Professional Documents
Culture Documents
Nguyễn Nhơn
Thơ Văn
Thao Thức
LỜI CẢM TẠ
MỤC LỤC
PHẦN I 9
LƯU LY
– Hồn Lá Chưa Lìa Cội 11
– Tháng Tư, ngậm ngùi thân phận Lưu Ly 13
– Đoàn Quân Âm Thầm 18
– Tiếng hát dưới chân rặng Trường Sơn 20
– Tết Nhớ Nhà 25
– Xuân trên Núi Hoàng Liên 27
– Hè nhớ Quê nhà 35
– Nắng Trường Sơn 37
– Thu Vàng 38
– Tội nghiệp Mùa Thu 40
– Thu Trường Sơn 42
– Chiều Thu gánh cọ qua cầu lắt lay 43
– Nàng Đông 44
– Mùa Đông Hoàng Liên Sơn 46
– Mùa Đông dưới Rặng Trường Sơn 48
– Xuân Hạ Thu Đông 50
– Tình Lính 52
– Giọt Lệ Nầy 54
– Cám ơn Nụ Hồng 56
PHẦN II 59
THAO THỨC
– Quốc Hận 30 Tháng Tư, những ai còn thao thức? 61
– Khí Thiêng Sông Núi Việt 65
– Việt Nam Cộng Hòa 67
– Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa 71
– Tinh thần Dân tộc – Nhân bản của hai Nền Cộng
Hòa Việt Nam 80
– Giao Thừa, Ước Mơ Một Nước Việt Khiêm Hòa –
Nhân Ái 84
– 30 Tháng Tư, nói về Giáo dục
Việt Nam Cộng Hòa 88
– Văn Hóa Nhân Bản Việt 94
– Tôi là Người Việt Quốc Gia từ khi mở mắt
chào đời 112
– Cách Mạng Mùa Thu Dân Tộc 119
– Vì sao tôi Cổ võ Cuộc Cách Mạng Toàn Triệt? 122
– Những Tia Lửa Nhỏ Ban Mai 127
- Quà cho anh 131
- Các kiểu đi tù việt cọng 133
- Tháng Tư Rạng Rỡ 144
- 30 Tháng Tư Mùa Xuân Dân Tộc 145
– Tết Hỏa Ngục 152
– Lửa Hạ 2018, Quyết Thiêu Rụi Hung tàn
việt cọng 147
– Tự chuyển – Tự biến 158
– Thiên đàn Hạ giới – Địa ngục Trần gian 159
– Toàn dân nghe chăng? Sơn hà nguy biến! 160
– Để Phục Hồi Tinh Thần TỒ QUỐC - DANH DỰ -
TRÁCH NHIỆM 176
– Chiếc Giày của 43 năm Cay đắng Phẫn nộ 181
– Một Chế độ bất kể Trồng quần, Ném dép 185
PHẦN I
LƯU LY
Tháng Tư,
ngậm ngùi thân phận lưu ly!
Cho tới nay, các “ nhà tranh đấu dân chủ “ trong nước
vẫn chủ trương “ tranh đấu Ôn hòa – Bất bạo động “ theo
phương thức “ Xã hội Dân sự “ đi song song với “ Quốc tế
vận. “
Cho tới hồi gần đây, khi Hoa Kỳ từ Đại sứ Ted Osius
cho tới TT Obama đều xác minh: “ Hoa Kỳ KHÔNG CÓ
kế hoạch thay đổi thể chế chánh trị Việt Nam, “ một số các
vị thức giả mới lên tiếng về “ TỰ LỰC “ tranh đấu vì Tự do
– Dân chủ cho chính mình.
Riêng gã cựu chức việc già VNCH đã từ lâu không
ngớt hô hà o, cổ võ, khích lệ giới trẻ trong nước kết hợp
thành những nhóm nhỏ, tự đặt kế hoạch hành động tích cực
hơn nhằm dẫn tới cuộc CÁCH MẠNG TOÀN DIỆN nếu
không bằng bạo lực thì chí ít cũng phải bằng hành động
phản kháng BẤT TUÂN DÂN SỰ.
Sở dỉ kẻ tiểu dân già VNCH có chủ trương như vậy bởi
vì kinh nghiệm xót xa cho thân phận tị nạn lưu ly khi cố
gắng nói lên tiếng nói công chính của cộng đồng tị nạn việt
cọng với chánh phủ Hoa Kỳ khi tái lập bang giao với việt
cọng.
( Báo Người Việt - Ðại sứ Mỹ: Bắt LS Ðài, Việt Nam 'đang
chơi trò nguy hiểm' )
Nhớ hồi nẩm 1994, khi Clinton bất ngờ tuyên bố bãi
bỏ cấm vận đối với việt cọng, Ban Đại diện cộng đồng
người Việt Bắc Cali gốm các b ạn trẻ vừa mới chánh thức
được bầu cử tổ chức cuộc biểu tình phản đối lịnh bãi bỏ
cấm vận trước trụ sở Liên bang trên đường 1.
Buổi sáng trời hanh lạnh, vài ba chục quân cán chính và
đồng bào tị nạn cọng sản dàn trận trước trụ sở Liên bang đồ
sộ xem ra mong manh đáng thương. Sau gần 20 năm định
cư trên đất Mỹ, cộng đồng người Việt mới chỉnh đốn được
tổ chức, đụng phải mặt trận thiệt là gay go, không khác nào
đội đá vá trời. Nhưng mà cũng cố gắng nói lên tiếng nói
nhỏ nhoi của mình.
Gã nhà quê lúc ấy đã 57 tuổi, buồn tình, xách cặp da
vào đại học cộng đồng De Anza xin ghi danh học một khóa
Bang giao Quốc tế xem chiện gì đã xãy ra.
Té ra là đã vài năm nay, Hoa Kỳ có cái sách lược đối phó
với các nước cọng sản còn sót lại kêu là Engagement –
Enlargement ( Kết giao – Mở rộng ). Nói khái quát nó gồm
3 bước đơn giản:
1- Bãi bỏ cấm vận: Giải trừ các đe dọa nhằm tạo không
khí hòa hoãn.
2- Trao đổi dân sự: Khuyến khích doanh nhân qua lại
thăm dò công việc làm ăn. Lập chương trình trao đổi sinh
viên - học sinh để hai bên tập làm quen.
3- Thiết lập bang giao: Dùng các hiệp ước giao thương
có lợi cho nước đối tác để “ khuyến khích thay đổi dân chủ
(Using beneficiary agreements as “ leverage “ to encourage
“ democratic transformations “ )
Anh sinh viên già đọc thấy lấy làm bỡ ngỡ, mới thưa hỏi vị
giáo sư Mỹ: “ Vậy chừng bao l âu thì việc khuyến khích
thay đổi dân chủ có kết quả? “
khả dĩ của Hoa Kỳ trong các tranh chấp có thể xãy ra trong
tương lai. Sự minh bạch là cần thiết cho cả hai bên nhằm
tránh sự kiện mà trong đó các tác nhân địa phương được
phấn khích để tích cực đối đầu với Trung quốc và cũng
tránh sự thoái bộ đối với quan hệ của các trong vùng v ới
Hoa Kỳ vì lý do nhận thức sự không làm tròn kỳ vọng của
Hoa Kỳ. )
Nói một cách nôm na cho dễ hiểu là : Hoa Kỳ phải nói
rõ cho Phi và VN biết là chỉ ủng hộ hai nước trong tranh
chấp Biển Đông tới mức nào thôi chớ không được ỷ lại vào
Hoa Kỳ mà làm tới với Trung cọng được!
Nói tóm tắt lại là: Đừng trông chờ các “ đòn bẫy “ của Hoa
Kỳ đối với việt cọng có linh ứng hay không mà hãy tự
trông cậy vào chính sức lực của mình mà hành động trong
việc tranh đấu vì Dân chủ – Nhân Quyền cũng như đối phó
với tàu khựa trên biển Đông.
Và luôn luôn ghi nhớ câu ngạn ngữ Mỹ:
" Freedom Ain't Free
Tự do không cho không, biếu không!
Nguyễn Nhơn
Tháng Tư Đen phấn đấu cho Ngày Mai Tươi Sáng
2/4/2019
Bình Dương
Nguyễn Thị Ngoan
TIẾNG HÁT
DƯỚI CHÂN RẶNG TRƯỜNG SƠN
lúc nầy yếu đuối lắm rồi mà phải tuân theo sự cưỡng ép của
lũ tù gọi là Thường Trực Thi Đua, tức là lũ tù phản tỉnh lập
công, mà phải gắng gượng, xướng ca. Mà mấy chữ cuối
cũng không phải là “chúng mình đắp xây”. Chính ra là
“chúng mình Thi đua”, nên người viết tự ý sửa đi cho nó
bớt mùi xã nghĩa, làm hỏng đi vẻ đẹp của Sông Núi Trường
Sơn.
SUỐI A MAI
có lần gã suýt vùi thân nơi Dòng A Mai xinh đẹp mà cuốn
hút đó. Buổi chiều, sau một ngày lặn lội đường xa, cặp tre
già nặng trĩu vai gầy. Vừa về tới bờ A Mai, gã tù vất phịch
bó tre, ngồi thở dốc. Rồi, thay vì đợi các bạn tù kết bè dã
chiến, vượt suối an toàn, gã cởi quần áo, lột dép cầm tay,
một mình lội đứng qua dòng. Có ngờ đâu lúc nầy tuổi gã đã
ngoài bốn mươi lại thêm bịnh đói triền miên, sức lực đã
mỏi mòn. Cho nên mới ra tới giữa dòng, gã đà kiệt sức.
Khốn nỗi, nếu buông quần áo, nhất là đôi dép độc nhất ra
để rảnh tay bơi lội thì những ngày dài sắp tới, khi vượt
rừng, băng núi, gai gốc, đá tai mèo thì đôi chân trần liệu sẽ
ra sao? Cho nên gã đành đánh liều với số mạng, cố gắng
đến đâu hay đến đó. May sao vừa lúc ấy, chiếc bè phía sau
vừa lao tới, gã vươn tay bám chặt vật cứu tinh. Vậy là thoát
nạn. Suối A Mai chảy dài ra Bến Ngọc
BẾN NGỌC
Vượt rừng núi Lào Cai một đêm Hè mưa rơi tầm tã,
xuyên quaThị Xã Vĩnh Yên, đổ xuống bến đò Ấm Thượng.
Chiếc tàu sắt men theo sông nhánh, đưa đoàn tù Miền Nam
đổ bộ lên Bến Ngọc vừa lúc chiều buông. Cảnh chiều tà
trên bến vắng thật là hiu quạnh. Khói cơm chiều nhà ai vờn
lửng lơ trên mái rạ. Gã tù ngẫn ngơ, mường tượng trong
tâm tưởng tiếng hát biệt ly sầu:
Đàng trước mặt, nẻo mòn quanh co, mất hút trong cảnh
rừng núi tăm tối, mịt mù. Đàng sau lưng, dòng sông lặng lẽ,
lững lờ trôi. Lòng người tù khoắc khoải, rồi đêm nay biết sẽ
về đâu? Vì ấn tượng ban đầu ấy mà về sau, mỗi lần trẩy qua
Bến Ngọc gã tù vẫn thấy lòng buồn man mác:
Khen ai khéo đặt tên Dốc Phục Linh, bởi vì mỗi lần
qua là mỗi lần đờ đẫn, chỉ vượt qua rồi mới lấy lại thần
hồn. Ngày đó, toàn Trại Tân Lập, kể cả Phân trại K7 giam
tù “biệt kích” cũ của Miền Nam, đều kéo ra Bến Ngọc để
vận chuyển những gì còn lại của xác Trại Số 1, Lào Cai, bị
Trung Cộng tràn qua biên giới đánh sập. Lần đó, gã cùng
một bạn tù khiêng một bó cột kèo nặng trĩu. Gã bắt đầu
vượt Dốc Phục Linh vào lúc trưa đứng bóng. Trời nắng
chang chang, không khí tan loãng, nhẹ tênh, mặc cho gã phì
phò hít thở mà không hớp được bao nhiêu dưỡng khí. Dốc
thì dựng đứng, gánh nặng oằn vai, từng giọt mồ hôi chảy
vào mắt cay xè, gã dấn bước trèo lên một cách vô hồn. Chỉ
khi được lịnh nghỉ, gã định thần nhìn lại mới hay mình
đang đứng trên đỉnh dốc. Nhìn quanh tìm kiếm, gã không
thấy nơi nào có đủ bóng râm tránh nắng. Những cụm tre
thưa, những thân cây còm cỏi làm sao tỏa được bóng râm
mát mẻ? Gã bật ra tiếng chửi thề khi bỗng nhiên nhớ lại
mấy câu thơ tiền chiến chết tiệt của văn nô Tố Hũu:
Bận lên đã vậy, bận xuống cũng không phải nhẹ nhàng,
phải ra sức kềm lại sức nặng từ phía sau đẩy tới, có thể xô
ngả xuống hố sâu bên vệ đường. Xuống hết dốc một quãng
thì bắt đâu vào xóm. Đường tuy bằng phẳng mà gã tù vì
mệt mỏi nên vẫn bước lặt lè. Phía trước mặt đi ngược lại,
chị dân làng áo quần lếch thếch, gánh nặng oằn vai. Vậy
mà miệng không ngớt kêu thương, “Tội nghiệp các B ác
quá!” Mà nào ai biết ai tội nghiệp hơn ai? Lũ tù kia chiều
nay còn có chén “sắn dui” nho nhỏ tạm qua cơn đói khát.
Còn Chị? Chiều nay biết chị có mang về được chút khoai,
sắn cho bầy con nhỏ để chúng được no lòng? Vậy mới biết,
giữa những người cùng khốn, tình yêu thương vẫn ấp ủ
trong lòng.
Nguyễn Nhơn
Bình Dương
Nguyễn Thị Ngoan
XUÂN TRÊN
NÚI HOÀNG LIÊN
xong. Còn ở đây, đồi núi toàn sỏi đá, không làm như trên
thì hom mì không làm sao bắt rễ nổi. Cho nên phải làm như
vậy chớ chẳng phải kỹ thuật xã nghĩa cái mụ nội gì! Đội 11
triển khai đội hình, tức là dàn hàng một vòng quanh ngọn
đồi trọc, vì trước đó tù hình sự đã phát xong lùm bụi rồi,
bắt đầu cuốc dần lên đỉnh. Sức tôi lúc đó cầm cuốc còn
không vững, lại thêm trời lạnh như cắt, tay chưn run lập
cập, dẫu cho có dùng hết “tinh thần cách miệng tiến công”,
ra sức cố cù lừ cuốc xuống thì chỉ thấy sỏi đá văng tứ tung
mà lưỡi cuốc không ăn xuống được bao nhiêu! Tên cai tù
trẻ nhìn tôi, lắc đầu ngán ngẩm, bèn bảo tôi chạy đi gom
chà, đốt một đống lửa to cho nó ngồi sưởi ấm. Nghỉ giữa
buổi, chúng cho phép anh em xúm quanh đống lửa, sưởi ấm
một lúc. Nhìn anh em mặt mày tái xanh, tái xám, ngồi ủ rủ
giống như một lũ u hồn, oan khuất. Lại thêm gió giật từng
cơn, đã lạnh càng thêm giá buốt, tôi cám cảnh sanh tình, đặt
tên cho ngọn đồi đó là “Đỉnh Gió Hú” cho nó văn chương,
thơ mộng. Chiều xuống, sương mù giăng mắc, gió rét căm
căm, bọn tù lầm lủi bước. Về đến trại, trời đã tối mịt mùng.
Nuốt vội một chén đá duy nhất củ mì băm mà nơi đây gọi
là “sắn dui” là cai tù đã lùa vào phòng giam, khóa lại. Ai
nấy lật đật giăng mùng. Bao nhiêu mền chiếu đều đem ra
quấn vào người. Riêng tôi, lấy hết mền chiếu trải phía dưới,
quấn quanh người tấm nệm mỏng của trại tù, ngồi dựa vách
run rẩy, chống lạnh cho đến khi mệt mỏi, thiếp đi. Phòng
giam chật hẹp, chứa 50 nhân mạng mà lúc nầy vắng lặng
như nhà mồ vì không ai đủ sức cựa quậy, đi lại. Thuở nhỏ,
ở Miền Nam ấm áp quanh năm nên nghe ông già, bà cả ví
von “lạnh thấu xương, lạnh nứt da, nứt thịt hoặc lạnh trong
xương lạnh ra” đều không hiểu nổi. Lúc này tuổi ngoài 40
mới hiểu được thế nào là cái lạnh trên núi rừng Việt Bắc.
Cho nên một buổi sáng tàn Đông, nhằm ngày Chúa
Nhật, cai tù mở cửa trễ. Đang ngồi thiêm thiếp, bất đồ anh
bạn nằm bên cạnh mở tung cửa sổ ra. Ngoài song cửa hoa
rừng nở rộ một màu trắng xóa khắp núi đồi, báo hiệu mùa
Xuân đến. Chỉ trong một thoáng, tôi cảm thấy trong lòng
bừng nở một sức sống mới: Sự HỒI SINH của Mùa Xuân.
Cho nên sau nầy, khi đọc Thiền Luận của Suziki, dẫn bài
“Hài cú” của một thi sĩ Nhật Bản, nhìn một đóa hoa đơn côi
bên vệ đường, cảm tác nên, để dẩn giải về nguyên lý
“Chẳng phải một, chẳng phải hai” của Thiền Đạo, tôi cảm
nhận được liền. Cũng tương tự, khi đọc bài Xuân Thiền cuả
Trúc Lâm Trần Nhân Tôn:
Tết năm đó, trên núi rừng Hoàng Liên, chúng tôi có
một điều vui nhỏ, mỗi người được một cặp bánh chưng
nhân đậu, có một lát thịt mở đàng hoàng, tuy nhỏ và mỏng.
Đáng ghi nhớ là một sự kiện chấn động: Đó là tin hai người
tù cải tạo Miền Nam toan vượt ngục, bị bắt lại. Ngày mồng
ba tết năm đó, toàn phân trại K1 tập hợp tại Hội trường để
nghe viên Chúa ngục xỉ mắng và đe dọa về vụ nầy. Về sau,
biết được hai người anh em dũng cảm nầy là: Thiếu Tá
TQLC Tôn Thất Thiện Nhơn và một Trung Tá HQ dường
như tên là Phát.
Đó là cái Tết đầu tiên trên đầu phía Bắc của dãy Hoàng
Liên Sơn. Về sau, khi từ phòng kỷ luật ra, anh Nhơn được
bố trí về Đội 11 chẻ tăm mành của chúng tôi. Lúc nầy đã
sang Hè, trời nóng như thiêu, như đốt. Cột kèo bằng tre
nứa, giữa trưa nổ đom đóp.Trong một buổi họp đội do tên
quản giáo chủ trì, anh T3 Nhơn liền cho nổ bom, long trời,
lở đất, chấn động cả toàn trại. Chẳng là vừa khi khai họp,
một tên “ăng ten” hèn nhát đứng lên tố cáo, “Nhờ ơn Bác
đảng nuôi cho ăn học, nhà cao, cửa rộng, áo quần lành lặn,
mà có người còn phát ngôn phản động… “. Tên nầy chưa
kịp chỉ danh ai thì anh T3 Nhơn đã hùng hổ đứng vụt lên,
bất kể cai tù dọa nạt, hô l ớn như vầy: ” Đồ bợ đít, ngồi
xuống. Tao chẳng những không biết ơn mà tao thù, tao oán.
Bởi vì bác đảng mà thân tao tù tội, gia đình tan nát, đói
khát, rách rưới tả tơi. Còn nhà cao, cửa rộng hả? Coi kìa!
cái phòng giam chật hẹp, nóng như thiêu đó giống như Hỏa
ngục A tỳ. Đồ bợ đít hỗn xược! Câm miệng, không thôi tao
dọng vỡ mồm”. Trước tình cảnh lỡ khóc, lỡ cười, tên cai
ngục bèn đứng dậy … dong t hẳng một lèo … vì không có
võ trang bảo vệ.
Mùa Xuân năm Kỷ Mùi 78 kế tiếp là một cái Tết buồn.
Đêm 29 Tết, bác Hồ Đắc Trung cựu Dân Biểu và Tỉnh
Trưởng Tây Ninh bị đau ruột trầm trọng. Trại chở đi Bệnh
Viện Lào Cai cấp cứu, mãi không thấy về, không biết thân
xác vùi dập nơi đâu! Đó là cái chết đầu tiên của người tù
cải tạo Miền Nam trên núi rừng Hoàng Liên. Lại thêm năm
đó, trại cạn láng rồi nên mỗi thằng tù chỉ được phát cho
một cặp bánh chưng mỏng lét, ruột toàn khoai lang. Đến
nỗi bọn cai ngục mắc cở, chống chế, “Thôi mấy anh ăn đỡ
cái Tết xoàng ở đây để năm tới về nhà ăn Tết vui hơn”.
Mà quả có thế thật, vì cuối tháng sáu năm đó, toàn trại, trừ
hình sự và các anh Biệt Kích Miền Nam bị giam cầm ở đây
từ trước, được lịnh chuẩn bị di chuyển. Có điều …
KHÔNG phải về NAM mà là về Trại Tân Lập, Vĩnh Phú,
về phía hữu ngạn sông Hồng. Trại nầy nổi danh là “MỒ
bụng, rên rỉ cho đến hết Đông qua Xuân. Cho nên kể từ khi
ĐT Của thượng đồi chè, tức là chôn bên cạnh đồi trồng trà,
anh em thường kháo nhau, “không biết mùa Đông năm nay
Phó Nhơn có qua khỏi không hay là lên đồi chè làm Phó
cho Ông Của?”. Tôi nghe thấy được, liền dẫy ra, “Ổng có
kêu thì kêu thằng Vinh đó! Nó là Phó của ổng chớ can hệ gì
tới tao.”
Tuy nói đùa như vậy mà suýt tí nữa thì tôi đã theo Ông
Của thật. Giữa tháng 12 năm 80, tôi đau một trận, thập tử,
nhất sinh. Không phải ví von mà thật sự là như vậy. Đêm
đó, khoảng 10 giờ, tôi bắt đầu lên cơn đau. Đến nửa đêm,
chịu không nổi, la hét dữ dội, kêu lính gác, đòi cho đi Bệnh
xá. Tên nầy lém lỉnh, dở trò hoãn binh, bảo chờ đi kêu cai
ngục mở khóa cửa. Tôi chỉ biết lăn lộn, rít lên từng cơn.
Gần sáng, tôi chịu hết nổi, làm liều, bước lại cửa sổ, thò tay
qua song sắt, kêu toáng lên, xin cho một mủi Atropine.
Thằng lính gác có biết trô pin, trô péc cái gì, nạt lại bảo chờ
một chốc là mở khóa. Tới sáng, lả người nên khi cửa phòng
giam được mở, tôi chỉ lờ mờ nhận thấy anh Mai, Đội phó
Đội Rau Xanh, quấn mền, bồng đi. Đến Bệnh Xá, anh vừa
đặt xuống là tôi bất tỉnh nhân sự. Từ đó về sau, tôi không
biết gì nữa.Tỉnh lại thì đã nửa đêm, lại bắt đầu rên rỉ. Anh
Lang cũng là tù cải tạo, được cử làm y tá trực Bệnh Xá,
nghe thấy, bước lại nhỏ nhẹ bảo, “Cả Bệnh Xá chắt chiu
mãi mới có được 5 ống Atropine. Từ sáng đến giờ, thấy anh
đau đớn quá, không c ầm lòng được, đã chích cho anh hết
rồi. Bây giờ, dẫu còn thuốc cũng không dám chích cho anh
nũa. Thôi, ráng ẩn nhẫn cho qua cơn.” Tôi dật dờ, khi tỉnh,
khi mê như vậy trải qua 4 ngày, đêm. Sáng ngày thứ năm,
thấy tôi có vẻ tỉnh táo, anh Lang cầm một ống thuốc đưa ra
trước mặt tôi, không rõ là thứ thuốc gì, miệng nói, “Thuốc
nầy khá mạnh, anh liệu sức kham nổi không, t ôi chích
cho.” Tôi cùng đường rồi, đánh liều, đưa tay ra. Quả nhiên,
mủi kim chích chưa kịp rút ra, tôi cảm thấy như có ai cầm
búa tạ đập mạnh vào ngực. Vừa tức thở, vừa nghe khí huyết
nhộn nhạo, dâng lên, dâng lên. Sức sống từ mười đầu ngón
tay, ngón chân thoát ra khỏi thân thể. Tôi kêu lên, “Anh
Lang ơi! Tôi mệt quá!” mà nghe văng vẳng như tiếng của ai
đó chớ không phải tiếng của mình. Tôi mơ hồ nghe thấy
anh bảo, “Nằm xuống, nằm xuống.” Nếu tôi nghe lời anh,
nằm xuống, có lẽ đã đi luôn rồi! May sao, tôi chỉ chống hai
tay ra sau cho vững, nủa nằm, nửa ngồi, cố ngáp ngáp thở.
Đợt thứ nhứt vừa hạ xuống, đợt nhộn nhạo thứ hai lại bùng
lên. Có điều lạ lùng là lúc nầy tôi không cảm thấy đau đớn
gì. Trí óc vẫn sáng suốt. Nhìn ra bên ngoài, buổi sáng mùa
Đông mà lại có ánh nắng vàng le lói. Đồi núi dường như
nhảy múa, khi gần khi xa. Tôi thầm than, “Cả đời không
làm gì ác, sao đành phải vùi thây nơi rừng núi xứ lạ, quê
người?” Rồi cố gắng hít thở. Bỗng nhiên, tất cả đều lắng
xuống, thân tâm cảm thấy êm ả lạ thường. Đến nỗi khi về
lại giường, nằm xuống đi vào giấc ngủ cô miên, êm đềm
như chưa từng thấy.
Hồi đó, tôi chưa đọc Kinh Phật nên không lý giải được
hiện tượng kể trên. Về sau, trong những năm cày cuốc trên
Khu Kinh Tế Mới Bảo Lộc, tôi lần mò đọc Kinh Luận mới
vỡ lẽ. Nếu hồi đó tôi hiểu được lẽ “Tùy Thuận Duyên
Giác”, yên lặng nằm xuống, có lẽ đã dứt nghiệp từ khi ấy.
Nhưng vì không hiểu biết, tôi lại cưỡng cầu, lại còn dấy lên
“một niệm” oan khuất nên lại tái sinh. Nói cho rõ thì như
vầy: Đạo Phật giải thích về Nghiệp bằng hình ảnh một mủi
tên, ví như thân mạng. Nghiệp lực là sức mạnh phóng mủi
tên thân mạng lao đi. Nghiệp dứt, mủi tên hết đà rơi xuống,
thân mạng cũng dứt theo. Lúc đó, tôi đâu hiểu lý nầy nên
mới cưỡng cầu, dấy lên một niệm oan khuất, tạo ra một
Nghiệp Lực mới, đẩy mủi tên thân mạng tiếp tục duyên
nghiệp mới.
Nguyễn Nhơn
Cuối Đông 1994
Nguyễn Nhơn
On a chanté...les Parisiennes
Leur petits nez et leur chapeaux
Et bien que... les Américaines
Qui soient les souveraines
Du monde nouveau
On oublie tout
Sous le soleil de Mexico
On devient fou...
Thu vàng
Nguyễn Nhơn
Chiều Thu
Gánh cọ qua cầu lắt lay
“ Thương nhau, cởi áo cho nhau
Về nhà mẹ hỏi, qua cầu gió bay “
Chén “sắn dzui” vừa xong
Cả đội tù K5 Tân Lập lên đường
Ra đồi cọ bên kia Bến Ngọc
Trẩy lá cọ về lợp trại mới cất
Đồi cọ bên kia vực thẳm
lúc chiều tà, đẹp hoang sơ
như cảnh sa mạc Châu Phi
Thanh đường rầy xe lửa lật ngang
vừa bàn chân đặt bước
bắc qua vực sâu, dài trăm thước
Thân tù ốm đói nhẹ bước
đong đưa như ngày tháng đong đưa
Bận về mới thật gian nan
Thân tù chỉ bốn chục kí
Gánh nặng oằn vai cũng tương đương
Chiều mùa thu mây mù giăng mắc
“Từng bước từng bước thầm”
Răng cắn chặt nén lại niềm sợ hãi
Gồng tay gầy giữ chặt gánh lá cọ lắt lay
Gió chiều thu đẩy nhịp bước đong đưa
Trên thanh sắt lắt lẻo qua vực thẩm
hồn lơ lửng như mây trời lãng đãng
Vượt qua rồi ngoảnh nhìn lại, như mơ
Chiều thu gánh lá cọ
Nguyễn Nhơn
NÀNG ĐÔNG
MÙA ĐÔNG
HOÀNG LIÊN SƠN
Nguyễn Nhơn
MÙA ĐÔNG
DƯỚI RẶNG TRƯỜNG SƠN
Nguyễn Nhơn
Nguyễn Nhơn
Tình Lính
Bình Dương
Nguyễn Thị Ngoan
Giọt lệ nầy
Cám ơn nụ hồng
PHẦN II
THAO THỨC
Thế hệ trẻ Nước Việt 1956 tiếp nối truyền thống yêu
nước của cha ông, hàng hàng, lớp lớp lên đường nhập ngủ
tùng chinh, quyết chiến đấu chống cọng sản xâm lăng, bảo
vệ nửa mảnh sơn hà Việt Nam Cộng Hòa, đem lại tự do no
ấm cho 18 triệu đồng bào Miền Nam.
Vì thời thế nghiệt ngả, thất cơ, thua trận, hàng trăm
ngàn tuổi trẻ Miền Nam lâm thân tù đày, vẫn giữ dạ sắc
son, giữ vẹn chính nghĩa Dân tộc không suy suyển. Thua
trận, mất nước vẫn ngẩng mât, cao đầu:
“ Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời
phải thế “
Sống thân phận “phó thường dân” ngay trên quê hương
vẫn giữ vẹn tư cách người Việt Quốc gia, không cúi luồn
hèn hạ.
Ra hải ngoại:
Có ai hỏi: Anh từ đâu tới đây?
Đáp: Tôi từ Việt Nam tới đây
Tôi là người Việt Nam
Vì chạy nạn cọng sản mà lưu lạc tới đây.
dở. Bao giờ cũng sẳn sàng tích cực yểm trọ công cuộc đấu
tranh của đồng bào trong nước bằng mọi thế cách và
phương tiện huy động được.
Vậy thì, hãy phấn khởi, cùng nhau đọc Bình Ngô Đại
Cáo:
Nguyễn Nhơn
KHÍ THIÊNG
SÔNG NÚI VIỆT
Nguyễn Nhơn
(Mùa hè trên đất Mỹ)
(*) Thơ Nguyễn Thanh Bạch
1967
Hai chữ: NHÂN BẢN còn sâu hơn hai chữ NHÂN PHẨM
Nhân phẩm là hoa trái
Từ gốc gác (Bản) con người (Nhân)
Nguyễn Nhơn
Cho nên khi đậu xong tú tài mới xin thi vào Học viện
Quốc gia Hành chánh Saigon, ý muốn tham dự vào nền
hành chánh công quyền trong tinh thần dân chủ dưới nền
pháp chế cộng hòa, vì công bằng, bình đẳng, không c ậy
quyền áp chế người thấp cổ, bé miệng. Đầu đề bài thi tuyển
về nghị luận thật đơn giản với một câu ngắn gọn:
Tổng thống Việt Nam cộng hòa nói: “ Học đến tận nơi, hỏi
đến tận chốn, hiểu thật thông suốt, hành thật chu đáo “. Gã
học trò nhà quê đầu óc giản dị, cứ đem những điều cơ bản
về thuyết tri hành hợp nhất của Vương Dương Minh mà
viết. Trong ba giờ thi, chỉ viết được bốn năm trang rồi tịt.
Vậy mà rốt rồi cũng đậu được vào học viện nổi tiếng Đông
Nam Á thời ấy.
Chương trình học tập thời ấy thiệt là nặng. Tuy rằng
học về khoa quản trị hành chánh công quyền Âu Mỹ, thầy
dạy, trò học vẫn trên tinh thần truyền thống Á Đông. Thay
vì nói, cai trị là tiên liệu, thầy Tôn Thất Trạch giảng “ tiên
thiên hạ chi ưu nhi ưu “. Thay vì nói phục vụ công chúng,
thầy giảng thiệt lâu về phục vụ công ích, công thiện.
Năm thứ nhất học lý thuyết. Qua năm thứ hai có những
buổi đi khảo sát các chương trình “ Phát triển Cộng đồng.”
Để chống lại chủ thuyết cọng sản triệt tiêu quyền tư hữu,
VNCH chủ trương Hữu sản hóa đại chúng.
Đầu tiên là chương trình hữu sản hóa tài xế xe Taxi. Ở
Saigon hồi đó, chủ cho thuê loại xe taxi Renault 4 nhỏ như
con bọ hung. Chánh phủ cho nhập cảng loại xe du lịch kiểu
mới Dauphine Alpha mới tinh, bán trả góp cho tài xế lái
taxi.
Trọng đại hơn là sách lược Quốc gia “ Người cày có
ruộng “ hữu sản hóa giới nông dâ n. Chánh phủ truất hữu
ruộng của điền chủ trả bồi thường bằng công khố phiếu,
bán cho mỗi hộ nông dân ba mẫu trả góp. Về sau thời Đệ
nhị VNCH nhận thấy như vậy chậm chạp không t heo kịp
tình hình biến chuyển mau lẹ nên cấp miển phí thay vì bán
trả góp. Về các chương trình phát triển cộng đồng, ngoài
Miền Trung có Hợp Tác Xã Sịa, tỉnh Thừa Thiên nổi tiếng
với nhà máy xay lúa lớn, hiện đại phục vụ xay xát cho nông
dân cả vùng Quận Phong Điền.
Khu Trù Mật Vị Thanh – Hỏa Lựu, Cần Thơ nức tiếng
thời ấy là biểu tượng cho chương trình phát triển nông thôn.
Cọng sản thường rêu rao: quân dân như cá nước nhằm xu
mị lợi dụng dân tiếp tế, che chở cho du kích vc ẩn núp quấy
phá. Để cô lập bọn chúng VNCH tiến hành sách lược “ Ấp
chiến lược “. Đệ nhất VNCH nổi tiếng Đông Nam Á về
chính sách chống du kích nầy. Vì vậy mà cọng sản Bắc Việt
phải xẻ dọc Trường Sơn đưa bộ đội vào Nam chiến đấu
trực tiếp.
Từ năm 1955 đến 1959 là những năm Miền Nam ổn
định và phát triển mạnh mẻ. Hệ thống giáo dục mở rộng
trên nền tảng Nhân bản – Dân tộc – Khai phóng vừa vun
bồi truyền thống dân tộc vừa phát triển kiến thức khoa học,
kỹ thuật.
Đến cuối năm 1960, tình hình bỗng nhiên đột biến.
Đầu tiên là một nhóm nhân sĩ thường được kêu là nhóm
Caravelle ( tên một nhà hàng lớn trên đường Catinat ) r a
tuyên cáo đòi cải tổ chánh phủ.
Đêm 10 rạng 11 tháng 11 năm 1960, một lực lượng
binh chủng nhảy dù tấn công bót Catinat tức là trụ sở Tổng
nha Công an. Một tiểu đoàn tấn công thẳng vào Dinh Độc
Lập tức Phủ Tổng thống. Tình hình vô c ùng nguy ng ập:
Cầu Bình Lợi bị một đại đội nhảy dù c ủa Trung úy Đào
Văn Lượng phá sập một nhịp để ngăn chặn sư đoàn 5 về
giải cứu. Ở Phú Lâm, một đại đội dù thiết lập nút chặn để
ngăn chặn lực lượng thiết giáp từ Quân khu 5 C ần Thơ về
cứu viện. Trong tình cảnh ngặt nghèo như vậy, Tổng thống
Ngô Đình Diệm đã mưu trí liên lạc với các đảng phái chủ
mưu đảo chánh hứa hẹn sẽ hội họp để thảo luận về việc
thành lập chánh phủ Liên hiệp Đoàn kết Quốc gia. Trong
khi ấy, Đại đội Liên binh phòng vệ dinh Tổng thống đã hết
đạn, giá súng, đưa Tổng thống vào chỗ ẩn trú chờ lực lượng
dù vào tiếp thu dinh Độc Lập. Bỗng nhiên lực lượng dù
ngưng tấn công và án binh bất động. Đó là do mấy người
làm chánh trị cơ hội mắc kế hoãn binh của Ngô Tổng thống
nên ra lịnh ngưng bắn.
Hừng sáng ngày 11/11/1960, đoàn xe thiết giáp từ
Quân khu 5 , Cần Thơ kéo về giải cứu bị một Đại dội dù
ngăn chặn ở Phú Lâm. May đâu viên Trung úy Đại đội
trưởng mới nhậu nhẹt với Thiếu tá Trần Cửu Thiên, Tỉnh
trưởng Cần Thơ trong buổi lễ khao quân mấy bửa trước nên
giải tỏa hàng rào chặn cho vị nầy thông qua. Đoàn thiết
giáp thừa thế vượt qua nút chặn, tiến vào giải vây dinh Độc
Lập.
Cả tiểu đoàn nhảy dù của Đại úy Trần Văn Hai lẫn đám
thanh niên, sinh viên do các đảng phái xách động biểu tình
trước dinh Tổng thống đều bị thiết giáp đẩy lui và rút chạy.
Về sau xảy ra câu chuyện về khí phách của những nhân vật
đảng phái đứng đàng sau vụ đảo chánh bất thành: Khi bị
bắt vào vào Nha An ninh Quân đội, BS. Phan Quang Đ.
Thủ lãnh Đại Việt khóc lóc tỉ tê. Thiếu tá Nguyễn Bạch
Ngọc, ủy viên Chánh phủ Tòa án Quân sự Mặt trận Vùng 3
sau nầy, khi ấy là tùy viên hầu cận Tổng thống Ngô Đình
Diệm thuật lại thái độ của tổng thống về cái chết của lãnh
tụ Quốc dân đảng Nhất Linh Nguyễn Tường Tam: Khi
được tin Nhất Linh tự tử, tổng thống thật buồn phiền, than
thở, làm sao mà khổ thân làm vậy! Chỉ chịu khó ít bữa là
mọi việc được giải quyết, làm sao mà phải tự vẩn! Và suốt
mấy hôm, tổng thống còn tỏ vẻ phiền muộn.
Nội vụ chỉ diễn ra trong một đêm, hậu quả tác động
vào vận nước thật lớn lao: Từ ngày ấy về sau, uy t hế
VNCH suy yếu không bao giờ phục hồi lại được!
Nhân khi nội bộ tranh chấp, giặc cọng thừa cơ nổi dậy:
Phát “ Đồng Khởi Bến Tre ” định chiếm tỉnh lỵ Trúc Giang
ra mắt cái tổ chức bù nhìn việt gian gọi là Mặt Trận Dân tộc
Giải phóng Miền Nam. May nhờ Thiếu tá Phạm Ngọc
Thảo, Tỉnh trưởng Kiến Hòa, vốn gốc kháng chiến Bến Tre,
mưu trí tổ chức phản nội tuyến, bẻ gãy đồng khởi của “ chị
ba Định, “ tư lịnh phó cái gọi là lực lượng quân sự GPMN,
đánh cho đồng khởi te tua không còn manh giáp.
Việc nầy vừa yên, việc khác kế tiếp: Dù đồng khởi thất
bại, tháng 12 năm 1960, vc vẫn cho ra mắt Mặt trận GPMN
ở Tân Biên, Tây Ninh, từ đó mở rộng chiến tranh đánh phá
Miền Nam. Mở đầu là trận đánh úp hậu cứ sư đoàn 13 ở
Trảng Sụp, Tây Ninh vào dịp Tết 1961.
Tôi có duyên nợ với Khu Trù Mật Vị Thanh – Hỏa
Lựu. Năm 1961, khi đi thực tập ở Cần Thơ, thỉnh thoảng
được tháp tùng Thiếu tá tỉnh trưởng Trần Cửu Thiên đi
thăm khu vực nầy. Sau một năm làm việc tại Phủ
ĐUTƯTB, tháng 4, 1963 được bổ nhiệm Trưởng ty Nội An
kiêm Đặc trách Ấp Chiến Lược Tỉnh Tân Lập Chương
Thiện mà tỉnh lỵ là Khu Trù Mật Vị Thanh ngày trước.
Ba năm về trước, Khu trù mật Vị Thanh chỉ có một nhà
lồng chợ nhỏ tương đương với ngôi chợ của một quận lỵ
trung bình. Dọc theo bờ kinh Xà No chỉ có một dãy phố
trệt. Giờ đây khu chợ đã có thêm mấy dãy phố lầu, xem ra
cũng có phần thị tứ như một tỉnh lẻ, mặc dầu là giữa đồng
ruộng mênh mong, sát cạnh rừng U Minh vc như rươi.
Tôi nói về nhiệm vụ Ty Nội An là nhằm góp thêm chút
ít ý kiến về cái gọi là “ Pháp Nạn 1963 “ dẫn tới sự sụp đổ
thảm thương của nền Đệ Nhất VNCH. Phòng quan trọng
của Ty Nội An là Phòng Chánh trị Sự vụ. Nơi đó tập trung
các chỉ thị về an ninh do trung ương đưa xuống và các báo
cáo về an ninh do các cơ quan an ninh và các Quận trong
tỉnh báo cáo về. Nghĩa là cơ quan phổ biến các chỉ thị của
trung ương để thi hành và tổng hợp tình hình an ninh trong
tỉnh để báo cáo về Bộ Nội vụ. Do đó, trưởng ty Nội An biết
rõ tình hình của Phật giáo đồ ở địa phương. Về các huấn thị
của chánh phủ, không có mật lịnh nào về đàn áp Phật giáo.
Trái lại là nhiều huấn thị liên tiếp lệnh cho tỉnh trưởng giải
thích cho các giới tôn giáo về lập trường của chánh phủ
trên căn bản tuyên cáo giữa Ủy ban liên bộ của chánh phủ
và Ủy ban Liên phái bảo vệ Phật giáo.
Cho nên câu chuyện pháp nạn nếu có, chỉ xảy ra ở Sài
gòn và Huế do mưu đồ chánh trị của Mỹ và cọng sản dàn
dựng qua trung gian của nhóm Ấn Quang chớ chẳng phải
pháp nạn Phật giáo gì hết trơn.
Vì vậy mà khi cuộc đảo chánh 1 tháng 11, 1963 xảy ra,
quân chính ở cái tỉnh lẻ kế bên rừng U Minh ngơ ngác
không biết vì sao sự thể lại xảy ra như vậy!
Cũng nói cho rõ, bọn việt cọng đâu có giỏi giang gì,
trong khi các đơn vị quân đội được lịnh phe đảo chánh án
binh bất động, tỉnh lỵ Chương Thiện hầu như bỏ ngỏ, đến
nổi tỉnh trưởng phải đem hết Shotgun Ấp chiến lược và đạn
dược ra phát cho công chức tự tổ chức phòng thủ cơ quan
và Ty Nội An tổ chức một đoàn tuần tiễu bảo vệ tỉnh lỵ.
Vậy mà đám địa phương quân vc trong rừng U Minh sát
bên không làm ăn gì được.
Ngày nay, mọi sự đã sáng tỏ, những oan khuất của vị
Đệ nhất Tổng thống VNCH đã được bạch hóa.
Cũng xin thêm một đoạn khi nói về Đệ nhất VNCH chỉ
bắt đầu từ ngày ban hành Hiến pháp ngày 26 tháng 10 năm
1956 xem ra không được đầy đủ.
Có lẽ nên nhấn mạnh về ngày 7 tháng 7 năm 1954 mà
sau nầy thường ghi nhớ là ngày Song Thất tức là ngày Thủ
tướng Toàn quyền Ngô Đình Diệm trình diện nội các, chính
thức chấp chánh trong tình hình hầu như tuyệt vọng:
“yêu nước” gài. Ông Cố vấn chờ tiếng vỗ tay chấm dứt,
điềm tĩnh trả lời:
-Có! Chúng tôi có một ngân khoản ở Thụy Sĩ. Nhiều
hơn con số anh đưa ra. Tôi không tiết lộ con số chính xác
vì nó liên quan tới An Ninh Quốc Phòng. Đó là một ngân
quỹ bí mật. Muốn sử dụng phải hội đủ 5 nhóm mật mã của
5 vị trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia mà tôi là một thành
viên. Có lẽ anh ở ngoại quốc quá lâu, nên không theo dõi
hiện trạng đất nước. Người Mỹ đang áp lực chúng tôi theo
đường lối chính trị của họ. Chúng tôi không muốn hoàn
toàn lệ thuộc vào họ, đánh mất chủ quyền quốc gia. Nên
quỹ bí mật nầy nhằm đảm bảo sự độc lập của chúng tôi
trong việc điều hành quốc sự… Hy vọng tôi đã trả lời thỏa
đáng điều anh thắc mắc…
Cử tọa không vỗ tay rầm rộ, nhưng gật gù tán thưởng.
Sinh viên “yêu nước” bẽn lẽn rời khuôn viên Institut.
-Thưa ông Cố vấn, sinh viên “yêu nước” thứ hai sừng
sõ “chất vấn” tiếp. Ông vẫn chưa trả lời dứt khoát Tổng
Thống Ngô Đình Diệm có áp dụng chế độ “gia đình trị” tại
miền Nam không?
Lại có tiếng vỗ tay lét đét!
-Như ông bạn anh vừa hỏi tôi, tôi nghĩ rằng anh cũng
đã xa quê hương rất lâu. Tôi xin tóm lược hiện tình đất
nước từ ngày Ngô Tổng Thống về chấp chánh đến nay, để
đặt câu hỏi ngược lại với anh:
Giả thử anh là Thủ tướng Ngô Đình Diệm, về nước
năm 1954 khi thực dân Pháp còn tiếp tục khuyến khích các
phần tử thân Pháp lật đổ chính quyền, cũng như yểm trợ,
xúi giục các giáo phái có thành tích bất hảo như thổ phỉ
đánh phá quân đội quốc gia, trước cảnh dầu sôi lửa bỏng
do các phần tử đối nghịch tạo nên, rắp tâm tiêu diệt anh,
nếu phải chọn cộng sự viên sẵn sàng chết sống có nhau vì
đại cuộc, giữa hai người đồng tài, đồng sức, đồng chí
hướng, một bên không là thân bằng quyến thuộc, một bên
là cật ruột, anh có cảm thấy gần như không cách chi anh
không hành sử như Tổng Thống Ngô Đình Diệm chăng?
Sinh viên “yêu nước” thứ hai âm thầm lủi mất.”
Vậy đó, tư cách của Tổng thống Ngô Đình Diệm và
bào đệ Ngô Đình Nhu đáng mặt sĩ phu Việt Nam yêu nước
là như vậy đó!
Nhân ngày kỷ niệm Đệ nhất VNCH 26 tháng Mười,
viết đôi dòng tưởng nhớ công đức tiền nhân, về một thời
Miền Nam tự do, no ấm, tương đối thanh bình với một nền
cộng hòa non trẻ xây dựng trên nền tảng Dân Tộc – Nhân
bản, hướng về một xã hội Việt Nam công bình, nhân ái,
phát triển và thịnh vượng.
Nguyễn Nhơn
(Một môn đệ Quốc gia Hành chánh theo
truyền thống Học – Hiểu – Hành )
Việt Nam là một nước Cộng hòa, Độc lập, Thống nhất,
lãnh thổ bất khả phân.
Đó là tinh thần Dân tộc theo truyền thống Bình Ngô
Đại cáo:
“ Như nước Việt ta từ trước vốn xưng văn hiến đã lâu.
Sơn hà cương vực đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc lập cùng Hán, Đường,
Tống, Nguyên hùng cứ một phương.”
Về yếu tính Nhân bản, hiến pháp cũng long trọng cam
kết:
Tin tưởng ở giá trị siêu việt của con người mà sự phát
triển tự do, điều hòa và đầy đủ trong cương vị cá nhân
cũng như trong đời sống tập thể phải là mục đích của mọi
hoạt động Quốc gia;
`Điều 12
Đời tư, gia đình, nhà cửa, phẩm giá, và thanh danh
của mọi người dân phải được tôn trọng.
Về vấn đề Dân chủ, ngày nay, sống dưới chế độ độc tài
toàn trị việt cộng quá lâu, giới trẻ may nhờ cuộc cách mạng
truyền thông điện tử, tìm thấy được ý niệm căn bản về thể
chế dân chủ, thường nêu cao định chế Tam Quyền phân lâp,
Dân chủ pháp trị, Đa nguyên, đa đảng. Ít người biết rằng,
hai nền Việt Nam Cộng Hòa đã từng vượt lên trên quan
niệm phân quyền hiến định. Và đã long trọng thiết đặt yếu
tính “ Dân chủ Phân nhiệm “ t rên cả hai bản Hiến pháp
VNCH:
Điều nầy thật trọng yếu nhằm bảo đảm tính chất dân
chủ vững chắc và có thực chất của thể chế VNCH khi xác
định: Chủ quyền thuộc về toàn dân. Quốc dân “ ủy nhiệm
vụ “ cho các chức chưởng, định chế quốc gia thực hiện
nhiệm vụ do quốc dân giao phó chớ không phải tự thân các
chức chưởng, định chế ấy ban bố quyền hạn cho toàn dân.
Hiện tại, tương quan giữa các ngành Hành pháp – Lập
pháp – Tư pháp Hoa Kỳ vẫn đặt trên căn bản “ Cân bằng
Quyền lực “ ( Balance of Powers ). Năm mươi tám năm về
trước, Hiến pháp VNCH đã đặt định “ Hoạt động của các
cơ quan hành pháp và lập pháp “ phải được điều hòa .”
Nghĩa là các ngành hoạt động điều hành công việc quốc gia
có bổn phận phải thu xếp ổn thỏa để cho bộ máy nhà nước
hoạt động được điều hòa, không để va chạm rối loạn, chớ
không chỉ tiêu cực cân bằng quyền lực.
Một Quốc gia VNCH non trẻ, được thiết dựng trên căn
bản trội yếu về hiến chế và điều hành giữa thời chinh chiến
điêu linh mà đã đạt được một số thành tựu đáng kể như vậy
cũng là niềm hãnh diện cho sĩ phu Miền Nam nước Việt.
Hơn thế nữa, những ngày cuối cùng của Miền Nam, trong
khi giặc cộng kéo gấn đến dưới chân thành, sĩ phu Miền
Nam vẫn còn thao thức hội thảo đặt vấn đề: Dân chủ Pháp
trị hay Đức trị? Là Phụ mẫu chi dân hay dân chi phụ mẫu?!
Hởi ôi, nền VNCH như đứa bé mới học đi vừa vững
chân trên nền Dân chủ Pháp trị đã chực chạy lên Dân chủ
Nhân bản và tiến đến mức cao xa Đức trị!
Còn như ngày nay, giữa thời kỳ chủ nghĩa xã hội đen
tối, chỉ một nền Cộng hòa Tam quyền phân lập đơn sơ,
khiêm tốn vẫn chỉ là “ một viễn tưởng “ ở ngày mai, nghĩ
cũng thật là thảm cho Đất nước và Dân tộc!
Nguyễn Nhơn
Giao thừa,
Ước mơ Nước Việt Nhân ái
Giao thừa trên đất Mỹ, không hương trầm hoa quả,
nhớ về quê mẹ ngày xưa. Ngày xưa, tình làng nghĩa xóm
ấm êm, ngày nay không còn nữa. Đạo lý, cương thường lạc
mất tiêu. Chỉ biết tranh giành, chụp giựt cầu sống!
Nhớ tiếc về hai nền Việt Nam Cộng Hòa non trẻ hăm
hở thực thi dân chủ hướng về một thể chế mang bản sắc
Dân tộc.
"Tin tưởng ở tương lai huy hoàng bất diệt của Quốc gia
và Dân tộc Việt Nam mà lịch sử tranh đấu oai hùng của tổ
tiên và ý chí quật cường của toàn dân đảm bảo;
Tin tưởng ở sự trường tồn của nền văn minh Việt Nam, căn
cứ trên nền tảng duy linh mà toàn dân đều có nhiệm vụ
phát huy;
Tin tưởng ở giá trị siêu việt của con người mà sự phát
triển tự do, điều hòa và đầy đủ trong cương vị cá nhân
cũng như trong đời sống tập thể phải là mục đích của mọi
hoạt động Quốc gia;"
Đây là nét bản sắc dân tộc: Việt có nghĩa là vượt. Vượt
lên trên là siêu việt. Mục đích của mọi hoạt động Quốc gia
phải là hoàn thiện tính siêu việt của giống nòi Lạc Việt.
Những ngày cận tháng tư đen tối, khi giặc cọng áp sát
chân thành, hàng môn đệ Quốc gia Hành chánh còn tụ họp
nhau luận bàn về "Pháp trị hay Đức trị? "- "Phụ mẫu chi
dân hay Dân chi phụ mẫu?"
Hồi đó, gã chức việc trẻ còn bận chạy đôn chạy đáo,
vừa lo việc an ninh vừa lo nuôi ăn trên hai vạn đồng bào
nơi "Trung tâm Khẩn hoang - Lập Ấp "Thái Thiện, một vùng
đât cheo leo giáp ranh hai tinh Biên Hòa - Bà Rịa nên
không về dự được.
Ví như mà gã chức việc gốc nhà quê xứ Thủ mà về dự
được thì chỉ xin vắn tắt dôi lời:
- Pháp trị thi nghiêm ngặt, gò bó.
- Đức trị thì cao xa, miên viễn.
Chi bắng ta chọn giải pháp trung dung: NHÂN TRỊ
có Lý có Tình.
phá hoại văn hóa, ngôn ngữ, biến nước Việt thành đất phụ
dung, đồng hóa dân Việt.
Trước họa mất nước, diệt tộc nhãn tiền, những ai còn
chút lòng thao thức vì vận nước, hãy mạnh dạn kêu lên
tiếng báo n guy, hô hào , cổ võ cuộc vận động cách mạng
giải trừ chế độ phản nước, hại dân việt cọng để mở đường
cho công cuộc phục hồi đạo lý dân tộc, tái thiết xã hội Việt
vươn lên giá trị siêu việt của giống nòi Lạc Việt.
Tha thiết ước mong một mùa Xuân mới trên Đất Việt
mến yêu.
Nguyễn Nhơn
( Đêm trừ tịch Xuân Mậu Tuất )
2018
30 Tháng Tư Nói Về
Giáo-Dục Việt-Nam Cộng-Hòa
Năm học lớp nhì trường làng, tức lớp hai trường tỉnh,
vừa học thông mặt chữ, ê a đọc Quốc văn Giáo khoa thư:
Núi Thái Sơn ở đâu không biết, chỉ biết là công cha
cao như núi. Nguồn nước từ đâu cũng không hay, chỉ biết
lòng thương của mẹ ngọt ngào như nước Mội Thầy Thơ
trong vắt.
Đó là lòng hiểu đễ trong gia đình. Khi ra ngoài xã hội
thì phải biết thương người như thể thương thân:
Ngày bãi trường, xem các anh diễn kịch Hội nghị Diên
Hồng:
Ơn thủy thổ, ơn tấc đất, ngọn rau, phải hết lòng yêu
nước, chống xâm lăng. Đó là nghĩa vụ của người trai Đất
Việt.
Tôi vừa trích dẫn đôi hàng từ hai tài liệu căn bản Quốc
văn Giáo khoa thư và Đại Nam Quốc sử Diễn ca, tiêu biểu
về nền giáo dục truyền thống quê nhà Việt Nam: Tình yêu
thương Gia đình, tình tự Dân tộc.
Từ đó, các nhà giáo dục Miền Nam dựng lên triết lý
giáo dục cho hai nền Cộng Hòa chánh thống như sau đây:
Tới đây, đáng lẽ kết thúc bài viết được rồi, nhưng
chẳng đặng đừng phải viết thêm một đoạn về cái gọi là nền
giáo dục xã nghĩa tồi tệ, không lèo, không lái, đưa thế hệ
trẻ Việt Nam vào mê lộ tối tăm!
Ai mà chẳng buồn rầu khi nghe một bé gái thỏ thẻ hỏi
ông: “ Ông ơi! Cháu đọc sách học hoài mà không biết hai
bà Trưng đánh giặc nào?!”
Ai mà không ngạc nhiên thảng thốt khi nghe thấy, sinh
viên tung hê tài liệu về đề cương lịch sử bay như bươm
bướm khi được tin miễn thi đề thi lịch sử!
Chúng nó, bọn cọng sản phản nước, hại dân chỉ biết
cúc cung thần phục chủ Tàu đến nỗi che dấu lịch sử cho trẻ
thơ không biết kẻ thù xâm lăng đất nước, tàn hại dân tộc là
ai. Chúng nó bịt mắt thanh niên về lịch sử tổ tiên, chỉ dạy
một điều về chém giết sắt máu theo lịch sử đảng: Đánh đâu
thắng đó, đánh nhỏ thắng to, đế quốc nào cũng đánh thắng,
bất kể xương, máu chất chồng!
Vì sao mà ra nông nỗi? Là vì lẽ nầy đây:
Triết lý giáo dục
Nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam chưa có lời phát biểu rõ ràng và
chính thức về triết lý giáo dục của mình. Có người cho rằng
Việt Nam cần thiết phải có một triết lý giáo dục và đặt vấn
đề là phải chăng "giáo dục [Việt Nam] chưa có một triết lý
phù hợp với nhu cầu đổi mới và hội nhập".
Tháng 9 năm 2007, Học viện Quản lý Giáo dục thuộc
Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam tổ chức hội thảo khoa
học "Triết lý giáo dục Việt Nam" nhằm tìm câu trả lời cho
các câu hỏi: Triết lý giáo dục là gì? Việt Nam đã có triết lý
giáo dục chưa? Tại sao triết lý giáo dục lại quan trọng?...
Ở hội nghị này, nhiều đại biểu cho rằng nền giáo dục Việt
Nam từ trong truyền thống và hiện đại đều có triết lý giáo
dục, thể hiện qua những câu như: "Không thầy đố mày làm
nên"; "Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ phải
yêu mến thầy"; "Học thầy không tày học bạn"; "Tiên học
lễ, hậu học văn"; "Học phải đi đôi với hành"; "Vì lợi ích
mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người";
"Một dân t ộc dốt là một dân t ộc yếu"; v.v... Tuy vậy, theo
tường trình của Tạp chí Cộng Sản, hội nghị này vẫn chưa
đưa ra được một định nghĩa cụ thể về triết lý giáo dục của
Việt Nam. Các bài tường trình của Tạp chí Cộng Sản, và
của tạp chí Thông tin Khoa học Xã hội, không nhắc đến
triết lý nhân bản, dân tộc, và khai phóng từng tồn tại ở
miền Nam Việt Nam từ năm 1955 đến 1975.
Hởi ơi! Giáo dục mà không có nguyên lý dẫn đường
thì cũng giống như con thuyền không lái. Cho nên thế hệ
trẻ hồ chí mén đâu có biết con đường nào khác ngoài “ con
đường bi đát, bác đi.”
Nguyễn-Nhơn
Nhân đọc bài Triết lý giáo dục là gì? giáo dục là gì?
của Nguyễn Tường Tâm, đọc giả Hoàng Trường Sa ghi lời
bình:
" Xin chân thành cám ơn tác giả Nguyễn Tường Tâm
về bài viết đầy công phu và hữu ích này. Như đã giải thích
trong bài, " triết lý giáo dục " là những nguyên tắc chính
hướng dẫn nền giáo dục. Hay nói gọn hơn, nó là kim chỉ
nam hướng dẫn nền giáo dục. Triết lý giáo dục của hai nền
Cộng hòa ở miền Nam thời VNCH trước 1975, là dân tộc,
nhân bản và khai phóng. Miền Bắc từ năm 1945, thời còn
mồ ma Hồ Chí Minh, đương nhiên cũng có " triết lý giáo
dục " dù không nói rõ ra như miền Nam. Theo tôi, " triết lý
giáo dục " c ủa VNDCCH (và CHXHCNVN) là trồng
người, tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, như
HCM đã từng nói: " Muốn xây dựng thành công Chủ nghĩa
Xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa ". tức là tạo ra
những con người hồng (tức là đỏ), những kẻ tin vào cái gọi
là "giai cấp đấu tranh", "thế giới đại đồng",v.v...Thế nhưng,
cái gọi là Chủ nghĩa Cộng sản (hay Chủ nghĩa Xã hội),
theo thời gian đã tàn lụi. Hiện nay, trên toàn thế giới chỉ
còn sót là 4 hay 5 nước mang danh X HCN (là TQ, VN,
Triều Tiên, Lào(?), Cuba) nhưng thực chất đã chuyển hóa
từ từ trong thực tế, không còn tin gì mấy vào Mác Lê Nin
và chủ thuyết Cộng sản. Họ chỉ còn giữ cái danh xưng
XHCN (hay Cộng Hòa Nhân dân, Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân, vv...) là để tiếp tục độc quyền cai trị đất nước . Theo
tôi, ĐCSVN không phải không biết những điều rất xây
dựng mà tác giả Nguyễn Tường Tâm nêu ra đâu. Có điều là
họ làm lơ để dễ thực hiện những điều mang lại lợi ích cho
cá nhân và đảng họ thôi. Việc Bộ Giáo dục CHXHCNVN
đổi sách giáo khoa liên tục (có thể nói gần như hàng năm)
là để bán sách kiếm tiền bỏ túi, chứ không hề vì mục đích
giáo dục gì cả. Muốn thay đổi nền giáo dục của VN, việc
trước tiên là phải thay đổi chế độ hiện nay bằng một chế độ
thực sự là của dân, do dân v à vì dân, một chế độ biết tôn
trọng nhân quyền và có lòng yêu nước, muốn bảo vệ dân
tộc VN trước âm mưu Hán hóa của TQ với sự đồng lõa của
ĐCSVN.
Câu viết rằng: " Theo tôi, "triết lý giáo dục" của
VNDCCH (và CHXHCNVN) là trồng người, tạo ra những
con người xã hội chủ nghĩa, như HCM đã từng nói:
"Muốn xây dựng thành công Chủ nghĩa Xã hội, phải có con
người xã hội chủ nghĩa" thật xác đáng.
Già hồ ăn cắp câu Quản Trọng, thường nói: " Vì lợi ích
trăm năm, trồng người. " Cho nên nó đặt ra nền giáo dục
trồng người cọng sản đỏ để xây dựng thiên đường xã hội
chủ nghĩa. Ngày nay thực tế chứng minh là cái thiên đàng
đỏ hoang tưởng đó, thực tế là dịa ngục trần gian.
Nhân bình giả Hoàng Trường Sa nhắc lại nguyên lý
Dân tộc - Nhân bản của nền giáo dục VNCH, tôi xin ghi lại
đây đoạn sưu khảo về Nguồn gốc Văn Hóa Nhân Bản Dân
tộc:
Nguồn gốc văn hóa nhân bản Việt-Nam
Trời Đất sinh Ta có ý không
Chưa sinh Trời Đất có Ta trong
Ta cùng Trời Đất ba ngôi sánh
Trời Đất in ta một chữ đồng
Đất nứt Ta ra Trời chuyển động
TRÍCH DẪN
“… dẫu vậy có thể nói những nét lớn thì khảo cổ và cổ
sử đã kiện chứng cho thuyết Việt Nho, theo đó Việt sáng
tạo ra ý tưởng, còn Tàu thì công thức hóa và làm trọn vẹn.
Việt là kế thừa trung tín của Di Nho hơn Tàu. Tàu theo đạo
Khổng mà Khổng đã học với Di Nho tức Nghiêu Thuấn mà
Thuấn là "Ðông Di Chi Nhơn".
Nguồn Gốc Văn Hóa Việt
Theo Những Khám Phá Mới Nhất
by Rev. Kim Ðịnh, Vietnamese Philosopher
Bàn về 2 quyển khảo cổ và cổ sử mới nhất về nước Tàu có
liên hệ tới nguồn gốc văn hóa Việt Nam. Ðó là quyển "The
Origins of Chinese Civilization" gồm những bài đã thuyết
trình trong hội nghị Berkeley 1980. Sách in tại University
of California Press 1983 sẽ viết tắt là Origins. Quyển thứ
hai là The Chinese Heritage by K.C. Wu, 496 trang, in tại
Crown Publisher Inc. New York 1982 sẽ viết tắt là Wu.
Tiến sĩ Wu làm đại sứ kiêm học giả. Bài này sẽ theo hai
quyển trên và một ít tài liệu cập nhật hóa để xét lại nguồn
gốc nước Tàu và Việt. Theo đó nước Tàu mới có từ quãng
20 thế kỷ trước Công Nguyên gồm ba nhà Hạ, Thương,
Chu. Ta hãy điểm qua từng nhà.
1. Nhà Hạ kéo dài 439 năm (2205-1898). Tiếng Hạ
không phải là tên chủng tộc mà chỉ là một mảnh đất nhỏ ở
Mạn Nam sông Hoàng Hà đối với người ở Mạn Bắc thì kể
là mùa hạ. Có thể người Chàm Chốc Ðốc đã ở đấy vì họ
cũng có tên là Hạ và có tục cưới rể y như ông Vũ nhà Hạ về
ở quê vợ là Ðồ Sơn tức Hội Khê. Cha ông tên là Cổn được
trao cho việc trị thủy nhưng thất bại, đến lượt ông Vũ thì
thành công. Chữ trị thủy hiểu theo ẩn nghĩa là "cai trị
nước". Ông Vũ trị thủy được là nhờ có con qui nổi lên ở
sông Lạc đội quyển sách có 9 kh oản. Theo cái nhìn của
huyền sử thì đó là cách cai trị của Lạc Việt gọi là Cửu Lạc,
sau Nho Giáo gọi là Hồng Phạm Cửu Trù với Lạc Thư, tất
cả đều phát xuất từ Việt tỉnh cương tức là 9 điều xếp theo 9
ô chữ tỉnh của Việt tộc.
2. Nhà Thương kéo dài 612 năm (1766-1154). Về văn
hóa thì phát xuất từ Hoài Di tức theo văn hóa Di Việt. Bà
Giản Ðịch đẻ tổ nhà Thương theo lối dã hợp của Di, cũng
theo mẫu hệ: gọi tên theo lối Việt như vua Ðê Ất, khi đánh
với nhà Chu thì hầu hết là nhờ quân các nước Di nên nói
được nhà Chu thắng nhà Thương là Tây thắng Ðông.
Nhưng thắng Di, mà Di với Việt có liên hệ chặt chẽ cả về
tiếng nói cùng một gốc Nam Á (Austro-Asiatic) (xem
Origins tr. 437-442) "Thế mà đất của Di rất bao la gồm Sơn
Ðông, Ðông Hà Nam, Bắc Giang Tô, Ðông Bắc An Huy, có
thể cả miền duyên hải Hà Bắc và Trực Lệ, hai bên Liêu
Ðông và bán đảo Triều Tiên trong đó có những tên họ như
Tái Hạo (Phục Hi), Thiếu Hạo (Kim Thiên) họ Phong, họ
Doanh, họ Yếm... tất cả đều liên hệ với Di. Những biến cố
lớn đời nhà Hạ là những cuộc đụng chạm với Di". Học giả
Phó Tư Niên, trưng theo Origins tr. 498. Cho đến hết nhà
Thương thì chưa có gì được gọi là văn hóa Tàu. Tất cả còn
là Di, chỉ tự nhà Chu mới có sự khác biệt về văn hóa.
3. Nhà Chu kéo dài 897 năm từ 1122-225 phát xuất từ
Tây Di, họ Cơ thuộc bộ tộc Nhung (hoặc Khương). Về văn
hóa sút hơn nhà Thương rất nhiều, tuy nhiên chính nhà Chu
đã biến đổi văn hóa Di Việt thành ra văn minh Tàu là do
đến sau và cai trị lâu năm, và nhất là vì có tính cách du
mục, phụ hệ, võ biền: đưa vào văn hóa Di Việt nhiều yếu tố
du mục như chức thiên tử (ghế vua thần) quân đội chuyên
nghiệp, luật hình, hoạn quan, hữu nhậm, ưa số 6 và 4, đàn
áp đàn bà, khinh miệt dân chúng gọi là lê dân (dân đen đầu)
hay kiểm thủ. Vì có pha máu Turc tóc vàng nên gọi dân thế.
Và cũng từ đấy thì bắt đầu phân biệt Tàu với Di Việt bằng
cách coi khinh và những chữ Di Ðịch mới hàm ý "rợ mọi"
chứ trước không hề có thế. Vì Tàu đều phát xuất từ Tứ Di
cả, nhưng khi đã chinh phục được Tứ Di rồi quay lại khinh
dễ gốc của mình.
4. Nhà Tần kéo dài 49 năm từ 255-206, nhưng chiếm
toàn cõi nước Tàu nhất là Sở, Việt, Ngô và xưng là Tần
Thủy Hoàng Ðế thì mới từ năm 221. Tuy cai trị vắn những
đã để lại một hình ảnh nước Tàu to lớn thống nhất, nên từ
ấy về sau các nhà viết sử bám vào hình ảnh này mà quên đi
những quãng đầu lúc nước Tàu còn nhỏ xíu. Từ Tần Thủy
Hoàng nước Tàu mới có như nay nhưng vẫn phải mượn tên
Tần đề gọi nước. Người Tàu đọc Tần là Tsin (đọc theo âm
tiếng Việt là Chin) thành ra Chine, China. Tần là một trong
Tứ Di, nhưng vì tiếp cận với du mục quá lâu nên đi theo
hướng du mục, chuyên chế, không h ợp với Nho nguyên
thủy là vương đạo theo tinh thần dân chủ. Vì thế cai trị
nước Tàu quãng 49 năm.
5. Nhà Hán chia hai là tiền Hán 174 năm (206-32 trước
Công Nguyên) cũng phát xuất từ Tứ Di, miền Giang Tô.
Khi mới lên ngôi còn tế Ly Vưu và xưng mình là Hán Man.
Chữ Hán chỉ là hình dung từ nghĩa cao sang vinh hiển, chứ
không là tên dòng t ộc, y như chữ Hạ và Hoa đều thế. Vì
Tàu chỉ từ Tứ Di phát xuất chứ không có dòng tộc riêng
nên không có tên riêng. Trước đây người ta tưởng là Hoa
hay Hạ là tên dòng tộc nhưng mới đây ông Wu (tr. 106-110)
đã chứng minh là không phải thế mà là tên mới từ đời nhà
Chu thêm hình dung từ Hoa vào Hạ để chỉ sự hiển vinh, lâu
rồi người ta dùng chữ Hoa bỏ chữ Hạ. Ðến đời mới vì Tần
nổi quá nên người Mông Cổ gọi Tàu là Tần và tên này dính
luôn.
Những điều này chứng tỏ Tàu không là một chủng tộc
riêng mà chỉ do tự Tứ Di phát xuất. Ðiều này đã trở thành
hiển nhiên khi xem mấy vị thủy tổ như Phục Hi, Nữ Oa đều
xuất thân từ Di (miền Châu Từ, sông Hoài... Thần Nông thì
có lưu truyền phát xuất từ miền Tibet đi vào Tàu qua ngả
Tứ Xuyên và định cư ở Hồ Bắc bên bờ Dương Tử Giang.
Còn vị nổi nhất là Bàn Cổ thì nay đã tìm ra là người Việt họ
Bàn đọc là Bàng (Hồng Bàng) là Bành (Bành Tổ) theo lối
đọc miền Nam mấy âm đó xuýt xoát (xem Hán Việt tự điển
Nguyễn Văn Khôn chữ Bàng, Bàn. Vì không nhận ra điều
đó nên nhiều sách gán với chữ Bàn Hồ của dân Dao).
Tương truyền mồ mả ông còn đâu đó trong miền rừng núi
tỉnh Quảng Ðông, ông mới được đưa vào Tàu đời Tam
Quốc trong quyển "Tam ngũ lược kỳ" của Từ Chỉnh và đến
đời Tống thì được đưa vào Triết. Trong hoàn vũ Ðông Tây
kim cổ không có hình ảnh nào về nhân chủ cao đẹp hơn
hình ảnh Bàn Cổ. Ngày 15-8-1984 An Việt khám phá ra
những điều này (trong sách ông Wu tr. 2) nên đã đặt tên cho
một chi ở San Jose là Bàn Cổ để ghi "biến cố quan trọng"
là tìm ra tổ chót vót của mình.
Hỏi: Sao lại nói Việt Nho mà không Di Nho hay Hán
Nho?
Việt sáng tạo ra ý tưởng, còn Tàu thì công thức hóa và làm
trọn vẹn. Việt là kế thừa trung tín của Di Nho hơn Tàu. Tàu
theo đạo Khổng mà Khổng đã học với Di Nho tức Nghiêu
Thuấn mà Thuấn là "Ðông Di Chi Nhơn".
NHÂN BẢN
Trong cảnh thái hoang ban sơ khi trời đất chưa phân thì
ông Bàn Cổ xuất hiện đầu tiên. Việc làm trước hết của ông
là phân ra âm dương. Âm dương là tiết điệu căn cơ gỡ nhịp
cho cuộc đại diễn của vũ trụ, cầm cân nẩy mực cho quá
trình biến dịch của muôn loài, trong đó con người dẫn khởi.
Sách nói một ngày ông biến đổi chín lần, mỗi lần ông lớn
lên mười thước thì đất dầy ra bấy nhiêu, trời cao thêm cũng
bấy nhiêu. Bàn Cổ sống 18 ngàn năm, nên đất cực dầy, trời
cực cao, còn thân ông lớn quá xá. Bấy giờ ông khóc, nước
mắt chảy ra làm nên hai giòng sông Hoàng Hà và Dương
Tử. Hơi ông thở thành ra gió, ông xem chung quanh thành
ra sấm chớp, khi ông vui tính thì trời đẹp, lúc ông nổi giận
thì trời tối lại, mây mù phủ kín. Khi ông chết xác ông rã ra
từng mảnh làm thành năm dãy núi trong thiên hạ. Hai con
mắt làm nên mặt trời mặt trăng, mỡ chảy ra hóa thành biển
cả sông ngòi, tóc đâm rễ vào đất mọc lên thảo mộc. Sâu bọ
trên thân xác ông làm nên loài người.
Đó là tóm tắt câu truyện Bàn Cổ (*), có đã lâu đời nên
rất giàu khả năng biểu thị toàn thể triết lý Đông phương,
nên nói về Bàn Cổ chính là nói đến chỗ khởi đoan của triết
lý Đông phương vậy.
(*) Truyện Bàn Cổ là truyện Bàn Vũ cũng gọi là Bàn
Hồ của dân Dao (man) trong Bách Việt đã được Từ Chỉnh
đời Tam Quốc chỉnh lý lại và đưa vào sách Tam Ngũ Lược
Ký.
Bàn Cổ thủ xuất:
Mỗi chữ mang theo một chân lý quan trọng. Sao lại thủ
xuất mà không hậu xuất. Thủ xuất là cốt tránh cái tai họa bị
chèn ép, khi ra sau. Au tard venu les os, đến sau chỉ còn có
xương xẩu; nghĩa là xuất hiện sau thiên nhiên thì sẽ bị
nhiên giới hóa, hoặc nói theo đời nay là bị vật đích hóa,
như trong quan niệm về vũ trụ đã làm xong hẳn, để ban ra
(donné) rồi con người mới đến sau. Chỉ một chữ sau trước
tưởng không qua n trọng gì, kỳ thực đến sau là sẽ bị kẹt
trong hai gọng kìm duy tâm hay duy vật: tâm có trước hay
vật có trước. Vấn đề quan trọng, vì có trước nghĩa là làm
chủ chốt và sẽ giản lược yếu tố sau vào mình. Bởi thế mới
tranh luận thực hăng say giằng giai trải qua từng mấy ngàn
năm mà chưa vỡ lẽ: chưa bên nào chịu bên nào. Tâm có
trước hay vật có trước. Nếu tâm có trước thì là duy t âm,
trong đó con người trở thành duy linh coi thân xác thế gian
là kẻ thù. Nếu là duy v ật thì con người cũng duy vật coi
tâm linh chỉ là bèo bọt tuỳ phụ. Cả hai đều quên con người
cụ thể toàn diện. Chính vì còn thiếu một khoa nhân bản
trung thực khởi đầu ngay tự con người cho nên chưa tìm ra
lối thoát, mãi tới nay chẳng mèo nào chịu mèo nào nên phải
phân lý làm hai thế giới bắc loa lên gửi cho nhau chả còn
biết bao nhiêu lời qua tiếng lại, có đệm cả bằng bom đạn nổ
vật có hiện hữu ra đó thì cũng cốt là để gây nên cuộc thái
hòa của những người sáng lập ra nền văn minh của nước.
Chính nhờ sự minh triết của các ngài mà loài người cũng
như vạn vật mới có thể thuận theo thiên mệnh và nhân tính
của mình. Nhờ uy thế các ngài mà có được sự thái hòa ở
trong xã hội, là cái sẽ kéo theo sự Thái bình, tức một sự
quân bình trọn hảo của đại vũ trụ và chiếu giải vào việc tổ
chức của các tiểu vũ trụ. Vì khuynh hướng trong chính trị
đó nên họ đẩy ra ngoài mọi suy luận về vũ trụ tạo thành”.
(tức bàn về vũ trụ thiếu vắng phần con người tham dự)
PC.342
Nhân sinh ư dần
Chính nhờ ở việc đã đặt vào dấu ngoặc các vấn đề
thuộc vũ trụ tạo thành bên ngoài con người mà Bàn Cổ
đáng mang huy hiệu là tiên tổ của hiện tượng luận. Nền
triết lý này cũng chủ trương đặt vào ngoặc đơn mọi vấn đề
triết lý là cốt để tránh cái tai nạn bị nhiên giới hóa cho
những người bám riết ý niệm sự vật. Vì thế mà họ chủ
trương phải giảm trừ triết học, giảm trừ lý trí suy luận để
thì giờ mà sống mà quan sát kinh nghiệm sống vừa xuất
hiện trong trinh sơ chưa bị lây nhiễm nọc độc của ý hệ. Họ
gọi đó là trở lại với chính sự vật (Su den sachen selbst),
nghĩa là nhận định sự vật lúc vừa xuất hiện trong kinh
nghiệm sống chưa bị bẻ quặt do triết thuyết, chưa bị trói
buộc vào phạm trù, hoặc lên khuôn thành đề án (thématisé)
chưa bị tô tạo bởi những ý ni ệm tiền chế, những định đề
ước lệ hay làm cho sự vật bị bẻ quặt, nhưng là vũ trụ
nguyên tuyền giống như lý tưởng nhà Phật mong nhìn trực
thị sự vật “bản lai diện mục”. Họ có đạt được cùng chăng là
chuyện khác. Ở đây ta chỉ nói tới ý muốn thiết tha gác sang
một bên mọi lý luận về vũ trụ và ta cho rằng đó chính là
thái độ của ông Bàn Cổ trong cái sống mải miết, sống đến
độ không còn giờ để nói lấy nửa lời, thế mới đúng là “tiền
ngôn, tiền niệm”, sống trào lên dào dạt: mỗi lần biến là lớn
lên 10 thước, biến đổi 9 lần trong một ngày “nhất nhật cửu
biến”. Thật là cái sống dâng trào cuồn cuộn chảy xiết. Do
đó tất cả không gian trở thành không gian sống, vũ trụ trở
thành vũ trụ của ông, của con người tự làm lấy nên nói hơi
ông thở ra thành gió, giông, cái liếc nhìn của ông thành sấm
chớp. Như thế khỏi cần đặt vấn đề quyền với lợi. Vì ông
thủ xuất nên đã có ai mà phải tranh dành. Nietzsche khoe
khoang rằng Zarathoustra của ông ta trổi vượt hơn các nhân
vật khác vì chính Zara dựng nên chân lý và điều chỉnh vũ
trụ: “Zara, crée la vérité et gouverne le monde” (Ecce.
130). Điều này còn thật hơn cho Bàn Cổ, với cái thân bát
ngát, cái nhìn rộng rãi vô biên.
So với Prométhée được coi là hùng cường vì trèo lên
trời ăn trộm lửa, thì Bàn Cổ vượt xa, ông khỏi trèo trời vì
chính ông l àm ra trời đất, làm ra sấm sét thì chút lửa có
đáng giá gì mà phải ăn trộm. Chỉ việc đưa mắt nhìn một cái
là khói lửa bốc lên rần rật! Vì thế nói nhân sinh ư dần. Dần
là con hổ mạnh mẽ nhất trong 10 con vật tiêu biểu: tí, sửu,
dần, mão… (thìn = rồng không t rông thấy nên không kể),
Dần thường gọi là Chúa sơn lâm.
Nhưng nói thế có phải là hoang đường chăng? Thưa
không hoang đường chi hết. Đó là truyện có thực nhưng là
một sự thực bị chôn vùi đi và nay mới khám phá ra tức là
có ý nói đến khía cạnh tạo tác của con người trong vũ trụ,
khía cạnh tương quan của người với sự vật. Sự vật có là có
trong tương quan với con người: chỉ có vũ trụ của tôi khi
nào tôi hiện thực dự phóng của tôi vào đó. Trước đấy có
hay không t ôi không c ần biết, không thể biết, vì một khi
biết là khởi đầu đặt mối tương quan. Sách nói Bàn Cổ thuỷ
xuất là muốn trỏ vào cái lúc thức tỉnh của tâm trạng con
người. Từ lúc chỗi dậy cái mà Vương Dương Minh kêu là
linh minh, thì mới có trời đất. “Trời không có linh minh của
ta thì lấy ai ngẩng lên nhìn trời cao. Đất không có cái linh
minh của ta thì lấy ai cúi xuống nhìn đất sâu?” Thục V.310
“Tâm bất tại thị chi bất kiến, thính chi bất văn”Đ.H. khi
tâm chưa thức tỉnh chưa có đó thì xem đâu có thấy, lòng
dân có nghe. Bởi chưng: sự vật có đó hay không nhưng nếu
không có con người hiểu biết, xếp đặt thì chúng vẫn chỉ là
những vật dầy đặc nằm bầy nhầy trong hỗn loạn, bị che lấp
tự căn cơ, chứ đâu có trên có dưới, có trong có ngoài để mà
có vũ trụ, lớp lang, với giá trị và ý nghĩa nọ kia.
Do đó mới nói “Hỗn mang chi sơ, vị phân thiên địa,
Bản Cổ thuỷ xuất, thủy phán âm dương” là vậy. Khi chưa
có Bàn Cổ tứ c chưa có con người nhận xét thì tất cả là hỗn
mang đâu có trời cao, đất thấp, đâu có hàng cây soi bóng
dưới nước ao thu. Các vòm sao đâu có được gọi là Thanh
Long, Bạch Hổ, Licorne, Bắc Đẩu, Tua rua (Moderne 30).
Vũ trụ chỉ có cho tôi khi nào tôi đặt một mối liên hệ với nó
hoặc như đối tượng của nhìn, nghe biết hay trục lợi. Đại
học có với tôi từ lúc tôi thấy cần phải đi đến học, từ lúc tôi
điều lý, tôi chỉ cho một chỗ đứng, một tác dụng quy chiếu
vào tôi. Khi còn nhỏ chưa ra khỏi tuổi trung hoà, thì cô
không có cho cậu. Cô chỉ khởi “có” từ ngày cậu dậy thì: từ
lúc đó thì cô có ngày có đêm, có một cách kinh sợ đến nỗi
ti má lóm mà cũng gọi ngoa ngoét là má lõm đồng tiền.
Tiền nong chi đâu. Thế nhưng mà vẫn cấp cho cậu được
nhiều hoan lạc hơn cả tiền nong đó. Đấy là đại khái cái
nghĩa chữ có là có trong tương quan và do đó có vũ trụ kéo
theo sự có rất nhiều vũ trụ. Nghĩa là có một vũ trụ quan
riêng biệt cho mỗi người. Có bao nhiêu người là có bấy
nhiêu vũ trụ khác nhau làm bằng những mối bận tâm khác
nhau.
Trên nhà khách mấy ông thầu khoán đang âu lo vì giá
ximăng lên gấp đôi. Ngoài sây hai em bé hí hửng vì một
phát giác kinh khủng: ba đồng hai cặp một giò (ba đồng
Không có thế giới tự nhiên độc lập bên ngoài cái nhìn cấu
tạo ra nó. Vũ trụ chỉ có trong lúc con người lãnh lấy trách
nhiệm tìm hiểu nó. Thế giới cụ thể của mỗi người là thước
đo tầm hoạt động, tầm hiện diện của người ấy. Nếu nó
không có phần đóng góp tích cực vào vũ trụ quan thì đấy là
vong thân.
Nietzsche viết: “Toàn thể cái vũ trụ quan liên hệ thực
sự đến ta thì chúng ta đều đâm rễ vào trong đó bằng những
nhu cầu, ước vọng, vui mừng, trông cậy, màu sắc, đường
nét, những hình ảnh tưởng tượng, những lời khẩn cầu,
nguyền rủa. Đó là một thế giới chính của chúng ta đã tạo
dựng nên, rồi chúng ta quên bẵng đi, đến nỗi sau cùng
chúng ta đã phải đi tìm nguyên nhân cấu tạo, chúng ta vò
đầu làm khổ trí não với vấn đề nguồn gốc vũ trụ”.
Tóm lại ngày xưa người ta hiểu lầm rằng có thế giới
khách quan bên ngoài, tự tại, riêng biệt, còn con người
được đặt vào đấy một cách thụ động mà không chú ý đến
phần tham dự chủ quan của nó. Đó là điểm thiếu sót rất
trầm trọng vì nó đưa con người đến hố vong bổn. Điểm đó
hiện đang được khoa Hiện tượng nhắc nhở. Nhờ thế mà
triết Tây đi sát lại gần triết lý Đông phương hơn bằng sự
phát giá thêm ra một trời khác, đất khác, một vũ trụ khác có
thể gọi là khoảng sống (l’espace vital). Với triết học cố
định, với thiên nhiên của duy ni ệm người ta mới biết có
khoảg vật lý (l’espace physique) với tính chất liên tục, quay
hướng nào cũng đồng tính như nhau y hệt, có thể đếm đo
một cách hoàn toàn khách quan. Nhà triết học duy niệm chỉ
biết có khoảng không hình học đó, nhầy nhụa và im lìm,
con người không tham dự chi vào trong việc kiến tạo ra
“bầu trời đó cả”. Đến nay thì hiện tượng luận khám phá ra
một khoảng không khá c: “khoảng không sống động”, mà
đặc tính của nó là quy định mọi cử động của chúng ta cũng
như nhận thức của chúng ta cũng lại ban cho nó một cơ
cấu, một hình thức. Cái thế giới này còn tiến xa hơn câu nói
của Berkeley: “Thế giới chính là cái nhìn của tôi”, vì tuy đã
đóng góp nhưng còn hạn cục trong cái nhìn. Đến nay triết
học khám phá ra cả những cơ năng khác trong con người
cũng đều dự phần vào việc làm ra thế giới gọi là thế giới
bao quanh (Umwelt) tức là một mảnh, một “miếng”
(portion) của khu vực mà chủ tri tiếp xúc một cách trực tiếp
vừa bằng những bộ phận giác cảm vừa bằng những bộ phận
chuyển dịch, tất cả làm ra một thế giới tạo tác. Vì thế có
nhiều vật phản chiếu khác nhau tuỳ theo cái khung, cái
lược đồ của nó, ta cần phải biết mới hiểu được vật đó. Tóm
lại một thế giới sống động bao hàm các quan điểm của
người nhìn, kể cả những lầm lạc của thị giác (illusion
d’optique) hiện nay đang được các nhà hiện tượng luận và
nhiều khoa khác khai thác, thí dụ những khoa môi sinh.
Không dè ông B àn Cổ đã từ lâu khai thách theo lối đó,
nhưng vì không nói nên không ai để ý. Nhưng khi nghiên
cứu tỉ mỉ mới nhận ra là ông đã đạt chặng thứ ba của tâm
thức con người, gọi là nhân thời, thời của nhân chủ, của
con người tạo tác.
Nhìn tổng quát quá trình tiến hóa của loài người,
chúng ta có thể chia ra đại khái (grosso modo) ba giai đoạn
là thiên thời tùng phục thần thoại, địa thời nhịp theo phạm
trù sự vật, sau cùng là nhân thời con người trở lại nội tâm
mình để tuân theo tính mệnh “tương dĩ thuận tính mệnh chi
lý”. Tính mệnh hiểu theo nghĩa nội là Nhân tính khi con
người không còn sống thụ động theo hai đợt trên mà đi vào
lối tự tác hành. Đó chính là từ bỏ vong thân để đi vào đạt
thân vậy. Thực tại này đã có một số triết gia về lịch sử hé
nhìn thấy, như Vico chẳng hạn. Ông đã chia lịch trình tiến
hóa nhân loại theo ba giai đoạn:
- Thần thoại với thần quyền (l’âge divin).
- Anh hùng (l’âge héroique) vơi những thiên anh hùng
trường ca (épopée).
- Con người (l’âge humain) với văn chương bình dân.
Như vậy đại để cũng hợp với tiến trình thiên địa nhân và
kiện chứng rằng Việt nho đã đạt tới giai đoạn nhân chủ rồi.
Triết cổ điển Tây Âu mãi tới quãng từ thế kỷ 17, 18 mới
phần nào bắt đầu bước vào giai đoạn “nhân hoàng”. Cuộc
cách mạng Pháp 1789 được Hégel chào mừng như là “bình
minh” của giai đoạn thứ ba này.
LỜI NGƯỜI SƯU TẬP
Trên đây có thể nói được là sự minh giải rạch ròi các
nguyên lý cơ bản mà sĩ phu Miền Nam dựng nên “ Triết lý
giáo dục DÂN TỘC - NHÂN BẢN “ của hai nền Việt Nam
Cộng Hòa khi:
Tin tưởng ở tương lai huy hoàng bất diệt của Quốc gia
và Dân tộc Việt Nam mà lịch sử tranh đấu oai hùng của tổ
tiên và ý chí quật cường của toàn dân đảm bảo;
Tin tưởng ở sự trường tồn của nền văn minh Việt Nam, căn
cứ trên nền tảng duy linh mà toàn dân đều có nhiệm vụ
phát huy;
Tin tưởng ở giá trị siêu việt của con người mà sự phát
triển tự do, điều hòa và đầy đủ trong cương vị cá nhân
cũng như trong đời sống tập thể phải là mục đích của mọi
hoạt động Quốc gia;
-Điều 11 Hiến pháp Đệ Nhị VNCH 1967 l ong trọng
ghi:
1- Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng qu ốc
sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản.
2- Một ngân sách thích đáng phải được dành cho việc phát
Ngày nay, trước vận nước suy vi, dân tình thất tán, bọn
“ hồ tinh chín đuôi “ họ giả hồ còn mưu toan xóa nhòa Lịch
sử Dân tộc mở đường cho bọn xâm lược bành trướng Bắc
phương xâm thực, hán hóa dân tộc Việt: Đó là tội ác bán
nước, diệt tộc thâm trọng mà Trời không dung, Đất không
tha, lòng Người oán hận!
Nguyễn Nhơn
26/11/2018
Tiến sĩ Nguyễn Văn Thái gởi cho bài viết, thử nêu lên
yếu tính về “ Lập Trường của Người Việt Quốc Gia. “ Thiết
nghĩ, muốn khảo sát vấn đề cho thấu đáo, trước tiên cần
xác định “ Người Việt Quốc gia là ai?” Tôi sinh ra từ làng
quê Bưng Cầu, xứ Thủ Dầu Một, Miền Đông Nam bộ, đất
gò, đồng khô cỏ cháy. Ngày bé thơ, chưa tới tuổi cắp cặp
đệm đi học trường làng, ở nhà nghe lời mẹ dạy: Một là
không được DỐI TRÁ. Hai là sống cho có NGHĨA có
NHÂN. Nhân là tình thương người ấp ủ trong lòng.
Thương người như thể thương thân. Đem tình thương trong
lòng ra đối đãi với người cho phải lẽ thời kêu là nghĩa.
Người với người, đối đãi nhau với tình thương và lẽ phải
mới vẹn bề tình nghĩa, tình làng, nghĩa xóm ấm êm.
Ngày cắp cặp đệm đi học trường làng, cậu dạy: QUỐC
là nước. GIA là nhà. Ơn thủy thổ, ơn tấc đất, ngọn rau.
Phải ráng lo học, mai sau báo đền. Ra chợ Thủ, học trường
tỉnh, mỗi khi hè đến, nô nức xem các chị diễn kịch Hai Bà
Trưng cỡi voi rượt đuổi giặc Tô Định chạy về tàu. Xem các
anh diễn Hội nghị Diên Hồng: Bô lão, thay mặt toàn dân,
hô vang câu thề Quyết chiến và Hy sinh chống thác đát
xâm lăng. Vào trung học, đọc Bình Ngô Đại Cáo:
“ Việc Nhân – Nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước vì khử bạo “
Đánh xong giặc xâm lăng bạo ngược cuồng Minh, mới
thực thi nhân nghĩa trị nước:
“ Lấy Đại Nghĩa để thắng hung tàn
Đem Chí Nhân mà thay cường bạo”
Vào Học viện Quốc gia Hành chánh, nghe các giáo sư
giảng dạy: Về triết học, mác xít chủ trương triệt để xóa bỏ
quyền “ Tư hữu “ là một sai lầm nghiêm trọng từ căn bổn,
bởi vì “ ý thức tư hữu “ là bẩm sinh, tự nhiên, không ai xóa
bỏ được. Kinh tế Mác xít lấy “ Sở hữu Toàn dân “ thay thế
quyền tư hữu, làm triệt tiêu mọi phấn đấu cá nhơn, gây tiêu
cực trong phát huy sáng kiến. Hậu quả là sức sản xuất ù lì,
kinh tế xơ cứng, không phát triển được. Cho nên dân nghèo
nước mạt!
Về chánh trị học, chủ trương “ chuyên chính vô sản “
cọng với độc quyền kinh tế nhà nước, người dân bị nắm
chặt bao tử, trở thành nô lệ, phó mặc cho đảng và nhà nước
mặc tình sai khiến, lùa đi như bầy cừu.
Tóm tắt là: Chủ nghĩa cọng sản là phi nhân, độc tài
toàn trị, bạc ác bất nhân cần phải loại trừ.
Cho nên trên Hiến Pháp của cả hai nền Việt Nam Cọng
Hòa đều long trọng ghi: “ VNCH chống chủ nghĩa cọng sản
dưới mọi hình thức. Mọi việc truyền bá hoặc thực hành chủ
nghĩa cọng sản đều bị cấm chỉ”
Vì vậy mà: Quân Dân Miền Nam không t iếc máu
xương, liều thân chiến đấu chống cọng sản xâm lăng, giữ
cho 18 triệu đồng bào được sống Tự do – No ấm trong 21
năm dài với giá xương máu chất chồng: 250 ngàn tử sĩ vị
quốc vong thân. Hồn tử sĩ gió ù ù thổi!
biết đạo lý nhân nghĩa của dân tộc Lạc Việt, văn minh lúa
nước đơn sơ mà thấu tình, đạt lý.
Nhân tự thân là người với bản vị “ con người “ với tự
do, nhân phẩm, với tình thương đồng loại. Theo thuật ngữ
chánh trị học ngày nay chi tiết hóa thành nhân đạo, nhân
quyền…
Nghĩa là lý lẽ, là lẽ phải phổ quát. Ngày nay học thuât
chi tiết hóa thành ra luật: Luật Quốc tế nhân quyền, luật
dân sự…
Dân chủ Pháp trị chỉ là thuần lý, thiếu tình người.
Đạo Nhân – Nghĩa Việt tộc có nghĩa có nhân, có lý
có tình. Tình nghĩa vẹn vẻ đôi đường, xã hội hài hòa, luật
pháp có đó mà không ai dùng tới thì pháp luật có đó cũng
như không.
Nguyễn Nhơn
( Viết lại sau sự kiện “Chiếc Giày của Thùy Dương”
ném vào mặt bạo quyền việt cọng 23/10/2018)
Nguyễn Nhơn
Quốc Gia
DÂN chúng an cư hưởng thái BÌNH
TỘC gia thuận thảo rạng ánh MINH
TỔ phụ Tiên Rồng cơ duyên THẮM
QUỐC triều Hồng Lạc đất nước XINH
DANH truyền hậu duệ tình muội ĐỆ
DỰ lưu tiền bối nghĩa tỷ HUYNH
TRÁCH trọng đồng cam lòng phỉ CHÍ
NHIỆM tròn cộng khổ dạ thỏa TÌNH
Cộng sản
VIỆT dân căm phẫn nhắm mục TIÊU
CỘNG tâm hòa trí quyết một ĐIỀU
NÔ tài thái thú lôi ra ĐỐT
LỆ bộc tham ô kéo lên THIÊU
HÈN bái giặc thù dân đập BÚA
ÁC giết dân lành chúng chém RÌU
PHẢN thuyết tam vô bầy cáo QUỈ
QUỐC phá gia vong lũ chồn YÊU
Cách Mạng
Mùa Thu Dân Tộc
" Mùa Thu rồi ngày 23, ta ra đi theo tiếng kêu sơn hà
nguy biến! Rền vang trời, lời hoan hô dân quân Nam nhịp
chân bước ra sa trường. Thuốc súng kém, chân đi không mà
lòng người giàu lòng vì nước. Nốp với giáo đeo ngang vai
nhưng thân trai nào kém oai hung ... Muôn lòng nguyện với
tổ tiên:
Thằng nhỏ 14 tuổi, từ chợ Thủ ( Dầu Một ) lén lút qua
Phú An Thôn, bên kia dòng sông Thủ, thăm cậu " di kháng
chiến." Nhìn người đàn ông nhỏ thó, nói là " tỉnh ủy " mới
đi " tập huấn " ngoài Hà Nội dìa, vừa múa vừa hát điệp
khúc bài ca Nam Bộ Kháng chiến, đứa nhỏ Miền Nam rúng
động trong lòng. Hồi đó, nếu cha chú thiếu hiểu biết không
răn đe, có khi thằng Đực theo cậu đi kháng chiến, làm "
liên lạc "!
.......
Tóm lại, những đảng phái Việt Nam thời năm 1945
theo hai khuynh hướng chính trị rõ rệt: những đảng phái
theo chủ trương dân tộc một bên và đảng Cộng Sản Đông
Dương một bên. Những đảng phái theo chủ trương dân tộc
muốn nhờ Nhật để chống Pháp giành độc lập, phục vụ đại
nghĩa quốc gia, nhưng thiếu tổ chức, thiếu tuyên truyền và
nhất là thiếu thông tin để lượng định tình hình quốc tế.
Nhật đang trên đà thất bại mà vẫn không biết, và lại còn
muốn nhờ Nhật giành độc lập. Vì vậy Đồng minh và Hoa
Kỳ không tin tưởng và không liên lạc với các đảng phái
nầy. Cơ quan tình báo O.S.S. (Hoa Kỳ) quay qua liên lạc
với HCM và VMCS.
Mặt trận VM là tổ chức ngoại vi của đảng CSĐD, sử
dụng chiêu bài bảo vệ dân tộc, chống Pháp và chống Nhật,
để tuyên truyền, lôi kéo quần chúng, hoạt động uyển
chuyển theo từng hoàn c ảnh. Do chủ trương chống Nhật,
HCM và VM được O.S.S. cộng tác và được O.S.S. giúp đỡ,
huấn luyện, trang bị võ khí, thông báo tin tức thời sự. Toán
cán bộ VM do O .S.S. huấn luyện và võ trang nhằm mục
đích chống Nhật, nhưng Nhật đầu hàng, nê n trở thành
nòng cốt cho cuộc nổi dậy của VM.
Cũng nhờ O.S.S., HCM và VM cùng đảng CSĐD biết
được tin Nhật Bản sẽ đầu hàng Đồng minh, tin quân đội
Trung Hoa và Anh sẽ vào Đông Dương giải giới quân đội
Nhật. Việt Minh liền nhanh tay cướp chính quyền ở Hà Nội
và thành lập chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày
2-9-1945, tạo ra tình trạng chính trị đã rồi trước khi quân
đội Trung Hoa và quân đội Anh đến Việt Nam.
( Trần Gia Phụng - Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội
tháng 8-1945 )
Lớn lên, học lịch sử mới vở lẽ, Việt Minh là cọng sản "
cướp chánh quyền " không phải để giành " Độc Lập Dân
Tộc " mà là để dọn đường cho phong trào cọng sản quốc tế
Nga - hoa tiến xuống Đông Nam Á.
Bây giờ, 73 năm sau, sau bao nhiêu xương máu chập
chồng, đã đến lúc, quốc nội cùng hải ngoại, cùng chung
lòng hợp sức thực hiện " Cuộc Cách Mạng Mùa Thu Dân
tộc " đích thật: Tẩy trừ sạch sẽ chế độ hán ngụy phản nước,
hại dân viêt cọng, giành lại " Chủ quyền cho Toàn Dân " và
" Độc Lập cho Dân Tộc " thoát ách đô hộ trên thực tế của
chệt cọng.
Cộng Đồng Người Việt Tự Do hải ngoại kêu gọi đồng
loạt biểu tình ngày 29/9/2018.
Đồng thời cũng ủng hộ lời kêu gọi biểu tình ngày 2/9/2018
của nhiếu đoàn thể khác.
Tháng Tám, khởi phát Cách Mạng Mùa Thu ở thế kỷ
21, với nền chuyên chế toàn trị việt cọng, cần phải tiến
hành " Tổng Lực " bằng mọi phương cách khả thi mới
mong triệt hạ được hán ngụy bạo ngược viêt cọng, hiện
đang càng ngày càng phát xít hóa: Người hoạt động dân
chủ mới nhất vừa bị chính thức truy tố về " tội trét sơn cờ
tổ quốc việt cọng ": Nữ chiến sĩ Dân chủ Huỳnh Thục Vy.
Nguyễn Nhơn
12/8/2018
Vì Sao Tôi Cổ Võ
Cuộc Cách-Mạng Toàn-Triệt?
Tôi có hai đứa cháu ngoại sanh đôi 7 tuổi. Chúng nghe
hiểu nhưng nói tiếng Việt không rành. Nhưng mỗi khi về
thăm ngoại, chúng chấp tay, cúi đầu “ Cong chào on quại.”
Khi ra về cũng vậy, “ Chào on quại cong dzề.” Nghe cháu
thỏ thẻ mà thương, chợt nhớ lại lời mẹ dạy ngày xưa, một
thời xưa nay đã xa vắng, rằng: Trẻ nhỏ phải biết “đi thưa về
trình”. Tôi vui lòng và cám ơn con gái, không ai dạy mà
biết làm như bà nội, dạy con như bà nội dạy ba thuở trước.
Vẫn biết sau vài ba thế hệ nữa, dòng họ Nguyễn của tôi chỉ
còn cái Nguyen không có dấu, giống như dòng họ Lý bên
Cao Ly, ngày nay cũng chỉ còn chữ Lee sai chánh tả, nhưng
mà hiện tại vẫn vui lòng vì con cháu tôi vẫn còn giữ được
một nét lễ nghĩa của tổ tiên.
Cho nên khi đọc câu chuyện em bé bán gà trên net cảm
thấy bùi ngùi trong dạ:
EM BÉ BÁN GÀ
Còn đây, chuyện trẻ thơ thời xã nghĩa ta
Bà lão Miền Nam ngồi xe lửa về Nam
Xe lửa ngừng nơi ga nhỏ
Một con bé dễ thương mời mọc
Cụ mua hộ bé con gà nướng
Các anh diễn kịch Hội nghị Diên hồng. Em bé nghe lời ca
mở đầu, lòng rúng động:
Năm 1960, khi giặc cọng thừa cơ giáp Tết, đánh trận
lớn Trảng Sụp, Tây Ninh, Tổng thống VNCH Ngô Đình
Diệm tuyên bố Tổ Quốc lâm nguy, ban hành lệnh Tổng
động viên. Hàng hàng, lớp lớp thanh niên Miền Nam lên
đường nhập ngủ, tòng chinh, ngạo nghễ cất lời ca:
Có khi không may mắn, người yêu lỗi hẹn, trên phố vắng:
Khi thua trận, tù khổ sai trên núi rừng Hoàng Liên,
những khi lòng êm ả, nhìn sông núi Trường Sơn với vẻ đẹp
hùng vĩ, giang sơn gấm vóc của tổ tiên:
Những
tia lửa nhỏ ban mai
hồi đất ven biển, dọc khu vực neo đậu tàu thuyền phía
Đông đường Hồ Xuân Hương.
Bất chấp hành vi đe doạ của CA Thanh Hoá, hàng
trăm ngư dân Sầm Sơn vẫn tiếp tục xuống đường biểu tình
trong ngày 5/3/3015 nhằm đòi lại quyền sử dụng mặt biển
mưu sinh.
Một video loan tải trên các mạng xã hội cho thấy cảnh
hàng trăm ngư dân tay không tấc sắt đã xô ngã hàng rào
CA để tiến về trụ sở UBND tỉnh.
Ngay sau đó, hàng trăm người dân địa phương đã kéo
đến trụ sở CA phường Trường Sơn (thị xã Sầm Sơn, Thanh
Hoá) để biểu tình phản đối. Đến chiều tối cùng ngày,
những người biểu tình tiếp tục kéo đến vây hãm trụ sở
UBND thị xã Sầm Sơn nằm gần đó.
Bạn đọc Dân Làm Báo - Sáng ngày 4/3/2015, đã có
một cuộc biểu tình xảy ra tại cầu Việt Trì mới để phản đối
việc thu phí quá cao. Cầu Việt Trì mới (tên gọi là Hạc Trì)
lên tín hiệu nghiêm trọng: Bọn cầm quyền hán ngụy ngày
càng phát xít hóa, tàn bạo. Hàng năm, mỗi lần nghe hè tới...
quốc nội vẫn nổi lửa đấu tranh.
Năm nay, tình thế thúc bách. Mới đầu Xuân đã dấy lên
những tia lửa nhỏ ban mai. Chỉ cầu mong những ai có hiểu
biết và can đảm hy s inh, giúp tổ chức những nhóm hành
động, vận động kết hợp các nhóm tranh đấu riêng rẽ thành
những PHONG TRÀO QUẦN CHÚNG RỘNG LỚN nhằm
ba mục tiêu tối yếu:
1/ Kết hợp lực lượng lớn mạnh.
2/ Nâng cao nội dung tranh đấu: Từ đòi quyền lợi
chuyển sang đòi quyền sống – Dân sinh – Dân chủ:
a) Công nhân ĐÒI QUYỀN TỰ DO NGHIỆP ĐOÀN
b) Nông dân ĐÒI QUYỀN TƯ HỮU RUỘNG ĐẤT
c) Tiểu thương ĐÒI QUYỀN CÓ CHỢ
d) Ngư dân ĐÒI QUYỀN CÓ BẾN CẢNG
e) Sinh viên ĐÒI QUYỀN TỰ TRỊ ĐẠI HỌC
f) Phong trào toàn dân chống thuế khóa
Và vân ...vân...
3/ Phối hợp hành động
Liên kết các phong trào thành MẶT TRẬN TOÀN QUỐC
PHẢN KHÁNG. Nếu được như vậy thì sự kiện nổ súng
Sầm Sơn không còn là tia lửa nhỏ mà nó là phát súng lệnh
tiến tới MÙA HÈ ĐỎ LỬA ĐẤU TRANH.
Sự kiện nổ súng Sầm Sơn là chỉ dấu ngụy quyền hán
ngụy ngày càng phát xít hóa, ngày càng bạo ngược. Nó báo
hiệu triều đại BẠO CHÚA VIỆT CỌNG đang đi vào bước
diệt vong.
Nguyễn Nhơn
Nhìn tấm hình chị Bùi Minh Hằng, nét mặt uất ức, đau
buồn, dang đôi tay kêu chào đồng bạn biểu tình, ngậm ngùi
nhớ lại thân phận mình ngày trước! “ Ngày xưa ấy...”
không phải “ những khi trăng mờ lối đi....” thơ mộng mà là
khi ta đi tù “vi xi”, mệnh danh mỹ miều là đi “học tập.”
Đừng tưởng rằng đi học tập ở trường “cách mạng” là dễ.
Nội chuyện làm “thủ tục” vô học cũng là gian nan lắm!
Ngày 2 tháng 5 năm 1975 là ngày đầu tiên đi làm thủ tục.
Xe tới hội trường Tỉnh Biên Hòa, bên cạnh công trường
Sông Phố, vừa bước xuống đã thấy anh chị em công chức
ào ra, dẫn đầu là gã Ba Soái, nhân viên Ty Nội An, lúc nầy
tay đeo băng đỏ, nghênh ngang bước lại hất hàm hô: Chào
anh! Tui thấy phát ghét, móc: Xưng hô anh tôi như vậy là
hơi sớm, nghe! Cậu cận vệ thấy vậy, chẳng nói chẳng rằng,
cúi xuống dở tapis, rút ra khẩu colt. Thằng băng đỏ, mặt tái
ngắt, bước giật lùi. Lúc nầy, cậu nhỏ mới mỉm cười chế
nhạo, chỉa nòng súng lên trời, bấm cho băng đạn rớt xuống
đất, tay kéo cơ bẩm cho viên đạn trong nòng súng văng ra,
thản nhiên quay bá súng trao cho thằng vc 30/4 mất dạy,
hèn nhát và hô: Nạp súng! Tui bắt chước đứa em chơi ngon
lành, hất hàm biểu: giao xe. Thằng băng đỏ vừa sợ vừa mắc
cở, thót lên xe dong tuốt! Nói cho thật, tôi vẫn mặc bộ đồ
chức việc bốn túi, trong lưng còn lận khẩu Beretta ngon
lành. Hai thầy trò phủi đít đi dìa. Hôm sau, rút băng đạn
liệng xuống cống, còn cây súng vô dụng mới đem nạp, rồi
không thèm ngó mặt thằng vc theo đuôi, đi thẳng lại Ty An
ninh trình diện vc thứ thiệt cho được việc.
THỦ TỤC NHẬP HỌC
Đây là Ty An Ninh. Ngồi trước mặt là Trưởng ban
Điều tra Mười Dũng. Thằng cha nhỏ thó mà tiếng to ong
óng. Nó hất hàm hỏi: Đi trình diện hả? Tôi chẳng nói chẳng
rằng, lẳng lặng móc bóp, l ấy ra hai tấm thẻ. Một là thẻ
Hành sự do Bộ Nội Vụ cấp, ghi rõ chức vụ: Phó Tỉnh
trưởng Biên Hòa. Thẻ kia là Chứng chỉ Tại ngủ ghi: Trung
Úy Trừ bị Biệt phái Ngoại ngạch. Nó xem rồi, lắc đầu, chê
bai, “chế độ mấy anh thật là kỳ dị,Trung úy c hỉ huy cấp
Tá!” Tui chẳng đặng đừng, cãi: Hổng phải, tui biệt phái
ngọai ngạch. Nó coi bộ chẳng biết biệt phái ngoại ngạch là
giống gì nên ậm ừ, mần thinh, kéo học tủ lấy tấm giấy và
cây viết, biểu: Anh chép mẩu tờ khai. Và tui chép. Xong,
nó biểu: Đem về nhà khai cho kỹ, sáng mai đem lại nạp.
Cái tờ khai của Ủy ban Quân quản Cách (cái) mạng nầy
quả thiệt là không giống ai. Thế thường, tờ khai là khai lý
lịch và quá trình hoạt động của đương sự thôi. Đàng nầy,
trên là lý lịch và quá trình hoạt động của cha mẹ. Dưới là lý
lịch và quá trình hoạt động của vợ, con. Cho nên về sau,
anh em ta kháu nhau, “khai báo cả Tam, Tứ đại” là đúng lý.
Cái dzụ khai báo nầy dài lắm xin nhảy lớp để khỏi nhắc lại
những chi tiết tủi nhục, đau lòng!
NHẬP HỌC
Thông cáo của Ủy ban Quản huấn Quân khu 7 (Miền
Đông Nam phần) ấn định ngày đầu tiên trình diện đi học
tập là ngày 25/6/1975. Thời gian hoc tập là một tháng cho
sĩ quan cấp Tá và tương đương. Mười lăm ngày cho cấp Úy
và tương đương. Nhà tôi bàn, mùa mưa tới rồi, thôi, đi học
sớm, về sớm. Trưa ngày 25/6/75, sau khi cơm nước xong,
bà xã lấy ra cái túi xách, xếp vô hai bộ đồ, chép miệng
biểu: Đi học một tháng, hai bộ đồ để thay đổi cũng đủ rồi.
Tui cũng bỏ vô đây một típ Optalidon và chai dầu xanh
phòng khi cảm lạnh, nhức đầu. Thôi ông s ửa soạn ra
Trường Ngô Quyền trình diện, “Đi sớm, về sớm!” Một bên
vai, bó mền chiếu, một bên vai túi quần áo, gã chồng trẻ cất
bước ra đi, không lòng nào ngoái đầu nhìn lại!
Lớp học Trường Ngô Quyền rộng, lơ thơ mươi mống “
chuẩn học viên “ g ià, mỗi người ngồi một góc ủ rũ, đăm
chiêu. Tôi đứng tựa cửa, bập điếu thuốc, nhìn mông lung.
Trời về chiều, mây đen giăng mắc, “ người buồn, cảnh có
vui đâu bao giờ!”
Chặp tối mới có chiếc GMC đến. Mười mấy mạng
được lùa lên. Xe vừa lăn bánh, mưa rơi lấm tấm. Chưa mặc
xong chiếc áo mưa dã thấy xe quẹo vô … cổng Trại tù Tân
Hiệp. Dãy phòng giam dài tăm tắp, mọi người lặng lẽ trải
chiếu nằm. Đêm đầu tiên trong tù thật thê lương! Ngoài trời
mưa rơi tí tách, trong lòng nghe như giọt vắn, giọt dài. Anh
em phần đông là người địa phương có ít nhiều danh giá.
Chỉ đầu hôm sớm mai, cách mạng, đổi đời xộ khám, nghĩ
cũng thảm.
TRƯỜNG HỌC TẬP CẢI TẠO
NGỤY QUÂN NGỤY QUYỀN
Thằng chúa ngục tên là Ba Phán, danh xưng là Giám
hiệu cái trường ôn d ịch ghi trên. Nó vốn là Trung úy P hi
công nội tuyến vc, bị cho nằm ấp ở khám Tân Hiệp nầy
cũng lâu trước khi được phỏng giái cho ra làm chúa ngục
tại chỗ. Bọn nó, vc nằm vùng từ khám, xổ lồng ra. Anh em
quân, cán, chính VNCH thua trận vào, kêu là “đổi đời” thời
cũng phải. Câu đầu tiên nó nói, “ Cách mạng không có bỏ
tù ai. Đây là trường học tập, cải tạo. Các anh là “cải tạo
viên,” chớ không phải tù. Ai kêu là tù, tôi đưa qua khu tù
biệt giam, cùm cho biết.”
Chương trình học gồm vỏn vẹn 6 bài học. Bài số một
kêu nghe rôm rốp: Đất nước ta giàu đẹp. Dân tộc ta anh
hùng. Học viên già lần đọc, chuyện cổ tích Hai Bà Trưng,
Bà Triệu dẫn tới bọn súc sinh già hồ, xác ướp chưa chôn.
Bốn bài giữa lâu gần 40 năm, quên mất. Bài cuối cùng cái
tựa dài nhằng, không dá m chắc đúng, hoặc do t ui chế ra
cũng chưa chừng, rằng: Cách mạng đánh đâu, thắng đó,
đánh nhỏ, thắng to. Ta nhất định thắng, địch nhất định thua!
Bài học thi đơn sơ vài trang. Bài làm, mỹ danh “Thu
hoạch”, thực tế là tờ khai báo tội tình suốt quá trình “ phản
cách mạng”, kẻ ít người nhiều năm, kê ra cả xấp giấy. Anh
nào cậy văn hay, chữ tốt, viết cho cố vô, những tưởng rằng
đái tội, lập công, chẳng ngờ rằng nó vừa đánh vần vừa đọc,
chữ tác thành chữ tộ, nó hỏi lại chi tiết, giải thích hổng trôi,
vậy là … cùm, vì khai báo láo!
Nhưng mà rốt rồi, 6,7 trăm mạng làm final exam đều
pass. Mãn khóa lý thuyết, rồi tới thực hành.
TRẠI LAO ĐỘNG KHỔ SAI
Buổi sáng mùa hè, trời nóng nực, Phó tỉnh Bình Dương
ta cởi trần trùng trục, ngang lưng quấn chiếc khăn rằn, mốt
du kích thời kháng chiến chống Tây. Tui với nó, hai thằng
dân Bình Dương, xứ Thủ chánh gốc bà lang trọc. Nhưng
mà từ nhỏ chí lớn chỉ biết cầm cây viết. Lần đầu tiên hai
chàng thư sinh cầm cuốc, cuốc đất quê nhà xứ Thủ, Bình
Dương cứng như “ làng tôi nghèo, đất cày lên sỏi đá.”
Thằng Vinh sức vóc, cuốc xuống được vài phân. Thằng
Nhơn ròm, giang cù lừ cuốc xuống...bụi văng mù mịt.
Thằng du kích thấy vậy chửi rùm. Nhưng mà cũng còn đỡ
hơn anh Sáu Thanh, bào đệ tướng Đỗ Cao Trí. Anh đi đánh
giặc bị thương, ruột đứt một khúc. Lại thêm trái tim lắt lẻo
cheo leo. Anh cuốc một hồi té lăn ra xỉu! Nó không thương
mà còn chửi, “ Đồ làm biếng, ăn mập thây, mới cuốc mấy
cuốc nằm lăn ra đó, ăn vạ!?”
Thôi, cuốc đất không đặng thì đi dẫy cỏ. Cỏ nói đây
không phải thứ thường mà là thứ dữ: Cỏ bãi mìn căn cứ hỏa
lực Nhà Đỏ của Mỹ ngày trước. Mới dẫy được vài cuốc,
bỗng anh bạn dứng phía sau la: Anh Nhơn đứng yên, không
được nhúc nhít. Biết là có chiện nên đứng như trời trồng.
Bạn mới từ tốn bảo: Nhìn xuống gót chưn! Ôi thôi! Ba cái
chia mìn cá nhân PM23 giương lên ngạo nghễ. Gã tù tui
cũng hồn bất phụ thể! Bạn mới dặn dò: Anh nhắc chân cao
lên, bước lùi lại. Vậy là thoát chết.
May, trời còn thương! Gỡ sạch bãi mìn mà không nổ trái
nào. Ba mươi lăm mạng, đội biệt lập Khu B, Nhà Đỏ còn
nguyên vẹn.
Gỡ mìn giỏi cho nên nó mới xua vô khu r ừng chồi, bị
B52 thả bom trải thảm, phát quang. Thuở nhỏ, vẫn thường
được khen là thằng có linh tánh mà không biết ra sao? Lần
nầy là rõ mặt: Vừa giơ dao phát lên, bỗng nghe ớn xương
sống, dạ bần dùng. C on dao giữ ở tư thế giương cao, mắt
trao tráo dò t ìm. Trên buội lùm, trái bom bi nằm vắt vẻo.
Ruột bom bi tròn như trái quýt, nhưng vỏ ngụy trang như
trái khế cũng màu xanh tiệp với lá cây rừng. Mắt bình
thường chắc không nhìn thấy. Giờ thấy đây chắc là do linh
tính chớ không phải mắt nhìn? Sợ lắm nên chỉ ú ớ kêu:
Bom bi! Đây là lần thứ hai hú hồn, hú vía.
Hết bom tới mìn, giờ tới súc. Một bữa, ruột đau quặn
thắt nên được cho nghỉ bịnh. Bất đồ được lịnh tập trung đi
lấy súc trên rừng Phú Giáo. Thằng du kích vừa bắn carbin
M2 răn rắc vừa hô: Thằng nào làm biếng không chịu
khiêng cây đâu? Bảy thằng tù bịnh hoãng hốt xáp vô
khiêng. Mạnh ai nấy làm không lấy đúng thế, khúc cây vừa
to vừa nặng rớt đùng. Bóc một tiếng, anh Lê Văn Xê, Phó
vờ. Có anh bị lao, sóng vùi, gió vập một hồi, thổ huyết lai
láng. Bạn tù cỏng lên, cỏng xuống, lắc la, lắc lẻo! Rốt rồi,
tàu cũng cặp vô Bãi Cháy, Hải Phòng.
lui, đói vẫn hoàn đói. Đúng là đói mờ mắt mà vẫn lao động
nhọc nhằn. Nào là vác đất sét nung gạch, nào lên núi vác
cây, vác nứa, trồng cuốc đủ nghề. Đói đến nỗi có bận trại
cho đào củ chuối kho muối cho tù ăn. Chỉ một năm, đêm 29
Tết 1977, bác già Hồ Đắc Trung đau thắt ruột, cho chở đi
bệnh viện Lào Cai cấp cứu. Người tù ra đi biền biệt mãi
không về!
Vậy đó, cuộc đời tù trên đỉnh Hoàng Liên Sơn là như
vậy đó!
DƯỚI CHÂN RẶNG HOÀNG LIÊN
Tháng 6 năm 1978 là đủ 3 năm trấn thủ lưu đồn, gọi là
”học tập cải tạo”, theo thông cáo 9 điểm của MTDTGPMN
trước khi giải tán, là mãn hạn. Tù được lịnh tập trung di
chuyển, nhưng không phải cho dìa mà là hạ sơn xuống
chân rặng Hoàng Liên ở tù tiếp. Rời đỉnh Hoàng Liên trong
đêm hè mưa rơi tầm tả. Trưa ngày hôm sau, băng qua Thị
xã Vĩnh Yên. Đến bến Ấm Thượng lúc trời xế bóng. Vượt
Sông Hồng, dổ bộ lên Bến Ngọc vào lúc chiều tà. Khói
cơm chiều nhà ai lơ lửng trên mái rạ trông thiệt nhớ nhà!
Đằng trước mặt, nẻo mòn lẩn khuất trong tăm tối, mịt
mùng. Lòng người tù khoắc khoải, đêm nay biết về đâu?
TRẠI TÂN LẬP, VĨNH PHÚ
K3 Tân lập là phân trại nhỏ. Lùa vô đây lũ tù tân đáo
độ 300. Phòng giam là những gian nhà lợp lá cói lụp xụp.
Giữa phòng, ngọn đèn đêm le lói, thân xác rã rời, lòng thê
lương. Trại nầy vốn là trại tù hình sự địa phương mới được
cải danh thành trại trung ương nên lương thực dự trữ không
có.
DỊCH CHẾT ĐÓI: Sao gọi là dịch chết đói? Bởi vì
chết đói tràn lan như chết dịch! Anh Hóa hay Quá (lứ)
người Việt gốc Hoa, mấy bửa nay có triệu chứng như bị
Cảnh vợ chồng ngâu gặp mặt nhau sau hơn bốn năm
cách biệt mới thật là thảm! Chiếc bàn tiếp tân thiệt dài, ngồi
hai bên được hơn mười cặp vợ chồng tù. Chiếc bàn lại rất
rộng, chồng ngồi một bên, vợ bên kia, cách gần hai tầm tay
với. Cả hai đàng phải vươn hết tầm tay mới lần được tay
nhau. Ngồi ngay đầu bàn, trên ghế cao giống như trọng tài
đấu tennis là ông “ chỉ biết còn đảng, còn mình” mắt dòm
lom lom theo dỏi. Cho nên bao niềm thương nhớ đành nuốt
vào gan ruột, không nói nên lời! Chỉ biết lần tìm tay nhau,
“mặt nhìn mặt, cầm tay, bâng khuâng không nói một
câu...”. Đành phải hỏi nghiêm trang việc con cái học hành,
lao động tốt cho đúng nội qui, không thôi buổi viếng thăm
bị cúp! Thảm hơn hết là: Ngàn dặm tìm chồng, trèo đèo,
vượt suối, sang sông để chỉ được nhìn mặt nhau trong mười
lăm phút phù du!
Nguyễn Nhơn
Tháng Tư Rạng Rỡ
30 THÁNG TƯ:
MÙA XUÂN DÂN TỘC
Ba mươi tám năm qua, bất chấp mọi cố gắng, nhẫn nại
hoặc tranh đấu thẳng mặt hoặc lý luận thuyết phục, thậm
chí một số trí thức còn khuất thân thỉnh nguyện, xin-cho,
bọn Việt gian cọng sản vẫn trơ lỳ, lại có khi còn kiêu ngạo
thách đố như tổng bí Lú vừa rồi:
Ngày 25/2/2013, Tổng bí thư đảng csvn phát biểu tại
Vĩnh Phúc:” ...Vừa rồi đã có các luồng ý kiến thì cũng có
thể quy vào được là suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống chứ gì nữa … Xem ai có tư tưởng là muốn bỏ Điều
4 Hiến pháp k hông, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng
không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Muốn ‘tam quyền
phân lập’ không? Hả? Muốn ‘phi chính trị hóa quân đội’
không? Người ta đang có những quan điểm đấy!… ”
Đạo Đức kinh viết: “ Dân (cùng đường) không sợ chết.
Làm sao lấy chết dọa đó!?
Tục ngữ Việt Nam có câu: Con giun xéo lắm cũng oằn.
Hoặc là: Tức nước, vỡ bờ.
Non 70 năm, đồng bào Miền Bắc sống trong tăm tối,
nhọc nhằn, cường quyền bức hiếp, tước đoạt ruộng vườn,
trong toàn cảnh mâu thuẫn lớn nhất của thời đại giữa nhân
dân bị trị và chế độ độc tài toàn trị. Trong ngắn hạn và
trung hạn, lực lượng dân c hủ có thể vẫn còn ở trong thế
yếu nhưng dài hạn, nếu biết dựa vào và khơi dậy sức mạnh
của dân tộc, chắc chắn lực lượng dân chủ sẽ chiếm thượng
phong và giành chiến thắng vì nhân dân k hông thể chấp
nhận mãi sự đày đọa của một thiểu số độc tài. Trong viễn
cảnh đó, sự đoàn kết hiệp đồng chiến đấu giữa các thế hệ
để đấu tranh hiện nay nhất định cần một cương lĩnh có tầm
chiến lược, trong đó có chỗ và cơ hội hành động cho mọi
người khao khát tự do dân chủ, kể cả lối thoát cho những
người cộng sản và đảng cộng sản để tránh một bi kịch lịch
sử tiếp theo, chắc chắn sẽ có rất nhiều hận thù, máu và
nước mắt.”
Cái tay cựu vc nằm vùng tiêu diêu thiệt là nhanh nhẩu
đoảng. Nó chẳng những không biết thân, biết phận là hàng
thần lơ láo, bị gạt ra rìa đã từ lâu mà còn nỏ mồm lo lắng
cho chủ nó là bọn cướp cs mà nó ph ản bội cõng vào tàn
phá sạch Miền Nam.
Điều đáng nực cười là nó b ảo hoàng hơn vua khi nó
khuyên giới trẻ cứ từ từ, đợi bọn cs già nửa nạc, nửa mõ
của nó bào chế xong cái gọi là “ cương lĩnh có tầm chiến
lược ” r ồi mới hành động để “ tránh một bi kịch lịch sử
tiếp theo, chắc chắn sẽ có rất nhiều hận thù, máu và nước
mắt.”
Nghe cái giọng mèo già khóc chuột chết nầy của nó,
thiệt là cầm lòng chẳng đậu muốn … chửi tục. Con bà nó!
Ngày trước, nó rước cs vào bắn giết, xương chất thành núi,
máu chảy thành sông, nó lạnh lùng nhảy cà tưng hoan hô
vui mừng. Ngày nay, sau 38 năm đoạn trường, tuổi trẻ, nhờ
cách mạng điện toán, mới nhận thức được, đâu là chánh
nghĩa, đâu là gian tà. Ai là người giữ nước, ai là kẻ mãi
quốc cầu vinh, mới hăng hái đứng lên toan rấn tới diệt loài
lang sói cứu dân, cứu nước. Đáng lẽ thì thằng Việt gian
nằm vùng phải cổ võ giới trẻ vì dân, trừ bạo thì mới phải.
Đàng nầy nó lại lên giọng rao giảng đạo đức bà tú đễ, bàn
lùi, thiệt đúng là trí thức dỏm chồn lùi.
Nói gì thì nói, cái bàn tay nhơ bẩn, nhỏ nhoi của tên
phản bội tiêu diêu Bảo cụ làm sao che lắp được ánh sáng
mặt trời. Thôi thì chó sủa mặc chó. Đoàn lữ hành tiến bước.
Nếu tình hình phát triển mau lẹ và được phối hợp chặt chẽ
thì có cơ may ngày 30 tháng tư năm nay, cái câu chua chát
“ triệu người vui, triệu người buồn “ của sáu Kiệt tự Dân từ
đây chìm vào quên lãng.
30 tháng Tư:
Sài gòn lấy lại tên Hòn ngọc Viễn Đông
Thử hình dung diễn tiến nầy: Ngày 30 Tháng Tư,
2013, từ sáng tinh mơ, hàng hàng, lớp lớp vợ con, anh em,
họ hàng, bè bạn của tử sĩ QLVNCH, từ khắp nơi, trẩy về
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Sau cuộc lễ truy niệm
trang nghiêm, rừng người ùn ùn t iến bước hướng về thành
phố Saigon. Vạn dặm thăm chồng còn lặn lội được hà
huống gì đường xa chưa đầy 30 cây số ngàn, lại thêm họ
hàng, bè bạn sát cánh bên nhau. Trên đường trường xa, suốt
một dọc Dĩ An, Thủ Đức, Thị Nghè, không t hiếu gì đồng
bào hảo tâm gia nhập.
Một khi đoàn quân nghĩa dũng hàng vạn người , dù tay
không tấc sắt vẫn tràn ngập được dinh lũy bạo quyền cọng
sản thành hồ, xóa bỏ danh tự “ngụy quân, ngụy quyền”, đòi
lại danh dự đã bị bọn cs tước đoạt. Đòi lại lẽ công bình: Là
công dân chân chính của đất nước Việt Nam chớ không
phải công dân hạng hai, phó thường dân Nam bộ.
30 tháng Tư:
Cố đô Thăng Long phục hồi Đất ngàn năm văn vật
Sáng sớm ngày 30 Tháng Tư, 2013, Trịnh Kim Tiến
dẫn đầu đoàn dân oan từ khắp các công viên Đàm Quảng
Nguyễn Nhơn
để cho một viên chức cấp thấp bộ ngoại giao nói mấy câu
phản đối chiếu lệ, rồi thôi. Trước thái độ hèn nhược, làm
nhục Quốc thể như vậy, 20 hội đoàn “ xã hội dân sự “ đồng
thanh lên tiếng kêu gọi toàn quốc biểu tình chống tàu xâm
lấn Biển Đông ngày Chúa nhật 11/5/2014.
Cả nước sôi sục bầu không khí đấu tranh. Bạo quyền “
hán ngụy “ liền ra tay đánh phá. Lại thêm nhóm “ nhân sĩ “
mà hầu hết là cựu vc nằm vùng xen vào điếu đóm. Hậu quả
là ngày Chúa nhật 11/5/2014, cả hai đầu Sài gòn và Hà Nội
chỉ có vài ngàn đồng bào tham dự “ biểu tình yêu nước “ vì
bị “ biểu tình quốc doanh “ do thành đoàn thanh niên hcm
và Mặt trận tổ cò cũng như đám “ 54 nhân sĩ “ phân
tán.Tuy vậy, 20 hội đoàn vẫn tiếp tục kêu gọi biểu tình vào
ngày Chúa nhật 18/5/2014.
Bỗng nhiên xảy ra “ sự cố “ công nhân biểu tình bạo
động có đốt phá, cướp giựt và người chết:
Ngày 12/ 5/2014, ở Bình Dương tại khu công nghiệp
Việt Nam – Singapore 1, Việt Hương và Sóng Thần 1 cuộc
biểu tình đã xảy ra, sang đến sáng 13/5, con số công nhân
tham gia khoảng gần 10.000 người. Đến trưa thì xảy ra
bạo động.Nhiều nhóm người quá k hích lợi dụng biểu tình
(theo công an là “đội lốt công nhân”) đã đập phá, cướp tài
sản và cả đốt cháy cơ sở vật chất của không chỉ doanh
nghiệp Trung Quốc mà còn của Đài Loan, Singapore, Hàn
Quốc, gây nhiều hỗn loạn. Tính đến chiều 14 tháng 5, toàn
tỉnh ở Bình Dương đã có trên 460 công ty (phần lớn của
người Đài Loan) bị đập phá và ít nhất 15 nhà máy bị đốt
cháy… Có trên 40 c án bộ và công an b ị thương khi làm
nhiệm vụ, chủ yếu do các đối tượng quá k hích dùng g ạch
đá ném. Theo nhà báo Huy Đức, trong số 315 nhà đầu tư
chịu thiệt hại trong vụ Bình Dương, có 12 công ty bị cháy
lớn (nhiều nhà xưởng bị cháy rụi), 3 công ty bị cháy nhỏ,
33 công ty bị trộm cướp tài sản, 196 nhà xưởng bị đập phá,
241 văn phòng bị hư hại, có nhiều văn phòng bị đốt sạch,
phá sạch.
Chiều ngày 14 tháng 5 tại khu kinh tế Vũng Áng, huyện
Kỳ Anh(Hà Tĩnh) vào khoảng 2 gi ờ trưa, theo lời kể của
một công nhân làm tại đó, 3 thanh niên đã cản trở không
cho công nhân vào làm tại nhà máy thép Formosa của Đài
Loan, nơi có lượng lớn công nhân Trung Quốc làm việc,
sau đó họ kêu gọi biểu tình chống Trung Quốc, hàng nghìn
công nhân đã tham gia. Đến 18 giờ 30, xe chở công nhân
ra về đã bị chận lại, nhóm quá khích đã lôi người xuống
đánh. Sau đó họ xâm nhập, đập phá và đốt 2 lò gang thép.
Ít nhất một người Trung Quốc thiệt mạng, tổng cộng 149
người khác bị thương. Hiện có 76 người bị bắt giữ để điều
tra.Vào ngày 20 tháng 5, hãng China Metallurgical Group
cho biết là tại cơ xưởng thép Formosa Plastics mà họ đang
xây dựng ở Hà Tĩnh, 4 công nhân của họ đã chết, ngoài ra
130 người bị thương trong số đó 23 bị thương nặng. Trong
số 3.565 công nhân họ làm ở đó chỉ còn chục người ở lại.
Vẫn biết rằng đây là kịch bản đo tình báo Hoa Nam
cục hiệp cùng bọn đầu trâu, mặt ngựa tổng cục 2 c ôn an
dàn dựng, nhưng mà vẫn là mô hình hiệu quả cho những ai
vận động nổi dậy học tập kinh nghiệm. Nếu như mà có
quyết tâm và can trường dùng c hiêu “ gậy ông, đập lưng
ông “ thì chắc chắn sẽ công kích nặng nề cả kinh tế lẫn trật
tự xã hội vẹm:
1/ Nếu phong t rào công nhân nầy mà đánh đồng loạt
vào các Khu Công Nghiệp trọng yếu, từ khu tam giác công
nghiệp nghệ chủ lực của Miền Nam: KCN Sống Thần Thủ
Đức – KCN Bình Dương – KCN Biên Hòa lan tỏa ào ạt ra
Bĩm Sơn – Vũng Án, Hà Tĩnh và v…v… thì tức thì đánh
sập nền kinh tế của “ hán ngụy “ hiện đang nhấp nhô bên
bờ vực thẩm.
2/ Nhân cơ hội dân oan các l oại, nông dân mất nhà,
mất đất, tiểu thương mất chợ… thừa cơ gây náo loạn thì
trật tự xã hội tan hoang.
Lực lượng côn an, côn đồ, dân phòng … bị tràn ngập.
Tất cả lực lượng nổi dậy tổng tấn công vào cơ quan công
quyền và dinh thự của bè lũ tư bản đỏ thì…:
Tự chuyển
Tự biến
Hỡi đông bào Việt Nam, trước thảm cảnh của dân tộc,
trước nguy cơ đất nước của chúng ta bị tập đoàn Việt cộng
HCM sau khi bán đất chia phần, chúng lại trao tay cho Tàu
cộng để dân ta thành tập đoàn nô lệ mới cho chúng. Hỏi
xem, dân ta phải làm gỉ đây?
Hởi con cháu của Trưng, Triệu. Hậu duệ của những
Ngô Vương, Lê Lợi, Trần hưng Đạo, Quang Trung…. mang
dòng máu của Tiên Long nên làm gì đây?
- Ta cứ lặng lờ ngủ yên, cúi đầu vui theo những ngày
phù du nô lệ?
- Hay ta sẽ cùng nhau cuồn cuộn như dòng thác không
ngừng chuyển động, cùng đứng lên theo tiếng gọi của tiền
nhân, trảm nội thù diệt ngoại xâm, đưa non sông về một
mối thanh bình thái lạc?
- Cách riêng, Này anh, này chị, hỡi em, còn giữ tấm áo
Việt Nam, chúng ta nghĩ gì về con đường Cứu Quốc hôm
nay?
( Bảo Giang - Sơn Hà nguy biến )
Toàn dân! Nghe chăng? Sơn hà nguy biến!
Hận thù đằng đằng! Biên thùy rung chuyển
Tuông giày non sông rền vang tiếng vó câu
Gây oán nghìn thu
Lòng dân Lạc Hồng nhìn non nước yêu quê hương
Giống anh hùng nâng cao chí lớn
Giống anh hùng đua sức tráng cường.
Ta lên đường lòng mang tâu đến long nhan
Giòng Lạc Hồng xin thề liều thân liều thân!
quân Mông Cổ. Quân Mông Cổ cho rằng lực lượng quân
Trần đã kiệt quệ sau trận thua đầu nên rất chủ quan, do đó
khi bị tập kích đã không kịp trở tay, bị thua to. Sau khi bị
phá tan tại Đông Bộ Đầu, quân M ông Cổ không giữ nổi
Thăng Long nữa. Họ đồng loạt tháo chạy thẳng về Vân
Nam.
TRẦN HƯNG ĐẠO ĐẠI PHÁ
QUÂN MÔNG LẦN THỨ 2
Năm 1279, Nam Tốnghoàn toàn bị Đại Nguyên thôn
tính. Tháng 8 năm này, hoàng đế nhà Nguyên là Hốt Tất
Liệtra lệnh đóng thuyền chiến chuẩn bị đánh Đại
Việtvà Nhật Bản
Nhà Nguyên chia làm 3 đạo tiến đánh Đại Việt. Đạo
chủ lực do T hoát Hoan và Ariq Qaya chỉ huy từ Ninh
Minhtiến vào Lộc Châu (nay là Lộc Bình,Lạng Sơn). Ngày
27 tháng 1 năm 1285 (dương lịch), đạo quân này chia làm
2 mũi tiến quân, một do Bolqadar chỉ huy theo đường Khâu
Ôn (nay là Ôn Châu, Lạng Sơn), một do Sat artai và Lý
Bang Hiến chỉ huy đi theo đường núi Cấp Lĩnh (tức là từ
Lộc Bình đi Sơn Độngngày nay). Đại quân của Thoát Hoan
đi sau mũi thứ hai của Satartai và Lý Bang Hiến. Chống lại
đạo quân thứ nhất này của quân Nguyên là lực lượng chủ
lực của quân Trần do đích thân Trần Quốc Tuấnchỉ huy.
Đạo thứ hai chỉ gồm hơn 1 nghìn quân Mông Cổ và Vân
Nam do N asirud Din từ Vân Nam vào Đại Việt qua
vùng Tuyên Quang tiến theo sông Chảy. Vị chỉ huy quân
Trần ở vùng này là Trần Nhật Duật.
Đạo thứ ba là đạo quân đang chiến đấu ở Chiêm
Thành do Toa Đô chỉ huy, tiến vào Đại Việt muộn hơn hai
cánh trên, vào khoảng tháng 3 dương lịch, từ phía Nam.
Tháng 5 đầu tháng 6 năm 1285, nghĩa là khoảng 1 t háng
sau khi rút về Thanh Hóa để thoát khỏi gọng kìm của quân
Nguyên, quân T rần lại quyết định từ Thanh Hóa trở lại
miền Bắc phản công quân Nguyên. Quân Trần chia làm 2
cánh. Một cánh do Trần Quốc Tuấnchỉ huy quay trở lại Vạn
Kiếp khóa đường rút lui của địch. Một cánh do Trần Quang
Khải chỉ huy phản công dọc theo sông Hồng.
Trận Hàm Tử – Tây Kết
Để phòng thủ mặt phía Nam của thành Thăng Long,
quân Nguyên dựng 2 căn cứ liền kề nhau ở hai bờ sông
Hồng, một ở Hàm Tử Quan (cửa Hàm Tử – nay ở Khoái
Châu, Hưng Yên) và một ở Chương Dương Độ (bến
Chương Dương – nay ở Thượng Phúc, thuộc Thường
Tín, Hà Nội). Tháng 5, Trần Quang Khải dẫn quân t ấn
công đồng thời 2 căn cứ này. Toa Đô và Ô Mã Nhi ở Thanh
Hoá, Nghệ An giao chiến với quân T rần do Trần Quang
Khải chỉ huy mấy lần đều bị đẩy lui. Lương thực gần cạn,
tới mùa hè nóng bức, quân Nguyên không hợp thời tiết, hai
tướng bèn bỏ ý định truy tìm vua Trần mà vượt biển ra bắc
để hội binh với Thoát Hoan.
Trần Quang Khải thấy quân Nguyên rút ra bắc bèn
báo với vua Trần. Vua Trần cùng các tướng nhận định
rằng: Quân Nguyên nếu còn mạnh, ắt truy kích vua Trần từ
hai mặt nam bắc; nay cánh phía bắc không tới, cánh phía
nam rút đi tức là đã mỏi mệt. Nhà Trần xác định đây là thời
cơ phản công.
Trần Nhân Tông sai Trần Nhật Duật làm chánh tướng,
Chiêu Thành Vương và Trần Quốc Toản làm phó tướng đi
cùng với Nguyễn Khoái mang 5 vạn quân ra bắc đuổi đánh
Toa Đô. Trong quân Trần Nhật Duật có tướng người Trung
Quốc của nhà Tống cũ là Triệu Trung theo hàng.
Trần Nhật Duật gặp binh thuyền Toa Đô ở bến Hàm
Tử, bèn chia quân ra đánh. Hai bên chống nhau ác liệt. Toa
Đô đi đường xa, giao chiến lâu ngày đã mỏi mệt, trông
thấy cờ hiệu Tống của Triệu Trung, lo lắng tưởng rằng nhà
Tống đã khôi phục sang giúp Đại Việt. Nhóm quân người
Hoa trong hàng ngũ quân Trần đều muốn trả thù nên đánh
rất hăng.
Trong khi đó quân Trần lại dùng kế ly gián, bắn tên
gắn giấy sang bên quân Nguyên, nói rằng chỉ đánh
người Thát Đát chứ không đánh người Hoa. Điều đó khiến
nhiều tướng sĩ người Hoa trong quân Nguyên không tận lực
chiến đấu hoặc trở giáo sang hàng quân Trần. Toa Đô bị
thua to. Sau khi thua trận ở Hàm Tử Quan, Toa Đô vẫn
không biết rằng Thoát Hoan đã tháo chạy. Cánh quân Toa
Đô đóng ở sông Thiên Mạc (đoạn sông Hồng ở Hưng Yên)
và tìm cách liên lạc với ông. Được ít ngày, Toa Đô biết tin
quân Thoát Hoan đã thất bại và rút chạy, bèn lui về Tây
Kết (Khoái Châu). Ngày 24 tháng 6 năm 1285, Trần Hưng
Đạo trực tiếp chỉ huy quân đánh Toa Đô. Toa Đô và Ô Mã
Nhi thua, bỏ thuyền đi đường bộ ra phía biển. Trên đường
chạy, Toa Đô bị quân Đại Việt bao vây, sau cùng bị
tướng Vũ Hải của nhà Trần chém đầu. Ô Mã Nhithì chạy
thoát về Thanh Hóa. Theo Đại Việt sử ký toàn thư,
vua Trần Nhân Tông trông thấy thủ cấp của Toa Đô thì cởi
áo ngự phủ lên và nói “người làm tôi phải nên như thế
này” rồi sai người khâm niệm tử tế.
Trận Chương Dương Độ
Trần Nhật Duật sai Trần Quốc Toản về Thanh Hoá báo
tin thắng trận. Trần Quốc Tuấn bàn với Trần Nhân Tông
quyết định mang toàn quân ra bắc đánh Thoát Hoan để lấy
lại Thăng Long. Trần Quang Khải ở Nghệ An mới ra được
cử làm chánh tướng, Phạm Ngũ Lão và Trần Quốc
Toản làm phó tướng; lại truyền lệnh cho Trần Nhật Duật
phải ngăn không cho Toa Đô hợp binh được với Thoát
Hoan. Đại quân Thoát Hoan đóng ở Thăng Long cũng
trong tình trạng lương thực sắp cạn, các chiến thuyền đóng
ở bến Chương Dương.
Trần Quang Khải tiến ra bắc khá thuận lợi. Quân Trần
nhanh chóng diệt nhiều đồn nhỏ của quân Nguyên, kết hợp
dụ hàng quân người Hoa bỏ hàng ngũ quân Nguyên. Trong
khi đó thì Trần Nhật Duật cũng giữ lại số quân để cầm
chân Toa Đô, còn chia một số sang hợp với cánh quân Trần
Quang Khải. Nhiều toán quân Trần trước kia bị tản mát,
chưa tìm được vào Thanh Hoá, lúc đó gặp quân Trần
Quang Khải đã cùng gia nhập nên lực lượng càng mạnh
lên. Quân Trần chiếm được nhiều thuyền của địch ở bến
đò.
Quân Trần tiếp tục ngược sông Hồng phản công quân
Nguyên. Trần Quang Khải cùng Phạm Ngũ Lão và Trần
Quốc Toản đã tấn công quân N guyên ở Chương Dương
(huyện Thường Tín). Quân Nguyên thường thấy quân Trần
bị thua, khi đó thấy quân Trần đánh mạnh nên bị bất ngờ,
tan tác bỏ chạy. Phần lớn các chiến thuyền quân Nguyên bị
quân Trần đốt cháy hoặc chiếm.
Giải phóng Thăng Long
Sau các trận phản công thắng lợi trên sông Hồng,
quân Trần quyết định tấn công giải phóng k inh thành
Thăng Long. Lực lượng tham gia gồm các đơn vị thủy bộ
chủ lực do Trần Quang Khải chỉ huy. Các đơn vị dân binh
các địa phương lân cận do Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp
và Nguyễn Truyền chỉ huy. Sau khi đánh bại đơn vị quân
Nguyên ngoài thành do M ã Vinh chỉ huy, quân T rần bắt
đầu bao vây và công thành.
Trước sức tấn công mạnh mẽ và bền bỉ của quân Trần,
quân Nguyên phải rút chạy khỏi thành Thăng Long về đóng
ở bờ Bắc sông Hồng (khoảng Gia Lâm ngày nay). Tại đây,
đồn trại của quân Nguyên vẫn liên tục bị tấn công.
Trận sông Thiên Mạc
Sau khi thua trận ở Hàm Tử Quan, Toa Đô vẫn không
biết rằng Thoát Hoan đã tháo chạy. Cánh quân Toa Đô
đóng ở sông Thiên Mạc và tìm cách liên lạc với Thoát
Hoan. Được ít ngày, Toa Đô biết tin quân Thoát Hoan đã
thất bại và rút chạy, bèn lui về Tây Kết.
Có tài liệu căn cứ vào Nguyên sử cho rằng Toa Đô sau
trận thua ở Hàm Tử Quan lại tiến vào Thanh Hoá đánh vua
Trần lần nữa, nhưng không thu được kết quả nên lại trở ra
tìm Thoát Hoan. Trận Tây Kết này còn được coi là trận Tây
Kết thứ hai. Ngày 24 tháng 6 năm 1285, quân Trần do đích
thân vua Trần chỉ huy tấn công đạo quân N guyên này.
Tướng Nguyên là Trương Hiển (chức tổng quản) đầu hàng
quân Trần và dẫn đường cho quân Trần tấn công Toa Đô ở
Tây Kết. Quân Nguyên bị giết rất nhiều. Toa Đô cũng bị tử
trận. Ô Mã Nhi và Lưu Khuê đi thuyền nhỏ trốn thoát ra
biển.
HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG
ĐẠI PHÁ QUÂN NGUYÊN LẦN THỨ 3
Hai lần bị thất bại, Hốt Tất Liệt xâm lược nước ta lần
thứ ba để trả thù, chứng tỏ uy thế của nước lớn, gồm 30
vạn quân do Thoát Hoan chỉ huy; 600 chiến thuyền do Ô
Mã Nhi hộ tống đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ ,
lần này lương thực đầy đủ hơn , quân đội nhiều và mạnh ,
nhiều tướng giỏi , chú trọng đến thủy binh.
*Trần Hưng Đạo làm Tiết chế , chỉ huy kháng chiến.
*Tháng 12/1287 nửa triệu quân xâm lược tràn vào
nước ta:
+Thoát Hoan chỉ huy quân b ộ đánh vào Lạng Sơn,
Vạn Kiếp và xây dựng căn cứ vững chắc để đánh lâu dài
với ta .
+600 chiến thuyền lớn do Ô Mã Nhi theo đường biển
hộ tống đoàn thuyền lương của Trương văn Hổ và hội quân
với Thoát Hoan ở Vạn Kiếp .
Chiến thắng Vân Đồn tiêu diệt đòan thuyền lương của
Trương văn Hổ :
– Ô Mã Nhi vào sông Bạch Đằng và hội quân ở Vạn
Kiếp, bỏ lại đoàn thuyền lương, liền bị quân Trần Khánh
Dư tiêu diệt.
-Đợi mãi không thấy đoàn thuyền lương, 1-1288 Thoát
Hoan tiến xuống Thăng Long… nhưng bị động, hết lương
thực, tinh thần binh lính hoang mang tuyệt vọng
*Ý nghĩa trận Vân Đồn :tạo thời cơ để nhà Trần mở
cuộc phản công tiêu diệt quân Nguyên.
Chiến thắng Bạch Đằng lịch sử 1288:
-Vua TrầnvàTrần Hưng Đạo,dự đoán quân giặc sẽ rút
quân qua cửa sông Bạch Đằng.
-Đầu tháng 4 /1288 Ô Mã Nhi có kỵ binh rút về nước
theo hướng sông Bạch Đằng.
-Khi nước triều lên ta cho thuyền nhẹ ra khiêu chiến
rội vờ thua chạy, dụ địch vào trận địa mai phục của ta.
-Khi nước rút, từ 2 bờ sông thuyền nhỏ của ta đổ ra
đánh , bị đánh bất ngờ, giặc rút nhanh ra cửa biển, thuyền
giặc đâm vào bãi cọc nhọn, bị vỡ và đắm.Hoảng sợ, địch
bỏ chạy lên bờ bị quân ta tiêu diệt, Ô Mã Nhi bị bắt.
-Trận Bạch Đằng kết thúc thắng lợi. Cùng lúc này
Thoát Hoan phải liều mạng rút chạy về nước.
*Ý nghĩa: tiêu diệt ý đồ xâm lược Đại Việt của quân
Nguyên ,quân Nguyên từ bỏ mộng xâm lược Đại Việt.
Ý nghĩa lịch sử của ba lần kháng chiến chống Mông –
Nguyên:
-Đập tan ý chí xâm lược của quân thù , bảo vệ độc lập
chủ quyến toàn vẹn lãnh thổ.
-Nâng cao lòng tự hào, tự cường của dân tộc, củng cố
niềm tin cho nhân dân.
-Xây dựng khối đoàn kết toàn dân.
-Kế hoạch bành trướng xuống phương Nam và Đông
Nam Á bị phá tan.
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp
vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo
lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông
nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa
máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hang
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu
mạng
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường
hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc
thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về
đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực long
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm
phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
Ngày nay, giặc nội xâm hồ tinh hán ngụy việt cọng còn
bạo ngược, dã man " tự thực dân " khốc liệt còn hơn giặc
chệt nhà Minh:
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Ngày nay, nội gian hán ngụy cấu kết với ngoại xâm tàu
cọng thực hiện cuộc " xâm lăng Tàm thực " gặm nhấm, hán
hóa lần hồi nước ta còn nguy hi ểm vạn lần hơn là xâm
chiếm bằng binh lực.
Hiện tại, 6 tỉnh biên giới và Điện Biên coi như Khu
vực Kinh tế Đặc biệt, là " Đặc Khu Kinh Tế " lệ thuộc tàu
cọng trên thực tế với khu vực Kinh tế - Tài chánh - Tiền tệ
thuộc khu vực Nhân dân tệ chệt.
Vì vậy, tất cả giới có hiểu cần phải hết lòng giải thích,
hô hào, khích lệ để đồng bào các giới nhận thức rõ tình
trạng lâm nguy của Đất Nước mà vùng lên tranh đấu:
Nguyễn Nhơn
Cuối Thu 24/11/2018
Nguyễn Nhơn
Hoa Kỳ. Vì Tổ quốc Việt Nam là như thế đối với bạn và tôi
cho nên nó s ẽ... như thế đối với những ai còn cảm nhận
mình là người Việt Nam - dù ở Huế, Sài Gòn, Hà Nội hay
Paris, Sydney, Washington DC... Nếu Tổ quốc Việt Nam
không còn thì Danh dự Việt Nam sẽ biến mất.
Đến đây hy vọng bạn có thể đồng ý v ới tôi và hiểu
được lý do tôi viết bài này thân gửi đến bạn: Trách nhiệm
đối với Tổ Quốc và Danh Dự của Dân Tộc không có sự
phân chia biên giới. Trách nhiệm đó đều ngang nhau đối
với những người mang dòng máu Lạc Hồng, dù đang sống
ở bất kỳ quốc gia nào. Danh dự đó đều mang cùng một ý
nghĩa, một giá trị ngang nhau cho những ai còn nói được 5
chữ Mẹ đẻ: Tôi Là Người Việt Nam.
Có rất nhiều thứ quý báu bị tước đoạt mà chúng ta
vẫn có thể tìm lại được cho riêng mình. Nhưng bạn và tôi
sẽ không bao giờ tìm lại được cho mình di sản 4000
năm được gầy dựng bởi hàng hàng lớp thế hệ cha ông nếu
di sản đó bị Việt cộng đem bán và Tàu cộng cướp mất: Tổ
Quốc và Danh Dự.
Vậy mong rằng chúng ta, trong nước hay ngoài nước,
cùng chung vai, sát cánh, ngang như nhau với Trách
Nhiệm. Trách Nhiệm đối với lịch sử, tổ tiên và giống nòi.
Trách Nhiệm đối với Danh Dự và Tổ Quốc Việt Nam.
( Vũ Đông Hà - Tổ quốc - Danh dự _ Trách nhiệm )
Ngày mãn khóa,
tân sĩ quan giương cung xạ tiễn bốn phương,
trang trọng đội lên mũ sĩ quan với huy hiệu Quân lực
VNCH: Tổ Quốc – Danh dự – Trách nhiệm.
Muốn khôi phục Tinh thần " Tổ Quốc - Danh Dự -
Trách Nhiệm " Phải khôi phục Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa với phương châm kể trên. Muốn khôi phục Quân
lực VNCH - Phải dựng lại nền Việt Nam Cộng Hòa.
Muốn dựng lại VNCH với nền giáo dục DÂN T ỘC -
Chưa đọc thông mặt chữ, thầy dạy thuộc lòng Quốc văn
Giáo Khoa Thư:
" Thấy người hoạn nạn thì thương.
Thấy người tàn tật lại càng trông nom..."
Lên trường tỉnh, mỗi năm hè đến, xem các ch ị diễn
kịch Hai Bà Trưng, cỡi voi đành đuổi giặc Tô Định chạy về
tàu. Các anh diễn Hội nghị Diên Hồng, “ Toàn dân nghe
chăng? Sơn hà nguy biến!
Vào trung học, đọc Bình Ngô Đại cáo: “ Việc Nhân –
Nghĩa cốt ở yên dân. Quân điếu phạt trước vì khử bạo.”
Khi Đất nước bị giặc xâm lăng cọng sản uy hiếp, lên đường
nhập ngủ, tòng chinh:
tàn, duy vật, vô thần, vô Tổ quốc, vừa mở mắt chào đời thì
đã nghe: “Tiếng đầu đời con gọi xì ta lin.” Lớn lên ngâm
thơ Tu Hú: “ Bên nây biên giới là nhà. Bên kia biên giới
cũng là quê hương.”
Nhồi nhét vào đầu óc trẻ thơ tên râu rìa Nga la tư thay
cho tiếng gọi cha, ông. Giáo dục cho thanh niên ý niệm vô
tổ quốc.Không biết có Nước thì lấy gì mà yêu?! Danh dự
chỉ là ý niệm tư sản phô trương không thực chất, mắc mớ gì
phải giữ cho nhọc xác.
Trách nhiệm chỉ có đối với “đảng và lãnh đạo” chớ
không có với dân với nước gì hết trơn. Chừng nào còn đảng
cướp cộng sản còn đè đầu, không có Tổ Quốc – Danh Dự –
Trách nhiệm gì sất!
Nguyễn Nhơn
( Viết lại lúc vào Thu để thúc dục Tuổi trẻ lên đường
thực hiện Cách Mạng Mùa Thu Mới cứu nước )
12/9/2018
Chiếc Giày
của 43 Năm Cay Đắng Phẫn Nộ
Nhưng chiếc giày của chị Dương không chỉ nhắm vào
bà Quyết Tâm. Nó nhắm vào cả hệ thống quyền lực của
Việt Nam. Thông điệp của nó l à bọn dân c ùng khổ của
chúng tôi không còn sợ hãi guồng máy này nữa. Chiếc giày
là tiếng nói chính thức không những của dân oan T hủ
Thiêm mà là dân oan khắp nước. Những người sống không
… Chiếc giày của chị Dương làm người dân bình thường
chợt tỉnh sau hơn bốn mươi năm sợ hãi chỉ biết cặm cụi
mưu sinh và âm thầm tuân theo quy luật do người Cộng
sản đưa ra, bất kể quy luật ấy bất công đến thế nào chăng
nữa.
Chiếc giày của chị Dương rồi đây sẽ được người dân
nhớ tới trong các cuộc trà dư tửu hậu. Bên gánh hàng rong,
trong những quán c à phê chật chội cáu bẩn, hay trên
những bàn nhậu vỉa hè. Người dân t hấp cổ bé miệng tự
dưng cảm thấy lớn lên bởi họ phát hiện rằng những người
Cộng sản cũng là con người như họ, cũng biết sợ hãi và
đầy dẫy hèn mọn nhất là khi bị dân chúng nổi lên chống
lại.
Đối với người trí thức, chiếc giày của chị Dương làm
họ bứt rứt, bất an. M ặc cảm trước một người đàn bà 28
tuổi làm cho họ nhỏ bé và tổn thương. Nhỏ bé vì bất lực,
tổn thương vì tự ái. Và biết đâu chiếc giày của chị Dương
sẽ khiến họ bừng tỉnh và bước ra khỏi căn chòi “cầu an”
mà họ tự nhốt mình bao năm nay một cách tự giác và đầy
những bao biện. Mặc Lâm (Blog VOA)
Bốn mươi ba năm " sau ngày các bác vô đây ", em
cháu Thùy Dương 28 tuổi của cô gái nhỏ năm xưa lòng đầy
phẫn nộ, ném chiếc giày vào mặt cường quyền cướp giựt:
" … Chiếc giày của chị Dương không trúng bà Tâm nhưng
lại trúng vào tâm điểm của cả guồng máy chính trị mang
tên Đảng Cộng sản Việt Nam. "
Tức nước vỡ bờ!
43 năm tủi nhục hờn căm, giờ là giây phút lịch sử của
người dân vùng dậy trả oán hờn với bọn trơ lỳ chỉ biết áp
bức, cướp bóc và giựt dọc:
" Thủ Thiêm hai mươi năm. Đồng Nai hai mươi sáu
năm, Long An, Bà Rịa, Văn Giang, Dương Nội, Nam
Định….không biết bao nhiêu năm nữa. Chất chứa lâu và
dày như thế liệu một chiếc giày có làm cho hệ thống này
tỉnh giấc hay không?
Nếu chính quyền không tỉnh thì người dân sẽ tính."
… Chiếc giày của chị Dương làm người dân bình thường
chợt tỉnh sau hơn bốn mươi năm sợ hãi chỉ biết cặm cụi
mưu sinh và âm thầm tuân theo quy luật do người Cộng
sản đưa ra, bất kể quy luật ấy bất công đến thế nào chăng
nữa. Và một khi người dân tỉnh thức, hết sợ, cường quyền
phản nước, hại dân ắt tiêu vong.
" Đối với người trí thức, chiếc giày của chị Dương làm
họ bứt rứt, bất an. M ặc cảm trước một người đàn bà 28
tuổi làm cho họ nhỏ bé và tổn thương. Nhỏ bé vì bất lực,
tổn thương vì tự ái. Và biết đâu chiếc giày của chị Dương
sẽ khiến họ bừng tỉnh và bước ra khỏi căn chòi “cầu an”
mà họ tự nhốt mình bao năm nay một cách tự giác và đầy
những bao biện."
Đến nước nầy mà kẻ có học thức cứ mũ ni che tai, cặm
cụi " s ống đời cộng sinh " thân tầm gởi với cường quyền
lang sói thì thật không phải là trí thức.
Nhà cách mạng Mahatma Gandhi nói: " Khi nào nhà
nước trở nên vô phá p luật hay hủ hóa, BẤT TUÂN DÂN
SỰ là một bổn phận thiêng liêng " ( Civil disobedience
becomes a sacred duty when the state has become lawless
or corrupt. )
Nhà nước toàn trị việt cọng ngày nay vô pháp luật lẫn
hủ hóa chưa từng thấy: Bên trong " Tự thực dân. " Bên
ngoài hèn với giặc nhục nhã. Mong rằng " chiếc giày
Nguyễn Thùy Trang " như tia lửa nhỏ dấy lên cơn bảo lửa
hỏa thiêu xác cáo hồ chí minh và đám cỏ đuôi chó Ba Đình,
chấm dứt 73 năm tăm tối lầm than cho dân Việt, nước Việt.
Nguyễn Nhơn
( Trông chờ ánh lửa Cách Mạng Mùa Thu )
20/10/2018
Tin thứ nhất tuy gây chấn động toàn quốc, nhưng trong
bản chất chỉ là một hiện tượng hầu như bất bạo động của
một người dân phẫn nộ trước cường quyền và chỉ bị phạt
hành chánh. Tin thứ nhì là một vụ sát nhân đầy máu lạnh,
gây ghê tởm cho toàn nhân l oại, do một cường quyền gia
hại một công dân.
..........
Sự phanh thây của nhà báo Jamal Khashoggi tuy tàn
ác, đẫm máu và gây phẫn nộ trên toàn thế giới, nhưng xảy
ra vào giai đoạn 1 trong tương quan trên, nên sẽ không đủ
sức để lật đổ vương triều Saud. Ngược lại, chiếc giày của
Nguyễn Thùy Dương, tuy nhẹ hều và bất bạo động nhưng
hàm chứa sự khinh bỉ tột cùng của nhân dân, v ì xảy ra
trong giai đoạn 2 trong tương quan trên, nên sẽ làm lay
chuyển tận gốc rễ đảng CSVN như một định chế thối nát rã
rời và âm vang của nó sẽ làm sụp đổ chế độ.
Giai đoạn thoái trào này là tiền đề cho sự diệt vong tất
nhiên của đảng CSVN và mở đầu cho công cuộc xây dựng
một nền dân chủ hiến định, pháp t rị và đa nguyên chân
chính cho dân tộc. (LS Đào Tăng Dực Face Book)
Đâu phải ngày hôm nay mới xãy ra " hiện tượng ném
dép vào mặt cường quyền." Những thái độ, hành động
khinh bỉ của người dân đã xảy ra từ rất lâu về trước, từ
ngày " cac bác vô đây ":
" Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý
Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do "
" Củ Chi Đất Thép Thành Đồng
Ngày nay đất thép hóa ra thành bùn "
Cho đến gần đây, sự thể ngày càng tàn tệ!
Hán ngụy việt cọng ngày càng trơ tráo, vô liêm sỉ.
Khỏa thân đem " cái đồ " úp vào mặt cường quyền
Hai mẹ con khỏa thân chống cưỡng chế đất bị phạt 1.5
triệu đồng CẦN THƠ (NV)Hai mẹ con bà P hạm Thị Lài,
52 tuổi, ngụ ở phường Hưng Thạnh và con gái là Hồ
Nguyên Thủy, 33 tuổi, vừa bị phạt hơn 1.5 triệu đồng Việt
Nam vì đã khỏa thân để chống lại nhà c ầm quyền thành
phố Cần Thơ cướp đất vào hôm 22 tháng 5, 2012.
Theo báo Người Ðưa Tin, hai mẹ con bà Lài “đã bị
đám vệ sĩ lôi trên cát, bãi cỏ và các đống vật liệu trong tình
trạng khỏa thân dưới cái nắng gay gắt.” Kể với báo Người
Ðưa Tin, bà Lài nghẹn lời: “Ðất này gia đình tôi bỏ tiền
mua để cất nhà sinh sống mấy chục năm. CIC 8 tự đưa giá
rồi ép chúng tôi nhận tiền mà không cho chúng tôi quyền
được thỏa thuận mua bán. UBND quận Cái Răng dùng lực
lượng công an cưỡng chế đất giao cho CIC 8. Chồng tôi
sức yếu thế cô, uất ức quá nên đã một lần uống thuốc sâu
tự tử để phản đối. Giờ mẹ con tôi biết làm gì ngoài việc lột
đồ, chịu nhục để phản đối?!” Đó là cái mặt bị úp đồ của
chế độ thời dũng xà mâu.
Trồng quần lên đầu chánh án
Một phụ nữ trùm quần lên đầu chánh án lôi đi làm
nhục. Ngày 17-1, 2014 TAND tỉnh Bình Định đã xét xử sơ
thẩm và tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thị Xuân Đào (SN 1956,
ngụ TP Quy Nhơn, Bình Định) 4 t háng 15 ngày tù về tội
làm nhục người khác. Theo cáo trạng, ngày 30-8-2013, bà
Đào ký hợp đồng chuyển nhượng ngôi nhà tranh chấp đang
được TAND TP Quy Nhơn thụ lý giải quyết nên đã bị thẩm
phán Ngô Xuân Định (công tác ở TAND TP Quy Nhơn) ra
quyết định tạm thời kê biên tài sản.
Bức xúc, sáng 11-9-2013, bà Đào đến TAND TP Quy
Nhơn tìm gặp thẩm phán Định, nhưng không gặp nên đã
vào phòng chánh án Trương Quốc Dũng để yêu cầu làm rõ.
Tại đây, mặc dù đã được ông Dũng giải thích nhưng bà
Đào không đồng tình và cho rằng ông chánh án có tiêu cực
trong chỉ đạo giải quyết vụ việc.
Khi ông Dũng đứng lên mở cửa mời bà Đào ra về bị
bà này lấy một cái quần dài mang theo từ phía sau trùm
vào đầu ông chánh án rồi ghì kéo ra ngoài, chửi mắng, sỉ
nhục ông Dũng. Ba mươi phút sau, chánh án Dũng mới
được giải thoát. Sau đó, bà Đào bị khởi tố và bắt tạm giam
về tội làm nhục người khác.
Đám đông ném giày dép vào Phó Chánh án
Hôm qua (25.4), tại trụ sở UBND xã Phúc Sơn (huyện
Tân Yên, tỉnh Bắc Giang), Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà
Nội tổ chức xin lỗi công khai ông Hàn Đức Long (58 tuổi,
ở xã Phúc Sơn), người bị tuyên án tử hình oan và phải ngồi
tù 11 năm.
Tuy nhiên, tại buổi xin lỗi công khai, người nhà nạn
nhân Nguyễn Thị Yến (5 tuổi) đã gây náo loạn hội trường
nơi diễn ra buổi xin lỗi với lý do chưa tìm ra được hung thủ
thực sự của vụ án. Một số người kéo sập tấm biển ghi nội
dung buổi xin lỗi treo ở hội trường
Đáng chú ý, khi ông Trần Văn Tuân, Phó Chánh án
Tòa án nhâ n dân c ấp cao tại Hà Nội đọc lời xin lỗi công
khai ông Long, nhiều người quá khích ở hội trường đã cầm
dép ném liên tiếp vào người ông Tuân.
Trao đổi với PV về sự việc trên, luật sư Giang Hồng
Thanh – Trưởng Văn phòng luật sư Giang Thanh cho biết:
Về mặt cá nhân, ông thấu hiểu những hành động của người
nhà nạn nhân Yến khi cơ quan chức năng vẫn chưa có kết
luận về thủ phạm gây ra vụ án.
Chiếc giày " Nguyễn Thùy Dương "
giọt nước tràn ly?
" Ngược lại, chiếc giày của Nguyễn Thùy Dương, tuy
nhẹ hều và bất bạo động nhưng hàm chứa sự khinh bỉ tột
cùng của nhân dân, vì xảy ra trong giai đoạn 2 trong tương
quan trên, nên sẽ làm lay chuyển tận gốc rễ đảng CSVN
như một định chế thối nát rã rời và âm vang của nó sẽ làm
sụp đổ chế độ."
Hiện tại, hàn ngụy việt cọng tới hồi rệu rã:
- Bên trong nội bộ tranh chấp sát phạt náo loạn.
- Bên ngoài, tàu khựa lấn áp đến điều.
- Ngòai xã hội, người dân khinh khi, ném giày vô mặt.
" Giai đoạn thoái trào này là tiền đề cho sự diệt vong
tất nhiên của đảng CSVN và mở đầu cho công cuộc xây
dựng một nền dân c hủ hiến định, pháp trị và đa nguyên
chân chính cho dân tộc."
Muốn câu kết luận của tác giả Đào Tăng Dực thành
hiện thực, các giới thức giả trong nước cần phải dũng
mãnh, tinh tấn, dấn thân sát cánh cùng đại chúng, hướng
dẫn, tổ chức họ thành những phong trào tranh đấu rộng lớn
mới có đủ sức mạnh giựt sập chế độ việt cọng bất nhân
đang hồi rệu rã.
Nguyễn Nhơn
( Mùa Thu chế độ toàn trị đi vào tàn Thu )
22/10/2018
quy hoạch của nhà nước " thực hành đồng loạt hồi 2012:
- Cống Rộc, Hải Phòng với sự kiện gia đình Đoàn Văn
Vươn dùng súng hoa mai bắn rỗ mặt 6 tên côn an, bộ đội
thi hành cưỡng chế.
- Văn Giang: 700 đồng bào che lều cương quyết kháng
cự mấy ngàn khuyển ưng khuyển phệ kéo tới hành hung,
bắn cả lựu đạn cay, dùi cui, roi điện đàn áp.
- Vụ Bản, Nam Định: Mấy chục thiếu niên, phụ lão
đầu chít khăn tang, quyết tử giữ đất, bị mấy trăm côn an rằn
ri, võ trang tận răng, đàn áp, đánh đập dã man. Khăn tang
trắng vấy máu dân lành, rơi vãi khắp cánh đồng Vụ Bản.
- Cái Răng, Cần Thơ: Mẹ con Phạm Thị Lài - Hồ
Nguyên Thủy tay yếu chân mềm, đành cởi trần truồng
kháng cự bọn côn đồ cướp đất.
Sau nầy cò rất nhiều vụ lẻ tẻ mà bi tráng như vụ Đặng
Ngọc Viết ở Thái Bình xông vào VP quỷ ban qui hoạch bắn
tử thương và bị thương mấy tên cướp ngày rồi tư sát.
Chỉ tiếc có một điều: Người dân ít hiểu biết, không ai giúp
đở, tổ chức thành " Phong trào Toàn quốc Chống Cưởng
chế " đầy triễn vọng uy hiếp bạo quyền.
Gần đây, giới giao thông vận tải lại thành công trong
việc " Bất tuân Dân sự chống BOT " tức chống các t rạm
thu thuế, cường quyền thu tiền mãi lộ.
Hiện tại, các hành động phản kháng " Dự định Luật
Đặc khu H ành chánh Kinh tế " và " An Ninh Mạng " lớn
lao và mạnh mẻ hồi 6 t háng 10, 2 018, rồi chìm lắng thật
đáng tiếc.
Bây giờ với câu nói lẫm liệt của nhà nghiên cứu
Nguyễn Khắc Mai dẫn trên, hy v ọng từ nay, giới trí thức
trong nước thừa thắng xông l ên tích cực hành động nhắm
thực hiện công tác vĩ đại để đời: TOÀN QUỐC BẤT
TUÂN DÂN SỰ để DÂN CHỦ HÓA ĐẤT NƯỚC.
bệnh viện cấp cứu! Không một ai đoái hoài cứu giúp!
Ngày 10/12/13, cường quyền huyện Nghi Xuân, Hà
Tỉnh kéo 300 côn an, dân phòng đến cưỡng chế, cướp đất
của người dân xã Xuân Thanh cho công ty tư bản đỏ lập
sân golf. Chúng đánh đập dã man khiến 4 người dân bị
thương nặng. Đồng bào phải tự đưa các nạn nhân đi cứu
chửa.
Trước tình cảnh xã hội mà con người hầu như vô cảm
như vậy, nếu hàng sĩ phu cứ mắt lắp tai ngơ thì họa mất
nước sẽ tới trong sớm tối!
Quí vị nhân sĩ, trí thức, lão thành kách mạng thường
khuyên bảo giới trẻ tranh đấu ôn hòa bất bạo động, tôi cũng
chìu theo quí vị nói tranh đấu bất bạo động:
Tranh đấu bất bạo động theo học thuyết Gandhi gồm
hai vế:
Vế thứ nhất là BẤT HỢP TÁC: Vậy thì xin quí vị thực
thi để nêu gương cho giới trẻ. Vừa rồi, đảng viên Lê Hiếu
Đằng tiên bố bỏ đảng. Như vậy là bước khởi đầu. Bây giờ
xin bước tới bước nữa: Trả lại căn hộ và cái sổ hưu để dứt
khoát không dính dáng gì đến đảng nữa. Và từ rày về sau
không nói một tiếng nào với đảng và nhà nước cộng sản
nữa, nghĩa là chia tay dứt dạt chớ không còn cảnh “Dẫu lìa
ngó ý, còn vương tơ lòng.”
Tôi chỉ nêu một trường hợp đển hình. Nếu đông đảo
quí vị theo gương ấy, nhất là quí vị đang tại chức đồng loạt
từ chức, từ nhiệm thành phong t rào BẤT HỢP TÁC trên
toàn quốc thử xem bọn lãnh đạo cộng sản đối phó thế nào?
Vế thứ hai là BẤT TUÂN DÂN SỰ: Vụ nầy thì chính
quí vị không cần làm, bởi vì trong tay quí vị có một lực
lượng lớn vô địch: Đó là Sinh viên – thanh niên – học sinh.
Quí vị chỉ cần đem tất cả nghị lực và tấm lòng thanh
khẩn, với tư cách vừa là thầy học vừa là phụ huynh dẫn giải
cho em cháu nghe về tình thế ngặt nghèo của Đất nước, nếu
tất cả không liều thân hành động thì họa diệt tộc ngày càng
tới gần không bề cứu gở và chỉ cách thế cho giới trẻ vận
động tổ chức bất tuân dân sự trên toàn quốc. Sinh viên, học
sinh bãi khóa, kéo nhau đi vận động:
- Ở các đô thị lớn: Vận động doanh nhân không đóng
thuế doanh nghiệp, nghĩa là tuyệt lương bọn cầm quyền
trung ương, kể cả côn an, bộ đội.
- Ở vùng nông thôn: Vận động bà con nông dân không
đóng thuế ruộng đất, nghĩa là làm tê liệt bộ máy cai trị địa
phương, làng xã chỉ biết sống nhờ vào thuế ruộng đất như
là địa chủ ngày xưa thu địa tô.
- Phát động phong trào chạy xe hai bánh KHÔNG đội
mũ bảo hiểm, nghĩa là tuyệt đường các “anh hùng núp”,
cảnh sát giao thông không còn thu được tiền mãi lộ vừa gây
náo loạn trật tự đường phố khắp nơi.
( Bổ sung MỘT SỐ HÀNH ĐỘNG BẤT TUÂN DÂN
SỰ:
- Phong trào Nông dân CHỐNG CƯỞNG CHẾ cào
nhà cướp ruộng đất và ĐÒI QUYỀN SỞ HỮU RUỘNG
ĐẤT
- Phong trào Công nhân ĐÒI LƯƠNG BỔNG VÀ
QUYỀN ĐỘC LẬP NGHIỆP ĐOÀN
- Phong trào Tiểu thương ĐÒI CHỢ bị cưởng chiếm
- Phong trào Sinh viên Tốt nghiệp Đại học ĐÒI VIỆC
LÀM VÀ QUYỀN TỰ TRỊ ĐẠI HỌC )
- Phong trào chống sưu cao , thuế nặng, tiêu biểu như
chống trạm thu thế BOT
Tôi ở xa nhìn ngó c hỉ nêu lên vài ba trường hợp tiêu
biểu, còn như quí vị ở tại chỗ lại thêm kinh nghiệm làm
cách mạng đầy mình, chắc chắn còn nhiều chiêu ngoạn
mục mà quí vị đem ra thi thố thì các đồng chí cũ của quí vị
có khi bó t ay.com! Chỉ cầu mong quí vị vào lúc tuổi xế
chiều vùng lên lần cuối để nhìn thấy Đất nước thoát cơn
nguy biến vì đêm trường u minh cộng sản, thấy lại ánh
dương quang thì quí vị cũng chuộc lại được phần nào lỗi
lầm ngày cũ đã góp phần dựng lên chế độ phản nước, hại
dân hiện tại.
Nguyễn Nhơn
Mùa Thu Hy Vọng
19/10/2018
Chú thích:
(1), (2).Trích bài viết “Phục hồi Hiệp Định Paris 1973:
Hoang tưởng hay hiện thực?” của Nguyễn Quốc Khải.
Trích: " Ngày nay, khu vực nơi sông Bạch Đằng đổ vào
vịnh Bắc Bộ và vịnh Hạ Long ở miền bắc Việt Nam là nơi
ruộng lúa, làng mạc và ao cá xen kẽ lẫn nhau. Nhưng cách
đây 700 năm, trước khi những thế hệ nông dân đã thay đổi
địa hình ở đây, vùng này là bãi bùn ven biển trải dài hàng
chục cây số vuông, một vùng đất ngập nước thay đổi không
ngừng nơi dòng sông chảy tỏa vào những con suối ngoằn
ngoèo đầy trầm tích. Những hòn đảo hiện ra rồi biến mất
theo thủy triều, những bãi bồi chìm dưới cửa sông sâu, và
cả cồn cát và những dòng chảy mà tàu bè có thể đi lại được
đều không thể nào tin tưởng. Khu vực này thời đó dân cư
thưa thớt, nhưng sông Bạch Đằng là cửa ngõ vào trung
tâm quyền lực của Việt Nam. Sông Bạch Đằng là phụ lưu
của sông Hồng mà trải dài từ miền nam Trung Quốc đến
Vịnh Bắc Bộ. Theo sông Bạch Đằng đi vào nội địa độ 112
km, thuyền buôn - hay hải quân xâm lược - sẽ gặp kinh
thành Thăng Long, trung tâm triều đại nhà Trần của Việt
Nam.
Nhiều lần quân xâm lược đã theo sông Bạch Đằng đến
Thăng Long, cho nên trong suốt nhiều thế kỷ những nhà
lãnh đạo quân sự người Việt đã nghiên cứu các phụ lưu và
thủy triều mà thay đổi địa hình theo mỗi lần triều lên và
triều xuống. Kiến thức này là nền tảng cho chiến thuật
quân sự tiên tiến và đóng vai trò quyết định trong trận hỏa
công kỳ tích vào năm 1288 giữa lực lượng của tướng Việt
Nam Trần Hưng Đạo và đoàn chiến thuyền được hoàng đế
Trung Quốc đầy thế lực Hốt Tất Liệt đưa sang. Trận Bạch
Đằng đã làm cho địa hình đầm lầy sáng rực lên với lửa
cháy và thuyền chìm khắp nơi, và ban cho Trần Hưng Đạo
một vị trí danh dự trong lịch sử Việt Nam.
( Việt Nam chống lại Hốt Tất Liệt - Lauren Hilgers * Trần
Quốc Việt(Danlambao)dịch)
Hiện tại bọn phản quốc bán nước cầu vinh việt cọng
đang mưu toan xóa nhòa việc học Lịch sử Dân tộc để
chúng chuẩn bị thay thế việc học sử Việt sang học sử tàu
theo như cam kết trong mật ước Thành Đô và cũng để xóa
nhòa Tinh thần Dân tộc vì chúng lo sợ, một khi tinh thần
Dân tộc bất khuất chống tàu xâm lăng trổi dậy, toàn dân
Việt sẽ vùng lên quét sạch bọn mãi quốc cầu vinh việt cọng
ra khỏi cỏi bờ Đất Việt.
Để chống lại âm mưu xóa nhòa Lịch sử Dân tộc của
loài quỷ đỏ phản quốc, ta cổ võ toàn dân đọc Sử Việt.
Nhà Trần Ba Lần Đại Thắng Quân Nguyên
TRẦN THÁI TÔNG ĐẠI THẮNG
QUÂN MÔNG CỔ LẦN THỨ 1
Năm 1254, quân Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý, ở
vùng Vân Nam. Mông Cổ đương thời là đế quốc to lớn và
hùng mạnh nhất thế giới, chìếm đóng từ Á sang Âu.
Năm 1257, từ Vân Nam, tướng Ngột Lương Hợp Thai
Quan quân tuần tiễu… không cướp phá dân chúng, nên dân
Man gọi là giặc Bụt. Thực tế, quân Mông Cổ đánh Đại Việt
vào tháng 1, đúng vào lúc giữa mùa đông ở miền Bắc Việt
Nam, do vậy không thể có chuyện “khí hậu nóng nực nên
rút quân về” như Nguyên sử chép được.
TRẦN HƯNG ĐẠO
ĐẠI PHÁ QUÂN MÔNG LẦN THỨ 2
Năm 1279 , Nam Tống hoàn toàn bị Đại Nguyên thôn
tính. Tháng 8 năm này, hoàng đế nhà Nguyên là Hốt Tất
Liệt ra lệnh đóng thuyền chiến chuẩn bị đánh Đại Việt và
Nhật Bản. Nhà Nguyên chia làm 3 đạo tiến đánh Đại Việt.
Đạo chủ lực do Thoát Hoan và Ariq Qaya chỉ huy từ Ninh
Minh tiến vào Lộc Châu (nay là Lộc Bình, Lạng Sơn).
Ngày 27 tháng 1 năm 1285 (dương lịch), đạo quân này chia
làm 2 mũi tiến quân, một do Bolqadar chỉ huy theo đường
Khâu Ôn (nay là Ôn Châu, Lạng Sơn), một do Satartai và
Lý Bang Hiến chỉ huy đi theo đường núi Cấp Lĩnh (tức là
từ Lộc Bình đi Sơn Động ngày nay). Đại quân của Thoát
Hoan đi sau mũi thứ hai của Satartai và Lý Bang Hiến.
Chống lại đạo quân thứ nhất này của quân Nguyên là lực
lượng chủ lực của quân Trần do đích thân Trần Quốc Tuấn
chỉ huy.
Đạo thứ hai chỉ gồm hơn 1 nghìn quân Mông Cổ và
Vân Nam do Nasirud Din từ Vân Nam vào Đại Việt qua
vùng Tuyên Quang tiến theo sông Chảy. Vị chỉ huy quân
Trần ở vùng này làTrần Nhật Duật.
Đạo thứ ba là đạo quân đang chiến đấu ở Chiêm Thành
do Toa Đô chỉ huy, tiến vào Đại Việt muộn hơn hai cánh
trên, vào khoảng tháng 3 dương lịch, từ phía Nam.
Tháng 5 đầu tháng 6 năm 1285, nghĩa là khoảng 1 t háng
sau khi rút về Thanh Hóa để thoát khỏi gọng kìm của quân
Nguyên, quân Trần lại quyết định từ Thanh Hóa trở lại
miền Bắc phản công quân Nguyên. Quân Trần chia làm 2
cánh. Một cánh do T rần Quốc Tuấn chỉ huy quay trở lại
Vạn Kiếp khóa đường rút lui của địch. Một cánh doTrần
Quang Khải chỉ huy phản công dọc theo sông Hồng.
Trận Hàm Tử – Tây Kết
Để phòng thủ mặt phía Nam của thành Thăng Long,
quân Nguyên dựng 2 căn cứ liền kề nhau ở hai bờ sông
Hồng, một ở Hàm Tử Quan (cửa Hàm Tử – nay ở Khoái
Châu, Hưng Yên) và một ở Chương Dương Độ (bến
Chương Dương – nay ở Thượng Phúc, thuộc Thường Tín,
Hà Nội). Tháng 5, T rần Quang Khảidẫn quân tấn công
đồng thời 2 căn cứ này.
Toa Đô và Ô Mã Nhi ở Thanh Hoá, Nghệ An giao
chiến với quân Trần do Trần Quang Khải chỉ huy mấy lần
đều bị đẩy lui. Lương thực gần cạn, tới mùa hè nóng bức,
quân Nguyên không hợp thời tiết, hai tướng bèn bỏ ý định
truy tìm vua Trần mà vượt biển ra bắc để hội binh với
Thoát Hoan.
Trần Quang Khải thấy quân Nguyên rút ra bắc bèn báo
với vua Trần. Vua Trần cùng các tướng nhận định rằng:
Quân Nguyên nếu còn mạnh, ắt truy kích vua Trần từ hai
mặt nam bắc; nay cánh phía bắc không tới, cánh phía nam
rút đi tức là đã mỏi mệt. Nhà Trần xác định đây là thời cơ
phản công.
Trần Nhân Tông sai Trần Nhật Duật làm chánh tướng,
Chiêu Thành Vương và Trần Quốc Toản làm phó tướng đi
cùng với Nguyễn Khoái mang 5 vạn quân ra bắc đuổi đánh
Toa Đô. Trong quân Trần Nhật Duật có tướng người Trung
Quốc của nhà Tống cũ là Triệu Trung theo hàng.
Trần Nhật Duật gặp binh thuyền Toa Đô ở bến Hàm Tử,
bèn chia quân ra đánh. Hai bên chống nhau ác liệt. Toa Đô
đi đường xa, giao chiến lâu ngày đã mỏi mệt, trông thấy cờ
hiệu Tống của Triệu Trung, lo lắng tưởng rằng nhà Tống đã
khôi phục sang giúp Đại Việt. Nhóm quân người Hoa trong
hàng ngũ quân Trần đều muốn trả thù nên đánh rất hăng.
Trong khi đó quân Trần lại dùng k ế ly gián, bắn tên gắn
giấy sang bên quân Nguyên, nói rằng chỉ đánh người Thát
Đát chứ không đánh người Hoa. Điều đó khiến nhiều tướng
sĩ người Hoa trong quân Nguyên không t ận lực chiến đấu
hoặc trở giáo sang hàng quân Trần. Toa Đô bị thua to. Sau
khi thua trận ở Hàm Tử Quan, Toa Đô vẫn không biết rằng
Thoát Hoan đã tháo chạy. Cánh quân Toa Đô đóng ở sông
Thiên Mạc (đoạn sông Hồng ở Hưng Yên) và tìm cách liên
lạc với ông. Được ít ngày, Toa Đô biết tin quân Thoát Hoan
đã thất bại và rút chạy, bèn lui về Tây Kết (Khoái Châu).
Ngày 24 tháng 6 năm 1285, Trần Hưng Đạo trực tiếp chỉ
huy quân đánh Toa Đô. Toa Đô và Ô Mã Nhithua, bỏ
thuyền đi đường bộ ra phía biển. Trên đường chạy, Toa Đô
bị quân Đại Việt bao vây, sau cùng bị tướng Vũ Hải của
nhà Trần chém đầu. Ô Mã Nhithì chạy thoát về Thanh Hóa.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vua Trần Nhân Tông trông
thấy thủ cấp của Toa Đô thì cởi áo ngự phủ lên và nói
“người làm tôi phải nên như thế này” rồi sai người khâm
niệm tử tế.
Trận Chương Dương Độ
Trần Nhật Duật sai Trần Quốc Toản về Thanh Hoá báo
tin thắng trận. Trần Quốc Tuấn bàn với Trần Nhân Tông
quyết định mang toàn quân ra bắc đánh Thoát Hoan để lấy
lại Thăng Long. Trần Quang Khải ở Nghệ An mới ra được
cử làm chánh tướng, Phạm Ngũ Lão và Trần Quốc Toản
làm phó tướng; lại truyền lệnh cho Trần Nhật Duật phải
ngăn không cho Toa Đô hợp binh được với Thoát Hoan.
Đại quân Thoát Hoan đóng ở Thăng Long cũng trong tình
trạng lương thực sắp cạn, các ch iến thuyền đóng ở bến
Chương Dương.
Trần Quang Khải tiến ra bắc khá thuận lợi. Quân Trần
nhanh chóng diệt nhiều đồn nhỏ của quân Nguyên, kết hợp
dụ hàng quân người Hoa bỏ hàng ngũ quân Nguyên. Trong
khi đó thì Trần Nhật Duật cũng giữ lại số quân để cầm chân
Toa Đô, còn chia một số sang hợp với cánh quân Trần
Quang Khải. Nhiều toán quân Trần trước kia bị tản mát,
chưa tìm được vào Thanh Hoá, lúc đó gặp quân Trần
Quang Khải đã cùng gia nhập nên lực lượng càng mạnh
lên. Quân Trần chiếm được nhiều thuyền của địch ở bến đò.
Quân Trần tiếp tục ngược sông Hồng phản công quân
Nguyên. Trần Quang Khải cùng Phạm Ngũ Lão và Trần
Quốc Toản đã tấn công quân Nguyên ở Chương Dương
(huyện Thường Tín). Quân Nguyên thường thấy quân Trần
bị thua, khi đó thấy quân Trần đánh mạnh nên bị bất ngờ,
tan tác bỏ chạy. Phần lớn các chiến thuyền quân Nguyên bị
quân Trần đốt cháy hoặc chiếm.
Giải phóng Thăng Long
Sau các trận phản công thắng lợi trên sông Hồng, quân
Trần quyết định tấn công giải phóng kinh thành Thăng
Long. Lực lượng tham gia gồm các đơn vị thủy bộ chủ lực
do Trần Quang Khải chỉ huy. Các đơn vị dân binh các địa
phương lân cận do T rần Thông, Nguyễn Khả Lạp và
Nguyễn Truyền chỉ huy. Sau khi đánh bại đơn vị quân
Nguyên ngoài thành do Mã Vinh chỉ huy, quân Trần bắt đầu
bao vây và công thành.
Trước sức tấn công mạnh mẽ và bền bỉ của quân Trần,
quân Nguyên phải rút chạy khỏi thành Thăng Long về đóng
ở bờ Bắc sông Hồng (khoảng Gia Lâm ngày nay). Tại đây,
đồn trại của quân Nguyên vẫn liên tục bị tấn công.
Trận sông Thiên Mạc
Sau khi thua trận ở Hàm Tử Quan, Toa Đô vẫn không
biết rằng Thoát Hoan đã tháo chạy. Cánh quân Toa Đô đóng
ở sông Thiên Mạc và tìm cách liên lạc với Thoát Hoan.
Được ít ngày, Toa Đô biết tin quân Thoát Hoan đã thất bại
Dư tiêu diệt.
-Đợi mãi không thấy đoàn thuyền lương, 1-1288 Thoát
Hoan tiến xuống Thăng Long… nhưng bị động, hết lương
thực, tinh thần binh lính hoang mang tuyệt vọng
*Ý nghĩa trận Vân Đồn :Tạo thời cơ để nhà Trần mở
cuộc phản công tiêu diệt quân Nguyên.
Chiến thắng Bạch Đằng lịch sử 1288:
-Vua Trần và Trần Hưng Đạo, dự đoán quân giặc sẽ
rút quân qua cửa sông Bạch Đằng.
-Đầu tháng 4 /1288 Ô Mã Nhi có kỵ binh rút về nước
theo hướng sông Bạch Đằng.
-Khi nước triều lên ta cho thuyền nhẹ ra khiêu chiến
rội vờ thua chạy, dụ địch vào trận địa mai phục của ta.
-Khi nước rút, từ 2 bờ sông thuyền nhỏ của ta đổ ra đánh ,
bị đánh bất ngờ, giặc rút nhanh ra cửa biển, thuyền giặc
đâm vào bãi cọc nhọn, bị vỡ và đắm.Hoảng sợ, địch bỏ
chạy lên bờ bị quân ta tiêu diệt, Ô M ã Nhi bị bắt.
-Trận Bạch Đằng kết thúc thắng lợi. Cùng lúc này Thoát
Hoan phải liều mạng rút chạy về nước.
*Ý nghĩa: tiêu diệt ý đồ xâm lược Đại Việt của quân
Nguyên ,quân Nguyên từ bỏ mộng xâm lược Đại Việt.
Ý nghĩa lịch sử của ba lần kháng chiến chống Mông –
Nguyên:
-Đập tan ý chí xâm lược của quân thù , bảo vệ độc lập ,
chủ quyến toàn vẹn lãnh thổ.
-Nâng cao lòng tự hào, tự cường của dân tộc, củng cố
niềm tin cho nhân dân.
-Xây dựng khối đoàn kết toàn dân.
-Kế hoạch bành trướng xuống phương Nam và Đông
Nam Á bị phá tan.
Đọc lại lịch sử oai hùng của giống nòi Đại Việt hùng
cường Lạc Long. Vững tin vào truyền thống bất khuất của
nòi giống Tiên Rồng
Quyết vùng dậy tận diệt sói lang Lê Chiêu Thống việt cọng
Đưa Dân - Nước qua cơn lầm than. Chấm dứt đêm trường
u minh cọng sản. Khai mở Vận Hội Mới cho dân Việt . Xây
dựng lại giang sơn gấm vóc của Tổ tiên
Tiếng Mẹ Ru
Từ bốn ngàn năm trước
Trên đất Lĩnh Nam
Mẹ Âu Cơ cất lời ru
Con ơi nhớ lấy lời nầy
Ta là giống Rồng Tiên
Dân Lạc Việt trồng “ Lúa nước “
Bên bờ Trường giang Dương Tử
Trôi giạt tới nơi đây
Cũng có khi
“ Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau”
Đó là những gái hiếu thuận
Lại có những nàng thôn nữ
Con cháu Hồ Xuân Hương
Thuộc loại “ gái ngoan”
“ Không chồng có chửa mới ngoan
Có chồng có chửa thế gian sự thường “
Khăn gói theo người yêu
“ Ra đi là sự đánh liều
Mưa mai nào biết nắng chiều nào hay “
Vì yêu nên phải sao cũng chịu
“ Một mai thiếp quyết theo chàng
Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam “
Tiếng mẹ Âu Cơ ru hờ
Từ bốn ngàn năm trước
Nay vẫn còn vẳng đưa
Nguyễn Nhơn
(Đực Làng Bưng Cầu Xứ Thủ Miền Đông )
Cây Tre
Từ thuở gom làng dựng quê hương ta tới nay, tre luôn
là loài gần gũi nhất đối với mỗi người. Tre chính là hồn
dân tộc Việt hiên ngang, b ất khuất. Gần gũi là thế nhưng
không hẳn ai cũng biết, người bạn thân thuộc này cũng
“đơm hoa kết trái” như những loài thực vật khác. ( Hoa
Tre - Kiều Thảo )
Lũy Tre Làng Việt Nam
Thân tặng
Nhóm Đồng Tre Xanh
Nguyễn Nhơn
Phụ đính
Hoa Tre.
Kiều Thảo
Từ thuở gom làng dựng quê hương ta tới nay, tre luôn
là loài gần gũi nhất đối với mỗi người. Tre chính là hồn
dân tộc Việt hiên ngang, bất khuất. Gần gũi là thế nhưng
không hẳn ai cũng biết, người bạn thân thuộc này cũng
“đơm hoa kết trái” như những loài thực vật khác.
Tre là loài mạnh mẽ. Mặc dù hiện tại ở Việt Nam, tre
chỉ còn phổ biến ở vùng nông thôn, đồi núi, nhưng chúng
cũng phân bố ở rất nhiều nơi trên thế giới. Tre có tới 1.200
loài, với tốc độ sinh trưởng vào hàng nhanh nhất trong số
các loài thực vật thân thảo. Chỉ cần khoảng 5 năm, tre đã
đạt được kích thước lớn trong khi loài khác cần ít nhất hàng
chục năm.
Tuy nhiên, trái với tốc độ lớn nhanh như thổi, loài tre
cần tới khoảng thời gian dài (khoảng 60- 100 năm) mới
bước vào giai đoạn “đơm hoa kết trái”. Khi bước vào tuổi
60, loài tre mới ra những nụ hoa đầu tiên. Nụ tre trông rất
giống những búp măng. Những nụ hoa toát lên vẻ đẹp bình
dị, thấy được sự ngay thẳng trong đó.
Quá trình tre ra hoa ấp ủ một thời gian dài, bằng cả
một đời người, nên rất ít người có cơ duyên chiêm ngưỡng.
Hoa tre có cả sự hiên ngang vốn có, lại có thêm nét dịu
dàng, mỏng manh của hoa. Tre hiên ngang, bất khuất, ngay
cả những mắt tre cằn cỗi cũng nở ra những chùm hoa đẹp
đẽ nữa.Giống như sự kỳ lạ 60 năm mới nở, sau khi ra hoa
kết trái, tre lụi tàn dần. Cả một đời cây chắt chiu sức lực để
đi đến cái kết cuộc đời. Hoa tre thường nở thành chùm, có
màu vàng nhạt. Dẫu vậy, màu sắc của hoa tre sẽ thay đổi
tùy theo từng loài. Là thành quả cả đời, hoa tre không đẹp
chói lóa mà lại nhẹ nhàng, hiền dịu.
Tre là loài đoàn kết, cả một cụm tre sẽ cùng trổ hoa
trong một thời điểm. Khi đã chín muồi, hoa tre kết quả, tạo
thành quả tre ( cơm tre). Từ khi là búp măng non cho tới
khi trưởng thành, mạnh mẽ mà lớn lên ngay thẳng, cả một
đời tre không hổ thẹn, so sánh như bậc Quân tử. Cuối chu
kỳ sự sống, đem hết tinh túy gởi vào hoa, vào trái, chỉ
mong một lần rực rỡ huy hoàng rồi hạnh phúc mà lụi tàn,
để lớp khác mọc lên. Tre già măng mọc là thế !
Hiện nay, tre ngày càng ít, ở nơi thành thị càng hiếm
hoi hơn, việc có cơ duyên tận mắt thấy hoa tre là xa vời.
Thiên nhiên rộng lớn, còn rất nhiều vẻ đẹp cần con người
khám phá. Theo chân anhchonloc.com để chiêm ngưỡng
từng bức ảnh thiên nhiên nhé.
https://anhchonloc.com/ngam-anh-hoa-tre-hiem-gap/
Nguyễn Nhơn
trẻ ngày nay, nếu muốn đưa Đất nước tiến lên PHẢI LIỀU
THÂN GIẢI TRỪ TOÀN TRỊ VIỆT CỌNG. Đó là điều
kiện TIÊN QUYẾT để dựng lên một nền DÂN CHỦ -
DÂN TỘC - NHÂN BẢN làm nền tảng cho công cuộc phát
triển Nước Việt ngày nay.
Giao thừa, Ước mơ Nước Việt Khiêm hòa Nhân ái
Giao thừa trên đất Mỹ, không hương trầm hoa quả, nhớ
về quê mẹ ngày xưa. Ngày xưa, tình làng nghĩa xóm ấm
êm, ngày nay không c òn nữa. Đạo lý, cương thường lạc
mất tiêu. Chỉ biết tranh giành, chụp giựt cầu sống!
Nhớ tiếc về hai nền Việt Nam Cộng Hòa non trẻ hăm
hở thực thi dân chủ hướng về một thể chế mang bản sắc
Dân tộc.
Lời mở đầu Hiến Pháp Đệ nhất VNCH lẫm liệt viết:
" Tin tưởng ở tương lai huy hoàng bất diệt của Quốc
gia và Dân tộc Việt Nam mà lịch sử tranh đấu oai hùng của
tổ tiên và ý chí quật cường của toàn dân đảm bảo;
Tin tưởng ở sự trường tồn của nền văn minh Việt Nam, căn
cứ trên nền tảng duy linh mà toàn dân đều có nhiệm vụ
phát huy;
Tin tưởng ở giá trị siêu việt của con người mà sự phát
triển tự do, điều hòa và đầy đủ trong cương vị cá nhân
cũng như trong đời sống tập thể phải là mục đích của mọi
hoạt động Quốc gia;"
Đây là nét bản sắc dân tộc: Việt có nghĩa là vượt. Vượt
lên trên là siêu việt. Mục đích của mọi hoạt động Quốc gia
phải là hoàn thiện tính siêu việt của giống nòi Lạc Việt.
Những ngày cận tháng tư đen tối, khi giặc cọng áp sát
chân thành, hàng môn đệ Quốc gia Hành chánh còn tụ họp
nhau luận bàn về " Pháp trị hay Đức trị? " - " Phụ mẫu chi
dân hay Dân chi phụ mẫu?" Hồi đó, gã chức việc trẻ còn
bận chạy đôn chạy đáo, vừa lo việc an ninh vừa lo nuôi
ăn trên hai vạn đồng bào nơi " Trung tâm Khẩn hoang - Lập
Ấp " Thái Thiện, một vùng đât cheo leo giáp ranh hai tinh
Biên Hòa - Bà Rịa nên không về dự được.
Ví như mà gã chức việc gốc nhà quê xứ Thủ mà về dự
được thì chỉ xin vắn tắt dôi lời:
- Pháp trị thi nghiêm ngặt, gò bó.
- Đức trị thì cao xa, miên viễn.
Chi bắng ta chọn giải pháp trung dung:
NHÂN TRỊ có Lý có Tình.
Lấy con người làm trung tâm bản vị:
Đầu đội Trời - Chân đạp Đất
" Đất nứt Ta ra Trời chuyển động
Ta thay Trời vỡ Đất rộng mênh mong
Trời - Đất in Ta đầy đủ Hóa công "
Đó là theo đạo lý Tam Tài
Trần Cao Vân
Còn như theo đạo lý Tề gia - Trị quốc - Ức Trai Nguyễn
Trãi thì:
- Trong gia tề gia, thực thi nhân đức:
" Thấy người hoạn nạn thì thương,
Thấy người tàn tật lại càng trông nom,
Thấy người già yếu ốm mòn,
Thuốc thang cứu giúp, cháo cơm đỡ đần.
Trời nào phụ kẻ có nhân,
Người mà có đức, muôn phần vinh hoa.
( Nguyễn Trãi gia huấn )
- Bên ngoài " hán ngụy " nhắm mắt để cho chệt khựa thực
thi sách lược " Tàm thực " gặm nhấm biển đảo, đất đai, phá
hoại văn hóa, ngôn ngữ, biến nước Việt thành đất phụ dung,
đồng hóa dân Việt.
Trước họa mất nước, diệt tộc nhãn tiền, những ai còn
chút lòng thao thức vì vận nước, hãy mạnh dạn kêu lên
tiếng báo nguy, hô hà o, cổ võ cuộc vận động cách mạng
giải trừ chế độ phản nước, hại dân việt cọng để mở đường
cho công cuộc phục hồi đạo lý dân tộc, tái thiết xã hội Việt
vươn lên giá trị siêu việt của giống nòi Lạc Việt. Tha thiết
ước mong một mùa Xuân mới trên Đất Việt mến yêu.
Nguyễn Nhơn
( Đêm trừ tịch Xuân Mậu Tuất )
2018
Sinh Tử Phù
LỜI DẪN
Nguyễn Nhơn
Viết lại Mùa Hè Tranh Đấu
13/7/2019
Xí Bùm Bum
Cướp
Lừa
Tháng Tư Đen
Ôm Lò Tự Sát
Thấm Đòn
Người Da Lợn
(*) Giải phóng tập hai hay giải phóng cấp hai
là cách trẻ em Miền Nam nhại giọng bờ cờ để
chỉ vào việc quốc gia trở lại đánh đổ hán ngụy
việt cọng, giải thoát quê hương.
ĐỐT CỜ ĐỎ
DỰNG CỜ VÀNG