VIỆN VĂN HỌC
NGHIÊN CỨU
NGHIÊN CỨU
VĂN HỌC
L I T E R A R Y
VĂN HỌC
S T U D I E S
TIN SÁCH
* Nguyễn Thị Mai Chanh, Trần Thị Thu Hương (2019), Đổi mới văn học Trung Quốc giai đoạn cuối thế kỷ XIX
- đầu thế kỷ XX, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 322 trang. Khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề đổi mới văn
học Trung Quốc cuối thế ky XIX - đầu thế ky XX; đề cập đến những vấn đề, hiện tượng lí luận và thực tiễn nổi
bật, đặc thù tạo tiền đề cho công cuộc đổi mới văn học; trình bày đổi mới thơ ca, tiểu thuyết và đổi mới kịch; so
sánh quá trình đổi mới của văn học Trung Quốc và văn học Việt Nam cuối thế ky XIX - đầu thế ky XX.
L I T E R A R Y
* Trần Tư Hoa (2019), Ba Kim: Niềm tin và phản tỉnh, Hoàng Đông Siêu, Tô Phương Cường dịch, Nxb. Đà
Nẵng, 129 trang. Giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của Ba Kim - một nhà văn lớn của Trung Quốc, cùng các
lý tưởng cách mạng có ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội thời bấy giờ được thể hiện qua các tác phẩm của ông.
* Tạ Thị Thuỷ (Chủ biên), Nguyễn Thị Thanh Nga (2020), Bàn về góc nhìn liên văn hoa qua tiểu thuyết Mạc
Ngôn (Sách chuyên khảo), Nxb. Thanh Hoa, 159 trang. Tổng quan tình hình nghiên cứu về Mạc Ngôn và Mạc
ngôn từ góc nhìn văn hoá; phân tích sự gắn kết giữa văn hoá truyền thống và văn hoá hiện đại, phương Đông
và phương Tây, dân gian và bác học trong tiểu thuyết Mạc Ngôn của thời đại xã hội; những biểu tượng tiêu biểu
cho tính liên văn hoa trong hệ thống tiểu thuyết Mạc Ngôn; phân tích hệ thống nhân vật dưới góc độ liên văn hoa
trong tiểu thuyết Mạc Ngôn.
* Châu Tính (2019), Lỗ Tấn: Phê phán quốc dân tính, Hoàng Đông Siêu, Tô Phương Cường dịch, Nxb.
Đà Nẵng, 160 trang. Cung cấp thông tin về cuộc đời cũng như con đường nghệ thuật của nhà văn Lỗ Tấn, đồng
thời giúp người đọc khám phá con đường tuổi trẻ tìm kiếm lý tưởng của ông.
ISSN 0494-6928
NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
* Ngô Phúc Huy (2020), Lịch sử phát triển văn học hiện đại Trung Quốc, Cẩm Tú Tài, Lê Thị Hoàng Anh
dịch, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 915 trang. Sách gồm 4 chương, tập trung luận giải nhiều vấn đề quan
trọng của văn học hiện đại Trung Quốc từ “Thời kỳ ươm hạt”, “Ngũ Tứ nảy mầm” cho đến “Đa nguyên cộng sinh”,
“Thời kỳ biến động” và cả văn học đương đại Trung Quốc trong mắt các nhà Hán học nước ngoài.
S T U D I E S
* Trình Quang Vỹ (Chủ biên), Mạnh Phồn Hoa, Trần Hiếu Minh (2020), 60 năm văn học đương đại Trung
Quốc, Đỗ Văn Hiểu dịch, Nxb. Phụ nữ Hà Nội, 344 trang. Sach gôm ba phần, tập trung thảo luận các vấn đề:
“Thời đại đỏ: Thực tiễn văn học xã hội chủ nghĩa”, “Tháng năm nhiệt huyết: Sự thay đổi của văn học thời kỳ mới”,
“Nghìn cao nguyên: Carnival văn học thế kỷ mới”; “Ba mươi năm đầu của văn học đương đại”, “Ba mươi năm
sau của văn học đương đại”; “Xây dựng và loại bỏ: Mở đường văn học “Trung Quốc mới”, “Phục hồi và cải cách:
Văn học thời kỳ mới”, “Chuyển đổi và đa nguyên: Khuynh hướng văn học sau thời kỳ mới”.
Số 6 (592) - Tháng 6-2021
Số 6 (592)
Tháng 6-2021
TẠP CHÍ CỦA VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
LITERARY STUDIES
TH L G I BÀI T P CHÍ
c
1. T p chí Nghiên c
KHXH
,
c… c
chí là
t,
2.
4.000 - 12.000 ch ;
.K
3.
c,
c.
T p
.
A4,
ch
c
ph
.
c
(T
h t
c
p
.
,
t
-
t
c,
c
S
:
t
th t c
tt
4.
t
cl p t
5. Tài li u tham kh o t
t; x
t ABC. T
t x p th
(
.T
x
t h c
.S
th t
Tài li u tham kh o:
* V i bài
p chí :
,
ch
, Tên báo/ t p chí
, , t p,
.
và lu
,
*V i
,
ch
, Tên sách
,
tt
.
(Hà N
.
,
* V i bài
,
:
.
6.
h
c, h
,
.
*
: tapchincvh@gmail.com
p chí Nghiên c
c,
: (02
.
.
PGS.TS. Nguyễn Hữu Sơn
In tại Công ty TNHH dịch vụ Thương mại in Tuấn Nam
t
GIÁ: 48.000Đ
NGHIÊN CỨU
ISSN 0494-6928
VĂN HỌC
Số 6 (592)
LITERARY STUDIES
Tháng 6-2021
MỤC LỤC
Văn học hiện - đương đại Trung Quốc:
Những điểm nhìn đa chiều
Ngô Viết Hoàn
Nghiên cứu văn học đương đại Trung Quốc:
Mạch nguồn, xu thế chuyển động và thành tựu
Nguyễn Thị Diệu Linh
Khi “khoảnh khắc trở thành vĩnh viễn”: “đương đại”
và “lịch sử” trong văn học đương đại Trung Quốc
19
Nguyễn Hữu Sơn
Người đương thời Thơ mới Việt Nam (1932-1945)
bàn về tương quan thơ mới Việt - Trung
31
43
Lê Thời Tân
Lí Bạch và Đỗ Phủ của Quách Mạt Nhược Hoàn cảnh, động cơ trước tác và phản ứng
của giới học thuật về sách này
Nguyễn Thị Mai Chanh
Cảm thức hiện sinh trong tiểu thuyết
của Diêm Liên Khoa
53
Một cách tưởng tượng về Trung Quốc - các học giả
nước ngoài đã nhìn nhận tiểu thuyết và điện ảnh
Trung Quốc đương đại như thế nào
61
Vương Đức Uy
3
*
Michel Foucault
Khảo cổ tri thức: giữa cấu trúc diễn ngôn và
sự ngắt quãng lịch sử
73
Đỗ Thu Hiền
Khái niệm tiểu thuyết, truyện ký và văn xuôi tự sự
trung đại Việt Nam
86
Trần Hoài Anh
Tế Hanh trong di sản văn học miền Nam 1954-1975
97
Ngô Văn Giá
Phạm Vĩnh Cư với văn học Việt Nam
106
ĐỌC SÁCH
Lê Văn Tấn
Lược sử văn học Việt Nam
113
LITERARY STUDIES
No.6 (592)
June - 2021
TABLE OF CONTENTS
Modern and Contemporary Chinese Literature:
Multifaceted Approach
Ngô Viết Hoàn
A Review of Contemporary Chinese Literature:
Origins, Tendencies, and Achievements
When “a Moment Becomes Forever”:
“the Contemporary” and “the Historical” in
Contemporary Chinese Literature
19
Nguyễn Thị Diệu Linh
31
Nguyễn Hữu Sơn
Contemporaries of the New Poetry (1932-1945)
Discussing Relations between Vietnamese New Poetry
and Chinese New Poetry
Lê Thời Tân
Li Bai and Du Fu by Guo Moruo - Its Context and
Motivation and Reactions from Scholars
43
Nguyễn Thị Mai Chanh Existentialism in Yan Lianke’s Novels
Wang Dewei
A Way of Imagining China - How Foreign Scholars
Have Perceived Contemporary Chinese Literature
and Cinema
3
53
61
*
Michel Foucault
Archeology of knowledge: between discourse
structures and historical discontinuities
73
Đỗ Thu Hiền
Perception of the Medieval Vietnamese Novel,
Chronicle, and Narrative Prose
86
Trần Hoài Anh
Tế Hanh in the Heritage of Southern Vietnamese
Literature
97
Ngô Văn Giá
Phạm Vĩnh Cư with Vietnamese Literature
106
BOOK REVIEW
Lê Văn Tấn
A Concise History of Vietnamese Literature
113
NGHIÊN CỨU VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI TRUNG QUỐC:
MẠCH NGUỒN, XU THẾ CHUYỂN ĐỘNG VÀ THÀNH TỰU
NGÔ VIẾT HOÀN(*)
Tóm tắt: Điểm khởi đầu của văn học đương đại Trung Quốc được xác định từ năm 1949 khi nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập. Trải qua hơn nửa thế kỷ vận động và phát triển, cùng
với những thành tựu đạt được trên phương diện sáng tác, khoa nghiên cứu văn học đương đại tại Trung
Quốc cũng ghi nhận nhiều dấu mốc quan trọng, góp phần xác lập hệ hình nghiên cứu, đồng thời có
những cống hiến quan trọng thúc đẩy sự phát triển của văn đàn trong nước và quốc tế. Bài viết này tiến
hành khảo sát tình hình nghiên cứu văn học đương đại Trung Quốc trên ba phương diện: Mạch nguồn
hình thành và phát triển của văn học đương đại Trung Quốc, xu thế chuyển động của khoa nghiên cứu
văn học đương đại Trung Quốc từ 1978 đến nay và thành tựu chủ yếu của khoa nghiên cứu văn học
đương đại Trung Quốc, qua đó phác họa bức tranh toàn cảnh về nghiên cứu văn học đương đại Trung
Quốc trên chính quê hương của nó.
Từ khóa: văn học hiện đại, văn học đương đại, văn học Trung Quốc.
Abstract: Contemporary Chinese literature can be traced back to 1949, the year People’s Republic
of China was founded. However, both creative and scholarly writings in the following decades of the
millennium and after brought numerous new creative and scholarly writings. This article examines
the evolution of contemporary Chinese literature as well as discusses the achievements in the study of
contemporary Chinese literature from 1978 to present. This article aims to provide a comprehensive
view of the scholarly work on contemporary Chinese literature.
Keywords: modern literature, contemporary literature, Chinese Literature.
1. Mạch nguồn hình thành và phát
triển của văn học đương đại Trung Quốc1
Trong dòng chảy văn học Trung Quốc,
dựa theo phân kỳ lịch sử và mạch nguồn
phát triển nội tại của văn học, các nhà văn
học sử nước này chia văn học dân tộc ra
thành nhiều thời kỳ, tương ứng với các
ngành đào tạo cấp 2 thuộc chuyên ngành
Ngôn ngữ Văn học Trung Quốc. Trong
đó, thời kỳ lấy dấu mốc từ thời điểm nước
Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa được
thành lập (1949) cho đến nay được học
giới nước này xem là giai đoạn văn học
đương đại. Cách phân kỳ này nhằm phân
(* )
TS. - Viện Văn học.
Email: ngoviethoan@gmail.com.
biệt với giai đoạn văn học hiện đại vốn
được tính từ thời điểm nảy sinh phong trào
văn học Ngũ Tứ (1919) cho đến năm 1949.
Theo đó, tác giả, tác phẩm đương đại, hiện
tượng văn học đương đại, các nhóm phái
văn học, phong trào văn học, trào lưu văn
học và diễn trình phát triển của văn học,...
đều là cấu thành của bộ môn nghiên cứu
văn học đương đại. Từ hiện trạng phát
triển của văn học đương đại Trung Quốc,
các học giả nước này chia văn học đương
đại ra làm ba thời kỳ:
+ Thời kỳ kiến thiết của văn học
đương đại Trung Quốc (1949-1978), cũng
là giai đoạn 30 năm đầu hình thành và
tạo dựng nền tảng của văn học đương đại
Trung Quốc.
4
+ Thời kỳ đẩy mạnh phát triển của văn
học đương đại Trung Quốc (1979-2000),
cũng chính là giai đoạn Trung Quốc bước
vào thời kỳ đầu của công cuộc cải cách,
mở cửa.
+ Thời kỳ phát triển thành thục của
văn học đương đại Trung Quốc (2000
đến nay), cũng chính là giai đoạn bộ môn
nghiên cứu văn học đương đại Trung Quốc
phát triển mở rộng và đạt được những
thành tựu quan trọng, đặc biệt trên phương
diện định hình hệ thống, phạm trù nghiên
cứu văn học đương đại.
Trở lại với lịch sử đương đại Trung
Quốc, như chúng ta đã biết, mốc khởi đầu
của công cuộc cải cách và mở cửa ở Trung
Quốc được đánh dấu bởi Hội nghị toàn
quốc lần thứ ba của BCH Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc khóa XI diễn ra từ
ngày 18 đến ngày 22 tháng 12 năm 1978.
Đây là một bước ngoặt lớn có ý nghĩa sâu
sắc đối với sự phát triển kinh tế, xã hội
Trung Quốc trong suốt hơn 40 năm qua.
Hội nghị đặt ra và thực hiện các giải pháp
nhằm cải cách nền chính trị trong nước và
mở cửa với thế giới bên ngoài1. Tính đến
cuối năm 2018, cuộc cải cách, mở cửa này
đã đi qua chặng đường 40 năm và đem lại
những chuyển biến to lớn trên mọi phương
diện cho đất nước Trung Quốc. Văn học
hiện đại Trung Quốc với tư cách một phân
nhánh của khoa nghiên cứu văn học chỉ
thực sự trở thành một phân môn nghiên
NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 6-2021
cứu độc lập từ tháng 1 năm 1979. Vào thời
điểm đó, tại hội nghị thẩm định giáo trình
văn học hiện đại Trung Quốc do Bộ Giáo
dục nước này triệu tập, các đại biểu tham
dự đã khởi xướng và quyết định thành
lập Hiệp hội nghiên cứu văn học hiện đại
Trung Quốc. Hội nghị trù bị đã bầu Vương
Dao làm Chủ tịch Hiệp hội và sáng lập tạp
chí Tùng san Nghiên cứu văn học hiện đại
Trung Quốc làm cơ quan ngôn luận cho
Hiệp hội. Tùng san đã ra mắt số đầu tiên
vào tháng 10 năm 1979, do Nhà xuất bản
Bắc Kinh ấn hành với số lượng 30 ngàn
cuốn2. Từ diễn trình phát triển của tạp
chí này, có thể nhìn thấy mạch nguồn, xu
hướng và sự chuyển động của khoa nghiên
cứu văn học hiện - đương đại tại Trung
Quốc. Trong giai đoạn này, ngoài Tùng
san nói trên, cũng có nhiều tạp chí, chuyên
san khác chuyển sang ấn hành mỗi tháng
một kỳ như Khoa học xã hội Trung Quốc,
Mặt trận Khoa học xã hội, Nghiên cứu văn
nghệ, Tranh luận Văn nghệ,... Điều này
phần nào lột tả sự phát triển nhanh chóng
của khoa học xã hội, trong đó có khoa
nghiên cứu văn học tại Trung Quốc.
Sự phát triển của bộ môn nghiên cứu
văn học hiện - đương đại Trung Quốc còn
được biểu hiện cả trên phương diện đào
tạo. Văn học hiện - đương đại Trung Quốc
được xác định là ngành học cấp 2 thuộc
chuyên ngành Ngôn ngữ văn học Trung
Từ năm 1980, tạp chí này được ấn hành theo
quý. Từ năm 1985, tạp chí được ấn hành bởi Nhà
xuất bản Hội Nhà văn và vẫn được phát hành theo
quý. Năm 1989, tạp chí được phê duyệt chỉ số tạp
chí quốc gia, đến năm 2004, được phê duyệt chỉ số
tạp chí quốc tế. Từ năm 2005, tạp chí xuất bản hai
tháng một kỳ, đến năm 2011, tạp chí ấn hành mỗi
tháng một kỳ, đồng thời chính thức đưa các bài viết
về văn học đương đại vào phạm vi nghiên cứu của
tạp chí (NVH).
2
Các cải cách nội bộ được diễn ra từ tháng 11 năm
1978 và trước hết tại các khu vực nông thôn. Theo
đó, thôn Tiểu Cương, thành phố Phụng Dương,
tỉnh An Huy là một trong những địa phương đi đầu
trong việc thực hiện chế độ sản xuất theo nhóm gia
đình - “chia đất đến từng hộ, tự chịu trách nhiệm
về lợi nhuận hoặc thua lỗ trong quá trình sản xuất”.
Động thái này đã mở màn cho cuộc vận động cải
cách trong nước tại Trung Quốc (NVH).
1
Nghiên cứu văn học...
Quốc. Từ năm 1978, ngành học này bắt
đầu tuyển sinh đào tạo bậc cao học, và
đến năm 1981, bắt đầu tuyển sinh đào tạo
nghiên cứu sinh1. Tính đến năm 2017, toàn
Trung Quốc có 67 đơn vị đại học được
phép đào tạo Tiến sĩ ngành Ngôn ngữ Văn
học Trung Quốc, mỗi năm tuyển sinh và
đào tạo hàng trăm nghiên cứu sinh chuyên
ngành Văn học hiện - đương đại Trung
Quốc2 [6, tr.128-137].
Trên phương diện nghiên cứu, ở giai
đoạn kiến thiết ban đầu, tổng số đề tài thuộc
nhóm ngành “Văn học Trung Quốc” thuộc
Quỹ Khoa học xã hội Quốc gia là 34 đề tài,
trong đó số đề tài thuộc ngành “Văn học
hiện - đương đại Trung Quốc” chỉ có 12 đề
tài (năm 1994). Đến năm 2017, tổng số đề
1
Vương Phú Nhân được xem là Tiến sĩ chuyên
ngành Văn học hiện - đương đại duy nhất của khoá
đào tạo đầu tiên này (NVH).
2
Theo “Bảng thống kê danh mục đề tài Luận án
Tiến sĩ ngành Văn học hiện đại Trung Quốc giai
đoạn 1984-2012” của Hồng Lượng, giai đoạn
1984-2012, có tổng cộng 1763 luận án Tiến sĩ
ngành Văn học hiện đại Trung Quốc được thực
hiện tại nước này. Con số này không bao gồm các
luận án Tiến sĩ ngành Văn học đương đại Trung
Quốc. Theo đó, năm 2012, toàn Trung Quốc có 93
luận án Tiến sĩ ngành Văn học hiện đại Trung Quốc
(không bao gồm Văn học đương đại Trung Quốc).
Năm 2010, Hội đồng học vị Quốc vụ viện Trung
Quốc phê chuẩn cho phép 25 trường đại học trên
toàn quốc được tuyển sinh và đào tạo chuyên ngành
cấp 1 “Ngôn ngữ văn học Trung Quốc”. Trong số
25 trường này, có nhiều trường vốn dĩ không đào
tạo chuyên ngành cấp 2 “Văn học hiện - đương đại
Trung Quốc”. Do đó, quy mô tuyển sinh nghiên
cứu sinh thuộc chuyên ngành cấp 2 “Văn học hiện
- đương đại Trung Quốc” sẽ tiếp tục được mở rộng.
Tuy thế, tính đến năm 2012, số nghiên cứu sinh
mới trúng tuyển này vẫn chưa tốt nghiệp, chưa nằm
trong phạm khảo sát của Hồng Lượng. Như thế,
lượng nghiên cứu sinh bảo vệ luận án ngành Văn
học hiện đương đại Trung Quốc mỗi năm tại nước
này, từ 2012 trở lại đây, nhất định không dưới 100
người (NVH).
5
tài Khoa học xã hội Quốc gia thuộc nhóm
ngành “Văn học Trung Quốc” lên đến 418
đề tài, trong đó, số lượng đề tài thuộc ngành
“Văn học hiện - đương đại Trung Quốc” đạt
105 đề tài, tăng 9 lần so với năm 1994.
Trong suốt hơn 40 năm cải cách, mở
cửa, lượng bài báo khoa học, chuyên khảo
về văn học hiện - đương đại Trung Quốc
đã có sự phát triển vượt trội về quy mô.
Nếu như vào năm 1981, số lượng bài
nghiên cứu về văn học hiện - đương đại
Trung Quốc được công bố trên các tạp chí
chỉ vào khoảng 400 bài, và có khoảng 20
cuốn chuyên khảo về lĩnh vực này được
xuất bản [15, tr.240-257] thì chỉ riêng giai
đoạn 2015-2016, các bài viết về văn học
hiện - đương đại Trung Quốc đã công bố
trên các tạp chí lên tới 1282 bài, số lượng
chuyên khảo đã xuất bản lên tới 74 cuốn
[4, tr.129-148]. Trên phương diện nghiên
cứu trường hợp về tác gia, tác phẩm, nếu
như các bài viết về Lỗ Tấn được công
bố trên các tạp chí nước này giai đoạn
1949-1966 rơi vào khoảng 3206 bài và có
khoảng 162 cuốn chuyên khảo đã được
xuất bản thì chỉ trong vài năm từ sau cách
mạng văn hoá đến năm 1980, số lượng bài
nghiên cứu về Lỗ Tấn đã đạt 2243 bài và
có khoảng 134 chuyên khảo đã được xuất
bản. Trong những năm 1980, số lượng bài
nghiên cứu về Lỗ Tấn đạt 7866 bài và có
khoảng 373 chuyên khảo đã được xuất
bản. Số liệu tương ứng trong thập kỷ 90 là
4485 bài nghiên cứu và 220 cuốn chuyên
khảo. Trong 10 năm đầu của thế kỷ 21, số
liệu tương ứng là 7410 bài và 431 cuốn
chuyên khảo. Nếu tính gộp toàn bộ bài
nghiên cứu, chuyên khảo về Lỗ Tấn đã
được công bố và xuất bản trong giai đoạn
1977-2010, thì trong 33 năm này, học giới
Trung Quốc đã công bố 22.004 bài nghiên
cứu và 1158 cuốn chuyên khảo về Lỗ Tấn,
6
trung bình mỗi năm công bố 666 bài và 35
cuốn chuyên khảo1 [2]. Như thế, ước tính
trong hơn 40 năm mở, cải cách, học giới
Trung Quốc đã công bố khoảng 30.000
bài nghiên cứu và xuất bản khoảng 1450
chuyên khảo về Lỗ Tấn. Đây là một số
liệu thống kê nằm ngoài sức tưởng tượng
của nhiều người, cũng là những con số mà
không nhà văn Trung Quốc nào khác có
thể sánh được. Nó phản ánh địa vị quan
trọng, tầm vóc và sức ảnh hưởng lớn lao
của Lỗ Tấn đối với văn học hiện - đương
đại Trung Quốc. Từ những con số biết nói
ấy, chúng ta phần nào thấy được mạch
nguồn, sự chuyển động và thành quả mà
văn học hiện đương - đại Trung Quốc đã
đạt được trong suốt mấy thập kỷ qua.
Có thể nói, nghiên cứu văn học hiện
- đương đại Trung Quốc trong mấy thập
kỷ qua đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng. Những thành quả ấy được thể hiện
trên nhiều phương diện: Từ việc biên soạn,
chỉnh lý và xuất bản toàn tập, văn tuyển
của các nhà văn, như Lỗ Tấn toàn tập, Mao
Thuẫn toàn tập,... đến việc xuất bản các sử
liệu mới được phát hiện, tuyển soạn các tư
liệu nghiên cứu, nhật ký, hồi ức, hồi ký và
thư tín của các nhà văn,...; từ việc xuất bản
tự truyện, phẩm bình, biên niên ký của các
nhà văn cho đến việc nghiên cứu nhật ký,
thư pháp, bản thảo viết tay của họ,...; từ các
nghiên cứu truyền thống nhất về tác gia, tác
phẩm, các nghiên cứu về trào lưu, hệ phái,
hiện tượng văn chương, các thể loại văn
1
Các số liệu thống kê về các bài nghiên cứu
đã công bố, các chuyên khảo đã xuất bản về Lỗ
Tấn đều được tham khảo từ Lời mở đầu “Đuốc
lửa tương truyền: Trăm năm nghiên cứu Lỗ Tấn
ở Trung Quốc - Hồi cố và triển vọng” trong cuốn
Tuyển tập học giả nổi tiếng Trung Quốc nghiên cứu
về Lỗ Tấn do Nxb. Đại học Sư phạm Bắc Kinh và
Nxb. Đại học An Huy phát hành năm 2013 (NVH).
NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 6-2021
học, loại hình văn bản văn học, nghiên cứu
so sánh văn học Trung Quốc và nước ngoài
cho đến việc nghiên cứu các tạp chí văn học
mới xuất hiện, các hiện tượng xuất bản liên
quan đến văn học, truyền thông văn học,
chế độ văn học, giáo dục văn học, văn học
và giáo dục đại học,... từ nghiên cứu nội
tại văn học, đến các nghiên cứu bên ngoài
văn học, như mối quan hệ giữa văn học với
chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hoá, triết
học, tôn giáo, sinh thái; từ các nghiên cứu
văn học sử ban đầu, cho đến các nghiên cứu
sau này như lịch sử học thuật, lịch sử tiếp
nhận, lịch sử truyền bá,... nhìn chung đều
đạt được những thành tựu học thuật quan
trọng. Góc nhìn, lĩnh vực, phương pháp
nghiên cứu cũng không ngừng được mở
rộng và sáng tạo [16, tr. 303-321].
2. Xu thế chuyển động của khoa
nghiên cứu văn học đương đại Trung
Quốc từ 1978 đến nay
Nhìn lại chặng đường hơn 40 năm phát
triển của nghiên cứu văn học hiện - đương
đại Trung Quốc, dễ nhận thấy, tiến trình
này có thể phân thành hai giai đoạn, trước
và sau thời khắc chuyển giao từ thế kỷ XX
sang thế kỷ XXI. Theo đó, nghiên cứu văn
học hiện - đương đại ở Trung Quốc về cơ
bản đã hình thành các xu thế chuyển động
như sau:
Một là, trên phương diện chọn lựa đề
tài nghiên cứu: học giới Trung Quốc có xu
hướng chuyển dịch từ các nghiên cứu có tính
vi mô, cụ thể sang các vấn đề có tính vĩ mô,
phổ quát. Các học giả Trung Quốc trong giai
đoạn những năm 80 của thế kỷ XX thường
chọn lựa một nhà văn cụ thể nào đó làm
đối tượng nghiên cứu, hình thành cục diện
lấy nghiên cứu trường hợp làm trọng tâm
nghiên cứu, như các nghiên cứu về Lỗ Tấn,
Quách Mạt Nhược, Mao Thuẫn, Ba Kim,
Nghiên cứu văn học...
Lão Xá, Tào Dự,... Dạng thức nghiên cứu
này đã tạo dựng địa vị học thuật cho nhiều
học giả và khiến cho các nghiên cứu trường
hợp về các tác gia trở nên sâu sắc hơn. Việc
đào sâu giải mã các đối tượng cụ thể đòi
hỏi người nghiên cứu cần không ngừng mở
rộng góc nhìn, tầm nhìn nghiên cứu, từ một
nhà văn sang nghiên cứu so sánh hai, ba
nhà văn, như công trình của Dương Nghĩa So sánh loại hình văn hoá giữa Mao Thuẫn,
Ba Kim và Lão Xá [13, tr.78-86] hay nghiên
cứu một trào lưu, một nhóm tác giả, một
câu lạc bộ văn học, một hình thức thể loại
văn học hoặc một tư tưởng văn học. Như
thế xu hướng nghiên cứu của họ đã chuyển
dịch từ nghiên cứu trường hợp (vi mô) sang
nghiên cứu nhóm vấn đề. Từ những năm
90 của thế kỷ XX, cùng với việc thiết lập
Quỹ Khoa học xã hội Quốc gia, đặc biệt là
từ đầu thế kỷ XXI, khi lượng đề tài và kinh
phí tăng lên mỗi năm, khiến cho chủng loại,
quy mô và số lượng đề tài đều đạt đến mức
độ tương đối lý tưởng, khoa nghiên cứu văn
học tại Trung Quốc cũng vì thế dần hình
thành một cục diện nghiên cứu mới. Cùng
với đó, các trường đại học cũng xem việc
chủ nhiệm đề tài Khoa học xã hội Quốc gia
là một trong những tiêu chí quan trọng để
đánh giá mức độ hoàn thành công việc của
giảng viên, nhà nghiên cứu. Hệ quả của nó
là việc hình thành hiện tượng “hạng mục
hoá sự sống”1. Mặc cho Ôn Nho Mẫn và
Giáo sư Đại học Bắc Kinh Ôn Nho Mẫn cho rằng,
làm học thuật không phải là sản xuất. Có những
vấn đề nghiên cứu phải hao tâm khổ tứ cả nửa đời
mới giải quyết được. Nhưng đại đa số các đề tài,
hạng mục nghiên cứu đều giới hạn thời gian trong
2 đến 3 năm... Trong khi đó, đãi ngộ của giảng viên
và nhà nghiên cứu trong các trường đại học và cơ
quan nghiên cứu lại gắn liền với việc chủ nhiệm đề
tài. Đề tài nghiễm nhiên trở thành “chiếc gậy chỉ
huy” của nghiên cứu, như thể ai chủ nhiệm nhiều
đề tài thì người đó liền là học giả lớn, có cống hiến
1
7
nhiều học giả Trung Quốc khác đã cực lực
phản đối hiện tượng này, song trên thực tế,
tình hình này chẳng những không giảm đi
mà còn có xu hướng tăng lên. “Hạng mục
hoá sự sống” buộc các nhà nghiên cứu phải
chọn lựa các đề tài có tính chất vĩ mô, lớn
lao, nếu không sẽ khó lòng được phê duyệt.
Thế là một loạt các đề tài có phạm vi lớn,
có tính phổ quát kiểu như “... trong văn học
hiện đại Trung Quốc”, “... trong văn học
đương - đại Trung Quốc”, “... trong văn học
Trung Quốc thế kỷ XX”, “Biên niên sử...”,
“Kho dữ liệu về...”, “... (nhiều tập)”,... dần
trở nên hết sức quen thuộc. Những dạng đề
tài này, một mặt thể hiện được tầm quan
trọng và tính phổ quát của vấn đề nghiên
cứu, nhưng mặt khác cũng tồn tại nhiều vấn
đề nghiêm trọng như những lỗ hổng về mặt
kết cấu và logic của đề tài, tính phù phiếm,
không sát với thực tiễn của hệ thống luận
điểm hay việc thiếu hụt tính minh xác, cụ
thể về mặt nội dung,... Nhiều vấn đề được
đặt ra trong các dạng đề tài này thường
không được giải quyết triệt để, lơ lửng tầng
không. Lại có những đề tài, cấu trúc rất
rộng, nhưng nội dung bên trong thì lại hết
sức mỏng manh. Nghiên cứu cái gì?, cần
giải quyết vấn đề gì?,... đều có phần mơ
hồ, nhập nhằng; phạm vi nghiên cứu cũng
không được xác định rõ ràng. Ngoài các đề
tài cấp Bộ, cấp Nhà nước, một số tạp chí
uy tín cũng lấy việc công bố các bài nghiên
cứu về các vấn đề vĩ mô, phổ quát làm tôn
chỉ hoạt động. Ví như Khoa học xã hội
Trung Quốc nhiều năm trở lại đây dường
như chỉ công bố các “bài viết lớn” về các
lớn và làm học thuật chính là “làm đề tài”. Ông
đồng thời cũng chỉ ra rằng, vẻ ngoài phát triển
phồn thịnh được tạo ra bởi các hiện tượng học thuật
nêu trên không thể che giấu được việc có không ít
đề tài trong số đó thực sự chỉ là các “xào xáo học
thuật” (NVH).
8
vấn đề vĩ mô. Đây cũng chính là một trong
những nguyên do thúc đẩy sự phát triển của
nghiên cứu vĩ mô trong khoa học xã hội và
nhân văn ở Trung Quốc. Không giống các
học giả tiền bối thập niên 80 của thế kỷ XX
chỉ chọn một tác giả, thậm chí duy nhất một
tác giả làm đối tượng nghiên cứu trọn đời,
ngày nay, trong lĩnh vực nghiên cứu văn
học hiện - đương đại Trung Quốc, đa số các
học giả đều hướng điểm nhìn nghiên cứu
ra nhiều lĩnh vực; vấn đề nghiên cứu cũng
ngày càng rộng hơn, thậm chí, rất khó để
đoán định rằng, học giả nào đó nghiên cứu
cái gì, đối tượng nghiên cứu chính của họ
là gì?
Hai là, trên phương diện nội dung
nghiên cứu, học giới Trung Quốc có xu
hướng dịch chuyển nội dung nghiên cứu từ
“trung tâm” ra “ngoại diên”. Đối với giới
nghiên cứu văn học hiện đương đại Trung
Quốc, “trung tâm” chính là “bốn xà tám
trụ” - tác giả lớn, tác phẩm của nhà văn
lớn, hiện tượng, trào lưu, nhóm phái văn
học quan trọng và một số vấn đề trọng yếu
của văn học sử. Cùng với sự phát triển ổn
định và ngày một đi vào chiều sâu của bộ
môn nghiên cứu văn học hiện - đương đại
Trung Quốc, học giới nước này ngày càng
đạt được nhiều thành tựu trong việc nghiên
cứu tác gia, tác phẩm lớn và một số vấn đề
quan trọng khác. Các đề tài có tính sáng tạo
cũng vì thế ngày một cạn kiệt, muốn đào
sâu nghiên cứu thêm quả thực hết sức khó
khăn. Từ góc độ sáng tạo học thuật, trong
quá trình chọn lựa vấn đề nghiên cứu, học
giới nước này không có cách nào khác
buộc phải dịch chuyển điểm nhìn nghiên
cứu về phía ngoại diên. Nghiên cứu các
vấn đề ngoại diên do đó trở thành hướng
đi tất yếu trong tiến trình phát triển của bộ
môn này. Khảo sát Tùng san nghiên cứu
NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 6-2021
văn học hiện đại Trung Quốc trong những
năm gần đây, dễ nhận thấy, các bài nghiên
cứu có xu hướng đặt ra và giải quyết các
vấn đề có tính ngoại diên tương đối phổ
biến. Theo đó, từ tác giả, tác phẩm ngoại
diên cho đến báo, tạp chí ngoại diên, từ
góc độ nghiên cứu có tính ngoại diên, cho
đến những vấn đề khá mờ nhạt cũng trở
thành đối tượng được giới nghiên cứu quan
tâm khảo sát. Lý giải cho hiện tượng này,
Đinh Phàm và Triệu Phổ Quang nhận định
như sau: “Do việc nghiên cứu văn học hiện
đương đại quá mức “chen chúc”, một số
học giả bắt đầu có ý thức tìm kiếm những
lãnh địa mới, khai thác các hiện tượng mới.
Trong đó, một số tạp chí trước đây ít được
coi trọng thì nay đã bắt đầu thu hút sự chú
ý của các học giả, ví như: “Quan niệm
biên tập và những vấn đề khác của tạp chí
‘Cổ Kim’”, “Sự dịch chuyển giữa hứng
thú thẩm mỹ và sự lựa chọn lịch sử: Luận
quan niệm văn học trong ‘Thiên hạ’”,...
Còn phải nhắc đến một số hiện tượng văn
học bị lãng quên hoặc bị xem nhẹ, giờ đây
cũng được đánh giá lại. Ví như các nghiên
cứu về quảng cáo văn học hiện đại” [5,
tr.1-23]. Ngoài ra, cũng cần phải kể đến
một hiện tượng mới xuất hiện gần đây, đó
là việc nghiên cứu nhật ký, bản thảo viết
tay, thư pháp, câu đối,... của các nhà văn.
Đối với các nghiên cứu ngoại diên, các học
giả Trung Quốc cho rằng: “Cần có sự biện
chứng trong quá trình nhìn nhận, đánh giá.
Thứ nhất, các hiện tượng, dữ liệu lịch sử
thực sự có giá trị mới được phát hiện, quả
thực rất hữu ích đối với các nghiên cứu văn
học hiện đại. Nó khiến cho các nghiên cứu
ấy thêm phong phú và đa nguyên hoá. Thứ
hai, cần lưu ý rằng, các nghiên cứu ngoại
diên ngoài việc giúp cho nghiên cứu văn
học hiện đương đại có sự tích luỹ và mở
rộng về “lượng” thì vẫn chưa đạt được
Nghiên cứu văn học...
những đột phá về “chất”; vẫn chỉ dừng
lại ở sự mở rộng trên cùng một phương
diện và suy cho cùng chỉ đóng vai trò lấp
đầy những khoảng trống. Thứ ba, nếu nhà
nghiên cứu chỉ chìm đắm trong việc sưu
tầm các tư liệu vụn vặt thì sẽ là trở ngại
mới đối với việc hình thành tư tưởng có
tính cục diện lớn. Ví dụ, vài năm trước đây,
xu hướng nghiên cứu các tạp chí, các tờ
báo nhỏ trở nên hết sức phổ biến. Vấn đề
này, từ một góc độ nào đó mà nói, đã bộc lộ
sự thiên lệch của thể chế nghiên cứu hiện
thời. Việc khai thác vô hạn các mảnh vụn
của lịch sử văn học, chẳng hạn như các tờ
báo nhỏ và tạp chí định kỳ, có vẻ như rất
sáng tạo và là một phần bổ sung cho lịch sử
văn học. Tuy nhiên, nếu nhìn từ góc độ vĩ
mô của lịch sử văn học, những khai thác đó
rất có thể không hiệu quả, thậm chí vô giá
trị” [5, tr.1-23]. Những nhận định này đã
khái quát vấn đề mấu chốt của hiện tượng
nghiên cứu ngoại diên trong văn học hiện
- đương đại Trung Quốc. Các nghiên cứu
ngoại diên không những cần có sự sáng
tạo, mà quan trọng hơn là cần đạt được
một giá trị nào đó. Bản thân chủ đề và nội
dung của các nghiên cứu ngoại diên vốn
rất dễ khiến người ta nghi ngờ về giá trị
nghiên cứu của nó. Nếu không xét đến
giá trị và ý nghĩa thực sự của các nghiên
cứu này, người nghiên cứu rất dễ rơi vào
tình cảnh “vô công rồi nghề”. Tất nhiên,
xu hướng nghiên cứu dịch chuyển từ trung
tâm ra ngoại diên không chỉ là hiện tượng
của nghiên cứu văn học hiện - đương đại
Trung Quốc, nó đồng thời cũng là khuynh
hướng trong nghiên cứu văn học cổ đại
Trung Quốc và cả văn học nước ngoài.
Các nghiên cứu về Khuất Nguyên, Lý
Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Tứ đại danh
tác, Homer, Dante, Shakespeare, Goethe,
Balzac, Tolstoy, Dickens,... thường bị tạm
9
“gác lại”, rất ít thấy các thành quả nghiên
cứu mới. Nguyên nhân chủ yếu nằm ở chỗ
rất khó để tiếp tục phát hiện cái mới.
Ba là, về trọng tâm nghiên cứu, các học
giả Trung Quốc dần có xu hướng chuyển
dịch từ việc chú trọng quan điểm và phương
pháp sang việc chú trọng lý thuyết, dữ liệu
lịch sử. Trong thời kỳ đầu cải cách, mở cửa,
khi tư tưởng được giải phóng, học giới nước
này háo hức đưa ra những ý tưởng mới và
bày tỏ những kiến giải mới. Do đó, một loạt
các trào lưu đã lần lượt xuất hiện, như “xem
trọng phương pháp”, “xem trọng văn hoá”,
“xem trọng lịch sử tư tưởng”, “xem trọng
dữ liệu lịch sử”,... Vào giữa những năm
1980, khi bắt đầu cải cách và mở cửa, các
phương pháp nghiên cứu mới của phương
Tây trở nên phổ biến ở Trung Quốc, bao
gồm: từ hiện đại, hậu hiện đại đến hậu thuộc
địa; từ cách tiếp cận hệ thống đến nguyên lý
cấu trúc; từ chủ nghĩa hình thức đến chủ
nghĩa phê bình mới; từ phân tâm học đến
phê bình nữ quyền,... Không thể phủ nhận
rằng, việc tiếp nhận lý luận phê bình văn
học phương Tây hiện đại đã đem đến sức
sống mới, khởi sắc mới cho đời sống văn
học tại Trung Quốc đương thời. Đổi mới về
mặt phương pháp do đó trở thành biểu hiện
quan trọng của sáng tạo khoa học. Vì vậy
mà năm 1985 sau này còn được học giới
nước này gọi là “Năm của Phương pháp”.
Nhưng mọi sự đổi mới về mặt phương
pháp đều có giới hạn của nó. Khi phương
pháp ấy được vận dụng phổ biến thì nó
liền không còn tính mới nữa. Các học giả
Trung Quốc cho rằng, việc quá mức lạm
dụng các danh từ mới, thuật ngữ mới của
phương Tây mà không xét đến thực tế của
đối tượng nghiên cứu chẳng khác nào “ăn
sống nuốt tươi”. Ngay sau đó, việc sử dụng
các phương pháp mới bắt đầu có xu hướng
10
giảm đi trông thấy. Thay vào đó, nghiên cứu
văn hoá, nghiên cứu lịch sử tư tưởng trong
văn học dần thu hút sự quan tâm của học
giới nước này. Đổi mới, sáng tạo về mặt lý
luận, về chiều sâu tư tưởng và về tầm cao
triết học, do đó, đã trở thành mục tiêu mới
của giới nghiên cứu văn học ở Trung Quốc.
Sáng tạo, đổi mới về mặt quan niệm, đặt ra
các giả thuyết lý luận vĩ mô trở thành xu
thế của thời đại. Vậy xu hướng nghiên cứu
nhấn mạnh lý thuyết, quan niệm, tư tưởng
này đề cao lý thuyết, quan niệm, tư tưởng
của ai? Trên thực tế, chủ yếu vẫn là đề cao
học thuyết của các học giả phương Tây.
Các học giả Trung Quốc dần ý thức được
rằng, lý luận phê bình văn học phương Tây
một mặt khiến cho nghiên cứu văn học ở
Trung Quốc có được sự mở rộng, chiều sâu
và cao độ; nhưng mặt khác, nó đồng thời
cũng đem đến những bá quyền diễn ngôn
phương Tây mà biểu hiện sinh động nhất
chính là các hiện tượng diễn giải gượng ép
hay diễn giải quá đà trong quá trình vận
dụng chúng vào giải quyết các vấn đề của
văn học Trung Quốc. Hệ quả của nhận thức
này là một trào lưu bài trừ “Chủ nghĩa lấy
phương Tây làm trung tâm” nhằm thoát ra
khỏi hệ hình diễn ngôn phương Tây đã xuất
hiện tại Trung Quốc. Trong khi đó, nghiên
cứu lịch sử tư tưởng hay văn hoá trong văn
học rất có thể sẽ khiến cho các nghiên cứu
này có nguy cơ đi chệch khỏi hấp dẫn nội
tại của thẩm mỹ văn học, loại bỏ đi tính văn
học - cái vốn được xem là cốt lõi của các
nghiên cứu văn học. Trong hội thảo quốc
tế “Truyền thống văn học hiện đại Trung
Quốc”, Ôn Nho Mẫn từng đặt vấn đề: “Lịch
sử tư tưởng có thể thay thế cho lịch sử văn
học hay không?”, trong đó, ông nhấn mạnh:
“Các nghiên cứu văn học hiện đại ngày nay
dường như ngày càng có xu hướng xích lại
gần hơn với lịch sử tư tưởng”. “Trong một
NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 6-2021
số trường đại học, những người tham gia
thảo luận sôi nổi nhất về lịch sử tư tưởng,
lịch sử triết học, lịch sử văn hoá thường là
thầy và trò khoa Trung văn, chứ không phải
là thầy và trò của khoa Triết học hay khoa
Lịch sử. Cứ xem các luận án bảo vệ mỗi
năm thì sẽ thấy. Rất nhiều luận án đặt ra và
giải quyết các vấn về nhà văn, nhóm phái,
trào lưu văn học, đều một cách ý thức hoặc
vô thức đi theo hướng nghiên cứu lịch sử tư
tưởng. Có những luận án thậm chí bàn luận
rất ít về văn học, mà kể cả có bàn đến văn
học thì cũng chỉ xem chúng như những tư
liệu để khảo sát lịch sử tư tưởng”. “Vấn đề
này gần như đã trở thành một hiện tượng
của giới nghiên cứu văn học hiện - đương
đại Trung Quốc trong những năm gần đây.”
Vậy “lịch sử tư tưởng có thể thay thế cho
lịch sử văn học hay không?” Ôn Nho Mẫn
cho rằng đương nhiên không thể và đặc biệt
nhấn mạnh đến khuynh hướng thẩm mỹ
của văn học: “Việc biên soạn lịch sử văn
học hiện đại không nên chỉ bàn đến “tư
tưởng”, còn cần phải chú ý đến các yếu tố
“tình cảm”, “tâm lý”, và đương nhiên còn
phải chú trọng thẩm mỹ nghệ thuật. Kể cả
khi bàn đến lịch sử tư tưởng, cũng chủ yếu
thảo luận về các hình thức văn học được
dùng để biểu đạt “tư tưởng”. Điều này có
sự khác biệt lớn so với các phương diện
và phương thức mà lịch sử tư tưởng, lịch
sử triết học cũng như lịch sử văn hoá quan
tâm” [10, tr.423-427]. Trong một bài viết
khác, Ôn Như Mẫn cũng nhận định nghiên
cứu văn hoá và nghiên cứu lịch sử tư tưởng
một mặt mang đến những góc nhìn mới,
sức sống mới cho nghiên cứu văn học hiện
- đương đại Trung Quốc, song mặt khác, nó
cũng rất dễ tạo ra hiện tượng “nói suông”
trong nghiên cứu. Ông chỉ ra rằng: “Chúng
ta nhìn thấy không ít các luận án tiến hành
các nghiên cứu văn hoá trong văn học bị chỉ
Nghiên cứu văn học...
trích. Lỗi căn bản thường gặp đó là việc tuỳ
tiện trích dẫn và sử dụng các dẫn chứng văn
học để chứng minh các vấn đề lý luận vĩ mô
được đặt ra trước đó như “tính hiện đại”,
“chủ nghĩa tiêu dùng”, “toàn cầu hoá”, “hậu
thực dân”, “tưởng tượng về quốc gia, dân
tộc” [11, tr.23-27]. Xu hướng thích “khoe
mẽ” các lý thuyết vĩ mô này rốt cuộc chẳng
tồn tại được lâu. Cho nên trong những năm
gần đây, trào lưu xem trọng lý thuyết và tư
tưởng bắt đầu hạ nhiệt, sự coi trọng đối với
“dữ liệu lịch sử” đang trở nên nóng dần.
Đặc biệt, trong lĩnh vực nghiên cứu văn học
đương đại, việc nghiên cứu dữ liệu lịch sử,
biên soạn lịch sử truyền khẩu và niên biểu
của các nhà văn dành được nhiều sự chú
ý. Dữ liệu lịch sử ngày càng được học giới
Trung Quốc trọng thị, không ít nhà nghiên
cứu đã chuyển từ hướng nghiên cứu lý luận
trước đây sang hướng nghiên cứu thực
chứng dữ liệu lịch sử. Ngô Tú Minh, Trình
Quang Vĩ và nhiều học giả Trung Quốc nổi
tiếng khác đã nhiều lần lên tiếng kêu gọi
việc khai thác các dữ liệu lịch sử là hết sức
khẩn cấp, không thể chậm trễ [12]. Minh
chứng cho điều này, Ngô Tú Minh đã chủ
biên cuốn Tùng thư sử liệu văn học đương
đại Trung Quốc (Nxb Đại học Chiết Giang,
2017), còn Trình Quang Vĩ đã chủ nhiệm
2 đề tài thuộc Quỹ Khoa học xã hội Quốc
gia: “Trường thiên dữ liệu lịch sử văn học
đương đại” (Đề tài cơ bản, 2011), “Khảo
chứng gia thế Mạc Ngôn” (Đề tài trọng
điểm, 2016). Nhiều phiên bản “Biên niên
sử” tác gia, tác phẩm cũng đã được xuất
bản, trong đó, phiên bản do Kim Hồng Vũ
biên soạn đạt được nhiều thành tựu quan
trọng. Rất nhiều luận văn, luận án đều chú
trọng việc trích dẫn các dữ liệu lịch sử văn
học, thậm chí có nhiều bài viết, lượng dẫn
chứng được trích dẫn lên đến cả trăm lượt.
11
Nên nhìn nhận thế nào về “cơn sốt
dữ liệu lịch sử” này? Có người cho rằng:
“Giới học thuật Trung Quốc hiện nay rất
coi trọng dữ liệu lịch sử, nhưng không phải
từ ý thức tự giác về sử liệu, mà từ sự bất lực
và là sản phẩm của sự thiếu hụt về lý thuyết,
tư tưởng, quan niệm, phương pháp. Là giải
pháp ứng phó, là nơi trú ẩn trong cuộc trốn
chạy những thiếu hụt về mặt lý thuyết” [14,
tr.13-18]. Một số học giả khác cho rằng,
quan điểm này có phần cực đoan và có thể
đã xem nhẹ động cơ của việc coi trọng các
dữ liệu lịch sử. Họ đồng thời nhấn mạnh
rằng, sự xem trọng đối với dữ liệu lịch sử
vừa xuất phát từ ý thức tự giác và nhu cầu
đổi mới của giới nghiên cứu, cũng là cách
để giới nghiên cứu tiến hành các điều chỉnh
đối việc quá mức xem trọng lý thuyết, tư
tưởng, quan niệm và phương pháp trong
nghiên cứu văn học đương đại trước đây,
nhằm đạt được sự cân bằng mới giữa lý
thuyết và dữ liệu lịch sử” [15, tr.240-275].
Đây được các học giả Trung Quốc xem là
nhu cầu tất yếu cho sự phát triển của khoa
học chuyên ngành. Có thể nói, con đường
mà nghiên cứu văn học hiện - đương đại
Trung Quốc đã đi qua trong mấy thập kỷ
vừa qua chính là tiến trình chuyển dịch từ
xem trọng quan điểm, phương pháp sang
nhấn mạnh lý thuyết và dữ liệu lịch sử như
đã khái quát ở trên.
Bốn là, về lĩnh vực nghiên cứu, học giới
Trung Quốc đang có xu hướng dịch chuyển
dần từ hiện đại sang đương đại. Theo tuyến
tính thời gian, lẽ đương nhiên, văn học hiện
đại được hình thành trước, rồi mới có văn
học đương đại. Vào đầu thời Trung Hoa
Dân Quốc, khi bộ môn này mới thành lập,
lẽ tự nhiên là chỉ có văn học hiện đại, còn
văn học đương đại mới chỉ bắt đầu từ năm
1949. Khi ông Vương Diêu biên soạn cuốn
12
Lịch sử Tân văn học Trung Quốc, tất nhiên
cũng chỉ có văn học hiện đại. Vì vậy, lịch
sử nghiên cứu văn học hiện đại dài hơn so
với lịch sử nghiên cứu văn học đương đại.
Thêm vào đó, văn học hiện đại có sự xuất
hiện của nhiều nhà văn bậc thầy, giới nghiên
cứu cũng dành nhiều sự quan tâm, khảo sát
hơn, do đó, thành tựu nghiên cứu đạt được
cũng phong phú hơn. Vì vậy, trong 30 năm
đầu trước khi nước Trung Quốc mới được
thành lập, trọng tâm nghiên cứu chủ yếu
là văn học hiện đại. Truyền thống nghiên
cứu này tiếp tục kéo dài trong 20 năm đầu
của thời kỳ mới. Nhiều người cho rằng văn
học đương đại quá gần gũi với chúng ta,
chưa có sự kiểm chứng của thời gian, do đó,
không dễ để biên soạn văn học sử, thế nên
cũng chẳng thể xem nó là đối tượng nghiên
cứu mà chỉ là đối tượng phê bình, bình luận
hay đánh giá nhất thời mà thôi. Tuy thế,
cùng với việc “mỏ” văn học hiện đại bị khai
thác, đào bới đến gần như cạn kiệt, cũng
như sự nối dài liên tục, sự phong phú về
mặt tác phẩm của văn học đương đại, trọng
tâm nghiên cứu đã dần chuyển dịch từ hiện
đại sang đương đại. Sau cải cách, mở cửa
chừng 20 năm trở lại đây, biểu hiện của điều
này ngày một thêm rõ rệt. Từ góc nhìn của
ngày nay, nếu lấy điểm xuất phát từ năm
1890 theo quan điểm của nhóm Nghiêm
Gia Viêm, thì văn học hiện đại Trung Quốc
đã trải qua tiến trình phát triển gần 50 năm.
Nếu theo Đinh Phàm, lấy điểm xuất phát là
năm 1912, thì văn học hiện đại Trung Quốc
đã có lịch sử 37 năm phát triển. Còn văn học
đương đại Trung Quốc cho đến nay đã trải
qua 70 năm phát triển. Từ góc nhìn này, các
công trình nghiên cứu về văn học đương đại
Trung Quốc nhiều hơn so với văn học hiện
đại Trung Quốc cũng là điều dễ hiểu. Dựa
theo số liệu thống kê của Đinh Phàm và
Triệu Phổ Quang, giai đoạn từ tháng 1 năm
NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 6-2021
2014 đến tháng 7 năm 2015 và giai đoạn từ
tháng 8 năm 2015 đến tháng 7 năm 2016,
tổng lượng công trình nghiên cứu về văn
học hiện đại và văn học đương đại Trung
Quốc có tỉ lệ lần lượt là trên 40% và trên
60% [3, tr.129-148]. Xét một cách tổng
thể, có thể nói, các nghiên cứu về văn học
hiện đại đã tương đối thuần thục và chuẩn
mực, nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực này
nhìn chung được thực hiện tốt. Việc nghiên
cứu văn học đương đại Trung Quốc còn
tương đối hỗn loạn và không theo một trật
tự hay chuẩn mực nào, nhiều vấn đề còn
đang trong tình trạng “ngổn ngang”, nhiều
nghiên cứu cơ bản chưa được hoàn thiện.
Điều này để lại một không gian nghiên cứu
tương đối lớn cho giới học giả. Đó cũng là
lý do tại sao đại đa số các nhà nghiên cứu
trẻ tập trung nỗ lực nghiên cứu vào lĩnh vực
này. Tuy thế, điều này cũng lại làm nảy sinh
một vấn đề khác: nhóm nghiên cứu văn học
hiện đại đang dần già đi, sức nghiên cứu
ngày càng suy yếu, sự phát triển tiếp sau
của phân môn này vì thế cũng là điều đáng
lo ngại.
3. Thành tựu chủ yếu của khoa nghiên
cứu văn học đương đại Trung Quốc
3.1. Hoạt động phê bình văn học
đương đại Trung Quốc được triển khai
rộng khắp
Phê bình văn học trước nay luôn là một
bộ phận quan trọng của nghiên cứu văn
học. Là cầu nối giữa tác giả và bạn đọc,
nhà phê bình văn học không chỉ đơn thuần
chia sẻ với bạn đọc trải nghiệm đọc của bản
thân đối với các tác phẩm của nhà văn, mà
còn phản ánh tâm tư, nguyện vọng của bạn
đọc đến các tác giả. Do đó, nhà phê bình
không chỉ có con mắt trí tuệ để nhìn nhận,
đánh giá các giá trị, thành tựu hay chỉ ra
những yếu điểm còn tồn tại trong tác phẩm;
Nghiên cứu văn học...
mà còn là biểu hiện của quan điểm lý luận
văn học và chuẩn mực phê bình trong một
thời đại nhất định nào đó. Những phê bình
có tính chất vĩ mô còn phải đưa ra các nhận
định, đánh giá có tính lịch sử về các trào
lưu sáng tác, hiện tượng văn học, phong
trào văn học, nhóm phái văn học,... Do
đó, phê bình văn học không chỉ cung cấp
những tham chiếu quan trọng cho văn học
sử, mà còn cũng đưa ra những gợi mở thiết
thực cho sự phát triển của lý luận văn học.
Nhìn một cách tổng thể, ở mỗi thời kỳ
khác nhau, phê bình văn học sẽ có những
diện mạo tương ứng. Nhưng những thành
tựu mà phê bình văn học đương đại Trung
Quốc đã đạt được trong suốt hơn 70 năm
qua là rất đáng nể. Các tạp chí, tờ báo trong
lĩnh vực phê bình văn nghệ đã phát huy
tác dụng quan trọng trong việc thúc đẩy
sự phát triển của phê bình văn học đương
đại ở nước này. Các chuyên mục phê bình
văn nghệ của các báo: Nhân dân nhật báo,
Quang minh nhật báo, Văn hội báo, cũng
như các tạp chí uy tín như Bình luận văn
học, Nghiên cứu văn nghệ, Văn nghệ tranh
minh, Bình luận tác gia đương đại, Văn đàn
phương Nam, Văn đàn đương đại, Bình
luận tiểu thuyết, Lý luận và phê bình văn
nghệ, Bình luận sông Dương Tử, Báo Văn
nghệ, Báo Văn học,... đều có những ảnh
hưởng to lớn đối với đời sống của văn đàn
Trung Quốc đương đại và để lại nhiều thành
tựu quan trọng. Thông qua những diễn đàn
này, nhiều lớp nhà phê bình văn học Trung
Quốc đã dần khẳng định được tài năng và
địa vị học thuật của mình trong đời sống
nghiên cứu văn học nước nhà [1, tr.8-15].
Trong suốt 70 năm phát triển của văn
học đương đại Trung Quốc, văn đàn nước
này ghi nhận sự góp mặt của những nhà phê
bình đã thành danh trong thời kỳ Ngũ Tứ
13
và những năm 30, 40 của thế kỷ XX như:
Mao Thuẫn, Thành Phỏng Ngô, Phùng Lôi
Phong, Hồ Phong, Chu Dương, Lâm Mặc
Hàm, Trần Hoang Môi, Lý Hà Lâm, Hà
Kỳ Phương, Thái Nghĩa, Dĩ Quần, La Tôn,
Tần Triệu Dương, Hồ Thái,...; cũng có
những nhà phê bình phải từ sau những năm
50 trở đi mới có sức ảnh hưởng như: Trần
Sung, Chu Trại, Phùng Mục, Lý Hy Phàm,
Lam Linh, Diêm Cương, Nghiêm Gia
Viêm, Trần Đan Thần, Tạ Miện, Trương
Quýnh, Dương Khuông Hán, Liu Dịch
Thành, Cố Tương, Miêu Tuấn Kiệt, Thái
Khôi, Trương Nhẫn, Vương Ngu, Phàn
Phát Giá, Hàn Thuỵ Đình, Tư Thổn,...;
lại có một lớp nhà phê bình trưởng thành
từ những năm 80 về sau như: Lôi Đạt,
Tăng Trấn Nam, Phạm Vịnh Qua, Trần Tư
Hoà,...; thế hệ những nhà phê bình trưởng
thành trong thế kỷ mới cũng đang dần
bước lên vũ đài văn học và dần có sức ảnh
hưởng trong một số lĩnh vực. Tóm lại, các
nhà phê bình nêu trên đã xuất bản nhiều
công trình phê bình có giá trị về tác giả, tác
phẩm văn học Trung Quốc đương đại. Họ
đồng thời cũng công bố nhiều bài nghiên
cứu có giá trị học thuật, tạo được sức ảnh
hưởng lớn cả trong và ngoài văn đàn.
3.2. Việc tích luỹ, biên soạn, xuất bản
tư liệu văn học đương đại Trung Quốc đạt
được nhiều thành quả quan trọng
Hệ thống tư liệu mà văn học đương đại
Trung Quốc đề cập đến hoặc có liên quan
hết sức rộng lớn. Nó không chỉ bao gồm
các dữ kiện về đời sống nhà văn, quá trình
sáng tác, quá trình hình thành các nhóm
phái văn học, sự hình thành các trào lưu
văn học,... mà còn bao gồm cả các dữ kiện
về bối cảnh lịch sử, xã hội mà tác phẩm
ra đời, như dữ liệu về các sự kiện chính
trị, kinh tế, văn hoá quan trọng có sức ảnh
14
hưởng đối với đời sống văn học,... Ngoài
ra còn liên quan cả đến dữ liệu quốc gia
về văn học, hồi ức của các nhà văn, các
bài phỏng vấn của báo chí cũng như hoạt
động xuất bản, quảng cáo và phát hành tác
phẩm văn học,... Nó còn xuất hiện tản mát
trong tự truyện của các nhà văn, các bài
viết trên báo chí, thư tín, nhật ký và các bài
nói chuyện,... Đương nhiên, tư liệu quan
trọng nhất đối với nghiên cứu văn học vẫn
là các dữ kiện liên quan trực tiếp đến tác
phẩm của các nhà văn, như quá trình sáng
tác, thời điểm xuất bản, các phiên bản khác
nhau của tác phẩm, sức ảnh hưởng của tác
phẩm trong và ngoài nước,... Ngoài ra, còn
phải kể đến sự xuất hiện của các ấn phẩm
tuyển tập tác phẩm, như các tập về văn học
đương đại trong bộ Tuyển tập Tân Văn học,
phần văn học đương đại trong Tuyển tập
tân văn nghệ do Hoang Môi, Phùng Mục
chủ biên, Kho danh tác văn học 50 năm
Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa do
Nhà xuất bản Hội nhà văn tổ chức biên
soạn, Tuyển tập tản văn đương đại do Lâm
Phi chủ biên, Tuyển thơ mới Trung Quốc
do Tạ Miện, Dương Khuông Hán chủ biên,
Tổng tập thơ mới Trung Quốc do Tạ Miện
chủ biên, Tổng tập 100 năm văn học Trung
Quốc (11 cuốn) do Tạ Miện và Mạnh Phồn
Hoa biên soạn,... Những xuất bản phẩm
này không chỉ tạo được tiếng vang trong
giới nghiên cứu văn học, mà còn cung cấp
những cứ liệu quan trọng cho việc biên soạn
lịch sử văn học đương đại Trung Quốc.
Các tờ báo văn nghệ đương đại cũng có
những đóng góp quan trọng trong việc tích
luỹ, bổ sung các dữ liệu văn học, đặc biệt là
các báo bám sát và dõi theo trạng thái phát
triển mới của văn học như Báo Văn nghệ,
Báo Văn học, Văn học nhân dân, Thi san,
Đương đại, Tháng mười, Thu hoạch, Trung
Sơn, Hoa Thành,... [3, tr.129-148].
NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 6-2021
Tùng thư tư liệu nghiên cứu văn học
đương đại Trung Quốc do Viện Khoa học
xã hội Trung Quốc và các trường đại học
tài trợ, được hơn hai mươi nhà xuất bản ấn
hành được xem là một trong những đóng
góp quan trọng của học giới Trung Quốc
trong việc hình thành kho dữ liệu phục vụ
cho nghiên cứu văn học Trung Quốc đương
đại. Bộ tùng thư này được phân thành hai
nhóm chính: nghiên cứu tác giả và nghiên
cứu thể loại tác phẩm. Nhóm thứ nhất tập
trung khai thác và tập hợp các tư liệu về tự
truyện của các nhà văn lúc sinh thời, niên
biểu xuất bản tác phẩm và các bình luận
liên quan đến tác phẩm của họ. Cho đến
nay nhóm tư liệu này đã xuất bản 87 cuốn,
người được chọn đều là các nhà văn có ảnh
hưởng lớn trên văn đàn Trung Quốc. Nhóm
tư liệu thứ hai cũng đã xuất bản Chuyên
khảo nghiên cứu tiểu thuyết trường thiên,
Chuyên khảo nghiên cứu Thi ca. Bộ tùng
thư này ban đầu do nhóm Đường Kim Hải
(Đại học Phục Đán), Hà Bính Thái (Đại học
Hàng Châu), Bốc Trọng Khang (Đại học Tô
Châu),... đề xướng, nhận được sự ủng hộ
và tham gia của học giả đến từ 33 trường
đại học khắp Trung Quốc. Sau đó hạng
mục đăng ký và trở thành Đề tài nghiên cứu
thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc do
các giáo sư Sở nghiên cứu Văn học Trương
Quýnh, Tưởng Thủ, Hà Hoả Nhậm làm
thường trực Hội đồng biên soạn. Công tác
biên tập, xuất bản diễn ra trong hơn mười
năm. Sau này, đề tài này tiếp tục được
Vương Nghiêu, Ngô Nghĩa Cần quan tâm,
thực hiện và đã xuất bản thêm nhiều cuốn
mới. Ngoài bộ tùng thư có quy mô đồ sộ
nói trên, Tuyển sử liệu văn học đương đại
Trung Quốc do Tạ Miện, Hồng Tử Thành
chủ biên, phần sử liệu trong cuốn Tân văn
nghệ: Lý luận, sử liệu do Trương Quýnh
chủ biên cũng được xem là những tuyển tập
Nghiên cứu văn học...
tư liệu lịch sử có ý nghĩa đặc biệt đối với
sự phát triển của khoa nghiên cứu văn học
đương đại Trung Quốc.
Ngoài ra, Niên giám văn học Trung
Quốc do Sở nghiên cứu Văn học, Viện
Khoa học xã hội Trung Quốc biên soạn, Ký
sự văn học thường niên (1999-2018), Báo
cáo tình hình văn học thường niên (20132018) do Bạch Diệp chủ biên, Thông tin
và tư liệu nghiên cứu văn học đương đại
do Hiệp hội nghiên cứu văn học đương đại
Trung Quốc biên soạn và phát hành nội
bộ,... đều đã kiên trì thực hiện trong suốt
hơn 40 năm, qua đó, cung cấp những cứ
liệu, tư liệu quan trọng cho sự phát triển
của bộ môn nghiên cứu văn học đương
Trung Quốc trong mấy thập niên trở lại đây.
Thêm vào đó, các tuyển tập có tính chất
tổng kết một giai đoạn văn học như Dữ liệu
tranh luận văn học 1949-1999 do Trương
Học Chính (Đại học Nam Khai) chủ biên,
hay Bốn mươi năm gió mưa văn học: Thuật
bình tranh luận tác phẩm văn học đương
đại Trung Quốc do Ô Khả Huấn (Đại học
Vũ Hán) chủ biên,... cũng là những đóng
góp tích cực của học giới Trung Quốc trên
phương diện tích luỹ, khai thác và xuất bản
các nguồn tư liệu văn học [1, tr.435-436].
3.3. Nhiều chuyên khảo có giá trị về
tác gia, tác phẩm văn học đương đại Trung
Quốc được xuất bản
Các nghiên cứu chuyên sâu về tác gia,
tác phẩm đương đại có ý nghĩa quan trọng
đối với việc hình thành và phát triển của
bộ môn nghiên cứu văn học đương đại,
không chỉ trên phương diện xác định và
hình thành các nghiên cứu hàn lâm về tác
giả, tác phẩm kinh điển của văn học đương
đại, mà còn là tiền đề quan trọng trong
việc xây dựng và biên soạn lịch sử văn
học đương đại. Trong tiến trình phát triển
15
hơn 70 năm của văn học đương đại Trung
Quốc, bằng sự nỗ lực của giới nghiên cứu
văn học nước này, nhiều chuyên khảo về
tác giả, tác phẩm đương đại Trung Quốc
đã lần lượt được xuất bản, trong đó phải
kể đến: Hiểu Tuyết với Bài ca du mục của
cuộc sống: Luận sáng tác của Ngải Thanh,
Diệp Tử Minh với Con đường sáng tác của
Mao Thuẫn, Đổng Kiện với Sáng tác của
Điền Hán, Trần Đan Thần với Sáng tác
của Ba Kim, Chu Lương Bố với Sáng tác
của Đinh Linh, Tăng Trấn Nam với Luận
Vương Mông, Ô Khả Huấn với Luận về
sáng tác của Vương Mông, Dương Khuông
Hán, Dương Khuông Mãn với Chiến sĩ và
thi nhân Quách Tiểu Xuyên, Luận về sáng
tác của Ngải Thanh, Đới Quang Trung với
Sáng tác của Triệu Thụ Lý, Nghiêm Gia
Viêm với Bản Cảo luận về tiểu thuyết Kim
Dung, Trương Quýnh, Vương Thục Ương
với Luận sáng tác của Đinh Linh, Dịch Bân
với Niên phổ Mục Đán, Trần Vi Nhân với
Lá bài bị ghép nhầm: Đọc lại Triệu Thụ Lý,
Triệu Dũng với Hồn ma của Triệu Thụ Lý:
giữa tính công cộng, tính văn học và tính
địa phương, Lưu Khả Phong với Sáng tác
của Liễu Thanh, Hình Tiểu Lợi với Niên
phổ Liễu Thanh, Niên phổ Trần Trung
Thực, Sáng tác của Trần Trung Thực, Lý
Kiến Quân với Điệp biến của Trần Trung
Thực, Hậu Phu với Sáng tác của Lộ Giao,
Hàng Vũ với Thời gian của Lộ Giao,
Vương Cương với Niên phổ Lộ Giao,
La Ngân Thắng với Sáng tác của Dương
Giáng, Triệu Trạch Hoa với Sáng tác của
Sử Thiết Sinh, Phòng Vĩ với Sáng tác của
Vương Tiểu Ba, Trịnh Ân Ba với Sáng tác
của Lưu Thiệu Đường, Phó Quốc Sung với
Sáng tác của Kim Dung, Trương Quốc Hoa
với Sáng tác của Uông Tăng Kỳ,... tổng
cộng có hơn một trăm cuốn [17, tr.9].
16
Ngoài các chuyên khảo về tác giả, tác
phẩm, còn có các chuyên khảo, chuyên
luận về các trào lưu văn học, hiện tượng
văn học, khu vực văn học, ví như về phái
“Trà Tử Hoa” do Chu Lập Ba là đại diện,
về phái “Sơn Dược Đản” do Triệu Thụ
Lý là đại diện, hay về phái “Bạch Dương
Điện” do Tôn Lê làm đại diện,... Ngoài ra,
Tùng văn học giả gốc Mân (gần 30 cuốn)
do Trương Quýnh và Ngô Tử Lâm chủ biên
cũng được xem là một trong những thành
tựu quan trọng về việc khảo cứu tác giả, tác
phẩm của các nhà văn gốc Phúc Kiến.
Thêm vào đó, còn phải kể đến việc
một lượng lớn tuyển tập tác phẩm của
các nhà văn đương đại được tuyển chọn
và xuất bản, như: Quách Mạt Nhược toàn
tập, Mao Thuẫn toàn tập, Ba Kim toàn tập,
Lão Xá toàn tập, Tào Dự toàn tập, Ngải
Thanh toàn tập, Đinh Linh toàn tập, Hà Kỳ
Phương toàn tập, Quách Tiểu Xuyên toàn
tập, Uông Tăng Kỳ toàn tập, Lộ Giao toàn
tập, Sử Thiết Sinh toàn tập, Vương Tiểu
Ba toàn tập, Dương Giáng toàn tập, Kim
Dung toàn tập,... hay văn tuyển của các
tác giả Liễu Thanh, Hạ Kính Chi, Vương
Mông, Tông Phác, Tưởng Tử Long, Thiết
Ngưng, Vương An Ức, Giả Bình Ao, Hàn
Thiếu Công,... Tuyển tập, văn tuyển tác
phẩm của các nhà văn được tuyển chọn
và xuất bản không chỉ có ý nghĩa trong
việc định hình diện mạo văn học đương
đại Trung Quốc mà còn cung cấp cứ liệu
tin cậy về văn bản văn học trong quá trình
khảo sát, nghiên cứu các nhà văn nói trên.
3.4. Hiện trạng và thành quả của
việc biên soạn lịch sử văn học đương đại
Trung Quốc
Khảo sát lịch sử hơn 70 năm hình
thành, phát triển của văn học đương đại
Trung Quốc, học giới nước này cho rằng,
NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 6-2021
công tác biên soạn lịch sử văn học đương
đại Trung Quốc có thể chia thành mấy đợt
chính như sau: Đợt thứ nhất diễn ra vào
cuối những năm 50, đầu những năm 60 của
thế kỷ XX. Cuốn lịch sử văn học đương đại
Trung Quốc xuất hiện sớm nhất vào năm
1959, đúng dịp kỷ niệm 10 năm thành lập
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Theo
yêu cầu tổng kết thành tựu 10 năm từ khi lập
nước, Sở nghiên cứu Văn học, Viện Khoa
học xã hội Trung Quốc đã biên soạn và xuất
bản cuốn 10 năm văn học Nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa. Ngay sau đó, Khoa
Trung văn, Đại học Sư phạm Hoa Trung
cũng đã biên soạn, xuất bản cuốn Sử cảo
văn học Nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa. Cuốn đầu do Mao Tinh, Trần Bá Xuy,
Vương Liêu Huỳnh, Chu Trại, Vương Thục
Minh, Giả Chi, Đặng Thiệu Cơ, Phàn Tuấn,
Đổng Hành Kỷ, Trác Như, Trần Thượng
Triết, Trương Quốc Dân,... phân công biên
soạn, bao gồm 6 chương tương ứng với các
phần: Mở đầu, Tiểu thuyết, Thi ca, Kịch và
Ca kịch mới, Tản văn, Văn học Thiếu nhi,...
Ngoài ra, còn có thêm phụ lục “Các sự kiện
quan trọng của văn học nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa mười năm trở lại đây”. Toàn
bộ cuốn sách dài 13 vạn chữ, giới thiệu khái
quát về tác giả, tác phẩm quan trọng - bao
gồm cả tác giả dân tộc thiểu số - của văn
học đương đại Trung Quốc trong giai đoạn
mười năm phát triển đầu tiên.
Sử cảo văn học Nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa do Khoa Trung văn, Đại
học Sư phạm Hoa Trung tổ chức thực hiện
và xuất bản vào năm 1962. Tuy là cuốn
sách đầu tiên về văn học đương đại Trung
Quốc lấy tiêu đề là “Sử cảo” song trên
thực tế, sách này chỉ là tuyển tập các nhà
văn, tác phẩm đương đại quan trọng, thiếu
hụt những khái quát mang tính lịch sử và
Nghiên cứu văn học...
quy luật vận động nội tại của văn học.
Trong đợt biên soạn lịch sử văn học đương
đại Trung Quốc lần thứ hai, diễn ra vào
cuối những năm 70, đầu những năm 80,
nhóm biên soạn cuốn sách này vẫn kiên
trì quan điểm biên soạn và cho ra mắt bộ
Văn học đương đại Trung Quốc (3 tập).
Sau đó, được sự uỷ thác của Bộ Giáo dục
Trung Quốc, nhóm này lại biên soạn bộ
giáo trình Văn học đương đại Trung Quốc
(2 tập, Vương Khánh Sinh chủ biên). Nếu
như trong cuốn “Sử cảo” đầu tiên, nhóm
biên soạn chỉ chọn lọc một số tác giả, tác
phẩm quan trọng trong giai đoạn 10 năm
đầu của văn học đương đại Trung Quốc,
thì với bộ Văn học đương đại Trung Quốc
xuất bản năm 1983, nhóm đã quy tụ được
16 chuyên gia tham gia biên soạn, phạm vi
khảo sát của cuốn sách cũng được nới rộng
ra hơn 30 năm với nhiều vấn đề cốt lõi của
văn học đương đại Trung Quốc. Bộ sách vì
thế thực sự đạt đến quy mô và cấu trúc cần
có của một bộ văn học sử.
Trong đợt biên soạn lịch sử văn học
đương đại Trung Quốc lần thứ hai này, đặc
biệt cần phải nhắc đến cuốn Khái quát văn
học đương đại (1979) do các học giả Khoa
Trung văn, Đại học Bắc Kinh Trương
Chung, Xa Thục Thâm, Hồng Tử Thành
biên soạn1. Cũng trong giai đoạn này, Giáo
sư Đại học Sư phạm Bắc Kinh Trần Trí
Cương kết hợp với giáo sư của 11 trường
đại học khác biên soạn, xuất bản cuốn Sử
cảo văn học đương đại Trung Quốc. Giáo
sư Đại học Phục Đán Lục Sỹ Thanh kết
hợp với giáo sư của 22 trường đại học
khác biên soạn, xuất bản cuốn Lịch sử văn
học đương đại Trung Quốc (3 tập, 1980).
Cuốn sách sau đó được chỉnh lý và tái bản với tên
gọi mới Khái quát văn học Trung Quốc đương đại
(1986) (NVH).
1
17
Từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX trở lại
đây, có thể chỉ ra vài bộ lịch sử văn học
đương đại Trung Quốc có sức ảnh hưởng
lớn trên văn đàn nước này sau đây: Lịch sử
văn học đương đại Trung Quốc (1999) của
Hồng Tử Thành, Giáo trình lịch sử văn học
đương đại Trung Quốc (1999) của Trần Tư
Hoà, Thông sử văn học Trung Hoa (10 tập,
1997) do Trương Quýnh chủ biên (tái bản
năm 2011, tăng thêm 2 tập, tổng 12 tập),...
Từ thập niên 80 trở lại đây, học giới
Trung Quốc còn dựa theo thể loại, khu
vực, dân tộc,... biên soạn nhiều bộ văn
học sử, điển hình như: Lịch sử thơ mới
đương đại Trung Quốc do Hồng Tử Thành
và Lưu Đăng Hàn biên soạn, Lịch sử tiểu
thuyết đương đại Trung Quốc do Kim
Hán, Uông Danh Phàm biên soạn, Lịch
sử tiểu thuyết Đài Loan do Cổ Kế Đường
biên soạn, Lịch sử Văn học Đài Loan và
Lịch sử Văn học Hồng Kông do Lưu Đăng
Hàn biên soạn. Ngoài ra, còn có Lịch sử
Văn học Giang Tây (Ngô Hải chủ biên),
Thông sử Văn học Hắc Long Giang (Sở
nghiên cứu Văn học Viện Khoa học Xã
hội Hắc Long Giang biên soạn), Lịch sử
Văn học Thượng Hải (Trần Bác Hải), Sử
cảo văn học dân tộc ít người đương đại
Trung Quốc (Lý Hồng Nhiên chủ biên),
Khái quát văn học dân tộc ít người đương
đại (Ngô Trùng Dương), Tổng sử văn học
đương đại Trung Quốc (Triệu Tuấn Hiền),
Lịch sử trào lưu văn học đương đại Trung
Quốc (Lý Dương), Lịch sử văn học đương
đại dân tộc Mông Cổ (Sayin Bayar chủ
biên), Cương luận văn học mạng, Bản
thể luận văn học mạng (Âu Dương Hữu
Quyền). Đặc biệt, năm 1996, Đại từ điển
văn học đương đại Trung Quốc do Vương
Khánh Sinh chủ biên đã chính thức ra mắt
độc giả, thúc đẩy bộ môn nghiên cứu văn
18
NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 6-2021
học đương đại Trung Quốc phát triển thêm
một bước nữa [17, tr.10-14].
4. Kết luận
Trải qua 70 năm hình thành và phát
triển, văn học đương đại Trung Quốc đạt
được nhiều thành tựu to lớn và có những
đóng góp quan trọng cho sự phát triển của
văn học đương đại thế giới. Thông qua việc
xác định rõ mạch nguồn phát triển của văn
học đương đại Trung Quốc, bài viết đã khái
lược cách phân kỳ văn học hiện đại, văn
học đương đại của học giới Trung Quốc;
chỉ ra xu thế dịch chuyển và vận động của
khoa nghiên cứu văn học đương đại Trung
Quốc trên các phương diện: chọn lựa đề tài
nghiên cứu, nội dung nghiên cứu, trọng tâm
nghiên cứu và lĩnh vực nghiên cứu. Khảo
sát hoạt động sáng tác, phê bình văn học,
khảo cứu văn học và các hoạt động công
bố, xuất bản liên quan, bài viết khái lược
thành tựu mà văn học đương đại Trung
Quốc đã đạt được trong hơn nửa thế kỷ
qua trên một số phương diện cụ thể. Qua
đó, bài viết khái quát tầm vóc và sức sống
nội tại mãnh liệt của khoa nghiên cứu này
tại Trung Quốc. Từ bức tranh toàn cảnh về
văn học đương đại Trung Quốc được phác
hoạ ở trên, dễ nhận thấy, các nghiên cứu về
văn học Trung Quốc hiện - đương đại tại
Việt Nam dường như chỉ dừng lại ở việc
khảo cứu một số tác giả, tác phẩm cụ thể.
Các nghiên cứu về trào lưu, thể loại, nhóm
phái văn học hiện - đương đại Trung Quốc
hay nghiên cứu so sánh văn học đương đại
Việt - Trung còn để lại nhiều khoảng trống.
Tài liệu tham khảo
[1] 陈思和 (2008),《中国当代文学史教程》,
复旦大学出版社。
[2] 丛书编委会 (2013),《中国鲁迅研究名家
精选集》(10卷),安徽大学出版社。
[3]
丁帆、赵普光(2017),《中国现代(
百年)文学研究现状的统计与简析(2015.82016.7)》,《中国现代文学研究丛刊》,第
1期。
[4]
丁帆、赵普光(2017),《中国现代
(百年)文学研究现状的统计与简析 (2015.82016.7)》,《中国现代文学研究丛刊》,第
1期。
[5] 丁帆、赵普光 (2015),《中国现代(百年)
文学研究的统计与简析(2014.1-2015.7)》,
《中国现代文学研究丛刊》,第12期。
[6] 洪亮 (2013),《1984-2012 年中国现代文
学博士论文题名一览表》,《中国现代文学
研究丛刊》,第7期。
[7] 王嘉良、范越人整理 (2002),《“中国现
代文学研究学术生长点 研讨会”综述》,
《文学评论》,第1期。
[8] 汪政、晓华,《三足鼎立的小说天下》,
《上海文学》,第4期。
[9] 王国平:《“有力量的文字像钉子”— 文
学界把脉网络文学发展现状与未来走向》,
《光明日报》2018年5月23日,第9版。
[10] 温儒敏 (2002),《文学课堂:温儒敏文学
史论集》,吉林人民出版社。
[11]
温儒敏(2004),《现当代文学研究中
的“空洞化”现象》,《文艺研究》,第3
期。
[12] 吴秀明 (2016),《中国当代文学史料问
题研究》,中国社会科学出版社; 程光炜:
《当代作家年谱 的编撰拖延不得》,《光
明日报》2017 年9月4日,第11 版。
[13] 杨义 (1987),《茅盾、巴金、老舍的文化
类型比较》,《文艺研究》,第4期。
[14] 周保欣 (2017),《重建史料与理论研究
的新平衡》,《学术月刊》,第10期。
[15] 张建勇、刘福春、辛宇 (1982):《1981年
中国现代文学研究述评》,《中国现代文学
研究丛刊》,第2期。
[16] 张建勇、辛宇 (1981),《1980年中国现
代文学研究述评》,《中国现代文学研究丛
刊》,第3期。
[17] 张炯、杨匡汉、李建军、李洁非 (2019),
《中国当代文学学科的形成、发展及其历史
性成就》,《人文》,第二卷,第2期。