giữa trẻ em với người lớn (bố mẹ, ông bà, cô
giáo…). Trong quan hệ giao tiếp với trẻ, bằng tình yêu thương, đùm bọc, che
chở của mình, người lớn giúp trẻ nhận thức một cách nhẹ nhàng yêu cầu của
các chuẩn mực hành vi, thực hiện một cách tự giác (hồn nhiên) những yêu
cầu đó trong quan hệ ứng xử. Và chính trong mối quan hệ giao tiếp với người
lớn mà đứa trẻ điều chỉnh được hành vi thái độ chưa đúng của mình trong
quan hệ ứng xử.

+ Mối quan hệ giao tiếp giữa trẻ em với trẻ em (bạn cùng tuổi, cùng
lớp):

Thông qua các hoạt động cùng nhau (vui chơi, học tập, đi dạo, sinh
hoạt hằng ngày…) đứa trẻ có dịp được cọ sát với nhau, được sự dạy bảo của
người lớn, đứa trẻ biết cách quan hệ ứng xử với nhau sao cho thân thiện.
Đồng thời, qua những hoạt động cùng nhau này mà đứa trẻ được rèn luyện
hành vi ứng xử với bạn bè. Mặt khác, thông qua hoạt động cùng nhau, trẻ bắt
chước lẫn nhau trong hành vi, việc làm, cách ứng xử. Qua đó, trẻ có những
biểu tượng về các chuẩn mực hành vi đạo đức đúng đắn trong cuộc sống và
hình thành cơ sở ban đầu ở trẻ những phẩm chất đạo đức lành mạnh, trong
sáng: thật thà, yêu thương con người, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau…

+ Mối quan hệ giao lưu – tiếp xúc với môi trường thiên nhiên (vật nuôi,
cây trồng…). Qua mối quan hệ này, cô dạy trẻ biết yêu thương loài vật, bảo
vệ, chăm sóc cây cối…

− Chế độ sinh hoạt hằng ngày. Việc thực hiện nghiêm túc chế độ sinh
hoạt hằng ngày sẽ hình thành ở trẻ tác phong sống lành mạnh: giờ nào việc
ấy, gọn gàng, ngăn nắp, ý thức tập thể…

– Các tấm gương trong nhóm, lớp. Việc nêu các tấm gương về học tập,
vui chơi, ăn uống, vệ sinh… của một số trẻ trong nhóm, lớp có tác dụng giáo
dục đạo đức rất tốt đối với trẻ em. Trẻ sẽ bắt trước làm theo những hành vi,
việc làm, thái độ của các bạn được cô khen. Đồng thời nêu gương còn khích
lệ tính tích cực, tự giác của những trẻ được nêu gương. Vấn đề đặt ra là, khi
nêu gương, cô cần nêu quá trình đi đến thành tích của bạn để định hướng
hành vi, việc làm cho những trẻ khác muốn học tập, noi theo.

4. Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi mầm non


4.1. Khái niệm và ý nghĩa của giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi
mầm non

4.1.1. Khái niệm giáo dục thẩm mĩ

Giáo dục thẩm mĩ, về bản chất là bồi dưỡng lòng khao khát đưa cái đẹp
vào cuộc sống, tạo nên sự hài hoà giữa xã hội – con người – tự nhiên, nâng
cao năng lực cảm thụ và sáng tạo cái đẹp ở con người, làm cho con người
được phát triển một cách hài hoà trong mọi hoạt động lao động cũng như nghỉ
ngơi, trong quan hệ gia đình cũng như xã hội.

Cũng như mọi hoạt động giáo dục khác, giáo dục thẩm mĩ là một quá
trình lâu dài, diễn ra một cách có hệ thống: từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp. Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi mầm non là sự khởi đầu cho toàn
bộ quá trình giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường.

Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em lứa tuổi mầm non là một quá trình sư
phạm, nhằm hình thành và phát triển ở trẻ em năng lực ban đầu về cảm thụ
và nhận thức đúng đắn cái đẹp trong đời sống sinh hoạt, xã hội, trong tự
nhiên và trong nghệ thuật, giáo dục trẻ lòng yêu cái đẹp, sống theo cái đẹp và
biết tạo ra cái đẹp trong cuộc sống.

Giáo dục thẩm mĩ là một khái niệm rộng, bao gồm việc giáo dục cho trẻ
thái độ thẩm mĩ đối với thiên nhiên, lao động, đời sống xã hội và đối với nghệ
thuật. Từ việc cho trẻ có được sự hiểu biết đúng đắn thế nào là đẹp, xấu đến
sự hình thành thái độ tích cực ủng hộ cái đẹp, loại trừ cái xấu, đồng thời có
hành vi thích hợp với bản thân để tạo ra cái đẹp cho bản thân và cái đẹp
trong cuộc sống xung quanh là một quá trình tác động sư phạm lâu dài của
người lớn (cô giáo, cha mẹ, ông bà…).

4.1.2. Ý nghĩa của giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi mầm non

Giáo dục thẩm mĩ là một trong những mặt quan trọng trong giáo dục để
con người phát triển toàn diện, do vậy, trong công tác giáo dục mầm non
không thể thiếu giáo dục thẩm mĩ.

Tuổi mầm non là giai đoạn phát triển nhanh nhất các chức năng tâm lí,
là giai đoạn hình thành cơ sở ban đầu về nhân cách. Trong đó phải kể đến
những cơ sở để hình thành thị hiếu và năng khiếu thẩm mĩ sau này.

Đặc tính của cái đẹp và đặc tính của tuổi thơ rất gần nhau, nên trẻ nhỏ
đến cái đẹp như đến với những gì thân thiết, quý mến. Trẻ tích cực, vui
sướng khi được sống trong thế giới của cái đẹp: đồ dùng, đồ chơi đẹp, ngộ
nghĩnh, màu sắc, âm thanh của cảnh vật xung quanh hấp dẫn… Vì vậy, nếu
không giáo dục cái đẹp cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ là bỏ lỡ một cơ hội trong
giáo dục con người. Có thể coi đó là một sự lãng phí đáng kể trong việc bồi
bổ những năng khiếu, những phẩm chất tất đẹp cho tâm hồn trẻ thơ.
Mặt khác, tình yêu cái đẹp không phải là cái bẩm sinh mà nó được nảy
sinh và phát triển trong quá trình giáo dục. Một em bé sẽ không thể có được
tình yêu cái đẹp nếu chúng ta không tạo điều kiện để em bé đó tiếp xúc với
nhiều cái đẹp xung quanh, không làm cho những thuộc tính sinh động và
phong phú của cái đẹp tràn vào các giác quan của trẻ để ghi lại trong tâm trí
nó những ấn tượng tươi mát, dễ chịu; nếu chúng ta không biết khêu gợi ở trẻ
những xúc cảm tốt lành về con người và làm thức dậy trong trẻ những gì thân
thiết, gần gũi khi tiếp xúc với cái đẹp.

Đừng nên nghĩ rằng, trẻ còn nhỏ không biết thế nào là đẹp, là xấu mà
chỉ cần cho ăn no, mặc ấm là được. Tất nhiên ăn no, mặc ấm là nhu cầu
không thể thiếu, cần được thoả mãn để bảo đảm cho trẻ sống. Nhưng để lớn
lên thành người, trẻ cần được thoả mãn nhiều nhu cầu tinh thần, trong đó có
nhu cầu về cái đẹp và chính những nhu cầu ấy mới là động lực phát triển tâm
lí, phát triển đời sống tinh thần của trẻ.

Lời ru ngọt ngào, giọng nói âu yếm, âm điệu du dương của một bản
nhạc; bông hoa tươi sắc, đồ chơi nhiều dáng vẻ, màu sắc hài hoà… tất cả
đều cần được đưa đến cho trẻ. Thiếu những cái tưởng như bình thường ấy
sẽ là nỗi bất hạnh cho trẻ thơ. Sớm tiếp xúc với cái vẻ đẹp đó sẽ giúp cho
việc hình thành ở trẻ những ấn tượng tươi mát, làm nảy sinh nhu cầu về cái
đẹp, làm cho trạng thái tinh thần của trẻ được thoải mái, dễ chịu, trẻ sẽ luôn
cười vui với mọi người. Nhưng ngược lại, những tác động xấu từ bên ngoài
như: những lời nói tục tĩu, những nét mặt cau có, những hành vi thô lỗ, nơi ăn
chốn ở nhếch nhác, bẩn thỉu sẽ làm cho tính tình của trẻ trở nên cáu kỉnh, khó
chịu hoặc nguy hại hơn là trẻ dễ thích nghi với cái xấu ngay từ tấm bé.

Giáo dục thẩm mĩ liên quan mật thiết với các mặt giáo dục nhân cách
con người phát triển toàn diện, đặc biệt là giáo dục đạo đức và giáo dục trí
tuệ. Cái đẹp của thế giới xung quanh (gia đình, trường lớp mầm non, góc sân
chơi, màu sắc, hình dáng đồ chơi…) và cái đẹp trong nghệ thuật (hát múa,
thơ truyện, tạo hình…) không những ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành
nhận thức thẩm mĩ mà còn tác động đến việc hình thành tình cảm đạo đức
cho trẻ. Những xúc cảm thẩm mĩ có ảnh hưởng lớn đến bộ mặt đạo đức của
con người. Nhờ xúc cảm này mà tính cách của trẻ trở nên cao thượng, đời
sống của trẻ thêm phong phú, trẻ thêm lạc quan hơn trong cuộc sống… Tất
cả những điều đó tác động mạnh mẽ đến việc hình thành mối quan hệ tốt đẹp
của trẻ với cuộc sống và con người. Thông qua việc tiếp nhận những tác
phẩm nghệ thuật trẻ sẽ nhận thức đúng đắn về cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài
trong cuộc sống… điều đó ảnh hưởng lớn đến việc giáo dục các phẩm chất
đạo đức cho trẻ (như lòng nhân ái, tính cộng đồng, hành vi đẹp trong cuộc
sống xã hội…).

Qua giáo dục thẩm mĩ mà trẻ có được cảm thụ thẩm mĩ và nhận thức
sâu sắc hơn những hiện tượng của cuộc sống, nhờ đó mở rộng tầm nhìn của
trẻ, làm cho các biểu tượng về thế giới xung quanh càng thêm sâu sắc hơn,
đồng thời khơi dậy ở trẻ lòng ham hiểu biết. Chẳng hạn, những đồ dùng, đồ
chơi đẹp, màu sắc hài hoà… sẽ giúp trẻ tri giác sự vật nhanh hơn, dễ dàng
hơn, do vậy mà dễ hình thành được biểu tượng về đồ vật đó trong đầu. Mặt
khác, trên cơ sở những biểu tượng phong phú về thế giới xung quanh được
hình thành sẽ giúp cho trẻ cảm thụ cái đẹp sâu sắc hơn, xúc cảm thẩm mĩ
của trẻ trở nên mạnh mẽ hơn. Thật vậy, xúc cảm thẩm mĩ không chỉ được xây
dựng trên cơ sở cảm thụ cái đẹp, mà còn được dựa trên cơ sở hiểu biết sâu
sắc hơn nội dung cái đẹp.

Có thể nói, cái đẹp là dòng suối nuôi dưỡng lòng tốt và trí thông minh.
Chính vì thế mà các nhà giáo dục học đã coi giáo dục thẩm mĩ là một mặt rất
quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách ở trẻ mầm non.
Thiếu cái đẹp, đứa trẻ sẽ buồn rầu, già trước tuổi, thế giới tinh thần sẽ nghèo
nàn, làm thui chột năng khiếu và những phẩm chất tốt đẹp của trẻ.

Cuộc sống tinh thần trong thế giới cái đẹp khơi dậy ở trẻ nhu cầu muốn
làm cho mình trở nên đẹp hơn, nhu cầu khám phá cái đẹp ở xung quanh. Đứa
trẻ càng sớm thấy được vẻ đẹp đó bao nhiêu thì sự phát triển đời sống tinh
thần và thể chất của nó càng thuận lợi bấy nhiêu.
Tóm lại, giáo dục thẩm mĩ là việc làm không thể thiếu được trong công
tác chăm sóc – giáo dục trẻ em lứa tuổi mầm non. Giáo dục thẩm mĩ cần
được tiến hành ngay từ nhỏ với những phương tiện đa dạng, phong phú.

4.2. Nhiệm vụ, nội dung và phương pháp giáo dục thẩm mĩ cho trẻ
lứa tuổi nhà trẻ

4.2.1. Nhiệm vụ

Cũng như các mặt giáo dục khác, giáo dục thẩm mĩ cho trẻ là một quá
trình lâu dài và mang tính hệ thống. Mỗi lứa tuổi có những nhiệm vụ giáo dục
cụ thể phù hợp với đặc điểm phát triển của lứa tuổi đó ở lứa tuổi nhà trẻ, giáo
dục thẩm mĩ bao gồm ba nhiệm vụ cơ bản sau:

a) Cung cấp và làm giàu ấn tượng xung quanh cho trẻ, trên cơ sở đó
phát triển tri giác thẩm mĩ cho chúng

Quá trình phát triển thẩm mĩ của con người diễn ra ngay từ khi còn nhỏ.
Khi mà thị giác và thính giác là phương tiện cơ bản giúp trẻ liên hệ với thế
giời bên ngoài. Nhờ cặp mắt và đôi tai đứa trẻ tích luỹ được những ấn tượng
về thế giới.

Trẻ nhỏ thường hứng thú và có ấn tượng với những đồ vật, đồ chơi có
màu sắc tươi sáng, sống động, phát ra âm thanh, những hiện tượng thiên
nhiên “bí ẩn”, hấp dẫn (mặt trời mọc, giọt sương long lanh, tiếng chim hót líu
lo, những bông hoa đua sắc…), những hành vi, việc làm của mọi người gây
cho trẻ tò mò, thích thú… Người lớn cần tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với thế
giới xung quanh để giúp trẻ có những ấn tượng phong phú, tốt đẹp về thế giới
xung quanh. Bởi vì thế giới màu sắc âm thanh, hình dáng, động tác càng
phong phú, đẹp đẽ bao nhiêu thì việc giáo dục thẩm mĩ càng có cơ sở tốt bấy
nhiêu.

Trong quá trình cho trẻ tiếp xúc với thế giới xung quanh, người lớn cần
dạy trẻ biết nhìn và phát hiện ra vẻ đẹp của thế giới xung quanh: (của đồ
chơi, đồ dùng, của thiên nhiên và cuộc sống con người). Đối với trẻ em lứa
tuổi nhà trẻ, đây là một việc làm khó khăn, vì trẻ chưa ý thức được cái đẹp
trong cuộc sống xung quanh, chưa có tiêu chuẩn đánh giá cái đẹp… mà chỉ là
sự nhận biết cảm tính vẻ bề ngoài của sự vật, hiện tượng.

b) Bước đầu phát triển ở trẻ năng lực cảm xúc thẩm mĩ và hứng thú với
nghệ thuật

Những cảm xúc thẩm mĩ của con người không phải là những cảm xúc
đơn giản, chúng diễn ra trên cơ sở những tri thức mà con người có được về
cái đẹp. Bởi vậy, quá trình tiếp thu tri thức về cái đẹp và hình thành cảm xúc
thẩm mĩ diễn ra một cách thống nhất, liên tục. Khi cảm xúc thẩm mĩ được
hình thành sẽ thúc đẩy con người hoạt động tích cực hơn, lạc quan hơn trong
cuộc sống. Vì vậy, hình thành và phát triển cảm xúc thẩm mĩ cho trẻ là một
nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ.

Ở lứa tuổi nhà trẻ, trẻ em thường biểu hiện cảm xúc của mình một cách
trực tiếp: qua nụ cười, qua những phản ứng, qua những câu nói biểu lộ sự
thích thú hay không thích. Do vậy, người lớn có thể suy đoán được xúc cảm,
tình cảm của trẻ, qua đó mà khơi sâu và làm phong phú những cảm xúc
dương tính và uốn nắn những cảm xúc âm tính cho trẻ, giúp cho sự phát triển
cảm xúc của trẻ phù hợp với nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ.

Theo N. Kiiasenco: “Chất dinh dưỡng tạo ra khả năng nghệ thuật là cái
đẹp trong nghệ thuật… Nhờ nghệ thuật mà con người hiểu được vẻ đẹp của
cuộc sống, do đó mở rộng được lĩnh vực cái đẹp. Vì nghệ thuật chân chính
không bao giờ thoát li cuộc sống, mà trái lại, nó khao khát tìm hiểu ý nghĩa
nghệ thuật cuộc sống, nên trong nghệ thuật tập trung toàn bộ kinh nghiệm
thẩm mĩ của nhân dân”.

Như vậy, nghệ thuật là một phương tiện, con đường giáo dục và phát
triển cảm xúc thẩm mĩ có hiệu quả cho trẻ em. Bằng những giai điệu ngọt
ngào của những bài hát, những câu thơ, những câu ca dao giàu nhạc tính,
những tác phẩm hội hoạ đặc sắc… người lớn đã đưa trẻ vào những giá trị
văn hoá nhân loại, dân tộc, tạo cho trẻ những cảm xúc mang tính thẩm mĩ,
làm nảy sinh nhu cầu về cái đẹp trong cuộc sống xung quanh.
c) Bước đầu giáo dục thị hiếu thẩm mĩ và phát triển năng lực sáng tạo
nghệ thuật cho trẻ

Thị hiếu thẩm mĩ là thái độ, tình cảm khiến người ta phản ứng mau lẹ
trước những cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài trong cuộc sống và nghệ thuật là
một bộ phận quan trọng của tình cảm thẩm mĩ, thị hiếu thẩm mĩ đã giúp cho
con người tiến sâu hơn vào thế giới thẩm mĩ bằng những mẫn cảm đặc biệt
và những khát vọng thiết tha. Khi thưởng thức cái đẹp, căm giận cái xấu, xót
xa trước cái bi thương, khâm phục cái cao cả, định hướng các giá trị thẩm mĩ,
hưởng thụ và sáng tạo thẩm mĩ… Thị hiếu thẩm mĩ tốt sẽ hướng mỗi người
phấn đấu cho những cái đẹp, cái tốt, cái đúng. Không có thị hiếu thẩm mĩ lành
mạnh, đúng đắn thì không có cuộc sống đẹp. Vì vậy, giáo dục thị hiếu thẩm
mĩ cho trẻ em ngay từ lúc lứa tuổi nhà trẻ là việc làm rất quan trọng trong
công tác giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thơ.

Thị hiếu thẩm mĩ của trẻ nhỏ thường thể hiện ở việc đánh giá cái đẹp
phân biệt cái xấu, cái đẹp. Trường mầm non cần dạy trẻ biết phân biệt cái
đẹp với cái không đẹp, cái thô kệch và xấu xí. Cần giúp trẻ biết trình bày rõ tại
sao thích bài hát, bức tranh, truyện cổ tích hay một nhân vật nào đó trong tác
phẩm. Phải giúp trẻ biết cảm thụ cái đẹp ở xung quanh và biết tạo tạo ra cái
đẹp trong cuộc sống hằng ngày. Một bông hoa đẹp trong khóm hoa, một lớp
học sạch sẽ, ấm cúng trang trí trong nhà phải được trẻ yêu quý. Trẻ không
vứt rác bừa bãi, biết xếp gọn đồ chơi, đồ dùng để luôn giữ được vẻ đẹp của
trường lớp, đem lại nguồn vui cho mọi người.

Thị hiếu thẩm mĩ của mỗi trẻ có sự khác nhau. Vì vậy, trong việc giáo
dục thị hiếu thẩm mĩ cho trẻ, người lớn, cô giáo cần tôn trọng và phát huy ý
thích thẩm mĩ lành mạnh của trẻ, tránh gò bó, áp đặt làm thui chột óc thẩm mĩ
và thị hiếu thẩm mĩ của trẻ.

Hoạt động tạo hình rất hấp dẫn với trẻ, vì sản phẩm tạo thành với màu
sắc, đường nét, hình khối, dáng vẻ đã tác động trực tiếp đến thị giác và xúc
giác của trẻ. Ngay từ những năm tháng đầu tiên của đời người, đôi mắt trẻ
thơ đã hoạt động để tiếp nhận ánh sáng, màu sắc. Đứa trẻ 3 – 4 tháng tuổi đã
cảm thấy thoả mãn khi nhìn thấy màu sắc rực rỡ từ những giải lụa hay chùm
bóng treo trên nôi, 5 – 6 tháng tuổi đã biết vờn theo đồ vật, đồ chơi có màu
sắc và có hình thù hấp dẫn. Trẻ 3 tuổi đã có thể nhận ra con gà, con vịt, hay
những người trong tranh… và bằng cách đó mà trẻ đi vào thế giới tạo hình
một cách tự nhiên. Do vậy, người lớn cần chú ý giáo dục và hình thành năng
lực tạo hình cho trẻ, trước hết là hướng dẫn trẻ cảm thụ được vẻ đẹp của
những sản phẩm tạo hình, sau đó tập cho trẻ một kĩ năng nặn, vẽ… những
thứ mà trẻ yêu thích.

4.2.2. Nội dung và phương pháp giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em lứa tuổi
nhà trẻ

a) Dạy trẻ quan sát, cảm thụ vẻ đẹp của thiên nhiên

Thiên nhiên không chỉ mang lại cho trẻ em những thứ cần thiết để sống
mà còn hấp dẫn chúng bởi những điều kì diệu mà không có gì thay thế nổi.
Đến với thiên nhiên là sở thích vốn có của trẻ, nhưng không phải cứ đến với
thiên nhiên, sống trong lòng thiên nhiên là các em phát hiện và cảm thụ được
vẻ đẹp của nó. Nhiều trẻ đến với thiên nhiên là để chơi đùa cho thoả thích,
nhiều khi còn có những hành động phá phách nữa. Do đó, người lớn cần dạy
trẻ biết ngắm nhìn, quan sát thiên nhiên với thái độ say mê, trân trọng – Thái
độ thẩm mĩ đối với thiên nhiên.

Khi còn nhỏ, trẻ được người lớn bế ra ngoài trời ngắm những màu sắc
của hoa lá trong vườn, lắng nghe tiếng chim hót, tiếng con mèo kêu, chó
sủa…; lớn hơn một chút, trẻ được người lớn chỉ cho xem ông trăng sáng tỏ
trên trời, bầu trời sao lấp lánh vào buổi tối, ánh bình minh khi mặt trời mọc,
con vịt bơi trên hồ nước, con cá vàng phất phơ cái đuôi như lá cờ, con cua bò
ngang, con tôm đi giật lùi… trẻ vừa thích thú vừa cảm nhận được vẻ đẹp kì
thú của thiên nhiên.

Thiên nhiên mãi mãi vẫn dành cho trẻ em những niềm vui bất ngờ và
nếu được rèn luyện óc quan sát từ thuở ấu thơ thì trẻ có khả năng phát hiện
ra bao nhiêu điều thú vị, cả trong những sự vật tưởng như là bình thường và
tẻ nhạt đối với người lớn. Thiên nhiên đẹp, tự nó đã là những chất dinh
dưỡng cho tâm hồn trẻ thơ, nếu được người lớn hướng dẫn trẻ nhìn, nghe,
màu sắc, âm thanh tuyệt diệu của nó thì cảm giác, tri giác của trẻ trở nên
nhạy bén, tinh tế hơn. Do vậy, người lớn, cô giáo mầm non cần quan tâm
giáo dục, dẫn dắt trẻ đến với thiên nhiên.

Tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với thiên nhiên, hướng dẫn trẻ quan sát
thiên nhiên là vấn đề mang tính giáo dục lớn lao và là một trong những nội
dung giáo dục thẩm mĩ quan trọng cho trẻ. Trường mầm non cần có góc thiên
nhiên, trồng nhiều cây cảnh, hoa lá để trẻ quan sát cần có bể cá cảnh,
chuồng gà, chuồng chim, chuồng thỏ… để trẻ chiêm ngưỡng, qua đó giáo dục
thẩm mĩ cho trẻ.

Thực tế ở nhiều địa phương, nhất là ở thành phố, nhiều trường mầm
non không có góc thiên nhiên, trẻ ít được tiếp xúc với thiên nhiên đa dạng –
một thiệt thòi lớn của tuổi thơ. Nhìn lũ trẻ chơi trên bãi cát, nó đào xới, hí hoáy
xúc cát ở chỗ này đổ sang chỗ khác một cách lí thú; ngỡ ngàng, sung sướng
khi phát hiện con tôm đi giật lùi, con cua thì lại bò ngang, con cá vàng phất
phơ cái đuôi như lá cờ…, ta càng nhận thấy sự thiệt thòi, bất hạnh của những
đứa trẻ không có điều kiện tiếp xúc với các hiện tượng thiên nhiên đa dạng.

Người lớn, cô giáo mầm non tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với các sự
vật, hiện tượng đa dạng, phong phú của thiên nhiên và dạy trẻ biết quan sát,
cảm thụ được vẻ đẹp muôn màu của thiên nhiên, là đem lại hạnh phúc cho
tuổi thơ.

b) Giáo dục vẻ đẹp trong đời sống sinh hoạt hằng ngày

Trẻ em không chỉ tìm thấy cái đẹp trong thiên nhiên mà còn tìm thấy cái
đẹp trong đời sống xã hội. Đưa cái đẹp vào cuộc sống và giáo dục cái đẹp
của cuộc sống cho trẻ thơ là trách nhiệm của người lớn. Vì một óc thẩm mĩ tốt
hay xấu, một thị hiếu lành mạnh hay thấp hèn, một cách cư xử có văn hoá
hay thiếu văn hoá… đều bắt nguồn từ đời sống của con người. Do vậy, giáo
dục vẻ đẹp trong đời sống sinh hoạt hằng ngày cho trẻ là một nội dung giáo
dục thẩm mĩ cơ bản cho trẻ em lứa tuổi nhà trẻ. Vẻ đẹp trong đời sống sinh
hoạt của con người rất đa dạng, phong phú, được thể hiện trước hết ở mối
quan hệ giữa con người với con người, trong những hành vi văn hoá – vệ
sinh… Dưới đây là một số nội dung giáo dục cơ bản:

– Giáo dục vẻ đẹp trong mối quan hệ với những người thân. Đó là giáo
dục cho trẻ biết thương yêu, gắn bó, chào hỏi lễ phép với ông bà, cha mẹ, cô
giáo…, biết thân thiện với bạn bè và biết cám ơn người khác mang lại niềm
vui cho mình, biết xin lỗi khi gây phiền hà cho người khác.

– Giáo dục cho trẻ những hành vi văn hoá – vệ sinh. Đó là việc giáo dục
trẻ những hành vi, cử chỉ, lời ăn tiếng nói đẹp đẽ thể hiện thái độ đúng đắn
với mọi người (lễ phép với người lớn, thân thiện với bạn bè…).

Giáo dục trẻ thói quen sạch sẽ, vệ sinh trong ăn uống (rửa tay trước khi
ăn, ngồi ăn ngay ngắn, không vừa nhai vừa nói chuyện, lau miệng, uống
nước sau khi ăn…) thói quen sạch sẽ, vệ sinh trong ăn mặc (không bôi bẩn ra
quần áo, đầu tóc gọn gàng...); giáo dục và rèn luyện cho trẻ tác phong sinh
hoạt văn hoá, văn minh (đi đứng nhanh nhẹn, khoẻ khoắn, tự tin, ăn nói gãy
gọn…). Tất cả những hành vi này cần được giáo dục và rèn luyện ngay từ
nhỏ. Nếu người lớn, cô giáo mầm non không có ý thức dạy dỗ, rèn luyện tỉ mỉ
và chu đáo sẽ dễ hình thành những thói quen hành vi không mong muốn (như
nói tục, chửi bậy, nhếch nhác, bẩn thỉu trong ăn, mặc…). Việc hình thành thói
quen tốt là một việc làm đòi hỏi tính kiên trì, và việc phá vỡ thói quen xấu
cũng cần đòi hỏi sự kiên trì.

– Giáo dục cho trẻ vẻ đẹp trong mối quan hệ với thế giới đồ vật xung
quanh

Thế giới đồ vật, đồ chơi là cái hấp dẫn trẻ mạnh mẽ. Đồ vật càng đẹp
đẽ, hấp dẫn trẻ bao nhiêu thì trẻ càng say sưa khám phá bí ẩn của đồ vật và
thích chơi với đồ vật đó bấy nhiêu. Do vậy, để giáo dục trẻ vẻ đẹp trong mối
quan hệ với thế giới đồ vật có hiệu quả, trước hết người lớn phải cung cấp
cho trẻ đồ vật, đồ chơi đẹp. Trong quá trình trẻ hoạt động với đồ vật, người
lớn cần dạy trẻ biết cách sử dụng đồ vật theo đúng chức năng của nó, nắm
được nguyên tắc sử dụng đồ vật và cảm nhận được vẻ đẹp của nó.
Trong khi lĩnh hội được những hành động, thao tác sử dụng đồ vật, thì
đồng thời trẻ cũng lĩnh hội được quy tắc hành vi trong xã hội (chức năng xã
hội của đồ vật, nguyên tắc sử dụng nó…). Đây chính là cơ hội để dạy trẻ cách
cư xử đẹp, có văn hoá đối với những đồ vật xung quanh.

Trong quá trình hướng dẫn trẻ hoạt động với đồ vật, người lớn cần tỏ
thái độ hài lòng hay không hài lòng với những hành vi, việc làm của trẻ khi sử
dụng đồ vật là rất cần thiết. Nhờ thái độ đó của người lớn, đứa trẻ có thể điều
chỉnh hành vi của mình để có được cách ứng xử tốt nhất đối với thế giới đồ
vật. Ví dụ: Người lớn có thể chấp nhận để trẻ tháo một vài bộ phận của chiếc
ô tô đồ chơi để xem xét nó, nhưng không thể bằng lòng khi nhìn thấy đứa trẻ
vặt chân, tay, đầu búp bê.

Khi dạy trẻ vẻ đẹp trong mối quan hệ với thế giới đồ vật cũng cần tập
cho trẻ thói quen ngăn nắp, gọn gàng, sạch sẽ trong việc sắp xếp, trang trí
phòng chơi – tập, phòng ăn, phòng ngủ của chúng. Việc làm này chính là một
nội dung cơ bản của việc giáo dục và rèn luyện hành vi văn hoá – vệ sinh
thẩm mĩ cho trẻ trong đời sống sinh hoạt hằng ngày.

c) Bước đầu cho trẻ làm quen với nghệ thuật

– Bước đầu cho trẻ làm quen với âm nhạc

Thực tiễn cuộc sống và kết quả của nhiều công trình nghiên cứu cho
thấy rằng, trẻ thơ rất lí thú với nghệ thuật, nhất là âm nhạc. Những giai điệu,
tiết tấu nhẹ nhàng của âm nhạc đưa trẻ vào thế giới của cái đẹp một cách êm
ái và hấp dẫn. Đối với trẻ nhỏ, những bài hát ru có ý nghĩa cực kì to lớn: Lời
ru chan chứa tình yêu thương đằm thắm của người mẹ chính là những giai
điệu đẹp đẽ đầu tiên đến với con người, và cũng có thể nói: nền văn hoá của
dân tộc, của loài người đến với mỗi chúng ta trước tiên qua lời ru của mẹ. Đó
là những âm điệu đằm thắm nhất, êm ái nhất, có tác dụng giáo dục lòng yêu
con người, yêu quê hương đất nước cho trẻ em từ thuở còn nằm nôi. Những
giai điệu mượt mà, êm dịu của lời ru tác động vào đôi tai non nớt của trẻ, giúp
cho trẻ có được đôi tai nghe nhạc tinh tế. Do vậy, người lớn (người mẹ, giáo
viên mầm non…) cần phải biết hát ru để ru trẻ ngủ, dỗ dành khi trẻ khóc,
chuyện trò với trẻ bằng những âm thanh tuyệt vời ấy. Các bà mẹ, cô giáo
mầm non khi hát ru cho trẻ nghe phải hát với cả tấm lòng mình: vừa hát vừa
nhìn vào trẻ, bế trẻ vào lòng để ôm ấp, vỗ về cầm tay trẻ để cử động theo giai
điệu, phù hợp với tình cảm của bài hát để tạo ra một cảm giác an toàn cho trẻ
đi vào giấc ngủ, thôi khóc hay chịu chơi. Người mẹ, cô giáo mầm non không
biết hát ru, hoặc hát một cách vô cảm sẽ gặp khó khăn trong giáo dục trẻ thơ.

Khi trẻ biết nói, cần khuyến khích trẻ hát và vận động theo nhạc. Để
giúp trẻ làm quen với tiết tấu, người lớn cần tạo điều kiện cho trẻ vỗ tay, gõ
mõ, đánh trống… khi hát.

Người lớn, cô giáo mầm non cần tuyển chọn những bài hát ngắn, vừa
có giai điệu đẹp, vừa có tiết tấu vui thì trẻ nhỏ nối tiếp nhận được. Tuy nhiên,
không phải lúc nào cũng cho trẻ tiếp xúc với những bài hát có tiết tấu rộn
ràng, lại càng nên tránh những bài hát có tiết tấu quá sôi động đến nhức tai,
nhức óc gây kích động có hại cho thần kinh của trẻ.

− Giáo dục vẻ đẹp trong thơ ca cho trẻ

Thơ ca là tinh hoa của ngôn ngữ, là kết tinh vẻ đẹp của tiếng mẹ đẻ sản
phẩm trí tuệ và tình cảm của biết bao thế hệ nối tiếp nhau. Thơ ca không chỉ
gieo vào lòng chúng ta vẻ đẹp của tiếng nói dân tộc mà còn ánh lên vẻ đẹp
của tâm hồn Việt Nam, thiên nhiên Việt Nam.

Sớm cho trẻ tiếp xúc với thơ ca là điều rất cần thiết, vì thơ ca là nguồn
dinh dưỡng cho tâm hồn trẻ thơ về nhiều mặt: giáo dục cho trẻ cái hay, cái
đẹp của tiếng nói dân tộc; làm giàu thế giới xúc cảm của trẻ thơ và nuôi
dưỡng trí tưởng tượng của trẻ.

Tính nhạc điệu của thơ ca giúp trẻ tiếp nhận nó một cách dễ dàng và
thích thú. Thật tuyệt vời khi bắt đầu học nói, trẻ được tiếp xúc với thơ ca, một
thứ ngôn ngữ giàu nhạc điệu, vần điệu và giàu hình tượng. Tất cả những yếu
tố đó thúc đẩy ý thức ngôn ngữ của trẻ được nảy sinh, giúp cho lời nói của trẻ
được hay hơn, đẹp hơn, thế giới xúc cảm của trẻ phong phú hơn, lành mạnh
hơn, cân bằng hơn, trí tưởng tượng của trẻ phong phú, bay bổng, đầy ước
mơ.

Người lớn, cô giáo mầm non cần tuyển chọn những bài thơ ngắn, giàu
nhạc điệu, dễ nhớ, dễ thuộc đem đến cho trẻ thơ. Đồng thời cần khuyến
khích, tạo điều kiện cho tâm hồn thơ của trẻ được nảy nở khi giao tiếp với mọi
người, khi tiếp xúc với vẻ đẹp của thiên nhiên, cũng như trong cuộc sống sinh
hoạt hằng ngày.

− Giáo dục vẻ đẹp trong khúc hát đồng dao cho trẻ

Đồng dao là những câu vè ngắn gọn có vần điệu, nhịp điệu được trẻ
thơ thích hát trong khi chơi, trong sinh hoạt cộng đồng – Đồng dao có tác
dụng giáo dục mạnh mẽ đối với trẻ em, trước hết là giáo dục thái độ văn hoá
đối với hai mối quan hệ chủ yếu của con người: con người – thiên nhiên; con
người – xã hội.

Đối với thiên nhiên, đồng dao gợi lên ở trẻ tình yêu hồn nhiên đối với
con ong, con kiến, con cò, con vạc, cỏ cây hoa lá…

Đối với con người, đồng dao gợi lên ở trẻ tình yêu đối với ông bà, cha
mẹ, bà con xóm làng; đồng cảm với những người có cảnh ngộ éo le, sẵn lòng
giúp đỡ người nghèo khổ; tàn tật. Có thể nói, đồng dao là những bài học đạo
đức rất nhẹ nhàng và hấp dẫn đối với trẻ thơ.

Mặt khác, đồng dao với tính hài hước của nó đã mang lại cho trẻ những
niềm vui sướng vô tư, nụ cười sảng khoái. Hơn nữa, chính sự hài hoà, hóm
hỉnh của đồng dao đã bồi dưỡng trí tuệ của trẻ thêm thông minh, sắc sảo.

– Giáo dục cái đẹp trong hoạt động tạo hình

Như đã trình bày trong nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ cho trẻ lứa tuổi nhà
trẻ, tạo hình rất hấp dẫn trẻ thơ. Ngay từ nhỏ, trẻ đã thích nhìn ngắm những
bức tranh màu sắc sặc sỡ, những hình khối đa dạng, nhưng chúng chưa tự
nhận biết, chưa tự phát hiện ra cái đẹp của những tác phẩm ấy. Bởi vậy,
người lớn cần phải hướng dẫn trẻ, tổ chức cho trẻ được tiếp xúc với nhiều tác
phẩm tạo hình có giá trị như tranh, tượng… và hướng dẫn trẻ cảm thụ được
vẻ đẹp của mỗi tác phẩm.

Tranh, tượng đưa đến cho trẻ em phải đẹp, rõ ràng, màu sắc tươi sáng,
đường nét hài hoà để sao cho trẻ có thể cảm nhận được vẻ đẹp của chúng
một cách dễ dàng. Chúng ta có thể bắt đầu từ những bức tranh dân gian (gà,
lợn, cá) với những đường nét khoẻ khoắn, màu sắc tươi sáng đến những bức
tranh hiện đại (của hoạ sĩ và của tuổi thơ). Cho trẻ chơi với những con giống;
những đồ chơi dân gian; đồ chơi thường; cho trẻ xem những bức tượng đặt ở
công viên, đại lộ… Trẻ rất thích ngắm nhìn những tác phẩm nghệ thuật này,
và cũng thích thú hơn khi người lớn hướng dẫn trẻ cảm nhận được vẻ đẹp
Tải bản FULL (file doc 297 trang): https://bit.ly/3u9YMpk
của mỗi tác phẩm. Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
Cùng với việc hướng dẫn trẻ cảm thụ vẻ đẹp của tác phẩm tạo hình khi
được xem, sờ mó nó, người lớn cần tạo điều kiện cho trẻ tập cầm bút, vẽ
những đường cơ bản, cho trẻ chơi với đất nặn, tập nặn. Mặc dù trẻ vẽ nguệch
ngoạc, nặn còn thô kệch chưa có hình thù rõ rệt, nhưng dần dần trẻ sẽ có kĩ
năng vẽ những tranh đơn giản (vẽ quả cam, quả thị, quả táo, cái lá…), nặn
theo ý định – một số cái đơn giản (đôi đũa, cái thìa, quả cam, quả thị…).

Các hoạt động tạo hình khác như xếp hình, xé dán… cũng là những
hoạt động được trẻ ưa thích và người lớn có thể giáo dục thẩm mĩ cho trẻ qua
việc tổ chức cho trẻ tham gia những hoạt động này.

Tóm lại, tuổi thơ là giai đoạn đầu tiên của cuộc đời, là thời kì con người
tiếp nhận cái đẹp một cách dễ dàng, bởi vì trẻ nhỏ đến với cái đẹp một cách
tự nhiên như đến với những gì thân thiết, yêu quý. Vì vậy nếu bỏ qua tuổi thơ
trong việc giáo dục cái đẹp là bỏ lỡ một cơ hội thuận lợi trong giáo dục con
người. Nội dung giáo dục thẩm mĩ cho trẻ phải phong phú, bao gồm nhiều thể
loại, đặc biệt là giáo dục cho trẻ cái đẹp gần gũi trong cuộc sống hằng ngày,
để hình thành năng lực thẩm mĩ cho trẻ. Giáo dục thẩm mĩ không thể áp đặt,
gò bó, mà phải để trẻ tự nhiên, thoải mái, giữ được tính hồn nhiên của trẻ thơ.

4.3. Nhiệm vụ, nội dung và phương pháp giáo dục thẩm mĩ cho trẻ
em lứa tuổi mẫu giáo
4.3.1. Nhiệm vụ và nội dung giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em lứa tuổi mẫu
giáo

– Phát triển tri giác, tình cảm và hình thành biểu tượng về cái đẹp cho
trẻ mẫu giáo.

Giáo dục thẩm mĩ bắt đầu từ sự phát triển năng lực tri giác cái đẹp,
cảm thụ cái đẹp, hiểu cái đẹp theo cách người ta thường nói về nghệ thuật.

Theo quan điểm của mĩ học Mác– Lê nin, sự tri giác cái đẹp được hiểu
là quá trình cảm thụ cái đẹp mà kết quả của nó là những rung cảm thẩm mĩ,
những tình cảm thẩm mĩ.

Cơ sở của sự tri giác cái đẹp là sự nhận thức cảm tính, cụ thể về mặt
thẩm mĩ. Ngay từ những năm đầu tiên của cuộc sống, trẻ đã bị lôi cuốn một
cách vô ý thức vào tất cả những gì mới lạ, hấp dẫn như đồ vật có màu sắc
sặc sỡ, những âm thanh và nhịp điệu rộn rã, tươi vui của thế giới xung quanh.
Từ “đẹp” sớm đi vào cuộc sống của trẻ. Trẻ say sưa lắng nghe bài hát, nghe
truyện cổ tích, xem tranh ảnh. Song đó chưa phải là tình cảm thẩm mĩ mà chỉ
là sự biểu hiện của hứng thú nhận thức. Nhiệm vụ của giáo dục thẩm mĩ là
giúp trẻ chuyển từ tri giác tự phát sang sự tri giác có ý thức về cái đẹp. Cô
giáo cần làm cho trẻ chú ý đến những sự vật và hiện tượng của tự nhiên, đến
những hành vi của con người, dạy cho các em biết nhìn ra và phát triển được
cái đẹp trong đời sống, trong thiên nhiên, trong lao động, trong hành vi và
hành động của con người, dạy cho các em biết nhìn nhận về phương diện
thẩm mĩ đối với thế giới xung quanh.

Sự tri giác thẩm mĩ bao giờ cũng liên quan chặt chẽ với cảm xúc và tình
cảm thẩm mĩ. Với trẻ em, đặc điểm của tình cảm thẩm mĩ là niềm vui vô tư, là
cảm xúc trong sáng xuất hiện khi thấy cái đẹp. Tình cảm thẩm mĩ giữ vai trò
rất to lớn trong việc đánh giá các sự vật và hiện tượng khác nhau, trong việc
rèn luyện thị hiếu thẩm mĩ sau này cho trẻ.

4133676

You might also like