TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (210) 2016
25
BIẾN ĐỔI XÃ HỘI CỦA BUÔN LÀNG TÂY NGUYÊN:
HAI CHIỀU KÍCH THEN CHỐT
TRẦN HỮU QUANG
Về quá trình biến đổi xã hội 40 năm qua nơi buôn làng các tộc người thiểu số
bản địa ở Tây Nguyên, bài này tập trung bàn luận về hai chiều kích then chốt:
chiều kích quyền lực chính trị của buôn làng, và chiều kích quan hệ xã hội trong
đời sống buôn làng. Sự biến đổi trên hai chiều kích này diễn ra trong hai tiến
trình sau: (a) chuyển từ cộng đồng cổ truyền tự trị phi nhà nước sang cộng đồng
thành viên của một xã hội tổng thể có nhà nước; và (b) chuyển từ loại hình xã
hội cổ truyền dựa trên quan hệ trao đổi và tương trợ cộng đồng sang loại hình
xã hội hiện đại dựa trên quan hệ mang tính khế ước. Luận điểm của bài này là
cho rằng sự biến đổi trong hai chiều kích này chi phối một cách sâu xa những sự
vận hành cũng như những sự chuyển biến trong hầu hết các lãnh vực kinh tế - xã
hội của đời sống buôn làng.
Trong vòng 40 năm qua, các cộng
đồng buôn làng của các tộc người
thiểu số bản địa ở Tây Nguyên đã và
đang trải qua một quá trình chuyển
biến vô tiền khoáng hậu trong lịch sử
của mình. Không những thay đổi về
phương thức sinh kế (định canh), hình
thái cư trú (định cư) và môi trường
sống (phần lớn không còn sống với
rừng và nhờ rừng như ngày xưa nữa),
mà còn thay đổi cả về mặt phong tục,
Trần Hữu Quang. Phó giáo sư, tiến sĩ.
Trung tâm Dân tộc học, Viện Khoa học Xã
hội vùng Nam Bộ.
Bài viết được thực hiện trong khuôn khổ đề
tài Vai trò của một số định chế xã hội phi
chính thức đối với sự phát triển bền vững
Tây Nguyên do Trường Đại học Nguyễn Tất
Thành chủ trì (mã số đề tài: TN3/X21, thuộc
Chương trình khoa học và công nghệ trọng
điểm cấp Nhà nước KHCN-TN3/11-15, gọi
tắt là “Chương trình Tây Nguyên 3”).
tập quán cũng như cấu trúc xã hội và
các định chế xã hội cổ truyền. Sự biến
đổi xã hội ở Tây Nguyên quả là một
sự biến đổi mang tính chất “vượt
nhiều bậc” theo nhận xét của Nguyễn
Từ Chi (1996, tr. 530) trong một bài
viết vào năm 1988.
Sự biến đổi xã hội này cũng có thể
được coi là quá trình mà giới khoa
học xã hội thường gọi là hiện đại hóa
xã hội, tức là quá trình chuyển biến từ
xã hội cổ truyền sang xã hội hiện đại
(Trần Hữu Quang, 2005). Tuy nhiên,
trong bài này, chúng tôi không tiếp
cận dưới góc độ “hiện đại hóa xã hội”
xét một cách toàn diện, mà chỉ tập
trung đề cập đến hai chiều kích mà
chúng tôi cho là then chốt trong bối
cảnh Tây Nguyên.
Theo chúng tôi, quá trình biến đổi xã
hội của buôn làng các tộc người bản
26
TRẦN HỮU QUANG – BIẾN ĐỔI XÃ HỘI CỦA BUÔN LÀNG|
địa ở Tây Nguyên trong thế kỷ XX và
đặc biệt kể từ năm 1975 đến nay có
thể được gói gọn trong hai tiến trình
căn bản sau đây: (a) tiến trình chuyển
từ cộng đồng cổ truyền tự trị phi nhà
nước sang cộng đồng thành viên của
một xã hội tổng thể có nhà nước; và
(b) tiến trình chuyển từ loại hình xã hội
cổ truyền dựa trên quan hệ trao đổi và
tương trợ cộng đồng sang loại hình xã
hội hiện đại dựa trên quan hệ mang
tính khế ước. Tiến trình thứ nhất có
liên quan tới chiều kích quyền lực
chính trị của buôn làng; còn tiến trình
thứ hai thì liên quan tới chiều kích
quan hệ xã hội – thay đổi tính chất
của các mối quan hệ xã hội trong
buôn làng cũng như với bên ngoài
buôn làng.
Bài viết này không phải là một công
trình phân tích thực nghiệm dựa trên
các dữ kiện khảo sát điền dã, mà chỉ
nhằm mục tiêu là trình bầy một số
diễn giải lý thuyết về hai chiều kích
biến đổi nêu trên, dựa trên các kết
quả nghiên cứu có liên quan của một
số tác giả. Theo thiển ý chúng tôi,
những diễn giải lý thuyết này có thể
trở thành những tiền đề mang tính gợi
mở để dựa trên đó, chúng ta có thể
nhận diện và lý giải xu thế vận hành
và chuyển biến của những lãnh vực
đặc thù khác của đời sống buôn làng
Tây Nguyên ngày nay.
CHIỀU KÍCH QUYỀN LỰC CHÍNH
TRỊ BUÔN LÀNG
Nếu cấu trúc quyền lực chính trị là
một trong những chiều kích đặc trưng
của quá trình biến đổi xã hội nói
chung, thì điều này lại càng đáng
được quan tâm trong bối cảnh biến
đổi từ xã hội cổ xưa sang xã hội hiện
đại trên vùng đất Tây Nguyên. Theo
chúng tôi, một trong những biến đổi
quan trọng nhất ở đây, xét về chiều
kích quyền lực chính trị, đó là chuyển
từ cộng đồng tự trị phi nhà nước sang
cộng đồng thành viên của một xã hội
tổng thể có nhà nước, đặc biệt kể từ
năm 1975 trở đi.
Khác biệt so với các cộng đồng tộc
người ở vùng miền núi Tây Bắc xét về
mặt cấu trúc chính trị, các cộng đồng
tộc người bản địa ở Tây Nguyên
trước đây đều là những cộng đồng
biệt lập, chưa có nhà nước, và chỉ có
rất ít mối liên hệ với những xã hội có
nhà nước ở các vùng đồng bằng, mặc
dù vẫn có những cấu trúc quyền lực
chính trị đặc thù trong nội bộ buôn
làng, và mặc dù một số cộng đồng tộc
người cũng từng manh nha hình
thành nhà nước ở dạng sơ khai.
Đặc trưng của cấu trúc quyền lực
chính trị cổ truyền của buôn làng Tây
Nguyên có thể được soi sáng và lý
giải dựa trên những kiến giải lý thuyết
của nhiều nhà nhân học và dân tộc
học trên thế giới và ở Việt Nam trong
vài thập niên vừa qua.
Thoạt tiên, chúng ta cần minh định hai
khái niệm mấu chốt ở đây, đó là “quyền
lực” và “quyền lực chính trị”. Trước hết
là khái niệm “quyền lực”. Theo Benedict
Anderson, chúng ta cần hết sức thận
trọng khi sử dụng thuật ngữ tiếng Anh
“power” (quyền lực) vào việc phân tích
cấu trúc xã hội của các cộng đồng tộc
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (210) 2016
27
người bản địa, bởi lẽ nội hàm của từ
power thường được hiểu theo ý nghĩa
mà các nhà tư tưởng chính trị học và
khoa học xã hội Tây phương đã khoác
lên cho nó kể từ thời Trung cổ đến nay.
Theo Anderson, cộng đồng tộc người
bản địa Java ở Indonesia không những
không có thuật ngữ tương đương với
từ power, mà còn có quan niệm về
quyền lực hết sức khác biệt, thậm chí
đối lập so với quan niệm Tây phương
(B. Anderson, 2006, tr. 19-20).
pouvoir non coercitif). Clastres cho rằng
chính vì các nhà nhân học và dân tộc
học thường mang quan niệm định kiến
về quyền lực chính trị của nhà nước
hiện đại mà mình đang sống, nên dễ
lầm tưởng rằng quyền lực chính trị
luôn luôn mang tính cưỡng chế và
bạo lực (theo dạng quan hệ mệnh
lệnh/phục tùng), mà không biết rằng
quyền lực chính trị hoàn toàn có thể
tồn tại dưới hình thái không có cưỡng
chế mà cũng không có bạo lực như
trong các xã hội cổ xưa(1).
Tương tự như vậy, khái niệm “quyền
lực chính trị” cũng cần được xác định
lại khi nghiên cứu về các cộng đồng
tộc người cổ sơ. Phản bác quan niệm
phổ biến trong ngành nhân học và dân
tộc học Âu Mỹ vốn cho rằng xã hội
loài người bao gồm hai nhóm là xã hội
có quyền lực chính trị và xã hội không
có quyền lực chính trị, nhà nhân học
và dân tộc học người Pháp Pierre
Clastres trong một công trình nổi tiếng
xuất bản năm 1974 (tr. 20-21) nhấn
mạnh rằng quyền lực chính trị (pouvoir
politique) là một hiện tượng “phổ quát”,
“một tất yếu gắn liền cố hữu với đời
sống xã hội” – nghĩa là một khi đã có
đời sống xã hội thì không thể không
có chiều kích chính trị, không có xã
hội nào mà không có quyền lực chính
trị, kể cả nơi những xã hội chưa có
hình thái nhà nước.
Có một điểm quan trọng và hết sức
mới mẻ mà Clastres (1974, tr. 20) đề
xướng, đó là sự phân biệt giữa hai
loại quyền lực: “quyền lực mang tính
cưỡng chế, và quyền lực không mang
tính cưỡng chế” (pouvoir coercitif, et
Nhà nhân học Lewis Henry Morgan
quan niệm rằng có hai phương thức tổ
chức chính trong lịch sử tiến hóa của
nhân loại: phương thức thứ nhất dựa
trên thị tộc (gens), bào tộc (phratry) và
bộ lạc (tribe), đây là phương thức tổ
chức chưa có nhà nước; và phương
thức tổ chức thứ hai là phương thức
có nhà nước, dựa trên lãnh thổ và
quyền sở hữu (dẫn lại theo M. Abélès,
2010, tr. 667). Tán đồng với các nhận
xét của Morgan về đặc trưng của cấu
trúc xã hội nơi các cộng đồng xã hội
cổ xưa, nhà nhân học Robert Lowie
(1920, tr. 389; 2013, tr. 506) nhấn
mạnh rằng “các định chế nguyên thủy
luôn luôn gắn chặt với thể chế cai trị
dân chủ [democratic government]”, và
chế độ quân chủ không thể nào nảy
sinh từ trong lòng kiểu xã hội này. Ở
New Guinea chẳng hạn, theo lời
tường thuật của Lowie, vị thủ lãnh
cộng đồng chỉ giữ một vai trò “khiêm
tốn”: nơi cộng đồng tộc người Kai,
“ông ta [tức vị thủ lãnh] có mảnh đất
lớn nhất, nhưng bên cạnh đó ông ta
có bổn phận phải tiếp đãi mọi người
28
TRẦN HỮU QUANG – BIẾN ĐỔI XÃ HỘI CỦA BUÔN LÀNG|
khách và mọi người trong cộng đồng
của mình. Ông ta là người giàu nhất
trong làng, và người ta kỳ vọng ông
phải cung cấp rộng lượng thuốc lá và
cau cho những người đến giúp đỡ
mình, mổ heo cho họ và thết đãi họ
nhiều món ngon khác. Ông yêu cầu
họ phải ủng hộ mình, nhưng ngoài
việc đó ra, ông chẳng có bao nhiêu
quyền hành. Bất cứ ai trong bộ lạc
đều hành xử theo ý mình muốn, và vị
thủ lãnh chẳng có phương tiện cưỡng
chế nào” (R. Lowie,1920, tr. 369).
Trong một bài viết vào năm 1948,
Lowie đã dựa trên những kết quả
khảo sát về các cộng đồng bản địa ở
Bắc Mỹ và Nam Mỹ để nhận diện
được ba đặc trưng chính sau đây của
người thủ lãnh cộng đồng (dẫn lại
theo P. Clastres, 1974, tr. 27): (a) thủ
lãnh là người “kiến tạo hòa bình”.
người điều hòa các mối quan hệ trong
cộng đồng, chính vì thế mà người ta
thường thấy có sự tách biệt giữa
quyền lực dân sự và quyền lực quân
sự; (b) ông ta là người rộng lượng,
sẵn sàng chia sẻ của cải của mình khi
các thành viên cộng đồng cần đến; (c)
chỉ người nào có tài ăn nói giỏi giang
thì mới có thể làm thủ lãnh. Bên cạnh
ba đặc trưng ấy, Clastres còn đưa
thêm một đặc trưng thứ tư, đó là
quyền đa thê: thông thường chỉ có thủ
lãnh mới có nhiều vợ (P. Clastres,
1974, tr. 29-31).
chế, cũng chẳng có phương tiện gì để
ra lệnh”. Đây là một người thủ lãnh
không có quyền lực (pouvoir), cũng
không có quyền hành (autorité). Khi
giải quyết những vụ xung đột hoặc
tranh chấp trong cộng đồng hay giữa
các dòng họ, vị thủ lãnh chỉ có uy tín
(prestige) mà cộng đồng thừa nhận –
nhưng uy tín không đồng nghĩa với
quyền lực. Phương tiện duy nhất mà
ông ta có để chu toàn nhiệm vụ giảng
hòa của mình, đó là lời nói: tuy nhiên,
lời nói của ông ta không phải để phán
xét, vì ông ta không phải là quan tòa
(juge), ông ta cũng không có quyền
ngả về bên này hay thiên về bên kia;
sức mạnh của lời nói của ông ta nằm
ở chỗ làm thế nào thuyết phục được
những người đang tranh chấp biết
hòa dịu lại, không công kích hay chửi
bới nhau nữa, biết noi theo gương tổ
tiên lúc nào cũng sống hòa thuận với
nhau (P. Clastres, 1974, tr. 176). Lời
nói của vị thủ lãnh chỉ có sức mạnh
mệnh lệnh và chỉ huy vào những lúc
có chiến tranh (giữa cộng đồng này
với cộng đồng khác), tức là trong
những hoàn cảnh ngoại lệ; sau khi
chiến tranh kết thúc, người thủ lãnh
dù có thành tích anh hùng đến mấy đi
nữa trong chiến đấu thì khi trở lại
hoàn cảnh hòa bình bình thường, lời
nói của ông ta không còn sức nặng
mệnh lệnh hay chỉ huy nữa (như trên,
tr. 177).
Tính chất độc đáo của cương vị thủ
lãnh trong các xã hội cổ xưa, theo
Clastres (1974, tr. 175), là ở chỗ
người thủ lãnh “chẳng có chút quyền
hành gì, không có quyền lực cưỡng
Trong xã hội cổ xưa, theo Clastres, sở
dĩ cương vị thủ lãnh mang tính chất
phi quyền lực, phi quyền hành như
vậy là do nền tảng thực thụ của quyền
lực nằm nơi cộng đồng. Thủ lãnh chỉ
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (210) 2016
là người phục vụ cho cộng đồng, và
thực ra chính cộng đồng mới là chủ
thể có sức mạnh thực thi quyền hành
của mình lên trên người thủ lãnh. Và
chính do vậy mà “xã hội cổ xưa không
bao giờ cho phép vị thủ lãnh của mình
biến thành một kẻ chuyên chế” (P.
Clastres, 1974, tr. 176).
Vì quyền lực chính trị trong các xã hội
cổ xưa không mang tính cưỡng chế và
tính bạo lực – đây vốn là hai đặc trưng
của hình thái nhà nước mà chúng ta
chứng kiến trong lịch sử loài người –,
nên các xã hội ấy không có nhà nước,
hay nói như Clastres, đấy là những
“xã hội chống nhà nước” hay cũng có
thể dịch là “cưỡng lại nhà nước”, hiểu
theo nghĩa là chống lại/cưỡng lại sự
xuất hiện của nhà nước, hay nói đúng
hơn là tránh né sự hình thành của nhà
nước (như trên, tr. 22-23).
Friedrich Engels trong cuốn Nguồn gốc
của gia đình, của chế độ tư hữu và của
nhà nước xuất bản năm 1884 cũng đã
từng đồng ý với Lewis Morgan rằng
các xã hội cổ xưa (mà Morgan mô tả)
là loại hình “xã hội chưa từng biết đến
nhà nước” – nhà nước xét như một
quyền lực công đặc biệt, tách rời khỏi
quần chúng nhân dân (Ph. Ăngghen,1972, tr. 154, 193). Engels nhận
định như sau: “Như vậy, không phải
lúc nào cũng đã có nhà nước. Đã
từng có những xã hội không cần đến
nhà nước, không có một khái niệm
nào về nhà nước và chính quyền nhà
nước cả” (như trên, tr. 288)(2).
Dựa trên công trình của Morgan,
Engels nhận xét rằng xã hội thị tộc
29
của tộc người Iroquois ở vùng Bắc Mỹ
có người tù trưởng (người đứng đầu
thị tộc trong thời bình) và người thủ
lãnh quân sự: tù trưởng là do toàn bộ
đàn ông và đàn bà tham gia bầu ra,
quyền lực của người tù trưởng thực ra
“chỉ thuần túy về mặt đạo đức” và ông
ta “không có một phương tiện cưỡng
bách nào cả”. Còn vị thủ lãnh quân
sự thì cũng “chỉ có thể ra mệnh lệnh
trong thời gian xuất chinh mà thôi”,
nghĩa là không có quyền hành gì trong
thời bình (Ph. Ăng-ghen, 1972, tr. 137138). Cả vị tù trưởng lẫn vị thủ lãnh
quân sự “đều không đòi hỏi những
quyền ưu tiên nào cả”, tức là không
hề có đặc quyền, đặc lợi (như trên, tr.
143). Engels nhấn mạnh cái sức mạnh
nội tại của cộng đồng cổ xưa trong
việc cưỡng lại sự thống trị như sau:
“Tính chất vĩ đại của chế độ thị tộc,
nhưng đồng thời cũng là tính chất hạn
chế của nó, chính là ở chỗ sự thống trị
và sự nô dịch không tồn tại trong tổ
chức đó được” (như trên, tr. 262).
CỘNG ĐỒNG GUMLAO Ở ĐÔNG
NAM Á
Chúng ta cũng có thể bắt gặp đặc
trưng phi quyền hành của dạng quyền
lực chính trị trong những cộng đồng
cổ xưa mà F. Engels và P. Clastres
phân tích trên đây nơi loại hình cộng
đồng Gumlao ở vùng Đông Nam Á mà
nhà nhân học xã hội người Anh
Edmund Leach phát hiện và công bố
vào năm 1954. Khi nghiên cứu về cấu
trúc xã hội của các cộng đồng tộc
người ở vùng đồi núi Kachin (thuộc
Myanmar), Leach đã phân biệt được
ba loại hình cộng đồng tiêu biểu: Shan,
30
TRẦN HỮU QUANG – BIẾN ĐỔI XÃ HỘI CỦA BUÔN LÀNG|
Gumsa và Gumlao. Ở một cực này,
Shan là loại cộng đồng có phân hóa
đẳng cấp rõ rệt và có hình thái quyền
lực chính trị mang tính chất chuyên
quyền (autocratic) – tức đã mang hình
thái nhà nước. Còn ở cực kia, Gumlao
là loại cộng đồng mang tính chất bình
đẳng, dân chủ, không có đẳng cấp, và
không có hình thái nhà nước. Gumsa
là loại hình nằm giữa hai loại trên,
trong đó người thủ lãnh cộng đồng là
thành viên của một tầng lớp quí tộc,
và chức thủ lãnh (chief) được phong
theo kiểu cha truyền con nối. Khác với
Gumsa, người đứng đầu (headman)
cộng đồng Gumlao được cộng đồng
tín nhiệm bầu ra dựa trên uy tín chứ
không phải cha truyền con nối (E.
Leach, 1970, tr. 198) và bên cạnh
người đứng đầu này còn có một hội
đồng già làng (council of elders) (như
trên, tr. 206).
Trong một công trình nghiên cứu về
các cộng đồng tộc người thiểu số ở
vùng lục địa Đông Nam Á xuất bản
năm 1977, nhà nhân học người Mỹ
Charles Keyes cũng phân biệt giữa
hai dạng cộng đồng “dân chủ” và cộng
đồng “chuyên quyền” (democratic/
autocratic) tương tự như khung phân
tích Gumlao/Gumsa của E. Leach ở
vùng Kachin của Myanmar, và Keyes
đi đến nhận định cho rằng phần lớn
các cộng đồng tộc người thiểu số ở
Đông Nam Á đều có thể được mô tả
và xếp vào một trong hai dạng cộng
đồng “dân chủ” và “chuyên quyền” này.
Keyes còn nhận xét rằng chế độ thủ
lãnh (chiefdom)(3) nơi các tộc người ở
vùng Tây Bắc Việt Nam rất gần với loại
hình “chuyên quyền”, trong đó người
thủ lãnh cộng đồng nắm giữ quyền tối
cao đối với đất đai và mỗi thành viên
cộng đồng phải nộp cho ông ta một
khoản thuế thì mới có quyền khai thác
và canh tác đất đai (C. Keyes, 1995, tr.
28 và 45).
Nhà nhân học và chính trị học người
Mỹ James Scott, trong một công trình
xuất bản năm 2009 nghiên cứu về các
cộng đồng tộc người miền đồi núi ở
Đông Nam Á mà ông gọi chung bằng
cái tên là vùng Zomia, cho rằng phần
lớn các cộng đồng này đều là những
cộng đồng phi nhà nước (nonstate
hoặc stateless). Theo Scott, đây là những
cộng đồng tương đối bình đẳng, phi
tập trung về mặt chính trị, trong đó hệ
thống quyền lực chính trị mang tính
chất “heterarchy”, tạm dịch là hệ thống
phi thứ bậc (tức là hệ thống trong đó
các thành tố giữ vị trí ngang hàng
nhau, không có cái nào ưu trội) –
Scott coi đây là một dạng “phản đề” so
với những xã hội có hệ thống tôn ti
thứ bậc (hierarchy) và có quyền lực
nhà nước ở các vùng thung lũng và
đồng bằng (J. Scott, 2009, tr. 325327). Đấy cũng là những cộng đồng
có những chiến lược ứng xử “tránh né
việc hình thành nhà nước” (stateevading behavior), không những không
để cho vị thủ lãnh nắm quyền độc tôn,
mà cũng tránh không để cho một số
dòng họ vượt lên giữ vai trò áp đảo
trong cộng đồng thông qua các quan
hệ hôn nhân chẳng hạn (như trên, tr.
188-189, 331).
Qua một số công trình nêu trên, chúng
ta có thể nhận thấy rằng, xét về mặt
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (210) 2016
giả thuyết, các cộng đồng tộc người ở
vùng Tây Bắc của Việt Nam có lẽ thiên
về loại hình Gumsa của E. Leach hơn,
trong khi các cộng đồng tộc người ở
Tây Nguyên thì lại dường như gần
hơn với loại hình Gumlao – tức là loại
hình cộng đồng phi nhà nước hay
tránh né sự ra đời của nhà nước (tuy
nhiên ở đây, chúng tôi chỉ tập trung
vào việc tìm hiểu nơi vùng Tây Nguyên
chứ không đề cập tới vùng Tây Bắc).
Lẽ tất nhiên, cấu trúc quyền lực chính
trị của buôn làng Tây Nguyên không
chỉ có già làng hay chủ làng, mà còn
bao gồm nhiều nhân vật nữa như
người xử kiện, chủ đất, chủ bến nước,
thầy cúng... nhưng ở đây, chúng tôi
chỉ đề cập tới vai trò điển hình của vị
già làng hay chủ làng mà thôi.
ĐẶC TRƯNG CỦA NGƯỜI ĐỨNG
ĐẦU BUÔN LÀNG Ở TÂY NGUYÊN
Nguyễn Từ Chi (1996, tr. 527) trong
một bài viết năm 1988 từng nhận xét
rằng “cơ cấu xã hội [cổ truyền] của
từng làng Thượng lặp lại cách tổ chức
rất dân chủ của thiết chế mà Ăngghen trước đây từng gọi là ‘công xã
nông thôn’ hay ‘công xã nông nghiệp’”.
Ông viết: “[N]gười Thượng đều sống
thành từng làng độc lập hay tự trị. Độc
lập là không phụ thuộc vào làng khác,
giữa các làng gần nhau chỉ có quan
hệ giao hảo, hôn nhân, buôn bán..., và
thảng hoặc, nếu có mâu thuẫn không
giải quyết được giữa họ với nhau, thì
quan hệ chiến tranh, nhưng chỉ trong
một thời gian nào đó” (như trên, tr.
527). Nguyễn Từ Chi mô tả “cơ chế
dân chủ” thông qua vai trò “già làng”
31
nơi các cộng đồng cổ truyền ở Tây
Nguyên như sau: “‘Chủ làng’, ở dân
tộc này, có thể do các ‘già làng’ chỉ định
giữa họ với nhau, khi ‘chủ làng’ cũ
vừa qua đời, hoặc do cả làng cử lên,
nhưng, ở dân tộc khác, lại cha truyền
con nối. Dù là gì, dù có uy tín đến mấy,
‘chủ làng’ Thượng, nói chung, không
phải là người có toàn quyền đối với
mọi chuyện to nhỏ của làng: trên danh
nghĩa, ông là người đốc suất mọi nhà
trong làng thực hiện những quyết định
của tập thể các ‘già làng’” (như trên, tr.
528). Khi bàn về vai trò của già làng ở
các buôn làng, Nguyễn Từ Chi cho
rằng “các xã hội Thượng [ở vùng Tây
Nguyên] đang ở giai đoạn cuối của
mức phát triển” của cơ chế lão quyền
ở mức hoàn thiện nhất mà ngành dân
tộc học thường gọi là “thiết chế các
lớp tuổi” vốn đã từng phổ biến ở châu
Âu vào thời kỳ tiền Ki-tô giáo, ở châu
Mỹ trước khi người Âu châu đến, và ở
châu Phi thời gần đây (như trên, tr.
530).
Trong một công trình nổi tiếng xuất
bản năm 1937 viết về xã hội người Ba
Na ở Kon Tum, Nguyễn Kinh Chi và
Nguyễn Đổng Chi đã mô tả nhiệm vụ
của ông tơm pơlei (“gốc làng”, tức
người đứng đầu làng) là “phải bắt dân
làng tuân theo lệ tục mà ăn ở, không
được xâm phạm đến đ[i]ều húy kỵ
thần cấm và phải phân xử những việc
kiện cáo hay xung đột xảy ra trong
làng”, nói tóm lại là “phải giữ [g]ìn sự
sinh mệnh và cuộc trị an cho cả đoàn
thể”. Nhưng ngoài nhiệm vụ ấy, ông
tơm pơlei cũng như krã pơlei (hội
đồng già làng) “cũng như mọi người
32
TRẦN HỮU QUANG – BIẾN ĐỔI XÃ HỘI CỦA BUÔN LÀNG|
khác không hưởng thụ một quyền lợi
gì đặc biệt”. Những lúc có chuyện quan
trọng như đánh giặc hay dời làng, hội
đồng già làng này “không có quyền
độc đoán, phải nhóm dân làng lại
đông đủ để cùng nhau bàn bạc lẽ hơn
thiệt”; những lúc hội họp ấy, “không
bao giờ phân biệt giai cấp” và mọi
người “ai nấy đều có quyền ăn nói
một cách rất tự do”. Nguyễn Kinh Chi
và Nguyễn Đổng Chi (2011, tr. 193)
nhận xét rằng “lối chính trị” của cộng
đồng người Ba Na “quả thật là bình
đẳng cộng hòa, không có một mảy
may nào là áp bức chuyên chế”.
Như P. Clastres đã nhấn mạnh, người
thủ lãnh cộng đồng cổ xưa (mà ở Tây
Nguyên gọi là “chủ làng”, “gốc làng”
hay “đầu làng”...) chỉ có uy tín – mà
uy tín thì không đồng nghĩa với quyền
lực –, hay nếu nói theo ngôn từ của F.
Engels là có “lòng tôn kính” của cộng
đồng. Đây chính là điều mà “một vị
vương công có thế lực nhất, một
chính khách hay một chỉ huy quân sự
lớn nhất của thời đại văn minh vẫn có
thể ganh tị với thủ lĩnh nhỏ nhất trong
thị tộc” – một sự tôn kính “không phải
dùng roi gậy mà có” (Ph. Ăng-ghen,
1972, tr. 285).
Engels (1972, tr. 285) nhận định một
cách khái quát về vị trí xã hội học đặc
thù của vị thủ lãnh cộng đồng cổ truyền
như sau: “Vị thủ lĩnh thị tộc nằm ngay
trong lòng xã hội, còn những người
kia [tức vị vương công, chính khách,
hay vị chỉ huy quân sự trong thời đại
văn minh] thì bắt buộc phải cố coi
mình như là một cái gì ở bên ngoài
xã hội và đứng trên xã hội”.
Về trường hợp người đứng đầu buôn
làng ở Tây Nguyên mà vị thế vừa
mang tính chất thế quyền lẫn thần
quyền, có lẽ chúng ta cần nhấn mạnh
thêm rằng uy tín của ông ta hay “lòng
tôn kính” của người dân buôn làng đối
với ông ta bắt nguồn từ quan niệm cổ
truyền cho rằng ông là người xứng
đáng đại diện cho cộng đồng để giao
tiếp với thần linh, hay nói cách khác,
ông là người trung giới trong mối quan
hệ giữa cộng đồng buôn làng với các
vị thần, giữa thế giới loài người với
thế giới thần linh.
Thực ra ở Tây Nguyên cách nay
khoảng bốn hoặc năm thế kỷ, nơi một
số cộng đồng tộc người cũng đã bắt
đầu manh nha xuất hiện hình thái nhà
nước sơ khai dưới dạng quyền lực
chính trị mang tính tập trung, cá nhân,
và phân theo địa vực bao trùm lên
nhiều cộng đồng buôn làng nhỏ. Theo
Đặng Nghiêm Vạn, ở một số vùng của
người Mnông, Ê Đê, Gia Rai, Ba Na,
Xơ Đăng hay Mạ ngày xưa mà ông
coi là “những cư dân có trình độ phát
triển hơn”, đã từng “nổi lên những tù
trưởng đứng đầu năm, bảy làng, có uy
thế trong từng địa phương”. nhưng
những liên minh bộ lạc, bộ tộc cổ
truyền này đều dần dà bị phá vỡ và
tan rã do “[c]hiến tranh, xung đột, các
thế lực phong kiến bên ngoài can
thiệp” (Đặng Nghiêm Vạn, 1984, tr.
51-52). Những dạng liên minh do các
thủ lãnh Pơ-tao (tộc người Gia Rai)
hay Mtao (tộc người Ê Đê) đứng đầu,
theo Đặng Nghiêm Vạn, thực ra chỉ là
“những liên minh lỏng lẻo, cố kết theo
truyền thống”, mang tính chất “khi tan
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (210) 2016
33
khi hợp, khi mạnh, khi yếu, không ổn
định”, chủ yếu ra đời trong bối cảnh
“đối phó với những cuộc xung đột
huynh đệ tương tàn hay từ ngoài đưa
đến”, cho nên “vẫn không mang tính
chất hành chánh và cố định” (như trên,
tr. 52). Tuy Thủy Xá và Hỏa Xá của
người Gia Rai từng được triều đình
Việt Nam coi là phiên quốc từ thế kỷ
XVI đến thế kỷ XIX, và cũng từng
được nhà nước Chân Lạp “cống nạp”,
nhưng đã tan rã vào giữa thế kỷ XIX.
Hay “vương quốc Mạ” ở Di Linh, Bảo
Lộc mà nhiều người nhắc đến cũng
tan rã vào khoảng thế kỷ XVII-XVIII
(như trên, tr. 51-52).
dân Pháp xâm lược Việt Nam, “[t]ổ
chức xã hội người Gia Rai đã vượt ra
khỏi phạm vi làng độc lập, để hình
thành những cộng đồng lớn hơn gọi là
tơ-ring”. Đây là những “cộng đồng lãnh
thổ” trên một vùng tương đối rộng;
ngoài ra bên cạnh đó, cũng đã xuất
hiện những “liên minh làng” mang tính
chất quân sự gọi là hrom bít plơi. Đặc
biệt đáng chú ý là bên trên cấp độ tơring, xã hội Gia Rai còn hình thành
vùng đế char (vùng rộng lớn) mà Cẩm
Trọng gọi là một thứ “khái niệm ban
đầu về lãnh thổ tộc người”, nằm dưới
tầm ảnh hưởng của Pơ-tao vốn là
“hiện thân của tín ngưỡng yang, nên
đế char cũng có thể coi như một lãnh
thổ tập hợp các tơ-ring dưới hình thức
tôn giáo” (như trên, 1984, tr. 228). Tuy
đã có các thủ lãnh buôn làng (khoa
plơi), thủ lãnh khu vực (khoa tơ-ring),
và nhân vật Pơ-tao, nhưng những vai
trò này không cấu tạo nên một tầng
lớp hay giai cấp thống trị (như trên,
1984, tr. 228).
Ở Lâm Đồng, theo Mạc Đường (1983,
tr. 298-300), trước thế kỷ XIX, nhiều
cộng đồng tộc người đã từng phát
triển thành những “cộng đồng liên
minh các bộ lạc cùng một huyết
thống”, từ đó đã hình thành những “bộ
tộc lớn” có địa bàn cư trú tương đối
rộng lớn, với đặc trưng là có “sự xuất
hiện quyền lực cá nhân trong xã hội”
và một “sự phát triển ban đầu của
những công xã nông thôn”, đặc biệt
nơi bộ tộc người Mnông và bộ tộc
người Mạ (thường được gọi là “tiểu
vương quốc Mạ” hay “Xứ Mạ”).
Nhưng các “bộ tộc lớn” này cũng dần
dà tan rã do những cuộc chiến và do
sự bành trướng của người Chăm
(trường hợp người Mnông vào
khoảng thế kỷ XVIII) hay do sự cai trị
của thực dân Pháp (trường hợp người
Mạ vào cuối thế kỷ XIX phải rút sâu
vào rừng núi).
Nơi tộc người Gia Rai, theo Cẩm
Trọng (1984, tr. 227), trước khi thực
Nguyễn Từ Chi (1996, tr. 296, 527)
nhận xét rằng sự xuất hiện của những
vị thủ lãnh lớn đứng đầu nhiều buôn
làng ấy bắt nguồn từ nhiều hoàn cảnh,
chẳng hạn từ chiến tranh giữa các
buôn làng hoặc chiến tranh chống
thực dân Pháp (xuất hiện những “thủ
lĩnh chiến tranh”), hay từ tôn giáo với
“một chế độ thủ lĩnh tôn giáo, với các
‘Vua Lửa’ và ‘Vua Nước’”, hay từ
“luồng buôn bán xuyên qua nhiều
vùng” như ở nam Tây Nguyên (mà
Nguyễn Từ Chi gọi là “một chế độ tù
trưởng buôn bán”) – đây là những
“chế độ thủ lĩnh” mà “cho đến nay,
34
TRẦN HỮU QUANG – BIẾN ĐỔI XÃ HỘI CỦA BUÔN LÀNG|
chưa ai nghiên cứu (...) cho có đầu có
đũa”. Tuy nhiên, hiện tượng thủ lãnh
ở qui mô vùng ấy vẫn “không có khả
năng đảo lộn cơ cấu kinh tế xã hội
của từng làng”. Các buôn làng vẫn giữ
được “tính chất dân chủ vốn tiềm tàng
trong khuôn khổ của thể chế công xã
nông thôn” (Nguyễn Từ Chi, 1996, tr.
296).
Ngay cả nơi cộng đồng tộc người Gia
Rai, vốn từng được nhiều nhà nghiên
cứu coi là đã ở rất gần giai đoạn hình
thành nhà nước, mặc dù đã có sự
xuất hiện của các vị Pơ-tao (“vua”) có
ảnh hưởng bao trùm lên trên nhiều
cộng đồng nhỏ, nhưng công trình nghiên
cứu xuất bản năm 1977 của nhà dân
tộc học người Pháp Jacques Dournes
có thể cho phép chúng ta thấy rằng
tính chất cấu trúc của cộng đồng tộc
người này thực ra cũng vẫn gần với
loại hình Gumlao hơn là loại hình
Gumsa (theo khái niệm của E. Leach).
Đối với người Gia Rai, Pơ-tao lửa và
Pơ-tao nước là những vị “thủ lĩnh phù
thủy” (theo lời mô tả của Henri Maitre
năm 1912, dẫn theo J. Dournes, 2013,
tr. 76), chứ hoàn toàn không phải là
“vua”, “không bao giờ được coi là
những người đứng đầu quốc gia” như
nhiều người thường lầm tưởng (J.
Dournes, 2013, tr. 23). Cương vị của
họ thiên về “thần quyền nhiều hơn là
thế quyền” (Mouhot, 1872, dẫn theo J.
Dournes, 2013, tr. 40), đấy là những
người cũng “giống những người khác,
thực tế không có quyền lực gì, nhưng
được kính trọng nhất định” (Bouillevaux,
1874, dẫn theo J. Dournes, 2013, tr.
38).
Trong tâm thức của người Gia Rai,
các vị Pơ-tao “là những người có uy
tín lớn, làm cầu nối giữa thế giới siêu
linh với thế giới con người, là người
làm nhiệm vụ liên thông giữa con
người với các siêu linh, thế giới đông
đảo các thần và ma (...) [H]ọ không có
nhiều quyền hành và quyền lợi thế tục,
ngoài việc được dân các làng thi
thoảng biếu tặng lương thực, thực
phẩm hay giúp lao động sản xuất trên
nương rẫy” (Bùi Minh Đạo, 2012, tr.
44-45). Lãnh thổ “Thủy Xá, Hỏa Xá
thực sự không phải là cộng đồng xã
hội chính trị, mà là cộng đồng tín
ngưỡng và tâm linh, phản ánh vai trò
tối thượng của thần quyền trong xã
hội dân chủ nguyên thủy tiền giai cấp”
(như trên, tr. 45).
Chức vụ Pơ-tao “không nhất thiết cha
truyền con nối”, ông “không đi đánh
nhau với ai, và không ai đánh nhau
với ông”, ông được các bộ lạc ở lưu
vực sông Mêkong “kính trọng và tôn
thờ”, và những người thân cận của
ông cũng “không mang theo một thứ
vũ khí nào khi ông tuần du trong tất cả
các làng chung quanh” (Mouhot, 1872,
dẫn theo J. Dournes, 2013, tr. 40).
Như vậy, vai trò Pơ-tao hiển nhiên
hoàn toàn không phải là một kẻ thủ
lãnh thuộc loại hình “chuyên quyền”,
cũng không cấu tạo nên một tầng lớp
mang tính chất thống trị hay bóc lột.
Theo Dournes (2013, tr. 346-347), khi
vị Pơ-tao đi tuần du đến một buôn
làng nào đó, dân làng thường “chỉ
quyên góp cho nghi lễ được Pötao (...)
cử hành ở làng đó, kỳ thực đơn giản
là một sự tham gia vào chi phí chung
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (210) 2016
cho một buổi tiệc tập thể và hoàn toàn
đúng theo phong tục Jörai”, chứ đây
không phải là một khoản “cống nạp”.
Bởi lẽ, “khi thu một thứ thuế ‘trừu
tượng’, Pötao sẽ giống như các lãnh
chúa chuyên chế mà đích thị là hệ
thống Jörai nhằm loại bỏ. Vả chăng
không nên nghĩ rằng Pötao làm giàu
bằng các quà biếu đó, [vì] chúng được
chia ngay và ăn ngay [trong buổi lễ
ấy]” (như trên, tr. 347).
Dournes (2013, tr. 351) nhận định ở
phần kết luận rằng xã hội người Gia
Rai với thiết chế Pơ-tao thực ra “tìm
cách tránh đi một quyền lực kiểu nhà
nước và khiến cho một sự chuyên chế
cá nhân là không có thể”. Thiết chế
bao gồm các Pơ-tao lửa, nước và khí
thực ra chỉ là “‘lớp phủ lên bên ngoài’
mà ta phải biết bóc ra”, vì xã hội
người Gia Rai là “một cấu trúc không
có nhà nước cũng chẳng có quyền lực,
những Thủ lĩnh bảo vệ một tình trạng
vô chính phủ trên thực tế và tránh cho
nhân dân một chế độ độc tài từ bên
trong cũng như từ bên ngoài” (như
trên, tr. 354). Vai trò thực thụ của các
Pơ-tao và các Khoa (người đứng đầu
buôn), theo lời Dournes, là “để bảo
bọc sự tự do” của thành viên buôn
làng (như trên, tr. 539), “chống lại mọi
sự sử dụng con người nhằm phục vụ
một hệ thống, chống lại mọi Quyền
lực đè lên trên con người” (như trên, tr.
537). Nhận xét này của Dournes rất
gần với ý tưởng của P. Clastres mà
chúng tôi đã nêu phía trên.
Có thể nói một trong những bước
ngoặt của các cộng đồng tộc người
bản địa ở Tây Nguyên xét về mặt thể
35
chế chính trị chính là thời điểm sau
năm 1975, với việc áp dụng hệ thống
quản lý hành chánh của nhà nước
Việt Nam thống nhất. Kể từ đấy, loại
hình cộng đồng cổ truyền tự trị và phi
nhà nước ở Tây Nguyên đã bị giải thể
và chuyển dần hẳn sang loại hình
cộng đồng thành viên của một xã hội
tổng thể có nhà nước, tuy rằng nhiều
nơi vẫn còn bảo lưu vị thế của già
làng nói riêng và nhiều phong tục, tập
quán nói chung theo những cách thức
khác nhau.
Nếu ở các vùng Tây Bắc và Đông Bắc
từ xa xưa, theo Bùi Minh Đạo, “bản là
đơn vị xã hội và cư trú cơ sở, nhưng
ở cấp cao hơn bản còn có chiềng,
mường, châu, tỉnh, tất cả chịu sự chi
phối nhà nước phong kiến trung ương
tập quyền”, thì ở Tây Nguyên có thể
nói mãi cho đến giữa thập niên 1970,
buôn làng hầu như luôn luôn “là đơn
vị xã hội cơ sở duy nhất và độc lập.
Mỗi buôn làng giống như một ‘tiểu
quốc gia’, trên buôn làng hay dưới
buôn làng không có bất cứ một đơn vị
xã hội nào khác” (Bùi Minh Đạo, 2012,
tr. 43, 45)(4).
Do vậy, ở Tây Nguyên, sự biến đổi xã
hội từ hình thái cộng đồng cổ truyền
tự trị phi nhà nước sang hình thái
cộng đồng thành viên của một quốc
gia sau năm 1975 thực sự là một sự
giải thể đối với cấu trúc quyền lực
chính trị buôn làng cổ truyền, và cũng
là một bước ngoặt căn bản trong quá
trình định hình cấu trúc xã hội mới của
cộng đồng buôn làng, dù rằng một số
vai trò và yếu tố của hệ thống quyền
lực chính trị cổ truyền có thể vẫn còn
36
TRẦN HỮU QUANG – BIẾN ĐỔI XÃ HỘI CỦA BUÔN LÀNG|
tiếp tục tồn tại song hành với định chế
chính trị mới ở những chừng mực nào
đó, tùy từng địa phương.
CHIỀU KÍCH QUAN HỆ XÃ HỘI: TỪ
VỊ THẾ VÀ TRAO ĐỔI SANG KHẾ
ƯỚC
Bên cạnh sự thay đổi về chiều kích
cấu trúc quyền lực chính trị của buôn
làng, sự biến đổi xã hội nơi các cộng
đồng tộc người bản địa ở Tây Nguyên
còn được biểu hiện một cách sâu xa
thông qua tiến trình chuyển biến từ
loại hình xã hội cổ truyền dựa trên
quan hệ trao đổi và tương trợ cộng
đồng, tức dựa trên vị thế và trên
nguyên tắc có qua có lại, sang loại
hình xã hội hiện đại dựa trên quan hệ
khế ước, hay nói ngắn gọn là chuyển
từ xã hội trao đổi sang xã hội khế ước.
Tiến trình này liên quan tới tính chất
của các mối quan hệ xã hội diễn ra
trong đời sống kinh tế-xã hội thường
nhật của cư dân trong nội bộ buôn
làng và với bên ngoài buôn làng.
Đây chính là tiến trình chuyển từ một
loại hình xã hội “cung ứng toàn bộ”
dựa trên sự trao đổi và trên nguyên
tắc có qua có lại (reciprocity) (ba khái
niệm vừa nêu đều được hiểu theo
nghĩa của Marcel Mauss) trong đó mọi
chiều kích đều “lồng kết” hay chồng
xen vào nhau (embedded) (chẳng hạn
hoạt động sản xuất không tách rời
khỏi sinh hoạt tín ngưỡng, bà thầy bói
kiêm cả nghề chữa bệnh|), sang loại
hình xã hội hiện đại dựa trên nguyên
tắc khế ước (hiểu theo nghĩa của
Henry Maine) trong đó các định chế
đều được biệt dị hóa (tách rời ra thành
từng định chế riêng biệt như chính trị,
kinh tế, thân tộc, tín ngưỡng...).
Dựa trên những kết quả nghiên cứu
của nhiều tác giả về các bộ tộc người
da đỏ vùng Bắc Mỹ và các bộ tộc ở
quần đảo Melanesia, Marcel Mauss
trong một công trình nổi tiếng xuất bản
năm 1925 đã đi đến nhận định rằng
chính là thông qua sự trao đổi mà các
xã hội cổ xưa có thể lưu thông các vật
phẩm và lương thực mà không cần
thông qua sự buôn bán hay sử dụng
tiền tệ. Thậm chí nơi hai ngôn ngữ
Papuasia và Melanesia chẳng hạn, chỉ
có một từ duy nhất để nói mua và bán,
cho vay và vay; họ “không có ý niệm
về [việc] bán cũng như về [việc] cho
vay và tuy thế vẫn làm các thao tác
pháp lý và kinh tế có cùng chức năng”
(M. Mauss, 2011, tr. 273). Trong quá
trình trao đổi ấy, “không phải các cá
nhân, mà chính các tập thể bắt buộc
lẫn nhau, trao đổi và giao ước” (như
trên, tr. 183, xem thêm Trần Hữu
Quang, 2011, tr. 62-67).
Mauss (2011, tr. 184-185) mô tả hiện
tượng trao đổi của các xã hội cổ xưa
như sau: “[C]ái mà họ trao đổi, không
hoàn toàn chỉ là của cải, vật quý giá,
động sản và bất động sản, những đồ
vật hữu ích về kinh tế. Trước hết đó là
các lời nói và cử chỉ lễ phép, tiệc tùng,
nghi thức, nghĩa vụ quân sự, phụ nữ,
trẻ em, nhảy múa, lễ hội, chợ phiên
(...) ở đó sự lưu thông của cải chỉ là
một trong các điều khoản của một hợp
đồng tổng quát và bền vững hơn rất
nhiều”. Mauss gọi toàn bộ những hiện
tượng này là “hệ thống cung ứng toàn
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (210) 2016
bộ” (système des prestations totales)
(như trên, tr. 185).
Mauss (2011, tr. 264) đã trích lại một
đoạn phân tích của Bronislaw Malinowski
về tính chất của sự trao đổi trong xã
hội cổ xưa như sau: “Tất cả đời sống
bộ lạc chỉ là một chuỗi ‘cho và nhận’
[give and take] không bao giờ dứt; mọi
lễ lạt, mọi hành vi hợp pháp và theo
tục lệ đều chỉ được làm với một món
quà vật chất và món quà đáp tặng lại
[gift and counter gift] đi kèm theo
chúng; của cải được cho và được
nhận là một trong các công cụ chính
của tổ chức xã hội, của quyền lực của
người thủ lĩnh, của liên hệ thân tộc do
huyết thống và các liên hệ thân tộc do
hôn nhân”.
Sự trao đổi trong các xã hội cổ xưa
hoàn toàn không phải là “hàng đổi
hàng”, tức không mang hình thái hàng
hóa, mà chủ yếu mang hình thái “cho
và nhận”, quà tặng và quà đáp tặng,
chia sẻ và tương trợ. Mauss (2011, tr.
302) viết như sau: “Ngay cả ngoài các
dịp [lễ] long trọng (...), không có một
khoảnh khắc nào mà người ta không
bị bắt buộc phải mời bạn bè, chia sẻ
các con thú săn được hay các rau trái
hái được, do các thần linh và tôtem
ban cho”.
Trong bối cảnh xã hội cổ xưa ấy, như
Engels (1972, tr. 262) mô tả, “chưa hề
có sự khác nhau nào giữa quyền lợi
và nghĩa vụ; đối với người In-đi-an thì
họ không đặt vấn đề xét xem sự tham
gia việc công, sự báo thù hoặc việc trả
tiền chuộc là một quyền lợi hay là một
nghĩa vụ; đối với họ, câu hỏi đó cũng
37
vô nghĩa như câu hỏi: ăn, ngủ, săn
bắn là một quyền lợi hay là một nghĩa
vụ?”
Nếu M. Mauss cho rằng các xã hội cổ
xưa là những xã hội trao đổi dựa trên
nguyên tắc có qua có lại (reciprocity),
thì Henry Maine (1969, tr. 30-31) nhấn
mạnh rằng đặc trưng cấu trúc của các
xã hội cổ xưa ấy xét về mặt pháp
quyền là “mọi mối quan hệ giữa các
Nhân thân [Persons] được gói gọn
trong các mối quan hệ Gia đình”, trong
đó các mối liên hệ ràng buộc giữa con
người với nhau dựa trên “những hình
thức quan hệ có qua có lại về quyền và
về bổn phận vốn bắt nguồn từ Gia
đình”. Trong khi đó, đặc trưng của trật
tự xã hội hiện đại là đặt nền tảng trên
“khế ước” (contract), trong đó “mọi mối
quan hệ [ràng buộc giữa con người với
nhau] đều xuất phát từ sự thỏa thuận
tự do giữa các Cá nhân [Individuals]”.
Trong ý tưởng trên của Henry Maine,
có hai cặp phạm trù tương phản quan
trọng: (a) nhân thân/cá nhân, và (b) vị
thế/khế ước. “Nhân thân” (person) là
thuật ngữ dùng để chỉ về một người
xét trong tư thế đang đóng một vai trò
xã hội nào đó, thí dụ cha, mẹ, con,
chú, dì, vua, quan tòa, pháp sư, đầy
tớ| (từ tiếng Anh person bắt nguồn
từ tiếng La-tinh persona; từ persona
có nghĩa đen ban đầu là chiếc mặt nạ,
sau đó có nghĩa là vai diễn trên sân
khấu). Còn “cá nhân” (individual) là từ
dùng để chỉ một cá thể con người xét
một cách biệt lập, không xét đến vai
trò xã hội mà người ấy đang đảm
nhiệm. Như vậy, theo ý tưởng của
38
TRẦN HỮU QUANG – BIẾN ĐỔI XÃ HỘI CỦA BUÔN LÀNG|
Maine, xã hội cổ xưa chỉ bao gồm các
“nhân thân” vì toàn bộ các mối liên hệ
giữa con người với nhau luôn luôn bị
ràng buộc vào vai trò và vị thế của mỗi
người trong định chế – mà điển hình
nhất là định chế gia đình. Còn “cá
nhân” là một ý niệm chỉ xuất hiện
trong khuôn khổ xã hội hiện đại, vì lúc
này các mối liên hệ xã hội không còn
bị trói buộc vào vị thế của mỗi người,
mà phần lớn đều “xuất phát từ sự
thỏa thuận tự do giữa các cá nhân”.
Về cặp phạm trù tương phản thứ hai:
vị thế và khế ước. “Vị thế” (status) là
địa vị hay vị trí chính thức của một
người xét trong mối liên hệ hữu cơ với
những địa vị hay vị trí khác trong
khuôn khổ một định chế nào đó. Thí
dụ vị thế người mẹ và vị thế đứa
con (trong định chế gia đình); vị thế
người thầy và vị thế học trò (trong
định chế nhà trường); vị thế nhà vua
và vị thế thần dân (trong định chế nhà
nước quân chủ)... Còn “khế ước”
(contract) thì được hiểu là sự thỏa
thuận tự do giữa những người có liên
quan với nhau về một việc gì đó.
Theo H. Maine, cơ chế vận hành của
pháp quyền trong xã hội hiện đại khác
biệt về căn bản so với xã hội cổ xưa
chính là ở hai cặp phạm trù tương
phản ấy. Trong xã hội cổ xưa, các
“nhân thân” luôn luôn hành xử, và chỉ
có thể hành xử dựa trên “vị thế” của
mình; còn trong xã hội hiện đại, “cá
nhân” không còn bị lệ thuộc một cách
tất yếu vào “vị thế” của mình, mà hoàn
toàn có thể hành xử căn cứ trên sự
thương lượng, sự thỏa thuận và sự
“khế ước” của mình với người khác
một cách tự do, không bị áp đặt hoặc
bị cưỡng chế.
Thực ra, trong xã hội cổ truyền, vẫn
có sự cam kết dựa trên nền tảng một
khế ước cổ truyền của buôn làng
(chẳng hạn thông qua việc tham gia
vào những nghi thức chuyển tiếp vòng
đời), nhưng đây là dạng cam kết bởi vị
thế của “nhân thân” với tư cách là
thành viên của gia đình, dòng họ hay
buôn làng, chứ không phải là dạng
cam kết dựa trên sự thỏa thuận tự do
giữa các “cá nhân” vốn là đặc trưng
của các xã hội hiện đại mà H. Maine
(1969, tr. 31) gọi là “sự cam kết bởi
khế ước”.
F. Engels từng nói đến sự biến đổi
của định chế hôn nhân như một thí dụ
về quá trình chuyển từ xã hội “vị thế”
sang xã hội “khế ước” nêu trên. Trong
các xã hội cổ xưa, kể cả cho đến cuối
thời trung cổ, “việc kết hôn vẫn giữ
nguyên tính chất mà nó đã có ngay từ
đầu: nó không phải là một việc do bản
thân những người kết hôn quyết định.
Lúc đầu, người ta sinh ra là đã thành
hôn rồi – thành hôn với cả một nhóm
người thuộc giới tính khác” (Ph. Ăngghen, 1972, tr. 125)(5). Chỉ tới chế độ
tư bản chủ nghĩa, khi chế độ này “biến
mọi vật thành hàng hóa, nó đã thủ tiêu
mọi quan hệ cổ truyền từ nghìn xưa
để lại, và đem việc mua bán, đem cái
khế ước ‘tự do’ mà thay cho những
tập quán di truyền và pháp quyền lịch
sử” (như trên, tr. 126), thì lúc ấy hôn
nhân mới trở thành “một khế ước”
(như trên, tr. 128).
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (210) 2016
Một trong những lãnh vực điển hình
cho đặc trưng của mối quan hệ xã hội
cổ truyền, đó là cách thức xử kiện
truyền thống mà Max Weber (1969, tr.
153-156) từng gọi là “nền tư pháp
khadi”. Theo Elizabeth Colson (1953),
trong các xã hội cổ sơ, nơi có những
mối liên hệ xã hội gần gũi và chặt chẽ,
người ta thường dùng cơ chế hòa giải
(conciliatory) trong việc giải quyết
xung đột nhằm duy trì mối dây liên hệ
xã hội lâu dài; còn trong những xã hội
có mối liên hệ xã hội ít và lỏng lẻo thì
người ta thường giải quyết xung đột
bằng thủ tục phán quyết (adjudicatory)
và kết quả thường là một bên thắng
và một bên thua (dẫn theo T. Barfield,
1997, tr. 83).
Có thể nói tư duy pháp quyền của các
tộc người bản địa Tây Nguyên dựa
trên một nền tảng triết lý hết sức nhân
bản và độc đáo. Nơi tộc người Ê Đê
chẳng hạn, theo Trương Thị Hiền
(2015, tr. 132-133), luật tục và cách
xử kiện là hình thái biểu hiện rõ rệt
của một “nền tư pháp hòa giải”, vì
cách phân xử theo luật tục chủ yếu
nhấn mạnh khía cạnh hòa giải và giáo
dục hơn là kết tội và trừng phạt. Pô
phat kđi (người xử kiện) chỉ là người
đứng ra xét xử khi được chủ buôn
mời, chứ ông hoàn toàn không có
quyền tự ý đem bất kỳ thành viên nào
trong buôn ra xét xử, vì nếu làm như
vậy, ông sẽ bị buộc tội là vượt qua
mặt chủ buôn (như trên, tr. 67). Việc
phân xử các vụ tranh chấp hay xung
đột hầu như luôn luôn được giải quyết
bằng một dạng thỏa ước gọi là klei bi
kuôl (klei là sợi dây, bi kuôl là lời thề
39
thốt). Thỏa ước này được xác lập khi
già làng làm lễ cầm vòng: các bên liên
quan sờ vào chiếc vòng đồng để tỏ rõ
sự đồng ý (như trên, tr. 93), trước sự
chứng kiến của hai bên nguyên bị, các
già làng, thành viên buôn làng và nhất
là sự chứng kiến của thần linh để xác
nhận lời cam kết thiêng liêng và
nghiêm túc (như trên, tr. 117). Sau đó,
hai bên gia đình có liên quan sẽ uống
“rượu đoàn kết” (theo cách nói của
một già làng), mọi người tới dự đều
được ăn uống vui vẻ, và kể từ đó trở
đi, sẽ không có ai được nhắc lại
chuyện này nữa (như trên, tr. 134-135,
112).
NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA QUÁ TRÌNH
BIẾN ĐỔI XÃ HỘI
Nơi các buôn làng tộc người bản địa
ở Tây Nguyên cho đến tận ngày nay,
chúng ta vẫn có thể bắt gặp ít nhiều
phần lớn những tính chất và nét đặc
thù của các xã hội cổ xưa mà nhiều
tác giả nêu trên đã mô tả. Trong khi
cấu trúc quyền lực chính trị của buôn
làng ngày nay đã hầu như hoàn toàn
khác xưa, thì tính chất “khế ước” của
xã hội hiện đại vẫn không ngừng tác
động và dần dà thâm nhập vào các
khía cạnh kinh tế-xã hội của các cộng
đồng buôn làng – từ các mối quan hệ
mua bán, vay và cho vay, mướn hay
làm mướn trong nền kinh tế thị trường,
các mối quan hệ hôn nhân và gia đình,
cho đến các mối quan hệ pháp lý dân
sự mà họ buộc phải tuân theo luật
pháp quốc gia, bên cạnh những tập
tục và luật tục mà họ vẫn còn bảo lưu
cách này hay cách khác.
40
TRẦN HỮU QUANG – BIẾN ĐỔI XÃ HỘI CỦA BUÔN LÀNG|
Chắc hẳn khó lòng tránh khỏi những
sự bỡ ngỡ, trăn trở, những sự va
chạm hay thậm chí xung đột trong nội
tâm cũng như trong sinh hoạt thực
tiễn của quá trình chuyển từ loại hình
xã hội tự trị và “trao đổi” mang tính
chất tương thân tương trợ sang loại
hình xã hội “khế ước” nằm trong hệ
thống nhà nước quốc gia.
Chúng ta có thể tham khảo một đoạn
mà Friedrich Engels nhận xét về điều
này khi ông viết về quá trình chuyển
đổi của xã hội thị tộc ở Ireland như
sau: “[N]gười ta cũng cho rằng mỗi
người dân giàu có trong làng đều có
nghĩa vụ phải giúp đỡ những láng
giềng của mình nghèo túng hơn, khi
những người này lâm vào cảnh nghèo
túng. Sự giúp đỡ đó không phải là của
bố thí, đó là cái mà người nghèo hơn
hoàn toàn có quyền nhận của thành
viên thị tộc hay của người thủ lĩnh thị
tộc giàu có hơn. Bởi vậy, người ta
hiểu được vì sao các nhà kinh tế học
và các nhà luật học lại phàn nàn về
việc không thể nhồi vào đầu óc người
nông dân Ai-rơ-lan cái khái niệm về
chế độ sở hữu tư sản hiện đại; người
Ai-rơ-lan hoàn toàn không thể quan
niệm được một chế độ sở hữu chỉ
đem lại quyền lợi mà không đề ra
nghĩa vụ gì. Nhưng do đó người ta
cũng hiểu được rằng người Ai-rơ-lan,
với những quan niệm thị tộc ngây thơ
của họ, mà đột nhiên bị đưa đến các
thành phố lớn ở Anh hoặc ở Mỹ, giữa
một dân cư có những quan niệm đạo
đức và pháp lý khác hẳn, thì đều
không nhận thức nổi những vấn đề
đạo đức và pháp luật, đều mất
phương hướng và thường thường rơi
hàng loạt vào cảnh đồi bại về tinh
thần” (Ph. Ăng-ghen, 1972, chú thích
ở tr. 219-220, do Ăng-ghen viết thêm
vào ấn bản năm 1891).
Nhìn trong bối cảnh của sự biến đổi
xã hội tổng thể của các cộng đồng tộc
người bản địa ở Tây Nguyên, quá trình
chuyển đổi về mặt quyền lực chính trị
buôn làng cũng như về mặt tính chất
quan hệ xã hội không thể không tác
động ở những mức độ khác nhau đến
tất cả các chiều kích khác của đời sống
buôn làng. Theo chúng tôi, có nhận
diện được sự biến đổi căn bản trên
hai chiều kích then chốt ấy thì chúng
ta mới có một tiền đề lý thuyết để định
vị và lý giải được một cách thấu đáo
sự vận hành cũng như sự chuyển
biến của các lãnh vực cụ thể khác của
các cộng đồng buôn làng Tây Nguyên
trong bối cảnh ngày nay.
CHÚ THÍCH
(1)
Đây cũng là điểm mà quan niệm của Pierre Clastres khác với quan niệm của Max Weber
vì Weber định nghĩa rằng quyền lực chính trị của nhà nước có đặc trưng là nắm sự độc
quyền chính đáng trong việc sử dụng bạo lực (xem P. Clastres, 1974, tr. 10).
(2)
Khác với quan niệm của Friedrich Engels về vấn đề nguồn gốc của nhà nước, Pierre
Clastres cho rằng “[n]hững điều đến bây giờ người ta biết được về các xã hội nguyên thủy
không còn cho phép người ta đi tìm nguồn gốc của chiều kích chính trị nơi bình diện chiều
kích kinh tế nữa. Cây phả hệ của nhà nước không bắt nguồn từ mảnh đất ấy” (P.
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (210) 2016
41
Clastres,1974, tr. 174). Vì chưa tìm ra một câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi về nguồn gốc
hình thành nhà nước mà ông coi là một “bí ẩn”. nên Clastres đã tự hạn hẹp vào việc phân
tích những điều kiện khiến cho nhà nước không thể ra đời trong những xã hội phi nhà nước
cổ xưa (như trên, tr. 175-185). Clastres viết: “Người ta từng nói lịch sử của các dân tộc có
lịch sử chính là lịch sử đấu tranh giai cấp. Người ta cũng có thể nói, ít nhất cũng không kém
phần sự thật, rằng lịch sử của các dân tộc không có lịch sử chính là lịch sử đấu tranh của
các dân tộc ấy chống lại nhà nước” (như trên, tr. 186).
(3)
Theo các nhà nhân học theo lập trường tiến hóa luận, chế độ thủ lãnh là một trong những
nấc thang phát triển của xã hội loài người xét về mặt cấu trúc chính trị: từ bầy đàn, bộ lạc,
tới chế độ thủ lãnh, và cuối cùng là xã hội có nhà nước (bands, tribes, chiefdoms, states) (T.
Barfield, 1997, tr. 365).
(4)
Bùi Minh Đạo nhận xét rằng “khác với các dân tộc thiểu số miền núi phía bắc, có quá trình
cố kết lâu dài với người Kinh trong quốc gia Đại Việt - Việt Nam từ hàng ngàn năm, các dân
tộc tại chỗ Tây Nguyên gia nhập vào quốc gia Việt Nam chưa lâu” (Bùi Minh Đạo, 2012, tr.
35). Do đó “điều này góp phần giải thích ý thức quốc tộc Việt Nam của một bộ phận các dân
tộc Tây Nguyên có phần còn mờ nhạt” (như trên, tr. 28).
(5)
Trong xã hội cổ truyền của người Việt, hôn nhân theo kiểu “môn đăng hộ đối” hoặc theo
qui tắc “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy” chính là những biểu hiện của loại hình xã hội dựa
trên “vị thế” này.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Abélès, Marc. 2010. “State”, trong Alan Barnard, Jonathan Spencer (Eds.), The
Routledge Encyclopedia of Social and Cultural Anthropology. 2nd edition, London:
Routledge, tr. 666-670.
2. Anderson, Benedict R. O’G. 2006. Language and Power: Exploring Political Cultures
in Indonesia. Jakarta, Kuala Lumpur: Equinox Publishing.
3. Ăng-ghen, Ph. 1972. Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước
(1884). Hà Nội: Nxb. Sự thật.
4. Barfield, Thomas (Ed.). 1997. The Dictionary of Anthropology. Oxford: Blackwell Publ.
5. Bùi Minh Đạo. 2012. Một số vấn đề cơ bản của xã hội Tây Nguyên trong phát triển
bền vững. Hà Nội: Nxb. Khoa học xã hội.
6. Cẩm Trọng. 1984. “Dân tộc Gia Rai”, trong Viện Dân tộc học, Các dân tộc ít người ở
Việt Nam (các tỉnh phía Nam). Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội, tr. 221-234.
7. Clastres, Pierre. 1974. La société contre l’état. Recherches d’anthropologie politique.
Paris: Minuit.
8. Dournes, Jacques. 2013. Pötao – Một lý thuyết về quyền lực ở người Jörai Đông
Dương (1977). Nguyên Ngọc dịch. Hà Nội: Nxb. Tri thức.
9. Đặng Nghiêm Vạn. 1984. “Đặc điểm kinh tế, xã hội và văn hóa”, trong Viện Dân tộc
học, Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam). Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã
hội, tr. 45-61.
10. Keyes, Charles F. 1995. The Golden Peninsula: Culture and Adaptation in Mainland
Southeast Asia (1977), Honolulu, SHAPS Library of Asian Studies, University of Hawai’i
Press.
42
TRẦN HỮU QUANG – BIẾN ĐỔI XÃ HỘI CỦA BUÔN LÀNG|
11. Leach, Edmund R. 1970. Political Systems of Highland Burma: A Study of Kachin
Social Structure (1954). London: The Athlone Press, University of London.
12. Lowie, Robert. 1920. Primitive Society. New York: Boni and Liveright.
13. Lowie, Robert. 2001. Luận về xã hội học nguyên thủy (1920). Vũ Xuân Ba và Ngô
Bằng Lâm dịch từ bản tiếng Pháp. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia.
14. Mạc Đường. 1983. “Quá trình phát triển dân tộc và những biến đổi xã hội ở Lâm
Đồng trong lịch sử”, trong Mạc Đường (chủ biên), Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng. Sở Văn
hóa tỉnh Lâm Đồng xuất bản, tr. 291-313.
15. Maine, Henry, 1969. “From Status to Contract” (trích từ cuốn sách của Henry Maine,
Ancient Law, Dent, 1917, tr. 99-100), in lại trong Vilhelm Aubert (Ed.), Sociology of Law.
Selected Readings. Harmondsworth: Penguin Books, tr. 30-31.
16. Mauss, Marcel. 2011. Luận về biếu tặng. Hình thức và lý do của sự trao đổi trong
các xã hội cổ sơ (1925). Nguyễn Tùng dịch. Hà Nội: Nxb. Tri thức.
17. Ngô Đức Thịnh. 2004. Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam. TPHCM:
Nxb. Trẻ.
18. Nguyễn Kinh Chi, và Nguyễn Đổng Chi. 2011. Người Ba-na ở Kon Tum. Les Bahnar
de Kontum (1937). Nguyễn Văn Ký dịch sang tiếng Pháp, Andrew Hardy biên tập. Hà
Nội: Nxb. Tri thức, Viện Viễn Đông Bác cổ, Viện Nghiên cứu Văn hóa.
19. Nguyễn Từ Chi. 1996. Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người. Hà Nội: Nxb.
Văn hóa - Thông tin, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật.
20. Scott, James C. 2009. The Art of Not Being Governed: An Anarchist History of
Upland Southeast Asia. New Haven, Yale University Press.
21. Trần Hữu Quang. 2005. “Khái niệm hiện đại hóa”. Tạp chí Xã hội học, số 2 (90), tr.
103-107.
22. Trần Hữu Quang. 2011. “Luận về biếu tặng của Marcel Mauss”. Tạp chí Khoa học
xã hội (TP.HCM), số 6 (154), tr. 62-67.
23. Trương Thị Hiền. 2015. “Mối quan hệ giữa luật tục và luật pháp trong quản lý xã hội”,
Luận án tiến sĩ xã hội học, Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội
Việt Nam, Hà Nội.
24. Weber, Max. 1969. “Rational and Irrational Administration of Justice”. trong Vilhelm
Aubert (Ed.), Sociology of Law. Selected Readings, Harmondsworth, Penguin Education,
tr. 153-156.