« Home « Kết quả tìm kiếm

NỮ TRÍ THỨC TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC TỰ NHIÊN


Tóm tắt Xem thử

- Nữ trí thức trong lĩnh vực khoa học tự nhiên NỮ TRÍ THỨC TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC TỰ NHIÊN.
- TSKH Phạm Thị Trân Châu PCT kiêm Tổng thư ký Hội hóa sinh Việt Nam Theo nhiều tài liệu thì Khoa học tự nhiên (Natural sciences) bao gồm Vật lý, Khoa học sự sống, Khoa học trái đất, Khoa học vũ trụ, Hải dương học, Khí tượng học… nghiên cứu các lĩnh vực, các bộ phận khác nhau của giới tự nhiên.
- Tên gọi “Nhà khoa học” (Scientist) là do William Whewell đưa ra năm 1834, nhưng cho đến cuối thế kỷ 19 mới được dùng phổ biến..
- Con người nói chung, và trước hết là những người nghiên cứu khoa học (NCKH) lại luôn kỳ vọng được hiểu biết tường tận mọi điều, nhất là những gì cận kề quanh ta để hiểu biết và chinh phục tự nhiên, phục vụ con người.
- Sự hấp dẫn mạnh mẽ của NCKH làm cho các nhà nghiên cứu say sưa đến đam mê, luôn cảm thấy thiếu thời gian và có thể quên đi rất nhiều những khó khăn, rắc rối của đời thường.
- Để nghiên cứu, tìm hiểu, giải thích, và khám phá dù chỉ là một khía cạnh nhỏ trong khoa học tự nhiên (KHTN), đặc biệt thuộc lĩnh vực KH thực nghiệm luôn đòi hỏi sự chính xác, tỉ mỉ, nhiều công sức.
- Sự hợp tác trong NCKH giữa các chuyên ngành khác nhau, sự phối hợp giữa các cơ sở nghiên cứu và cơ sở SX, giúp cho nghiên cứu được toàn diện, nhanh chóng được áp dụng có kết quả.
- Các công trình công bố trong nước cũng như trên thế giới thuộc lĩnh vực KHTN đã cho thấy rõ điều này: các công trình thường có tên của nhiều tác giả.
- Với chúng tôi cũng vậy, chỉ riêng hướng nghiên cứu về các chất ức chế proteinase (PPI) và ứng dụng chúng trong thực tế (từ trong 56 công trình đã công bố cũng đã có 70 người là đồng tác giả (không chỉ có các GS, TS, Th.S trong nước, mà cả nước ngoài, nhiều đồng tác giả trẻ bấy giờ là sinh viên, nhưng nay phần lớn đã là Th.S, TS, PGS)..
- Họat động khoa học cũng có những điểm giống với các lĩnh vực khác, muốn thành công cần chọn đúng ngành nghề khai thác được thế mạnh của bản thân, có ước mơ, có sự đam mê, tự tin, không vụ lợi có bản lĩnh, nghị lực, quyết tâm cao, kiên trì lao động nghiêm túc và sáng tạo.
- Người làm KH còn cần rèn luyện phương pháp làm việc khoa học, đức tính trung thực, khách quan trong thu thập, xử lý số liệu và kết quả nghiên cứu..
- Phần lớn phụ nữ chúng ta có được những yếu tố cần thiết để thành công trong nhiều lĩnh vực KH nếu được tạo cơ hội và có điều kiện một cách bình đẳng.
- Mặc dù chị em chúng ta có thêm nhiều khó khăn so với nam giới, nhưng cũng có nhiều chị đã thành công trong khoa học, “sánh vai’ cùng các đồng nghiệp khoa học nam, và đã được ghi nhận.
- Theo số liệu của Bộ KHCN, từ năm trong số các đề tài, dự án SX thử nghiệm cấp Nhà nước, tỉ lệ phụ nữ chủ trì vào khoảng 20%.
- Tỉ lệ Phụ nữ chủ trì các đề tài, dự án cấp Nhà nước.
- Tỉ lệ phụ nữ đọat giải thưởng khoa học sáng tạo VIFOTEC (từ năm vào khoảng 15 % (số liệu của Văn phòng quỹ giải thưởng).
- Tỉ lệ phụ nữ được nhận giải thưởng Giải thưởng sáng tạo VIFOTEC (từ năm theo số liệu của Văn phòng Quỹ VIFOTEC).
- TS Ann và Neal Koblitz , giành cho cá nhân và tập thể nữ (từ năm 1993) có nhiều công trình, thành tựu NCKH, thuộc lĩnh vực KHTN và ứng dụng.
- Đến nay đã có 34 cá nhân và 15 tập thể khoa học nữ được nhận giải, thuộc các lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, các nghiên cứu về Nông, Lâm, Sinh, Y- Dược.
- Một số chị cũng đã được nhận gỉải thưởng Khoa học cấp Nhà nước.
- Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy một thực trạng khác là: số phụ nữ có trình độ chuyên môn cao, có học vị học hàm cao còn rất thấp và có thể còn biến đổi theo chiều hướng xấu hơn.
- Nhìn ra các nước khác, như Australia, theo các số liệu điều tra nghiêm túc (năm 2007) ở trường ĐH Queensland, cũng như các trường ĐH khác, số nữ GS vào khoảng 10% tổng số GS, số nữ TS trong các lĩnh vực vào khoảng ~50% tổng số TS..
- Vấn đề là cần tìm hiểu xem nữ cán bộ môn khoa học tụt hậu (so với nam) ở giai đoạn nào? Đây là vấn đề cần điều tra nghiêm túc để có giải pháp hỗ trợ có hiệu quả.
- Theo số liệu của tổ chức SHPT Châu Âu: Số lượng PN được nhận học bổng, chương trình nghiên cứu trong lĩnh vực SHPT chỉ chiếm 20% (mặc dù trong quá trình xét chọn đã quan tâm đến bình đẳng giới).
- Cơ hội học tập giành cho những người nghiên cứu trẻ: người ta cũng nhận thấy số PN ít có cơ hội hơn nam giới.
- Trong các chính sách đối với phụ nữ làm khoa học, chưa quan tâm đầy đủ đến khó khăn ccuar chị em do phải thực hiện thiên chức của phụ nữ.
- Đức tính truyền thống của phụ nữ: hy sinh sự nghiệp của mình vì sự tiến bộ của chồng con.
- Năm năm (sinh 2 con), gián đoạn công việc, làm tiêu hao không chỉ sức khỏe mà cả “đà” công việc, tâm trí, sự minh mẫn, ý chí vươn lên, nhất là vươn lên trong khoa học..
- Nữ thanh niên, nhất là những người không có được những lợi thế (theo quan niệm của đối tác và gia đình họ), có thể phải: lựa chọn giữa sự nghiệp và gia đình, nhiều người phải hy sinh sự nghiệp khoa học để bảo vệ hạnh phúc gia đình.
- Một số giải pháp ở các nước - Indonesia: trong định hướngvà tổ chức hoạt động khoa học ở tầm rộng, người ta có tính đến tác động khác nhau giữa nữ và nam.
- Điều này thể hiện trong suốt quá trình dẫn đến những quyết định cụ thể trong tổ chức hoạt động nghiên cứu và triển khai các đề tài dự án, cũng như có các hình thức động viên tiếp theo.
- WIPO: giải thưởng WIPO cho những người được giải thưởng VIFOTEC: một giải cao nhất và một giải cho phụ nữ đạt giải cao nhất.
- Do đó năm 2009, một phụ nữ được giải 3 VIFOTEC vẫn là một trong 2 người được giải WIPO.
- Những đề nghị - Tạo sự công bằng hoặc ưu tiên hơn cho phụ nữ về cơ hội học tập.
- Ở nước ta, nên có chính sách ưu tiên đào tạo sau đại học cho phụ nữ.
- Đa số PN hoạt động trong lĩnh vực khoa học đủ “chín” về tri thức và kinh nghiệm, được cộng đồng khoa học biết đến khi đã ở độ tuổi gần 50.
- Có sự điều tra nghiêm túc về sự tụt hậu của phụ nữ trong khoa học nói chung và riêng trong thời gian gần đây, từ đó xác định được các giải pháp thích hợp.
- Trong việc tuyển chọn các để tài, nên chăng có hệ số hay cộng điểm cho các đề tài, dự án do phụ nữ chủ trì - Nên thống kê về tỉ lệ nữ được tham dự đề án đào tạo sau đai học bằng ngân sách nhà nước (đề án 322) từ đó đề ra những biện pháp cụ thể, chẳng hạn nên quy định tỷ lệ nữ tham gia dự án..
- Trong khi chờ đợi những thay đổi ở tầm vĩ mô, phụ nữ chúng ta hãy tiếp tục phát huy truyền thống tự giải phóng mình, hãy cố gắng khai thác có hiệu quả cao những cơ hội hiện hữu, hãy cố gắng đừng tự làm phức tạp hoá thêm những điều không vui trong cuộc sống, giành thời gian và trí tuệ cho sự nghiệp, giữ mãi sự minh mẫn và tươi tắn của phụ nữ, vì sự phát triển của thế hệ hôm nay và mai sau