ISSN 1859-4859
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP
V¨n hãa häc
TẠP CHÍ CHUYÊN NGÀNH VĂN HÓA NGHỆ THUẬT
Ra 2 tháng một kỳ
GS.TS. TRƯƠNG QUỐC BÌNH
PGS.TS. NGUYỄN THỊ HIỀN
Môc lôc
GS.TS. ĐÀO MẠNH HÙNG
Sè 6 (52) - 2020
GS.TS. LƯƠNG VĂN HY
TS. VÕ THỊ HOÀNG LAN
(Thường trực Hội đồng)
GS.TS. TỪ THỊ LOAN
TS. NGUYỄN VĂN LƯU
PGS.TS. PHẠM LAN OANH
PGS.TS. BÙI HOÀI SƠN
(Chủ tịch Hội đồng)
NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN
NGUYỄN NGỌC THƠ
Một số thành tố của văn hóa học đường ................ 3
TRƯƠNG VĂN MINH
Công nghiệp văn hóa ở Việt Nam: từ e dè
khái niệm đến lạc quan xu thế ............................ 24
NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN
Phó Tổng biên tập phụ trách
TS. VÕ THỊ HOÀNG LAN
Sửa bản in
NGUYỄN KIM CHI
Trình bày
BÙI THỊ THANH MAI
Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam trong sự phát triển
kinh tế xã hội: niềm tin về tính xác thực tỷ lệ
thuận với số lượng khách tham quan .................... 32
NGUYỄN ĐỨC THẮNG
NGUYỄN BÍCH VÂN
Biến đổi của một số câu lạc bộ, giáo phường
ca trù tại Hà Nội hiện nay .................................... 40
TÒA SOẠN
NGUYỄN ĐÌNH LÂM
Tư tưởng phát triển tân nhạc Việt Nam đáp ứng
thị hiếu âm nhạc mới .......................................... 47
32 Hào Nam - Đống Đa - Hà Nội
Tel: 024.38569159
E-mail: tapchivicas@gmail.com
Website: www.vicas.org.vn
TRẦN LY LY
Mối quan hệ giữa âm nhạc và múa trong nghi lễ
lên đồng: sự thể hiện đức tin của tín ngưỡng thờ
Mẫu Tam phủ Tứ phủ ... ...................................... 54
NGUYỄN HOÀNG HƯNG
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam với việc
trưng bày về văn hóa các tộc người ..................... 61
SUI NGHIỆP PHÁT
Phát triển du lịch nông thôn ở tỉnh Bình Phước ......................................... 67
TƯ LIỆU - THÔNG TIN
TRƯƠNG HOÀNG VINH
Nghề đan võng ngô đồng ở Cù Lao Chàm ................................................... 77
Ảnh bìa: Hoa ngô đồng ở Cù Lao Chàm. Ảnh: Cao Trung Vinh.
In tại Công ty cổ phần SXTM Ngọc Châu, theo giấy phép xuất bản số 226/GP-BTTTT.
Giá: 25.000Đ
Một số thành tố của văn hóa...
3
MỘT SỐ THÀNH TỐ
CỦA VĂN HÓA HỌC ĐƯỜNG
Nguyễn Ngọc Thơ*
Tóm tắt: Văn hóa học đường là một tiểu văn hóa ứng với môi trường giáo dục, vừa chứa đựng sắc thái
văn hóa dân tộc vừa chuyển tải và chia sẻ các giá trị đặc thù chung toàn nhân loại. Văn hóa học đường
hình thành phải dựa trên những giả định ban đầu (niềm tin, giá trị, tầm nhìn, sứ mệnh, mục tiêu v.v.), trở
thành môi trường và chất xúc tác để hoạt động dạy và học, các sinh hoạt gắn với môi trường học đường
cũng như mục tiêu giáo dục con người được thực hiện suôn sẻ và hiệu quả. Bài viết này đi từ khái luận
đến cấu trúc các thành tố văn hóa học đường, trong đó đặc tả một số thành tố tiêu biểu nhất để phác họa
bức tranh nội hàm của văn hóa học đường qua nền tảng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn của thế giới.
Nghiên cứu này được thực hiện dưới góc nhìn văn hóa học, lấy yếu tố nghi lễ (trọng tâm là các nghi
thức cận “ngưỡng” trong học đường) và hiệu quả của nó (quan điểm của Victor Turner (1968/1969) và
Seligman và Weller (2012) làm môi trường và thước đo cho sự kiến tạo và vận hành văn hóa học đường.
Theo đó, điểm mấu chốt quyết định tính chất và hiệu quả của văn hóa học đường nằm ở việc kiến tạo
“ngưỡng”, trạng thái “cộng cảm”, “chia sẻ” và các khả năng sáng tạo chứa đựng các giá trị giả định của
các hoạt động và yếu tố mang tính lễ tục trong nhà trường**..
Từ khóa: Giáo dục, văn hóa học đường, cấu trúc, thành tố.
1. Khái luận Văn hóa học đường
Văn hóa học đường (dưới đây viết tắt là
VHHĐ) là một vấn đề không mới, tuy rằng
lịch sử nghiên cứu vấn đề chỉ bắt đầu từ thập
niên 1930 ở Hoa Kỳ và châu Âu. Có thể nói
xuất phát điểm ban đầu của phong trào nghiên
cứu VHHĐ chính là cuộc đại khủng hoảng
kinh tế thế giới cuối thập niên 1920 - đầu thập
niên 1930. Trước đó, VHHĐ ở Mỹ bắt đầu
manh nha từ cuối thế kỷ XVII - đầu thế kỷ
XIX, bắt nguồn từ những cuộc nổi dậy, xô xát
của sinh viên Mỹ trong một số trường đại học,
do một số sinh viên giàu có và “hiểu đời” hơn
lãnh đạo gây nên. Họ cố tình chống lại những
sự áp đặt khắc nghiệt của lãnh đạo trường và
*
PGS.TS, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh.
** Bài viết này trích một phần nội dung của công
trình nghiên cứu mang mã số A2018-18b-01 do
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tài trợ.
*
các giáo sư, nhà quản lý trong trường (1).
Song phải đến thập niên 1930 VHHĐ mới đạt
đến cao trào. Lúc bấy giờ xã hội Mỹ bất ổn,
công ăn việc làm rất hạn chế, sinh viên trong
các trường đại học chưa muốn ra trường. Điều
này làm phát sinh nhu cầu quan tâm, tìm hiểu
và nghiên cứu đời sống văn hóa sinh viên
trong hệ thống các trường đại học; nhờ vậy
VHHĐ được xác định là một dạng thức tiểu
văn hóa (subculture) đặc thù của tổng thể xã
hội. Thời ấy, tiêu biểu nhất phải kể đến các
công trình Boys in White của Becker (et al.
1961) và Student culture in Vassar của
Bushnell (1963). Theo tác giả Becher (2), việc
nghiên cứu văn hóa gắn với tầng lớp sinh viên
trong các trường đại học ở Mỹ đã rất thành
công, thấu đáo và mang tính hệ thống (3).
Theo Peters và Waterman (1982) nghiên cứu
VHHĐ ở Mỹ chịu chi phối bởi trào lưu nghiên
cứu văn hóa tổ chức, trong đó thập niên 1960
chủ yếu diễn giải theo hướng văn hóa tổ chức
4
(organizational culture), trong khi đến thập
niên 1970 thì nhìn nhận theo hướng văn hóa
doanh nghiệp (corporate culture) (4). Đến hai
thập niên cuối thế kỷ XX, VHHĐ đã thực sự
trở thành một trào lưu nghiên cứu - ứng dụng
rộng rãi ở Mỹ và lan rộng toàn thế giới, trở
thành một phân khoa học liên ngành thú vị nằm
giữa Nghiên cứu văn hóa (Cultural studies),
Quản lý học (Management studies) và Giáo
dục học (Pedgogics). Tùy vào trọng tâm nội
dung và giả định nghiên cứu ban đầu mà các
nhà nghiên cứu, các trường phái lựa chọn nhấn
mạnh một trong ba phương diện ấy.
Trong tiếng Anh, VHHĐ được gọi chung
là school culture (5), thế nhưng trong tiếng
Việt tồn tại hai khái niệm: văn hóa học đường
và văn hóa nhà trường. Trong tiếng Hán,
VHHĐ được gọi là hiệu viên văn hóa
(校園文化), về mặt hình thức gần gũi hơn với
khái niệm school culture. Xét về nghĩa rộng,
cả hai khái niệm này đều có thể hiểu là có
cùng ý nghĩa, song xét về bản chất hai khái
niệm vẫn có điểm khác biệt. Khái niệm
VHHĐ có phổ nghĩa rộng hơn và bao trùm cả
khái niệm văn hóa nhà trường. VHHĐ lấy
hoạt động học đường (dạy - học) và các mối
quan hệ tương tác giữa các nhóm khách thể
làm trọng tâm (cả bên cung cấp và bên thụ
hưởng hoạt động học đường); trong khi khái
niệm văn hóa nhà trường lấy đơn vị, tổ chức
(ở đây khái niệm nhà trường là một tổ chức)
làm đơn nguyên xem xét, đánh giá văn hóa.
Nói cách khác, khái niệm văn hóa nhà trường
được hiểu theo trục tổ chức và quản lý (bên
cung cấp hoạt động học đường) hơn là hoạt
động dạy và học trong học đường. Trong
khuôn khổ nghiên cứu này chúng tôi thống
nhất dùng khái niệm văn hóa học đường,
trong tiếng Anh là school culture, tiếng Hán là
hiệu viên văn hóa (校園文化).
Theo Peterson và Deal, VHHĐ là "mô
hình sâu sắc của các giá trị, tín ngưỡng và
truyền thống đã hình thành trong suốt lịch sử
6 (52) - 2020: NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN
của trường” (6), là những mạng lưới phức tạp
của những câu chuyện, truyền thống và nghi
thức vừa chớm nở khi giáo viên, học sinh, phụ
huynh và quản trị viên làm việc cùng nhau và
giải quyết những khủng hoảng và thành tựu
(7). VHHĐ "chú trọng nhiều hơn đến cảm
giác và giai điệu hiện tại của nhà trường, nó
nhấn mạnh nội dung cảm xúc của các mối
quan hệ và tinh thần trong đơn vị” (8). VHHĐ
hàm chứa những ý nghĩa xã hội ổn định và
ngấm ngầm, nó giúp hình thành nên niềm tin
và thái độ theo thời gian. VHHĐ có sức bền
cao, có ảnh hưởng quan trọng tới các hoạt
động con người, nó đúc khuôn cách con người
suy nghĩ, hành động và cảm nhận” (9).
Còn đứng ở góc nhìn tổ chức, Schein
(1985) xác định VHHĐ là những mạng lưới
phức tạp của những truyền thống và lễ nghi
được các thế hệ giảng viên, sinh viên, phụ
huynh và nhà quản lí cùng xây dựng theo thời
gian thông qua qua trình sống, làm việc, đối
mặt và vượt qua các thử thách (10). Rossman,
Corbett, và Firestone (11) thì xác định VHHĐ
hàm ý cách thức mọi hiện tượng đang diễn ra,
nó giúp diễn giải các sự kiện, thái độ, ngôn từ,
hành vi và tạo nghĩa cho chúng. Đồng thời
VHHĐ cũng quy định cách thức con người
nên theo cũng như mô thức thái độ chuẩn mực
phù hợp với từng tình huống cụ thể. Wilson
trước đó trong khái niệm về văn hóa cũng
nhấn mạnh “văn hóa chính là kiến thức được
chia sẻ và trao truyền về những thứ được biểu
trưng hóa và phải được biểu trưng hóa trong
hành động và vật mẫu tạo tác” (12).
Ở Việt Nam, tác giả Hồ Bá Thâm khái luận
VHHĐ phải là một dạng văn hóa mở, nó kích
thích sự sáng tạo của người dạy và người học,
vừa mang tính dân tộc vừa mang hơi thở thời
đại. Tác giả Thái Duy Tuyên nhấn mạnh
VHHĐ là “những giá trị, những kinh nghiệm
lịch sử của xã hội loài người được tích lũy
trong quá trình xây dựng hệ thống giáo dục
quốc dân và quá trình thành nhân cách” (13),
Một số thành tố của văn hóa...
trong đó, VHHĐ Việt Nam phải hun đúc cho
được hệ thống giá trị, niềm tin, hoài bão và lí
tưởng cao đẹp. Nguyễn Minh (2009) và Đặng
Văn Minh (2009) khẳng định VHHĐ bao
trùm các giá trị cơ bản, chuẩn mực đạo đức,
mẫu hành vi của các thành viên (lãnh đạo,
giáo viên học sinh, cán bộ nhân viên), trang
phục, ngôn ngữ giao tiếp, khung cảnh nhà
trường, tình cảm, sự tôn trọng của các thành
viên với nhau (14). Phạm Văn Khanh cho rằng
“VHHĐ là những giá trị, những kinh nghiệm
lịch sử của xã hội loài người đã tích lũy trong
quá trình xây dựng hệ thống giáo dục và quá
trình hình thành nhân cách” (15). Còn theo
Phạm Ngọc Trung, VHHĐ được xem là “một
môi trường hoạt động đặc biệt của con người,
mang tính xã hội và lịch sử. Tùy theo triết lí
giáo dục của từng thời đại hoặc của từng quốc
gia mà người ta có thể xây dựng những cấu
trúc khác nhau” (16). Theo Vũ Dũng, khái luận
VHHĐ là “hành vi ứng xử của các chủ thể
tham gia hoạt động đào tạo trong nhà trường, là
lối sống văn minh trong trường học” (17).
Nguyễn Vũ Bích Hiền và cộng sự cho rằng:
văn hóa nhà trường “là một tập hợp các chuẩn
mực, các giá trị, niềm tin và hành vi ứng xử”,
“là những nét đặc trưng riêng biệt tạo nên sự
khác biệt của nhà trường với các tổ chức khác
và sự khác biệt giữa trường này với trường
khác”, “là những giá trị tốt đẹp được hình
thành bởi một tập thể và được mỗi cá nhân
trong nhà trường chấp nhận” (18). Trong một
bài viết khác, chúng tôi từng khái luận rằng văn
hóa học đường là hệ thống các giá trị chuẩn
mực được kiến tạo và không ngừng hoàn thiện
qua các quá trình tương tác, ứng xử giữa nhà
quản lý giáo dục, cán bộ giảng viên, sinh viên
và cộng đồng với nhau trong hoạt động dạy và
học và trong ứng xử với thế giới bên ngoài
nhằm xây dựng môi trường học đường nhân
văn lành mạnh, tạo tiền đề phát huy hiệu quả
truyền thống dạy và học đặc thù của các đơn vị
giáo dục hướng tới đáp ứng nhu cầu nguồn
nhân lực có đầy đủ tài - trí - đức và có tư duy
sáng tạo đa văn hóa cho xã hội (19).
5
Tóm lại, văn hóa từng được hiểu là mô
thức, “tập hợp những đặc trưng” hay “hệ
thống các giá trị” thể hiện qua hành vi tương
tác và ứng xử trong môi trường học đường,
giữa các nhóm đối tượng với nhau (nhà quản
lý, giảng viên, sinh viên) và với nhà trường
với tư cách là một thiết chế văn hóa. Trên đại
thể, VHHĐ là hệ thống các giá trị chuẩn mực
được kiến tạo và không ngừng hoàn thiện qua
các quá trình tương tác, ứng xử giữa nhà quản
lý giáo dục, cán bộ giảng viên, sinh viên và
cộng đồng với nhau trong hoạt động dạy và
học và trong ứng xử với thế giới bên ngoài
nhằm xây dựng môi trường học đường nhân
văn lành mạnh, tạo tiền đề phát huy hiệu quả
truyền thống dạy và học đặc thù của các đơn vị
giáo dục hướng tới đáp ứng nhu cầu nguồn
nhân lực có đầy đủ tài - trí - đức và có tư duy
sáng tạo đa văn hóa cho xã hội.
VHHĐ biểu hiện ra thành các cung cách,
quy tắc và giá trị ứng xử trong các hoạt động
dạy và học sao cho chúng đạt được mục tiêu,
sứ mệnh ban đầu (những giả định). Cách thức
mà VHHĐ hình thành và vận hành thực chất
là một “cơ chế nhào nặn” tư duy, do đó nó
mang đầy đủ các tính chất cơ bản của một
“nghi lễ” (ritual, nhóm nghi lễ xã hội/practical
rituals) theo quan niệm của Victor Turner.
Theo đó, các chuẩn mực, quy tắc, quy ước
cùng với hệ thống biểu tượng (đã thẩm thấu
giá trị niềm tin học đường v.v...) cùng trải qua
“ngưỡng” thông qua các nghi lễ, nghi thức
đặc thù có sức mạnh khơi dậy các cảm xúc,
cảm thức con người, cùng tạo nên trạng thái
“cộng cảm” và chia sẻ chung giữa các thành
viên cùng nhóm với nhau. Quan điểm này của
Victor Turner về sau được hai tác giả
Seligman và Weller (2012) chia sẻ trong lý
luận về sự tương tác giữa các khái niệm (quan
niệm, notion) và nghi lễ, nghi thức (ritual) để
sáng tạo nên những trải nghiệm chung được
chia sẻ (shared experience). Tuy nhiên, đích
đến của VHHĐ không phải chỉ là những cảm
thức “cộng cảm” hay sự sẻ chia mang tính
6 (52) - 2020: NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN
6
tình cảm, mà nó phải là sự hình thành các khả
năng sáng tạo, kiến tạo mới (lý tính) của các
thành viên sau các quá trình ấy, cái mà Victor
Turner gọi là “suối nguồn của những khả năng
thuần túy” (20) và là khả năng kiến tạo các mô
thức “phản-cấu trúc xã hội (social
antistructure)” (21). Roy Rappaport cũng tương
tự khẳng định các nghi lễ (cả nghi lễ thiên về
lời nói lẫn nghi lễ mang tính hành động) chứa
đựng các khả năng sáng tạo mới (22). Nghiên
cứu này của chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh đến
khả năng kiến tạo các cảm thức chia sẻ chung
(quan điểm Seligman và Weller) và khả năng
kiến tạo những ý tưởng, giá trị mới (quan điểm
Turner) trong VHHĐ thông qua cơ chế nghi
thức - nghi lễ hóa. Đồng thời, chúng tôi nhận
thấy rằng mặc dù trải qua quá trình nghi thức
hóa, nghi lễ hóa, tính đa dạng của các sắc thái
cá nhân trong môi trường học đường không hề
biến mất. Theo các tác giả Turner (1974,
1977), Seligman và Weller (2012), các cá nhân
trong nhóm thông qua khả năng đặc biệt của
yếu tố nghi lễ, các sắc thái các sắc thái cá nhân
ấy tạm thời lắng đọng, thay vào đó yếu tố
“cộng cảm” đang hình thành giúp các cá nhân
“vượt các ranh giới” và gặp gỡ nhau ở những
điểm chung mà giả định VHHĐ muốn hướng
tới. Lúc này, cá nhân quay trở lại tạo động lực
để cá nhân và cộng đồng tiếp tục sáng tạo các
giá trị mới. Điều cần nhấn mạnh là các giá trị
sáng tạo mới này cần chứa đựng các định
hướng giá trị VHHĐ.
2. Cấu trúc văn hóa học đường
Cấu trúc của VHHĐ vẫn là vấn đề còn
tranh cãi dù rằng không ít tác giả từng đề xuất
các cấu trúc của VHHĐ dưới các góc độ khác
nhau. Hai tác giả Deal và Kennedy đứng ở
góc nhìn văn hóa tổ chức đã thảo luận các
thành tố của văn hóa tổ chức của một đơn vị
(bao gồm cả thiết chế học đường) gồm 1) Môi
trường hoạt động/vận hành - yếu tố quyết định
những việc cần làm để tiến tới thành công; 2)
hệ giá trị bao gồm quan niệm và niềm tin cốt
lõi của đơn vị - yếu tố hình thành hạt nhân của
VH đơn vị; 3) Hình ảnh nhân vật tiêu biểu những hình mẫu có thực về tinh thần trách
nhiệm và hiệu quả; 4) Hệ thống nghi thức và
nghi lễ chứa đựng lề lối, trường quy hoạt động
mỗi ngày của đơn vị; và 5) Hệ thống các
mạng lưới văn hóa làm phương tiện/công cụ
giao tiếp trong đơn vị như người kể chuyện,
mạng lưới cán bộ chủ chốt, người dẫn dắt và
kết nối các cá nhân v.v... (23). Trong khi đó,
hai tác giả Trung Quốc là Shen và Tian chú
trọng mặt quản trị học đường đã phân VHHĐ
thành ba thành tố, gồm 1) Văn hóa vật chất
(chỉ sự phát triển của hệ thống cơ sở vật chất
và các tài sản hữu hình đặc trưng của nhà
trường); 2) Văn hóa quản trị (bao gồm hệ
thống quản trị và các cơ chế, chính sách vận
hành nhà trường) và 3) Văn hóa tinh thần (chỉ
hệ thống các giá trị cốt lõi, quan điểm học
thuật và cách thức, kết quả mọi người tham
gia vào các hoạt động văn hóa của nhà
trường). Theo hai tác giả này, thành tố văn
hóa tinh thần đóng vai trò chủ chốt của
VHHĐ. Tác giả Edgar H. Schein (2004) thì
nhấn mạnh nhiều hơn nhóm các yếu tố vô hình
trong môi trường học đường khi nhận định
VHHĐ bao gồm ba thành tố có mối quan hệ
tương tác hữu cơ với nhau: 1) Những quá trình
và cấu trúc hữu hình; 2) Hệ thống giá trị được
tuyên bố; và 3) Những quan niệm chung gắn
với môi trường học đường. Schein đặc biệt lưu
ý đến phương diện quan sát các quy tắc hành vi
học đường, bao gồm ngôn ngữ và nghi lễ, các
chỉ tiêu định hướng phát triển trong các nhóm
khách thể, hệ giá trị cốt lõi của nhà trường
được lựa chọn, triết lý giáo dục và chủ trương đường lối giáo dục của đơn vị, các chuẩn mực,
quy tắc tạo dựng tính hòa đồng trong đơn vị, và
cuối cùng là không khí học đường (24).
Còn khi sử dụng bộ công cụ đánh giá văn
hóa tổ chức để tìm hiểu văn hóa tổ chức của
trường đại học (OCAI) (25), hai tác giả
Fralinger và Olson (2007) cũng đề xuất cấu
trúc VHHĐ có ba yếu tố cơ bản, gồm: 1)
Một số thành tố của văn hóa...
những mẫu vật được tạo tác mang giá trị biểu
trưng; 2) các quan niệm giá trị được tập thể
trường lựa chọn; và 3) những giả định ẩn thị
(xem thêm Hoàng Quốc Đạt 2018, tr. 8).
Còn khi đứng ở góc độ văn hóa giáo dục,
các tác giả Peterson và Deal (2002) chia môi
trường văn hóa học đường gồm sáu thành tố
sau, gồm 1) Nội quy học đường (trong đó
phản ánh luôn yếu tố chính trị - tư tưởng); 2)
Các giá trị cốt lõi và triết lý giáo dục của nhà
trường; 3) Hệ thống nghi lễ khánh tiết đặc
trưng của nhà trường; 4) Hệ thống biểu tượng
đặc trưng riêng của nhà trường (bộ nhận dạng
thương hiệu nhà trường: logo, huy hiệu, vật
biểu, màu sắc đặc trưng v.v...); 5) Những tấm
gương đại diện dạy tốt, học tốt và lao động
tốt; và 6) Những giai thoại, mẩu chuyện về
truyền thống, thế mạnh của trường nhằm tạo
ra ấn tượng tốt về đơn vị.
Cũng bàn về thành tố VHHĐ, tác giả
Edgar H. Schein cho rằng, văn hóa của đơn vị
phân thành ba cấp độ, bao gồm (27):
1) Các vật mẫu (artifacts) - các sản phẩm
nhân tạo chứa đựng giá trị hữu hình, bao gồm
những tiểu hệ thống hay những quá trình có
thể nhìn thấy hay cảm nhận được; hành vi
được quan sát (dù có thể khó giải mã). Các tác
giả Nguyễn Lộc, Nguyễn Việt Hồng (2018) và
Lê Văn Hảo (2018) cụ thể hoá các “vật mẫu”
này thành biểu hiện cấu trúc của môi trường
vật chất; triết lý giáo dục; kế hoạch - chiến
lược; quy tắc ứng xử học đường; ngôn ngữ
học đường; sự sáng tạo thẩm mỹ học đường;
phong cách học đường thể hiện qua trang
phục; thái độ trình bày, cách bày tỏ cảm xúc;
các huyền thoại và chuyện kể về tổ chức; danh
mục những giá trị đã được công bố; các nghi
thức và lễ kỷ niệm định kỳ đáng chú ý; bầu
không khí của cả nhóm học đường v.v...
2) Niềm tin và giá trị được đồng thuận các yếu tố giá trị thể hiện, bao hàm ý tưởng,
mục tiêu, giá trị, nguyện vọng; tư tưởng; tính
7
hợp lý hóa (có thể phù hợp/không phù hợp với
hành vi và các nguyên mẫu khác). Cá nhân
tiếp thu, thẩm thấu được niềm tin và các giá
trị qua học hỏi và hoà nhập môi trường, chúng
ghi sâu vào ý thức hệ hay triết lý của trường
đại học, định hướng trong việc xử lý những sự
kiện không mong muốn hay các tình huống
khó khăn.
3) Các giả định ẩn thị cốt lõi (hay giá trị
tiềm ẩn) chỉ niềm tin và giá trị vô thức, mang
tính bao trùm (nó quyết định hành vi, nhận
thức, suy nghĩ và cảm xúc). Theo một số tác
giả nhận định, các định hướng giá trị vượt
trội có xu hướng mang tính không thể đối
đầu và không cần bàn cãi, do đó cực kỳ khó
thay đổi, ngược lại nó ăn sâu vào tiềm thức
của mỗi cá nhân, tạo thành nét chung trong
tập thể nhà trường. Những ai không chấp
nhận các định hướng vượt trội này sẽ bị loại
trừ khỏi tổ chức.
VHHĐ là một hệ thống có các thành tố
tương tác nhau. Về mặt chủ thể, theo Deal và
Peterson, yếu tố dẫn tới thành công VHHĐ
nằm ở ba nhóm đối tượng chính là nhà quản
lý, cán bộ giảng viên và sinh viên (trong khi
yếu tố cộng đồng đóng vai trò phụ là xây
dựng bối cảnh). Trong ba nhóm chủ thể này,
yếu tố đóng vai trò đầu tàu vẫn là nhà quản lý.
Môi trường học đường thành công phải có đội
ngũ những con người có thể tiếp cận, nắm bắt
và chủ động củng cố truyền thống và các giá
trị cốt lõi, nhà quản lý phải có cung cách quản
lý giúp duy trì và thúc đẩy việc học tập của
sinh viên cũng như việc giảng dạy và nghiên
cứu khoa học của cán bộ giảng viên (28). Nói
cách khác, hai tác giả này có thiên hướng
đồng nhất VHHĐ với văn hóa tổ chức, có
phần tuyệt đối hóa vai trò khởi động của nhà
quản lý trong việc tạo lập VHHĐ.
Đứng ở góc nhìn giá trị giáo dục và văn hóa
và nhấn mạnh chủ thể và các mối quan hệ có
liên quan, tác giả Trần Ngọc Thêm coi VHHĐ
là một bộ phận của văn hóa, theo đó, VHHĐ
6 (52) - 2020: NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN
8
mang cấu trúc phân tầng với ba trụ cột chính là
thầy, trò và tri thức ứng với hai mức thang giáo
dục hướng tới sự ổn định và giáo dục hướng tới
sự phát triển. Ở vai trò người thầy, các cá nhân
có trách nhiệm nâng mục tiêu giảng dạy (rộng
hơn là giáo dục) từ truyền dạy kiến thức và lối
sống lên dạy phương pháp và khơi mở tiềm
năng sáng tạo của người học. Ở vai trò người
học, các cá nhân định hướng phát triển từ vị trí
người thừa hành lên người tư duy và cao nhất là
vị trí người sáng tạo. Còn với yếu tố tri thức, tác
giả phân định ba cấp độ: kiến thức được tiếp
thu, kiến thức được tái tạo và kiến thức được
gia tăng cho cuộc sống. Dựa vào bậc học thì
phân thành các bậc phổ thông, bậc đại học và
bậc sau đại học, trong đó ở bậc phổ thông thì
trong quan hệ giáo dục lấy thầy làm trung tâm,
còn ở bậc đại học và sau đại học thì lấy trò làm
trung tâm. Còn dựa vào nhu cầu xã hội thì phân
làm hai mức là ổn định xã hội và phát triển xã
hội. Ở mức ổn định xã hội, yêu cầu cơ bản nằm
ở việc truyền dạy kiến thức và lối sống của
người thầy, việc tiếp thu và thừa hành của người
trò với mô thức tri thức được truyền giảng - tiếp
thu một chiều. Di chuyển từ mức ổn định xã hội
lên cao hơn ở mức phát triển xã hội thì người
thầy nâng cao từ truyền dạy kiến thức và lối
sống lên thành dạy phương pháp và khơi mở
tiềm năng của học trò; ở người học đó là năng
lực tư duy và năng lực sáng tạo. Theo các nấc
thang này, tri thức không còn ở dạng “được tiếp
thu” thô sơ nữa mà đã phát triển lên thành “được
tái tạo” và “được gia tăng”. Trên thực tế cách bố
cục cấu trúc VHHĐ này của tác giả không khác
biệt so với các tác giả Âu-Mỹ, có lẽ điểm khác
biệt cơ bản nằm ở chỗ phương Tây trong tất cả
các bậc học đều không “lấy thầy làm trung tâm”
mà đi từ “định hướng lấy trò làm trung tâm” ở
bậc phổ thông sang “lấy trò làm trung tâm”
tuyệt đối ở bậc đại học và sau đại học.
Giống như khái niệm văn hóa, cái lõi của
VHHĐ chính là giá trị. Giá trị là phạm trù
rộng dùng để chỉ trạng thái và hiệu quả của sự
vật này so với sự vật khác, là cảm nhận chủ
quan của từng cá nhân theo các cặp cấu trúc
đẹp - xấu, bình thường - bất thường, cao thấp, logic - nghịch lý, có lý và phi lý... cùng
phổ dao động kết nối hai thái cực của các cặp
phạm trù ấy. Tác giả Hofstede và Hofstede
xác định vị trí cốt lõi của giá trị như là cái trục
chính, chốt giữ “cán cân” truyền thống, giá trị
thẩm thấu và chi phối các bình diện nghi thức,
biểu tượng và các nhân vật tiêu biểu trong
VHHĐ thông qua các hành động thực tiễn
(practice):
Chú thích:
Symbols: biểu tượng
Heroes: “anh hùng”, các nhân vật mẫu
Rituals: nghi lễ
Values: giá trị
Practices: thực hành
H.7. Những thể hiện của văn hóa ở những tầng sâu khác nhau (29)
Một số thành tố của văn hóa...
Theo cấu trúc này, thay đổi văn hóa có thể
sẽ diễn ra nhanh hơn ở những vòng ngoài
(biểu tượng, nhân vật đại diện, nghi thức),
những lớp “thực hành” hữu hình của VHHĐ
do học hỏi, quyết tâm kiến tạo/thay đổi hay do
va chạm, giao lưu - tiếp biến văn hóa. Càng đi
vào trong lõi thì sự thay đổi diễn ra càng
chậm hơn, đó là giá trị. Giá trị giúp tạo dựng
độ ổn định của một xã hội cho dù các thực
hành văn hóa có thể thay đổi liên tục (30).
Hai tác giả Argyris và Schon (1974, 1996)
trước đây từng gọi tên hệ giá trị cốt lõi trong
nhà trường là “các lý thuyết đang được ứng
dụng” vốn là những định đề ngầm điều khiển
hành vi và quyết định cách thức các thành
viên trong nhóm nhận thức, suy nghĩ và cảm
thức về sự vật (31).
Cùng đứng trên quan điểm giá trị cốt lõi,
hai tác giả Gruenert và Whitaker xác định
các thành tố thuộc hệ thống “phần mềm” của
VHHĐ có vai trò tạo điều kiện và thúc đẩy
các mối quan hệ giữa thầy, trò và tri thức
trong môi trường học đường diễn ra thuận lợi
và hiệu quả gồm các yếu tố: niềm tin và giá
trị; tầm nhìn và sứ mệnh; chuẩn mực; lề lối,
nghi thức-nghi lễ, quy định; biểu tượng;
phòng truyền thống; nhân vật đại điện;
chuyện kể học đường; mạng lưới tiểu văn
hóa v.v... (32).
Để tập thể học đường cùng chung tay xây
dựng, vận hành, duy trì và phát triển VHHĐ,
chúng ta cần có hệ thống các giá trị, đức tin,
giả định (tầm nhìn, sứ mệnh, mục tiêu, v.v...),
biểu tượng cốt lõi (nhóm các thành tố gắn với
trường nhận thức - tư duy, nhóm các thành tố
gắn với trường thể hiện/biểu hiện) và hệ thống
các nghi thức, nghi lễ đặc thù để cùng phối
hợp, tạo nên cơ chế “ngưỡng”, “cộng cảm” và
các “khả năng kiến tạo mới”.
9
3. Nhóm các thành tố nhận thức - tư duy
- Niềm tin và giá trị
Niềm tin hay lòng tin (trust, belief) chi
phối cách chúng ta nắm bắt và ứng xử với thế
giới xung quanh. Niềm tin là những quan
điểm nhận thức hoặc nắm bắt một cách hữu
thức về chân lý và thực tế (33). Niềm tin bắt
nguồn từ tập thể, từ trải nghiệm cá nhân và từ
việc đọc sách vở. Trong trường học niềm tin
là hết sức quan trọng vì chúng đại diện cho
những hiểu biết cốt lõi về năng lực sinh viên,
trách nhiệm nhà giáo trong việc học tập, nâng
cao kiến thức chuyên môn, và thành công
trong giáo dục.
Niềm tin thường được hiểu là thứ tài sản
quý giá gắn với cá nhân hay tập thể, là sản
phẩm của quá trình tương tác xã hội của đối
tượng. Một khi các cá nhân, đơn vị hợp tác có
niềm tin với nhau, tự thân chúng ta không mất
quá nhiều thời gian để điều khiển hoạt động
hợp tác. Niềm tin chính là chất keo gắn kết
hợp tác hiệu quả nhất (34). Trong nhà trường,
sinh viên có xu hướng hình thành lòng tin một
phần xuất phát từ nhu cầu hợp tác với nhau và
với khoa, trường (xem thêm Kramer và Tyler
1996). Ngoài các yếu tố lý tính mang tính
ràng buộc như quyền lực, sự đồng thuận hợp
đồng, quy định ra thì lòng tin có vai trò hết
sức quan trọng trong việc duy trì tính hợp tác,
tính xây dựng, góp phần nâng cao hiệu quả
đơn vị (35).
Trong khi đó hai tác giả Peterson và
Spencer (1990) nhấn mạnh tầm quan trọng cốt
lõi của những giá trị cốt lõi và niềm tin, lý
tưởng học đường vốn là những yếu tố ẩn thị
được thẩm thấu và truyền đạt trong các mô
thức, quá trình thái độ - hành vi, trong truyền
thống, hệ thống biểu tượng, các mẫu vật và
giai thoại học đường, tất cả chúng đều được
chuyển tải qua nghi lễ học đường và sinh hoạt
học đường.
10
6 (52) - 2020: NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN
H.2. Vị trí các yếu tố giá trị và niềm tin trong môi trường học đường theo Peterson và Spencer (36).
Hai tác giả Groseschl và Doherty (2000)
cũng khẳng định văn hóa học đường của một
đơn vị được xác định bởi các giá trị, niềm tin
chung và hành vi của các bên liên quan khác
nhau trong cộng đồng trường học và phản ánh
các chuẩn mực xã hội của trường học
Giả định (assumption) trong môi trường
học đường được coi là hệ thống niềm tin,
nhận thức và giá trị tiền đề những thứ dẫn dắt
thái độ (xem Ott 1989). Chúng khắc ghi dấu
ấn sâu sắc trên tấm thảm văn hóa, định hình tư
duy và hành động con người một cách mạnh
mẽ. Mỗi nhà trường có thể có những giả
thuyết riêng về nhóm loại sinh viên, về bản
chất của giảng dạy, về bản chất của chương
trình đào tạo. Dù vậy, giả thuyết văn hóa rất
khó đạt được (36). Các nhà lý thuyết lựa chọn
lý tính khẳng định rằng lòng tin là một giả
định chủ quan mang tính cá nhân của từng cá
thể về những thứ sắp sửa diễn ra. Tác giả
James Coleman cho rằng “sự tương thuộc xã
hội và chức năng hệ thống của sự việc mà
trong đó các cá nhân tìm thấy quyền lợi của
mình cả hai điều ấy sẽ gắn cá nhân với người
khác, đơn vị khác, họ bị chi phối một phần
hay hoàn toàn” (37). Nhưng nếu không có
lòng tin, sự gắn kết nếu có chỉ mang tính cơ
học và không có cấu trúc, không có thực chất.
Niềm tin/lòng tin mang tới sự trải nghiệm
chung, từ đó xây dựng thói quen chia sẻ ký
hiệu, nghi thức và nghi lễ. Lòng tin bao giờ
cũng xuất phát từ sự hiểu biết chung. Russel
Hardin (38) khẳng định rằng một khi con
người tin tưởng nhau rồi thì dễ dàng tìm thấy
điểm chung trong sở thích, quyền lợi và sẵn
sàng chia sẻ kinh nghiệm/trải nghiệm. Nhà
trường đại học là một thực thể văn hóa mà
lòng tin sẽ dễ dàng được xây dựng và dễ đóng
góp nhất, bởi giảng viên và sinh viên cùng
tham gia hoạt động học thuật với nhau trong
một khoảng thời gian đủ dài để tương tác, xây
dựng lòng tin và cùng trải nghiệm các hoạt
động với nhau mà không cần dùng tới mệnh
lệnh hay quy định. Niềm tin không phải là
những cử chỉ đơn thuần giữa hai cá thể xã hội
mà thường được thẩm thấu qua mạng lưới các
mối quan hệ xã hội được tạo thành bên trong
văn hóa của một đơn vị. Đương nhiên niềm
tin bị chi phối bởi bối cảnh xuất thân, bối cảnh
văn hóa và cơ chế xã hội đã khuôn đúc các cá
nhân vào văn hóa (39).
Lòng tin là một thành tố văn hóa giúp con
người diễn giải thực tế và hình thành tầm nhìn
cá nhân trong ứng xử với thực tiễn xã hội. Khi
đơn vị phải đương đầu với hiểm nguy hay
nhiệm vụ không xác định rõ ràng thì lòng tin
Một số thành tố của văn hóa...
là hết sức cần thiết (Creed và Miles 1996;
Luhmann 1988; Meyerson, Weick và Kramer
1996). Các trường đại học trong thế kỷ XXI
đều trong tình trạng không ổn định do tác
động của bối cảnh xã hội, chính vì thế cần có
lòng tin để gắn kết con người chặt hơn với
nhau cùng vượt thử thách. Trên thực tế nhiều
trường đại học cố gắng xây dựng các cơ chế
về quản lý và quyền lực để đối mặt với sự mất
ổn định ấy (xem Rhoades 1998), một số đơn
vị sử dụng cách tiếp cận giải tập quyền, quyền
lực phân tán, quá trình ra quyết định phải dựa
vào tập thể, lúc này lòng tin là hết sức quý giá
để kết nối những con người có thể tham gia
xây dựng quyết định (40).
Việc xây dựng niềm tin trong môi trường
học đường là một nhiệm vụ quan trọng của
VHHĐ. Một trong những cách gắn kết các
nhóm khách thể vào hợp tác chính là làm thay
đổi mô hình thiết kế công việc để tăng cường
động lực và gắn kết các cá nhân với đầu ra
của đơn vị (xem thêm Mohrman và Lawler
1992). Một hệ thống giá trị học đường tốt sẽ
tạo ra một bầu không khí học đường khỏe
khoắn với tinh thần cống hiến cao của các
nhóm khách thể, từ đó thúc đẩy thực hiện các
mục tiêu giáo dục tốt hơn. Theo Siehl và
Martin (1990), một khi tất cả các nhóm khách
thể trong nhà trường cùng chia sẻ một hệ
thống giá trị và niềm tin thì hiệu quả của các
hệ thống và quy trình học đường sẽ được tăng
lên rõ rệt.
Các giá trị và mục tiêu sâu của nhà trường
có vai trò quan trọng, chúng định hình tầm
nhìn hướng tới hy vọng tương lai của đơn vị
(41). Giá trị là những biểu hiện hữu thức của
những cái cốt yếu mà một đơn vị phấn đấu vì
chúng. Giá trị quy định tiêu chuẩn về cái tốt,
cái chất lượng, cái xuất sắc dẫn tới thái độ và
cách ra quyết định cũng như những thứ mà
con người quan tâm (Ott 1989). Giá trị không
đơn giản là mục tiêu hay đầu ra, giá trị là cái
sâu lắng của những thứ quan trọng. Trong
11
điều kiện bình thường và tương đối, giá trị sẽ
tập trung sự chú ý và quy định nên sự thành
công (42).
Khi bàn về hệ giá trị học đường ở Việt
Nam hiện tại, tác giả Phạm Minh Hạc đề xuất
mô hình lấy bốn yếu tố chính trực, con người,
học tập và chất lượng làm nền tảng, trong đó
yếu tố chính trực bao hàm tinh thần dũng
cảm, đạo đức, thẳng thắn, nói và làm đúng
đắn; yếu tố con người được lựa chọn làm tâm
điểm cho mọi hoạt động học đường và hướng
tới mục tiêu phát huy cái tốt của con người;
yếu tố học tập thể hiện ra ở lòng đam mê học
tập, người học lấy học tập làm đường đời; yếu
tố chất lượng phải được gìn giữ nhất quán
xuyên suốt quá trình dạy và học (43).
- Tầm nhìn và sứ mệnh
Văn hóa sẽ chỉ bảo cho chúng ta rằng hãy
làm theo truyền thống, chỉ có người lãnh đạo
mới có tầm nhìn làm thay đổi VHHĐ. Văn
hóa nuôi dưỡng chúng ta song lãnh đạo
trường mới là người dẫn dắt chúng ta (44).
Vai trò lãnh đạo thể hiện đầu tiên ở việc xây
dựng tầm nhìn và sứ mệnh của nhà trường.
Tầm nhìn là kế hoạch định hướng tương lai
của nhà trường, là mối giao thoa giữa giá trị
và mục đích học đường. Tầm nhìn của đơn vị
cần phải tạo cảm hứng cho hành động. Để làm
được việc này, chúng ta cần phải bước ra khỏi
phạm vi của văn hóa học đường truyền thống
ở một mức độ nhất định. Một tầm nhìn tốt sẽ
phát huy tốt hơn khi nó được xây dựng từ
những thành công đã qua của đơn vị hơn là
chỉ chăm chú phân tích những thất bại và bài
học cho tương lai (45). Nhiều trường đại học
công bố tầm nhìn bằng lời lẽ, câu chữ, song
mục tiêu sâu xa hơn thường phức tạp hơn và
mang tính truyền cảm hứng. Việc tìm kiếm sứ
mệnh và mục tiêu đích thực của nhà trường
thực ra khó khăn hơn việc đọc các sứ mệnh
bằng lời lẽ rất nhiều (46). Như vậy tầm nhìn là
một bản thảo kế hoạch tương lai mang tính
12
dẫn dắt cho nhà trường, tại mỗi thời điểm
chúng ta cần vạch định sứ mệnh và mục tiêu
cụ thể cho mình.
Sứ mệnh là mô thức, phương thức nhà
trường thực hiện để cụ thể hoá tầm nhìn. So
với tầm nhìn, sứ mệnh gắn liền với hiện tại
của đơn vị. Văn hóa học đường đại diện cho
sứ mệnh bất thành văn của nhà trường, nó giải
thích bản chất của sự hiện diện của giảng viên
và sinh viên. Sứ mệnh không thể làm hết mọi
thứ, ngoại trừ nó thể hiện mức độ đầu tư về
mặt cảm xúc của tập thể lãnh đạo và cán bộ
trường đối với sứ mệnh.
6 (52) - 2020: NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN
có ý thức với gia đình, xã hội và đất nước” và
tầm nhìn “xây dựng quốc gia học tập, góp
phần xây đựng đất nước lớn mạnh, thịnh
vượng” (tham khảo Phạm Minh Hạc 2009;
Hoàng Quốc Đạt 2018).
- Chuẩn mực (norms)
Với việc xác định sứ mệnh tốt của nhà
trường có thể giúp chúng ta làm việc tốt hơn,
bởi mục đích của sứ mệnh chính là thể chế
hóa bộ niềm tin và thái độ - hành vi ứng xử
trong nhà trường. Nếu có mâu thuẫn giữa sứ
mệnh và bản chất VHHĐ thì phần thắng bao
giờ cũng thuộc về VHHĐ (47), do vậy nhà
quản lý cần điều chỉnh diễn ngôn sứ mệnh.
Chuẩn mực là những quy luật bất thành
văn giúp duy trì sự tương quan trong nội bộ
nhóm. Học hỏi các chuẩn mực giúp các thành
viên điều chỉnh mình để phù hợp, chúng giúp
con người biết khi nào thì xuất hiện, họ phải
làm việc ra sao, khi nào thì về nhà. Văn hóa
hình thành theo thời gian khi con người đối
mặt với các vấn đề, nó hình thành lề lối và lễ
nghi cũng như phát triển truyền thống và các
nghi lễ nhằm chủng cố và duy trì những chuẩn
mực, giá trị và niềm tin tiềm ẩn. Theo thời
gian chúng lắng tụ dần thành chuẩn mực và
giá trị được công nhận và chia sẻ, những giả
thuyết cốt lõi trở thành chuẩn mực không thể
bị phá vỡ được nữa (49).
Khi xây dựng tầm nhìn và sứ mệnh cần lưu
ý tính phản vệ của chúng, nhất là ở các diễn
ngôn quá mạnh mẽ bởi chúng có thể trở thành
một thành trì khư khư ôm giữ các giá trị cũ đã
lỗi thời và chối từ sự thay đổi, thậm chí là dẫn
tới nguy cơ mâu thuẫn giữa lời nói và hành
động, giữa trước và sau (48).
Trong nhà trường, chuẩn mực có thể tạo ra
hoặc làm hỏng những ý tưởng mới, nhân viên
mới hay lãnh đạo mới (50). Nếu như những
quy định bằng văn bản mang tính lý thuyết lý
tính thì những chuẩn mực bất thành văn chính
là khuôn mẫu chi phối cách thức hành động
thể hiện trên thực tế.
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam đang phát
triển và dành nhiều quan tâm cho giáo dục
như hiện nay, các trường đại học cần xây
dựng tầm nhìn và sứ mệnh lấy con người làm
trung tâm, bởi lẽ chính yếu tố nhân lực với
phông văn hóa và nguồn tri thức của họ mới là
các yếu tố quyết định hiệu quả của tiến bộ xã
hội. Lấy ví dụ từ ngành giáo dục Singapore,
họ xây dựng sứ mệnh và tầm nhìn dựa trên sự
tiến bộ của nhân tố con người, trong đó xác
định “sứ mệnh nền giáo dục là phục vụ người
học, cung cấp cho người học một nền giáo dục
toàn diện, cân đối, phát triển hết các tiềm
năng, giáo dục thế hệ trẻ thành công dân tốt,
Chuẩn mực giúp nhà trường củng cố các
giả định, giá trị và niềm tin. Chúng là những
kỳ vọng ẩn thị chung về thái độ, trang phục và
ngôn ngữ, là những “bản thiết kế về thái độ”
mà mọi cá nhân đều phải tuân thủ và là chiếc
neo đi biển của đơn vị giúp cung cấp khả năng
suy đoán và sự ổn định (51). Trong nhà
trường, chuẩn mực có thể điều khiển phong
cách ăn mặc của giảng viên và sinh viên, cách
đối nhân xử thế, cung cách giao tiếp, tần suất
giảng viên và sinh viên tham gia các hoạt
động chuyên môn v.v... (52). Nói cách khác,
chuẩn mực sẽ giúp xác định vai trò từng thành
viên/nhóm trong đơn vị học đường.
Một số thành tố của văn hóa...
Chuẩn mực có thể xác lập qua 1) phông
ngôn ngữ; 2) cách trang trí công cộng; 3) qua
hành vi liên cá nhân; 4) các công việc chuẩn
bị trước các sự kiện quan trọng (ví như bài tập
ở nhà); 5) việc trình bày và quy cách thể hiện;
và 6) các chỉ dẫn mở (53). Xây dựng chuẩn
mực học đường không chỉ có giá trị củng cố
VHHĐ mà còn mang tính làm gương cho xã
hội bởi sự kỳ vọng ở tính mô phạm học đường
của cộng đồng xã hội chưa bao giờ mất đi.
Một khi chuẩn mực và niềm tin trong nội bộ
nhóm, bản sắc nhóm và hành động như cách
chúng ta được kỳ vọng đã không còn cảm giác
và hiệu quả nữa, đó là lúc phải xây dựng lại từ
đầu (54).
- Lề lối, nghi thức - nghi lễ
Lề lối (routines), hay thói quen, là những
thứ chúng ta thực hiện/thể hiện hàng ngày để
đảm bảo nhà trường được vận hành hiệu quả;
ngược lại, nghi thức - nghi lễ (rituals ceremonies) chính là những biểu hiện được
phong cách hóa của giá trị và niềm tin (55).
Nghi thức - nghi lễ là các quá trình hay các lề
lối được thấm đẫm các ý nghĩa sâu hơn so với
các hành động thông thường, giúp chuyển tải
các kinh nghiệm chung đến từng sự kiện cụ
thể (56). Ở một khía cạnh khác, chúng làm
sâu sắc hóa những giá trị văn hóa cơ bản của
đơn vị (57).
Nghi thức - nghi lễ là “những vở diễn tập
thể” của sự thuyết phục, chúng nêu bật chất
lượng cuộc sống và thiết lập chuẩn mực hành
vi (Kuh và Whit 1998) và sự trải nghiệm
chung của nhóm. Theo nhóm tác giả
Seligman và Weller (58), nghi thức - nghi lễ
nguyên sơ là những thực hành vốn đã được
chính thống hóa (“phong hóa”) thông qua các
quy ước xã hội được lặp đi lặp lại nhiều lần
dưới những hình thức mà con người có thể
cảm nhận được. Nghi thức - nghi lễ bao hàm
cả hai bình diện xã hội và sự thiêng liêng, cả
hai tồn tại trong học đường. Kỳ thực hệ
thống nghi thức - nghi lễ một mặt gắn kết các
13
thành viên trong nhóm với nhau song ở mặt
khác lại tạo ra các ranh giới giữa người bên
trong và người bên ngoài, góp phần tạo nên
tính đa dạng sắc thái của giáo dục đại học.
Nghi thức - nghi lễ với hệ thống ý nghĩa của
chúng đóng vai trò quan trọng trong việc
hướng dẫn chúng ta biết sống trong sự khác
biệt và đôi khi là sự mơ hồ, dù không nhất
thiết phải thủ tiêu chúng. Nghi thức - nghi lễ
phải thực sự tồn tại trong môi trường học
đường để các cá nhân và các nhóm khách thể
học cách sống và làm việc với nhau.
Ở một chừng mực nào đó, chẳng hạn như
khi ta định lượng hiệu quả học đường, hệ
thống nghi thức - nghi lễ xem chừng như
những thứ không trực tiếp mang lại thành quả,
song chúng lại có vai trò hết sức quan trọng.
Chúng hàm chứa hệ thống các ký hiệu, biểu
tượng và chuẩn mực học đường của đơn vị,
nói chung là các diễn ngôn VHHĐ, do vậy
chúng chính là một dạng “phần mềm” cho cỗ
máy VHHĐ. Một số lễ nghi xem chừng không
liên quan trực tiếp đến chuyên môn giáo dục
song chúng ta vẫn cần chú ý đến chúng bởi
chúng có giá trị với xã hội và cần thiết để duy
trì nền VHHĐ của chúng ta (59).
Các nghi thức hoàn toàn có giá trị của
chúng, nhất là trong việc kết nối những thay
đổi trên thực tiễn và trong quá trình vận hành,
phát triển của đơn vị. Khi chuẩn bị cho một
mặt trận mới, các nghi thức tổ chức hiệu quả
sẽ giúp giảng viên và sinh viên trang bị lòng
tin, những năng lực - thiết bị cần thiết để đối
mặt với thử thách. Khi thực hiện thành công
mặt trận ấy, nghi thức bế mạc cũng giúp rút ra
bài học quý cũng như kiến tạo sự hoài niệm
về sự kiện và sự công nhận giá trị của sự trải
nghiệm chung (60).
Nghi lễ (ceremonies) chính là các nghi
thức được nhấn mạnh, được tổ chức định kỳ
như là cách thức khẳng định phong cách
VHHĐ của đơn vị. Nghi lễ thường bao gồm
những nghi thức trang trọng với khung cảnh
14
trang nghiêm, ví dụ như lễ tốt nghiệp, buổi
tiệc chia tay giáo viên về hưu, các buổi họp
lớp, buổi công bố thành viên ban lãnh đạo mới
và nhiều buổi lễ khác do nhà trường tổ chức
có mục đích, hoặc khi lãnh đạo trường muốn
tôn vinh một giá trị cụ thể của đơn vị (61).
Chúng có chức năng kết nối con người với
nhau và hình thành các giá trị và quy tắc bất
thành văn (62).
Nếu không có các sự kiện thể hiện giá trị,
bất kỳ dòng VHHĐ nào cũng sẽ chết. Nghi lễ
là các kênh chuyển tải văn hóa quan trọng, là
bộ phim thể hiện của một kịch bản, là buổi
hòa nhạc của một bản nhạc chép tay, là cách
thể hiện các giá trị, kể cả những giá trị khó
chuyển tải nhất (63). Hai tác giả Deal và
Peterson xác định trong môi trường học
đường thường có các loại nghi lễ: 1) Nghi lễ
làm mới cộng đồng để kết nối (lễ khai giảng,
lễ mừng năm mới v.v.); 2) Nghi lễ gắn với
mùa màng, thời tiết (May fair, Octoberfest
v.v...); 3) Nghi lễ gắn với chức năng quản lý
để làm giảm bớt căng thẳng của những kế
hoạch và chương trình mới; 4) Các nghi lễ hòa
nhập để dung hòa các nhóm, các thành phần
văn hóa với nhau; 5) Nghi lễ công nhận sự
hoàn thành nhiệm vụ của cá nhân, đơn vị, vì
thế chúng đề cao danh dự và sự tôn trọng; 6)
“Ngày trở về” dành cho cựu sinh viên quay về
chia sẻ những câu chuyện của mình; 7) Nghi
lễ đặc biệt đánh dấu sự bắt đầu và kết thúc
một sự kiện; 8) Lễ kỷ niệm là dịp tưởng nhớ
những đóng góp và mở đường của người đi
trước v.v... (64).
Các nghi lễ thành công phải chứa dựng
nhiều thành tố có ý nghĩa (Trice và Beyer
1985; Deal và Peterson 1994; Deal và Key
1998), trên đại thể bao gồm: 1) có mục tiêu
đặc biệt và gắn với giá trị; 2) phong cách
trang phục, trang sức mang tính biểu trưng;
3) có biểu tượng, bảng hiệu, banner và cờ
hiệu; 4) miêu thuật hay ôn lại những câu
chuyện lịch sử, câu chuyện về thành công và
6 (52) - 2020: NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN
nỗ lực phi thường; 5) chú trọng phong cách
nói chuyện, kỹ thuật trình bày trước công
chúng thật độc đáo; 6) kêu gọi đóng góp sâu
hơn vào mục đích và giá trị của từng thành
viên; 7) chú ý tới khách mời và vị trí ngồi
của họ; 8) công nhận những cá nhân có
đóng góp tiêu biểu; 9) lựa chọn âm nhạc
phù hợp và đa dạng hóa thể loại; 10) thiết
kế phông sân khấu được tỉ mỉ và phù hợp;
11) Bố trí thức ăn/uống chất lượng; 12) Sử
dụng ngôn ngữ ẩn chứa giá trị xuyên suốt
buổi lễ; 13) các biểu tượng và vật mẫu sử
dụng trong buổi lễ phải có ý nghĩa; 14)
chuẩn mực hoá nghi lễ và tôn trọng truyền
thống đang diễn ra; 15) lồng ghép các bài
học ôn lại truyền thuyết, chuyện kể về nhà
trường (65).
Nghi lễ còn là sự kiện giao tiếp và chuyển
hoá lễ nghi xã hội trong nhà trường. Các giá
trị, quy luật bất thành văn của nghi lễ sẽ chỉ rõ
vị trí từng thành viên, củng cố bản sắc từng cá
nhân và kiến tạo nhịp điệu chung cho sự gắn
kết các cá nhân với nhau. Song song đó, nghi
lễ chi phối các mối quan hệ giữa lãnh đạo và
cấp dưới, giữa người có tuổi và giới trẻ, giữa
những người chuyên môn và nhân viên hỗ trợ,
giữa giảng viên và sinh viên, giữa nam và nữ,
người bên trong và bên ngoài (66).
4. Nhóm các thành tố chuyển tải nhận
thức - tư tưởng
- Biểu tượng (symbols)
Theo Geertz (1973), “biểu tượng có thể là
lời nói, cử chỉ, hình ảnh, vật thể chuyển tải
một thông điệp/ý nghĩa cụ thể có thể mà
những thành viên chia sẻ cùng một văn hóa có
thể nhận biết được” (67). Biểu tượng chứa
đựng các giá trị và niềm tin phi vật thể, những
thứ mà chúng ta không thể nắm bắt được ở
trạng thái lý tính (68). Ngôn từ, biệt ngữ,
trang phục, kiểu tóc, lá cờ, các biểu tượng chỉ
trạng thái, địa vị v.v... đều có thể trở thành
biểu tượng nếu như người sử dụng cố ý gắn
Một số thành tố của văn hóa...
vào cho chúng các hàm ý. Người ta có thể tạo
biểu tượng mới, và đương nhiên một số biểu
tượng cũ có thể dần biến mất. Một nhóm/đơn
vị có thể học hỏi hay mô phỏng biểu tượng từ
một nhóm/đơn vị khác. Đó là lý do biểu tượng
nằm ở vòng ngoài cùng của cấu trúc các tầng
biểu hiện của VHHĐ theo hai tác giả Hofstede
và Hofstede (69).
Biểu tượng sẽ giúp chúng ta nhận diện
phong thái chung đang diễn ra trong nhà
trường. Biểu tượng có thể không thể hiện hết
thực tế song lại có thể chuyển tải một chuẩn
mực được chia sẻ hay được người khác nhận
thức rõ nét hơn (Kuh và Whitt 1988). Biểu
tượng cũng có thể sử dụng làm thương hiệu
trong bộ nhận dạng thương hiệu nhà trường.
Trong môi trường học đường, biểu tượng có
thể là linh vật, bài hát, kỷ vật, công trình kỷ
niệm, chiếc cúp v.v... những thứ có thể đại
diện cho giá trị văn hóa của ngôi trường.
Giống như lễ nghi, biểu tượng là thứ “có thế
nhận diện từ người bên ngoài; tuy nhiên, ý
nghĩa văn hóa của nó thì không nhìn thấy
được, nó nằm ở những cách thức mà những
hoạt động ấy được người bên trong diễn giải
mà thôi” (70).
Nhà trường nên thiết kế trưng bày các biểu
tượng và bảng hiệu xung quanh phòng học,
sảnh lớn hay những nơi gặp gỡ công cộng,
giúp chuyển tải ý nghĩa của nhà trường mọi
lúc mọi nơi. Các mẫu vật mang tính biểu
trưng có thể bao gồm 1) tuyên bố về sứ mệnh;
2) sản phẩm sáng tạo tiêu biểu của giảng viên
và sinh viên; 3) các banner (tập trung chủ đề
lấy học tập làm trung tâm); 4) thành tựu
truyền thống của trường; 5) biểu tượng thể
hiện tính đa dạng và tính khai phóng học
đường; 6) các giải thưởng, bằng khen, huy
chương v.v...; 7) sảnh danh dự vinh danh các
cá nhân (giảng viên, sinh viên) có đóng góp to
lớn cho sự nghiệp giáo dục; 8) các linh vật
biểu trưng; 9) các mẫu vật và bộ sưu tập lịch
sử nhà trường v.v... (71).
15
Kiến trúc ngôi trường cũng có thể trở
thành một thứ biểu tượng bởi nó cũng là một
thứ “tài sản hữu hình” của VHHĐ. Kiến trúc
(tổng thể hay từng phần) của trường phải
chuyển tải thông điệp sâu sắc về mục đích và
giá trị quan trọng nhất (một phần của hệ giá trị
VHHĐ), đồng thời giúp kết nối nhà trường
thành một cộng đồng, kích thích cán bộ giảng viên và sinh viên tiếp tục đóng góp xây
dựng trường. Ngoài nguồn lực biểu tượng vật
chất, nhà trường còn có thể xây dựng bộ biểu
tượng sống lấy con người làm trung tâm như
thông điệp hiệu trưởng, những bức thư chia sẻ
có tính lịch sử, lời chào mừng, biểu tượng
niềm vui, nụ cười hay mẩu chuyện vui, bài
hát, “tour” tham quan trường, ý tưởng sáng
tạo được tiến hành, thành tích vượt trội của cá
nhân và đơn vị v.v... (72).
- Phòng truyền thống (School museum/
Memorial hall)
Truyền thống là những sự kiện quan trọng
có ý nghĩa lịch sử đặc biệt từng xảy ra trong
quá trình hình thành và phát triển của nhà
trường, là một phần của lịch sử, nó tiếp sức
thêm cho văn hóa và đại diện cho VHHĐ,
giúp nhà trường xây dựng tính chuyên nghiệp
và bề dày sự nghiệp. Theo Deal và Peterson
(73), chúng chính là “cái bao kiếm” của thanh
kiếm lịch sử, tự thân đã chứa đựng ý nghĩa.
Một khi con người tôn trọng và gìn giữ truyền
thống, họ có đủ nền tảng để ứng phó với thử
thách, khó khăn và sự thay đổi. Việc xây dựng
phòng truyền thống để làm nơi lưu giữ hết các
ký ức của truyền thống là một việc hết sức cần
thiết, bởi nó chính là một thứ “tài sản hữu
hình” cất giữ những giá trị vô hình của lịch sử
nhà trường. Phòng truyền thống có thể sử
dụng để bố trí một số buổi gặp gỡ có ý nghĩa
hay những buổi lễ vinh danh cá nhân/tập thể.
Cùng với nghi thức - nghi lễ, ký ức truyền
thống giúp củng cố quy trình vận hành bình
thường của nhà trường, thể hiện những thông
điệp quan trọng, có giá trị và có ý nghĩa.
6 (52) - 2020: NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN
16
Chúng giúp mọi cá nhân trong trường tự nhận
vai trò, trách nhiệm của mình trong việc kết
nối và củng cố cộng đồng học đường (74).
Cần lưu ý rằng việc xây dựng phòng truyền
thống để lưu giữ ký ức là quan trọng song làm
thế nào để phát huy hiệu quả và chức năng
của nó càng quan trọng hơn.
- Nhân vật tiêu biểu (Heroes)
Trong nhiều trường hợp trường đại học
xây dựng biểu tượng là các nhân vật tiêu
biểu mang tính đại diện cao, họ có thể là
những con người còn sống hay đã khuất, có
thực hay tưởng tượng, là những cá nhân
mang những đặc điểm được cộng đồng
VHHĐ đánh giá cao, và vì thế họ có thể
đóng vai trò mẫu hình của các mô thức ứng
xử cho cộng đồng này (75).
Nhân vật tiêu biểu nên gần gũi để cho thấy
mọi cá nhân đều có khả năng đạt tới thành
công. Họ mang đến niềm cảm hứng về vai trò
với trách nhiệm điển hình của từng cá nhân,
nhóm trong nhà trường, đồng thời còn là đại
diện tiêu biểu cho đơn vị khi vứng xử với bên
ngoài. Các nhân vật tiêu biểu góp phần giữ
gìn cung cách văn hóa làm cho đơn vị trở nên
đặc biệt, giúp kiến tạo chuẩn mực cho các
hoạt động và kích thích từng giảng viên, sinh
viên. Nhân vật tiêu biểu không nhất thiết là
nhà lãnh đạo, họ có thể là cán bộ, giảng viên,
sinh viên thực sự có đóng góp và có uy tín
được cộng đồng công nhận. Cần lưu ý họ phải
là những con người đại diện mang tính dân
sinh chứ không phải người có ma lực thần kỳ
(76). Nhân vật tiêu biểu đơn giản có thể là
người nhân viên lâu năm, là bác bảo vệ đã
mấy mươi năm qua luôn đến sớm và tận tuỵ vì
công việc với thái độ và hành vi lịch thiệp,
đáng kính chẳng hạn (77).
Nhà quản lý học đường cũng cần có rất
nhiều cá nhân phi chính thức khác giúp
việc, họ có thể không đứng vào biểu đồ tổ
chức hay cơ cấu nghề nghiệp của trường
(Deal và Kenendy 1982; Deal và Peterson
1990). Họ có thể là người cố vấn học
đường, các hạt nhân VHHĐ hay người kể
chuyện học đường.
Ở một số trường hợp, nhà trường xây dựng
hình ảnh người cố vấn học đường (quân sư)
làm người giữ lửa giá trị cho đơn vị, biết lắng
nghe, biết chia sẻ và góp ý cho các thành viên.
Họ có thể là các giáo sư có uy tín hoặc là một
thành viên công đoàn cốt cán, hoặc là một
giảng viên lâu năm được tín nhiệm của
trường. Bên cạnh người cố vấn học đường là
nhóm những hạt nhân học đường “đứng sau
sân khấu”, tạo động lực và kết nối các nhóm
khách thể học đường. Họ có thể đọc ý tưởng
lãnh đạo qua một vài dấu hiệu cơ bản, họ
trung thành với đơn vị; xây dựng hệ thống
liên hệ nhằm gắn kết và tạo cơ chế thông
suốt toàn đơn vị (78). Nếu những cố vấn là
người giữ lửa giá trị thì họ sẽ là người thổi
lửa. Cùng với họ là những người sắm vai
người kể chuyện học đường, người có nhiệm
vụ củng cố việc thực hiện các giá trị của đơn
vị, ghi nhớ và thuật đi thuật lại các câu
chuyện mang tính biểu trưng để gắn kết và
kích thích toàn đơn vị (79). Đương nhiên bên
cạnh và đằng sau những nhân vật này là hệ
thống chính trị, các đoàn thể và các phòng,
ban giúp việc cho nhà trường.
- Truyện kể
stories/Legends)
học
đường
(School
Lịch sử nhà trường chứa đựng các câu
chuyện về con người và sự kiện có thể
nâng lên thành giai thoại. Mỗi truyện kể
chứa đựng các giá trị và thông điệp đạo
đức hết sức phong phú, là một phần thu
nhỏ của lịch sử nhà trường. Kể chuyện học
đường nhấn mạnh tầm quan trọng và chất
lượng của sự hợp nghị học đường, có chức
năng trực tiếp củng cố VHHĐ. Các câu
chuyện kể cho nhau nghe, đặc biệt là với
cán bộ - giảng viên và sinh viên mới, luôn
có tác dụng chuyển tải các giá trị quan
Một số thành tố của văn hóa...
trọng nhất của nhà trường. Các câu chuyện
về sự chung lưng đấu cật, sự miệt mài và
nhiệt tình hợp sức của cán bộ - giảng viên
trong việc chia sẻ ý tưởng, chia sẻ nguồn
lực và ủng hộ nhau trong công tác luôn
đóng góp tích cực cho VHHĐ, bởi chúng
chứa đựng đầy đủ giá trị, chuẩn mực và sự
kỳ vọng vào thành quả tốt đẹp nhất (80).
Những câu chuyện mà ta kể và những biểu
tượng ta dùng sẽ mách cho người trong và
ngoài nhóm biết được chúng ta trân trọng
giá trị nào nhất (81).
Theo Kuh và Whitt, truyện kể học đường
có ít nhất 5 chức năng: 1) cung cấp thông tin
về các quy luật của văn hóa; 2) giữ cho ký ức
đơn vị luôn sắc bén; 3) tăng cường sự cam kết
và lòng trung thành; 4) tái khẳng định các
nguyên mẫu của VHHĐ; và 5) kết nối cán bộ,
giảng viên và sinh viên hiện tại với quá khứ.
Theo hai tác giả, “giai thoại dưới hình thức
các câu chuyện kể sẽ giúp hợp lý hóa môi
trường đầy biến động ở bên ngoài và phong
phú hóa đời sống toàn đơn vị” (82). Chính vì
thế việc xây dựng các giai thoại lịch sử, các
mẩu chuyện kể văn hóa học đường luôn là
một hạng mục quan trọng trong xây dựng và
phát triển VHHĐ.
- Mạng lưới tiểu văn hóa (Subcultures)
Các tiểu văn hóa là một bộ phận của
VHHĐ, nó thể hiện tính năng động và tính đa
dạng của VHHĐ. Các đơn vị có VHHĐ mạnh
biết tạo dựng và ủng hộ mạng lưới tiểu văn
hóa để giúp mang niềm tin và giá trị giúp gìn
giữ văn hóa và chia sẻ các giá trị xuyên suốt
các giai tầng, các nhóm của toàn bộ hệ thống
đơn vị (83). Theo Valimaa (1998), các tiểu
văn hóa khác nhau cùng tồn tại song hành, ví
dụ như tiểu văn hóa của sinh viên có thể khác
với của giảng viên (84), của nam có thể khác
nữ. Pierre Bourdieu (1988) cho rằng chính
cuộc sống bên trong của trường đại học mới
có đóng góp quan trọng trong việc tìm hiểu
văn hóa đại học cũng như tác động của hành
17
vi tiêu dùng tri thức. Sự hình thành các hiện
thực xã hội được cấu trúc xung quanh một
diện mạo phức tạp của các trường lực mà
trong đó nhiều loại hình quyền lực tồn tại đan
cài vào nhau… Hành vi nhận thức giúp con
người lựa chọn và thừa nhận cái chất “học
thuật”, và là cái cần thiết và phù hợp cho giáo
dục đại học. Pierre Bordieu gọi những loại
này là “những phân loại học thuật (Academic
Taxonomies) (85).
Trong cùng một VHHĐ có nhiều nhóm
tiểu văn hóa tồn tại song hành, do vậy khó
tránh khỏi tình trạng nhà quản lý phải lập
trình tinh thần nhiều lần để chuyển tải các giá
trị của nhà trường vào từng nhóm. Các nhóm
tiểu văn hóa trong môi trường học đường
thông thường có các nhóm yêu thích các môn
thể thao, nhóm hâm mộ đội thể thao, nhóm
tuổi tác - giới tính; nhóm tộc người, nhóm đọc
theo chủ đề sách hay nhóm xem phim ảnh;
nhóm say mê văn học, nhóm múa - hát; nhóm
chia sẻ cùng loại máy tính; nhóm đồng hương;
nhóm chia sẻ cùng một mạng xã hội v.v.. Mỗi
hình thức tiểu văn hóa là một phần của hệ
thống văn hóa tổng thể. Theo Van Maanen và
Barley (1985), các tiểu văn hóa phải đáp ứng
các tiêu chí: 1) phải có sự tương tác thường
xuyên giữa các thành viên; 2) phải có sự tự
nhận thức nhóm; 3) luôn chia sẻ những vấn đề
khó khăn; 4) hành động dựa trên những hiểu
biết tập thể biệt lập. Chuỗi hoạt động của một
tiểu văn hóa mạnh có thể phát triển theo thời
gian để trở thành chuẩn mực đóng góp cho
toàn trường và tạo nên nét đặc thù so với cái
còn lại của hệ thống văn hóa mẹ hay so với
các tiểu văn hóa khác (xem Horowitz 1987).
Điểm mấu chốt là các tiểu văn hóa luôn tự tìm
kiếm cách thức làm cho các thành viên luôn
cảm nhận được tình đoàn kết với nhau và độ
thận trọng khi đối mặt với người ngoài (86),
đồng thời kích thích sự thể hiện năng lực của
nhân viên ở tất cả các vị trí, giai tầng. Họ dựa
vào mạng lưới để làm việc thông qua các mối
18
liên hệ giao tiếp với các nhân sự khác trong
đơn vị (87).
Trong nhà trường chúng ta có thể tìm thấy
tiểu văn hóa thể hiện trong cấu trúc có sẵn,
trong các khoa/Bộ môn, giữa các khóa sinh
viên, hoặc có khi là một giáo viên có thâm
niên lập nhóm công tác cố gắng gìn giữ một
nét văn hóa nào đó sắp mất đi, hoặc nhóm
giáo viên sắp về hưu v.v... Có nhiều lý do để
các tiểu văn hóa có thể phát triển, đương
nhiên người lãnh đạo phải mất thời gian để
nhào nặn và quản lý chúng bằng cách gây
ảnh hưởng đến một một số thành viên quan
trọng trong các mạng lưới tiểu văn hóa ấy để
lèo lái các hành vi, thái độ các nhóm theo
hướng phù hợp hơn với tầm nhìn chung của
đơn vị. Tuy nhiên, nhà lãnh đạo không nên
đánh đồng hết các nhóm, mà nên nhận diện
các nhóm tiểu văn hóa nào có nhiều quyền
năng nhất. Trong một số trường hợp đặc thù,
một tiểu văn hóa tốt sẽ chứa đựng đầy đủ bản
chất thật sự của tầm nhìn người lãnh đạo vào
với đơn vị (88).
Theo Kuh và White (1988), bản thân các
tiểu văn hóa không tích cực cũng không tiêu
cực, chúng phụ thuộc vào việc con người sử
dụng chúng cho mục đích tốt hay xấu mà thôi.
Mặc dù mạng lưới các tiểu văn hóa không
phải lúc nào cũng đóng góp xây dựng cộng
đồng trong tổng thể hệ thống VHHĐ, song
chúng có thể trao cho các cá nhân những thứ
họ muốn trong khi tổng thể VHHĐ có thể
không làm được điều này. Edgar H. Schein
(89) cho rằng các tiểu văn hóa có thể giúp
phát triển các mô thức tư duy có lựa chọn, cái
được gọi là “các hệ thống học tập song hành”
(Parallel Learning Systems). Chúng có thể
làm giảm sự lo ngại trong các thành viên khi
có sự thay đổi nào đó len lỏi vào hệ thống văn
hóa mẹ. Cần lưu ý rằng “lối mòn và những sai
sót trong hệ thống song hành nhất thời có thể
tạo nên sự an toàn cần thiết về mặt tâm lý cho
phép diễn ra sự thay đổi toàn đơn vị” (90).
6 (52) - 2020: NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN
Ở khía cạnh khác, khi các tiểu văn hóa
phát triển quá mạnh mẽ đôi khi có thể va
chạm hoặc mâu thuẫn với bề mặt VHHĐ
chung của đơn vị, hoặc chiếm cứ và sử dụng
trước các giá trị chung chia sẻ quan trọng
của đơn vị v.v..., chúng cần được điều chỉnh
thoả đáng (91). Các tiểu văn hóa có thể làm
giàu có hơn đời sống văn hóa của nhóm
mình, mở rộng giao lưu và chia sẻ với các
nhóm khác để đảm bảo tính thống nhất
trong đa dạng của VHHĐ.
Tóm lại, các thành tố của VHHĐ thành
công và tích cực có sứ mạng đặt trọng tâm ở
hoạt động học tập của sinh viên và giảng
viên, có chiều sâu lịch sử và có mục tiêu rõ
ràng, có năng lực điều tiết, tương tác và thúc
đẩy theo đuổi chất lượng, thành tựu và động
lực học tập, có niềm tin và các giả định tích
cực về khả năng giảng viên và sinh viên, có
môi trường cộng đồng chuyên môn mạnh,
biết sử dụng kiến thức, chuyên môn và biết
nghiên cứu để nâng cao hoạt động thực tiễn,
có một hệ thống các nhân sự phi chính thức
giúp tăng cường dòng giao tiếp tích cực
trong nhà trường, có năng lực lãnh đạo chung
làm cân bằng sự tiến triển và tiến bộ của đơn
vị, có hệ thống nghi lễ để củng cố các giá trị
cốt lõi, có hệ thống các câu chuyện tôn vinh
thành công và công nhận những nhân vật tiêu
biểu, có môi trường không gian mang lại
không khí vui tươi và niềm tự hào và có
truyền thống tôn trọng và quan tâm, chăm
sóc lẫn nhau (92).
Kết luận
Văn hóa học đường, một mảng văn hóa
quan trọng được xã hội Việt Nam chú ý hiện
nay, đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu,
trường phái nghiên cứu trong và ngoài nước
quan tâm, nhờ vậy lý luận VHHĐ trên thế giới
hiện nay đã trở nên rất đa dạng. Cách hiểu và
cách diễn giải VHHĐ tùy thuộc vào quan
điểm, góc nhìn và xuất phát điểm của nhà
nghiên cứu. Thế nhưng, dù đứng ở góc độ nào
Một số thành tố của văn hóa...
19
đi nữa thì cơ chế hình thành và vận hành của
VHHĐ cũng đều giống nhau ở điểm đều trải
qua quá trình nghi thức - nghi lễ hóa, “cộng
cảm” và kiến tạo/sáng tạo các giá trị mới
mang tính định hướng. Chính vì thế, tổng thể
quá trình nghi thức - nghi lễ hóa có thể được
vận dụng như một “cỗ máy đúc” của VHHĐ.
Victor Turner (1974, 1977) và hai tác giả
Seligman, Weller (2012) gặp gỡ nhau ở điểm
nếu chúng ta có một hệ thống các ý tưởng, giả
định và biểu tượng tốt và quá trình nghi thức
hóa - nghi lễ hóa diễn ra một cách tự nhiên và
phù hợp với từng bối cảnh cụ thể thì các yếu
tố “ngưỡng”, “cộng cảm” và các sắc thái cá
nhân vốn đã tạm lắng trong suốt quá trình
nghi thức/nghi lễ sẽ giúp kiến tạo các khả
năng mới, các hiện thực văn hóa mới và các
giá trị mới. Trong các yếu tố mang tính điều
kiện nói trên, bài viết này dừng lại ở việc tổng
thuật, phân tích và giới thiệu một số thành tố
của VHHĐ theo định hướng nói trên. Do chưa
thực hiện đầy đủ các nghiên cứu thực địa ở
Việt Nam, các luận điểm trong công trình này
chưa thật sự phản ánh tính tương tác và tính
hiệu quả trong guồng máy giáo dục học đường
Việt Nam đương đại. Các nghiên cứu lâm
sàng tiếp theo là hết sức cần thiết để mang lý
luận vào thực tiễn.
N.N.T
______________________
1. Horowitz, Helen Lefkowitz (1987),
Campus life - undergraduate cultures from the end
of the eighteenth century to the present, New
York: Alfred A. Knopf, p. 4, 11.
2. Becher, T. (1987), “The cultural view”, in
B.R. Clark (ed.): Perspectives on higher
education: eight disciplinary and comparative
views. University of California Press, Berkeley,
Los Angeles. London, p. 172.
3. Xem thêm Valimaa, Jussi (2008), “Cultural
studies in higher education research”, in Cultural
persectives on higher education, ed. J.Valimaa và
O.-H. Ylijoki, Springer, p. 12.
4. Xem thêm Hofstede, Geert và Hofstede,
Geart Jan (2005), Cultures and civilizations:
software of the mind, McGraw-Hill, p. 282.
5. Trong tiếng Anh tồn tại thêm khái niệm
Campus culture, mang nội hàm hẹp hơn khái niệm
School culture bởi nó ám chỉ các giá trị giáo dục
và giao tiếp trong khuôn viên trường, chưa nhấn
mạnh đến cấu trúc thượng tầng của VHHĐ (giá trị,
mục tiêu, tầm nhìn, sứ mệnh…).
6. Deal, Terrence E và Peterson, K.D. (1990),
The principal’s role in shaping school culture.
Washington, D.C.: U.S. Department of Education,
Office of Educational Research and improvement,
p. 7.
7. Deal, T.E. và Peterson, K.D. (1999),
Shaping school culture: the heart of leadership.
San Francisco: Jossey-Bass Publishers, p. 8.
8. Peterson, K.D. và Deal, T.E. (2010),
Shaping school culture: pitfalls, paradoxes, and
promises, San Francisco: John Wiley và Sons, p. 9.
9. Deal và Peterson (1999), tlđd, tr. 7, 9.
10. Dẫn lại trong Deal và Peterson (1990),
tlđd, tr. 9.
11. Rossman, G.B., Corbett, H.D., và
Firestone, W.A. (1988), Change and effectiveness
in schools, Albany: State university of New York
Press, p. 5.
12. Wilson, E.K. (1971), Sociology: rules,
roles, and relationships. Homewood, Illinois:
Dorsey, p. 90.
13. Thái Duy Tuyên (2009), “Tìm hiểu tư
tưởng văn hóa học đường của Chủ tịch Hồ Chí
Minh”. In trong Kỉ yếu Hội thảo khoa học Văn hóa
học đường: lý luận và thực tiễn, Hà Nội: Hội Khoa
học Tâm lý - Giáo dục Việt Nam, tr. 17-32.
14. Hoàng Quốc Đạt (2018), Quản lý xây dựng
văn hóa nhà trường trung học cơ sở Thành phố Hồ
Chí Minh, Luận án Tiến sĩ Quản lí giáo dục, Hà
Nội: Học viện Khoa học Xã hội, tr. 17.
15. Phạm Văn Khanh (2015), “Văn hóa học
đường: bản chất, nội dung, mô hình và biện pháp
xây dựng”, tạp chí Khoa học Trường Đại học
Đồng Tháp 16, tr. 51-52.
20
6 (52) - 2020: NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN
16. Dẫn trong Phạm Ngọc Trung (2010), “Văn
hóa học đường, cấu trúc và quan hệ”, tạp chí Văn
hóa Nghệ thuật 315, tr. 25. Dẫn trong Huỳnh Quốc
Thắng (2018), “Chức năng văn hóa đại học tiếp
cận từ góc nhìn văn hóa học”. Kỉ yếu Hội thảo Xây
dựng Văn hóa học đường Việt Nam (bậc đại học)
thời kì phát triển và hội nhập. Thành phố Hồ Chí
Minh: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh,
tháng 4-2018, tr. 100.
các cá nhân trong tổ chức; 5) Những điểm quan
trọng nhất của chiến lược phát triển của nhà
trường; 6) Tiêu chí thành công của nhà trường
(xem Cameron và Quinn 1999; tham khảo Hoàng
Quốc Đạt 2018).
17. Vũ Dũng (2009), “Văn hóa học đường Nhìn từ khía cạnh lý luận và thực tiễn”. In trong
Kỉ yếu Hội thảo khoa học Văn hóa học đường:
lý luận và thực tiễn, tlđd, tr. 33-39.
29. Hofstede và Hofstede (2005), tlđd, tr. 7.
18. Nguyễn Vũ Bích Hiền (chủ biên), Nguyễn
Thị Minh Nguyệt, Nguyễn Xuân Thanh (2017),
Giáo trình Văn hoá tổ chức vận dụng vào phân
tích văn hóa nhà trường, Hà Nội: Nxb. Đại học Sư
phạm, tr. 39.
19. Nguyễn Ngọc Thơ (2020), “Khái luận văn
hóa học đường”, tạp chí Khoa học Trường Đại học
Trà Vinh, số 37, tr. 63.
20. Turner, Victor (1974), Dramas, fields, and
metaphors; symbolic action in human society,
Ithaca N.Y. Cornell University Press, p. 202.
21. Turner (1974), tlđd, tr. 13, 202, 286;
Turner, Victor (1977), “Variations on a theme of
liminality”, in Secular Ritual, ed. Sally F. Moore
and B. Myerhoff, Assen: Van Gorkum, p.3.
22. Rappaport, A. Roy (1979), “The obvious
aspects of ritual”, in Ecology, meaning, and
religion, Richmond, California: North Atlantic
Books, p. 175.
23. Deal, T.E. và Kennedy, A. (1982),
Corporate cultures: the rites and rituals of
corporate life, New York: Addison-Wesley,
p.12-14.
24. Schein, Edgar H. (1985/2004/2010),
Organizational culture and leadership. 1 st, 3 rd
và 4 th edition versions, San Francisco: JosseyBass, p. 6.
25. Bộ công cụ OCAI bao gồm sáu nội dung
cơ bản: 1) Đặc điểm nổi bật nhất của nhà trường;
2) Sự lãnh đạo nhà trường; 3) Hoạt động quản lý
nhân viên trong nhà trường; 4) Các yếu tố kết dính
26. Xem thêm Hoàng Quốc Đạt (2018), tlđd,
tr. 8.
27. Schein (2010), tlđd, tr. 24.
28. Deal và Peterson (1999), tlđd, tr. xviii.
30. Hofstede và Hofstede (2005), tlđd, tr. 12-13.
31. Dẫn lại trong Schein (2010), tlđd, tr. 28.
32. Gruenert, Steve và Whitaker, Todd (2015),
School culture rewired: how to define, assess, and
transform it, Alexandria, Virginia: ASCD, p. 28.
33. Ott, J.S. (1989), The organizational culture
perspective,
Pacific
Grove,
California:
Brooks/Cole, p. 39; Peterson, K.D. và Deal T.E.
(2002), The shaping school culture fieldbook, San
Francisco: Jossey-Bass, p. 14.
34. Tham khảo Bruner (1991), Crowson và
Boyd (1992), Gray (1995), Melaville và Blank
(1993), Sarason et al. (1977).
35. Xem Gambetta 1988; Luhmann 1988; Tyler
và Degoey 1995; Tierney, William G. (2008),
“Trust and organizational culture in higher
education”, in J.Valimaa và O.-H. Ylijoki (eds),
Cultural persectives on higher education,
Springer, p. 29.
36. Deal và Peterson (1999), tlđd, tr. 27;
Peterson và Deal (2002), tlđd, tr. 15.
37. Coleman, J. (1990), Foundations of social
theory, Cambridge, MA: Belknap Press, p. 300.
38. Hardin,
R.
(2002),
trustworthiness, New York:
Foundation, p. 144.
Trust
Russell
and
Sage
39. Tierney, William G. (2008), tlđd, p.36- 39.
40. Tierney (2008), tlđd, tr. 39.
41. Xem Peterson và Deal (2002), tr. 13.
42. Deal và Peterson (1999), tlđd, tr. 26;
Peterson và Deal (2002), tlđd, tr. 14.
Một số thành tố của văn hóa...
43. Phạm Minh Hạc (2009), “Giáo dục giá trị
xây dựng văn hóa học đường”, Kỷ yếu Hội thảo
khoa học Văn hóa học đường: lý luận và thực tiễn,
tlđd, tr. 7-16.
44, 45. Gruenert và Whitaker (2015), tldd, tr. 31.
46. Peterson và Deal (2002), tlđd, tr. 13-14.
47. Gruenert và Whitaker (2015), tlđd, tr. 30.
48. Tham khảo Deal và Kennedy (1982), tlđd,
tr. 35-36.
49. Deal và Peterson (1999), tlđd, tr. 51.
50. Gruenert và Whitaker (2015), tlđd, tr.35-36.
51. Ott (1989), tldđ, tr. 37.
52. Deal và Peterson (1999), tlđd, tr. 27;
Peterson và Deal (2002), tlđd, tr. 14-15.
53. Deal và Kennedy (1982), tlđd, tr. 76-78.
54. Elder, L. và Paul, R. (2012), 30 days to
better thinking and better living through critical
thinking: a guide for improving every aspect of
your life, Upper Saddle River, NJ: FT Press, p. 22.
55. Gruenert và Whitaker (2015), tlđd, tr. 33.
56. Peterson và Deal (2002), tlđd, tr. 30.
57. Deal và Kennedy (1982), tlđd, tr. 62.
58. Seligman, Adam B. & Weller, Robert P;
Puett, Michael and Sinmon, Bennett (2012),
Rethinking pluralism – ritual, experience, and
ambiguity, Oxford University Press, tr. 7-9.
59. Gruenert và Whitaker (2015), tlđd, tr. 34.
60. Deal và Peterson (1999), tlđd, tr. 33-34.
61. Gruenert và Whitaker (2015), tlđd, tr. 14, 35.
62. Xem thêm Deal và Peterson (1999), tlđd,
tr.35; Peterson và Deal (2002), tlđd, tr. 32.
63. Deal và Kennedy (1982), tlđd, tr. 63.
64. Deal và Peterson (1999), tldđ, tr. 36-40.
65. Tham khảo Deal và Kennedy (1982), tlđd,
tr. 70-73; Deal và Peterson (1999), tlđd, tr. 40;
Peterson và Deal (2002), tlđd, tr. 43.
66. Xem thêm Deal và Kennedy (1982), tlđd,
tr. 64-65.
67. Geertz, Clifford (1973), The interpretation
of cultures, New York: Basic Books.
21
68. Deal và Peterson (1999), tlđd, tr. 60.
69. Hofstede và Hofstede (2005), tlđd, tr. 7.
70. Hofstede, G. và Hofstede, G. J. (1997),
Cultures and organizations: software of the mind
(1st ed.). New York: McGraw-Hill, p. 8.
71. Deal và Peterson (1999), tldd, tr. 61-63.
72. Deal và Peterson (1999), tldd, tr. 63-67.
73. Deal và Peterson (1999), tldd, tr. 41.
74. Deal và Peterson (1999), tlđd, tr. 45.
75. Hofstede và Hofstede (2005), tlđd, tr. 7.
76. Deal và Kennedy (1982), tlđd, 39-43, 55.
77. Xem thêm Deal và Peterson (1999), tlđd,
tr.57-58.
78. Deal và Kennedy (1982), tlđd, tr. 88.
79. Deal và Kennedy (1982), tlđd, tr. 88-92.
80. Deal và Peterson (1999), tlđd, tr. 53-55.
81. Gruenert và Whitaker (2015), tlđd, tr. 40.
82. Kuh, G. và Whitt, E. (1988), The invisible
tapestry: culture in American universities and
colleges, ASHE-ERIC Higher Education Reports,
17(1), p. 22.
83. Deal và Kennedy (1982), tlđd, tr. 98.
84. Naidoo, Rajani (2008), “Building or
eroding intellectual capital? Student consumerism
as a cultural force in the context of knowledge
economy”, in J.Valimaa và O.-H. Ylijoki (eds),
Cultural persectives on higher education,
Springer, p. 46.
85. Xem thêm Naidoo (2008), tlđd, tr. 46.
86. Gruenert và Whitaker (2015), tlđd, tr. 41-42.
87. Deal và Kennedy (1982), tlđd, tr. 100-103.
88. Gruenert và Whitaker (2015), tlđd, tr. 43-45.
89. Schein, Edgar H. (1992), Organizational
culture and leadership (2nd edition), San
Francisco: Jossey-Bass, p. 317.
90. Xem thêm Gruenert và Whitaker (2015),
tlđd, tr. 45.
91. Deal và Kennedy (1982), tlđd, tr. 138-139.
92. Deal và Peterson (1999), tlđd, tr. 116.
6 (52) - 2020: NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN
22
Tài liệu tham khảo khác
Argyris, M. and Schön, D. (1974), Theory in
Practice. Increasing professional effectiveness,
San Francisco: Jossey-Bass.
Becker. H.S., Geer, B., Hughes, E.C., và
Strauss, A.L. (1961), Boys in white: Student
culture in medical school, Chicago: University of
Chicago Press.
Bruner, C. (1991), Thinking collaborative: ten
questions and answers to help policy makers
improve children’s services, Washington DC:
Puplished by the Education and Human Services
Consortium.
Bushnell, J. (1963), “Student culture in
Vassar”, in The American College. A
psychological and social interpretation of the
higher learning, ed. Sanford, N., p. 489-514, New
York: Wiley.
Crowson, R.L. và Boyd, W.L. (1992),
“Coordinated services for children: problems of
organization and implementation”, The CEIC
Review, Vol. 1(2): 3-5. 8.
Deal, T.E. và Key, M.K. (1998), Corporate
celebration: play, purpose, and profit at work, San
Francisco: Bernett-Koehler.
Đặng Văn Minh (2009), “Văn hóa và văn hóa
học đường”, in trong Kỉ yếu Hội thảo khoa học
Văn hóa học đường: lý luận và thực tiễn, tlđd.
Fralinger, Barbara và Olson, Valerie (2007),
“Organizational culture at the university level: a
study using the OCAI instrument”, Journal of
college teaching và learning 4(11): 85-98.
Gray, B. (1995), “Obstacles to success in
educational collaborations”, in L.C. Rigsby, M.C.
Reynolds, và M.C. Wang (eds.), School community
connections: exploring issues for research and
practice, San Francisco: Jossey-Bass: 71-99.
Groseschl, S., và Doherty, L. (2000),
“Conceptualizing culture”, Cross Cultural
Management: An International Journal, 7 (4),
p 12-17.
Kramer, R.M. và Tyler, T.R. (eds) (1996),
Trust and organizations: Frontiers of theory and
research, Thousand Oaks, CA: Sage Publications.
Lê Văn Hảo (2018), “Phát triển văn hóa trường
đại học phù hợp với yêu cầu của bộ tiêu chuẩn
đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục đại học 2017
của Bộ Giáo dục và đào tạo”, Kỷ yếu Hội thảo Xây
dựng Văn hóa học đường Việt Nam (bậc đại học)
thời kỳ phát triển và hội nhập, tlđd.
Melaville, A.I. và Blank, M.J. (1993), Together
we can: a guide for crafting a profamily system of
education and human services, Washington DC:
US Department of Education, Office of
Educational Research and Improvement.
Mohrman, S.A. và Lawler, E.E. (1992),
“Applying employee involvement in schools”,
Educational evaluation và policy analysis, Vol.
14: 347-360.
Nguyễn Lộc, Nguyễn Việt Hồng (2018), “Văn
hóa tổ chức ở trường đại học”, Kỷ yếu Hội thảo
Xây dựng Văn hóa học đường Việt Nam (bậc đại
học) thời kỳ phát triển và hội nhập, tlđd.
Nguyễn Minh (2009), “Bàn về văn hóa học
đường Việt Nam hiện đại”. In trong Kỉ yếu Hội
thảo khoa học Văn hóa học đường: lý luận và thực
tiễn, tlđd.
Peters, Thomas J. và Waterman, Robert H.
(1982), In serach of excellence: lessons from
America’s best run companies, New York: Harper
và Row.
Peterson và Spencer (1990), “Understanding
academic culture and climate”, New directions for
institutional
research,
Vo.
68,
JosseyPass.Sarason, S.B., Caroll, C., Maton, K., Cohen,
S., và Lorentz, E. (1977), Human services và
resource networks, Cambridge MA: Brookline
Books.
Shen, X. và Tian, X. (2012), “Academic
culture and campus culture of universities”,
Higher Education Studies, Volume 2(2): 61-65.
Siehl,
C.,
và
Martin,
J.
(1990),
“Organisational culture: A key to financial
Một số thành tố của văn hóa...
23
performance?” in Organisational climate and
culture, ed. B. Schneider, p. 241-81, San
Francisco, CA: Jossey-Bass.
Turner, Victor (1967), Forest of symbols:
aspects of Ndembu ritual, Ithaca, NY.: Cornell
University Press
Trần Ngọc Thêm (2018), “Văn hóa học đường
Việt Nam trong thời kỳ phát triển và hội nhập: vài
nét về con đường từ lý luận đến thực tiễn”, Kỷ yếu
Hội thảo Xây dựng Văn hóa học đường Việt Nam
(bậc đại học) thời kỳ phát triển và hội nhập, tlđd.
Turner, Victor (1968/1969), The ritual process:
structure and anti-structure, Chicago: Aldine.
Trice, H. M., and J. M. Beyer (1984),
“Studying organizational cultures through rites and
ceremonials”, Academy of management review, 9:
653-69.
Van Maanen, J. and Barley, S. (1985),
“Organizational culture: fragments of a theory”.
In:, Eds., Organizational culture, ed. Frost, P.,
Moore, L., Louis, M., Lundberg, C. and Martin, J.,
pp. 31-53. Beverly Hills, Sage.
Nguyễn Ngọc Thơ: Some elements of school culture
School culture is a subculture corresponding to the educational environment. It not only contains the
national culture identity of but also conveys and shares the common values of the humankind. The school
culture is formed based on the initial assumptions (beliefs, values, vision, mission, goals, etc.), and
become an environment and catalyst for smooth, effective implementation of the teaching activities and
other school activities as well as realization of the educational objectives. The article defines the concept,
the structure of school culture and its most typical elements and depicts the conotation of school culture
through presenting the theoretical foundations and international experience.
This research is conducted from a cultural perspective, which use ritual factors (focusing on
"liminality" of the school’s ritualized activities) and their effectiveness as measures of shaping and
operating school culture based on viewpoints of Victor Turner (1968/1969), Seligman and Weller
(2012). The decisive factor of the characteristics and effectiveness of school culture is formation of
"liminality", "communitas", "sharing" and creativity that incoporate the assumed values of the school’s
ritualized practices and other activities.
Keywords: Education, school culture, structure, element.