Academia.eduAcademia.edu
1 Người tị nạn Việt Nam: từ chiến tranh tới đổi mới Tác giả: Nguyễn Huy Hoàng1 Thạc sỹ Quan hệ Quốc tế, Nghiên cứu viên độc lập Bản quyền tháng 1 năm 2020 Ó Tóm tắt bài nghiên cứu: Người tị nạn Việt Nam là một trong những đề tài thu hút sự quan tâm của công luận và dư luận trong và ngoài nước có ảnh hưởng nhất định tới các vấn đề chính trị - kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế. Việc nghiên cứu về người tị nạn Việt Nam vì vậy góp phần hiểu rõ hơn những phương diện chính trị - kinh tế - xã hội ảnh hưởng tới một bộ phận không nhỏ người Việt Nam, tới chính phủ và quan hệ quốc tế. Bài nghiên cứu này phân tích tình hình người tị nạn Việt Nam từ năm 1975 tới 2019, qua đó cho thấy vấn đề người tị nạn Việt Nam là một bộ phận của chế định tị nạn quốc tế. Số lượng người tị nạn Việt Nam giai đoạn đầu tăng cao do hậu quả của chiến tranh Đông Dương sau đó được giải quyết nhờ các chương trình hỗ trợ tái định cư của Mỹ và tái hồi hương của Cao uỷ Tị nạn Liên hợp quốc, tuy nhiên tình hình người tị nạn Việt Nam vẫn tồn tại phần lớn do tình trạng tái tị nạn sau hồi hương và số tị nạn mới. Người tị nạn từ những năm 2000 duy trì ở mức thấp với nguyên nhân chủ yếu liên quan tới chính trị nội địa, tôn giáo, dân tộc, mâu thuẫn đất đai, bất công và bất bình đẳng xã hội, hệ quả chia rẽ từ chiến tranh Việt Nam. Nguyễn Huy Hoàng hiện là nghiên cứu viên độc lập, Thạc sỹ chuyên ngành Quan hệ Quốc tế có hơn 4 năm kinh nghiệm làm việc hỗ trợ các công tác nhân đạo quốc tế tại IFRC và hỗ trợ các chương trình người tị nạn cho các cơ quan, tổ chức như IRC, DHS, Đại sứ quán một số nước và UNHCR. Mọi thông tin liên hệ vui lòng liên hệ email huyhoangbk_2004@yahoo.com. Tài liệu này là sở hữu trí tuệ hợp pháp và duy nhất thuộc quyền sở hữu của tác giả Nguyễn Huy Hoàng. Tất cả mọi việc trích dẫn, truyền tải hoặc sao chép bất kỳ nội dung nào trong tài liệu này đều phải ghi rõ tên tác giả và nguồn tài liệu và cần thiết phải xin phép sự đồng ý của tác giả bằng văn bản. 1 2 1. Mở đầu Ngày 30/4/1975, chiếc xe tăng T-54B mang số hiệu “843” và Type 59 mang số hiệu 390 thuộc Đại đội 4, Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn xe tăng 203, Quân đoàn 2 của Quân đội nhân dân Việt Nam đã húc đổ Dinh Độc lập đánh dấu kết thúc chiến tranh Việt Nam kéo dài hơn 30 năm (1945-1975),2 kéo theo sự di tản của hơn 130,000 người liên quan tới chính quyền Việt Nam cộng hoà và Mỹ.3 Tính từ năm 1975 tới 1997 có khoảng 1.6 triệu người Việt Nam đã ra đi tị nạn khỏi đất nước, tương đương khoảng 1.7 % tổng dân số cả nước. Năm 2017, ngay sau khi nhậm chức Tổng thống Hoa Kỳ, ông Donald Trump đã tuyên bố chính sách nhập cư thắt chặt hơn với việc tiến hành xem xét trục xuất về nước đối với những cá nhân vi phạm hình sự từ các nước khác trong đó có hơn 5,000 người nhập cư từ Việt Nam. Người tị nạn Việt Nam, trước đó thường được biết đến là thuyền nhân hay “boat people”, đạt tổng số hàng triệu người, ở thời điểm cao trào nhất lên tới hàng trăm nghìn người, di chuyển từ các tỉnh-thành phố Việt Nam sang các nước trong khu vực và tái định cư sang nhiều nơi khác nhau trên toàn thế giới. Đây là một trong những chủ đề từng thu hút sự quan tâm của công luận và dư luận trong và ngoài nước có ảnh hưởng nhất định tới các vấn đề chính trị - kinh tế - xã hội trong nước và quan hệ quốc tế và quan hệ đối ngoại. Việc nghiên cứu về người tị nạn Việt Nam vì vậy góp phần hiểu rõ hơn những phương diện chính trị - kinh tế - xã hội ảnh hưởng tới một bộ phận không nhỏ người Việt Nam, tới chính phủ và quan hệ quốc tế, đồng thời có ý nghĩa nhất định trong hoạch định chính sách của chính phủ. Vấn đề người tị nạn Việt Nam có từ nhiều thế kỷ trước, trong phạm vi của mình, bài nghiên cứu này sẽ tập trung vào giai đoạn từ sau chiến tranh Việt nam năm 1975 tới năm 2019. Bài nghiên cứu này cho thấy vấn đề người tị nạn Việt Nam là một bộ phận của vấn đề người tị nạn quốc tế trong chế định quốc tế. Kể từ năm 1975, số lượng người tị nạn Việt Nam tăng đột biến xuất phát từ nguyên nhân chiến tranh Việt Nam và tiếp tục gia tăng với số lượng lớn do hậu quả của chiến tranh Đông Dương giữa Việt Nam, Campuchia và Trung Quốc. Sau chiến tranh Đông Dương lần 3, tuy số lượng lớn người tị nạn Việt Nam được giải quyết theo các chương trình hỗ trợ tái định cư của Mỹ và tái hồi hương của Cao uỷ Tị nạn Liên hợp quốc (UNHCR), tình hình người tị nạn Việt Nam vẫn tiếp tục gia tăng phần lớn là số xin tị nạn trở lại sau hồi hương. Người tị nạn từ những năm 2000 duy trì ở mức thấp và từ sau 2010 có nhiều vấn đề liên quan tới chính trị nội địa, tôn giáo, dân tộc, mâu thuẫn đất đai, bất công và bất bình đẳng xã hội, hệ quả chia rẽ từ chiến tranh Việt Nam. Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp với các số liệu định lượng qua nghiên cứu tập hợp từ hệ thống các công trình nghiên cứu trước đó, qua bài báo cáo tổng hợp của các tổ chức quốc tế, các cơ quan chính phủ, báo chí truyền thông và qua các số liệu, quan sát, trao đổi trực tiếp trong các đợt hỗ trợ dự án có liên quan. Bài nghiên cứu gồm 3 2 3 Dân Việt news, 29 tháng 4 năm 2019, truy cập 25 tháng 12 năm 2019. UNHCR, State of the World's Refugees 2000, nhà xuất bản Oxford University Press, 2000. 3 phần chính, sau phần mở đầu, bài nghiên cứu sẽ tóm tắt khái quát về hệ thống các công trình nghiên cứu có liên quan trước đó. Phần tiếp theo sẽ tìm hiểu bối cảnh liên quan tới tình hình người tị nạn trên thế giới và phần còn lại sẽ tập trung cung cấp thông tin và phân tích về tình hình người tị nạn Việt Nam trước khi nêu nội dung kết luận vấn đề nghiên cứu và một số hướng nghiên cứu sau đó. 2. Hệ thống các nghiên cứu liên quan Các nghiên cứu về vấn đề người tị nạn nói chung và người tị nạn Việt Nam nói riêng có số lượng tương đối lớn và khá đa dạng. Một số bài nghiên cứu giai đoạn đầu thời kỳ như Stoesinger (1956) nghiên cứu về người tị nạn và cộng đồng quốc tế,4 Holborn (1975) nghiên cứu về vấn đề người tị nạn giai đoạn 1951-1972,56 Marrus (1985) nghiên cứu về tình hình người tị nạn châu Âu trong thế kỷ 20, Loescher (1993) nghiên cứu về cuộc khủng hoảng tị nạn toàn cầu và hợp tác quốc tế,7 Chimni (2001), Loescher (2008) và Betts (2009) nghiên cứu về hệ thống quốc tế về người tị nạn,8 Gatrell tìm hiểu về vấn đề người tị nạn trong tình hình thế giới hiện đại,9 Betts and Loescher (2011) nghiên cứu về người tị nạn trong quan hệ quốc tế.10 Một số bài nghiên cứu khác tập trung phân tích chuyên sâu về các phương diện khác nhau liên quan tới người tị nạn như: Furlow (1996) nghiên cứu về quan hệ giữa cách mạng và người tị nạn trong trường hợp nghiên cứu là cuộc cách mạng Hungary 1956,11 Coles (1989) nghiên cứu về giải pháp giải quyết vấn đề người tị nạn và việc bảo hộ người tị nạn,12 Goodwin-Gill (1996) và Hatthaway và Foster (2018) nghiên cứu người tị nạn trong luật quốc tế,13 Harrell-Bond (1998) và Kibreab (2006) nghiên cứu về vấn đề hồi hương người tị nạn và các điều kiện phù hợp để thực hiện việc hồi hương,14 vấn đề địa chính trị liên quan tới người tị nạn từ quan điểm 4 J.G. Stoessinger, The Refugee and the World Community, University of Minnesota Press, Minneapolis, 1956, pp. 45–8. 5 L.W. Holborn, Refugees: A Problem of our Time: The Work of the United Nations High Commissioner for Refugees, 1951–1972, 2 vols, Methuen, Scarecrow Press, NJ, 1975. 6 G. Loescher, Beyond Charity: International Cooperation and the Global Refugee Crisis, Oxford University Press, Oxford, 1993, pp. 46–54; 7 M.R. Marrus, The Unwanted: European Refugees in the Twentieth Century, Oxford University Press, Oxford, 1985, pp. 296–345; 8 Chimni, B. S. "Reforming the International Refugee Regime: A Dialogic Model." Journal of Refugee Studies 14, no. 2, 2001; Betts A Institutional Proliferation and the Global Refugee Regime. Perspectives on Politics 7: 5358, 2009 và UNHCR: the Politics and Practice of Refugee Protection into the Twenty-First Century (with Gil Loescher and James Milner, Routledge 2008. 9 Gatrell P, The Making of the Modern Refugee, 2013. 10 Alexander Betts and Gil Loescher eds, Refugees in International Relations, Oxford University press, 2013. 11 J. Furlow, ‘Revolution and Refugees: The Hungarian Revolution of 1956’, The Fletcher Forum of World Affairs, vol. 20, no. 2, 1996, pp. 107–8. 12 G.J.L. Coles, ‘Solutions to the Problem of Refugees and the Protection of Refugees’, background report for UNHCR, Geneva, 1989. 13 G. S. Goodwin-Gill, The Refugee in International Law, 2nd ed., Oxford University Press, Oxford, 1996, p. 118; và James C. Hathaway và Michelle Foster, The Law of Refugee Status, Cambridge University Press, 2014. 14 B. Harrell-Bond, ‘Repatriation: Under What Conditions is it the Most Desirable Solution for Refugees? An Agenda for Research’, African Studies Review, vol. 32, no. 1, 1988 và Kibreab G, Citizenship Rights and Repatriation of Refugees. International Migration Review 37: 24-73, 2006. 4 các nước đang phát triển (Chimni 1998),15 vấn đề người tị nạn và kinh tế học,16 người tị nạn tôn giáo (Nicholas Terpstra 2018),17 vấn đề trẻ em tị nạn (Ceri Roberts 2018),18 Một số báo cáo và bài nghiên cứu của Cao uỷ Tị nạn Liên hợp quốc (UNHCR) mang tính tổng hợp, bao quát hơn về tình hình người tị nạn như Tình hình người tị nạn thế giới: tìm kiếm những giải pháp” (1995) nghiên cứu về thực trạng người tị nạn và nêu những giải pháp giải quyết vấn đề người tị nạn,19 và “Tình hình người tị nạn thế giới: 50 năm thực hiện sứ mệnh nhân đạo” (2000) hỗ trợ người tị nạn trên toàn thế giới trong đó giới thiệu chi tiết về lịch sử khái quát tình hình người tị nạn kể từ ngày thành lập UNHCR. Bài nghiên cứu đã phân tích các cuộc khủng hoảng tị nạn và vai trò hỗ trợ của UNHCR, khó khăn người tị nạn gặp phải, bối cảnh chính trị dẫn tới tình trạng tị nạn, phản ứng của cộng đồng quốc tế, luật pháp quốc tế liên quan tới người tị nạn, tiến trình hoạch định chính sách và thực hành chính sách của các quốc gia, các tổ chức nhân đạo và các thành phần khác trong hệ thống chính trị quốc tế.20 Miller (2017) nghiên cứu về các sự kiện và nguyên nhân gây ra tình trạng tị nạn, thông tin khái quát về các quốc gia và tổ chức tham gia giúp đỡ người tị nạn và những việc cần làm để đưa người tị nạn quay trở về bắt đầu cuộc sống mới.21 Hemaadri (2017) nghiên cứu yếu tố chính trị liên quan tới người tị nạn và những định hướng phía trước về phương diện pháp lý với trường hợp nghiên cứu là Canada và Ấn Độ. Một số bài nghiên cứu về người tị nạn Việt Nam như tìm hiểu về người tị nạn Việt Nam ở Mỹ (Rkasnuam và Batalova 2017 và Ha 2016),22 Salo và Birman (2015) nghiên cứu về vấn đề thích nghi tâm lý người tị nạn Việt Nam,23 Tsamenyi (1981) nghiên cứu về người tị nạn Việt Nam về phương diện luật pháp quốc tế,24 Clinton (2010) nghiên cứu về người lao động tị nạn Đông Dương.25 Tuy nhiên đa phần các bài nghiên cứu này chủ yế cung cấp các thông tin khái quát hoặc một số số liệu thống kê, bài phỏng vấn của những người là cựu tị nạn trước đó. Chimni B, The geopolitics of refugee studies: a view from the south. Journal of Refugee Studies 11: 350-374, 1998. 16 Dustman, C, F Fasani, T Frattini, L Minale and U Schӧnberg, "On the Economics and Politics of Refugee Migration," CReAM Discussion Paper Series 1616, Centre for Research and Analysis of Migration, University College London, 2016. 17 Nicholas Terpstra, Religious Refugees in the Early Modern World : An Alternative History of the Reformation, Cambridge University Press, 2018. 18 Ceri Roberts, Children in Our World: Refugees and Migrants, Hachette Children's Group, 2018. 19 UNHCR, The State of the World’s Refugees: In Search of Solutions, Oxford University Press, Oxford, 1995, pp. 30–55. 20 UNHCR, State of the World's Refugees 2000, nhà xuất bản Oxford University Press, 2000. 21 Harry Miller, Critical World Issues: Refugees, Mason Crest Publishers, Pensylvania, 2017. 22 Rkasnuam, B. H., & Batalova, J. Vietnamese Immigrants in the United States. Retrieved from https://www.migrationpolicy.org/article/vietnamese-immigrants-united-states-2, 2017 và Ha, Forty-one years ago, the US took a big gamble on Vietnamese refugees. Retrieved from https://qz.com/670921/forty-oneyears-ago-the-us-took-a-big-gamble-on-vietnamese-refugees/, 2016. 23 Salo, C., & Birman, D. Acculturation and Psychological Adjustment of Vietnamese Refugees: An Ecological Acculturation Framework. American Journal of Community Psychology, 56(3-4), 395-407, 2015. 24 Martin Tsamenyi, The Vietnamese boat people and international law, Nathan: Griffith University, 1981. 25 Thompson, Larry Clinton, Refugee Workers in the Indochina Exodus, Jefferson, NC: MacFarland Publishing Company, 2010. 15 5 3. Tổng quan tình hình tị nạn trên toàn thế giới năm 2019 Tình hình tị nạn trên thế giới năm 2019 trong đó tổng số người tị nạn và người tìm kiếm tị nạn tới năm 2019 ước tính khoảng hơn 30 triệu người, trong đó có hơn 20 triệu nhận quy chế tị nạn bảo trợ bởi Cao uỷ Liên Hợp Quốc về người tị nạn, hơn 5 triệu người thuộc chương trình cứu trợ của Liên hợp quốc chuyên trách đối với người tị nạn Palestine (UNRWA) và khoảng 4 triệu người thuộc diện đang tìm kiếm tị nạn chờ xét duyệt quy chế tị nạn. Hàng năm có trung bình khoảng gần 2 triệu người trốn đi tìm kiếm tị nạn. Trong năm 2019, có khoảng dưới 0.5 % trường hợp được làm thủ tục đi tái định cư sang nước thứ 3; 4% trong số họ quyết định quay về lại đất nước trong khi đó hơn 95% số người tị nạn và tìm kiếm tị nạn vẫn quyết định ở lại đất nước thứ 2 nơi xin tị nạn.27 26 Về nơi phát sinh, các khu vực có phát sinh người tị nạn gồm Trung Đông, Châu Phi, Đông Nam Á, Trung – Nam Mỹ và Nam Á. 3 khu vực có nhiều người tị nạn nhất là: Trung Đông, Châu Phi, Đông Nam Á trong đó hơn 60% số người tị nạn chủ yếu đến từ 6 quốc gia chính ở các khu vực này gồm: Syria, Afghanistan, South Sudan, Myanmar, Somalia, and Sudan, Venezuela. Ở Đông Nam Á nơi phát sinh chính gồm: Myanmar, Việt Nam, Campuchia, Trung Quốc, Lào. Về điểm đến, của người tị nạn trên toàn thế giới, gần 55% số người tị nạn và tìm kiếm tị nạn sinh sống ở các nước láng giềng với các quốc gia phát sinh tị nạn, gần 30% người tị nạn sinh sống ở các nước chậm phát triển và khoảng 15% số người tị nạn tới các nước phát triển. Các nước tiếp nhận người tị nạn nhiều nhất gồm: Thổ Nhĩ Kỳ, Jordan, Lebanon, Pakistan, Uganda, Đức, Bangladesh, Sudan… Ở Đông Nam Á nơi tiếp nhận người tị nạn và tìm kiếm tị nạn chính gồm: Bangladesh, Thái Lan, Malaysia, Indonesia. Tính riêng tại Thái Lan, tổng số người tị nạn và tìm kiếm tị nạn tại Thái Lan là khoảng hơn 95,000 người, trong đó hơn 90% là người tị nạn Myanmar cư trú tạm thời tại 9 trại tị nạn khác nhau dọc biên giới Thái Lan - Myanmar. Còn lại là khoảng hơn 5,000 người tị nạn trong nội địa Thái Lan đến từ nhiều quốc gia khác nhau như: Campuchia, Trung Quốc, Pakistan, Nga, Lào, Bangladesh, Somali, Nigeria, Iran, Iraq, Afghanistan… Hàng năm ước tính có khoảng hơn 600 người sang xin quy chế tị nạn tại Thái Lan.28 4. Tình hình người tị nạn VN Từ 1975 tới trước năm 1978, số lượng người tị nạn Việt Nam bắt đầu xuất hiện ở mức thấp trong khi có hàng ngàn người bị đưa tới các trại tập trung, cải tạo trong nhiều năm bên trong Việt Nam. Sau 1978, tình hình kinh tế diễn biến nghiêm trọng đặc biệt sự kiện chiến 26 Người tị nạn và người tìm kiếm tị nạn là những người ở bên ngoài đất nước quê hương của mình và không thể quay trở về đất nước vì lý do bị đàn áp, bức hại dựa trên 5 cơ sở chính theo Công ước quốc tế về người tị nạn năm 1951. Người tị nạn là người đã được UNHCR cấp quy chế tị nạn, trong khi người tìm kiếm tị nạn là những người đang làm thủ tục xin tị nạn vẫn chưa được cấp quy chế tị nạn. Tham khảo C ông ước quốc tế về người tị nạn 1951. 27 UNHCR, Global trend forced displacement in 2018, 2018. 28 Ibid., 2018 và tính toán của tác giả từ các nguồn khảo sát độc lập năm 2018, 2019. 6 tranh giữa Việt Nam – Campuchia – Trung Quốc bùng nổ đã khiến số lượng người tị nạn Việt Nam tăng lên nhanh chóng tới hơn 300,000 người bị đưa đi tập trung tại các trại cải tạo và hơn 1 triệu người bị đưa đi khai hoang ở các vùng kinh tế mới của chính phủ Việt Nam sau thống nhất.29 Sự kiện chiến tranh biên giới Việt – Trung đã khiến quan hệ ngoại giao hai nước tới đỉnh điểm căng thẳng đồng thời khiến chính quyền Việt Nam đã ban hành áp dụng các biện pháp quản lý chặt chẽ hơn với số người Việt gốc hoa tại Việt Nam. Theo ước tính đã có khoảng 250,000 người gốc Hoa phải đi tị nạn sang Trung Quốc và hàng chục nghìn người khác phải đi tị nạn sang Hồng Công và các nước khác trong khu vực.30 Hơn 1,200 người Việt Nam tị nạn bị chở tới Indonesia và khoảng 2.500 người tị nạn khác tới Malaysia trong khi số tới Philippines và Hồng Công khoảng vài nghìn người. Con số này đạt đỉnh điểm tới 54,000 người vào tháng 6/1979 nâng tổng số người tị nạn Việt Nam thời điểm đó lên 350,000 người.31 Chính phủ các nước khu vực phần lớn đều không chấp nhận người tị nạn nhập cảnh với xu hướng con số gia tăng ngày càng cao. Tháng 7/1979, Mỹ đề xuất tại Liên Hợp Quốc chương trình hỗ trợ người tị nạn ra đi trong trật tự (ODP), qua đó cho phép làm thủ tục tái định cư cho người Việt Nam tị nạn với mức từ 9,000 tới 25,000 người/năm tập trung từ các trại tị nạn chính như Bidong Island (Malaysia), Galang (Indonesia), Panatnikhom và Sikiew (Thái Lan) và Bataan (Philippines). Các điểm đến chính của số người tị nạn Việt Nam thời kỳ này là Mỹ, Pháp, Úc, Canada. Chi phí cho một lượt làm thủ tục xuất cảnh ra nước ngoài thời điểm đó là khoảng 3000USD cho người lớn và 1,500 USD cho trẻ em, phần lớn không có đủ tiền phải trốn đi tị nạn bất hợp pháp.32 Thống kê người tị nạn Việt Nam qua các năm 1,400,000 1,200,000 1,000,000 800,000 600,000 400,000 200,000 0 1980 1990 2000 2006 2010 2012 2019 Số người tị nạn Việt Nam Sagan, Ginetta; Denney, Stephen (October–November 1982). "Re-education in Unliberated Vietnam: Loneliness, Suffering and Death". The Indochina Newsletter. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2019. 30 Thompson, Larry Clinton Refugee Workers in the Indochina Exodus Jefferson, NC: MacFarland Publishing Company, 2010, pp. 142-143. 31 State of the World's Refugees, 2000 United Nations High Commissioner for Refugees, pp. 83, 84; truy cập 25 tháng 12 năm 2019. 32 "Special Study on Indochina Refugee Situation -- July 1979", Douglas Pike Collection, The Vietnam Archive, Texas Tech University, Far Eastern Economic Review December 22, 1978, p. 12 truy cập 25 tháng 12 năm 2019; 29 7 Tỉ lệ tăng số người tị nạn Việt Nam qua các năm 60% 50% 40% 30% 20% 10% 0% 1980 1990 2000 2006 2010 2012 2019 Tỉ lệ tăng Nguồn: Số liệu của Migration Policy Institute (MPI), Khảo sát của Cục Thống kê Hoa Kỳ các năm 2006, 2010, and 2012; các đợt khảo sát cộng đồng Mỹ các năm 1980, 1990, and 2000 Decennial Census và tính toán của tác giả từ nguồn khảo sát độc lập. Nguồn: Thống kê số người tị nạn Việt Nam của Ngân hàng thế giới 2018. Đơn vị nghìn người. Kể từ năm 1995 tới năm 2019, tổng số người tị nạn và tìm kiếm tị nạn VN đạt tổng khoảng 340,000 người (bao gồm cả số đã được đi tái định cư sang nước thứ 3, số đang có quy chế tị nạn và số đang làm thủ tục xin tị nạn). Trong đó, hiện có tổng khoảng 5,000 trường hợp 8 đang được xem xét hồ sơ để cấp quy chế tị nạn mới và hàng năm có trung bình khoảng hơn 100 tới 300 người đi tìm kiếm tị nạn mới.33 Riêng tại Thái Lan trong năm 2019, có hơn 130 người VN sang xin tị nạn. Ngoại trừ Myanmar, số người tị nạn VN chiếm gần 1/4 tổng số người sang Thái Lan tìm kiếm tị nạn từ nhiều quốc gia khác nhau ở Châu Á. Trong tổng số hơn 130 người tị nạn trong năm 2019, chỉ có hơn 66% là người xin tị nạn trực tiếp trong khi 34% còn lại là người thân phụ thuộc. Số người tị nạn này có thể phân loại theo các nhóm như sau: Về chính trị, an ninh, trong số này bao gồm 98% người ngoài Đảng và 2% Đảng viên. Số người tị nạn năm 2019 gặp các vấn đề chủ yếu liên quan tới các nguyên nhân gây ảnh hưởng tới an ninh trị gồm chính trị hơn 30%, tôn giáo 20%, dân tộc 12%, đất đai và các vấn đề khác 5%. Có khoảng hơn 15% người là thành viên của các tổ chức đảng phái, hội nhóm chính trị có tổ chức đối lập với chính quyền Việt Nam. Về nguồn gốc và điểm đến, phần lớn người tị nạn đến từ khu vực Tây nguyên (chiếm hơn 60%), miền Nam chiếm 16%, miền trung và nam trung bộ chiếm 14%, miền Bắc là 9%. Số người tị nạn VN tới từ hơn 26 tỉnh thành trên cả nước, tập trung phần lớn ở các tỉnh tập trung đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên (Daklak, Gia Lai, Daknong), Tây Bắc (Điện Biên), miền Nam (Hồ Chí Minh, Lâm Đồng, Đồng Nai, Tây Ninh), Tây và Tây Nam Bộ (Sóc Trăng, An Giang, Đồng Tháp), miền trung (Nghệ An, Hà Tĩnh, Khánh Hoà, Phú Yên). Số người tị nạn sang Thái Lan tập trung chủ yếu ở các khu vực như: miền trung 95%, miền Bắc miền Đông Bắc 2%, miền Bắc và khu vực khác 3%. Thống kê người tị nạn Việt Nam theo quê quán năm 2019. Nguồn: khảo sát độc lập. Về sắc tộc-tôn giáo, có tới gần 40% người tị nạn là người dân tộc Kinh, gần 20% người dân tộc Jarai, hơn 20% là dân tộc Hmong, khoảng 18% dân tộc Ede, dưới 5% là dân tộc Khmer và các dân tộc khác. Về tôn giáo, người tị nạn theo đạo Tin lành chiếm một nửa, Công giáo 21%, không theo đạo 22%, đạo Phật 3%. 33 Nguồn tính toán của tác giả từ khảo sát độc lập từ một số tổ chức. 9 Về giới tính-lứa tuổi, hơn 60% là nngười tị nạn là nam và 40% là nữ với độ tuổi 66% là người trưởng thành và trung niên, 24% trẻ em và 10% người cao tuổi. Về trình độ, nghề nghiệp, hơn 44% là không có trình độ, 14% có trình độ đại học, trình độ cấp 3 là 9%, cấp 2 là 17% và cấp 1 là 12%. Về nghề nghiệp, 34% là nông dân, 27% không có việc làm cụ thể, hoạt động chính trị đối lập là 14%, sinh viên khoảng 6%, báo chí và blogger 4% và các ngành nghề khác. Thống kê người tị nạn Việt Nam năm 2019theo nguyên nhân, xuất xứ, dân tộc, tôn giáo. Nguồn: Khảo sát độc lập. Về tuyến đường tị nạn, người tị nạn từ Việt Nam trốn sang nước ngoài thường đi qua 03 tuyến chính: (i) đường bộ chiếm đa số đi từ Việt Nam qua Campuchia hoặc Lào để sang Thái Lan; (ii) đường bay trực tiếp từ Việt Nam; (iii) bay từ Malaysia, Philippines qua Thái Lan. Số người tị nạn VN chủ yếu trốn qua tuyến đường như Campuchia 80%, Lào 12%, bay trực tiếp 5%, bay qua từ Philippines, Malaysia và các tuyến khác 3%. Khi trốn sang tới TL, phần lớn thường kết nối với các cá nhân, tổ chức đưa người bất hợp pháp để trốn qua biên giới VNCPC, VN-TL (thường là các nhà xe, các nhóm dịch vụ ở vùng biên giới hoặc liên kết với những người đã sang tị nạn trước đó để hướng dẫn, tổ chức). Chi phí mỗi lần khoảng từ 3 triệu tới 30 10 triệu (tương đương 250 USD – 2500 USD) tuỳ từng trường hợp,34 đa phần đi sang không có hộ chiếu và các giấy tờ tuỳ thân khác, một số bị liệt vào danh sách cấm đi khỏi nơi cư trú, cấm xuất cảnh hoặc trong diện bị triệu tập hoặc truy nã. Các cửa khẩu người tị nạn thường đi qua gồm Mộc Bài (Tây Ninh), Cầu Treo (Hà Tĩnh), Cha Lo (Quảng Bình), Bù Đốp (Bình Phước), Long Bình (An Giang)… Cửa khẩu vào Thái Lan chủ yếu qua Poipet-Aranyaprathet (Campuchia) và Nong Khai-Vieng chan (Lào). Tình hình người tị nạn Việt Nam năm 2019 tại Thái Lan tiếp tục duy trì số lượng tăng như trung bình hàng năm, hiện tại chiếm khá lớn (40%) so với tổng số người tị nạn trong nội địa Thái Lan trong bối cảnh xu hướng giảm chung của các nước khác trong khu vực. Sau khi sang tới Thái Lan, những người tị phần lớn hạn chế các hoạt động, chủ yếu tương tác trên mạng số còn lại tạm dừng hoạt động do lo ngại vấn đề an ninh, an toàn đặc biệt từ sau vụ việc nhà báo Trương Duy Nhất bị bắt cóc sau khi tới đăng ký xin tìm kiếm tị nạn tại Thái Lan. Một số nguyên nhân phát sinh người tị nạn VN chủ yếu tới từ các vấn đề liên quan tới (1) vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng, (2) phân biệt đối xử tại địa phương, (3) mâu thuẫn đất đai do thiếu hiểu biết hoặc do chủ trương và thực hiện chính sách đất đai của chính quyền còn nhiều bất cập, việc đền bù hỗ trợ bị thực hiện sai trái hoặc thiếu minh bạch, (4) bất mãn với các vấn đề tham nhũng - kinh tế - xã hội – môi trường, (5) quá trình tiếp xúc, điều tra, xét hỏi và tố tụng, giải quyết khiếu nại còn nhiều vấn đề chưa giải quyết được gốc rễ vấn đề. Bài nghiên cứu này cho thấy vấn đề người tị nạn Việt Nam sau chiến tranh Việt nam năm 1975 tới năm 2019 vẫn là một vấn đề cần quan tâm. Số lượng người tị nạn Việt Nam tăng đột biến từ năm 1975 xuất phát từ nguyên nhân chiến tranh Việt Nam và tiếp tục gia tăng cao hơn do hậu quả của các chiến tranh Đông Dương. Sau hoà bình tại Đông Dương và bình thường hoá quan hệ ngoại giao Việt Nam -Hoa Kỳ, số lượng lớn người tị nạn Việt Nam có xu hướng giảm với các chương trình hỗ trợ tái định cư của Mỹ và tái hồi hương của Cao uỷ Tị nạn Liên hợp quốc (UNHCR), nhưng sau đó tình hình người tị nạn Việt Nam vẫn còn tồn tại phần lớn là số xin tị nạn trở lại sau hồi hương sau khi không thể hoà nhập và tại Việt Nam vẫn tồn tại nhiều vấn đề chính trị - xã hội. Người tị nạn từ những năm 2000 và sau 2010 duy trì ở mức thấp có nhiều vấn đề liên quan tới chính trị nội địa, tôn giáo, dân tộc, mâu thuẫn đất đai, bất công và bất bình đẳng xã hội, hệ quả chia rẽ từ chiến tranh Việt Nam. 34 Số liệu tập hợp từ các đợt khảo sát độc lập, phỏng vấn trực tiếp người tị nạn năm 2018 – 2019.