PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
Tạp chí
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM
ISSN 0866 - 7551
CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG CỦA HỘI PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM
(TRONG TỔNG HỘI Y DƯỢC HỌC VIỆT NAM)
Tòa soạn:
Văn phòng Trung ương Hội Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực Việt Nam
Trung tâm Tim mạch Bệnh viện E
Số 87-89, Trần Cung, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
ĐT: 84.4.37480360
Fax: 84.4.37480361
Email: actsvn@vnn.vn
Website: http://www.phauthuattim.org.vn
Tổng Biên tập:
PGS.TS. Lê Ngọc Thành
Phó Tổng Biên tập: PGS.TS. Nguyễn Hữu Ước
PGS.TS. Đỗ Kim Quế
PGS.TS. Trần Quyết Tiến
PGS.TS.Nguyễn Trường Giang
Thư ký Tòa soạn:
TS. Nguyễn Hoàng Định
TS. Đặng Hanh Sơn
Ths. Nguyễn Minh Trí
Ths. Đoàn Đức Hoằng
Ths. Trần Thúc Khang
Ths. Ngô Vi Hải
Ths. Nguyễn Lý Thịnh Trường
Ths. Phạm Hữu Lư
Ths. Nguyễn Công Hựu
Ths. Đỗ Anh Tiến
Ths. Nguyễn Trần Thuỷ
Ban Biên tập:
GS.TS. Bùi Đức Phú
GS. Đặng Hanh Đệ
PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng
PGS.TS. Phạm Thọ Tuấn Anh
PGS.TS. Nguyễn Trường Giang
PGS.TS. Nguyễn Hoài Nam
TS. Phan Kim Phương
TS. Nguyễn Văn Phan
TS. Đoàn Quốc Hưng
TS. Dương Đức Hùng
TS. Nguyễn Sinh Hiền
TS. Lê Quang Thứu
TS. Trần Hoài Ân
TS. Nguyễn Lương Tấn
Ban Trị sự:
ThS. Nguyễn Đỗ Hùng
KS. Đào Văn Minh
CN Bùi Thị Diệp
Giấy phép xuất bản số: 07/GP-BTTTT Cấp ngày 04 tháng 01 năm 2012
1
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
TẠP CHÍ PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM
SỐ 09 - THÁNG 8/2014
--------o0o--------
1
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VIÊM PHỔI LIÊN QUAN ĐẾN THỞ MÁY TẠI KHOA HỒI
SỨC CẤP CỨU BVĐK ĐỨC GIANG
Phạm Thị Ngọc Oanh
2
ĐÁNH GIÁ CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ VẾT THƯƠNG TIM TẠI BỆNH VIỆN NHÂN
DÂN 115 TRONG 10 NĂM (7/2004 -7/2014)
Cao Văn Thịnh, Đồng Đức Hưng, Trịnh Trung Tiến
3
28
PHẪU THUẬT ĐÓNG ĐƯỜNG RÒ CỦA ĐỘNG MẠCH VÀNH PHẢI VÀO THẤT TRÁI
Nguyễn Công Hựu, Đặng Quang Huy, Lê Ngọc Thành
7
26
PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ U TUYẾN ỨC TẠI BỆNH
VIỆN VIỆT ĐỨC
Phạm Hữu Lư, Ngô Gia Khánh, Nguyễn Hữu Ước, Cao Thị Anh Đào
6
18
KỸ THUẬT MỔ THAY VAN HAI LÁ CƠ HỌC GIỮ LẠI TOÀN BỘ LÁ SAU CHO
BỆNH NHÂN THẤP TIM
Nguyễn Hoàng Hà
5
10
CHIẾN LƯỢC CHẨN ĐOÁN LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG THUYÊN TẮC TĨNH
MẠCH SÂU
Trần Minh Bảo Luân, Nguyễn Hoài Nam
4
3
34
BÓC NỘI MẠC MẠCH VÀNH TRONG PHẪU THUẬT BẮC CẦU CHỦ VÀNH CÓ
MẠCH THƯƠNG TỔN XƠ VỮA NẶNG: GIẢI PHÁP CHO VIỆC TÁI TƯỚI MÁU
TOÀN BỘ?
Nguyễn Công Hựu ,Ngô Thành Hưng, Ngu100
Lê Ngọc Thành
8
GÂY MÊ KHÔNG CHẠY MÁY TIM PHỔI NGOÀI CƠ THỂ CHO PHẪU THUẬT
GLENN: BÁO CÁO MỘT TRƯỜNG HỢP
Vũ Xuân Quang, Nguyễn Trần Thuỷ, Lê Ngọc Thành
9
46
KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHẪU THUẬT BẮC CẦU TẠI CHỖ TRONG TẮC ĐỘNG MẠCH
MẠN CHI DƯỚI BẰNG TĨNH MẠCH HIỂN CÓ NỘI SOI PHÁ VAN TẠI BVND 115
Cao Văn Thịnh và CS
2
41
50
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VIÊM PHỔI LIÊN QUAN ĐẾN THỞ MÁY TẠI KHOA HỒI SỨC CẤP CỨU…
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VIÊM PHỔI LIÊN QUAN ĐẾN THỞ MÁY
TẠI KHOA HỒI SỨC CẤP CỨU BVĐK ĐỨC GIANG
Phạm Thị Ngọc Oanh*
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tóm tắt
Viêm phổi bệnh viện, đặc biệt là viêm phổi có
liên quan đến thở máy (VAP), là biến chứng
thường gặp ở các bệnh nhân tại khoa điều trị tích
cực, làm kéo dài thời gian nằm viện cũng như làm
tăng nguy cơ tử vong trên các bệnh nhân nặng.
Nghiên cứu này nhằm đánh giá thực trạng viêm
phổi liên quan đến thở máy và đặc điểm vi sinh
của các loại vi khuẩn hay gặp tại đây, mức độ
nhạy và kháng kháng sinh của các chủng vi khuẩn
phân lập được, có so sánh với các nghiên cứu
trong nước và khu vực. Kết quả: 92 cas NKQ và
thở máy, có 26 cas VAP, chiếm 28,3%. Tuổi trung
bình cao: 74,23 ± 12,45. Trong 26 cas có VAP, tỷ
lệ nhiễm một loại VK: 38,5%, nhiễm 2 loại VK:
26,9%, nhiễm 3 loại VK: 15,4%, không tìm thấy
VK: 18,2%.. Không có sự khác biệt về tỷ lệ gặp
các chủng VK giữa 2 nhóm có VAP sớm và muộn,
với p>0,05. Các chủng VK phân lập được lần lượt
là: Aci. Baumannii (24,5%), Klebsiella pneumonia
(9,8%), Ps.aeruginosa (8,4%), Staphylococcus
aureus (3,5%), E. Coli (2,8%), Enterrococus
(1,4%), VK gram âm khác (4,9%). Tỷ lệ đa kháng
kháng sinh của Aci. Baumannii đứng đầu, từ 88%
trở lên, có loại KS bị kháng 100%. tiếp đến
Ps.aeruginosa, xấp xỉ 70 %, thức ba: Klebsiella
pneumonia xấp xỉ 60%. Tỷ lệ dùng KS theo kinh
nghiệm không phù hợp với kháng sinh đồ chiếm
57,7%, phù hợp là 42,3%. Kết luận: Viêm phổi
liên quan đến thử máy chiếm tỷ lệ 28,3%. Các loại
vi khuẩn hay gặp là Aci. Baumannii (24,5%),
Klebsiella pneumonia (9,8%), Ps.aeruginosa
(8,4%), Staphylococcus aureus (3,5%), E. Coli
(2,8%), Enterrococus (1,4%), VK gram âm khác
(4,9%). Tỷ lệ kháng kháng sinh cao, từ 60 % trở
lên, có loại lên đến 100%
Từ khóa: Viêm phổi liên quan đến thở máy (VAP Ventilator - associated pneumonia), vi khuẩn đa
kháng kháng sinh.
Nhiễm khuẩn bệnh viện đang là mối quan tâm đặc
biệt của nền y tế toàn cầu. Trên thế giới mỗi năm có
khoảng 1,4 triệu bệnh nhân mắc nhiễm khuẩn liên
quan đến chăm sóc y tế. Trong đó điều đáng nói là
những nhiễm khuẩn gặp trong các khu vực bệnh nhân
nặng, được chăm sóc đặc biệt như ở đơn vị ICU. Các
chủng vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện có đặc
điểm là đề kháng kháng sinh cao, đặc biệt có chủng đa
kháng hoặc toàn kháng, gây khó khăn hoặc thất bại
trong điều trị, làm tăng tỷ lệ tử vong, kéo dài thời gian
nằm viện, tăng chi phí y tế. Tỷ lệ bệnh nhân viêm phổi
liên quan đến thở máy cũng khá cao theo các tác giả
trên thế giới cũng như ở trong nước. [2][4][7][8][10].
Không nằm ngoài tình hình chung đó, tại khoa HSCC
BV ĐK Đức Giang gặp ngày càng nhiều cas viêm
phổi liên quan đến thở máy, với tỷ lệ gặp các chủng vi
khuẩn đa kháng kháng sinh ngày càng cao. *
Nhằm góp phần giảm thiểu tỷ lệ viêm phổi liên
quan đến thở máy, và chuẩn hóa việc dùng kháng sinh
theo đặc điểm vi sinh của cơ sở, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu này nhằm hai mục tiêu cụ thể sau đây:
1. Đánh giá thực trạng viêm phổi liên quan thở máy
tại khoa Hồi sức cấp cứu
2. Nhận xét tình hình các chủng Vi khuẩn gây
viêm phổi liên quan đến thở máy và sự đề kháng
kháng sinh của các chủng vi khuẩn đó.
II. ĐỐI TƯỢNG
NGHIÊN CỨU
VÀ
PHƯƠNG
PHÁP
2.1. Đối tượng nghiên cứu
92 bệnh nhân được đặt ống nội khí quản và thở
máy, trong đó 26 cas viêm phổi liên quan đến thở máy
Khoa Hồi sức Cấp cứu Bệnh viện Đa khoa Đức Giang
Người chịu trách nhiệm khoa học: Phạm Thị Ngọc Oanh
Ngày nhận bài: 10/08/2014 - Ngày Cho Phép Đăng: 26/10/2014
Phản Biện Khoa học: GS.TS. Đặng Hanh Đệ
PGS.TS. Lê Ngọc Thành
* *
3
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
- Các bệnh nhân được thông khí nhân tạo xâm
nhập với thời gian thở máy ≥ 48h
- Không bị nhiễm khuẩn hô hấp từ trước khi vào
viện hoặc có nhiễm khuẩn hô hấp nhưng đã được điều
trị ổn định
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ:
- Bệnh nhân có thời gian thở máy < 48h
- Có tình trạng nhiễm khuẩn từ trước khi vào viện
chưa kiểm soát được
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang có so sánh
và theo dõi dọc
- Xử lý số liệu theo phần mềm SPSS 16.0. Kết
quả có ý nghĩa khi p < 0,05.
2.3. Công cụ nghiên cứu
2.3.1. Tiêu chuẩn lâm sàng chẩn đoán viêm
phổi liên quan đến thở máy [5]:
¾ Tồn tại đám thâm nhiễm mới trên phim X
quang ngực
¾ Kèm theo ít nhất 2 trong số các dấu hiệu sau:
Nhiệt độ trên 38,3oC hoặc dưới 35oC,
Bạch cầu tăng (trên 10 000/mm3) hoặc giảm
(dưới 4000/mm3)
Thay đổi tính chất đờm mủ.
Các dấu hiệu này xuất hiện ít nhất 48 giờ sau khi
đặt nội khí quản, bắt đầu thông khí nhân tạo và dưới
48 giờ sau khi ngừng thông khí nhân tạo.
2.3.2. Một số khái niệm
- VAP sớm khi thời gian TKNT trước VAP ≤ 5 ngày
- VAP muộn khi thời gian TKNT > 5 ngày.
- Vi khuẩn gram âm đa kháng: các vi khuẩn gram
âm đề kháng với trên 1 nhóm kháng sinh theo kết quả
KSĐ.
- Vi khuẩn có nguy cơ cao bao gồm các vi khuẩn
gram âm đa kháng và tụ cầu kháng methicillin.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thực trạng viêm phổi liên quan thở máy
Tổng số cas NKQ, thở máy: 92, trong đó VAP:
26. Tỉ lệ VAP: 28,3%
Bảng 3.1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu:
ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN
Tuổi (trung bình, cao nhất, thấp nhất)
Giới (nam/nữ)
Nhóm VAP
Nhóm không VAP
%; X ± SD
% ; X ±SD
74,23 ± 12,45
70,15 ± 16,15
14/12
41/25
p
> 0,05
VAP ngày thứ (trung bình) sau thở máy
5,65 ± 2,08
Min – Max: 3 - 11
Thời gian VAP
Sớm
4,46 ± 0,66
Min – Max: 3 – 5
Muộn
8,5 ± 2,8
Min – Max: 6 – 11
21 (80,8)
19 (28,8)
Cấy đờm dương tính n (%)
CRP trung bình
Albumin huyết tương g/l, trung bình
94,1 ± 74
44,03 ± 33,17
< 0,05
30,25 ± 6,27
31,16 ± 5,28
> 0,05
Nhận xét: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về CRP trung bình giữa hai nhóm có và không
có VAP, với p<0,05
4
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VIÊM PHỔI LIÊN QUAN ĐẾN THỞ MÁY TẠI KHOA HỒI SỨC CẤP CỨU…
Bảng 3.2. Phân bố triệu chứng VAP
Triệu chứng
Số bệnh nhân
Tỉ lệ %
1
25
4
96
Số lượng bạch cầu
Giảm BC < 4G/l
Tăng BC > 10G/l
1
25
4
96
Xquang phổi:
Xẹp phổi
Viêm phổi thùy
Thâm nhiễm 1 bên
Thâm nhiễm 2 bên
2
2
13
9
7.7
7.7
50
34.6
Nhiệt độ
< 35oC
> 38,5oC
Nhận xét: Hầu hết các bệnh nhân có VAP đều có sốt cao > 38,5oC, chiếm 96%. Tương tự như
vậy có 96% bệnh nhân có tăng BC > 10 G/l. Một nửa số bệnh nhân có thâm nhiễm một bên phổi trên
phim chụp XQ phổi thẳng, chiếm 50%.
Bảng 3.3. Phân bố bệnh nhân theo bệnh chính
STT
Bệnh
n
%
1
Bệnh về hô hấp
41
44,6
2
Bệnh về thần kinh
32
34,8
3
Bệnh tim mạch
2
2,2
4
Bệnh khác
16
17,4
92
100
Tổng
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân có bệnh về hô hấp là lớn nhất (44,6%). Đứng thứ hai là bệnh về
thần kinh (34,8 %), Các bệnh về tim mạch chiếm tỷ lệ thấp nhất (2,2%)
3.2. Tình hình các chủng Vi khuẩn gây viêm phổi liên quan đến thở máy và sự đề kháng
kháng sinh của các chủng vi khuẩn đó.
Bảng 3.4. Tỉ lệ mẫu đờm nuôi cấy vi khuẩndương tính:
Nhóm VAP
Số BN = 26
Nhóm không VAP
Số BN = 66
Chung
Số BN = 92
Nuôi cấy âm tính (n,%)
5 (19,2%)
47 (71,2%)
52 (56,5%)
Nuôi cấy dương tính (n,%)
21 (80,8%)
19(28,8%)
40(43,5%)
Đặc điểm
Nhận xét: Tỷ lệ không thấy VK qua nuôi cấy trên 2 nhóm bệnh nhân là 56,5%, trong đó chiếm tỷ lệ
cao là nhóm không VAP (71,2% )
5
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
Bảng 3.5. Về số lượng vi khuẩn trên mỗi bệnh nhân:
Đặc điểm
VAP
Số BN = 26
không VAP
Số BN = 66
Chung
Số BN = 92
Thấy 1 loại VK (n,%)
10 (38,5%)
3
13 (14,1%)
Thấy 2 loại VK (n,%)
7 (26,9%)
8
15 (16,3)
Thấy 3 loại VK (n,%)
4 (15,4%)
8
12 (13,0%)
Nhận xét: nhóm VAP tỷ lệ thấy một loại VK lớn nhất, thấy 3 loại VK nhỏ nhất.
Bảng 3.6. Các loại vi khuẩn định danh được: Tổng số mẫu : 143 mẫu đờm
Nhóm VAP
Số mẫu = 55
Nhóm không VAP
Số mẫu = 88
Tổng
n= 143
Aci. Baumannii
16 (29,0%)
19 (21,6%)
35 (24,5%)
Ps.aeruginosa
8 (14,5%)
4 (4,5%)
12 (8,4%)
Klebsiella pneumonia
2 (3,6%)
12 (13,6%)
14 (9,8%)
Staphylococcus aureus
1 (0,2%)
4 (4,5%)
5 (3,5%)
Enterrococus
1 (0,2%)
1(1,1%)
2 (1,4%)
E. Coli
3 (5,5%)
1 (1,1%)
4 (2,8%)
Vi trùng gram âm khác
5 (0,9%)
2 (2,3%)
7 (4,9%)
19 (34,5%)
45 (51,1%)
64 (44,8%)
55
88
143 (100%)
Tên vi khuẩn
Âm tính
Tổng số mẫu
p
p > 0,05
Nhận xét: Trong tổng số 143 mẫu đờm được nuôi cấy, có 64 mẫu âm tính, chiếm tỷ lệ 44,8%. Còn
lại 79 mẫu dương tính chiếm 55,2%. Trong số 79 mẫu dương tính, tỷ lệ VK Aci. Baumannii chiếm tỷ lệ cao
nhất (24,5%), tiếp đến là Klebsiella pneumonia (9,8%), và VK Ps.aeruginosa (8,4%).
Bảng 3.7. Vi khuẩn giữa nhóm VAP sớm và VAP muộn: Tổng số mẫu: 36
VAP sớm
Số BN = 13
VAP muộn
Số BN = 13
Aci. Baumannii
8
8
Ps.Aeruginosa
7
1
Klebsiella pneumonia
1
1
Staphylococcus aureus
1
0
Enterrococus
0
1
E. Coli
1
2
Khác
2
5
20
16
TÊN VI KHUẨN
Tổng cộng
p
p > 0,05
Nhận xét: Trong nhóm VAP, tỷ lệ VK định danh được ở 2 nhóm VAP sớm và VAP muộn có
sự khác biệt giữa các loại VK, ngoại trừ giống nhau ở loại VK Aci.Baumannii
6
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VIÊM PHỔI LIÊN QUAN ĐẾN THỞ MÁY TẠI KHOA HỒI SỨC CẤP CỨU…
Bảng 3.9. Mức độ kháng KS của một số VK hay gặp
Aci. Baumanni i(%)
Tên Kháng sinh
Amikacin
Gentamycin
Cefotaxim
Ceftriaxone
Ceftazidim
Cefepim
Imipenem
Meronem
Levofloxacin
Ciprofloxacin
Doxycillin
TMZ
Piperacilin/Tozabactam
Ampicillin/ Sulbactam
Amoxicilin/ Clavulanic
P. Aeruginosa (%) K. Pneumoniae (%)
84,8
94,1
78,9
93,5
97,1
89,6
80
71,4
75
96,5
85,7
92,8
94,1
71,4
100
50
52,9
50
69
57,9
58,3
18,7
0
41,7
47,1
100
0
9,1
50
66,7
23,5
45,4
36,4
47,6
43,5
52,2
0
75
27,3
36,4
0
53,8
25
100
61,1
Nhận xét : Acinetorbacter Baumannii là loại vi khuẩn có mức độ đề kháng kháng sinh cao
nhất, đa kháng kháng sinh.
Biểu đồ 6. Đánh giá sử dụng kháng sinh theo kinh nghiệm so với KSĐ trong nhóm VAP :
Nhận xét: Tỷ lệ dùng KS theo kinh nghiệm không phù hợpvới kháng sinh đồ chiếm 57,7%.
Trong khi tỷ lệ phù hợp chỉ là 42,3%.
Bảng 3.10. So sánh kết quả điều trị viêm phổi giữa 2 nhóm có và không có VAP
Kết quả
VAP
Không VAP
Khỏi : số BN (tỉ lệ %)
9 (34,6%)
25 (37,9%)
Bỏ điều trị : số BN (tỉ lệ %)
9 (34,6%)
22 (33,3%)
Nặng xin về: số BN (tỉ lệ %)
8 (30,8)
19 (28,7%)
P
p > 0,05
7
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
IV. BÀN LUẬN
4.1. Về các đặc điểm chung
- Có 92 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu,
trong đó có 26 bệnh nhân VAP, chiếm tỷ lệ 28,3%. Tỷ
lệ này thấp hơn so với nghiên cứu của tác giả Trần
Hữu Thông và cs tại BV Bạch Mai ( 38,9% ) [5].
- Tuổi trung bình nhóm VAP là 74,23 ± 12,45, NC
của Trần Hữu Thông và Cs: tuổi trung bình là 56,1 ±
23,7. Như vậy độ tuổi trung bình của bệnh nhân trong
nghiên cứu này cao hơn rõ rệt. Có thể điều này liên
quan đến bệnh nền của bệnh nhân trong nghiên cứu
này là những bệnh mạn tính của người già ở giai đoạn
cuối, trong khi bệnh nền của bệnh nhân trong nghiên
cứu của tác giả Trần Hữu Thông lại là những bệnh
nặng từ các tuyến chuyển tới, trong đó có những bệnh
gặp ở lứa tuổi còn trẻ [5].
- Trong số bệnh nhân có VAP, tỷ lệ xuất hiện
VAP sớm là 13, chiếm tỷ lệ 13/92 (14,1%), tương
tự như vậy tỷ lệ VAP muộn cũng chiếm 13/92
(14,1%). So sánh với nghiên cứu của tác giả Trần
Hữu Thông và cs cho thấy: Số bệnh nhân bị viêm
phổi sớm liên quan thở máy là 12/77, chiếm 15,6%;
bệnh nhân viêm phổi muộn là 18/77, chiếm 23,4%.
Như vậy trong nghiên cứu này, tỷ lệ VAP sớm
tương tự, nhưng tỷ lệ VAP muộn thấp hơn so với
NC của Trần Hữu Thông [5].
4.2. Loại vi khuẩn liên quan đến thở máy
Trong nghiên cứu này, loại Vi khuẩn gây viêm
phổi bệnh viện hay gặp nhất là Aci. Baumannii chiếm
29% , tiếp theo là Ps. Aeruginosa 14,5%, đứng thứ ba
là E.Coli chiếm 5,5 %, tiếp là Klebsiella Pneumonia
chiếm 3,6%, thấp nhất là Staphylococus Aureus và
Enterrococus đều chiếm 0,2%. Kết quả này có sự
tương đồng với kết quả nghiên cứu của Trần Hữu
Thông và cs. [5].
Theo tác giả Đoàn Mai Phương (BV Bạch Mai),
Phân bố các loại VK phân lập được từ đường hô hấp
tại BV Bạch mai lần lượt là: Aci. Baumannii chiếm
29,8%
[3],
Klebsiella
pneumoniae
21,5%,
Pseudomonas aeruginosa 18,5%...Như vậy các chủng
VK hay gặp nhất vẫn là 3 chủng có tên trên, hầu hết
các nghiên cứu đều chỉ ra rằng tỷ lệ gặp các VK trên
là lớn nhất, trong đó đặc biệt chú ý đến vị trí đứng đầu
8
của Acinetobacter. Đây cũng là loại VK nguy hiểm vì
tính đa kháng thuốc của nó, làm gia tăng tỷ lệ bệnh
nặng, tỷ lệ tử vong và chi phí điều trị.
4.3. Tỷ lệ đề kháng kháng sinh của VK liên quan
đến VAP
- Theo nghiên cứu này, có tới 80% mẫu đờm có
VK Acinetorbacter Baumonnii đa kháng (Kháng toàn
bộ các loại KS có trong danh sách khảo sát). 25% VK
Ps. Aeruginosa đa kháng.
Theo tác giả Trần Hữu Thông và Cs, Đối với
Acinetobacter: đề kháng cao nhất đối với kháng
sinh ceftazidime và Ciprofloxacin (75%), chỉ có
Colistin hoàn toàn không bị kháng. Đối với
Pseudomonas aeruginosa: đề kháng cao nhất đối
với
kháng
sinh
Ampicillin+sulbactam và
Amikacin [5]
4.4. Về việc sử dụng kháng sinh ban đầu
Theo kết quả tại biểu đồ 6.: Đối chiếu việc sử
dụng kháng sinh theo kinh nghiệm với thực tế nuôi
cấy định danh VK và kháng sinh đồ cho thấy: Việc
dùng KS theo kinh nghiệm chỉ phù hợp với kết quả
KSĐ với tỷ lệ 42,3%, còn lại 57,7% là dùng KS
không phù hợp với KSĐ. Điều này giải thích vì sao
kết quả điều trị còn nhiều hạn chế, việc đề kháng KS
của VK càng gia tăng.
V. KẾT LUẬN
5.1. Thực trạng viêm phổi liên quan thở máy tại khoa
Hồi sức cấp cứu
- Có 26/92 cas thở máy có VAP, chiếm 28,3%.
- Tuổi trung bình cao: 74,23 ± 12,45.
5.2. Đặc điểm vi sinh và sự đề kháng kháng sinh
- Trong nhóm VAP, tỷ lệ nhiễm một loại VK là
cao nhất 38,5%, nhiễm 2 loại VK là 26,9%, nhiễm 3
loại VK là 15,4%, không tìm thấy VK 18,2%.
- Không có sự khác biệt về tỷ lệ gặp các chủng
VK giữa 2 nhóm có VAP sớm và muộn, với p>0,05.
- Các chủng VK phân lập được chiếm tỷ lệ cao
nhất lần lượt là: Aci. Baumannii (24,5%), Klebsiella
pneumonia
(9,8%),
Ps.aeruginosa
(8,4%),
Staphylococcus aureus (3,5%), E. Coli (2,8%),
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VIÊM PHỔI LIÊN QUAN ĐẾN THỞ MÁY TẠI KHOA HỒI SỨC CẤP CỨU…
Enterrococus (1,4%). Ngoài ra còn gặp các VK gram âm
khác (4,9%).
bệnh nhân chấn thương sọ não phải thở máy”, Tạp chí
Y học thực hành 6/2004, pp 10-15
- Tỷ lệ đa kháng kháng sinh của Aci. Baumannii
đứng đầu, với các tỷ lệ kháng các loại kháng sinh từ 88%
trở lên, có loại KS kháng 100%. Đứng thứ hai là
Ps.aeruginosa, xấp xỉ 70 %, đứng thức ba là Klebsiella
pneumonia xấp xỉ 60%.
4. Phạm Đức Mục, Nguyễn Việt Hùng và
cộng sự (2008) “Nhiễm khuẩn bệnh viện và các yếu
tố liên quan tại 19 bệnh viện của Việt Nam năm
2005”, Tạp chí Y học lâm sàng số 6/2008, pp26-31
- Tỷ lệ dùng KS theo kinh nghiệm không phù
hợpvới kháng sinh đồ chiếm 57,7%. Trong khi tỷ lệ
phù hợp chỉ là 42,3%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Quốc Anh, Ngô Quí Châu (2011),
“Viêm phổi liên quan đến thở máy”, Hướng dẫn chẩn
đoán và điều trị nội khoa, 2011, pp. 12-14
2. Bộ Y tế (2013), Hướng dẫn chẩn đoán và điều
trị viêm phổi mắc phải ở bệnh viện, viêm phổi liên
quan đến thở máy, viêm phổi liên quan đến chăm sóc
y tế”, NXB Y học 2013, pp. 18-20
3. Trịnh Văn Đồng, Chu Mạnh Khoa (2004),
“Nghiên cứu về vi khuẩn gây nhiễm khuẩn hô hấp ở
5. Trần Hữu Thông, Nguyễn Đạt Anh,
Đặng Quốc Tuấn, “Căn nguyên gây viêm phổi
liên quan thở máy tại khoa Cấp cứu và Hồi sức
tích cực bệnh viện Bạch Mai”, Tạp chí Nghiên cứu
Y học 80 (3) – 2012
6. Phạm Hồng Trường (2009), “Nghiên cứu
một số đặc điểm lâm sang, cận lâm sàng và kết quả
điều trị bệnh nhân viêm phổi liên quan đến thở máy”,
Luận văn tốt nghiệp bác sĩ chuyên khoa cấp II, Học
viện Quân Y 2009, pp 55-57
7. Nguyễn Hồng Sơn; Nguyễn Đức Thành
(2012). “Vai trò của xét nghiệm cận lâm sàng trong
chẩn đoán Viêm phổi liên quan đến thở máy”, Tạp chí
Y học Quân sự số 18 – 2012
9
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
ĐÁNH GIÁ CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ VẾT THƯƠNG TIM
TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN 115 TRONG 10 NĂM (7/2004 -7/2014)
Cao Văn Thịnh*, Đồng Đức Hưng*, Trịnh Trung Tiến*
TÓM TẮT
Tổng quan và đặt vấn đề: Vết thương tim (VTT)
là một cấp cứu ngoại khoa tương đối ít gặp. Nguyên
nhân có thể do hỏa khí hay bạch khí. Nguy cơ tử vong
ngoại viện cao do tình trạng mất máu cấp. Việc chẩn
đoán sớm và phẫu thuật kịp thời sẽ tăng khả năng cứu
sống người bệnh.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá chẩn đoán và
điều trị VTT tại BV Nhân Dân 115 trong khoảng thời
gian 10 năm (7/2004-7/2014).
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt
ngang, hồi cứu các trường hợp lâm sàng. Nhóm các
bệnh nhân có VTT được mô tả các đặc điểm về dịch tễ
học; Nhận định quá trình chẩn đoán VTT và cách xử
trí các tổn thương giải phẫu; Đánh giá kết quả điều trị
qua phân tích các trường hợp phẫu thuật thành công,
hoặc có biến chứng hay tử vong.
Kết quả: Trong thời gian 10 năm qua (7/2004 7/2014), tại BVND 115 đã có 50 trường hợp bệnh
nhân có VTT, tuổi trung bình 20 ± 3.3 với 96% nam
giới. Nguyên nhân đều do vật sắc nhọn gây ra. Vị trí
vết thương trên thành ngực hầu hết nằm ở vùng nguy
cơ. Hội chứng chèn ép tim cấp gặp 72%, sốc mất máu
30%. Thương tổn thất phải (52%), thất trái (30%).
Điều trị ngoại khoa may VTT có hiệu quả tốt 78%.
Biến chứng 8%. Tử vong 14%.
Bàn luận và Kết luận: Tại BVND 115 TP.HCM,
số lượng bệnh nhân có VTT gặp khoảng 5 trường hợp
/năm; nguyên nhân chủ yếu từ vật sắc nhọn và do tai
nạn sinh hoạt gây ra. Bệnh nhân nam, trẻ tuổi chiếm
hầu hết các trường hợp. Chẩn đoán VTT dựa nhiều
vào lâm sàng và các phương tiện chẩn đoán có tính
hiệu quả cao như siêu âm tim, CT scan ngực, chọc dò
màng ngoài tim. Xu hướng xử trí chung là giảm tối đa
thời gian chẩn đoán, tránh mất máu cấp. Tỷ lệ các
bệnh nhân có hội chứng chèn ép tim cao. Điều trị
phẫu thuật có hiệu quả. Tử vong 14% chủ yếu do tổn
thương giải phẫu nặng, thời gian từ khi xảy ra tai nạn
tới lúc phẫu thuật kéo dài hoặc kèm nhiều tổn thương
phối hợp.
10
EVALUATION OF DIAGNOSIS AND
TREATMENT OF CARDIAC WOUNDS
AT THE PEOPLE HOSPITAL 115
FOR 10 YEARS (7/2004-7/2014)
Cao Van Thinh, Dong Duc Hung
Trinh Trung Tien
SUMMARY
Introduction: Cardiac wounds are surgical
emergency, which is relatively uncommon. Their
causes may be gunshot or stab wounds. The risk of
death before admitted to hospital is high because of
bleeding. Early diagnosis and timely surgical
intervention will save lives.
Objectives: Evaluation of diagnosis and treatment
of cardiac wound at Hospital 115 for 10 years
(7/2004-7/2014).
Methods: Cross-sectional and retrospective
clinical study. Cardiac wound patients have be
described the epidemiological characteristics,
identified the diagnostic process, treatment and
evaluation the results of surgical treatment with
successful surgical cases as well as complications or
deaths. *
Results: For 10 years (7/2004 - 7/2014), at
Hospital 115, 50 cases of patients with cardicac
wounds were treament. The mean age 20 ± 3.3 with
96% of men. Causes of wounds are sharp objects.
Most of wound locations on the chest are on the risk
area. The syndrome of cardiac tamponade occur 72%,
hemorrhagic shock 30%. Damage at right ventricle is
52% and left ventricle 30%). Treatment of suturing
wounds had good result (78%), complications (8%)
and mortality 14%.
*
Khoa ngoại Lồng ngực – Mạch máu Bệnh viện Nhân Dân
115 TP.HCM.
Người chịu trách nhiệm khoa học: PGS.TS Cao Văn Thịnh
Ngày nhận bài: 10/08/2014 - Ngày Cho Phép Đăng: 26/10/2014
Phản Biện Khoa học: GS.TS. Đặng Hanh Đệ
PGS.TS. Lê Ngọc Thành
ĐÁNH GIÁ CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ VẾT THƯƠNG TIM TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN 115…
Discussion and conclusion: At Hospital 115,
every year has around 5 cardiac wound cases caused
by sharp objects and happened in the daily activities.
Most of patients were men and young. Diagnosis
based on clinical examination and high efficiency
technology as echocardiography, chest CT scan,
pericardiocentesis. The general trend was to minimize
diagnostic time and avoid of bleeding. The proportion
of patients with cardiac tamponade was high. Surgical
treatment was more effectively. Mortality 14% mainly
due to severe injuries, combined injuries or the time
from the accident to surgery was extended.
……………………………………………………
………………………………..
*Department of Thoracic and Vascular Surgery,
People Hospital 115, HCM City.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vết thương tim (VTT) là một loại cấp cứu ngọai
khoa nặng, có thể gặp ở tất cả các các cơ sở ngọai
khoa. Có tới 50% số Bn có VTT chết trước khi nhập
viện, ngay cả những trường hợp nhập viện và được
phẫu thuật thì tỷ lệ tử vong cũng chiếm khoảng 23%,
chưa kể tới các biến chứng khác sau mổ [1],[2].
Tỷ lệ gặp VTT rất khác nhau ở từng nơi, từng lúc
như tại Bv Chợ rẫy TP.HCM năm 1987 chỉ gặp 01
trường hợp có VTT, nhưng năm 1991 lại gặp 18
trường hợp. Tại Bv Nhân dân gia định TP.HCM vào
lúc cao điểm đã gặp 02 bệnh nhân có vết thương tim
nhập viện trong cùng một ngày [4].
Nguyên nhân chính gây ra VTT thường là vật
sắc nhọn và chủ yếu do đả thương [2],[4],[10]. Với
các tổn thương tim do hỏa khí luôn có tỷ lệ biến
chứng và tử vong cao hơn khoảng hai lần tổn
thương tim do bạch khí. Gần đây còn xuất hiện các
trường hợp VTT ít gặp sau thực hiện các thủ thuật
can thiệp như chụp buồng tim, thông tim,chụp mạch
vành, nong van .. hay các trường hợp vết thương
tim do mảnh gẫy xương sườn. Tuy nhiên với các
trường hợp này thường được phát hiện sớm và xử
trí có hiệu quả [7], [9].
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, chẩn đoán
VTT không quá khó nhưng để cứu sống được người
bệnh còn phụ thuộc nhiều vào mức độ tổn thương
giải phẫu, lượng máu mất cấp … thời gian người
bệnh kịp đến bệnh viện và hiệu quả của công tác hồi
sức, phẫu thuật kịp thời…[4],[8]. Cho tới nay đã có
nhiều các nghiên cứu về VTT ở các khía cạnh. Tuy
nhiên trong mỗi hoàn cảnh cụ thể của từng cơ sở y
tế và ở các giai đoạn phát triển khác nhau mà việc
chẩn đoán và điều trị VTT lại có nét khác nhau
[5],[9]. Mục tiêu chung trong chẩn đoán và xử lý
VTT vẫn là tăng khả năng cứu sống người bệnh
càng nhiều càng tốt.
Bệnh viện Nhân dân (BVND) 115 TP.HCM là
một bệnh viện đa khoa loại I của TP.HCM, với
nhiều chuyên khoa đầu ngành, trong đó khoa phẫu
thuật Lồng ngực - Mạch máu đã được thành lập từ
năm 2009 trên cơ sở đơn vị Lồng ngực Mạch máu
hình thành năm 2004. Đơn vị/Khoa đã tiếp nhận và
điều trị một số các bệnh nhân (Bn) có VTT. Tuy
thời gian chưa nhiều và số lượng Bn còn hạn chế so
với một số trung tâm ngoại khoa khác trong cả
nước, nhưng việc phối hợp chặt chẽ giữa bộ phận
tiếp nhận cấp cứu, gây mê hồi sức, và nhiều khoa
phòng khác cứu chữa các Bn có VTT đã đạt được
những kết quả nhất định. Mặc dù vậy với loại hình
tổn thương tại tim rất đặc biệt và nguy cơ biến
chứng cũng như tử vong luôn cao thì việc tổng kết,
nhìn lại kết quả chẩn đoán, điều trị VTT sau 10 năm
hoạt động chắc hẳn sẽ đóng góp hữu ích cho sự tiến
bộ và cơ hội cứu sống người bệnh VTT ngày một
cao hơn. Dựa vào những lý luận và thực tiễn như
trên chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu đề tài này với
các mục tiêu cụ thể gồm:
1- Mô tả một số đặc điểm dịch tễ học nhóm bệnh
nhân trong nghiên cứu.
2- Đánh giá việc chẩn đoán VTT trong cấp cứu
ngoại khoa tại BVND 115.
3- Đánh giá kết quả điều trị VTT tại BVND 115
từ tháng 7/2004 đến 7/2014.
II. ĐỐI TƯỢNG
NGHIÊN CỨU
VÀ
PHƯƠNG
PHÁP
2.1. Đối tượng nghiên cứu: gồm tất cả các trường
hợp VTT được chẩn đoán và điều trị tại BVND 115
trong khoảng từ tháng 7/2004 đến tháng 7/2014.
11
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
*Tiêu chuẩn chọn bệnh:
- Bn được chẩn đoán xác định VTT dựa vào
lâm sàng, cận lâm sàng, chẩn đoán phân biệt và kết
quả phẫu thuật cấp cứu hoặc phẫu thuật tử thi (với
Bn tử vong).
- Bn đã được các Bác sĩ chuyên khoa thăm khám,
ghi chép hồ sơ bệnh án chi tiết, hoàn tất các xét
nghiệm liên quan.
*Tiêu chuẩn loại trừ:
- Các trường hợp không đủ tiêu chuẩn chọn bệnh.
- Bn đã tử vong trước phẫu thuật, mặc dù qua
thăm khám, khai thác bệnh sử có nghĩ tới trường hợp
VTT nhưng lại không mổ tử thi xác định tổn thương.
2.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Kết quả phẫu thuật ở các mức độ (tốt, trung bình
và xấu); Có phân tích với các trường hợp tử vong
trước và sau phẫu thuật.
Trong nghiên cứu thống nhất đánh giá kết quả
điều trị theo các mức độ:
+ Kết quả tốt khi bệnh nhân VTT phục hồi gần
như hoàn toàn sau phẫu thuật khâu vết thương, bệnh
nhân tái khám sau xuất viện 01 tháng, 06 tháng được
ghi nhận có hồi phục sức khỏe.
+ Kết quả trung bình khi các bệnh nhân có những
vấn đề phải xử lý lại sau phẫu thuật may VTT cấp cứu
như chảy máu sau mổ, nhiễm trùng sau mổ.., tuy
nhiên sau xuất viện sức khỏe bệnh nhân dần phục hồi.
*Thiết kế nghiên cứu
+ Biến chứng nặng và tử vong.
- Nghiên cứu mô tả cắt ngang,
Vùng nguy cơ VTT nằm ở “tứ giác nguy hiểm”:
- Hồi cứu các trường hợp lâm sàng.
*Các biến số nghiên cứu
Đặc điểm của các bệnh nhân VTT về lâm sàng và
cận lâm sàng
- Tuổi, giới (độ tuổi, tuổi trung bình và sự chệnh
lệch về giới tính).
- Vị trí vết thương trên thành ngực và ở tim.
- Xác định những tác nhân gây thương tích.
- Đặc điểm lâm sàng: tình trạng sốc mất máu,
chèn ép tim cấp.., của Bn.
- Kết quả các xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh:
công thức máu, Hct, ECG, Xquang ngực không chuẩn
bị, siêu âm tim và CT scanner ngực ...
Phẫu thuật cấp cứu
- Thời gian từ lúc tổn thương đến khi phẫu thuật
và thời gian phẫu thuật.
- Vị trí mở ngực, các đặc điểm đại thể về tổn
thương VTT.
- Phương pháp xử trí VTT và các tổn thương đi
kèm trong mổ (nếu có)
Phương pháp đánh giá bệnh nhân
- Vị trí vết thương trên thành ngực.
12
- Các tổn thương giải phẫu tại tim cùng các cơ
quan lân cận.
Chính là vùng giới hạn bởi đường ngang qua
sụn sườn 2, đường dọc giữa đòn phải, đường ngang
qua 1/3 trên khoảng rốn với mũi ức và đường nách
trước trái.
* Trình bày và xử lý số liệu
- Kết quả được phân tích theo phần mềm
SPSS 13.0
- Trình bày dưới dạng các bảng, biểu có nhận xét
và phân tích.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm của nhóm các bệnh nhân trong
nghiên cứu
Từ tháng 7/2004 đến 7/2014, nhóm nghiên cứu tập
hợp được 50 Bn có VTT.
Như vậy, tính trung bình mỗi năm có khoảng 5
trường hợp vết thương tim được chẩn đoán và điều trị
tại BVND 115, Tp.HCM.
*Phân bố bệnh nhân theo tuổi và giới:
- Nghiên cứu có 50 Bn gồm : 48 Bn nam, 02 Bn
nữ. Tỉ lệ nữ/nam = 1/24
- Tuổi trung bình trong nghiên cứu là 20 ± 3.3
tuổi, nhỏ nhất 17, lớn nhất 56 tuổi.
ĐÁNH GIÁ CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ VẾT THƯƠNG TIM TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN 115…
*Bảng 1: Phân bố vị trí tổn thương trên thành ngực của Bn có VTT
Đặc điểm tổn thương
-
-
Số bệnh nhân (N=50)
Tỷ lệ %
Bên phải
38
76.0
Bên trái
12
24.0
Bạch khí sắc nhọn
50
100.0
Tổng
50
100%
Vị trí bên ngực
Tác nhân gây tổn
thương VTT
Vị trí tổn thương trên thành ngực bên phải gặp nhiều hơn bên trái, tất cả các trường hợp có vết thương
ngoài da đều nằm trong vùng nguy cơ vết thương tim.
Tác nhân gây thương tích chủ yếu do bạch khí (dao, kéo hoặc vật sắc nhọn …).
*Bảng 2: Đặc điểm lâm sàng của các bệnh nhân VTT
Lâm sàng
Số bệnh nhân
Tỷ lệ %
Hội chứng chèn ép tim cấp
37
72.0
Tĩnh mạch cổ nổi
34
68.0
Huyết áp tụt
28
56.0
Tiếng tim nghe mờ
25
50.0
Dấu Kussmaul (TM cổ dãn khi hít vào)
22
44.0
Hội chứng sốc mất máu
15
30.0
Dấu hiệu chèn ép tim chiếm tỷ lệ cao nhất 72% so với các dấu hiệu lâm sàng khác ở các trường hợp
bệnh nhân có VTT.
*Bảng 3: Kết quả xét nghiệm chẩn đoán VTT
Số Bn được
Thực hiện
(N=50)
Xác định
Chẩn đoán
Tỷ lệ %
X quang ngực đơn thuần
32
8
21.8
ECG
32
9
28.1
Siêu âm tim
36
36
100.0
CT scanner
17
17
100.0
Chọc dò màng tim
8
8
100.0
Kỹ thuật chẩn đoán
Các kỹ thuật chẩn đoán VTT thường được áp dụng và cho kết quả khả quan gồm siêu âm tim, CT
scanner và chọc dò màng ngoài tim.
13
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
3.2. Kết quả phẫu thuật
*Thời gian trước phẫu thuật: Các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu đều được tiếp nhận tại khoa cấp
cứu. Ghi nhận:
- Thời gian từ lúc bệnh nhân bị tai nạn (theo Bn khai thời điểm bị vết thương ngực) cho đến khi nhập
viện trong khoảng 60 ± 25 phút.
- Thời gian từ lúc bệnh nhân nhập viện tới khi được phẫu thuật là 30 ± 15 phút.
- Thời gian phẫu thuật để cứu sống bệnh nhân VTT trung bình là 45± 24 phút.
*Bảng 4: Vị trí đường mở ngực trong điều trị VTT
Phương pháp mổ
Số bệnh nhân**
Tỷ lệ %
Mở ngực trước bên T
29
59.2
Mở ngực trước bên P
9
18.4
Mở dọc xương ức
6
12.2
Mở ngực P ngang xương ức
5
10.2
49
100%
Tổng
** Có 1 trường hợp bệnh nhân tử vong trước phẫu thuật nhưng có mổ tử thi xác định tổn thương.
*Bảng 5: Hình thái tổn thương tại tim của Bn có VTT
Hình thái tổn thương
Số bệnh nhân
Tỷ lệ %
Vết thương gây thủng tâm thất (P)
26
52.0
Vết thương gây thủng tâm thất (T)
15
30.0
Vết thương gây thủng tâm nhĩ (T)
4
08.0
Vết thương gây rách cơ thất (T)
5
10.0
50
100%
Tổng
Vết thương tâm thất phải chiếm trên một nửa các trường hợp Bn có VTT.
*Bảng 6: Đặc điểm tổn thương VTT (đơn thuần hay phối hợp)
Đặc điểm tổn thương
Số bệnh nhân
Tỷ lệ %
Tổn thương cơ tim đơn thuần
36
78.0
Vết thương động mạch vành
10
18.8
Thủng vách liên thất
4
03.2
50
100%
Tổng
Bn VTT tổn thương đơn thuần (một phần hay xuyên thấu) chiếm tỷ lệ cao 78%
14
ĐÁNH GIÁ CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ VẾT THƯƠNG TIM TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN 115…
*Bảng 7: Tổn thương phối hợp với các cơ quan khác ở Bn có VTT
Tổn thương phối hợp
Số bệnh nhân
Tỷ lệ %
Vết thương động mạch ngực trong
5
10
Tổn thương động mạch liên sườn
7
14
Rách phổi
18
36
Vết thương ngực bụng
4
08
Không tổn thương phối hợp
16
32
50
100%
Tổng
Như vậy đã có 32/50 (64%) Bn có các tổn thương phối hợp đi kèm với VTT và 36% số Bn còn lại chỉ
có VTT đơn thuần.
3.3. Đánh giá kết quả điều trị VTT
Bảng 8: Kết quả điều trị VTT
Kết quả phẫu thuật VTT
Số Bn
Tỷ lệ %
Bệnh nhân ổn sau mổ
39
78
Tử vong sau mổ
Tử vong trước mổ
6
1
12
02
Phẫu thuật lại cầm máu thành ngực
2
04
P/thuật lại cầm máu tăng cường VTT
2
04
50
100%
Tổng
Các trường hợp mổ lại (04Bn) đều cho kết quả tốt. Tử vong tính chung là 14%
IV. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm chung của nhóm các Bn có VTT
đều do dao và vật sắc nhọn. Trái lại, ở các nước Âu,
Mỹ [3],[5],[7],[9] tác nhân gây VTT do hỏa khí và
bạch khí có tỷ lệ gần như ngang nhau.
Bn có VTT phần lớn gặp ở nam giới, trẻ tuổi: kết
qủa nghiên cứu cho thấy chỉ gặp 02 Bn nữ trong tổng
số 50 Bn, và nhóm tuổi trung bình khoảng 20 ± 3.3,
đây là nhóm tuổi lao động chính. Kết quả phù hợp với
những nghiên cứu khác, đặc biệt nhóm tác giả trong
nước [4],[6],[8],10]. Một nghiên cứu tại TP.HCM gặp
VTT ở độ tuổi trung bình 24, và đa số là nam giới,
chiếm 93.2% [6]. Liên hệ với các nghiên cứu về chấn
thương như vết thương ngực, ngực bụng, mạch máu ...
thì VTT cùng nhóm tổn thương do sinh hoạt liên quan
với tình hình an ninh xã hội tại thời điểm.
Một vấn đề có liên quan đến thời gian Bn được sơ
cấp cứu, tính từ khi xảy ra tai nạn, theo kết quả nghiên
cứu là 60 ± 25 phút. Qua khảo sát cho thấy các Bn có
VTT đều xảy ra tai nạn ở trong vùng nội và ngoại
thành thành phố. Ngày nay, với hệ thống các trung
tâm y tế bao phủ khắp thành phố đã phần nào giảm
nhẹ các nguy mất máu do mất thời gian vận chuyển,
chờ đợi. Với 07 Bn tử vong (bảng 8) đã có 06 Bn nặng
do mất máu nặng vì tổn thương trầm trọng và thời
gian tới được bệnh viện kéo dài nhất.
Tác nhân gây VTT chủ yếu do vật sắc nhọn (bảng
1). Theo Nguyễn Công Minh [6], tác nhân gây VTT
Vị trí vết thương ở thành ngực (bảng 1 và 5) ghi
nhận đa số các Bn có vết thương nằm ở vùng trước
15
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
tim, vùng nguy cơ. Ngoài ra có gặp 01 Bn có vết
thương ở vùng lưng trái và 02 bệnh nhân có vết
thương ở hạ sườn trái. Khi so sánh vị trí vết thương ở
ngoài da và tổn thương thực thể trong tim nhận thấy
các vết thương của tâm thất (T) và tâm nhĩ (T) đều có
ngõ vào ở thành ngực (T). Vị trí tổn thương tâm thất
(P) có ngõ vào ở thành ngực (P) và ngực (T) hay sát
bờ xương ức (T).
4.2. Chẩn đoán VTT trong cấp cứu ngoại khoa
Về lâm sàng (bảng 2) Bn nhập viện phần lớn có
hội chứng chèn ép tim cấp và được nhập viện khá sớm
kể từ khi xảy ra tai nạn. Theo nhiều chuyên gia
[7],[8],[9] đa số Bn VTT khi đến bệnh viện đều có
xuất hiện hội chứng chèn ép tim cấp, với đặc điểm bất
lợi là cản trở sự co bóp của cơ tim trong quá trình tống
máu ra ngoại biên và thu nhận máu từ tĩnh mạch về
tim. Tuy nhiên cũng chính nhờ hội chứng chèn ép tim
cấp lại giúp tránh phần nào tình trạng mất máu cấp
tính thường diễn ra một cách nhanh chóng dẫn tới
nguy cơ Bn tử vong tức thì. Các trường hợp Bn VTT
có hội chứng chèn ép tim cấp thường gặp các vết
thương có kích thước nhỏ, vừa phải, do vậy mà cục
máu đông dể dàng bít kín lổ thủng giúp “cầm máu tạm
thời”. Với các trường hợp có hội chứng chèn ép tim
cấp trong nghiên cứu đã được kíp trực tiến hành chọc
giải áp khoang màng tim (bảng 3). Khác với hội
chứng chèn ép tim cấp, hội chứng sốc mất máu cấp
thường làm Bn tử vong trước khi vào tới viện hoặc
trước khi được phẫu thuật. Theo Rodrigues [9], với 70
Bn có VTT thì có 12 Bn (17%) tử vong do sốc mất
máu. Theo bảng 8, tỷ lệ tử vong chiếm 14% thấp hơn
một số tác giả, có thể do tác nhân gây VTT chủ yếu do
bạch khí. Trong đó có 01 Bn tử vong trước khi được
phẫu thuật. Một số tác giả có gặp VTT do hỏa khí cho
rằng trong trường hợp này tổn thương tim thường rất
nặng nề hay kèm với tổn thương mạch máu lớn và tổn
thương trên hai buồng tim.
Về các xét nghiệm cận lâm sàng trong chẩn đoán
VTT: Theo Asensio [1] khi Bn nhập viện với chẩn
đoán lâm sàng “theo dõi vết thương tim” thì có lẽ các
xét nghiệm cận lâm sàng không còn cần thiết thực hiện
thêm mà tốt nhất Bn nên được phẫu thuật cấp cứu để
giải quyết thương tổn nghi ngờ. Các cận lâm sàng có ý
nghĩa trong chẩn đoán VTT chủ yếu là siêu âm tim và
CT scanner, trên hình ảnh có thể ghi nhận vị trí thoát
thuốc cản quang trên CT ngực hay có tràn dịch màng
16
ngoài tim, giảm động bất thường của cơ tim trên siêu
âm tim cấp cứu. Về giá trị chẩn đoán, các tác giả
[3],[5],[7],http://icvts.oxfordjournals.org/search?a
uthor1=Zeena+Makhija&sortspec=date&submit=
Submit[9] cho rằng ngay cả CT scan ngực và siêu âm
tim đều có độ nhạy cao phát hiện tràn máu màng ngoài
tim trong VTT, các cận lâm sàng khác như Xquang
phổi, ECG có độ nhạy chỉ khoảng 10% – 54% [9] giúp
trong chẩn đoán gián tiếp VTT. Chọc dò màng tim
thông thường được thực hiện sau khi siêu âm tim ghi
nhận có dấu hiệu chèn ép tim cấp. So với các tác giả,
việc chẩn đoán VTT trong nghiên cứu dựa trên các xét
nghiệm cận lâm sàng cũng khá tương đồng.
4.3. Kết quả xử trí VTT
Hình thái tổn thương và phương pháp phẫu thuật
VTT: Theo bảng 5,6 và 7, tổn thương tâm thất (P)
chiếm tỷ lệ cao, trong đó có đặc điểm nhiều trường
hợp thủng thất (P). Tuy nhiên, sự khác biệt giữa tỷ lệ
vết thương các buồng tim không có khác biệt. Theo
Milo Velinovi [5] nhận định, tổn thương trong VTT
chủ yếu ở thất (P) sau đó là thất (T) đến nhĩ (T), như
vậy cũng tương tự như kết quả nghiên cứu này.
Vị trí mở ngực khâu lổ thủng VTT thường tương
ứng với vị trí vết thương. Ở những vết thương gần bờ
(P) xương ức, các tác giả chủ động mở ngực (T) thám
sát sau đó nếu cần sẽ cắt ngang xương ức thám sát thất
(P) hoặc mở dọc xương ức (bảng 4). Trong khi phẫu
thuật đã sử dụng chỉ Prolene 4.0 hay 3.0 có hay không
có miếng độn để khâu cơ tim với nguyên tắc khâu mũi
chữ U cầm máu chổ thủng, tránh khâu vào mạch vành.
Với các tổn thương có kích thước < 1.5cm, việc khâu
vết thương tương đối thuận lợi khi các cục máu đông
còn bít tạm lổ thủng. Trong nghiên cứu gặp 01 trường
họp lổ thủng thất (P) kích thước lớn khoảng 3.0cm
khó cầm máu và dễ bị xé cơ trong lúc khâu, phải tiến
hành cắt một phần màng ngoài tim khâu tăng cường
để cứu sống bệnh nhân.
Xử trí các tổn thương phối hợp: Nguyên tắc xử trí
VTT trước tiên phải khâu cầm máu được vết thương
kết hợp hồi sức trong khi mổ, các tổn thương phối hợp
(nếu có) sẽ xử lý tiếp sau. Trong đó tổn thương rách
phổi thường chiếm tỉ lệ cao nhất trong nhóm tổn
thương phối hợp (bảng 7), như vậy sau khi xử trí vết
thương tim cần tiến hành khâu lại phần phổi rách và
dẫn lưu màng phổi. Các tổn thương khác như thủng,
rách động mạch liên sườn, động mạch vú trong cũng
ĐÁNH GIÁ CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ VẾT THƯƠNG TIM TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN 115…
cần được khâu cột cầm máu ở 2 đầu tận. Tổn thương
ngực bụng trong VTT (nếu có) sẽ được phẫu thuật
viên chuyên khoa ngoại bụng xử trí [3],[4]. Trong
nghiên cứu việc xử trí tổn thương ở 10 trường hợp có
vết thương động mạch vành phối hợp mới chỉ dừng ở
mức độ khâu thắt cầm máu cứu sống bệnh nhân mà
chưa tiến hành phục hồi lưu thông động mạch đứt
bằng khâu nối.
Kết quả điều trị VTT tại BVND 115: nghiên cứu
cho thấy đã có 78% Bn ổn định sau phẫu thuật và
được xuất viện sau khi kiểm tra lại bằng siêu âm, đánh
giá chức năng co bóp các buồng tim. So với Huguet
[3], tỷ lệ tử vong trong nghiên cứu thấp hơn (bảng 8)
có thể do tổn thương tại tim của các Bn có tính đơn
thuần hơn. Về nguyên tắc các tổn thương tim do bạch
khí thường gọn, không tàn phá nhiều so với hỏa khí.
Một số nghiên cứu khác [9] ghi nhận, các bệnh nhân
VTT khi đã được đưa đến cơ sở y tế điều trị phẫu
thuật thì tỷ lệ sống đạt tới 90% nếu như không có tổn
thương các động mạch lớn trong trung thất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1-
Asensio J.A et al (2001), “Cardiac trauma”.
Trauma 3 ; pp. 69 – 77
2-
Đặng Hanh Đệ, Dương Đức Hùng, Đòan Quốc
Hưng và Cs (2001), Phẫu thuật cấp cứu tim mạch
và lồng ngực, Nhà xuất bản y học, Tr 78-92
3-
Huguet M., Tobon-Gomez C., Bijnens B. H., et
al (2009), “Cardiac injuries in blunt chest
trauma”. J Cardiovasc Magn Reson; pp.11-35
4-
Trần Công Khanh (1997), Xử trí các vết thương
tim – kinh nghiệm qua 100 trường hợp tại Bệnh
viện Chợ rẫy TP.HCM, Luận án Tiến sĩ Y học –
ĐH Y Dược TP.HCM.
5-
Milo V., Duan V., Mile V., et al (2001), “Cardiac
Surgery”, The Open Cardiovascular and
Thoracic Surgery Journal; pp.38-42
6-
Nguyễn Công Minh (2005),“Điều trị vết thương
tim tại Bệnh Viện Chợ Rẫy TP.HCM trong 10
năm (1995 – 2004). Y học Tp.HCM tập 9, phụ
bản 4; tr. 98 – 113
7-
Peter B.S., Robert G., Marie H.,(2009), “Blunt
traumatic pericardial rupture and cardiac herniation
with a penetrating twist : two case reports”
Scandinavian Journal of Trauma, Resuscitation
and Emergency Medicine, pp. 17- 64.
8-
Phan Thanh Nam, Nguyễn Hữu Ước (2010).
“Đặc điểm chẩn đoán và phẫu thuật vết thương
tim tại Bệnh viện Việt Đức”. Tạp chí Y học thực
hành, số đặc biệt hội nghị ngoại khoa lồng ngực
tim mạch lần 3; Tr. 116 – 172.
9-
Rodrigues A.J, Furlanetti L.L., Faidiga G.B., et
al (2005) “Penetrating cardiac injuries: a 13-year
retrospective evaluation from a Brazilian trauma
center”,Oxford Journals Medicine Interactive
CardioVasc Thoracic Surgery, Volume 4, Issue
3; pp. 212-215.
V. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 50 trường hợp VTT được điều trị
tại BVND 115 trong 10 năm (7/2004-7/2014) mặc dù
số liệu còn hạn chế nhưng có thể rút ra được một số
nhận xét sau:
VTT là một cấp cứu ngoại khoa khẩn cấp, tương
đối ít gặp chỉ gặp khoảng 5 trường hợp/năm. Đa số
Bn là nam giới trẻ tuổi bị tổn thương từ vật sắc nhọn
do tai nạn sinh hoạt. Các Bn thường được nhập viện
trong giờ đầu sau tai nạn với các vết thương ngoài da
khu trú tại vùng nguy cơ.
Việc chẩn đoán VTT dựa nhiều vào lâm sàng và
một số phương tiện có tính hiệu quả như siêu âm tim,
CT scan ngực và chọc dò màng ngoài tim. Xu hướng
chung giảm tối đa thời gian chẩn đoán, tránh mất máu
cấp. Tỷ lệ các Bn có hội chứng chèn ép tim cao.
VTT được phẫu thuật kịp thời khả năng thành
công cao, nghiên cứu ghi nhận tỷ lệ tử vong 14% chủ
yếu gặp sốc mất máu nặng do tổn thương phức tạp,
thời gian tới lúc phẫu thuật dài hoặc nhiều tổn thương
kèm theo.
10- Vũ Công Vinh (1989), Vết thương tim - chẩn
đoán và điều trị, Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ nội
trú, Trường ĐH Y Hà Nội.
17
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
CHIẾN LƯỢC CHẨN ĐOÁN LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG
THUYÊN TẮC TĨNH MẠCH SÂU
Trần Minh Bảo Luân* Nguyễn Hoài Nam*
Thuyên tắc do huyết khối tĩnh mạch (DVT) là
nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở bệnh nhân nội
trú. Tuổi là yếu tố nguy cơ tích lũy, do đó số bệnh
nhân mắc phải huyết khối tĩnh mạch tăng theo độ tuổi.
Cách đây 150 năm, Rudolf Virchow đã mô tả tam
chứng kinh điển các yếu tố dẫn tới huyết khối tĩnh
mạch
1. Tình trạng bất động :
Người ta nhận thấy những bệnh nhân trải qua giai
đoạn bất động kéo dài có tình trạng ứ trệ tĩnh mạch ở
chi dưới. Điều này được xác nhận qua hình ảnh x
quang, đo đạc lưu lượng máu tĩnh mạch đùi và các kỹ
thuật đồng vị phóng xạ. Những xoang soleal (bên
trong các lá van) có tình trạng bất động do nằm sâu
nhất, nhiều nghiên cứu phẫu tích cho thấy đây là vị trí
chính của huyết khối tĩnh mạch. Khi có sự giảm vận
tốc hồi lưu tĩnh mạch sẽ làm kéo dài thời gian tiếp xúc
của các tiểu cầu hoạt hóa và yếu tố đông máu với
thành tĩnh mạch, cho phép tạo huyết khối. Chỉ riêng
yếu tố bất động không là yếu tố nguy cơ độc lập cho
huyết khối tĩnh mạch sâu tuy nhiên là yếu tố thuận lợi
khi có hiện diện các yếu tố khác.
2. Tình trạng tăng đông :
Ảnh hưởng của tình trạng tăng đông và có yếu tố
bất động đã được mô tả bởi Stead. Tăng nguy cơ
huyết khối có lien quan với tăng hoạt động tiền đông
máu trong huyết tương, gồm có tăng số lượng tiểu
cầu và chất kết dính, biến đổi trong dòng thác đông
máu, và hoạt hóa phân giải fibrin nội sinh.
Tình trạng tăng đông và bất động đã được công
nhận rộng rãi là một phần trong cơ chế bệnh nguyên
của DVT sau mổ. Vai trò của tổn thương thành tĩnh
mạch trong việc hình thành huyết khối trước đây lại ít
được quan tâm, tuy nhiên những nghiên cứu đã cho
thấy tổn thương mô mềm có thể lien quan đến thương
tổn thành tĩnh mạch và gây huyết khối.
3. Tổn thương (nội mô) thành tĩnh mạch :
Để nghiên cứu thương tổn nội mô tĩnh mạch xuất
hiện trên các tịnh mạch xa so với vị trí phẫu thuật,
người ta đã thực nghiệm trên động vật trong hai loại
18
phẫu thuật bụng và thay khớp hang toàn phần. Khi
quan sát các tĩnh mạch trên động vật được mổ thay
khớp toàn phần, người ta thấy các tĩnh mạch gần khi
vực phẫu thuật bị tổn thương lớp nội mô nhiều hơn,
dường như điều này đã làm tang nồng độ tại chỗ của
các amines vận mạch sinh ra tại vết thương. Những
quan sát này đưa ra giả thuyết là các chất trong dòng
máu được sản sinh tại vị trí phẫu thuật đi vào tuần
hoàn qua các mao mạch và hệ bạch huyết, tác động
lên các tĩnh mạch xa. Những chất này có thể ảnh
hưởng lên tiểu cầu và bạch cầu, cũng như tác động
trực tiếp (hay tác động gián tiếp thông qua hóa chất
trung gian) lên các cơ trơn mạch máu.
Quan điểm này được đánh giá trên người khi tĩnh
mạch đầu trên người bệnh nhân thay khớp hang toàn
phần được theo dõi bằng siêu âm lên tục sau mổ, và
tất ca bệnh nhân sau mổ đều được theo dõi bằng tĩnh
mạch đồ hướng lên. Bệnh nhân được lựa chọn ngẫu
nhiên để tiêm các yếu tố trợ tĩnh mạch,
dihydroergotamine, cộng heparin hay giả dược trước
và sau mổ. Nghiên cứu này được mổ rộng ra với bệnh
nhân thay khớp gối toàn phần. Những dấu chứng này
cho thấy sự dãn tĩnh mạch đầu trên con số quy ước có
lien quan với sự hình thành huyết khối tĩnh mạch sâu
được theo dõi bằng tĩnh mạch đồ. *
Tuy nhiên huyết khối tĩnh mạch sâu thường xuất
hiện tại vị trí có phẫu thuật và hiếm khi xuất hiện ở
chân đối bên. Các quan sát của Kakkar [1] và cộng sự,
trong một thử nghiệm đa trung tâm, đã chứng tỏ khi
bổ sung các yếu tố trợ tĩnh mạch, dihydroergotamine,
hearin không phân đoạn liều thấp giúp tăng hiệu quả
đáng kể phòng ngừa huyết khối tĩnh mạch sâu.
Dù đã 150 năm nhưng tam chứng Virchow vẫn
còn giá trị. Tình trạng bất động và tăng đông xảy ra
trên bệnh nhân được phẫu thuật, và nay người ta đã
Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
Người chịu trách nhiệm khoa học: PGS TS Nguyễn Hoài Nam
Ngày nhận bài: 10/08/2014 - Ngày Cho Phép Đăng: 26/10/2014
Phản Biện Khoa học: GS.TS. Đặng Hanh Đệ
PGS.TS. Lê Ngọc Thành
*
CHIẾN LƯỢC CHẨN ĐOÁN LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG THUYÊN TẮC TĨNH MẠCH SÂU
biết rằng tổn thương nội mô tĩnh mạch cũng xuất hiện
trên nhiều bệnh nhân, đặc biết trên nhóm có mổ lớn.
CHẨN ĐOÁN:
Ơ Mỹ hàng năm có hơn 1 triệu bệnh nhân có
huyết khối tĩnh mạch sâu được chẩn đoán, là nguyên
nhân của gần 50000 đến 200000 trường hợp tử vong
do thuyên tác phổi. Hội chứng hậu huyết khối là biến
chứng dài hạn gây tăng bệnh tật và chi phí điều trị,
dẫn tới tổn hại van tĩnh mạch và tắc nghẽn dai dẳng.
Nguy cơ thuyên tắc phổi và hội chứng hậu huyết khối
tăng lên trên những bệnh nhân có huyết khối tĩnh
mạch sâu tái diễn. Do huyết khối tĩnh mạch sâu tái
phát có vẻ thường xuất hiện trên những bệnh nhân
chưa được điều trị thoả đáng hoặc có huyết khối dai
dẳng
Khám thực thể :
Biểu hiện lâm sàng của huyết khối tĩnh mạch sâu
cấp tính rất thay đổi từ không triệu chứng cho đến
biểu hiện nặng nề như phlegmasia dolens ( phù tím
gây đau) và hoại thư tĩnh mạch. Biểu hiện đa dạng đó
là kết quả của nhiều quy trình bệnh lý , với nhiều mốc
thời gian và độ nặng khác nhau xuất hiện trong các
đợt huyết khối cấp. Sự phân bố của đoạn tĩnh mạch
thuyên tắc, mức độ tắc trên mỗi nhánh, thời gian hình
thành huyết khối, mức độ trầm trọng của viêm, chức
năng của hệ bạch huyết, tình trạng suy tĩnh mạch và
bạch huyết tồn tại trước đó và còn nhiều yếu tố khác
quyết định biểu hiện triệu chứng tại thời điểm bệnh
nhân đến khám. Các triệu chứng có xu hướng trầm
trọng hơn khi DVT đoạn gần và nhiều nhánh, ít trầm
trọng hơn khi huyết khối tĩnh mạch vùng bắp chân và
trên bệnh nhân hậu phẫu và lớn tuổi. Triệu chứng phổ
biến nhất của DVT là đau âm ỉ hoăc nhức chân, căng
cứng, sưng, hồng ban, tím da, và sốt. Phù, tím da, và
đau là các đặc tính của phù tím đau tĩnh mạch (
phlegmasia dolens) Hoại thư tĩnh mạch là tình trạng
hiếm, thường xuất hiện trên bệnh nhân ung thư, có thể
xuất hiện cùng giảm tiểu cầu do heparin với tình trạng
huyết khối, và thường có kèm theo sự thiếu hụt
protein C qua trung gian warfarin.
Các đặc điểm giúp chẩn đoán DVT và sự kết hợp
triệu chứng đã được nghiên cứu kỹ. Triệu chứng phổ
biến nhất là đau chân được báo cáo có độ nhạy thay
đổi từ 75% đến 91% và độ đặc hiệu giữa 3% và 87%.
Báo cáo về độ đặc hiệu của sưng bắp chân trong chẩn
đoán DVT từ 8% đến 88%. Sự dao động lớn này do
những bệnh nhân không DVT cũng có các triệu chứng
tương tự.[2]
Sự chênh lệch về chu vi bắp chân dưới 2 cm có
giá trị tiên đoán âm là 85% trên bệnh nhân ngoại trú
và 93% trên bệnh nhân nội trú trong nghiên cứu của
Criado và Burnham. Trên những đối tượng nguy cơ
cao thì giá trị của các triệu chứng này cũng cao hơn.
Ví dụ, trên bệnh nhân ung thư, giá trị tiên đoán âm khi
không có triệu chứng sưng chân là khoảng 97% đối
với bn ngoại trú và 92% trên nhóm nội trú [3]. Khi áp
dụng cách tiếp cận này theo hướng hồi cứu, các tác
giả phát hiện chẩn đoán DVT, hay tình trạng tăng
đông có thể đã bị bỏ sót trên 3 trong số 610 bệnh nhân
ngoại trú và 15 trong số 916 bệnh nhân nội trú. Một số
nghiên cứu khác đã chứng tỏ đau khớp đơn độc và
viêm mô tế bào hầu như không hề có liên đới với tình
trạng DVT.
Bệnh nhân nội trú / Bệnh nhân ngoại trú
Tóm lại, nếu chẩn đoán DVT chỉ nhờ triệu chứng,
dấu chứng và yếu tố nguy cơ vẫn còn là biện pháp
chưa có độ chính xác cao. Với các tiến bộ trong y
khoa, khuynh hướng chẩn đoán DVT hiện nay đòi hỏi
nhà lâm sang phải có khả năng đề nghị trình tự xét
nghiệm sao cho hiệu quả.
CẬN LÂM SÀNG
D-Dimer
Nồng độ D - dimer trong huyết tương được sủ
dụng trong chẩn đoán DVT. D-Dimer là một sản
phẩm trong quá trình phân giải fibrin bởi plasmin;
tăng hàm lượng chất này có ý nghĩa là quá trình phân
giải fibrin đang chiếm ưu thế. Nó thường hiện diện
trong các tình huống có tổn thương như phẫu thuật
hay chấn thương , cũng như trong các tình huống
thay đổi sinh lý trong thai kỳ, hay bệnh lý như ung
thư hay rối loạn di truyền. Mức độ tăng D- Dimer
trong bệnh lý DVT thay đổi tuỳ theo kích thước và
mức độ lan rộng của huyết khối, thời điểm từ lúc
khởi phát, và việc dùng kháng đông. Độ nhạy của DDimer từ 60-96 % [4]. Độ đặc hiệu thấp giới hạn
việc sủ dụng D-Dimer trên bệnh nhân nghi ngờ có
huyết khối. Tuy nhiên khi nông độ D-Dimer dưới giá
trị cut off có ý nghĩa ít nguy cơ DVT, nó không loại
trừ hoàn toàn, nhất là trong trường hợp huyết khối xa
19
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
tim, có dung kháng đông, hay khoảng thời gian dài
từ lúc khới phát đến khi xét nghiệm. Tương tự với
đánh giá lâm sang, nếu chỉ sử dụng D-Dimer để chẩn
đoán dễ đưa đến sai lầm trong khoảng 15% bệnh
nhân nghi ngờ DVT [5].
Siêu âm Duplex
Siêu âm Duplex vẫn là phương tiện được ưu tiên
hang đầu trong việc phát hiện DVT. Nó hầu như thay
thế hoàn toàn cho venography do độ chính xác cao,
không có tia xạ, linh động, không xâm lấn và tương
đối rẻ. Ngoài ra siêu âm còn có khả năng phân biệt với
các bệnh lý khác như bệnh lý hạch vùng bẹn, nang
Baker, áp xe và tụ máu.
Các tiêu chuẩn chẩn đoán cho DVT là tăng phản
âm trong long mạch, tang đường kính tĩnh mạch, tĩnh
mạch không bị xẹp khi đè vừa phải bằng đầu dò,
không có dòng chảy tự phát, không có tang lưu lượng
khi ép đầu xa. Giữa các yếu tố này, tiêu chuẩn không
đè xẹp được dung rộng rãi để chẩn đoán DVT, riêng
đặc điểm này có độ nhạy và độ đặc hiệu là 97% và
94% đối với DVT đoạn gần.[6]
Giới hạn của tiêu chuẩn đè xẹp là kém hiệu quả
với tĩnh mạch bắp chân. Khi kết hợp đánh giá lưu
lượng tĩnh mạch với Doppler màu và Doppler phổ có
thể tang độ chính xác của siêu âm có đè xẹp
Do nguy cơ lan tràn của huyết khối trên bệnh nhân
DVT mặc dù đã được điều trị bằng kháng đông, người
ta ủng hộ việc siêu âm lặp lại. Siêu âm kiểm tra lại sau
7 đến 14 ngày sau khi khởi trị có thể làm giảm tỉ lệ
biến chứng do huyết khối thuyên tắc còn 1% trong 3
tháng theo dõi so với 2,5% khi không làm thêm xét
nghiệm.[7]
Sai sót mắc phải khi đọc duplex gồm có : định
danh sai tĩnh mạch, bệnh lý hệ thống hay giảm thể tích
làm giảm sự giãn nở tĩnh mạch, bệnh nhân béo phì
hay bị phù, những vùng khó đè ép như tĩnh mạch
chậu, tĩnh mạch đùi ở chỗ vòng gân cơ khép, và tĩnh
mạch dưới đòn, ngoài ra còn phụ thuộc tay nghề bác sĩ
siêu âm.
Dù cho hiệu quả cao, Duplex cũng có những giới
hạn. Một phân tích tổng hợp cho thấy độ nhạy của đè
ép trên siêu âm để phát hiện DVT đoạn gần và xa là
94.2% và 63.5%, dẫn đến độ nhạy chung là 91% với
độ đặc hiệu 93.8% [8]. Trên bệnh nhân có điểm số
Wells cao, độ nhạy là 91% với độ đặc hiệu 100%,
20
trong khi đó độ nhạy và đặc hiệu là 61% và 99% trên
bệnh nhân có điểm số Wells trung bình và 67% và
98% ở nhóm điểm số Wells thấp. Trên bệnh nhân
không triệu chứng, độ nhạy của duplex trong chẩn
đoán DVT gần và xa là 66.7% và 39% với độ đặc hiệu
gộp là 96,5%. Những con số này cho thấy sử dụng
Duplex trên bệnh nhân nguy cơ thấp có thể dẫn tới kết
quả dương giả đáng kể. Trên bệnh nhân có triệu
chứng, Duplex có thể tin cậy để loại trừ DVT đoạn
gần chứ không phải đoạn xa, và trên bệnh nhân không
triệu chứng, dung siêu âm để loại trừ DVT vẫn còn là
điều gây tranh cãi [9]
Plethysmography :
Kỹ thuật này cho phép đánh giá ảnh hưởng của
huyết khối trên dòng chảy tĩnh mạch với độ đặc hiệu
từ 84% đến 93% và độ nhạy thay đổi từ 69% đến
89%.[10]
Kỹ thuật đo sự thay đổi thể tích để đánh giá tắc
nghẽn tĩnh mạch được thực hiện bằng cách dung túi
hơi bó quanh đùi được bơm lên tới áp lực cao hơn áp
lực tĩnh mạch của bệnh nhân, điều này cho phép đổ
đầy lòng tĩnh mạch chân. Áp lực tĩnh mạch trung
ương ở điểm này xem như bằng zero và áp lực trong
tĩnh mạch chân bằng với áp lực trong túi hơi. Khi xả
nhanh túi hơi, thay đổi trong thể tích ở chân phản ánh
tỉ lệ lưu lượng trong tĩnh mạch. Cùng với độ chênh
lệch áp lực đã biết, tỉ lệ này cho phép tính được kháng
trở của dòng chảy tĩnh mạch. Do túi hơi được bơm ở
đùi, chẩn đoán bằng phương pháp này vẫn còn là một
vấn đề đối với huyết khối ở bắp chân. Do đánh giá
dòng tĩnh mạch về có thể bị ảnh hưởng bởi mức độ
thoát lưu qua bàng hệ, kĩ thuật này vẫn còn chưa đủ
nhạy trong việc đánh giá các tĩnh mạch sâu.
Tĩnh mạch đồ :
Tĩnh mạch đồ cản quang đã từng rất được quan
tâm trong việc chẩn đoán DVT, nhưng càng ngày
càng ít giá trị trong việc điều trị, do tính hữu ích,
chính xác và an toàn ưu thế hơn của siêu âm. Xét
nghiệm này tương dối mắc tiền và bất tiện hơn so với
các phương pháp khác. Một số biến chứng có thể xảy
ra là độc thận, dị ứng cản quang, viêm tĩnh mạch, và
phải mở đường truyền tĩnh mạch. Tuy nhiên, tĩnh
mạch đồ có thể hữu ích khi các phương tiện chẩn đoán
khác vẫn chưa cung cấp bằng chứng vững chắc cho
chẩn đoán
CHIẾN LƯỢC CHẨN ĐOÁN LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG THUYÊN TẮC TĨNH MẠCH SÂU
Dù tĩnh mạch đồ cản quang còn nhiều bất lợi
nhưng vẫn đươc xem như tiêu chuẩn vàng để chẩn
đoán DVT. So sánh tĩnh mạch đồ cản quang với
Duplex và dùng D-dimer để xác nhận tình trạng huyết
khối cho thấy độ nhạy và độ chuyên của tĩnh mạch đồ
là 96% và 91%, đối với duplex là 78% và 97% [11].
Hơn nữa, trong một nghiên cứu tương tự, DVT cấp
vùng bắp chân được chẩn đoán ra chỉ trong 74% bệnh
nhân đã được chẩn đoán dương với tĩnh mạch đồ.
Tương tự, Ozbudak và cộng sự cho thấy tĩnh mạch đồ
cản quang chẩn đoán được thêm 19% số trường hợp
DVT mà Duplex không tìm thấy [12]. de Valois và
cộng sự chứng tỏ rằng siêu âm Duplex có độ nhạy và
độ chuyên 92% và 90% so với tĩnh mạch đồ cản
quang[13]. Điều này cho thấy tĩnh mạch đồ cản quang
có thể được xem như tiêu chuẩn vàng để kiểm tra lại
các trường hợp chưa rõ rang trên Duplex.
CT tĩnh mạch :
CTV đặc biệt có khả năng chẩn đoán tốt trong
trường hợp huyết khối đùi và chậu so với siêu âm
duplex; nó có độ nhạy 98% và đặc hiệu 100% tại đùi,
còn ở chậu là 94% và 100%. Giá trị tiên đoán dương
và âm toàn bộ là 92% và 100%. Thomas và cộng sự
thực hiện một nghiên cứu tổng hợp từ 13 nghiên cứu
đánh giá CTV trong chẩn đoán DVT trên bệnh nhân
nghi ngờ DVT và thuyên tắc phổi. Độ nhạy từ 71%
đến 100% và đặc hiệu từ 93% đến 100%. Độ nhạy
tính gộp là 95.5% và độ chuyên tính gộp là 95.2%
[13][14].
Tuy nhiên trong nghiên cứu của Peterson và đồng
sự cho thấy dù độ nhạy cao là 93% , với giá trị tiên
đoán âm 97% , khả năng chẩn đoán xác định của
CTV độ đặc hiệu 71% nên giá trị tiên đoán dương
chỉ là 53% [15]. Những nghiên cứu khác cho thấy tỉ
lệ dương giả 50% đối với DVT chậu, tương tự với
MRi tĩnh mạch cho tỉ lệ dương tính giả là 100%. Hơn
nữa, CTV vẫn chưa được nghiên cứu nhiều trên DVT
bắp chân để đánh giá hiệu quả thực sự của nó, ngoài
ra CTV đắt tiền và phải dùng đến chất cản quang và
tia xạ.
Cộng hưởng từ tĩnh mạch:
MRV ngày càng trở thành một lựa chọn lý tưởng
cho chẩn đoán. Kĩ thuật dựa trên nguyên tắc phát
hiện sự chuyển động so với các mô đứng yên. MRV
ít tốn tiền hơn tĩnh mạch đồ cản quang, nhưng lại
mắc hơn và ít phụ thuộc vào người đọc hơn siêu âm,
Hơn nữa, MRV có thể vượt qua những trở ngại của
Duplex như thấy được rõ rang Tĩnh mạch chủ dưới
và mạch máu chậu.
Khi dùng MRV để chẩn đoán DVT cấp, kết quả
chụp trên tĩnh mạch lớn rất ấn tượng tuy nhiên độ
nhạy trên tĩnh mạch đường kính nhỏ lại giảm đi hẳn.
Carpenter và cộng sự cho thấy kết quả gần chính xác
so với tĩnh mạch đồ cản quang trên 97% bệnh nhân có
DVT cấp và 100% tương đồng về sự lan rộng của
huyết khối hay vị trí tắc [16]. Laissy và đồng nghiệp
ghi nhận độ nhạy và độ chuyên là 100% so với tĩnh
mạch đồ, với độ nhạy trong phát hiện sự lan rộng của
huyết khối là 95%. Kết quả này chủ yếu dựa trên các
vị trí tĩnh mạch ổ bụng, chậu và đùi.. Thực ra, các vị
trí tắc gần dễ phát hiện hơn nhiều so với đoạn chày
mác. Khi hai người cùng đọc kết quả thì độ nhạy là
83% và 92% đối với huyết khối cấp ở bắp chân; trong
khi đoạn đùi khoeo có độ nhạy 97%.Hơn nữa, thành
mạch khi có dung tương phản sẽ dễ nhìn thấy trong
huyết khối cấp, cho phép người khám đánh giá được
tuổi của huyết khối.[17]
Một số bất lợi của MRV là đòi hỏi bệnh nhân phải
bất động trong một khoảng thời gian khá dài để có
được hình ảnh chính xác. Giải phẫu tĩnh mạch vùng
dưới gối thường có đặc điểm đi thành cặp nên dễ gây
xảo ảnh. Hơn nữa, Gadolinium có thể gây độc thận
trên bệnh nhân có rối loạn chức năng thận. Tuy nhiên,
MRV vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc chẩn
đoán DVT, đặc biệt để chẩn đoán huyết khối ở tĩnh
mạch trung tâm. MRV không chỉ hữu ích trong việc
phát hiện huyết khối tĩnh mạch hạ vị. 27% bệnh nhân
có thuyên tắc phổi mà không thể định vị được huyết
khối bằng duplex lại phát hiện được bằng MRV [18].
Gần đây, Sampson và cộng sự thực hiện một
nghiên cứu tổng hợp đánh giá tính chính xác của
MRV trong chẩn đoán DVT. 14 nghiên cứu trong
phân tích này cho thấy độ nhạy thay đổi rất rộng từ
0% đến 100% với độ chuyên 43% đến 100% . Độ
nhạy gộp được ước tính là 91,5% và độ đặc hiệu gộp
94.8% [19]. Và một lần nữa, nghiên cứu này khẳng
định độ nhạy và đặc hiệu của DVT đoạn gần cao hơn
đoạn dưới gối. Nghiên cứu này kết luận rằng MRi có
thể là một phương tiện thay thế cho siêu âm trên bệnh
nhân có kết quả chưa rõ rang và không thể kết luận
21
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
PET/CT 18F-FDG:
Chụp PET/CT với Fluorodeoxyglucose gắn đồng
vị phóng xạ 18F có thể phát hiện huyết khối trong
DVT cấp, đánh giá tuổi của huyết khối, và phân biệt
huyết khối cấp với huyết khối của khối u. 18F-FDG là
đồng vận glucose được hấp thu chủ động và hoàn toàn
bởi các mô và tế bào có tốc độ chuyển hoá cao. Trong
số đó là các tế bào ung thư, tế bào nội mô, thực bào,
lymphocytes. Một số nghiên cứu cho thấy khả năng
phát hiện DVT cấp của xét nghiệm này, nhưng gần
đây, chỉ mới có một nghiên cứu kiểm chứng tính hữu
dụng của nó trong việc chẩn đoán DVT cấp. Rondina
và cộng sự đã nghiên cứu 12 bệnh nhân có bằng
chứng DVT cấp vị trí gần trên siêu âm duplex được
làm 18F-FDG PET/CT trong khoảng thời gian 32,5
ngày. Họ đánh giá độ nhạy và độ đặc hiệu là 87.5% và
100% khi áp dụng giá trị hấp thụ chuẩn hoá tối đa là
1,645 hoặc cao hơn. Khi giảm giá trị hấp thu chuẩn
hoá tối đa xuống 1.49 hoặc cao hơn làm tăng độ nhạy
lên 100% nhưng lại giảm độ chuyên xuống 84.2%
[20]. Sharma và cộng sự cho thấy nhờ vào giá trị hấp
thụ chuẩn tối đa, 1người ta có thể phân biệt được
huyết khối do ung thư và do DVT cấp, khi giá trị cao
tương ứng với huyết khối do ung thư và giá trị thấp
tương ứng với DVT câp [19]
CHIẾN LƯỢC CHẨN ĐOÁN
Đánh giá nguy cơ :
Do chưa có một xét nghiệm chẩn đoán nào vừa
đáng tin cậy, vừa hiệu quả và rẻ tiền nên đánh giá
bệnh nhân theo nhóm nguy cơ góp phần đưa ra quyết
định. Đối với bệnh nhân nhiều nguy cơ sẽ không cần
làm quá nhiều xét nghiệm để chẩn đoán như nhóm
nguy cơ thấp và cần khởi trị ngay lập tức, siêu âm
Duplex hay các xét nghiệm khác có thể trì hoãn.
suất trọn đời của DVT có triệu chứng trên bệnh nhân có
đot biến yếu tố V Leiden vào khoang 10%. Nhưng tình
trạng thiếu hụt đồng thời sẽ làm tăng nguy cơ này lên
đáng kể. Một số tình trạng dễ tạo huyết khối khác như
tăng yếu tố VII và IX, tăng Homocystein máu, rối loạn
fibrinogen máu, tình trạng giảm ly giải sợi fibrin, làm
tăng nguy cơ DVT lên hai lần.
Các yếu tố nguy cơ mắc phải gồm có tuổi, bệnh ác
tính, bất động, phẫu thuật hay chấn thương, béo phì,
mang thai, tiền căn huyết khối tĩnh mạch. Nguy cơ
tương đối của từng yếu tố nguy cơ thay đổi nhiều. Khi
không phòng ngừa, nguy cơ DVT là 36% sau mổ thay
khớp háng, 33% sau phẫu thuật niệu, 25% sau mổ
tổng quát, 23% sau mổ thần kinh, 19% sau phẫu thuật
bụng, 15% sau phẫu thuật mạch máu ngoại vi [25].
Một nửa số bệnh nhân gãy khớp háng và 1/3 bệnh
nhân phỏng có DVT. Nguy cơ này tăng lên sau khi
xuất viện.
Nguy cơ DVT tăng khi có hiện diện vài yếu tố
nguy cơ đặc biệt, điều này giúp đưa ra thang điểm
phân loại nguy cơ bằng cách kết hợp một số yếu tố
nguy cơ với các triệu chứng và dấu chứng lâm sàng.
Thang điểm được sử dụng rộng rãi nhất trên Bệnh
nhân có triệu chứng là thang Wells.
Thang điểm Wells đã được đánh giá như một
phương tiện hiệu quả và dễ áp dụng để phân tầng
nguy cơ bệnh nhân vào nhóm nguy cơ DVT thấp,
trung bình và cao. Thang điểm này đã được kiểm định
trên nhiều dân số bệnh nhân khác nhau. Một nghiên
cứu tổng hợp 24 nghiên cứu đã dùng thang điểm
Wells cho thấy trong một dân số có tỉ lệ lưu hành
DVT là 15%, bảng Wells đã phân tầng 18% bệnh
nhân nguy cơ cao có tỉ lệ lưu hành DVT là 47%, 40%
bệnh nhân nguy cơ trung bình có tỉ lệ lưu hành 12%
và 42% nguy cơ thấp có tỉ lệ lưu hành là 4% [21].
Các bệnh lý di truyền gây DVT có tần suất tương
đối thấp, hơn nữa các công cụ đánh giá khá đắt tiền
trong khi khám lâm sàng cũng có thể phát hiện được
nên việc áp dụng các xét ngiệm đánh giá nguy cơ trên
từng cá nhân riêng lẻ là không thực tiễn. Dù vậy, nếu
biết trước được các bất thường đó cũng là một thông
tin lâm sàng có giá trị.
CHIẾN LƯỢC CHẨN ĐOÁN HUYẾT KHỐI
TĨNH MẠCH SÂU HỆ THỐNG:
Nguy cơ DVT trên bệnh nhân có thiếu hụt
antithrombin dị hợp tăng từ 5 đến 50 lần. Trên những
bệnh nhân có thiếu hụt protein C, con số này tăng 3 lần,
tăng 10 lần trong trường hợp thiếu hụt protein S. Xác
Trên nhóm bệnh nhân nguy cơ thấp, kết hợp thang
Wells và D-dimer âm tính cho giá trị tiên đoán âm đạt
gần 100% [22]. Do hầu hết các nghiên cứu trên nhóm
nguy cơ thấp được thực hiện trên bệnh nhân ngoại trú
22
Cách tiếp cận tối ưu hiện nay dựa trên thang điểm
Wells và xét nghiệm D-Dimer, sau đó làm các xét
nghiệm chẩn đoán tiếp tục cho nhóm nguy cơ cao và
bệnh nhân cần được điều trị
CHIẾN LƯỢC CHẨN ĐOÁN LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG THUYÊN TẮC TĨNH MẠCH SÂU
và đã loại trừ bệnh nhân có tiền căn DVT, bệnh nhân
nghi ngờ thuyên tắc phổi, bệnh nhân dùng kháng
đông, nên các yếu tố này cần được cân nhắc khi sử
dụng thang Wells.
Các kết quả tương tự được thực hiện trên nhóm
nguy cơ trung bình khi kết hợp Wells và D-dimer để
chẩn đoán DVT cấp. Khi không điều trị, tỉ suất của
DVT cấp trong vòng 3 tháng trên những bệnh nhân
được phân tầng trung bình và D-dimer âm tính là
0,6% [24], cho thấy không cần phải làm thêm xét
nghiệm nào nữa cho nhóm này bởi nó không làm cải
thiện thêm kết cục lâm sàng.
Đánh giá nguy cơ cho nhóm nguy cơ cao là một
vấn đề đáng bàn cãi. Giá trị D-dimer âm tính trên
nhóm này có tỉ lệ thuyên tắc phổi lên tới 15%. Tỉ lệ
cao không thể giải thích này cho thấy việc điều trị
nên được khổi động trước khi có kết quả các xét
nghiệm bổ sung. Khi bắt đầu dùng kháng đông, việc
trì hoãn làm các xét nghiệm chẩn đoán xác định vẫn
được đánh giá là an toàn. Đa số bệnh nhân nội trú
rơi vào nhóm nguy cơ cao, và tỉ suất DVT được báo
cáo là 10%, hơn nữa độ nhạy cũng như độ chuỷên
của xét nghiệm D-dimer cũng tương đối thấp hơn so
với nhóm ngoại trú. Không giống bệnh nhân ngoại
trú, hầu hết bệnh nhân khi nhập viện có nghi ngờ
DVT cần thiết phải làm các xét nghiệm để chẩn
đoán. [25]
Chẩn đoán DVT trong thai kỳ lại còn phức tạp
hơn nữa, nguy cơ biến chứng chảy máu làm hạn chế
việc dùng kháng đông trên những trường hợp đã chẩn
đoán DVT. Nồng độ D-Dimer bình thường cũng tăng
cao trong thai kỳ và chưa cho thấy hữu ích trong chẩn
đoán. Vì những lý do đó, siêu âm vẫn là xét nghiệm
được ưu tiên. Trên sản phụ nghi ngờ có DVT, khuyến
cáo là nên cho siêu âm lại dù cho những dấu chứng
ban đầu là bình thường.
Một số lưu đồ chẩn đoán để lượng giá DVT trên
bệnh nhân có triệu chứng đã được công bố. Tuy nhiên
khi những dòng kháng đông mới ra đời thì việc áp
dụng những lưu đồ này cũng phải thay đổi theo. Trên
bệnh nhân ngoại trú, kết hợp thang điểm Wells thấp
và D-dimer âm là đủ để loại trừ DVT. Kết quả Ddimer dương trên nhóm nguy cơ trung bình và cao là
chỉ định cho việc dùng kháng đông ngay lập tức và
siêu âm duplex tĩnh mạch sau đó.
Chẩn đoán huyết khối tái phát và tuổi của
huyết khối :
Sự hình thành huyết khối và tái cấu trúc thành tĩnh
mạch xuất hiện trong khoảng thời gian thay đổi, từ 7
đến 10 ngày, huyết khối bám thành tĩnh mạch, khiến
việc điều trị bằng ly giải huyết khối hay lấy huyết
khối trở nên ít hiệu quả, và không thể trên 30% bệnh
nhân.Do đó phải chẩn đoán DVT trong giai đoạn cấp
và đánh giá tuổi của huyết khổi.
Khởi phát biểu hiện lâm sàng của DVT là dấu chỉ
điểm không đáng tin cậy cho tuổi huyết khối, các
phương tiện hình ảnh hiếm khi có ích trong việc xác
định tuổi. Các kết quả siêu âm đàn hồi được thử
nghiệm trên động vật và ex vivo.
Sử dụng các dấu chỉ điểm gắn phóng xạ, như yếu
tố hoạt hoá plasmin mô tái tổ hợp, cho thấy khả năng
xác định tuổi của huyết khối có trên 30 ngày hay
chưa, và MRI có thể cho thấy thời gian khởi phát
huyết khối có quá 6 tháng không. Các xét nghiệm này
thường phù hợp để chẩn đoán huyết khối tái phát hơn
là đánh giá tuổi
Nếu huyết khối không ly giải tự phát hay bị loại
thải nhờ điều trị, các tiến trình bệnh lý sẽ tiếp diễn,
dẫn tới bệnh lý hậu huyết khối trên một số bệnh nhân
và có nguy cơ huyết khối tái phát. Các dữ liệu gần
đây từ các nhóm giả dược trong nghiên cứu thử
nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên cho thấy huyết khối tái
phát xuất hiện trên 11%-18% bệnh nhân trong năm
đầu bị DVT [26]
Chẩn đoán DVT cùng bên tái phát là một thử
thách. Các phương tiện đánh giá như thang Wells,
không hữu ích khi nó phân chia bệnh nhân có tiền căn
DVT vào nhóm nguy cơ cao. Biểu hiện lâm sàng của
huyết khối tái phát thường đồng thời với biểu hiện của
bệnh lý hậu huyết khối. các phýõng tiện hình ảnh
không thể xác định một cách đáng tin cậy huyết khối
cấp khi nhũng thay đổi hậu huyết khối hiện diện trên
thành và trong lòng tĩnh mạch. Các biến đổi hậu huyết
khối dẫn tới không đè xẹp tĩnh mạch một phần hay
hoàn toàn. Trong một nghiên cứu, 70% bệnh nhân tại
thời điểm 3 tháng và 40% ở thời điểm 12 tháng có xét
nghiệm đè xẹp bất thường sau đợt huyết khối cấp
đoạn gần. Điều này có thể làm tăng tần số kết quả
dương giả khi tiêu chí này được dùng cho DVT tái
phát Kết quả dương giả được báo cáo là 5% trên bệnh
23
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
nhân nghi ngờ DVt tái phát. Tính hữu dụng của siêu
âm có được trước khi có đợt tái phát, tuy nhiên, diễn
giải kết quả hình ảnh cho thấy có sự đồng thuận kém
đến trung bình giữa hai người cùng đọc
7.
Birdwell BG, et al: The clinical validity of
normal
compression
ultrasonography
in
outpatients suspected of having deep venous
thrombosis. Ann Intern Med 128:1–7, 1998.
MRI có thể phân biệt huyết khối với mô xơ trên
thành tĩnh mạch ở thời điểm 6 tháng sau DVT cấp. Dù
gia trị tiên đoán âm cao nhưng D-dimer lại không có ý
nghĩa rõ ràng trên bệnh nhân có DVT tái phát. Trong
46% bệnh nhân có ngừng warfarin, D-dimer vẫn giữ
mức cao ít nhất 3 tháng. Những nguyên nhân khác của
tăng D-dimer góp phần làm tăng chỉ số này thấm chí
còn cao hơn do DVT làm hạn chế việc áp dụng Ddimer để loại trừ tái phát chỉ trong 15% đến 18% bệnh
nhân thậm chí khi được dùng kết hợp với các công cụ
đánh giá nguy cơ [28].
8.
Goodacre S, et al: Measurement of the clinical
and cost-effectiveness of non-invasive diagnostic
testing strategies for deep vein thrombosis.
Health Technol Assess 10:1–168, iii–iv, 2006.
9.
Wells PS, et al: Accuracy of clinical assessment
of deep-vein thrombosis. Lancet 345:1326–1330,
1995
Do không có bằng chứng gợi ý bất kỳ xét nghiệm
nào là hữu ích để đánh giá tuổi của huyết khối, và
không có chứng cứ tồn tại nào cho thấy tiếp cận chẩn
đoán tái huyết khối cần khác hơn so với DVT lần đầu
nên việc thực hành lâm sàng còn phụ thuộc vào các
xét nghiệm và khả năng phán đoán lâm sàng.
REFERENCE
1.
Kakkar VV, et al: Prevention of
fatal
postoperative pulmonary embolism by low
doses of heparin. Reappraisal of results of
international multicentre trial. Lancet 1: 567–
569, 1977.
2.
Anand SS, et al: Does this patient have deep vein
thrombosis? JAMA 279:1094–1099, 1998.
3.
Criado E, et al: Predictive value of clinical
criteria for the diagnosis of deep vein
thrombosis. Surgery 122:578–583, 1997.
4.
Brotman DJ, et al: Limitations of D-dimer testing
in unselected inpatients with suspected venous
thromboembolism. Am J Med 114:276–282,
2003.
10. Locker
T,
et
al:
Meta-analysis
of
plethysmography and
rheography
in the
diagnosis of deep vein thrombosis. Emerg
Med J 23:630–635, 2006.
11. Terao M, et al: Diagnosis of deep vein
thrombosis after operation for fracture of the
proximal
femur: comparative
study of
ultrasonography and venography. J Orthop Sci
11:146–153, 2006.
12. Ozbudak O, et al: Doppler ultrasonography
versus venography in the detection of deep vein
thrombosis
in patients with pulmonary
embolism. J Thromb Thrombolysis 21:159–162,
2006.
13. de Valois JC, et al: Contrast venography: from
gold standard to ‘golden backup’ in clinically
suspected deep vein thrombosis. Eur J Radiol
11:131–137, 1990.
14. Begemann PG, et al: Evaluation of the deep
venous system in patients with
suspected
pulmonary embolism with multi-detector CT: a
prospective study in comparison to Doppler
sonography. J Comput Assist Tomogr 27:399–
409, 2003.
15. Homans J: Thrombosis of the deep leg veins due
to prolonged sitting. N Engl J Med 250:148–149,
1954.
5.
Larsen TB, et al: Validity of D-dimer tests in the
diagnosis of deep vein thrombosis:
a
prospective comparative study of three
quantitative assays. J Intern Med 252:36–40,
2002.
16. Carpenter JP, et al: Magnetic resonance
venography for the detection of deep venous
thrombosis: comparison with contrast venography
and duplex Doppler ultrasonography. J Vasc
Surg 18:734–741, 1993.
6.
Kearon C, et al: Noninvasive diagnosis of
deep venous thrombosis. McMaster Diagnostic
Imaging Practice Guidelines Initiative. Ann
Intern Med 128:663–677, 1998.
17. Laissy JP, et al: Assessment of deep venous
thrombosis in the lower limbs and pelvis: MR
venography versus duplex Doppler sonography.
AJR Am J Roentgenol 167:971–975, 1996.
24
CHIẾN LƯỢC CHẨN ĐOÁN LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG THUYÊN TẮC TĨNH MẠCH SÂU
18. Stern JB, et al: Detection of pelvic vein
thrombosis by magnetic resonance angiography
in patients with acute pulmonary embolism
and normal
lower
limb
compression
ultrasonography. Chest 122:115–121, 2002
24. Schutgens RE, et al: Combination of a normal Ddimer concentration and a non-high pretest
clinical probability score is a safe strategy to
exclude deep venous thrombosis. Circulation
107:593–597, 2003.
19. Sampson FC, et al: The accuracy of MRI in
diagnosis of suspected deep vein thrombosis:
systematic review and meta-analysis. Eur
Radiol 17:175–181, 2007.
25. Brown MD, et al: The accuracy of the enzymelinked immunosorbent assay D-dimer test in
the diagnosis of pulmonary embolism: a
meta-analysis. Ann Emerg Med 40:133–144,
2002.2
20. Rondina MT, et al: 18F-FDG PET in the
evaluation of acuity vein thrombosis. Clin Nucl
Med 37:1139–1145, 2012.
21. Goodacre S, et al: Measurement of the clinical
and cost-effectiveness of non-invasive diagnostic
testing strategies for deep vein thrombosis.
Health Technol Assess 10:1–168, iii–iv, 2006.
22. Shields GP, et al: Validation of the Canadian
clinical probability model for acute venous
thrombosis. Acad Emerg Med 9:561–566, 2002.
23. International Consensus Statement: Prevention
and treatment of venous thromboembolism. Int
Angiol 32:111–260, 2013.
26. Brighton TA, et al: Low-dose aspirin for
preventing recurrent venous thromboembolism.
N Engl J Med 367:1979–1987, 2012.
27.
Stiegler H, et al: Thrombectomy, lysis, or
heparin treatment: concurrent therapies of deep
vein thrombosis: therapy and experimental
studies. Semin Thromb Hemost 15:250–258,
1989.
28. Heijboer H, et al: Clinical utility of real-time
compression ultrasonography for diagnostic
management of patients with recurrent venous
thrombosis. Acta Radiol 33:297–300, 1992.
25
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
KỸ THUẬT MỔ THAY VAN HAI LÁ CƠ HỌC GIỮ LẠI TOÀN BỘ LÁ SAU
CHO BỆNH NHÂN THẤP TIM
Nguyễn Hoàng Hà*
Tóm tắt
Giữ lại lá van và tổ chức dưới van đã được đánh
giá là cần thiết để cải thiện chức năng tâm thu thất
trái, khả năng gắng sức và tăng khả năng sống còn ở
những bệnh nhân thay van hai lá. Kỹ thuật này cũng
chứng tỏ giữ lại được sự đồng nhất về lực bóp thất trái
theo không gian ba chiều và có thể hạn chế vỡ thất
trái. Giữ lại toàn bộ lá sau trong bệnh nhân thấp tim có
thể cực kỳ khó khăn nhất là các trường hợp hẹp van
hai lá. Chúng tôi mô tả kỹ thuật mới để khắc phục
những khó khăn này và qua đó có thể đặt được van hai
lá nhân tạo với kích thước van chấp nhận được.
Abstract
Preserving the valvar and subvalvular mitral
apparatus has been recognized as necessary for
improvement of left ventricular systolic function,
exercise capacity, and better survival after mitral
valve replacement. It has been shown to preserve
regional left ventricular mechanics and threedimensional contraction synergy, and may prevent
myocardial rupture. Preservation of total posterior
leaflet can be very difficult in Rheumatic heart disease
especially in Mitral valve stenosis. We describe a new
technique to overcome the difficulties and help us to
put a Mechanical valve with acceptable size.
Đặt vấn đề
Chúng tôi mô tả kỹ thuật thay van hai lá cơ học do
thấp tim với lá sau được giữ lại gần như toàn bộ. Để
giải quyết vấn đề lá sau để lại gây hẹp và ảnh hưởng
đến hoạt động của van nhân tạo chúng tôi xẻ dọc tử 3
đến 4 đường từ mép lá sau vào gần vòng van. Tình
trạng vôi trên lá và mép van cũng được giải quyết
bằng sử dụng dao điện với chế độ “cắt” vừa lấy vôi
triệt để vừa hạn chế thao tác co kéo trên lá van, dây
chằng và cột cơ loại bỏ nguy cơ vỡ thất trái.
Thay van hai lá cho bệnh nhân thấp tim có lẽ là
phẫu thuật phổ biến nhất với các phẫu thuật viên ở
Việt nam cũng như các nước đang phát triển. Hai
nguy cơ lớn nhất của phẫu thuật là suy tim sau mổ và
vỡ thất trái (nhất là các trường hợp hẹp van hai lá có
26
thất trái nhỏ). Rất nhiều các tài liệu đều chứng minh
hiệu quả của việc giữ lại một phần hoạc hoàn toàn lá
sau van hai lá trong việc bảo tổn chức năng thất trái và
giảm thiểu đến mức gần như loại bỏ biến chứng vỡ
thất trái. Vấn đề đặt ra cho các bệnh nhân thấp tim là
lá sau bao giờ cũng dầy, dính bết với dây chằng, co rút
cột cơ, nhiều trường hợp vôi hoá nên phần lá van giữ
lại không nhiều. Các kỹ thuật thông thường đòi hỏi
nhiều thời gian và thao tác co kéo nhiều trên mô van
có thể gây thương tổn cột cơ và hậu quả là vỡ thất.
Chúng tôi mô tả những thay đổi triệt để về kỹ
thuật với việc xẻ rộng rãi lá van, kỹ thuật đặt các mũi
chỉ và sử dụng dao điện để lấy vôi. Những thây đổi về
kỹ thuật này dễ áp dụng, an toàn, không làm tăng thời
gian cặp động mạch chủ. *
Kỹ thuật
Phẫu thuật được tiến hành như thay van hai lá
bình thường. Sau khi cặp động mạch chủ và truyền
dung dịch liệt tim chúng tôi tiến hành cắt lá trước khỏi
chỗ bám ở vòng van nhưng không cắt bỏ lá trước ngay
(nhất là những trường hợp vôi hoá lá sau nhiều). Dùng
dao điện ở chế độ cắt đi vào vùng mép van cắt lá trước
khỏi lá sau. Dùng dao điện đi sát tổ chức vôi hoá cắt
bỏ các tổ chức vôi hoá nhưng cố gắng giữ lại tổ chức
van và dây chằng dưới van. Thăm dò tổ chức dưới van
ở lá sau rồi tiếp tục dùng dao điện xẻ khoảng 3 đến 4
đường đi từ bờ tự do lá sâu đến gần vòng van qua đó
mở rộng diện tích đặt van nhân tạo. Trong trường hợp
tổ chức lá sau bị mất nhiều đưa một phần lá trước úp
lại tái tạo lá sau. Dùng các mũi chỉ có độn khâu các
mũi chữ U đi từ vòng van, qua lá van với mục đích
các tổ chức lá van sẽ được kéo xuống phía dưới van
nhân tạo một phần để làm rộng diện tích đặt van
nhưng cũng không được làm cản trở hoạt động của
cánh van. Dùng dụng cụ đo kích thước van rồi khâu
van nhân tạo vào như thường qui. Dùng huyết thanh
Khoa phẫu thuật tim mạch Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec
Người chịu trách nhiệm khoa học: Nguyễn Hoàng Hà
Ngày nhận bài: 10/08/2014 - Ngày Cho Phép Đăng: 26/10/2014
Phản Biện Khoa học: GS.TS. Đặng Hanh Đệ
PGS.TS. Lê Ngọc Thành
*
KỸ THUẬT MỔ THAY VAN HAI LÁ CƠ HỌC GIỮ LẠI TOÀN BỘ LÁ SAU CHO BỆNH NHÂN THẤP TIM
bơm rửa buồng thất trái trước khi hạ van. Khi buộc
chỉ chú ý buộc trước 4 góc hoặc dùng tyret để cố định
van trước đảm bảo van xuống tốt. Dùng testor kiểm
tra hoạt động của van nếu có các vì trí nghi ngờ gây
kẹt van nên dùng dao điện hoặc dao thường cắt bỏ.
Buộc chỉ van, kiểm tra hoạt động van lần cuối. Tiến
hành bơm rửa lần cuối, đuổi hơi và các bước tiếp theo
như thay van hai lá thông thường. Trước khi ngừng
máy tim phổi nhân tạo nên kiểm tra hoạt động của van
nhân tạo bằng siêu âm thực quản.
Kinh nghiệm lâm sàng
Chúng tôi đã băt đầu tiến hành thay đổi kỹ thuật
thay van hai lá giữ lại toàn bộ lá sau cho 38 bệnh nhân
tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec và Bệnh viện
Đa khoa Đà nẵng. Tất cả bệnh nhân đều an toàn có
một trường hợp kẹt van phải mổ lại vào ngày thứ 4 do
còn sót một dây chằng nhỏ gây kẹt van, khi mổ lại
chúng tôi chỉ cần cắt bỏ dây chằng này là van hoạt
động bình thường. Không có trường hợp nào tử vong.
Bàn luận
chơi thể thao hoạc gắng sức nhiều. Chúng tôi cũng hi
vọng các hãng sản xuất van tim sẽ cho ra các thế hệ
van hai lá có chỉ số huyết động tốt tương tự như van
động mạch chủ lúc đó việc giữ lại toàn bộ lá sau sẽ
đơn giản hơn rất nhiều. Việc giữ lại toàn bộ lá sau
cũng đòi hỏi quen với kỹ thuật và nên có siêu âm thực
quản để kiểm tra trong mổ nhất là các ca mổ đầu tiên.
Việc giữ lại lá sau mặc dù chưa có các con số thống
kê nhưng ở hai cơ sở mổ tim của chúng tôi thực sự đã
làm công tác hồi sức bệnh nhân trở nên nhẹ nhàng hơn
rất nhiều và theo các nghiên cứu của các tác giả khác
việc cải thiện chức năng thất trái còn có ý nghĩa lâu
dài chứ không chỉ giới hạn ở thời gian hậu phẫu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Zakai SB, Khan SUR, Rabbi F, Tasneem H.
Effects of mitral valve re- placement with and
without chordal preservation on cardiac function:
early and mid-term results. J Ayub Med Coll
Abbottabad 2010;22: 91–6.
Biến chứng suy tim cấp sau mổ và vỡ tim có lẽ là
nỗi ám ảnh lớn nhất với các phẫu thuật viên khi mổ
thay van hai lá cho bệnh nhân thấp tim. Với bệnh
nhân thấp tim toàn bộ tổ chức lá sau (van, dây chằng
thậm chí cột cơ) bị dính và co rút. Việc cắt bỏ một
phần hoạc hoàn toàn lá sau sẽ làm thay đổi toàn bộ cơ
chế co bóp, làm yếu thất trái ở khoảng từ giữa vòng
van và cột cơ. Việc giữ lại lá sau để hạn chế biến
chứng vỡ thất trái và bảo tổn chức năng thất trái là vấn
đề không còn bàn cãi nhưng giữ lại như thế nào trên
bệnh nhân thấp tim lại là một thách thức về kỹ thuật vì
khó có thể đặt được van đủ kích cỡ và nguy cơ kẹt van
sau mổ. Chúng tôi từ những kinh nghiệm bản thân
cũng như học hỏi các tác giả đi trước có hai cải tiến:
2. Michel Pompeu Barros De Oliveira Sá. Complete
versus partial preservation of mitral valve
apparatus during mitral valve replacement: metaanalysis and meta-regression of 1535 patients.
European Journal of Cardio-Thoracic Surgery 44
(2013) 905–912
1. Mạnh dạn xẻ lá van nhưng không cắt bỏ lá
van, giữ lại toàn bộ dây chằng và cột cơ chỉ loại bỏ
các tổ chức vôi hoá.
5. García-Fuster R, Vázquez A, Peláez AG, Martín
E, Cánovas S, Gil O et al. Factors for development
of late significant tricuspid regurgitation after
mitral valve replacement: the impact of
subvalvular preservation. Eur J Cardiothorac Surg
2011;39:866–74.
2. Sử dụng rộng rải dao điện để lẫy vôi, xẻ lá
van để hạn chế đến mức thấp nhất thao tác co kéo trên
lá van, dây chằng và cột cơ.
Chúng tôi chờ đợi các kết quả thống kê để thông
báo các kết quả bước đầu nhưng khoảng một nửa các
trường hợp đặt van cỡ 25mm và một nửa đặt được van
cỡ 27mm. Nhìn chung ở người Việt nam cỡ van
25mm là thích hợp trừ những trường hợp bệnh nhân
3. Hassouna A, Elmahalawy N. Valve replacement
in rheumatic mitral in- competence: total versus
posterior chordal preservation. Cardiovasc Surg
1998;6:133–8.
4. Muthialu N, Varma SK, Ramanathan S,
Padmanabhan C, Rao KM, Srinivasan M. Effect
of chordal preservation on left ventricular
function. Asian Cardiovasc Thorac Annal
2005;13:233–7.
6. Sá MPBO, Ferraz PE, Escobar RR, Martins WS,
Sá FBCA, Lustosa PC et al. Preservation versus
non-preservation of mitral valve apparatus during
mitral valve replacement. A meta-analysis of 3835
patients. Interact CardioVasc Thorac Surg
2012;15:1033–9.
27
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ U TUYẾN ỨC
TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC
Phạm Hữu Lư*, Ngô Gia Khánh*, Nguyễn Hữu Ước*, Cao Thị Anh Đào**
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả
phẫu thuật nội soi lồng ngực điều trị bệnh lý u tuyến
ức tại Bệnh viện Việt Đức. Phương pháp: Nghiên
cứu mô tả hồi cứu 32 bệnh nhân u tuyến ức có kích
thước dưới 8cm, không xâm lấn vào các cấu trúc
xung quanh được điều trị bằng phẫu thuật nội soi
lồng ngực từ tháng 01/2008 tới 05/2014 về các thông
số trước, trong và sau mổ cùng kết quả giải phẫu
bệnh. Kết quả: Bao gồm 18 nam và 14 nữ. Tuổi
trung bình 50,8 ± 9,3 (14 – 68). Phát hiện bệnh do
khám sức khỏe định kỳ 11/ 32 trường hợp (34,4%).
Triệu chứng chính khi vào viện là đau ngực là 15/ 21
trường hợp (71,4%). Triệu chứng nhược cơ là 7/ 21
trường hợp (33,3%). Kích thước khối u nhỏ nhất 3,3
x 2,7cm; lớn nhất 10 x 7cm. Thời gian phẫu thuật
124,4 ± 13,5 phút (60-160). Thời gian rút dẫn lưu
màng phổi trung bình 2,8 ± 0,5 ngày (2-4). Số ngày
nằm viện trung bình 4,2 ± 0,74 ngày (3-8). Không có
tử vong và biến chứng nặng sau mổ. Kết quả giải
phẫu bệnh u tuyến ức: 08 týp A, 05 týp AB, 12 týp
B1, 07 týp B2. Kết luận: Điều trị bệnh lý u tuyến ức
bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực là một phương
pháp có độ an toàn, có tính khả thi cao, kết quả tốt
sau phẫu thuật.
Từ khóa: u tuyến ức, phẫu thuật nội soi lồng ngực
Video-assisted thoracoscopic surgery approach to
thymic tumor at Viet Duc hospital
Objective: The study aimed to evaluate the results
of video-assisted thoracoscopic surgery in treatment
of thymic tumors in Viet Duc Hospital. Methods: The
retrospective study, 32 thymic tumors were treated
with video-assisted thoracoscopic surgery from 01/
2008 to 05/ 2014 of the variables before, during and
after operation and the pathological results. Results:
18 male and 14 female. Mean age 50,8 ± 9,3 (14 –
68). The main symptom is chest pain on admission 15/
21 (71, 4%). The largest tumor size 10 x 7cm, the
smallest tumor size 3,3 x 2,7cm. Operation time 124,4
± 13,5 min (60-160). Number of hospital days 4,2 ±
28
0,7 days (3-8). No mortality and major complications
after operation. Pathological results: 08 thymoma type
A, 05 thymoma type AB, 12 thymoma type B1, 07
thymoma type B2. Conclusion: Treatment of thymic
tumors by video-assisted thoracoscopic surgery is a
method of safe and feasible, good results after
operation.
Keywords: thymic tumor, video – assisted
thoracoscopic surgery (VATS)
Đặt vấn đề
U tuyến ức là loại u thường gặp nhất trong các u
trung thất trước, ít có biểu hiện lâm sàng khi u còn
nhỏ, điều trị chủ yếu hiện nay vẫn là mổ, đặc biệt là
phẫu thuật nội soi lồng ngực. Phẫu thuật nội soi lồng
ngực (PTNSLN) đã và đang là một phương pháp điều
trị có hiệu quả u trung thất nói chung và u tuyến ức
nói riêng [1], [2], [3], [12], [13]. Tại Việt Nam,
PTNSLN đang được nhiều trung tâm trong cả nước
ứng dụng để điều trị một số bệnh lý như: tràn khí
màng phổi tự phát, nốt phổi đơn độc, cắt hạch giao
cảm trong bệnh ra mồ hôi tay, bệnh lý u trung thất mà
trong đó có u tuyến ức. *
Hiện nay, chỉ định điều trị u tuyến ức bằng
PTNSLN với các u tuyến ức giai đoạn I, II (theo phân
loại của Masaoka) đã được hầu hết các tác giả chấp
nhận nhưng với các u ở giai đoạn III, IV thì vẫn còn
tranh cãi [4], [7], [12], [13].
Tại khoa Phẫu thuật Tim mạch và lồng ngực –
Bệnh viện Việt Đức, chúng tôi đã ứng dụng thành
công PTNSLN để điều trị u tuyến ức. Nghiên cứu
nhằm đánh giá kết quả PTNSLN điều trị bệnh lý u
tuyến ức tại Bệnh viện Việt Đức.
* Khoa Phẫu thuật Tim mạch Lồng Ngực - Bệnh viện Việt Đức
** Bộ môn gây mê hồi sức – Trường đại học y Hà Nội
Người chịu trách nhiệm khoa học: PGS.TS Nguyễn Hữu Ước
Ngày nhận bài: 10/08/2014 - Ngày Cho Phép Đăng: 26/10/2014
Phản Biện Khoa học: GS.TS. Đặng Hanh Đệ
PGS.TS. Lê Ngọc Thành
PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ U TUYẾN ỨC TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC
Đối tượng và phương pháp
Đối tượng bao gồm tất cả các bệnh nhân được
PTNSLN cắt u tuyến ức tại bệnh viện Việt Đức từ 01/
2008 đến 05/ 2014. Phương pháp nghiên cứu mô tả
hồi cứu, can thiệp trên bệnh nhân không đối chứng.
Các tham số nghiên cứu gồm: tuổi, giới, lý do vào
viện, kích thước khối u, vị trí khối u, thời gian rút dẫn
lưu, biến chứng, kết quả điều trị ... Số liệu được nhập
và xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS 18.0
Lựa chọn đối tượng:
Tất cả các trường hợp khối u tuyến ức có kích
thước dưới 10cm đo trên CT-Scanner, có kết quả sinh
thiết xuyên thành qua hướng dẫn của CT-Scanner cho
kết quả lành tính hoặc ung thư giai đoạn đầu chưa phá
vỡ lớp vỏ, không có tính chất xâm lấn các tổ chức lân
cận trong trung thất. Bệnh nhân không có chống chỉ
định can thiệp phẫu thuật nội soi lồng ngực.
Qui trình phẫu thuật:
- Gây mê bằng ống nội khí quản 1 nòng (có bơm
CO2 khoang màng phổi) hoặc 2 nòng (không cần
bơm CO2).
- Bệnh nhân nằm nghiêng 450 sang bên đối diện.
Người mổ đứng phía sau bệnh nhân. Sử dụng dụng cụ
nội soi của hãng Karl-Storz.
- Đặt trocart kiểu IV (theo Sasaki [10]): Trocar
đầu tiên cho camera tại khoang gian sườn VI hoặc VII
đường nách trước. Các trocar khác (2 hay 3 trocar) thì
tùy theo vị trí của tổn thương u, thường bố trí thống
nhất theo nguyên tắc “tam giác mục tiêu” [10], [14]
(thường nằm ở khoang gian sườn III và V đường nách
sau). Có thể cần thêm đường mở ngực nhỏ (3 – 5cm)
nếu u có kích thước trên 8cm hay dính nhiều, xâm lấn
vào các thành phần xung quanh khó bóc tách hoàn
toàn bằng nội soi.
- Phẫu tích và cắt toàn bộ khối u bằng dao điện
hoặc dao siêu âm (Harmonic scalpel), nếu mạch cấp
máu cho u to thì dùng clip bạc cặp chủ động. Nếu u to
thì có thể cắt khối u từng phần.
- U được lấy ra khỏi lồng ngực bằng cách cho vào
một túi nilon, rút qua lỗ trocar hoặc qua đường rạch da
2 – 3cm mở rộng từ chân lỗ trocar khi u nhỏ. Nếu khối
u lớn dùng kéo cắt u từng phần và lấy ra qua đường
mở ngực nhỏ. Bệnh phẩm được gửi xét nghiệm giải
phẫu bệnh lý.
- Cầm máu và kết thúc phẫu thuật. Thường đặt 1
dẫn lưu màng phổi bằng ống silicon 32F hoặc 18F
dưới hướng dẫn của camera, làm nở phổi trước khi rút
trocar và đóng ngực.
Chăm sóc và theo dõi sau phẫu thuật:
Theo dõi các biến chứng sau phẫu thuật (chảy
máu, tràn khí màng phổi, xẹp phổi), chụp x-quang
kiểm tra và rút dẫn lưu, thu thập kết quả giải phẫu
bệnh.
Kết quả
Trong số 32 bệnh nhân nghiên cứu, có 18 nam và 14 nữ. Tuổi trung bình 50,8 ± 9,3 (14 – 68).
Bảng 1: Dấu hiệu lâm sàng của bệnh nhân khi vào viện
Dấu hiệu lâm sàng
n = 32
%
11
34,4
Tức ngực hoặc đau ngực
15
71,4
Mệt mỏi, sụp mi
7
33,3
Nói khàn tiếng
1
4,8
Nuốt nghẹn, hoặc nuốt khó
2
9,5
Khó thở
7
33,3
Ho hoặc ho + sốt
8
38,1
Không có (phát hiện tình cờ)
Có dấu hiệu trên lâm
sàng
Nhận xét: Trong số các bệnh nhân có triệu chứng khi đến viện thì đau ngực là triệu chứng hay gặp
chiếm 15/ 21 trường hợp (71, 4%), tuy nhiên có 34, 4% phát hiện bệnh khi khám sức khỏe định kỳ.
29
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
Bảng 2: Các thông số khác liên quan đến chẩn đoán, phẫu thuật, hậu phẫu
Thông số
Kết quả
Kích thước U trên phim cắt lớp vi tính ngực (cm)
Nhỏ nhất 3,3x2,7cm;
Lớn nhất 10x7cm
Gây mê bằng ống nội khí quản 2 nòng (Carlens)
32 (100%)
Cần kết hợp bơm CO2 khoang màng phổi áp lực 5mmHg (đặt ống 2 nòng
chưa hiệu quả)
4 (12,5%)
Thời gian mổ trung bình (phút)
124,4 ± 13,5 phút (60-160)
Thời gian rút dẫn lưu sau mổ trung bình (ngày)
2,8 ± 0,5 ngày (2 – 4)
Thời gian nằm viện sau mổ trung bình (ngày)
4,2 ± 0,7 ngày (3-8)
Nhận xét: Tất cả các trường hợp đều được cắt toàn bộ khối u và đều được gây mê bằng ống nội khí quản
hai nòng (Carlens) nhưng có 04 trường hợp không đạt được xẹp phổi hoàn toàn cần bơm CO2 hỗ trợ. Có 01
trường hợp mở đường mở ngực nhỏ 5cm do khối u to và dính nhiều. Thông thường dẫn lưu màng phổi được rút
sau mổ 2 – 3 ngày. Những trường hợp u tuyến ức có kèm theo triệu chứng nhược cơ thường có thời gian nằm
viện dài ngày hơn do bệnh nhân cần điều trị nội khoa sau mổ.
Bảng 3: Kết quả giải phẫu bệnh
Vi thể
n
%
Thymoma tuýp A
8
25
Thymoma tuýp AB
5
15,63
Thymoma tuýp B1
12
37,5
Thymoma tuýp B2
7
21,87
32
100
Tổng
Trong nghiên cứu chưa gặp biến chứng nặng nào xảy ra sau mổ có liên quan tới kỹ thuật nội soi.
Chỉ có 1 ca chảy máu chân dẫn lưu màng phổi, được xử trí khâu tăng cường chân dẫn lưu tại giường. Đánh
giá mức độ hài lòng của bệnh nhân với kết quả mổ nội soi cho thấy: 28/ 32 bệnh nhân (87,5%) rất hài lòng
và 4/ 32 bệnh nhân (11,5%) hài lòng với phẫu thuật nội soi chủ yếu liên quan đến 2 ưu điểm là ít đau sau
mổ và sẹo mổ thẩm mỹ.
Kết quả khám lại sau mổ trung bình là: 28, 9 ± 20,9 tháng (ngắn nhất là 2 tháng, dài nhất là 81 tháng):
Có 01 bệnh nhân thymoma typA kèm nhược cơ đã chết sau mổ 01 năm do bệnh lý nhược cơ nặng, còn các bệnh
nhân khác cho kết quả tốt: bệnh nhân không có tái phát u trên x-quang và cắt lớp vi tính.
Bàn luận
Vấn đề chỉ định của PTNSLN trong điều trị bệnh lý u tuyến ức:
Chỉ định của PTNSLN điều trị u tuyến ức dựa vào kích thước, mối liên quan với các tạng xung quanh
và giai đoạn u (bảng 4).
30
PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ U TUYẾN ỨC TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC
Bảng 4: Phân chia u tuyến ức theo Masaoka và theo tổ chức y tế thế giới (WHO) [15]
Phân chia theo Masaoka
I
Phân chia theo WHO
Khối u có vỏ rõ, có thể có hiện tượng xâm lấn
nhưng chưa vượt quá lớp vỏ trên vi thể
Týp AB (hỗn hợp)
II
IIa Vi thể u xâm lấn qua lớp vỏ
Giai
đoạn
Týp B
IIb Đại thể xâm lấn qua lớp vỏ hoặc tổ chức mỡ cạnh
tuyến ức hoặc dính vào màng phổi hoặc màng tim
nhưng chưa vượt qua màng này.
III
Týp A (tế bào hình thoi, thể tủy)
Đại thể xâm lấn tới các cơ quan lân cận (màng tim,
mạch máu lớn, phổi)
- B1(giàu lympho bào phần lớn ở
vỏ)
- B2 (thể vỏ)
- B3 (ung thư biểu mô tuyến ức
biệt hóa rõ, biểu mô)
IV
IVa U thâm nhiễm ra màng phổi hoặc màng tim
Týp C (ung thư biểu mô tuyến ức)
IVb U di căn theo đường bạch huyết hoặc máu
Theo hầu hết các tác giả đã chấp nhận PTNSLN
thực hiện tốt với các khối u tuyến ức ở giai đoạn I, II
nhưng với khối u ở giai đoạn III, IV thì còn nhiều bàn
cãi. Mặt khác, kích thước khối u tuyến ức chỉ định mổ
nội soi cũng không giống nhau giữa các tác giả như:
Thirugnanam Agasthian (Singapore) đã tiến hành
PTNSLN với những u tuyến ức có đường kính không
quá 5cm [4]. Theo Akihiko Kitami và cs thì phẫu
thuật nội soi có thể thực hiện với các trường hợp u
tuyến ức có kích thước không quá 10 cm đường kính
[1]… Yếu tố chỉ định trước mổ có tính chất tương đối
vì mức độ thành công của phẫu thuật còn phụ thuộc
vào tổn thương thực tế trong mổ, kinh nghiệm của bác
sỹ mổ, trang thiết bị dụng cụ hỗ trợ. Bên cạnh đó, tính
chất xâm lấn trên phim chụp cắt lớp vi tính cũng được
đặt ra khi chỉ định là bờ khối u rõ, gọn; không có tính
chất xâm lấn vào tổ chức lân cận u. Trong những
trường hợp khối u dính nhiều vào tổ chức xung quanh
thì nên mở ngực tối thiểu để đảm bảo cho cuộc mổ
được tiến hành an toàn [6], [8], [18].
Trong nghiên cứu của chúng tôi: khối u to nhất
được lấy bỏ bằng phẫu thuật nội soi có kích thước
10x7cm (u tuyến ức týp B1), trong quá trình mổ đã
phải làm thêm đường mở ngực tối thiểu (5cm) giúp cho
thao tác kỹ thuật an toàn và lấy khối u ra được dễ dàng.
Kết quả sinh thiết u qua hướng dẫn của cắt lớp vi
tính cũng là một yếu tố quan trọng trong chỉ định mổ
nội soi. Hầu hết các trường hợp (20/ 32) u tuyến ức có
chỉ định PTNSLN và chưa có biểu hiện xâm lấm trên
phim chụp CT – Scanner được sinh thiết xuyên thành
qua hướng dẫn của CT trước mổ để có chẩn đoán
chính xác thương tổn, từ đó có biện pháp điều trị thích
hợp với mỗi loại tổn thương ví dụ điều trị hóa chất
nếu là u lympho hoặc mổ nếu là u tuyến ức chưa xâm
lấn qua lớp vỏ u... Giá trị của phương pháp này nhằm
xác định rõ trước mổ giai đoạn u và định tuýp u tuyến
ức cũng như phân biệt với u lympho [16], [17]. Tuy
nhiên, khi khối u tuyến ức nhỏ, gần các vị trí nguy
hiểm như rốn phổi, quai động mạch chủ, tim…thì nên
PTNSLN chẩn đoán trong mổ [17]. Như vậy, phân
tích kết quả chẩn đoán hình ảnh (chụp cắt lớp vi tính)
và giải phẫu bệnh trước mổ là hai yếu tố quan trọng để
chỉ định áp dụng phương pháp PTNSLN điều trị u
tuyến ức.
Khả năng thực hiện và kết quả PTNSLN điều trị
u tuyến ức:
Một yếu tố gây ảnh hưởng đến khả năng áp dụng
mổ nội soi đối với u tuyến ức là việc đa số các bệnh
nhân đều được phát hiện bệnh khá muộn, u đã tương
đối to và xâm lấn nhiều ra xung quanh. Các tài liệu
31
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
kinh điển [3] đã xếp u trung thất vào nhóm bệnh
không có triệu chứng đặc hiệu và dấu hiệu cơ năng
gợi ý nhất để bệnh nhân đi khám bệnh là tức hay đau
ngực. Các nhận định này phù hợp với kết quả nghiên
cứu khi có 71,4% có dấu hiệu tức hay đau ngực và
34,4% phát hiện bệnh một cách tình cờ nhờ chụp x
quang ngực khi khám sức khỏe định kỳ (bảng 1).
Trong tương lai với sự phát triển của hệ thống chăm
sóc sức khỏe ban đầu tốt, hy vọng có thể mổ bệnh
nhân với khối u có kích thước nhỏ hơn, khi đó mổ nội
soi sẽ mang lại nhiều lợi ích cho người bệnh. Đặc biệt
là các trường hợp u tuyến ức phát triển chưa vượt quá
lớp vỏ. Với những u tuyến ức giai đoạn I, II mổ nội
soi cho phép lấy hết tổ chức u với nhiều ưu điểm hơn
hẳn so với mổ mở kinh điển [5][12].
Một khi chỉ định đúng thì PTNSLN có thể thực
hiện được. Việc đặt trocar trong mổ phụ thuộc vào vị
trí của khối u trong trung thất, Dựa trên nguyên tắc
“cấu trúc kim tự tháp” của Landreneau và cộng sự
[14], Sasaki và cs (Nhật Bản) đã đưa ra nguyên tắc
“tam giác mục tiêu” để đặt trocar nhằm tạo không
gian làm việc tốt nhất cho các thao tác mổ [10]. Điều
này đã được kiểm chứng trong nhóm nghiên cứu của
chúng tôi: tất cả các bệnh nhân áp dụng đặt trocart
kiểu IV theo Sasaki [10], diễn biến thuận lợi trong
mổ, không có tai biến trong mổ, lấy toàn bộ u, chỉ có
1 trường hợp do khối u lớn, dính nhiều vào các tổ
chức xung quanh phải mở ngực 5cm có dùng nội soi
hỗ trợ. Theo một số tác giả khuyến cáo với những
khối u có kích thước lớn thì sẽ rất khó khăn và dễ xảy
ra tai biến nên sử dụng đường mở ngực nhỏ hỗ trợ
trong mổ [7][8][18]. Thực tế mổ nội soi ở các trường
hợp u trung thất và cụ thể là u tuyến ức chúng tôi thấy
rằng: vấn đề đặt trocar nên lấy nguyên tắc “tam giác
mục tiêu” làm căn bản, tùy từng trường hợp cụ thể mà
có cách bố trí trocart hợp lý nhằm giúp phẫu thuật dễ
dàng hơn.
Trong nghiên cứu của chúng tôi thấy rằng nếu
bệnh nhân được gây mê bằng ống Carlens sẽ tạo cho
một trường mổ rộng rãi để tiến hành các thao tác mổ.
Tuy nhiên nếu dùng ống nội khí quản một nòng và kết
hợp bơm khí CO2 với áp lực dưới 5 mmHg mà không
làm ảnh hưởng tới huyết động và các thông số hô hấp
trong và sau mổ [9], [11], thì vẫn có thể thực hiện các
thao tác nội soi. Chúng tôi gặp 4 bệnh nhân đặt
32
Carlens thất bại như kết quả ở bảng 2 do hầu hết là đặt
ống nội khí quản hai nòng “mù” không có soi dẫn
đường nên cần bơm CO2 hỗ trợ làm xẹp phổi, cuộc
mổ diễn biến thuận lợi.
Phân bố các dạng tổn thương giải phẫu bệnh u
tuyến ức được cắt bỏ bằng mổ nội soi (bảng 3) cho
thấy sự phù hợp với kết quả chẩn đoán hình ảnh cũng
như chỉ định mổ, và cũng tương tự như trong nghiên
cứu của các tác giả nước ngoài về PTNSLN.
Kết quả khám lại với thời gian trung bình là 28, 9
± 20,9 tháng (ngắn nhất là 2 tháng, dài nhất là 81
tháng): Đặc biệt với nhóm bệnh nhân u tuyến ức týp B
(20 trường hợp) trong đó có 07 trường hợp thymoma
B2 chưa có tái phát u khi khám lại. Và 12 trường hợp
thymoma tuýpB1 không có tái phát u sau mổ. Với
nhóm bệnh nhân có nhược cơ trước mổ (7 bệnh nhân)
có 1 trường hợp tử vong do nhược cơ tiến triển không
đáp ứng điều trị, còn 6 trường hợp khác tiến triển tốt
(không phải dùng thuốc 3, giảm liều thuốc 2, không
thay đổi 1).
Kết luận
PTNSLN là một hướng đi rất tốt trong điều trị triệt
để bệnh lý u tuyến ức. Kích thước, tính chất và độ
xâm lấn u là các tiêu chí quan trọng để chọn lựa bệnh
nhân. Ít đau sau mổ, thời gian nằm viện ngắn và sẹo
mổ thẩm mỹ là các ưu điểm cơ bản của phương pháp
này. Có thể áp dụng thường qui kỹ thuật này trong mổ
lồng ngực.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Akihiko Kitami, Takashi Suzuki, Ryosuke
Usuda, Mikio Masuda, and Shuichi Suzuki
(2004),
“Diagnostic
and
Therapeutic
Thoracoscopy for Mediastinal Disease”, Ann
Thorac Cardiovasc Surg 10: 14–8
2.
Alberto de Hoyos, Amit Patel, Ricardo S.
Santos, and Rodney J. Landreneau (2005),
"Video – assisted thoracic surgery for
mediastinal tumors and other diseases within
the mediastinum", General Thoracic Surg; 2:
2455 – 2476
3.
Beau V. Duwe, Daniel H. Sterman and Ali I.
Musani (2005), “Tumors of the Mediastinum”,
Chest 128; 2893-2909
PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ U TUYẾN ỨC TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC
4.
5.
6.
Thirugnanam Agasthian (2011). “Can invasive
thymomas be resected by video-assisted
thoracoscopic surgery?”. Asian Cardiovascular
& Thoracic Annals; 19(314): 225 – 227
Yuan ZY, Cheng GY, Sun KL, Mao YS, Li J,
Wang YG, Wang DL, Gao SG, Xue Q, Huang
JF, Mu JW (2014), “Comparative study of
video-assisted thoracic surgery versus open
thymectomy for thymoma in one single center”,
J Thorac Dis; 6(6): 726 - 733
Mai Văn Viện (2010), “Ứng dụng phẫu thuật
nội soi lồng ngực điều trị u trung thất tại bệnh
viện 103”, Y học TP Hồ Chí Minh 14(4): 529 –
535
7.
Anthony. P. C Yim (1995), “Video-assisted
thoracoscopic
management
of
anterior
mediastinal masses. Preliminary experience and
results”, Surg Endosc 9(11): 1184 – 1148
8.
Phạm Hữu Lư, Nguyễn Công Hựu, Lê Ngọc
Thành và cs (2007), “Kết quả bước đầu điều trị
bệnh lý u trung thất bằng phẫu thuật nội soi
lồng ngực tại bệnh viện Việt Đức”, Ngoại khoa;
5: 39- 43
lumen endotracheal tube anesthesia", Chest; 126:
281 – 285
12. Ye B, Tantai JC, Ge XX, Li W, Feng J, Cheng
M, Shi JX, Zhao H (2014), “Surgical techniques
for
early-stage
thymoma:
video-assisted
thoracoscopic thymectomy versus transsternal
thymectomy”, J Thorac Cardiovasc Surg;
147(5): 1599 – 1603
13. Yu-Jen Cheng; Eing-Long Kao; and ShahHwa Chou (2005). “Videothoracoscopic
Resection of Stage II Thymoma”. Chest; 128:
3010 – 3012
14. Landreneau RJ, Mack MJ, Hezelrigg SR,
Dowling RD, Acuff TE, Magee MJ, Ferson PF
(1992). “Video-assisted thoracic surgery: basic
technical concepts and intercostal approach
strategies”. Ann Thorac Surg; 54: 800 – 807.
15. Frank W. Sellke; Pedro J. del Nido; Scott J.
Swanson (2005), “Thymic tumors”, Sabiston &
Spencer’s Surgery of the Chest 8th Edition;
Elsevier & Saunders: 640 – 647
16. Nguyễn Thanh Hồi (2014). “Kỹ thuật sinh thiết
cắt xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của chụp
cắt lớp vi tính”. U trung thất. Nhà xuất bản y
học: 103 – 126
9.
Ian D. Conacher (2002), “Anaesthesia for
thoracoscopic surgery”, Best Practice & Research
Clinical Anaesthesiology; 16(1): 53 – 62
10.
Masato Sasaki, Seiya Hirai, Masakazu
Kawabe, Takahiko Uesaka, Kouichi Morioka,
Akio Ihaya, Kuniyoshi Tanaka (2005),
“Triagle target principle for the placement of
trocars during video – assisted thoracic surgery”,
European Journal of Cardio – Thoracic Surgery;
27: 307 – 312
17. Virginia PÐrez Duenas, Isabel Torres
S¸nchez, Francisco GarcÝa RÝo, Emilio
Valbuena Dur¸n, Blanca Vicandi Plaza, Jose
MarÝa Viguer GarcÝa-Moreno (2010).
“Usefulness CT-guided F.N.A.C in the
Diagnosis of Mediastinal Lesions”. Arch
Bronconeumol; 46(5): 223 – 229
11.
Robert James Cerfolio, Ayesha S. Bryant,
Todd M. Sheils, Cynthia S. Bass, Alfred A.
Bartolucci
(2004),
"Video
–
assisted thoracoscopic surgery using single –
18. Trần Minh Bảo Luân (2007), “Nghiên cứu
chỉ định điều trị u trung thất bằng phẫu thuật
nội soi lồng ngực”, Y học TP Hồ Chí Minh
11(1): 364 – 371
33
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
PHẪU THUẬT ĐÓNG ĐƯỜNG RÒ
CỦA ĐỘNG MẠCH VÀNH PHẢI VÀO THẤT TRÁI
Nguyễn Công Hựu*, Đặng Quang Huy*, Lê Ngọc Thành*
Tóm tắt
Rò động mạch vành là một bệnh lý ít gặp đa số
do nguyên nhân bẩm sinh, ngoài ra cũng có thể do
nguyên nhân mắc phải (can thiệp thủ thuật vào tim
hoặc chấn thương). Trong đó rò động mạch vành vào
thất trái là trường hợp rất hiếm gặp. Chúng tôi báo cáo
phẫu thuật thành công một trường hợp rò động mạch
vành phải vào thất trái với kích thước lỗ rò lớn sau
khi cố gắng bịt dù thất bại.
arterioartery fistula) là rò ĐMV vào thất trái – là loại
rò ĐMV ít gặp.
Từ khóa: rò động mạch vành, chụp động mạch
vành, điều trị rò động mạch vành…
Abstract
Coronary artery fistulas are a rare anomaly. The
majority are congenital in origin, although they may
be acquired due to invasive cardiac procedures or
trauma. Among them, communication between
coronary artery and left ventricle is very rare. We
announce a successful correction of large fistula of
right coronary artery to left ventricle after failure of
transcatheter occlusion.
Key words: coronary artery fistula, coronary
angiography, treatment of coronary fistula…
Hình 1: ĐMV rò bị giãn ngoằn ngoèo 5
Trường hợp lâm sàng đầu tiên được báo cáo năm
1865 bởi Krause. Swan và cộng sự báo cáo trường
hợp phẫu thuật thành công đầu tiên điều trị rò ĐMV
phải vào thất phải có sử dụng hệ thống tim phổi nhân
tạo năm 1959. Đến nay đã có nhiều báo cáo và tổng
kết về phẫu thuật và can thiệp điều trị rò ĐMV bẩm
sinh, tuy vậy rò ĐMV bẩm sinh vào thất trái là bệnh
cảnh lâm sàng hiếm gặp, phương pháp can thiệp phẫu
thuật khó hơn so với các vị trí rò khác. 6 *
GIỚI THIỆU
Rò động mạch vành (ĐMV) được chia thành (1)
rò ĐMV bẩm sinh và (2) rò ĐMV mắc phải (chấn
thương, sau các thủ thuật can thiệp vào tim …). 1-4
Trong đó, chúng ta quan tâm chủ yếu tới rò ĐMV
bẩm sinh do tần suất gặp nhiều hơn.
Một số tác giả có cách phân loại khác dựa vào đặc
điểm sinh bệnh học: (1) rò động - tĩnh mạch vành
bẩm sinh (congenital coronary arteriovenous fistula)
là sự thông thương trực tiếp giữa một ĐMV với buồng
nhĩ, thất phải, xoang vành hoặc các tĩnh mạch nhánh
của xoang vành, tĩnh mạch chủ (TMC) trên, động
mạch phổi (ĐMP) hoặc các tĩnh mạch phổi gần tim –
đây là loại rò ĐMV hay gặp và (2) rò động - động
mạch vành bẩm sinh (congenital coronary
34
Hình 2: Hình ảnh giãn thất trái trên xquang ngực
*
Trung tâm Tim mạch Bệnh viện E
Người chịu trách nhiệm khoa học:PGS.TS. Lê Ngọc Thành
Ngày nhận bài:10/08/2014 - Ngày Cho Phép Đăng: 28/10/2014
Phản Biện Khoa học: PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng
GS.TS. Bùi Đức Phú
PHẪU THUẬT ĐÓNG ĐƯỜNG RÒ CỦA ĐỘNG MẠCH VÀNH PHẢI VÀO THẤT TRÁI
Hình 3: Dấu hiện tăng gánh tâm trương thất trái,
không biểu hiện thiếu máu cơ tim trên điện tâm đồ
Trong bài này chúng tôi giới thiệu một trường hợp
lâm sàng bệnh nhân (BN) được mổ đóng lỗ rò ĐMV
phải vào thất trái sau khi đã cố gắng bịt lỗ rò bằng
phương pháp tim mạch can thiệp.
Hình 5: Hình ảnh rò đoạn giữa động mạch liên thất
sau vào thất trái, ĐMV phải giãn trên toàn bộ
chiều dài trên phim MSCT chụp ĐMV
TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG
Trường hợp BN nữ 39 tuổi, quê ở Bắc Ninh, được
chẩn đoán rò ĐMV phải vào thất trái cách đây 7 năm
nay tại bệnh viện Bạch Mai, đợt này BN đi khám vì
khó thở khi gắng sức vừa, thỉnh thoảng đau tức ngực
(T), BN vào viện trong tình trạng tỉnh, khó thở NYHA
2, tim đều, tiếng thổi tâm trương 3/6 sát bờ trái xương
ức, gan không to, không phù.
Chụp MSCT 64 dãy có dựng hình hệ ĐMV thấy
ĐMV phải có xuất phát và đường đi bình thường, đoạn
giữa động mạch liên thất sau rò vào thất trái qua thành
sau, toàn bộ ĐMV phải giãn rộng, đường kính 1115mm, nhiều chỗ có hình ảnh xơ vữa, không thấy huyết
khối bám thành. ĐMV trái có xuất phát, đường đi và
phân nhánh cấp máu bình thường.
Xquang ngực: hình ảnh giãn thất trái. (hình 2)
Các xét nghiệm máu cho kết quả trong giới hạn
bình thường.
Điện tim có dấu hiệu tăng gánh tâm trương thất
trái, không có biểu hiện thiếu máu cơ tim. (hình 3)
Hình 4: Hình ảnh rò ĐMV phải vào thất trái
trên siêu âm qua thành ngực
Trên siêu âm tim có hình ảnh rò ĐMV phải vào
thành sau thất trái, vị trí lỗ rò ngang với tổ chức dây
chằng lá sau van hai lá. Kích thước gốc ĐMV phải
16mm, đường kính lỗ rò 12mm, đường kính động
mạch vành trái 5mm. Đường kính nhĩ trái 33mm, thể
tích tâm trương thất trái giãn nhiều (70mm), thể tích
tâm thu thất trái giãn (54mm), chức năng tâm thu thất
trái giảm 44%.
BN được chỉ định can thiệp bằng thông tim với
mục đích chụp xác định vị trí, kích thước lỗ rò và bịt
lỗ rò bằng dù. Kết quả thông tim cho thấy lỗ rò kiểu
bên – bên, rò từ đoạn giữa động mạch liên thất sau
vào thất trái qua thành sau, đường kính lỗ rò 10 –
12mm. Phần ngoại vi của động mạch liên thất sau
nhỏ. Các bác sĩ can thiệp cố gắng bịt lỗ rò bằng dù
nhưng do phải sử dụng loại dù lớn nên có biểu hiện
thiếu máu cơ tim ngay khi bịt dù buộc các bác sĩ phải
lấy dù ra.
BN được tiến hành mổ theo chương trình, BN
được gây mê toàn thân, mở xương ức, Tim giãn chủ
yếu là tim trái, không có bất thường về xuất phát và
đường đi của hệ thống ĐMV, ĐMV phải giãn nguyên
ủy cho tới đoạn giữa của động mạch liên thất sau,
động mạch giãn đều không có hình ảnh túi phình,
đường kính chỗ giãn khoảng 10 -12 mm, sờ thấy thrill
trong thì tâm trương trên suốt đoạn giãn, thrill rõ nhất
ở đoạn giữa của động mạch liên thất sau, tương ứng vị
trí lỗ rò. Động mạch liên thất sau sau vị trí này có kích
thước bình thường – tạo nên hiện tượng giảm kích
thước đột ngột.
35
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
Có hai hình thức rò ĐMV: (1) lỗ rò nằm trên
thân của một ĐMV chính, ĐMV này còn tiếp tục
cấp máu cho cơ tim ở phần sau của lỗ rò (rò bên bên) và (2) lỗ rò nằm ở phần tận cùng của một
ĐMV chính hoặc nằm ở một nhánh bên (rò tận bên).
ĐMV rò luôn bị giãn ra, kéo dài và có thể trở nên
ngoằn ngoèo; mức độ biến đổi của các ĐMV tỉ lệ
thuận một cách chặt chẽ với kích thước của dòng
shunt qua lỗ rò. Thông thường ĐMV rò bị giãn đều
trên suốt chiều dài đoạn giãn, tuy vậy cũng có thể tạo
thành các ổ phình mạch tại vị trí đối diện với lỗ rò
hoặc ngay gần lỗ rò.
Các ổ phình mạch này hay hình thành trong
trường hợp rò của ĐMV phải vào mặt sau của thất trái
hoặc thất phải. Nhiều tác giả thấy rằng mặc dù các các
túi phình mạch này tăng dần kích thước theo thời gian
tuy nhiên hiếm khi tự vỡ. 7 8
Hình 6: Hình ĐMV phải giãn đều trên suốt chiều dài
Thiết lập tuần hoàn ngoài cơ thể (ĐMC, TMC trên
và TMC dưới), vị trí rò vành được đánh dấu trước khi
clamp ĐMC, ngừng tim, bảo vệ cơ tim bằng dung
dịch custadiol ngược dòng. Động mạch liên thất sau
tương ứng với vị trí rò vành (đã được khâu đánh dấu
trước) được mở theo chiều dọc. Lỗ rò vành đường
kính 10mm, bờ lỗ rò bị vôi hóa nhiều thành từng
mảng, không thấy lỗ đầu ngoại vi của động mạch liên
thất sau.
Tiến hành vá lỗ rò bằng màng tim, khâu vắt với
chỉ prolene 6.0. Khâu vắt lại đường mở ĐMV bằng
prolene 6.0. Phần còn lại của phẫu thuật được thực
hiện như thông thường.
Trong trường hợp rò bên – bên, đoạn ĐMV sau vị
trí rò nhỏ đi một cách đột ngột so với đoạn ĐMV giãn
phía trước và có kích thước nhỏ hơn so với bình
thường do hiện tượng ăn cắp máu vành.
BN của chúng tôi có kiểu rò bên bên từ động
mạch liên thất sau vào thất trái, toàn bộ ĐMV phải và
đầu trung tâm của động mạch liên thất sau bị giãn đều,
nhánh ngoại vi bị nhỏ lại đột ngột. Sau khi mở ĐMV
tại vị trí rò, chúng tôi không tìm thấy nhánh ngoại vi
do tổ chức bị vôi hóa nhiều.
1. Buồng tim bị rò
Sau mổ BN diễn biến tốt, cơ năng phục hồi, không
có biểu hiện đau ngực. Khám lâm sàng không còn
tiếng thổi, siêu âm sau mổ không còn đường rò.
BÀN LUẬN
Vị trí rò:
Rò ĐMV phải và các nhánh của nó chiếm 5055%, rò ĐMV trái chiếm 35% và rò cả hai ĐMV
chiếm 5%.
Nhánh vành rò hầu như bao giờ cũng là một phần
trong phân nhánh bình thường của hệ thống ĐMV.
Hiếm khi ĐMV rò là một nhánh bất thường.
36
Hình 7: Lỗ rò ĐMV phải vào thất trái, tổ chức xung
quanh lỗ rò dày vôi thành mảng
PHẪU THUẬT ĐÓNG ĐƯỜNG RÒ CỦA ĐỘNG MẠCH VÀNH PHẢI VÀO THẤT TRÁI
rò vào các TMP. Rò vào tim trái thuộc loại rò động –
động mạch và do đó không tạo shunt trái – phải. Nếu
rò vào nhĩ trái sẽ có dòng máu rò liên tục trong cả thì
tâm thu và tâm trương. Nếu rò vào thất trái sẽ chỉ có
dòng máu rò trong thì tâm trương do trong thì tâm thu
đa số đường dò sẽ bị đóng lại và không có chênh áp
qua lỗ rò. Lúc này sẽ gây tăng áp tâm trương trong
thất trái giống trong hở chủ. 6
2. Kích thước và số lượng của lỗ rò
Với các lỗ rò đơn độc, kích thước hiếm khi lớn
hơn 5mm và thường có gờ xơ xung quanh.
Hình 8: Vá lỗ rò bằng màng tim
ĐMV có thể rò vào cả 4 buồng tim và các mạch
máu xung quanh tim.
Đôi khi chúng ta có thể gặp một hệ thống các lỗ rò
nhỏ giống như dạng sàng. Dogan M cùng cộng sự
nghiên cứu trên 11.403 BN được chụp ĐMV thấy các
đường rò nhỏ vào trong thất trái chiếm tỉ lệ 0,11%;
trong đó, 100% rò từ động mạch liên thất trước,
66,7% rò từ động mạch mũ và 58,3% rò từ ĐMV
phải. 10
Rò ĐMV vào thất trái hầu hết là dạng đơn độc, đa
số xuất phát từ ĐMV trái.
BN của chúng tôi có rò ĐMV phải vào thất trái,
kích thước lỗ rò lớn – ít gặp so với báo cáo của các tác
giả trên thế giới.
3. Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn
Rò vành là yếu tố cơ hội gây viêm nội tâm mạc
nhiễm khuẩn trong 5% số trường hợp, được cho là do
dòng máu rối gây tổn thương nội mạc buồng tim. 11
4. Các thương tổn phối hợp
Hình 9: Khâu lại chỗ mở ĐMV
Tuy vậy hơn 90% trường hợp đường rò đổ vào các
buồng tim bên phải và các mạch máu liên kết với tim
phải (TMC trên, ĐMP, xoang vành…). Rò ĐMV vào
các buồng tim hoặc các mạch máu có áp lực thấp tạo
nên dòng shunt trái – phải có áp lực lớn và gây thoát
máu nhanh khỏi ĐMC trong cả thì tâm thu và thì tâm
trương. Qp/Qs hiếm khi > 1,8. 9
Khoảng 8% trường hợp đường rò dẫn máu vào các
buồng tim trái hoặc các TMP, trong đó 5% rò vào nhĩ
trái, khoảng 3% rò vào thất trái, rất hiếm khi có đường
Trong báo cáo của Urrutia-S cùng cộng sự, 21/58
(36,2%) BN có thương tổn phối hợp bẩm sinh hoặc
mắc phải: thông liên nhĩ, thông liên thất, bệnh van tim
hoặc bệnh động mạch vành mắc phải, không có van
ĐMP, thiểu sản van ba lá (VBL)…12
BN của chúng tôi chưa có biến chứng viêm nội
tâm mạc nhiễm khuẩn nhưng những thương tổn vôi
hóa trong lòng ĐMV có thể là thương tổn thứ phát do
dòng rối của máu gây ra.
5. Triệu chứng lâm sàng
Với các lỗ rò nhỏ đa số BN không có triệu
chứng cơ năng, bệnh được phát hiện tình cờ do có
tiếng thổi ở tim hoặc chụp động mạch vành do
nguyên nhân khác.
37
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
Với các lỗ rò lớn triệu chứng thường là khó thở và
mệt khi gắng sức, đau thắt ngực (7%) và thiếu máu cơ
tim (3%) do hiện tượng ăn cắp máu vành, suy tim
(6%) gặp ở cả những BN < 20 tuổi 2 13 14 hoặc chỉ là
biểu hiện block một nhánh phát hiện trên điện tim ở
BN trẻ tuổi.15 Triệu chứng thiếu máu cơ tim do ăn cắp
máu vành có đặc điểm sẽ diễn biến nặng lên nếu điều
trị bằng Nitrate – ngược lại với thiếu máu cơ tim do
xơ vữa.16
Bệnh nhân của chúng tôi có biểu hiện lâm sàng
nổi bật là suy tim, không có hiện tượng thiếu máu cơ
tim do ăn cắp máu ĐMV hoặc rối loạn dẫn truyền –
tương tự trường hợp báo cáo của tác giả Kimiaki
Komukai.6
6. Kỹ thuật mổ
Không phải tất cả các trường hợp đều cần hỗ trợ
của hệ thống tuần hoàn ngoài cơ thể. Hệ thống tuần
hoàn ngoài cơ thể được chỉ định trong 4 trường hợp
sau: (1) ĐMV giãn lớn và xoắn, nguy cơ chảy máu
khi đóng lỗ rò, (2) lỗ rò ở vị trí không tiếp cận được
(rãnh nhĩ thất trái, phân nhánh của nhánh mũ hoặc
phần ngoại vi của ĐMV phải), (3) rò tận bên của một
nhánh vành lớn nên không thể đóng lỗ rò bằng cách
thắt mạch đơn thuần và (4) có phồng mạch đòi hỏi
phải cắt bỏ.
Đối với những trường hợp rò vào buồng thất trái
thì chỉ có đường tiếp cận lỗ rò duy nhất đó là mở
ĐMV và đóng lỗ rò. Phương pháp khâu vắt ở phía
dưới ĐMV sử dụng các miếng đệm không được
khuyến cáo do dễ gây bỏ sót lỗ rò.
Shigemichi Tanaka cùng cộng sự báo cáo một
trường hợp rò ĐMV phải vào mặt dưới của thất trái,
BN được theo dõi trong 20 năm vì không có triệu
chứng lâm sàng, cho tới khi khó thở BN được phẫu
thuật theo phương pháp Simbas (mở ĐMV và khâu
đóng trực tiếp lỗ rò), ĐMV trong mổ giãn lớn
đường kính tới 3,5cm. Chụp ĐMV sau mổ 3 tuần
cho thấy không còn dòng shunt qua vị trí rò nhưng
xuất hiện huyết khối mới tại ĐMV phải. Do đó
những BN sau mổ cần phải được điều trị chống
đông cẩn thận.17
Theo tổng kết của một số tác giả, tỉ lệ gặp huyết
khối thấp và chủ yếu gặp ở những trường hợp ĐMV
giãn tạo thành dạng phồng.18
38
7. Chỉ định can thiệp
Nhiều tác giả khác thấy rằng (1) một vài trường
hợp lỗ rò tăng dần kích thước theo thời gian và do đó
cuối cùng gây suy tim, (2) bệnh có xu hướng gây viêm
nội tâm mạc nhiễm khuẩn, (3) khả năng lỗ rò tự đóng
rất thấp và (4) can thiệp (bịt lỗ rò qua thông tim hoặc
phẫu thuât) đem lại kết quả rất tốt và an toàn. Từ
những nhận xét đó các tác giả này khuyến cáo BN khi
được chẩn đoán rò ĐMV là có chỉ định can thiệp; trừ
một trường hợp đó là dòng shunt nhỏ (Qp/Qs < 1,3).
Như vậy can thiệp đóng lỗ rò ĐMV nhằm 2 mục
đích: (1) điều trị những lỗ rò lớn gây rối loạn huyết
động và (2) phòng biến chứng thiếu máu cơ tim và
hình thành phồng ĐMV.
Phẫu thuật khâu đóng lỗ rò là phương pháp chuẩn
mực trong điều trị rò ĐMV do hiệu quả, tỉ lệ thành
công cao với kết quả lâu dài tốt.8 19 20
Phương pháp tim mạch can thiệp qua da ngày
càng trở nên phổ biến vì mức độ an toàn, tỉ lệ thành
công cao, rút ngắn thời gian nằm viện. Tuy vậy,
những những đối tượng BN áp dụng phương pháp này
còn rất chọn lọc. Trên thế giới đã có những báo cáo về
bịt các lỗ rò ĐMV bằng nhiều dụng cụ khác nhau: coil
21
, dù bịt ống động mạch 22 23, dụng cụ nút mạch máu –
vascular plug.
Đôi khi đặc điểm về kích thước và vị trí của lỗ
rò có thể gây khó khăn cho việc can thiệp: đường
kính lỗ rò lớn nhưng chiều dài lại ngắn; ví dụ: rò từ
ĐMV trái vào buồng tim trái, nếu cố gắng bịt sẽ có
nguy cơ cao trôi dụng cụ vào tuần hoàn hệ thống
hoặc trôi về phía ngoại vi của ĐMV. Trong những
trường hợp này, phẫu thuật vẫn là lựa chọn an toàn
hơn.22 Với trường hợp rò ĐMV phải vào thất trái đã
có báo cáo bịt lỗ rò thành công sử dụng coil, tuy
nhiên tác giả cũng khuyến cáo nên lựa chọn bệnh
nhân kỹ lưỡng.12 13
BN của chúng tôi có rò vào thất trái với lỗ rò lớn,
chúng tôi đã cố gắng đóng lỗ rò bằng dụng cụ bịt ống
động mạch nhưng gặp phải khó khăn do BN có biểu
hiện thiếu máu cơ tim trong khi can thiệp và nguy cơ
trôi dụng cụ. Vì can thiệp thất bại chúng tôi quyết
PHẪU THUẬT ĐÓNG ĐƯỜNG RÒ CỦA ĐỘNG MẠCH VÀNH PHẢI VÀO THẤT TRÁI
định lựa chọn phương pháp phẫu thuật có sử dụng hệ
thống tim phổi nhân tạo do vị trí tiếp cận khó.
KẾT LUẬN:
Rò ĐMV vào thất trái là trường hợp lâm sàng
hiếm gặp, gây biến chứng suy tim, thiếu máu cơ tim,
viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn… Kết quả lâu dài
điều trị rò ĐMV rất tốt. Phẫu thuật viên cần lựa chọn
phương pháp phẫu thuật hay can thiệp qua da để đóng
lỗ dò tùy theo vị trí và kích thước của lỗ rò.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kishida K, Nakaoka H, Sumitsuji S, Nakatsuji
H, Ihara M, Nojima Y, et al. Successful surgical
treatment of an infected right coronary artery
aneurysm-to-right ventricle fistula after sirolimuseluting
stent
implantation.
Intern
Med
2007;46(12):865-71.
2. Ucar O, Cicekcioglu H, Cetin M, Ileri M,
Aydogdu S. Coronary artery-left ventricular
microfistulae associated with apical hypertrophic
cardiomyopathy. Cardiol J 2011;18(3):307-9.
3. Najib MQ, Ng D, Vinales KL, Chaliki HP.
Aorto-right ventricular fistula: a complication of
aortic valve replacement. Ann Thorac Cardiovasc
Surg 2012;18(1):64-7.
4. Roy D, Saba S, Grinberg I, Zughaib M, Sakwa
M, Clancy P, et al. Aorto-right ventricular fistula: a
late complication of aortic valve replacement. Tex
Heart Inst J 1999;26(2):140-2.
5. Hamid UI, Parissis H. Right coronary artery
fistula to right ventricle. BMJ Case Rep
2011;2011.
6. Komukai K, Muto M, Imai K, Hashimoto K,
Iwano K, Mogi J, et al. Left coronary artery-left
ventricle fistula with right coronary artery spasm.
Jpn Circ J 1998;62(9):704-6.
7. Wei J, Shu Y, Wei X, Tang J, Yan J, Zeng H, et
al. Right coronary artery fistula to left ventricle
complicated with huge coronary artery aneurysm.
Intern Med 2011;50(3):239-42.
8. Liu L, Wei X, Yan J, Pan T. Successful
correction of congenital giant right coronary artery
aneurysm with fistula to left ventricle. Interact
Cardiovasc Thorac Surg 2011;12(4):639-41.
9. Nicholas T. Kouchoukos EHB, Donald B. Doty,
Frnk L.Haney, Robert B.Karp. Kirklin/BarattBoyes Cardiac surgery 3rd edition.
10. Dogan M, Sunman H, Akyel A, Cimen T,
Bilgin M, Efe T, et al. [Prevalence and clinical
features of microfistulas between the coronary
artery and left ventricle: single-center
experience].
Turk Kardiyol Dern Ars
2014;42(4):332-8.
11. Ahn DS, Chung JH, Kim YN, Oh YS, Lim DS,
Choi RK. Right coronary artery to left
ventricular fistula associated with infective
endocarditis of the mitral valve. Korean Circ J
2013;43(4):281-3.
12. Inamura N, Nakajima T, Kayatani F, Kawata
H. Successful transcatheter coil embolization of
coronary artery to left ventricular fistula
associated with absent pulmonary valve with
tricuspid atresia in early infancy. Circ J
2004;68(12):1227-9.
13. Jiang Z, Chen H, Wang J. Right coronary artery
fistula to left ventricle treated by transcatheter
coil embolization: a case report and literature
review. Intern Med 2012;51(11):1351-3.
14. Kidawa M, Peruga JZ, Forys J, KrzeminskaPakula M, Kasprzak JD. Acute coronary
syndrome or steal phenomenon - a case of right
coronary to right ventricle fistula. Kardiol Pol
2009;67(3):287-90.
15. Suchon E, Kostkiewicz M, Szot W.
coronary arteriovenous malformation
fistulous connections to the left and
ventricles. Nucl Med Rev Cent East
2012;15(1):80-2.
Left
with
right
Eur
39
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
16. Heper G, Kose S. Increased myocardial ischemia
during nitrate therapy: caused by multiple
coronary artery-left ventricle fistulae? Tex Heart
Inst J 2005;32(1):50-2.
20. Guedes MA, Riso Ade A, Barbero Marcial M,
Stolf NA. Off-pump correction of coronary
fistula: the single suture technique approach. Rev
Bras Cir Cardiovasc 2009;24(4):581-3.
17. Shizukuda Y, Yonekura S, Tsuchihashi K,
Tanaka S, Komatsu S, Iimura O. A case of a
right coronary artery to left ventricle fistula
observed over twenty years. Jpn J Med
1989;28(4):510-4.
21. Mavroudis C, Backer CL, Rocchini AP, Muster
AJ, Gevitz M. Coronary artery fistulas in infants
and children: a surgical review and discussion of
coil
embolization.
Ann
Thorac
Surg
1997;63(5):1235-42.
18. Furushima Y KS, Murota K. Congenital
coronary artery fistula. Report of a case with an
analysis of 133 reported cases in Japan. Nippon
Kyoubu Geka Gakkai Zasshi 1976 24(1409).
22. Bialkowski J, Szkutnik M, Fiszer R, Zembala
M. Transcatheter occlusion of a large coronary
artery fistula using a patent ductus arteriosus
occluder. Kardiol Pol 2011;69(12):1318-9.
19. Pearce FB, McMahon WS, Alten JA, Kirklin
JK. Coronary artery fistula ligation in a child
with use of the Starfish Heart Positioner. Tex
Heart Inst J 2009;36(5):459-61.
40
23. Al-Ata J, Amin M, Galal MO, Kouatli A,
Hussain A. Transcatheter occlusion of a large
left coronary artery to right superior vena cava
fistula using the Amplatzer duct occluder device.
Pediatr Cardiol 2004;25(1):70-2.
BÓC NỘI MẠC MẠCH VÀNH TRONG PHẪU THUẬT BẮC CẦU CHỦ VÀNH CÓ MẠCH THƯƠNG TỔN…
BÓC NỘI MẠC MẠCH VÀNH TRONG PHẪU THUẬT BẮC CẦU CHỦ VÀNH CÓ MẠCH
THƯƠNG TỔN XƠ VỮA NẶNG: GIẢI PHÁP CHO VIỆC TÁI TƯỚI MÁU TOÀN BỘ?
Nguyễn Công Hựu* , Ngô Thành Hưng*, Nguyễn Hữu Ước**, Lê Ngọc Thành*
TÓM TẮT
Nghiên cứu mô tả, 24 bệnh nhân hẹp nặng 3 thân
mạch vành được phẫu thuật bắc cầu phối hợp bóc nội
mạc mạch vành trong thời gian từ 2011 – 2014 tại
Trung tâm tim mạch bệnh viện E. Bệnh nhân được
phẫu thuật bởi cùng phẫu thuật viên. 24 bệnh nhân(
nam: 20 nữ: 4), tuổi trung bình 63, 8 (52 – 81 tuổi),
bệnh nhân được bắc tối thiểu 3 cầu nối vào 3 thân
mạch vành (số cầu nối trung bình 4,3±0,7). Động
mạch vành bóc nội mạc: liên thất trước 29,1%, vành
phải: 45,8%, động mạch mũ: 16,6%, nhánh chéo:
29,1%. Thời gian chạy máy tim phổi 180,9 ± 28,2
phút; cặp động mạch chủ 147,2 ± 26,0 phút; thở máy
18,9 ± 10,5 giờ ; nằm hồi sức 4,8 ± 0,9 ngày, tử vong:
2 (8,3%). Không có tai biến về mặt kỹ thuật. Bóc nội
mạc mạch vành phối hợp là giải pháp lựa chọn trong
phẫu thuật bắc cầu chủ vành nhằm đạt được mục đích
tái tưới máu mạch vành toàn bộ. Phẫu thuật được chỉ
định hạn chế trong trường hợp thương tổn nặng lan
tỏa gây tắc hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn, mạch xơ
vữa nặng khó thực hiện được miệng nối một cách có
chất lượng. Chỉ định được phẫu thuật viên quyết định
trong mổ.
ABSTRACT
CORONARY ARTERY ENDARTERECTOMY
DURING
CORONARY
ARTERY
BYPASS
GRAFTING –A SOLUTION FOR COMPLETE
REVASCULARIZATION
24 patients (20 males, 4 females) with severe
coronary disease undergoing CABG operations with
concomitant coronary artery endarterectomy. They
were in selected cohort with minimum of three grafts
for three main vessles. All patents were operated by
the same surgeons. Results: Mean age was 63.8 years.
Number of grafts: 4,3 ± 0.7 vessels per patient. CE
was performed on right coronary artery 45,8%, on left
anterior descending artery 29,1%, circumflex artery
16,6% and diagonal artery 29,1%. Cross-clamp times
147,2 ± 26,0 minutes, perfusion times 180,9 ± 28,2
minutes, ventilated time: 18,9 ± 10,5 hours, ICU
stays: 4,8 ± 0,9 days. Operative mortality: 2 patients
(8.3%), no technical complication. Coronary
endarterectomy should be considered an acceptable
adjunct to CABG for patients with extensive coronary
artery disease to achieve complete revascularization.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bắc cầu chủ vành là phẫu thuật thường quy trong
phẫu thuật tim hở điều trị bệnh lý hẹp mạch vành do
xơ vữa. Để đạt được việc tái tưới máu toàn bộ trong
những trường hợp mạch thương tổn nặng các tác giả
trên thế giới đã có nhưng thông báo về việc phối hợp
bóc nội mạc động mạch vành khi phẫu thuật bắc cầu
chủ vành. Tuy nhiên đây vẫn là vấn đề còn gây nhiều
tranh cãi do tính phức tạp và những nguy cơ của phẫu
thuật(1,2).Tại Việt Nam cho tới nay chúng tôi chưa
thấy tác giả nào đề cập tới kỹ thuật này.Nghiên cứu
nhằm mô tả kỹ thuật, tìm hiểu về chỉ định và đánh giá
kết quả sớm sau mổ. *
II. ĐỐI TƯỢNG
NGHIÊN CỨU
VÀ
PHƯƠNG
PHÁP
Nghiên cứu mô tả, được thực hiện trên 24 bệnh
nhân thương tổn nặng được phẫu thuật bắc ít nhất 3
cầu nối vào ba thân mạch vành kết hợp bóc nội mạc
động mạch vành trong thời gian từ 2011 – 2014 tại
Trung tâm tim mạch bệnh viện E. Bệnh nhân được
phẫu thuật bắc cầu chủ vành theo phương pháp kinh
điển với tuần hoàn ngoài cơ thể, cặp động mạch chủ
làm ngừng tim. Phẫu thuật được thực hiện bởi cùng
một nhóm phẫu thuật viên. Các thông tin trước,trong
và sau mổ được thu thập theo một mẫu thống nhất. Xử
lý số liệu theo phương pháp thống kê y học, sử dụng
phần mềm SPSS.
* Trung tâm Tim mạch Bệnh viện E
** Khoa Phẫu thuật Tim mạch Lồng ngực Bệnh viện Việt Đức
Người chịu trách nhiệm khoa học:PGS.TS. Lê Ngọc Thành
Ngày nhận bài: 10/08/2014 - Ngày Cho Phép Đăng: 28/10/2014
Phản Biện Khoa học: PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng
GS.TS. Bùi Đức Phú
41
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1. Đặc điểm chung, tiền sử bệnh
Đặc điểm
Tuổi (năm)
BMI
Giới
n =24
Nam
Nữ
20
4
17
6
11
2
3
4
THA
Tiểu đường
Hút thuốc lá
Suy thận
Tiền sử NMCT
Tiền sử đặt Stent
TBMMN
0-2
EURO Score 3-5
≥6
3
5
10
9
Trung bình
63,8 ± 7.5 (52 - 81)
22,7 ± 2.79 (17,6 – 27,5)
83,3%
16,7%
70,1%
25 %
45,8 %
8,3%
12,5 %
16,7 %
12,5%
20,8%
41,7%
37,5%
5,1 ± 3,6
(0 -14)
Bảng 2: Triệu chứng cơ năng trước mổ
Triệu chứng cơ năng trước mổ
I,II
NYHA
III,IV
I,II
CCS
III, IV
n=24
18
6
15
9
75%
25%
62,5%
37,5%
Bảng 3: Kết quả phẫu thuật
Kết quả phẫu thuật
Mạch bóc nội mạc
Mạch ghép
Số cầu nối ( x± SD)
Thời gian chạy máy tim phổi ( phút)
Thời gian cặp ĐMC ( phút)
Thời gian hậu phẫu
Thời gian thở máy( giờ)
Thời gian nằm hồi sức( ngày)
Thời gian nằm viện ( ngày)
LAD
RCA
Cx
Diag
LIMA
RA
SV
4,3±0,7
180,9 ± 28,2
147,2 ± 26,0
Sống ra viện (n=22)
18,9 ± 10,5 (4-50)
4,8±0.9
( 3-6 )
18,9 ± 10,3 ( 8-33 )
n
7
29,1 %
11
45,8%
4
16,6 %
7
29,1 %
20
83,3 %
14
58,3%
24
100%
(3–5)
( 147-252)
(111-209)
Tử vong(n=2)
1128 ± 577 (720 – 1536)
47 ± 24
(30 -64)
47 ± 24
(30 -64)
LAD: động mạch (ĐM) liên thất trước, RCA: ĐM vành phải, Cx: ĐM mũ, Diag: nhánh chéo, LIMA:
ĐM ngực trong bên trái, RA: ĐM quay, SV: tĩnh mạch hiển lớn
42
BÓC NỘI MẠC MẠCH VÀNH TRONG PHẪU THUẬT BẮC CẦU CHỦ VÀNH CÓ MẠCH THƯƠNG TỔN…
Bảng 4: Tai biến, biến chứng
Tai biến, biến chứng
n
%
Chảy máu mổ lại
1
4,1
Suy thận phải thẩm phân phúc mạc
2
8,3
Nhiễm trùng huyết
2
8,3
Viêm phổi
3
12,5
Viêm xương ức
1
4,1
Tử vong
2
8,3
IV. BÀN LUẬN
Chỉ định phẫu thuật: Phẫu thuật bóc nội mạc
động mạch vành lần đầu tiên được giới thiệu vào năm
1957 bởi Bailey được thực hiện không có tuần hoàn
ngoài cơ thể, không kết hợp với phẫu thuật bắc cầu
chủ vành[3]. Ông thông báo thành công kỹ thuật cho
bệnh nhân nam giới hẹp mạch vành do xơ vữa, có
triệu chứng đau thắt ngực không ổn định. Tuy nhiên
loại phẫu thuật này đã sớm được thay thế bởi phẫu
thuật bắc cầu chủ vành với sự ra đời của máy tuần
hoàn ngoài cơ thể. Có nên kết hợp phẫu thuật bóc nội
mạc với bắc cầu chủ vành hay không? Những nghiên
cứu ban đầu thông báo một tỷ lệ rủi ro cao hơn sau
phẫu thuật[2,4] trong khi đó những nghiên cứu gần
đây lại cho thấy kỹ thuật có thể được thực hiện một
cách an toàn và cho kết quả khả quan. [3,5]. Tuy vậy
cho đến nay vẫn đề vẫn còn gây tranh cãi, nhiều phẫu
thuật viên vẫn còn khá dè dặt trong việc áp dụng kỹ
thuật này[6]. Theo Schmitto, phẫu thuật tim mạch
hiện nay đã có nhiều thay đổi, với sự phát triển của
khoa học kỹ thuật, các thuốc trong tim mạch, kinh
nghiệm của phẫu thuật viên cũng như đội ngũ các
thầy thuốc tim mạch – các điều kiện hiện nay không
giống như ở thời điểm ban đầu của phương pháp. Vì
vậy việc kết hợp bóc nội mạc trong phẫu thuật bắc
cầu chủ vành nên được thực hiện khi có chỉ định[7].
Điều quan trọng là chỉ định cho phù hợp. Hầu hết các
tác giả đều thống nhất chỉ định giới hạn trong những
thương tổn nặng, lan tỏa , việc thực hiện miệng nối
khó khăn hoặc không thể thực hiện được do xo vữa.
Chỉ định được đưa ra trong mổ, dựa trên đánh giá
thương tổn của phẫu thuật viên đối với những mạch bị
xơ vữa nặng. Trong nghiên cứu của Damien : tất cả
mạch được bóc nội mạc đều có thương tổn lan tỏa, tắc
hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn, đánh giá khó thực hiện
được miệng nối, đường kính ngoài tối thiểu 2mm và
vùng cơ tim trong phạm vi cấp máu của nhánh mạch
đó phải còn sống hoặc có khả năng hồi phục sau khi
tái tưới máu[6]. Các dấu hiệu gợi ý mức độ thương
tổn nặng của xơ vữa cũng được đề cập đến: tiền sử đột
quỵ, nhồi máu cơ tim, can thiệp mạch vành qua da,
đau thắt ngực không đáp ứng với thuốc điều trị, phải
phẫu thuật trong tình trạng cấp cứu, hình ảnh trên
chụp mạch vành chọn lọc.
Về phương diện kỹ thuật có 2 phương pháp bóc
nội mạc (có thể thực hiện chỉ một hoặc phối hợp cả 2
phương pháp trong cùng ca phẫu thuật): 1.Phương
pháp đóng (closed technique): mạch vành được mở
dưới 2cm, nội mạc được bóc rút ngược từ trong ra, kết
quả đạt được khi lấy được toàn bộ mảng xơ vữa với
đầu tận của mảng xơ vữa dạng vuốt thon nhọn. Miệng
nối mạch vành được thực hiện trực tiếp tại vị trí mở
mạch hoặc gián tiếp lên miếng vá tĩnh mạch trong
trường hợp vị trí mở mạch dài. Phương pháp có ưu
điểm nhanh, đỡ nguy cơ chảy máu. Nhược điểm thực
hiện kỹ thuật khó, khó kiểm soát được nội mạc bóc
triệt để hay không, đòi hỏi kinh nghiệm và sự khéo léo
của phẫu thuật viên. 2. Phương pháp mở (opened
technique): mạch vành được mở dọc hết chiều dài
theo thương tổn, nội mạc được bóc dưới kiểm soát
trực tiếp, miếng vá tĩnh mạch được sử dụng vá dọc
chiều dài mạch. Ưu điểm: nội mạc được bóc triệt để,
dễ thực hiện,dễ kiểm soát. Nhược điểm thời gian kéo
dài, nguy cơ chảy máu. Lựa chọn phương pháp nào,
43
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
phương pháp nào có ưu điểm hơn? Đã có công trình
thông báo dựa trên tổng kết nhiều nghiên cứu khác
nhau cho thấy kỹ thuật mở có tỷ lệ thấp hơn các rủi ro
sau mổ: nhồi máu cơ tim, loạn nhịp, sử dụng thuốc
vận mạch, bóng nội động mạch chủ, tai biến mạch
não, tỷ lệ tử vong sớm trong tháng đầu sau mổ. Tuy
nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Tác giả
cũng lưu ý rằng kết quả phẫu thuật không chỉ phụ
thuộc vào phương pháp bóc nội mạc nào được lựa
chọn mà còn bị ảnh hưởng nhiều bởi mạch thương
tổn, kỹ thuật thực hiện, kinh nghiệm của phẫu thuật
viên[1]. Chúng tôi sử dụng phương pháp đóng đơn
thuần nếu mảng xơ vữa đạt được kết quả như mô tả:
đầu tận thon nhọn (nội mạc được bóc triệt để). Trong
trường hợp mảng xơ vữa quá dài chúng tôi thực hiện
kỹ thuật đóng tại các điểm mở khác nhau trên cùng
một mạch nhằm tránh việc mở toàn bộ chiều dài mạch
máu làm kéo dài thời gian phẫu thuật, tăng nguy cơ
chảy máu.
Kết quả phẫu thuật: Việc tái tưới máu toàn bộ
là đích tối ưu mong muốn đạt được để cải thiện kết
Bắc cầu + bóc nội mạc
n = 99
Kết quả
Số lượng
mạch ghép
Cầu nối LIMA
Sử dụng bóng nội
động mạch chủ
Bắc cầu đơn thuần
n = 297
p
1
0
(0%)
15
(5.1%)
0.02
2
12
(12.1%)
54
(18.2%)
0.02
3
87
(87.9%)
228
(76.7%)
0.02
(99%)
289
(97.3%)
0.37
98
15
(15.2%)
40
(13.5%)
0.74
Cặp động mạch
chủ(phút)
95.6 ± 2.8
71.8 ± 1.6
0.001
Chạy máy tim
phổi(phút)
121.8 ± 3.8
92.7 ± 1.9
0.001
Thời gian trong phẫu thuật của nhóm có bóc
nội mạc dài hơn, tuy nhiên nhóm này thương tổn
nhiều mạch hơn (phần lớn bệnh nhân phải sử
dụng 3 mạch ghép). Tỉ lệ tử vong, các biến chứng
sau mổ khác biệt không có ý nghĩa thống kê (Tử
44
quả sớm cũng như lâu dài sau phẫu thuật bắc cầu chủ
vành. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay khi mức độ
thương tổn phức tạp ngày càng gia tăng, người bệnh
tuổi cao, nhiều bệnh lý phối hợp, nhiều bệnh nhân đã
được can thiệp mạch vành qua da trước đó – phẫu
thuật tái tưới máu toàn bộ gặp nhiều thách thức. Kết
hợp bóc nội mạc động mạch vành trong phẫu thuật
bắc cầu chủ vành là một giải pháp để đạt được tái tưới
máu toàn bộ trong những trường hợp mạch thương tổn
xơ vữa lan tỏa nặng. Tuy nhiên cho đến nay vẫn còn
những băn khoăn về việc có hay không gia tăng tỷ lệ
biến chứng, tử vong và kết quả lâu dài của mạch ghép.
Các nghiên cứu cho thấy thời gian phẫu thuật tương
đối dài: nghiên cứu của Schmitto cặp động mạch chủ
119 ± 31,6 phút; chạy máy tim phổi 192 ± 56,5 phút;
thời gian thở máy 52,9 ± 100,8 giờ, nằm hồi sức 5,6 ±
8,4 ngày ; tử vong bệnh viện 5%; 95% các bệnh nhân
thương tổn 3 thân động mạch vành, số cầu nối trung
bình 4±0,95(7). Damien so sánh giữa hai nhóm bắc
cầu đơn thuần và nhóm kết hợp với bóc nội mạc động
mạch vành cho kết quả:
vong: có bóc nội mạc 4%, bắc cầu đơn thuần
1.3%, p = 0.112). Thời gian nằm hồi sức nhóm có
bóc nội mạc lâu hơn (75.1 ± 11.1 vs. 48.6 ± 2.8
giờ,p < 0.001) tỉ lệ thở máy lâu(16.2% vs. 8.1%,
p = 0.03) (6)
BÓC NỘI MẠC MẠCH VÀNH TRONG PHẪU THUẬT BẮC CẦU CHỦ VÀNH CÓ MẠCH THƯƠNG TỔN…
Trong nghiên cứu của chúng tôi thời gian chạy
máy, cặp động mạch chủ và tử vong sau mổ đều có tỷ
lệ cao hơn so với kết quả của Damien. Điều này có thể
lý giải một phần do đối tượng nghiên cứu của chúng
tôi chọn lọc nhóm thương tổn nặng cần phải bắc tối
thiểu 3 cầu vào cả 3 thân chính với số lượng cầu nối
nhiều hơn so với nghiên cứu của Damien. 2 bệnh nhân
tử vong trong nghiên cứu có tình trạng suy thận trước
mổ, đau ngực không ổn định với điểm CCS 3, EURO
score 4 -6, thời gian hậu phẫu nặng nề: tai biến chảy
máu mổ lại cầm máu, viêm xương ức, phải thẩm phân
phúc mạc (1bệnh nhân tử vong trong bệnh cảnh nhiễm
trùng phổi, xương ức, suy thận; 1 trường hợp tử vong
trong bệnh cảnh rối loạn nhịp, suy tim). Mặt khác số
lượng bệnh nhân của chúng tôi còn ít hơn, kinh
nghiệm cũng như điều kiện chung còn nhiều hạn chế
so với các tác giả châu Âu, Mỹ… cũng là điều dễ lý
giải cho kết quả trên.
V. KẾT LUẬN
Bóc nội mạc mạch vành phối hợp là giải pháp lựa
chọn trong phẫu thuật bắc cầu chủ vành nhằm đạt
được mục đích tái tưới máu mạch vành toàn bộ. Tuy
nhiên bóc nội mạc cũng có những nguy cơ và kéo dài
thời gian, ảnh hưởng đến kết quả phẫu thuật do đó nên
được chỉ định hạn chế trong trường hợp thương tổn
nặng lan tỏa gây tắc hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn,
mạch xơ vữa nặng khó thực hiện được miệng nối một
cách có chất lượng. Chỉ định được phẫu thuật viên
quyết định trong mổ. Lựa chọn phương pháp bóc nội
mạc tùy theo kinh nghiệm của phẫu thuật viên. Bóc
nội mạc theo phương pháp mở dễ kiểm soát và triệt để
hơn trong trường hợp bóc trên đoạn mạch dài. Kết quả
phẫu thuật chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố trong đó
có kinh nghiệm của phẫu thuật viên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Erdinc Soylu, Leanne Harling, Hutan Ashrafian
and Thanos Athanasiou. Does coronary
endarterectomy technique affect surgical outcome
when combined with coronary artery bypass
grafting? Interactive CardioVascular and Thoracic
Surgery 2014; 1–8
2. Minale C, Nikol S, Zander M, Uebis R.
Controversial
Aspects
of
Coronary
Endarterectomy. Ann Thorac Surg 1989;48:23541
3. Sanjay Kumar, Sandeep Agarwala, Charlie Talbot
and R Unnikrishnan Nair. Long term survival
after coronary endarterectomy in patients
undergoing combined coronary and valvular
surgery – a fifteen year experience. Journal of
Cardiothoracic Surgery2008; 3:15
4. Ferraris AV, Harrah JD et al. Long-Term
Angiographic Results of Coronary Endarterectomy.
Ann Thorac Surg 2000;69:1737– 43
5. Schwann TA, Anoar Zacharias, Christopher J.
Survival and Graft Patency After Coronary Artery
Bypass Grafting With Coronary Endarterectomy:
Role of Arterial Versus Vein Conduits. Ann
Thorac Surg 2007;84:25–31
6 . Damien J. LaPar et al. The Impact of Coronary
Artery Endarterectomy on Outcomes During
Coronary Artery Bypass Grafting. J Card Surg.
2011 May ; 26(3): 247–253
7. Schmitto JD, Philipp Kolat, Philipp Ortmann et al.
Early results of coronary arterybypass grafting with
coronary endarterectomy for severecoronary artery
disease. Journal of Cardiothoracic Surgery2009, 4:52
45
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
GÂY MÊ KHÔNG CHẠY MÁY TIM PHỔI NGOÀI CƠ THỂ
CHO PHẪU THUẬT GLENN: BÁO CÁO MỘT TRƯỜNG HỢP
Vũ Xuân Quang*, Nguyễn Trần Thuỷ*, Lê Ngọc Thành*
Tóm tắt
Mục đích báo cáo case lâm sàng gây mê không chạy
máy tim phổi ngoài cơ thể cho phẫu thuật Glenn là mô tả
các thách thức mà bác sĩ gây mê phải kiểm soát và cùng
thảo luận các biến chứng có thể xảy ra trong quá trình
phẫu thuật. Bệnh nhân mắc bệnh tim bẩm sinh phức tạp
có tím được phẫu thuật Glenn – gây mê toàn thân mà
không chạy máy tim phổi ngoài cơ thể.
Summary
The purpose of this case report was to enumerate
the challenges confronted by the Anesthesiologist
while conducting anesthesia for Bidirectional Glenn
Shunt surgery and discuss the complications that
could arise from this procedure. The patient presented
with multiple congenital heart anomalies and
cyanosis. Off-pump BDGS surgery was carried out
under general anesthesia. Surgery and anesthesia were
uneventful.
Đặt vấn đề
Phẫu thuật Glenn hai hướng (BDGS) được tiến
hành cho những bệnh nhân tim bẩm sinh có tím mà
việc sửa chữa ngay trên tim của bệnh nhân là khó khăn,
là bước trung gian cho phẫu thuật Fontan cho bệnh
nhân về sau. Phẫu thuật được tiến hành bằng cách nối
tĩnh mạch chủ trên với nhánh phải hay nhánh trái của
động mạch phổi, hiệu quả làm tăng bão hòa ô xy trong
máu động mạch và làm giảm sự quá tải cho cơ tâm thất.
Phẫu thuật này đặt ra nhiều thách thức đối với bác sĩ
gây mê hồi sức và đặc biệt hơn nếu như nó được thực
hiện mà không có sự hỗ trợ của máy tim phổi ngoài cơ
thể (off-pump). Ca lâm sàng báo cáo sau đây mô tả khó
khăn và thách thức, cũng như các giải pháp đưa ra để
gây mê thành công cho phẫu thuật Glenn không chạy
máy tim phổi ngoài cơ thể (off pump).
Ca lâm sàng
BN Đinh Thị T, nữ, 7 tuổi vào viện vì mệt nhiều
và khó thở khi gắng sức. Trẻ được phát hiện tím nhiều
từ ngay sau khi sinh và đặc biệt tím tăng lên khi khóc
và ăn.
- Lâm sàng: Trẻ nặng 15kg và cao 90cm, tím môi
và đầu chi (móng tay mặt kính đồng hồ), nhịp tim 120
lần/phút, huyết áp 87/51mmHg, bão hòa ô xy SpO2 là
46
85%. Nghe tim có thổi tâm thu 4/6 ở khoang liên sườn
III bên trái.
- Điện tâm đồ: hình ảnh tăng gánh thất phải, trục
tim lệch phải với đoạn PR kéo dài
- Xét nghiệm máu:
+ Công thức máu: Hồng cầu 10,94 T/l; Hct 0,758
l/l; Hgb 206 g/l; Bạch cầu 5,97 G/l; Tiểu cầu 204 G/l
+ Hóa sinh máu: Ure 5,9 mmol/l; Creatinin 45
mmol/l; Natri 139 mmol/l; Kali 4,2 mmol/l; Cl 99
mmol/l; Canxy 1,52 mmol/l
- Siêu âm tim: Động mạch chủ và động mạch phổi
đều xuất phát từ thất phải, thông liên thất lớn, thông
liên nhĩ lớn lỗ thứ hai, hẹp khít tại van động mạch
phổi, các tĩnh mạch phổi đổ về nhĩ phải.
- Thông tim: Kích thước gốc động mạch phổi
13mm, động mạch phổi phải 10,4mm, động mạch
phổi trái 8,5mm.
- Đánh giá các chỉ số về gây mê: chỉ số ASA
(American society of Anesthesiologist) là IV, chỉ số
NYHA (New York Heart Association) là II, chỉ số
Mallampati là 1. *
Tại phòng mổ, BN được mắc điện cực giám sát
điện tim chuyển đạo DII và V5, đo bão hòa ô xy liên
tục, làm đường truyền tĩnh mạch ngoại vi, đo huyết áp
động mạch xâm lấn liên tục. Gây mê toàn thể cho BN
được tiến hành với tiền mê bằng Midazolam 1mg;
fentanyl 0,05mg; Rocuronium 15mg đặt ống nội khí
quản số 5 có cuff. BN được thở máy kiểm soát với Vt
= 150ml và tần số thở là 18 l/phút, duy trì mê bằng
isoflurane (1%); fentanyl 0,2mg; rocuronium 20mg.
BN được đặt catheter tĩnh mạch đùi bên phải để đo áp
lực nhĩ phải và dùng để truyền dịch và thuốc vận
mạch, đặt catheter tĩnh mạch cảnh trong phải để đo áp
lực tĩnh mạch chủ trên. Trước khi tiến hành phẫu thuật
huyết áp động mạch 87/51mmHg, áp lực tĩnh mạch
trung ương 5cmH20, mạch 140 l/phút, bão hòa ô xy
(SpO2) là 85%.
* Trung tâm Tim mạch Bệnh viện E
Người chịu trách nhiệm khoa học:PGS.TS. Lê Ngọc Thành
Ngày nhận bài: 10/08/2014 - Ngày Cho Phép Đăng: 28/10/2014
Phản Biện Khoa học: PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng
GS.TS. Bùi Đức Phú
GÂY MÊ KHÔNG CHẠY MÁY TIM PHỔI NGOÀI CƠ THỂ CHO PHẪU THUẬT GLENN…
Cuộc phẫu thuật được thực hiện qua đường mở
xương ức tiêu chuẩn. Khí máu của bệnh nhân được phân
tích ở 03 thời điểm: Trước mổ và sau khi đặt nội khí
quản, sau khi cặp xoang tĩnh mạch chủ trên và 1/2 giờ
sau khi thả cặp xoang tĩnh mạch chủ trên. Trong quá
trình phẫu thuật áp lực động mạch phổi của bệnh nhân
được đo trực tiếp là 14mmHg và nhiệt độ bệnh nhân là
36oC với nhiệt độ phòng duy trì là 19oC. Tĩnh mạch chủ
trên và tĩnh mạch phổi phải được phẫu tích, thử cặp động
mạch phổi phải trong vài phút để đánh giá sự thay đổi
bão hòa ô xy của bệnh nhân.Tiến hành Heparin toàn thân
với liều 1mg/kg với mục đích đạt được ACT > 200s.
Thiết lập hệ thống shunt giảm áp tĩnh mạch vô danh và
nhĩ phải kèm theo tư thế đầu bệnh nhân nâng cao 15o,
tiêm tĩnh mạch methylprednisolone 20mg/kg, tiến hành
cặp tĩnh mạch chủ trên (áp lực tĩnh mạch chủ trên tăng
lên 26mmHg) để thực hiện phẫu thuật nối với động
mạch phổi phải, duy trì sự chênh áp giữa huyết áp trung
bình của BN và áp lực trung bình của tĩnh mạch chủ trên
trong quá trình cặp lớn hơn 30mmHg. Sau khi nối xong,
thả cặp để cầu nối Glenn được hoạt động.Thời gian cặp
là 13 phút; 50ml sodium bicarbonate 1,4% được truyền
ngay sau khi thả cặp tĩnh mạch chủ trên. Tiến hành đặt
dây pace, rút ca-nuyl, cầm máu, đặt dẫn lưu và khép
xương ức theo quy trình.
Trong quá trình phẫu thuật tiến hành duy trì huyết
động ổn định cho bệnh nhân bằng bù đủ lượng dịch
(02 đơn vị plasma) và thuốc vận mạch Adrenaline với
liều 0,1microgram/kg/phút và Milrinnone với liều
0,3microgram/kg/phút.Sau phẫu thuật Glenn các chỉ
số đo được trên bệnh nhân như sau: Mạch nhịp xoang
tần số 118l/phút, huyết áp 97/52, áp lực tĩnh mạch chủ
trên 18mmHg, SpO2 94% (FiO2 60%). Tiến hành
trung hòa Heparin bằng Protamine (15mg) và đạt chỉ
số ACT là 138s.
Bệnh nhân được chuyển về phòng hồi sức sau mổ
tim (CICU): thời gian thở máy 3 giờ, thuốc vận mạch
hỗ trợ Milrinnone 0,3microgram/kg/phút trong 18 giờ,
Heparin được dùng sau mổ (10UI/kg/giờ). Sau 48 giờ
bệnh nhân được rút dẫn lưu ngực và chuyển khỏi
phòng hồi sức và ra viện sau 7 ngày.
Thảo luận
Trong quá trình phẫu thuật sự phối hợp chặt chẽ
giữa bác sĩ phẫu thuật và bác sĩ gây mê là chìa khóa
cho thành công của phẫu thuật Glenn mà không chạy
máy tim phổi ngoài cơ thể.
Không sử dụng hệ thống tim phổi ngoài cơ thể,
bệnh nhân có thể tránh được những tác động không
mong muốn: tăng sức cản mạch máu phổi, pha loãng
máu, tắc mạch do khí và những tác động không mong
muốn khác. Theo nghiên cứu trong 15 năm gần đây
của các tác giả về phẫu thuật Glenn mà không sử dụng
công bố
máy tim phổi ngoài cơ thể: Lamberti
nghiên cứu đầu tiên trên 7 bệnh nhân năm 1990, và từ
đó đến nay có hàng loạt nghiên cứu của các tác giả
khác về phẫu thuật Glenn mà không sử dụng hệ thống
tim phổi ngoài cơ thể (bảng 1)
Bảng 1: Các nghiên cứu phẫu thuật Glenn không chạy tim phổi máy
Nghiên cứu
Lamberti
Lal
Murthy K S
Jahangiri
Villagra F
Tiereli
Maddali
Liu
Luo
Maeba
Kotani
Hussain
Tổng cộng
Năm
1990
1996
1999
1999
2000
2003
2003
2004
2004
2006
2006
2007
12 nghiên cứu
Số BN nghiên cứu
7
6
5
6
5
30
2
20
36
18
14
22
171
Cách nối
SVC - RA
SVC - RA
SVC – PA
No Shunt
No Shunt
SVC – RA/PA
SVC Aspiration
SVC – RA/PA
SVC - RA
SVC – RA/PA
SVC - RA
No Shunt
RA: Nhĩ phải; PA: Động mạch phổi; SVC: Tĩnh mạch chủ trên
47
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
Tác giả Tireli
năm 2003 trong nghiên cứu của
mình khẳng định phẫu thuật Glenn không sử dụng
tuần hoàn ngoài cơ thể thì áp lực động mạch phổi thấp
hơn và thời gian nằm viện ngắn hơn so với nhóm BN
có chạy máy tim phổi ngoài cơ thể. Sự khác biệt trong
(Bảng 1) của 12
các nghiên cứu trên
tác giả với 171 BN được phẫu thuật Glenn không sử
dụng tuần hoàn ngoài cơ thể là kỹ thuật được sử dụng
để giảm áp lực tĩnh mạch chủ trên trong quá trình
phẫu thuật.
Khi cặp tĩnh mạch chủ trên có thể dẫn đến giảm áp
lực tưới máu não và phù não. Rodriguez
trong nghiên cứu chứng minh rằng khi cặp tĩnh mạch
chủ trên sẽ làm giảm áp lực tâm thu của động mạch
não, giảm sự cung cấp ô xy cho não – Những thay đổi
trên thay đổi ít khi ta phẫu thuật Glenn có sự hỗ trợ
của máy tim phổi ngoài cơ thể. Để duy trì sự tưới máu
não tốt trong phẫu thuật Glenn mà không sử dụng tuần
hoàn ngoài cơ thể, các tác giả đưa ra khái niệm “ Hiệu
ứng áp lực tuần hoàn não” (TCP: Trans Cranial
, là sự chênh lệch về áp lực giữa huyết áp
Pressure)
trung bình và áp lực trung bình của tĩnh mạch chủ trên
trong thời gian cặp tĩnh mạch chủ trên. Áp lực này
phải duy trì lớn hơn 30mmHg trong quá trình cặp tĩnh
mạch chủ trên để đảm bảo áp lực nuôi dưỡng não.Sử
dụng steroid trong phẫu thuật nhằm mục đích làm
giảm tối thiểu quá trình phù não và tổn thương thần
kinh. Hạ nhiệt độ cơ thể BN (thông qua việc hạ nhiệt
độ phòng mổ) nhằm làm giảm quá trình chuyển hóa
của các tế bào não làm cho phù hợp hơn với sự giảm
tưới máu do cặp tĩnh mạch chủ trên gây ra.
Tình trạng thiếu ô xy huyết của BN được điều
chỉnh bằng tăng nồng độ ô xy hít vào (FiO2), nâng
huyết áp trung bình của BN bằng thuốc vận mạch và
bù đủ khối lượng tuần hoàn và qua đó làm tăng dòng
máu qua phổi được tốt hơn.
Điều trị sau mổ nhằm mục đích làm giảm sức cản
của hệ thống mạch phổi (Milrinnone) và làm gia tăng
máu trở về tĩnh mạch chủ trên. Ở những BN có áp lực
Glenn cao, các thuốc giãn mạch phổi giúp làm giảm
áp lực động mạch phổi và làm giảm áp lực thất trái ở
cuối kỳ tâm trương.
48
Quá trình cai máy thở và rút nội khí quản sớm cho
BN tránh để tình trạng thở máy kéo dài, gây nên kết
quả tăng áp lực trong khoang lồng ngực - ảnh hưởng
dòng máu tĩnh mạch trở về và dòng máu qua shunt.
Kết luận
Gây mê cho BN phẫu thuật Glenn hai hướng
không sử dụng hệ thống tim phổi ngoài cơ thể là một
thách thức lớn đối với Bs gây mê hồi sức. Giám sát
chặt chẽ những thay đổi về huyết động và điều chỉnh
kịp thời nhằm duy trì một áp lực tưới máu não tối ưu
tránh biến chứng thần kinh sau mổ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Lamberti JJ, Spicer RL, Waldman JD, et al. The
bidirectionalcavopulmonary
shunt.J
Thorac
Cardiovasc Surg 1990; 100: 22–30.
2.
Lal M, Mahant TK. A modified techhnique of
venoatrial bypassin bidirectional Glenn shunt.
Asian Cardivasc Thorac Ann 1996; 4:23–25.
3.
Murthy KS, Coelho R, Naik SK, Punnoose SK,
Thomas W,Cherian KM. Novel technique of
bidirectional
Glenn
shuntwithout
cardiopulmonary bypass. Ann Thorac Surg 1999;
67:1771–74.
4.
Jahangiri M, Keogh B, Shinebourne EA, Lincoln
C. Should thebidirectional Glenn procedure be
performed through athoracotomy without
cardiopulmonary bypass? J ThoracCardiovasc
Surg 1999; 118: 367–68.
5.
Villagra F, Gomez R, Ignacio Herraz J, Larraya
FG, Moreno L,Sarrais P. The bidirectional
cavopulmonary
(Glenn)
shuntwithout
cardiopulmonary
bypass:
a
safe
and
advisabletechnique. Rev Esp Cardiol 2000; 53:
1406–09.
6.
Tireli E, Basaran M, Kafali E, et al. Perioperative comparison ofdifferent transient
external shunt techniques in bidirectionalcavopulmonary shunt. Eur J Cardiothoracic Surg
2003; 23: 518–24.
GÂY MÊ KHÔNG CHẠY MÁY TIM PHỔI NGOÀI CƠ THỂ CHO PHẪU THUẬT GLENN…
7.
8.
9.
Maddali MM, Mathew M, Fahr J, Valliattu J.
Off-PumpBidirectional Glenn Shunt by Active
Decompression of theSuperior Vena Cava. Indian
Heart J 2003; 55: 649–51
Liu J, Lu Y, Chen H, Shi Z, Su Z, Ding W.
Bidirectional
Glennprocedure
without
cardiopulmonary bypass. Ann Thorac Surg2004;
77: 1349–52.
Luo XJ, Yan J, Wu QY, Yang KM, Xu JP, Liu
YL. Clinicalapplication of bidirectional Glenn
shunt with off-pumptechnique. Asian Cardiovasc
Thorac Ann 2004; 12: 103–06.
10. Rodriguez RA, Cornel G, Semelhago L, Splinter
WM, WeerasenaNA. Cerebral effects in superior
vena caval obstruction: the roleof brain
monitoring. Ann Thorac Surg 1997; 64: 1820–22.
11. Rodriguez RA. Weerasena NA, Cornel G. Should
thebidirectional Glenn procedure be better
performed
through
thesupport
of
cardiopulmonary bypass?.J Thorac Cardiovasc
Surg2000; 119: 634–35.
12. Maeba S, Nemoto S, Hamdan L, OkadaT, Azhari M.
BidirectionalGlenn shunt without cardiopulmonary
bypass. Kyobu Geka 2006;59: 1075–78.
13. Kotani Y, Honio O, Ishino K, et al. Advantages
of temporaryvenoatrial shunt using centrifugal
pump during bidirectionalcavopulmonary shunt.
ASAIO J 2006:; 52 : 549–51.
14. Hussain ST, Bhan A, Sapra S, Juneja R, Das S,
Sharma S Thebidirectional cavopulmonary
(Glenn) shunt withoutcardiopulmonary bypass: is
it a safe option? Interact CardioVascThorac Surg
2007; 6: 77–82.
15. Glenn WW. Circulatory bypass of the right side
of the heart. IV.Shunt between superior vena cava
and distal right pulmonaryartery: report of
clinical application. N Engl J Med 1958;
259:117–20.
49
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHẪU THUẬT BẮC CẦU TẠI CHỖ
TRONG TẮC ĐỘNG MẠCH MẠN CHI DƯỚI BẰNG TĨNH MẠCH HIỂN
CÓ NỘI SOI PHÁ VAN TẠI BVND 115
Cao Văn Thịnh và CS *
TÓM TẮT
MỞ ĐẦU: Thiếu máu mạn tính chi dưới hiện khá
thường gặp và do nhiều nguyên nhân. Điều trị nhóm
bệnh lý này có nhiều phương pháp nhưng kết quả còn
khiêm tốn. Phẫu thuật bắc cầu động mạch tại chỗ bằng
tĩnh mạch hiển có thực hiện nội soi phá van tĩnh mạch
đã được thực hiện tại Viện Nam mặc dù còn nhiều
thách thức.
MỤC TIÊU: Đánh giá kết quả sớm sau phẫu
thuật bắc cầu nối động mạch tại chỗ trong điều trị
thiếu máu mạn tính chi dưới bằng tĩnh mạch hiển có
nội soi phá van tại Bv Nhân Dân 115 từ 1/2006 đến
12/2010.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP :
Nghiên cứu tiến cứu, cắt ngang có phân tích các
trường hợp lâm sàng.
KẾT QUẢ: Từ 01/2007 đến 12/2010 tại Bv Nhân
Dân 115 đã phẫu thuật bắc cầu nối tại chỗ cho 50
trường hợp thiếu máu mạn tính chi dưới, gồm 10 nữ
và 40 nam. Nguyên nhân thiếu máu mạn chi dưới gồm
biến chứng của bệnh đái tháo đường (06 Bn), xơ vữa
động mạch (37 Bn), Suy thận mạn (03 Bn) và bệnh
Buerger (4 Bn). Kết quả sau điều trị các trường hợp
sau phẫu thuật loại tốt chiếm 86%, trung bình 4% và
xấu 10%.
BÀN LUẬN: Kỹ thuật ghép tại chỗ tĩnh mạch hiển
có thực hiện nội soi phá van phẫu thuật bắc cầu nối
điều trị thiếu máu mạn tính chi dưới bước đầu đã được
triển khai tại Việt Nam và có thể cho phép áp dụng
rộng rãi hơn. Theo nghiên cứu của D.R.Campbell trên
1000 trường hợp phẫu thuật tương tự cho kết quả tốt
và kết quả nghiên cứu ban đầu tại BV Bình Dân cuối
năm 2003 cũng phản ánh tính khả thi và kết quả đáng
khích lệ. Cùng với sự hợp tác quốc tế, sự phối hợp tốt
giữa các chuyên khoa tại BV Nhân Dân 115 đã trở
thành những yếu tố tích cực đóng góp vào sự thành
công của phẫu thuật.
50
KẾT LUẬN: Ghép tại chỗ tĩnh mạch hiển có thực
hiện nội soi phá van trong phẫu thuật bắc cầu nối điều
trị thiếu máu mạn tính chi dưới là kỹ thuật mới, tiến
bộ, áp dụng khả thi tại Việt Nam. Những kết quả sớm
sau triển khai kỹ thuật này tại BV Nhân dân 115 là
bước đầu được ghi nhận. Bên cạnh những ưu điểm
của kỹ thuật còn những thách thức được đặt ra đòi hỏi:
Đánh gía cẩn thận Bn trước mổ và lựa chọn chỉ định
phẫu thuật ; Tận dụng tối đa các phương tiện như siêu
âm Doppler, DSA, CTscan trong chẩn đoán, theo dõi
bệnh và nội soi lòng mạch phá van khi thực hiện kỹ
thuật; Tích luỹ kinh nghiệm và huấn luyện kỹ càng
cho nhóm các Bs phẫu thuật viên thực hiện kỹ thuật
mới tại cơ sở điều trị; Tăng cường số lượng bệnh nhân
được thực hiện kỹ thuật mới trong phẫu thuật bắc cầu
nối nhằm tăng tính thuyết phục và tính khoa học của
nghiên cứu. *
……………………………………………………
INSITU SAPHENOUS VEIN BYPASS GRAFT
WITH ANGIOSCOPE
FOR VALVECTOMIES IN THE SURGICAL
TREATMENT OF
CHRONIC ARTERIAL ISCHEMIA OF THE
LOWER LIMBS
SUMMARY
BACKGROUND: Chronic low-extremity arterial
ischemia is a common disease with many causes.
While there are many treatments available to these
patients, none yield more than modest results. In situ
saphenous vein bypass graft with angioscope in which
valves are cut under direct visualization is a surgical
technique newly available in Vietnam. Although there
* Bv Nhân Dân 115 TP.HCM
Người chịu trách nhiệm khoa học:PGS.TS. Cao Văn Thịnh
Ngày nhận bài: 10/08/2014 - Ngày Cho Phép Đăng: 28/10/2014
Phản Biện Khoa học: PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng
GS.TS. Bùi Đức Phú
KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHẪU THUẬT BẮC CẦU TẠI CHỖ TRONG TẮC ĐỘNG MẠCH MẠN CHI DƯỚI …
are many difficulties, preliminary results suggest that
the implementation of this technique will improve the
management of this disease.
OBJECTIVES: Assessment of preliminary results
of in situ saphenous vein bypass graft technique with
angioscope.
METHODOLOGY: Prospective and case study.
Patients with chronic ischemia of the lower extremity
were admitted to the Vascular-Thoracic Unit, 115
people’s Hospital, HCM city.
RESULTS: For nearly 2 years (June 2004 to Sep
2006), at department of General Surgery – 115
People’s Hospital, our Unit received 50 cases with
chronic ischemia of the lower extremity, including 26
females and 34 males with the average age 54. The
causes of diseases included diabetics (10 cases),
arterial sclerotherosis (32 cases) and the others (8
cases). 9 cases were carried out bypass technique in
which 3 patients were done with in situ saphenous
vein bypass graft with angioscope. The result of 3
patients is good. The ischemia was improved and
ulceration at foot was dry and heal.
DISCUSSION: According to D.R. Campbell with
more than 1000 cases with good results he has been
done in his Unit (USA) and the cases in Binhdan
Hospital (2003) and 115 People’s Hospital (20042006) also give good results. The role of International
cooperation and between involved specialties in 115
People’s Hospital are the important factors
contributing to the success of treatment.
CONCLUSSION: In situ saphenous vein bypass
graft with angioscope is a surgical technique which
has been applied in many developed countries on the
world. It is newly available in Vietnam. Advantages
of this technique are less damage to veins and nerves,
and disadvantages are equipment, indications,
technique and the role of anaesthesia, but with the
preliminary results, we think that the implementation
of this technique will improve the management of this
disease in Vietnam.
I- MỞ ĐẦU
Tình trạng thiếu máu mạn tính chi dưới có thể gặp
cả ở các bệnh nhân (Bn) có hoặc không có đái tháo
đường. Vị trí tắc mạch mạn thường thấy ở động mạch
đùi, khoeo, chầy hay mu chân. Khi tổn thương càng ở
đầu xa, việc điều trị và tiên lượng càng khó khăn hơn.
Không ít các trường hợp bệnh đã phải đoạn chi.
Với mục đích giảm thiểu số Bn phải đoạn chi,
nhiều nhà khoa học đã nỗ lực áp dụng nhiều phương
pháp và kỹ thuật thích hợp nhằm tăng tưới máu phần
ngọn chi. Nếu tính từ thập niên 40-50 việc điều trị tắc
hệ thống từ động mạch chầy chỉ bằng đoạn chi, thậm
chí phẫu thuật đoạn chi được coi là một đặc thù dành
cho biến chứng của bệnh đái tháo đường. Trong thập
niên 60-70 phẫu thuật bắc cầu nối đùi – khoeo đã
được nghiên cứu và áp dụng thành công. Vào những
năm 80, nhóm các Bác sĩ phẫu thuật ở New York
(Mỹ) đã sử dụng kỹ thuật ghép tại chỗ, kể cả bắc cầu
nối đến động mạch chầy. Năm 1985 Campbell [2],[3]
cùng các đồng nghiệp ở Boston (Mỹ) đã ghi nhận một
trường hợp Bn có tổn thương động mạch chầy nhưng
còn mạch mu chân và người bệnh này đã được bắc
cầu nối từ động mạch đùi xuống động mạch mu chân
thành công. Kỹ thuật này đã mở ra khả năng trong
điều trị chứng tắc mạch mạn ở Bn đái tháo đường.
Phẫu thuật bắc cầu bằng tĩnh mạch hiển có thể sử
dụng đoạn tĩnh mạch tự thân đảo chiều hay thuận
chiều. Một số trường hợp có thể dùng tĩnh mạch cánh
tay khi tĩnh mạch hiển vì lý do nào đó không sử dụng
được. Với kỹ thuật ghép tại chỗ, tĩnh mạch hiển được
giữ thuận chiều và phải thực hiện thủ thuật phá van tĩnh
mạch đảm bảo sự lưu thông tốt của dòng máu chảy.
Hiện nay kỹ thuật này đã được nhiều tác giả nước ngoài
sử dụng thường qui và cho hiệu quả khả quan.
Ở Việt Nam, bệnh lý thiếu máu chi dưới khá
thường gặp chủ yếu do xơ vữa động mạch, bệnh
Buerger, và biến chứng của bệnh đái tháo đường.
Phẫu thuật bắc cầu nối phục hồi lưu thông tưới máu
ngọn chi cũng đã được nghiên cứu áp dụng. Giai đoạn
1990-1994 tại Bệnh viện (Bv) Chợ Rẫy TP.HCM theo
Phạm Thọ Tuấn Anh đã thực hiện được 21 trường
hợp, đa số là tắc trung tâm (tắc gần). Trong 7 trường
hợp dùng tĩnh mạch tự thân, chủ yếu dùng đảo đầu khi
ghép nối, chỉ có 01 trường hợp được dùng thuận
chiều. Những khó khăn khi ghép tĩnh mạch hiển tại
chỗ thuận chiều không chỉ đơn thuần về kỹ thuật mà
có liên quan đến vấn đề phá van tĩnh mạch hiển. Với
những tiến bộ về y học trong những năm gần đây cho
phép áp dụng nội soi lòng mạch giúp hướng dẫn và
kiểm tra khi tiến hành phá van tĩnh mạch sẽ đảm bảo
cho thành công chung của cuộc phẫu thuật.
51
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
Từ cuối năm 2003, với sự hợp tác quốc tế và sự
phối hợp làm việc tốt hơn giữa các chuyên khoa như
tim mạch, nội tiết, gây mê hồi sức, chăm sóc bàn chân
và phẫu thuật mạch máu. Kỹ thuật ghép bắc cầu tĩnh
mạch hiển tại chỗ có sử dụng nội soi phá van đã được
bàn bạc, nghiên cứu và bắt đầu áp dụng tại Bv Bình
Dân và nay tại Bv Nhân Dân 115 TP.HCM. Kết quả
của những trường hợp phẫu thuật phối hợp giữa các
Bác sĩ Việt Nam và các Bác sĩ Mỹ thuộc Đại học
Harvard, với những trang thiết bị cần thiết tối thiểu và
một số kinh nghiệm ban đầu rút ra từ cách chọn bệnh,
chỉ định phẫu thuật, theo dõi đánh giá sau mổ … đến
xây dựng kế hoạch phát triển kỹ thuật mới tại các cơ
sở điều trị tại Việt Nam là những công việc rất quan
trọng, có ý nghĩa thực tiễn.
Phân tích các trường hợp lâm sàng có thiếu máu
mạn tính chi dưới được phẫu thuật bắc cầu nối tại chỗ
có nội soi phá van tĩnh mạch hiển chắc chắn sẽ là cơ
sở cho việc triển khai mạnh mẽ hơn kỹ thuật bắc cầu
mạch máu mới tại Việt Nam, nhằm hội nhập và tiếp
cận một cách tích cực khi điều trị các bệnh lý về mạch
máu ngoại biên trong hoàn cảnh hiện nay.
II- MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu tổng quát:
Nhận xét kết quả sớm sau phẫu thuật bắc cầu nối
động mạch tại chỗ bằng tĩnh mạch hiển có nội soi phá
van trong điều trị tắc động mạch mạn tính chi dưới tại
BV Nhân Dân 115 TP.HCM từ tháng 1/2007 đến
tháng 12/2010.
Mục tiêu chuyên biệt:
- Đặc điểm dịch tễ học trong tắc động mạch mạn
tính của nhóm bệnh nghiên cứu.
- Đánh giá kết quả sớm sau phẫu thuật bắc cầu
nối động mạch tại chỗ bằng tĩnh mạch hiển có nội soi
phá van trong điều trị tắc động mạch mạn chi dưới.
III- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu tiến cứu, cắt ngang, phân tích các
trường hợp lâm sàng.
3.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU :
Tất cả các bệnh nhân có thiếu máu mạn tính chi
dưới được phẫu thuật bắc cầu nối tại chỗ bằng tĩnh
52
mạch hiển có nội soi phá van gặp tại BV Nhân Dân
115 từ tháng 1/2007 đến tháng 12/2010.
3.3. THU THẬP VÀ PHÂN TÍCH CÁC DỰ LIỆU:
- Tuổi, giới, lý do nhập viện, bệnh sử và tiền sử bệnh.
- Kết quả thăm khám lâm sàng và cận lâm sàng.
- Chỉ định và dự kiến phẫu thuật.
- Kết quả sớm sau phẫu thuật.
3.4. KỸ THUẬT BẮC CẦU GHÉP TẠI CHỖ
TM HIỂN CÓ NỘI SOI PHÁ VAN:
Thực hiện một đường rạch da dài để bộc lộ toàn
bộ tĩnh mạch hiển trong tới vị trí đầu dưới đoạn cần
làm cầu nối. Sau khi tĩnh mạch hiển được bộc lộ và
buộc thắt các nhánh bên sẽ sử dụng “dụng cụ nội soi
mạch máu” phá van (có loại phá van thẳng được dùng
khi đoạn tĩnh mạch ghép ngắn khoảng 20-25cm. Loại
phá van sợi mềm dùng khi tĩnh mạch ghép trên 25cm,
trên đầu mỗi dụng cụ có móc phá van).
Khi đã bộc lộ được hai đầu đoạn tĩnh mạch hiển
cần ghép, đặt đầu camera của máy nội soi lòng mạch
vào phần đầu trên của đoạn tĩnh mạch hiển đã bộc lộ,
và sợi soi mềm phá van được luồn ngược lại từ dưới
lên. Khi luồn sợi mềm phá van được lắp bằng một ống
nong đầu tù và sẽ được thay bằng đầu hình móc khi đã
luồn hết đoạn tĩnh mạch. Thủ thuật phá van tĩnh mạch
được thực hiện khi kéo dần sợi dây mềm xuống phía
dưới, lưu ý kéo tới đâu thì đầu đèn nội soi bám theo
tới đó và theo dõi qua việc truyền hình ảnh “van tĩnh
mạch” bị phá trực tiếp trên màn hình. Tại vị trí đầu
đèn luôn được bơm một lượng vừa đủ dung dịch nước
muối sinh lý tác dụng làm sạch vi trường, giúp quan
sát tình trạng van tĩnh mạch một cách thuận lợi. Quá
trình quan sát này cho phép hướng dẫn, kiểm tra công
đoạn phá van và có thể đánh giá được ngay hiệu quả.
Việc phá van tĩnh mạch hiển có thể để nguyên tại
chỗ theo đúng vị trí giải phẫu hoặc bóc tách ra bên
ngoài, phá van rồi lại đặt trở lại theo đúng chiều thuận
về mặt cơ thể học. Ngoài ra phẫu thuật viên có thể
bơm nước kiểm tra dòng chảy từ trên xuống (theo
chiều dòng máu động mạch sẽ đi qua) xem dòng chảy
có qua dễ dàng hay không, các nhánh bên đã được
khống chế tốt chưa và có thể nong một cách nhẹ
nhàng khẩu kính tĩnh mạch định ghép sao cho phù
hợp với động mạch đi kèm.
KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHẪU THUẬT BẮC CẦU TẠI CHỖ TRONG TẮC ĐỘNG MẠCH MẠN CHI DƯỚI …
Kỹ thuật nối ghép hai đầu sẽ được thực hiện ngay
sau đó giữa tĩnh mạch và động mạch. Dễ dàng nhận
thấy đầu trên tĩnh mạch ghép đủ lớn, phù hợp với
động mạch đùi. Sau nối hai đầu cần kiểm tra sự lưu
thông dòng máu bằng Doppler loại bỏ túi hoặc chụp
động mạch có cản quang tại chỗ. Kiểm tra các vị trí
buộc nhánh bên và khâu phủ dưới da, may da kín.
3.5. KỸ THUẬT NỘI SOI HƯỚNG DẪN VÀ
KIỂM TRA PHÁ VAN TM HIỂN.
Minh họa theo các hình chụp và Video Clip.
3.6. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT:
Phẫu thuật viên có thể sờ mạch đánh giá được
dòng chảy tại vị trí phẫu thuật trước và sau đầu nối,
sau đó sử dụng Doppler (loại bỏ túi) hoặc tiến hành
chụp động mạch tại chỗ sau mổ đánh giá sự lưu thông
của dòng chảy khi cần thiết.
Giai đoạn Bn tái khám có thể cho Bn chụp DSA
hay CT Scan 64 lát kiểm tra vị trí đoạn ghép bắc cầu
sau mổ 3-6 tháng.
Tắc động mạch mạn tính diễn tiến từ từ theo nhiều
giai đoạn. Có nhiều cách phân loại các giai đoạn bệnh.
Nhưng phân loại của Lerich và Fontaine có ưu điểm
đơn giản, dễ áp dụng:
Giai đoạn
bệnh
Giai đoạn I
Triệu chứng lâm sàng
Không có triệu chứng;
Không có tổn thương tắc nghẽn
đáng kể về mặt huyết động học
Giai đoạn II
Đau cách hồi nhẹ và không ảnh
hưởng đến sinh hoạt hàng ngày;
Đau cách hồi nặng gây cản trở đến
sinh hoạt hàng ngày
Giai đoạn III
Đau ngay cả khi nằm nghỉ ngơi
Giai đoạn IV
Hoại tử từng phần chi, loét chi do
thiếu máu cục bộ tại chỗ và thiếu
máu cục bộ lan toả ở xa; Hoại tử
lan rộng quá bàn chân
Khi bệnh ở giai đoạn III và IV, các tổn thương
đã rõ ràng, việc chẩn đoán trở nên dễ dàng. Ngược
lại ở giai đoạn II, cần phải khám kỹ phát hiện bệnh,
chẩn đoán phân biệt với một số bệnh cơ xương
khớp hay gặp ở người cao tuổi. Giai đoạn này Bn có
các dấu hiệu cường giao cảm, chẳng hạn như Bn có
vã mồ hôi, lạnh chi, một số bệnh nhân có dấu hiệu
tím tái chi.
Đánh giá kết quả sau phẫu thuật làm cầu nối tại
chỗ bằng tĩnh mạch hiển, có sử dụng phá nội soi
phá van, nguyên tắc cho phép dựa vào kết quả thăm
khám lâm sàng và xét nghiệm cận lâm sàng. Tuy
nhiên với nhóm các Bn đã lớn tuổi, thường kèm
theo một số bệnh nội khoa nặng nên trong đánh giá
sau phẫu thuật lưu ý diễn biến bất thường của các
bệnh lý kèm theo. Nhóm nghiên cứu chia làm các
mức độ sau:
- Kết quả tốt: Các trường hợp Bn sau mổ bắc cầu
nối tại chỗ có hiệu quả tốt, cầu nối mạch máu lưu
thông sau mổ, vết lóet ngọn chi (nếu có, hoặc mỏm
cụt) liền tốt. Tình trạng thiếu máu nuôi chi so với
trước mổ được cải thiện rõ. Không có các biến chứng
sau mổ khác.
- Kết quả trung bình: Các trường hợp Bn sau mổ
bắc cầu nối tại chỗ có hiệu quả, nhưng ở mức độ
không hoàn toàn. Vết loét hay mỏm cụt liền chậm. Có
thể kèm theo một vài biến chứng nhẹ và được cải
thiện sau điều trị như chảy máu, tụ máu vết mổ, nhiễm
trùng vết mổ.
- Kết quả xấu: Không có sự cải thiện về tình trạng
tưới máu tới vùng hạ lưu sau mổ. Cầu nối lưu thông
kém. Phần mô loét hay mỏm cụt không liền, nhiễm
trùng có chiều hướng lan tỏa, nguy cơ hoặc đã dẫn
đến phải đọan chi.
3.7. XỬ LÝ VÀ TRÌNH BÀY :
Sử dụng các bảng phân tích dữ liệu, bằng phần
mềm thống kê y học.
Trình bày kết quả nghiên cứu dưới các bảng,
biểu và có hình ảnh minh họa.
53
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
IV- KẾT QUẢ
Từ tháng 1/2007 đến 12/2010 tại BV Nhân Dân 115, khoa phẫu thuật Lồng ngực – Mạch máu đã tiếp
nhận và phẫu thuật cho 50 trường hợp thiếu máu chi dưới.
• Trong đó ghi nhận:
+ Có 40 nam và 10 nữ, tỉ lệ nam/nữ là 4/1.
+ Tuổi trung bình 69, người lớn tuổi nhất 93 tuổi và nhỏ tuổi nhất 28 tuổi.
+ Nhóm tuổi thường gặp nhất là trên 50 tuổi, chiếm 45/50 trường hợp - (90%).
• Nghiên cứu các nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ gây bệnh cho thấy:
Bảng 1- PHÂN BỐ BN THEO CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ:
Yếu tố nguy cơ
Số Bn (N=50)
Tỉ lệ
Xơ vữa động mạch (XVĐM)
37
74%
XVĐM + đái tháo đường
06
12%
XVĐM + suy thận mạn
03
6%
Bệnh Buerger
04
8%
Cộng
50
100%
Như vậy, đa số các Bn gặp có nguyên nhân gây hẹp, tắc động mạch mạn tính là XVĐM. Ngoài ra có khoảng
gần ¼ các trường hợp khác có các bệnh lý nguy cơ kèm theo như đái tháo đường, suy thận mạn và bệnh Buerger.
• Mức độ thiếu máu nuôi vùng hạ chi trong tắc động mạch mạn được đánh giá theo tiêu chuẩn của
Leriche – Fontaine cho thấy:
Bảng 2- PHÂN ĐỘ THEO LERICHE-FONTAINE:
Phân độ
Số Bn (N=50)
Tỉ lệ
Độ I
0
0%
Độ II
6
12 %
Độ III
15
30 %
Độ IV
29
58 %
Cộng
50
100 %
* Trên phân nửa số Bn được thực hiện phẫu thuật bắc cầu nối tại chỗ có mức độ IV, trái lại không gặp
các trường hợp được làm cầu nối động mạch có mức độ I.
• Xem xét các vị trí tổn thương tắc hoặc hẹp khít có vai trò quan trọng trong tiên lượng và kỹ thuật
thực hiện, qua nghiên cứu cho thấy:
Bảng 3- CÁC VỊ TRÍ TỔN THƯƠNG GÂY TẮC MẠCH:
Vị trí tắc động mạch mạn
(chia theo 3 vùng giải phẫu)
Số trường hợp*
(N=50)
Tỉ lệ
05
10 %
Từ ĐM đùi – khoeo trở xuống
32
64 %
Từ ĐM chày – mác trở xuống
13
26 %
50
100%
Từ ĐM chủ - chậu trở xuống
Cộng
*Vị trí tắc ĐM mạn chiếm đa số các trường hợp bắt đầu vị trí đùi khoeo trở xuống.
54
KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHẪU THUẬT BẮC CẦU TẠI CHỖ TRONG TẮC ĐỘNG MẠCH MẠN CHI DƯỚI …
• Các bệnh lý nội khoa kèm theo có ý nghĩa quan trọng trong tiên lượng bệnh và việc điều trị phối hợp.
Bảng 4: CÁC BỆNH LÝ NỘI KHOA KẾT HỢP:
Bệnh lý nội khoa nặng kết hợp
Bệnh tim mạch
(Bn cao HA, TMCT, bệnh van tim ..)
Đái tháo đường
Suy thận mạn
Số Bn
44
Tỷ lệ
88 %
07
03
12 %
4%
* Các bệnh lý tim mạch chiếm tỷ lệ cao. Tuy nhiên phẫu thuật bắc cầu ở các bệnh ĐTĐ cũng là một
thách thức đáng lưu ý.
• Thực hiện phẫu thuật bắc cầu nối phụ thuộc vào tình trạng tổn thương gây tắc hẹp. Một số trường
hợp phải thực hiện 02 cầu nối nhằm đảm bảo việc cung cấp máu nuôi vùng hạ chi.
Bảng 5: SỐ LƯỢNG CẦU NỐI THỰC HIỆN TRÊN BN..
Số lượng cầu nối thực hiện trên Bn
Sử dụng 02 cầu nối phối hợp
Sử dụng 01 cầu nối đơn thuần
Cộng
Số Bn
05
45
50
Tỷ lệ
10 %
90 %
100 %
*90% các trường hợp Bn được thực hiện 01 cầu nối ĐM .
• Các loại cầu nối ĐM đã được thực hiện phụ thuộc vào vị trí đoạn động mạch có tổn thương và giá
trị trong tiên lượng sau phẫu thuật.
Bảng 6 : PHÂN BỐ CÁC LOẠI BẮC CẦU ĐM
Loại cầu nối thực hiện
Chủ - Đùi và Đùi - Khoeo
Đùi –Đùi và Đùi - Khoeo
Đùi - Khoeo
Đùi – Chầy sau (mu chân)
Khoeo – chầy sau (mu chân)
Cộng
Số Bn
02
03
29
03
13
50
Tỷ lệ
4%
6%
58 %
6%
26 %
100 %
* Đa số các trường hợp Bn đã được thực hiện loại cầu nối Đùi - Khoeo. Loại phẫu thuật ít làm nhất là
Đùi-Chầy sau và cùng lúc làm 02 phẫu thuật Đùi-Đùi và Đùi-Khoeo (6%).
• Sau phẫu thuật bắc cầu ĐM diễn biến và tiên lượng về tình trạng lưu thông của cầu nối động mạch
phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Bảng 7: KẾT QUẢ SỚM SAU PHẪU THUẬT BẮC CẦU NỐI TẠI CHỖ:
Kết quả sớm sau PT bắc cầu nối tại
chỗ bằng TM hiền
Kết quả tốt
Kết quả trung bình
Kết quả xấu
Cộng
Số các trường hợp
Tỷ lệ
43
02
05
50
86 %
04 %
10 %
100%
*Qua 05 trường hợp tắc cầu nối và phải đoạn chi sau mổ cho thấy có 03 Bn có ĐTĐ và suy thận mạn kết
hợp. Đa số các trường hợp cho kết quả tốt.
55
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
• Phân tích các trường hợp sau phẫu thuật cho kết quả như không mong đợi liên quan đến mức độ tắc
mạch (tính theo LERICHE-FONTAINE), vị trí tắc mạch và các bệnh lý kèm theo.
Bảng 8 : PHÂN TÍCH CÁC TRƯỜNG HỢP KẾT QUẢ SỚM SAU MỔ XẤU.
Tuổi, giới
Mức độ tắc mạch
Loại cầu nối
Bệnh kèm theo
Nam 58t
Độ IV
(lóet, hoại tử chi)
Đùi – Đùi và
Đùi – Khoeo (T)
Cao HA, XVĐM
(Theo dõi sau 1 năm)
2- Trịnh Hoàng S.
Nam, 65t
Độ IV
(lóet, hoại tử chi)
Khoeo – mu chân
(T)
ĐTĐ, Suy thận mạn
(Theo dõi sau 3 th)
3- Nguyễn Ngọc Đ.
Nam, 45t
Độ IV
(lóet, hoại tử chi)
Đùi – Mu chân
(P)
Bệnh Buerger
(theo dõi sau 1 năm)
4- Đoàn Thị H.
Nữ, 73t
Độ IV
(lóet, hoại tử chi)
Đùi – Khoeo
(T)
ĐTĐ, Suy thận mạn
(Sau 2 tuần)
5- Lưu Văn S.
Nam 68t
Độ IV
(lóet, hoại tử chi)
Khoeo – Chầy
sau (P)
Cao HA, Suy thận mạn
(Sau 2 tuần)
Bn
1- Phạm Văn N.
* Như vậy có 10% các trường hợp sau phẫu thuật làm cầu nối tại chỗ phải đoạn chi, đây là các trường
hợp bệnh nhân khi nhập viện đã có tình trạng thiếu máu nuôi chi kéo dài, mức độ tắc mạch nặng (độ 4), ngọn
chi viêm lóet họai tử lan rộng, 01 Bn phải làm 2 cầu nối, 01 Bn cầu nối đầu xa nhất. Hầu hết các Bn đều có
bệnh nặng nội khoa kèm theo, đặc biệt là đái tháo đường và suy thận mạn kèm theo.
V - BÀN LUẬN
5.1. tần suất gặp bn thiếu máu mạn tính chi dưới:
Tình trạng thiếu máu mạn tính chi dưới xuất hiện
khi có hẹp hay tắc động mạch (ĐM) chính cung cấp
máu nuôi hai chân [1]. Gồm ĐM chủ bụng, chậu gốc,
đùi chung, đùi nông, đùi sâu, khoeo, chầy trước, chày
sau, ĐM mác và mu chân. Mức độ thiếu máu rất khác
nhau giữa các Bn, có thể được chia làm 04 độ trên lâm
sàng theo Leriche - Fontaine. Đặc điểm của tắc mạch
mạn tính là tình trạng thiếu máu kéo dài, không đột
ngột như thiếu máu nuôi chi cấp gặp trong trường hợp
Bn có vết thương mạch máu hoặc huyết khối. Trái lại
khả năng phục hồi của nhóm bệnh này diễn biến từ từ
và cần có sự hợp tác của Bn sau phẫu thuật.
Tần suất gặp thiếu máu mạn chi dưới ở nhóm Bn
không có đái tháo đường chiếm khoảng 0,25% - 1% ở
các nước Âu - Mỹ, một số quốc gia khác có báo cáo tỉ
lệ mắc bệnh chênh lệch như ở Nhật 16%, Israel 5%...
Tiếc rằng ở Việt Nam tới nay chưa có những nghiên
cứu dịch tễ học độc lập, chuẩn mực về vấn đề này.
Tuy nhiên trong một số báo cáo cho thấy giai đoạn
1976-1980 Nguyễn Thị Hiền gặp 68 trường hợp. Tại
Bv Chợ Rẫy giai đoạn 1990-1991 Phạm Thọ Tuấn
56
Anh tập hợp được 74 trường hợp và giai đoạn 19921994 có 83 trường hợp [1]. Tại Bv Nhân Dân 115
TP.HCM, giai đọan đầu khi mới thành lập Đơn vị
phẫu thuật Lồng ngực - Mạch máu 2004-2006 gặp 50
trường hợp tắc ĐM mạn chi dưới nhập viện điều trị
[7]. Tuy nhiên so với một số cơ sở điều trị khác như
Bv Chợ Rẫy, Nhân Dân Gia Định và Bv Bình dân [1],
[5], [6] thì số lượng bệnh gặp ở Bv Nhân Dân 115 ở
giai đoạn này vẫn còn khiêm tốn.
Bên cạnh các Bn thiếu máu nuôi chi dưới mạn
không do đái tháo đường còn gặp nhóm các Bn có đái
tháo đường. Theo Nguyễn Thy Khuê [4] vùng đông
nam á được coi là vùng dịch tễ của bệnh đái tháo
đường. Ở Việt Nam, nghiên cứu điều tra giai đoạn
1990-1992 tại Hà Nội và các vùng lân cận gặp tỉ lệ mắc
bệnh đái tháo đường khoảng 1,1%. Huế 0,96% và
TP.HCM 2,25%, trong đó đái tháo đường type II chiếm
90%. Theo Campbell [2] vai trò của phẫu thuật bắc cầu
mạch máu đối với Bn đái tháo đường là rất lớn. Tác giả
cho rằng sau khi giải quyết tốt các biến chứng về thần
kinh, nhiễm trùng thì vấn đề suy động mạch gây thiếu
máu nuôi dưỡng chi sẽ trở thành nguyên nhân chính
dẫn tới đoạn chi của trên 95% các Bn.
KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHẪU THUẬT BẮC CẦU TẠI CHỖ TRONG TẮC ĐỘNG MẠCH MẠN CHI DƯỚI …
5.2. Nguyên nhân gây thiếu máu mạn tính
chi dưới:
Về nguyên nhân gây giảm tưới máu chi dưới rất đa
dạng. Có thể ở nhóm các Bn có hay không có đái tháo
đường, Bn có tình trạng xơ vữa động mạch, Bn có
bệnh Buerger và một số nguyên nhân ít gặp khác.
Trong đó bệnh lý xơ vữa ĐM liên quan nhiều đến
rối loạn chuyển hóa mỡ, với các yếu tố nguy cơ như
thuốc lá, cao huyết áp, đái tháo đường, di truyền, cách
sống ít hoạt động hay làm việc quá sức, ăn uống thất
thường… Tình trạng xơ vữa động mạch là nguyên
nhân thường gặp nhất của bệnh tắc các động mạch lớn
như động mạch chủ ngực, bụng, động mạch thân cánh
tay đầu, động mạch dưới đòn v.v… Ngoài các động
mạch lớn, các động mạch nhỏ cũng bị tổn thương.
Tuy nhiên, điểm khác biệt quan trọng với bệnh
Buerger là trong bệnh xơ vữa động mạch chỉ có lớp
nội mạc bị tổn thương, còn lớp áo giữa và áo ngoài
hầu như còn nguyên vẹn.
Bệnh buerger là một bệnh lý về mạch máu có viêm
tắc động mạch không do xơ vữa, biểu hiện bằng tình
trạng viêm tắc các động mạch vừa và nhỏ của chi.
Tình trạng này 60% xảy ra ở chi dưới và 40% xảy ra ở
chi trên. Đa số gặp ở bệnh nhân nam, dưới 40 tuổi, hút
nhiều thuốc lá. Các triệu chứng của bệnh là tình trạng
thiếu máu mạn tính chẳng hạn hồi, hội chứng
Raynaud, kèm theo loét hoặc hoại tử đầu ngón. Hiện
nay có nhiều giả thuyết nhắc đến vai trò gây dị ứng
của thuốc lá, di truyền của bệnh.
Theo bảng 1 và 4 cho thấy trong 50 trường hợp
được phẫu thuật bắc cầu nối tại chỗ do thiếu máu mạn
chi dưới có tương đối đủ các nguyên nhân gây bệnh.
Trong đó XVĐM thường gặp nhất do nhóm Bn lớn
tuổi. Ngoài ra với các bệnh lý nội khoa nặng đi kèm
có ảnh hưởng đáng kể đến tiên lượng bệnh. Bảng 8
cho thấy trong các Bn phải đọan chi sớm sau mổ đã có
3/5 các trường hợp có ĐTĐ, suy thận mạn hoặc cả hai.
Như vậy nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ rất cần
được các Bác sĩ điều trị lưu ý nhiều hơn.
Bệnh đái tháo đường gây viêm tắc động mạch mạn
tính được coi là một biến chứng rất hay gặp. Người ta
cho rằng ở lứa tuổi từ 30 đến 60 tuổi tỷ lệ mắc bệnh
viêm tắc động mạch ngoại biên mạn tính cao gấp 3- 4
lần ở nam và cao gấp 5-7 lần ở nữ so với người không
mắc bệnh tiểu đường.
Trong các thói quen xấu thì hút thuốc có vai trò
hàng đầu trong các yếu tố nguy cơ gây bệnh viêm tắc
động mạch ngoại biên. Theo một số nghiên cứu tỷ lệ
hút thuốc lá ở những bệnh nhân bị viêm tắc động
mạch ngoại biên khỏang 90-98% [3],[7]. Nguy cơ
xuất hiện bệnh tỷ lệ thuận với mức độ thuốc lá được
sử dụng mỗi ngày, phần lớn những bệnh nhân bị bệnh
Buerger chúng tôi gặp đều hút nhiều thuốc lá. Ngoài
ra tình trạng Bn vận động ít cũng là một vấn đề cần
lưu ý. Nếu Bn vận động thường xuyên sẽ làm cải thiện
đáng kể các cơn đau cách hồi và các biến đổi về huyết
động học. Ngoài ra, việc vận động còn làm tăng tình
trạng thích nghi của hoạt động chuyển hoá trong các
tế bào với tình trạng gắng sức.
5.3. Tình hình điều trị bệnh thiếu máu mạn
chi dưới:
Thời gian qua Y học thế giới đã luôn cố gắng giải
quyết tình trạng thiếu máu nuôi chi dưới một cách tích
cực cả về nội, ngoại khoa và các phương pháp kết hợp.
Về nội khoa, việc sử dụng thuốc trong điều trị đi
kèm với các biện pháp hỗ trợ. Bn được sử dụng thuốc
chống kết tập tiểu cầu, thuốc vận mạch, được tư vấn bỏ
thuốc lá, điều trị các bệnh kết hợp khác như cao huyết
áp, đái tháo đường, rối loạn chuyển hóa mỡ… một số
tác giả còn lưu ý việc dùng thuốc giảm đau, kỹ thuật
pha loãng máu đồng thể tích, sử dụng oxy cao áp.
Về mặt ngoại khoa có thể kể đến phẫu thuật cắt
hạch thần kinh giao cảm lưng, bóc lớp trong động
mạch, phẫu thuật cầu nối ngoài giải phẫu và phương
pháp tạo hình trong lòng mạch. Tuy nhiên trong
những năm gần đây kỹ thuật bắc cầu nối xa xuống đến
cẳng và bàn chân đang phát triển, đặc biệt có sử dụng
tĩnh mạch ghép tự thân tại chỗ kết hợp có ứng dụng kỹ
thuật phá van tĩnh mạch, do vậy không phải đảo
ngược đầu đoạn ghép và đương nhiên đã tận dụng
được một số lợi điểm đáng kể [3],[6].
Bảng 2 và 3 cho thấy thực trạng các tổn thương
giải phẫu tắc ĐM mạn tính chi dưới của nhóm Bn
trong nghiên cứu. Có lẽ vì nhiều lý do mà đa số các
Bn khi tới bệnh viện đã ở mức độ tắc mạch muộn (độ
III và IV), với các vết loét sâu, lan tỏa. Chính sự viêm
nhiễm lan tỏa và phá hủy tới tổ chức cơ, xương đã làm
tiên lượng bệnh xấu đi. Trong các bước tiến hành điều
trị các trường hợp này, nhóm nghiên cứu thực hiện
57
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
chiến lược “điều trị theo 3 bước” đó là cắt lọc, giải
thoát mủ hay tổ chức hoại tử ngay thì đầu, có kết hợp
với kháng sinh toàn thân. Tiếp theo là lựa chọn kỹ
thuật và làm phẫu thuật bắc cầu. Cuối cùng sau khi
bắc cầu sẽ đoạn tối thiểu (ngón, bàn …) khi đã đánh
giá tương đối chính xác phần tổ chức đã được nuôi
dưỡng nhờ phẫu thuật bắc cầu.
thăm dò trước cũng có những giá trị nhất định. Ngoài
ra, muốn phẫu thuật bắc cầu ĐM thành công còn có
những yếu tố khác đi kèm như sự chấp nhận của Bn
và thân nhân, tình trạng các bệnh lý nội khoa nặng
kèm theo của người bệnh và tình trạng thiếu máu nuôi
chưa quá mức trầm trọng gây loét hay hoại tử ngọn
chi lan rộng.
Bảng 5 và 6 phản ánh tình hình “phẫu thuật bắc
cầu nối tại chỗ” điều trị tắc ĐM mạn chi dưới tại Bv
Nhân Dân 115 trong những năm gần đây. Dựa trên kết
quả khảo sát tình trạng tắc mạch mạn qua siêu âm
Doppler và hình ảnh chụp ĐM có cản quang (DSA,
MRI, CT scan 64 lát …) mà các Bs chuyên khoa lựa
chọn chỉ định phẫu thuật bắc cầu. Có thể sử dụng 1
hay 2 (ít khi dùng tới 3 cầu nối) nhằm cung cấp càng
nhiều máu nuôi cho vùng hạ lưu càng tốt. Với các cầu
nối ĐM cho tới nay vẫn thường dùng các vật liệu nhân
tạo (ống Dacron hay Gore-tex) hoặc sử dụng tĩnh
mạch tự thân. Người ta cho rằng về lý thuyết cũng
như trên thực tế các kỹ thuật bắc cầu ĐM khác nhau
sẽ có ảnh hưởng tới hiệu quả họat động của phẫu thuật
bắc cầu. Tuy nhiên tới nay còn ít các báo cáo cụ thể
về vấn đề này. Tại Việt Nam loại kỹ thuật này vẫn
được áp dụng tại các trung tâm chuyên khoa, nhưng
số lượng không nhiều và chưa được theo dõi kỹ nên
việc đánh giá cũng còn thiếu thuyết phục.
Theo đánh giá của các chuyên gia thì trong những
năm gần đây tỷ lệ các Bn được phẫu thuật làm cầu nối
ngày càng nhiều. Chỉ tính riêng tại Bv Chợ Rẫy [5]
vào giai đoạn trước năm 1992 chỉ có 03 ca làm cầu
nối trong 2 năm. Giai đoạn 1992-1994 trong 2,5 năm
đã có 31 ca được thực hiện, và trong 7 tháng (từ
05/2004 đến 12/2004) có tới 21 ca được thực hiện.
Tại Bv Nhân Dân 115, Khoa phẫu thuật lồng ngực –
mạch máu hoạt động từ 6/2004, tính chung trong
khoảng 27 tháng, với 50 ca tắc động mạch mạn tính
được điều trị đã có 23 trường hợp có chỉ định làm cầu
nối, chiếm 46%, nhưng chỉ có 9 ca thực sự được tiến
hành, chiếm 39,1% các trường hợp có chỉ định. Trong
14 ca có chỉ định làm cầu nối nhưng không thực hiện
được đã có 5ca Bn không đồng ý mổ, 5 ca Bn có
những bệnh nặng nội khoa kèm theo và Bn xin về, 4
ca Bn tới muộn, chi có loét và hoại tử lan rộng nên
phải thực hiện phẫu thuật đoạn chi [7].
5.4. Phẫu thuật bắc cầu nối điều trị tắc ĐM mạn
chi dưới:
Phẫu thuật bắc cầu nối đã từng được thực hiện lần
đầu tiên vào năm 1913 bởi Ernst Jaeger (Đức) khi lần
đầu tiên tiến hành điều trị một trường hợp phồng động
mạch ngoại biên. Tới năm 1984 Jean Kunlin (Pháp)
đã làm cầu nối điều trị một trường hợp tắc động mạch
đùi nông mạn tính [1],[3].
Đa số các tác giả đều thừa nhận vai trò của phẫu
thuật bắc cầu nối trong điều trị tắc động mạch mạn
tính chi dưới là rất quan trọng, mặc dù để thực hiện
được cuộc phẫu thuật như dự kiến phải có những điều
kiện nhất định và trong đó vấn đề quan trọng là phải
có sự tái hiện dòng máu chảy phía đầu dưới của đoạn
tắc, trái lại thì phẫu thuật bắc cầu nối không thể thực
hiện được. Theo kinh nghiệm của Campbell [2] trong
một số ít các trường hợp, việc tiến hành phẫu tích
58
Bên cạnh phẫu thuật bắc cầu, các trường hợp tắc
động mạch đầu xa dưới gối thường được điều trị bằng
cách cắt thần kinh giao cảm lưng cùng bên, chăm sóc
đoạn chi thiếu máu và có thể thực hiện phối hợp điều
trị nội khoa (dùng thuốc, liệu pháp oxy cao áp ..) hoặc
phải đoạn chi ngay thì đầu loại bỏ phần thiếu máu kéo
dài đã hoại tử. Ngay cả sau khi đã làm cầu nối phục
hồi dòng máu chảy thì việc chăm sóc, theo dõi đánh
giá mức độ cải thiện phần loét ở ngọn chi tới đâu vẫn
rất cần thiết.
Vấn đề chọn loại vật liệu thực hiện phẫu thuật bắc
cầu mạch máu cầu được cân nhắc giữa vật liệu nhân
tạo và tĩnh mạch hiển tự thân. Mặc dù tới nay vẫn còn
một số ý kiến tranh luận, nhưng nhìn chung đa số các
tác giả đều đồng tình với việc sử dụng tĩnh mạch hiển
tự thân do những ưu điểm nổi bật của tĩnh mạch tự
thân. Bảng 6 cho thấy các loại cầu nối đã thực hiện.
Với các trường hợp sử dụng 01 cầu nối, tòan bộ được
KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHẪU THUẬT BẮC CẦU TẠI CHỖ TRONG TẮC ĐỘNG MẠCH MẠN CHI DƯỚI …
dùng bằng tĩnh mạch hiển tự thân. Với 02 cầu nối,
đoạn gần (chủ-đùi hoặc đùi-đùi được dùng bằng các
đoạn ống Gore-tex số 6 và 8)
5.5. Kỹ thuật bắc cầu nối đm tại chỗ có nội soi
phá van:
Phẫu thuật bắc cầu nối có ưu điểm đưa máu trực
tiếp đến vùng bị thiếu máu mà không làm tổn thương
đến thần kinh hay tĩnh mạch đi kèm với ĐM bị tắc và
giữ được tuần hoàn bàng hệ. Điều kiện cần thiết để có
thể tiến hành phẫu thuật bắc cầu nối là còn tồn tại
phần ĐM phía dưới chỗ bị tắc nghẽn.
Có 5 yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự lưu
thông của cầu nối [1] bao gồm :
- Vị trí xuất phát của cầu nối.
- Tính chất riêng của cầu nối.
- Vị trí đầu xa cầu nối.
- Kỹ thuật nối ghép.
- Nguyên nhân gây tình trạng thiếu máu mạn tính
chi dưới.
Với tĩnh mạch hiển khi sử dụng làm cầu nối có thể
để tại chỗ hoặc đảo ngược đầu. Ưu điểm của việc
dùng tĩnh mạch tự thân tại chỗ (không đảo đầu bằng
cách phá các van tĩnh mạch) là giữ được sự nguyên
vẹn nội mạc và mạch nuôi của mạch máu: Tĩnh mạch
được sử dụng thường có đường kính một đầu lớn và
một đầu nhỏ, phù hợp về kích thước để làm miệng nối
với đầu gần và đầu xa của ĐM. Cầu nối ít có khả năng
bị xoắn vặn.
Tuy nhiên việc ghép tại chỗ (không đảo đầu) phải
đi kèm với kỹ thuật phá van tĩnh mạch. Do đó các tác
giả đã từng sử dụng kỹ thuật này luôn lưu ý các nguy
cơ khi phá van tĩnh mạch gồm :
+ Dễ gây chấn thương lớp nội mạc để lại sẹo và
nguy cơ tắc cầu nối.
+ Nguy cơ nhiễm trùng cao do phải bộc lộ toàn bộ
tĩnh mạch.
+ Nguy cơ phá van hay thắt các nhánh bên có thể
sót gây thông động tĩnh mạch.
+ Thời gian phẫu thuật thường kéo dài.
+ Đoạn cầu nối dễ gập góc, nhất là khi cầu nối trên
gối hay thiếu kinh nghiệm.
Một số tác giả khác còn cho rằng, cầu nối trên gối
có thể sử dụng tĩnh mạch tự thân tại chỗ hay đảo
ngược. Với các cầu nối nằm dưới gối nhất là đầu gối
xa, dùng tĩnh mạch tự thân tại chỗ cho kết quả tốt hơn
dùng tĩnh mạch đảo ngược đầu. Và không nên dùng
ống nhân tạo làm cầu nối dưới gối; Ngoài ra cũng lưu ý
các biến chứng nếu dùng thuốc kháng đông dài ngày và
có thể dùng tĩnh mạch tiếp nối giữa với ống nhân tạo.
Kết quả theo dõi đánh giá tại Boston [2] với hơn
1000 Bn bắc cầu nối tại chỗ có sử dụng nội soi lòng
mạch khi phá van. Sau 05 năm cầu nối còn thông tốt
là 75%, bảo tồn chi trong 5 năm là 85% và tử vong
chung chiếm 1%. Đặc biệt những nghiên cứu cũng
cho thấy có kết quả tương tự ở Bn người cao tuổi và
nhóm khác.
Bảng 6 và 7 cho thấy kỹ thuật bắc cầu nối tại chỗ
đã được ứng dụng tại Bv Nhân Dân 115, với 50
trường hợp được thực hiện theo đúng kỹ thuật ở giai
đoạn này còn rất khiêm tốn. Có thể vì một số lý do
nhất định về kỹ thuật, phương tiện và quan điểm …
nên kỹ thuật này tới nay vẫn chưa được áp dụng rộng
rãi tại Việt Nam.
5.6. Kết quả sớm sau phẫu thuật bắc cầu nối
ĐM tại chỗ:
Theo bảng 7 và 8, qua 50 trường hợp được thực
hiện loại phẫu thuật này, đã có 86% cho kết quả sớm
sau mổ tốt, 4% chỉ đạt mức trung bình, và 10% chưa
tốt. Phân tích các trường hợp Bn phải đoạn chi sau mổ
cho thấy có nhiều yếu tố sẽ phải được cân nhắc kỹ
lưỡng hơn trước khi tiến hành phẫu thuật.
Một số vấn đề có thể xảy ra sau các phẫu thuật bắc
cầu nối tại chỗ điều trị tắc ĐM mạn tính chi dưới như
: hẹp hoặc tắc miệng nối; nhiễm trùng vết mổ hay từ ổ
loét hoặc mỏm cụt lan rộng, biến chứng tác động từ
những bệnh lý nội khoa nặng kèm theo. Đặc biệt với
một kỹ thuật mới được đưa vào áp dụng luôn cần có
thời gian hòan chỉnh và phát triển.
Trong 05 trường hợp hẹp tắc miệng nối (bảng 8)
dẫn tới Bn phải đọan chi, chiếm 10% các trường hợp
đã có 3/5 Bn có các bệnh ĐTĐ, suy thận mạn hoặc cả
hai. Cũng có 3/5 Bn sử dụng các loại cầu nối phức
tạp. Tất cả 05 Bn đều có lóet chi, nhiễm trùng lan tỏa
và mức độ tắc ĐM mạn ở độ IV. Như vậy căn cứ vào
59
PHẪU THUẬT TIM MẠCH VÀ LỒNG NGỰC VIỆT NAM SỐ 9 - THÁNG 8/2014
các yếu tố để đảm bảo một miệng nối thông tốt sau
phẫu thuật bắc cầu nối ĐM như đã trình bày ở trên thì
có thể lý giải được một phần kết quả trong nghiên cứu
chưa đáp ứng như mong muốn (bảng 8).
Theo nghiên cứu của Bv Chợ Rẫy [5] trong 21 ca
thực hiện cầu nối từ 5/2004 đến 12/2004 có 5 ca
(chiếm 24%) có nhiễm trùng vết mổ, tắc miệng nối 01
trường hợp và hẹp miệng nối (hẹp 70% miệng nối xa)
1 trường hợp. Một số tác giả nước ngoài như Joseph
Dennis gặp tỷ lệ tắc cầu nối sớm khoảng 2- 3%,
Davidson là 4,2%.
VI- KẾT LUẬN
Qua 50 trường hợp được phẫu thuật bắc cầu nối
động mạch tại chỗ bằng tĩnh mạch hiển có nội soi phá
van trong điều trị thiếu máu mạn tính chi dưới tại
Bệnh viện Nhân Dân 115 từ 1/2007 đến 12/2010, mặc
dù số liệu còn hạn chế nhưng có thể rút ra một số nhận
xét sau:
- Bệnh nhân tắc động mạch mạn tính chi dưới đã
được phẫu thuật tại Bv Nhân Dân 115 đa số là nam
giới, có độ tuổi trung bình 68- 69. Nguyên nhân chủ
yếu gặp xơ vữa động mạch. Bệnh nhân nhập viện phổ
biến đã có tắc động mạch mạn mức độ III và IV kèm
theo có loét chi. Phần lớn các trường hợp tắc kéo dài
từ động mạch đùi chung trở xuống. Và tất cả các bệnh
nhân đều có các bệnh lý nội khoa nặng kèm theo,
trong đó nhiều nhất gặp các bệnh lý tim mạch.
- Phẫu thuật bắc cầu nối động mạch tại chỗ chủ
yếu thực hiện một cầu nối và đa số gặp loại cầu nối
đùi – khoeo. Kết quả sớm sau phẫu thuật tốt đạt
86%, có 10% cầu nối lưu thông kém và bệnh nhân
phải đoạn chi sau mổ. Các trường hợp đoạn chi gồm
các bệnh nhân có đái tháo đường, suy thận mạn hoặc
Buerger.
60
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- PHẠM THỌ TUẤN ANH (1994), Phác đồ điều
trị ngoại khoa tắc động mạch mạn tính chi dưới,
Luận án tiến sĩ Y Học – ĐH Y Dược TP.HCM.
2- CAMPBELL D.R. (2000), ‘’Vascular problems
and the indication for bypass or amputation in the
diabetic’’, Hội thảo chăm sóc bàn chân đái tháo
đường TP.HCM 6/6/2000 – ĐH Y Dược
TP.HCM, Tr 60-61.
3- GIBBONS
G.W.,
POMPOSELLI
F.B.,
LoGERFO F.W., (1995), Arterial reconstruction :
femoral to popliteal,tibial, peroneal, and pedal,
magement
of
diabetic
foot
problems,
W.B.Saunders Company, pp 194-204.
4- NGUYỄN THI KHUÊ (2000), ‘’Xử trí bệnh đái
tháo đường tại Việt Nam’’, Hội thảo chăm sóc
bàn chân đái tháo đường TP.HCM 6/6/2000 – ĐH
Y Dược TP.HCM, Tr 1-5.
5- LÊ PHI LONG, PHẠM THỌ TUẤN ANH,
NGUYỄN HOÀNG BÌNH (2005), ‘’Đáng giá kết
quả sớm phẫu thuật cầu nối điều trị tắc động
mạch mạn tính chi dưới’’, Hội nghị KHKT lần
22-ĐH Y Dược TP.HCM – Y học TP.HCM, tập
9, phụ bản số 1, Tr 27-32.
6- CAO VĂN THỊNH, DAVID R. CAMPBELL,
VĂN TẦN VÀ CS (2004), ‘’Nội soi lòng mạch
phá van tĩnh mạch hiển ghép tại chỗ trong phẫu
thuật bắc cầu nối điều trị thiếu máu nuôi mạn
tính chi dưới ‘’, Hội nghị nội soi và phẫu thuật
nội soi – ĐH Y Dược TP.HCM, BV Hoàn Mỹ
14,15,16/10/2004, Tr 164-177.
7- CAO VĂN THỊNH VÀ CS (2006), “Phẫu thuật
bắc cầu nối điều trị thiếu máu mạn chi dưới bằng
ghép tại chỗ tĩnh mạch hiển có nội soi phá van”
Tạp chí Y Học Viện Nam, tập 328, Tr 258-270.