« Home « Kết quả tìm kiếm

HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM PERFECTING THE STATUTE OF SOCIALIST-ORIENTED MARKET ECONOMY OF VIETNAM


Tóm tắt Xem thử

- HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM PERFECTING THE STATUTE OF SOCIALIST- ORIENTED MARKET ECONOMY OF VIETNAM LÊ THẾ GIỚI Đại học Đà Nẵng TÓM TẮT Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề phức tạp cả về lý thuyết lẫn thực tiễn và chưa có tiền lệ trong lịch sử.
- Việc nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình nghiên cứu lý luận và đúc kết từ thực tiễn.
- Bài viết này thông qua việc phân tích một số hoạt động thực tiễn trong quá trình vận hành nền kinh tế thị trường ở nước ta, góp phần làm rõ một trong những vấn đề chủ yếu là hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đặt vấn đề Đại hội X của Đảng đã khẳng định mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ngay từ đầu và trong mọi giai đoạn phát triển.
- các nguồn lực phát triển và chủ thể tham gia là mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
- yêu cầu giữ vững ổn định chính trị xã hội, độc lập tự chủ về kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế, cơ chế kinh tế và hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường, vai trò quản lý nhà nước đối với nền kinh tế, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.[1] Để tiếp tục đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần nhấn mạnh một số vấn đề cơ bản và tiếp tục làm rõ nội hàm của chúng, làm cơ sở cho việc thiết kế chính sách trong quá trình vận hành hệ thống thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trong quá trình vận hành nền kinh tế thị trường phải đảm bảo yêu cầu kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội ngay từ đầu và trong mọi giai đoạn phát triển, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội.
- Thứ hai, xác định đúng và phân bổ hợp lý, hiệu quả các nguồn lực trong nước cho đầu tư phát triển và kết hợp với việc thu hút các nguồn lực bên ngoài thông qua quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia vào các định chế toàn cầu và khu vực (WTO, BTA, AFTA.
- theo nguyên tắc giữ vững lập trường tự chủ về kinh tế.
- Thứ ba, làm rõ từ ba hình thức sở hữu cơ bản (toàn dân, tập thể và tư nhân) hình thành nên các thành phần kinh tế đan xen hỗn hợp giữa các hình hình thức sở hữu, đặc biệt phát triển phổ biến hình thức sở hữu cổ phần.
- Từ đó khẳng định chủ trương nền kinh tế đa sở hữu, các thành phần kinh tế tồn tại và phát triển lâu dài và đẩy mạnh quá trình dân chủ hóa nền kinh tế, đảm bảo sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa các các thành phần kinh tế và tính chất sở hữu của doanh nghiệp.
- Trong đó, kinh tế nhà nước (doanh nghiệp nhà nước, các nguồn tài nguyên, ngân sách.
- Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế nhà nước, các doanh nghiệp cần được sắp xếp, tái cấu trúc theo hướng tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân, chủ yếu là các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, một số lĩnh vực sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng và các dịch vụ công ích, còn lại cần được cổ phần hóa với sự tham gia rộng rãi của các thành phần kinh tế.
- tiến tới xóa bỏ độc quyền kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước.
- Phát triển mạnh kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, phù hợp với ngành nghề, lĩnh vực và trình độ tập trung hóa, chuyên môn hóa.
- Khuyến khích và định hướng phát triển mạnh kinh tế tư nhân như một trong những lực lượng kinh tế chủ yếu trong nền kinh tế thị trường.
- Thể chế kinh tế thị trường Thể chế bao gồm các luật lệ, qui tắc xã hội, từ cấp quốc gia, liên quốc gia đến các cộng đồng nhỏ nhất, được lập ra để khuyến khích, ca ngợi, khen thưởng hay lên án, trừng phạt, ngăn cấm, ràng buộc, nhờ vậy mà tác động đến tư duy và hành động (cách nghĩ, cách cảm, cách làm, cách sống) của con người trong xã hội ấy.
- (1) thể chế của Nhà nước (hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư, chỉ thị, quyết định của cơ quan nhà nước) và thể chế phi nhà nước (phong tục, tập quán, chuẩn mực xã hội.
- (2) các tổ chức (trong lĩnh vực kinh tế là các chủ thể kinh tế, như doanh nghiệp, người tiêu dùng.
- Trong khuôn khổ của bài viết này chỉ bàn đến thể chế kinh tế thị trường, không đề cập đến thể chế chính trị, thể chế xã hội dân sự, thể chế văn hóa,… Các thể chế kinh tế thị trường đều được xây dựng và vận hành theo một nguyên tắc cốt lõi là cạnh tranh thị trường.
- Ở nước ta, cạnh tranh chủ yếu là giữa các chủ thể thuộc năm thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp.
- Ngày nay, hầu hết các nền kinh tế thị trường là kinh tế hỗn hợp, trong đó nền kinh tế vận hành theo các qui luật của thị trường (“bàn tay vô hình”) có sự điều tiết của nhà nước nhằm khắc phục những thất bại của thị trường.
- (3) Xây dựng quan hệ sản xuất có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
- (4) Phân phối chủ yếu theo lao động, hiệu quả kinh tế và theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực đầu tư khác và thông qua phú lợi xã hội.
- (5) Tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
- (6) Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục.
- (7) Nhà nước phát huy quyền làm chủ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nền kinh tế theo chủ trương phát triển bền vững của Liên hiệp quốc trong Bản Tuyên ngôn của Hội nghị thượng đỉnh Rio (1992) và Chương trình hành động 21 được 192 quốc gia, trong đó có Việt Nam, chấp thuận và thực hiện, về mục tiêu và các đặc trưng khá giống với 7 điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, (chỗ khác cơ bản là vai trò của kinh tế nhà nước).
- Như vậy, trong các nền kinh tế thị trường đương đại và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có những điểm khá tương đồng.[2] 3.
- Những hạn chế của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Thời gian qua, những hạn chế và bất cập của thể chế kinh tế thị trường ở nước ta tập trung ở những điểm chính sau đây.
- Tuy ngày càng được hoàn thiện nhưng hệ thống pháp luật vẫn chưa theo kịp nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
- Sự bất cập này thể hiện ở tính chưa đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật.
- một số vấn đề chậm thể chế hóa, như quản lý nhà nước đối với tài sản thuộc sở hữu nhà nước, đăng ký kinh doanh bất động sản, kiểm soát độc quyền.
- Về chủ thể kinh tế.
- Chẳng hạn, luật pháp qui định mọi doanh nghiệp thuộc các hình thức sở hữu khác nhau đều bình đẳng, nhưng trong thực tế, các doanh nghiệp tư nhân gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với các nguồn vốn và thị trường.
- Có sự khác biệt giữa nhận thức và phân định vai trò của các chủ thể kinh tế với vai trò thực sự của chủ thể kinh tế ấy trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.
- Các doanh nghiệp nhà nước có qui mô lớn, nhưng hoạt động kém hiệu quả.
- Các doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ 75% giá trị tài sản quốc gia, 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, 60% lượng vốn tín dụng ngân hàng trong nước, hơn 70% tổng vốn vay nước ngoài, nhưng hiệu quả kinh doanh thấp.
- Chưa đến 40% doanh nghiệp nhà nước có mức lãi bằng hoặc cao hơn lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại.
- thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ đạt 8000 tỉ đồng trong tổng số 87000 tỉ đồng nộp ngân sách nhà nước năm 2003.
- Nhiều doanh nghiệp nhà nước có trình độ công nghệ dưới mức trung bình của thế giới và khu vực, tốc độ đổi mới công nghệ khoảng 10%/năm.
- Theo xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WMF) trong báo cáo “Năng lực cạnh tranh toàn cầu” năm 2004, chỉ số về công nghệ của Việt Nam rất thấp, xếp thứ 92/104 quốc gia (năm 2003 là 65).[3] Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu, năm 2004, theo tiêu chí này các doanh nghiệp chỉ đứng thứ 73 theo xếp hạng của WMF.
- Các doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện được sự khác biệt về năng lực cạnh tranh so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
- Về cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường.
- Vận dụng chưa đồng bộ các công cụ quản lý và điều tiết thị trường.
- Năng lực của bộ máy quản lý nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu quản lý hiệu quả nền kinh tế thị trường, thiếu tính chuyên nghiệp và sự tận tâm phục vụ doanh nghiệp.
- Về hệ thống các thị trường.
- Các thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường bất động sản hoạt động chưa hiệu quả, quản lý nhà nước (định hướng, tạo môi trường kinh doanh, điều tiết hành vi của các chủ thể tham gia thị trường.
- chưa linh hoạt, thiếu chủ động và mức độ kiểm soát thị trường chưa cao.
- Hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường - Hoàn thiện hệ thống pháp luật - công cụ điều hành của nhà nước pháp quyền Có ba loại chủ thể chính cấu thành xã hội là Nhà nước, các doanh nghiệp và các tổ chức của xã hội dân sự.
- Vấn đề cốt lõi của quản lý nhà nước là việc xác định chức năng của Nhà nước và phân định ranh giới giữa những chức năng Nhà nước, các doanh nghiệp và các tổ chức của xã hội dân sự.
- Chỉ sau khi chính sách được quyết định, việc soạn thảo văn bản pháp luật mới chính thức được bắt đầu.[4] Như vậy, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo điều kiện để quản lý nhà nước bằng luật đối với nền kinh tế xã hội là một yêu cầu khách quan trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
- Tư duy truyền thống về doanh nghiệp theo thành phần kinh tế đang dần được thay thế bằng tư duy theo loại hình pháp lý của doanh nghiệp.
- Xét về mặt hoàn thiện thể chế kinh tế, việc ban hành và thực thi hai luật này đã hoàn thành quá trình thống nhất khuôn khổ pháp lý về doanh nghiệp, không còn phân biệt tính chất sở hữu và thành phần kinh tế.
- Từ đó, khuôn khổ pháp lý về kinh doanh ở nước ta cơ bản đã được áp dụng thống nhất, bình đẳng đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp, không phân biệt tính chất sở hữu và thành phần kinh tế.
- Thứ ba, phân cấp một cách toàn diện cho UBND cấp tỉnh trong việc trực tiếp quản lý nhà nước về đầu tư đã thực sự tạo động lực khuyến khích và phát huy tính năng động, sáng tạo của các địa phương trong việc giải quyết các thủ tục hành chính về đầu tư cũng như xúc tiến đầu tư để phát triển kinh tế địa phương.
- Đổi mới chức năng quản lý nhà nước đối với nền kinh tế Sự tăng trưởng phụ thuộc nhiều vào năng lực điều hành nền kinh tế của Chính phủ.
- Để xây dựng được một Chính phủ mạnh, cần hoàn thiện thể chế và cơ chế quản lý nền kinh tế.
- Khi thể chế của nền kinh tế thị trường ngày càng hoàn chỉnh thì vai trò của Chính phủ cũng phải thay đổi theo.
- Vai trò của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở việc định hướng, hỗ trợ, tạo dựng môi trường kinh doanh thông thoáng và cơ chế khuyến khích các nguồn lực đầu tư vào phát triển kinh tế, quản lý nền kinh tế thông qua các công cụ thị trường (tài chính, thu nhập, thuế, giá, tỷ giá.
- Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) có tác động mạnh mẽ đến việc cải cách bộ máy Chính phủ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và tăng cường khả năng cạnh tranh quốc gia.
- Kinh nghiệm thế giới cho thấy một nền kinh tế thị trường phát triển mạnh đòi hỏi ở Chính phủ tính minh bạch, công khai và những quyết định công bằng cho tất cả các thành phần kinh tế.
- Trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa cần tuân thủ các qui luật khách quan của thị trường (các qui luật giá trị, lưu thông tiền tệ, qui luật cạnh tranh.
- Có các chính sách thúc đẩy phát triển đồng bộ các yếu tố của thị trường (lao động, vốn, bất động sản, khoa học và công nghệ.
- Nâng cao tính minh bạch của thể chế, tách biệt rõ ràng hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý nhà nước.
- Thể chế hoá vai trò của chính quyền địa phương, tập trung vào những yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến kết quả đầu tư và phát triển kinh tế: tính năng động, tính thân thiện, tính minh bạch và sự cam kết ủng hộ phát triển kinh doanh.
- Hỗ trợ các chủ thể kinh tế là hết sức cần thiết, song mọi chính sách ưu tiên, ưu đãi có tính hành chính đều làm suy yếu sức cạnh tranh của nó.
- Vì vậy cần tìm ra cơ chế thích hợp để thúc đẩy các chủ thể kinh tế nâng cao khả năng cạnh tranh.
- Một cách hỗ trợ thiết thực là phát triển mạnh các tổ chức cung cấp các dịch vụ phát triển kinh doanh (tư vấn pháp lý, kế toán, tài chính, đào tạo, quản lý và thông tin thị trường.
- Xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
- Doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, đóng góp 38% GDP, chiếm 33% tín dụng và tạo ra 10% tổng số việc làm của cả nước.
- Theo đánh giá của Bộ Tài chính, có 44,4% doanh nghiệp nhà nước được phân loại theo nhóm A, tức doanh nghiệp có lãi, 39,5% thuộc nhóm B và số còn lại thuộc nhóm C.
- Các doanh nghiệp nhà nước được cho là làm ăn thua lỗ chiếm khoảng 19,5% tổng số các doanh nghiệp nhà nước với tổng nợ trị giá hàng nghìn tỷ đồng.
- Nhà nước vẫn tiếp tục là cổ đông lớn trong các doanh nghiệp CPH.
- Cải cách doanh nghiệp nhà nước đã góp phần củng cố khu vực tư nhân và làm giảm nợ công.
- Nhà nước nắm giữ hơn 50% cổ phần trong 33% các công ty đã được CPH.
- Để xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, cần đẩy mạnh cổ phần hóa (CPH) các doanh nghiệp nhà nước.
- Từ đó giải quyết căn bản các vấn đề liên quan “chủ quản” mà việc bổ nhiệm nhân sự và can thiệp vào kinh doanh không theo nguyên tắc thị trường.
- Ngoài ra, Nhà nước cần chủ động giải quyết mối quan hệ về chủ sở hữu vốn và người quản lý (giám đốc thuê) ở các doanh nghiệp thành viên mà Nhà nước (thông qua SCIC - Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước) có cổ phần chi phối, theo các nguyên tắc thị trường nhằm hạn chế đến mức thấp nhất chi phí người đại diện.
- Trong nền kinh tế chuyển đổi, việc CPH các doanh nghiệp nhà nước cần chú trọng: (1) Đảm bảo lợi ích của người lao động sau CPH tìm được việc làm ổn định.
- (2) CPH cũng phải đi kèm với cải cách các thị trường liên quan, cho phép người chủ sở hữu mới vận hành có lãi, đồng thời, đảm bảo lợi ích công chúng được bảo vệ.
- (5) Để thành công, một chính sách CPH phải là một bộ phận của chương trình cải cách theo định hướng thị trường.
- Để có thể hấp dẫn các nhà đầu tư và tối đa hóa nguồn thu, nhà nước phải bảo đảm môi trường kinh doanh hấp dẫn bằng các cải cách liên quan và chính sách kinh tế lành mạnh.
- cam kết về trợ cấp công nghiệp dưới hình thức ưu đãi, về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, hoạt động của các khu tự do, khu kinh tế đặc biệt và về doanh nghiệp nhà nước.
- Nguyên tắc chung của Nghị định này là thực hiện cam kết WTO, bảo đảm môi trường đầu tư, tạo điều kiện cạnh tranh và phát triển kinh tế.
- Để thực hiện cam kết WTO và hội nhập kinh tế quốc tế, cần xây dựng các chính sách kinh tế vĩ mô hậu WTO nhằm tiến tới xoá bỏ mọi hình thức bao cấp, tạo môi trường cho các loại thị trường vận hành đồng bộ, có hiệu quả và bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô.
- Để làm được điều đó, trước tiên cần xoá bỏ mọi hình thức bao cấp, trong đó có bao cấp qua giá, thực hiện giá thị trường cho mọi hàng hoá và dịch vụ.
- Đối với những mặt hàng còn áp dụng cơ chế Nhà nước định giá, phải xác định lộ trình thực hiện giá thị trường để các doanh nghiệp tính toán lại phương án sản xuất kinh doanh.
- Sửa đổi, bổ sung và xây dựng những chính sách hỗ trợ các ngành sản xuất trong nước không trái với các quy định của WTO như phát triển kết cấu hạ tầng, giáo dục, đào tạo, nghiên cứu - triển khai, phát triển thị trường, đổi mới công nghệ, hỗ trợ vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, cung cấp thông tin.
- Chính sách này cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng đa dạng hoá chủ sở hữu quỹ, cho phép các doanh nghiệp, hiệp hội thành lập quỹ và kinh doanh theo cơ chế thị trường.
- Nhà nước tiếp tục tăng và tập trung đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, bảo đảm kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, thực hiện phát triển bền vững.
- Đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức trong các lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, đào tạo nguồn nhân lực, xoá đói giảm nghèo, tăng cường thể chế và bảo vệ môi trường.
- Mở rộng cho các tổ chức kinh tế đầu tư ra nước ngoài, tập trung vào các lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế nhằm bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và cung cấp nguồn nguyên liệu cho sản xuất trong nước.
- Kết luận Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề phức tạp cả về lý luận lẫn thực tiễn và chưa có tiền lệ trong lịch sử.
- Việc nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình nghiên cứu lý luận và được kiểm chứng thông qua hệ tham chiếu của thực tiễn.
- Thể chế kinh tế thị trường, một mặt được xây dựng dựa trên sự đòi hỏi khách quan của các qui luật thị trường, mặt khác là sản phẩm của sự phát triển của tư duy quản lý được tạo ra từ thực tiễn của cuộc sống, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, thực chất đó là một quá trình liên tục khám phá, trải nghiệm và đúc kết thành lý luận.
- Những cải tiến căn bản về thể chế nhà nước và thể chế phi nhà nước, xác định rõ vai trò và chức năng của các chủ thể kinh tế đa dạng về hình thức tổ chức, hoàn thiện cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường, tạo lập và hoàn chỉnh hệ thống các thị trường hàng hóa, thị trường lao động, thị trường vốn và thị trường bất động sản là những hoạt động hàng đầu trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- [3] CIEM-Trung tâm Thông tin-Tư liệu, Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, 2007.
- [5] Nguyễn Sĩ Dũng, Sự kiện & Vấn đề: Đổi mới tư duy trong quản lý nhà nước, Thời báo Kinh tế Sài Gòn