Academia.eduAcademia.edu
VIỆN VĂN HỌC NGHIÊN CỨU NGHIÊN CỨU VĂN HỌC L I T E R A R Y VĂN HỌC S T U D I E S TIN SÁCH * Nguyễn Thị Mai Chanh, Trần Thị Thu Hương (2019), Đổi mới văn học Trung Quốc giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 322 trang. Khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề đổi mới văn học Trung Quốc cuối thế ky XIX - đầu thế ky XX; đề cập đến những vấn đề, hiện tượng lí luận và thực tiễn nổi bật, đặc thù tạo tiền đề cho công cuộc đổi mới văn học; trình bày đổi mới thơ ca, tiểu thuyết và đổi mới kịch; so sánh quá trình đổi mới của văn học Trung Quốc và văn học Việt Nam cuối thế ky XIX - đầu thế ky XX. L I T E R A R Y * Trần Tư Hoa (2019), Ba Kim: Niềm tin và phản tỉnh, Hoàng Đông Siêu, Tô Phương Cường dịch, Nxb. Đà Nẵng, 129 trang. Giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của Ba Kim - một nhà văn lớn của Trung Quốc, cùng các lý tưởng cách mạng có ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội thời bấy giờ được thể hiện qua các tác phẩm của ông. * Tạ Thị Thuỷ (Chủ biên), Nguyễn Thị Thanh Nga (2020), Bàn về góc nhìn liên văn hoa qua tiểu thuyết Mạc Ngôn (Sách chuyên khảo), Nxb. Thanh Hoa, 159 trang. Tổng quan tình hình nghiên cứu về Mạc Ngôn và Mạc ngôn từ góc nhìn văn hoá; phân tích sự gắn kết giữa văn hoá truyền thống và văn hoá hiện đại, phương Đông và phương Tây, dân gian và bác học trong tiểu thuyết Mạc Ngôn của thời đại xã hội; những biểu tượng tiêu biểu cho tính liên văn hoa trong hệ thống tiểu thuyết Mạc Ngôn; phân tích hệ thống nhân vật dưới góc độ liên văn hoa trong tiểu thuyết Mạc Ngôn. * Châu Tính (2019), Lỗ Tấn: Phê phán quốc dân tính, Hoàng Đông Siêu, Tô Phương Cường dịch, Nxb. Đà Nẵng, 160 trang. Cung cấp thông tin về cuộc đời cũng như con đường nghệ thuật của nhà văn Lỗ Tấn, đồng thời giúp người đọc khám phá con đường tuổi trẻ tìm kiếm lý tưởng của ông. ISSN 0494-6928 NGHIÊN CỨU VĂN HỌC * Ngô Phúc Huy (2020), Lịch sử phát triển văn học hiện đại Trung Quốc, Cẩm Tú Tài, Lê Thị Hoàng Anh dịch, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 915 trang. Sách gồm 4 chương, tập trung luận giải nhiều vấn đề quan trọng của văn học hiện đại Trung Quốc từ “Thời kỳ ươm hạt”, “Ngũ Tứ nảy mầm” cho đến “Đa nguyên cộng sinh”, “Thời kỳ biến động” và cả văn học đương đại Trung Quốc trong mắt các nhà Hán học nước ngoài. S T U D I E S * Trình Quang Vỹ (Chủ biên), Mạnh Phồn Hoa, Trần Hiếu Minh (2020), 60 năm văn học đương đại Trung Quốc, Đỗ Văn Hiểu dịch, Nxb. Phụ nữ Hà Nội, 344 trang. Sach gôm ba phần, tập trung thảo luận các vấn đề: “Thời đại đỏ: Thực tiễn văn học xã hội chủ nghĩa”, “Tháng năm nhiệt huyết: Sự thay đổi của văn học thời kỳ mới”, “Nghìn cao nguyên: Carnival văn học thế kỷ mới”; “Ba mươi năm đầu của văn học đương đại”, “Ba mươi năm sau của văn học đương đại”; “Xây dựng và loại bỏ: Mở đường văn học “Trung Quốc mới”, “Phục hồi và cải cách: Văn học thời kỳ mới”, “Chuyển đổi và đa nguyên: Khuynh hướng văn học sau thời kỳ mới”. Số 6 (592) - Tháng 6-2021 Số 6 (592) Tháng 6-2021 TẠP CHÍ CỦA VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM LITERARY STUDIES TH L G I BÀI T P CHÍ c 1. T p chí Nghiên c KHXH , c… c chí là t, 2. 4.000 - 12.000 ch ; .K 3. c, c. T p . A4, ch c ph . c (T h t c p . , t - t c, c S : t th t c tt 4. t cl p t 5. Tài li u tham kh o t t; x t ABC. T t x p th ( .T x t h c .S th t Tài li u tham kh o: * V i bài p chí : , ch , Tên báo/ t p chí , , t p, . và lu , *V i , ch , Tên sách , tt . (Hà N . , * V i bài , : . 6. h c, h , . * : tapchincvh@gmail.com p chí Nghiên c c, : (02 . . PGS.TS. Nguyễn Hữu Sơn In tại Công ty TNHH dịch vụ Thương mại in Tuấn Nam t GIÁ: 48.000Đ NGHIÊN CỨU ISSN 0494-6928 VĂN HỌC Số 6 (592) LITERARY STUDIES Tháng 6-2021 MỤC LỤC Văn học hiện - đương đại Trung Quốc: Những điểm nhìn đa chiều Ngô Viết Hoàn Nghiên cứu văn học đương đại Trung Quốc: Mạch nguồn, xu thế chuyển động và thành tựu Nguyễn Thị Diệu Linh Khi “khoảnh khắc trở thành vĩnh viễn”: “đương đại” và “lịch sử” trong văn học đương đại Trung Quốc 19 Nguyễn Hữu Sơn Người đương thời Thơ mới Việt Nam (1932-1945) bàn về tương quan thơ mới Việt - Trung 31 43 Lê Thời Tân Lí Bạch và Đỗ Phủ của Quách Mạt Nhược Hoàn cảnh, động cơ trước tác và phản ứng của giới học thuật về sách này Nguyễn Thị Mai Chanh Cảm thức hiện sinh trong tiểu thuyết của Diêm Liên Khoa 53 Một cách tưởng tượng về Trung Quốc - các học giả nước ngoài đã nhìn nhận tiểu thuyết và điện ảnh Trung Quốc đương đại như thế nào 61 Vương Đức Uy 3 * Michel Foucault Khảo cổ tri thức: giữa cấu trúc diễn ngôn và sự ngắt quãng lịch sử 73 Đỗ Thu Hiền Khái niệm tiểu thuyết, truyện ký và văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam 86 Trần Hoài Anh Tế Hanh trong di sản văn học miền Nam 1954-1975 97 Ngô Văn Giá Phạm Vĩnh Cư với văn học Việt Nam 106 ĐỌC SÁCH Lê Văn Tấn Lược sử văn học Việt Nam 113 LITERARY STUDIES No.6 (592) June - 2021 TABLE OF CONTENTS Modern and Contemporary Chinese Literature: Multifaceted Approach Ngô Viết Hoàn A Review of Contemporary Chinese Literature: Origins, Tendencies, and Achievements When “a Moment Becomes Forever”: “the Contemporary” and “the Historical” in Contemporary Chinese Literature 19 Nguyễn Thị Diệu Linh 31 Nguyễn Hữu Sơn Contemporaries of the New Poetry (1932-1945) Discussing Relations between Vietnamese New Poetry and Chinese New Poetry Lê Thời Tân Li Bai and Du Fu by Guo Moruo - Its Context and Motivation and Reactions from Scholars 43 Nguyễn Thị Mai Chanh Existentialism in Yan Lianke’s Novels Wang Dewei A Way of Imagining China - How Foreign Scholars Have Perceived Contemporary Chinese Literature and Cinema 3 53 61 * Michel Foucault Archeology of knowledge: between discourse structures and historical discontinuities 73 Đỗ Thu Hiền Perception of the Medieval Vietnamese Novel, Chronicle, and Narrative Prose 86 Trần Hoài Anh Tế Hanh in the Heritage of Southern Vietnamese Literature 97 Ngô Văn Giá Phạm Vĩnh Cư with Vietnamese Literature 106 BOOK REVIEW Lê Văn Tấn A Concise History of Vietnamese Literature 113 NGHIÊN CỨU VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI TRUNG QUỐC: MẠCH NGUỒN, XU THẾ CHUYỂN ĐỘNG VÀ THÀNH TỰU NGÔ VIẾT HOÀN(*) Tóm tắt: Điểm khởi đầu của văn học đương đại Trung Quốc được xác định từ năm 1949 khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập. Trải qua hơn nửa thế kỷ vận động và phát triển, cùng với những thành tựu đạt được trên phương diện sáng tác, khoa nghiên cứu văn học đương đại tại Trung Quốc cũng ghi nhận nhiều dấu mốc quan trọng, góp phần xác lập hệ hình nghiên cứu, đồng thời có những cống hiến quan trọng thúc đẩy sự phát triển của văn đàn trong nước và quốc tế. Bài viết này tiến hành khảo sát tình hình nghiên cứu văn học đương đại Trung Quốc trên ba phương diện: Mạch nguồn hình thành và phát triển của văn học đương đại Trung Quốc, xu thế chuyển động của khoa nghiên cứu văn học đương đại Trung Quốc từ 1978 đến nay và thành tựu chủ yếu của khoa nghiên cứu văn học đương đại Trung Quốc, qua đó phác họa bức tranh toàn cảnh về nghiên cứu văn học đương đại Trung Quốc trên chính quê hương của nó. Từ khóa: văn học hiện đại, văn học đương đại, văn học Trung Quốc. Abstract: Contemporary Chinese literature can be traced back to 1949, the year People’s Republic of China was founded. However, both creative and scholarly writings in the following decades of the millennium and after brought numerous new creative and scholarly writings. This article examines the evolution of contemporary Chinese literature as well as discusses the achievements in the study of contemporary Chinese literature from 1978 to present. This article aims to provide a comprehensive view of the scholarly work on contemporary Chinese literature. Keywords: modern literature, contemporary literature, Chinese Literature. 1. Mạch nguồn hình thành và phát triển của văn học đương đại Trung Quốc1 Trong dòng chảy văn học Trung Quốc, dựa theo phân kỳ lịch sử và mạch nguồn phát triển nội tại của văn học, các nhà văn học sử nước này chia văn học dân tộc ra thành nhiều thời kỳ, tương ứng với các ngành đào tạo cấp 2 thuộc chuyên ngành Ngôn ngữ Văn học Trung Quốc. Trong đó, thời kỳ lấy dấu mốc từ thời điểm nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa được thành lập (1949) cho đến nay được học giới nước này xem là giai đoạn văn học đương đại. Cách phân kỳ này nhằm phân (* ) TS. - Viện Văn học. Email: ngoviethoan@gmail.com. biệt với giai đoạn văn học hiện đại vốn được tính từ thời điểm nảy sinh phong trào văn học Ngũ Tứ (1919) cho đến năm 1949. Theo đó, tác giả, tác phẩm đương đại, hiện tượng văn học đương đại, các nhóm phái văn học, phong trào văn học, trào lưu văn học và diễn trình phát triển của văn học,... đều là cấu thành của bộ môn nghiên cứu văn học đương đại. Từ hiện trạng phát triển của văn học đương đại Trung Quốc, các học giả nước này chia văn học đương đại ra làm ba thời kỳ: + Thời kỳ kiến thiết của văn học đương đại Trung Quốc (1949-1978), cũng là giai đoạn 30 năm đầu hình thành và tạo dựng nền tảng của văn học đương đại Trung Quốc. 4 + Thời kỳ đẩy mạnh phát triển của văn học đương đại Trung Quốc (1979-2000), cũng chính là giai đoạn Trung Quốc bước vào thời kỳ đầu của công cuộc cải cách, mở cửa. + Thời kỳ phát triển thành thục của văn học đương đại Trung Quốc (2000 đến nay), cũng chính là giai đoạn bộ môn nghiên cứu văn học đương đại Trung Quốc phát triển mở rộng và đạt được những thành tựu quan trọng, đặc biệt trên phương diện định hình hệ thống, phạm trù nghiên cứu văn học đương đại. Trở lại với lịch sử đương đại Trung Quốc, như chúng ta đã biết, mốc khởi đầu của công cuộc cải cách và mở cửa ở Trung Quốc được đánh dấu bởi Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của BCH Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XI diễn ra từ ngày 18 đến ngày 22 tháng 12 năm 1978. Đây là một bước ngoặt lớn có ý nghĩa sâu sắc đối với sự phát triển kinh tế, xã hội Trung Quốc trong suốt hơn 40 năm qua. Hội nghị đặt ra và thực hiện các giải pháp nhằm cải cách nền chính trị trong nước và mở cửa với thế giới bên ngoài1. Tính đến cuối năm 2018, cuộc cải cách, mở cửa này đã đi qua chặng đường 40 năm và đem lại những chuyển biến to lớn trên mọi phương diện cho đất nước Trung Quốc. Văn học hiện đại Trung Quốc với tư cách một phân nhánh của khoa nghiên cứu văn học chỉ thực sự trở thành một phân môn nghiên NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 6-2021 cứu độc lập từ tháng 1 năm 1979. Vào thời điểm đó, tại hội nghị thẩm định giáo trình văn học hiện đại Trung Quốc do Bộ Giáo dục nước này triệu tập, các đại biểu tham dự đã khởi xướng và quyết định thành lập Hiệp hội nghiên cứu văn học hiện đại Trung Quốc. Hội nghị trù bị đã bầu Vương Dao làm Chủ tịch Hiệp hội và sáng lập tạp chí Tùng san Nghiên cứu văn học hiện đại Trung Quốc làm cơ quan ngôn luận cho Hiệp hội. Tùng san đã ra mắt số đầu tiên vào tháng 10 năm 1979, do Nhà xuất bản Bắc Kinh ấn hành với số lượng 30 ngàn cuốn2. Từ diễn trình phát triển của tạp chí này, có thể nhìn thấy mạch nguồn, xu hướng và sự chuyển động của khoa nghiên cứu văn học hiện - đương đại tại Trung Quốc. Trong giai đoạn này, ngoài Tùng san nói trên, cũng có nhiều tạp chí, chuyên san khác chuyển sang ấn hành mỗi tháng một kỳ như Khoa học xã hội Trung Quốc, Mặt trận Khoa học xã hội, Nghiên cứu văn nghệ, Tranh luận Văn nghệ,... Điều này phần nào lột tả sự phát triển nhanh chóng của khoa học xã hội, trong đó có khoa nghiên cứu văn học tại Trung Quốc. Sự phát triển của bộ môn nghiên cứu văn học hiện - đương đại Trung Quốc còn được biểu hiện cả trên phương diện đào tạo. Văn học hiện - đương đại Trung Quốc được xác định là ngành học cấp 2 thuộc chuyên ngành Ngôn ngữ văn học Trung Từ năm 1980, tạp chí này được ấn hành theo quý. Từ năm 1985, tạp chí được ấn hành bởi Nhà xuất bản Hội Nhà văn và vẫn được phát hành theo quý. Năm 1989, tạp chí được phê duyệt chỉ số tạp chí quốc gia, đến năm 2004, được phê duyệt chỉ số tạp chí quốc tế. Từ năm 2005, tạp chí xuất bản hai tháng một kỳ, đến năm 2011, tạp chí ấn hành mỗi tháng một kỳ, đồng thời chính thức đưa các bài viết về văn học đương đại vào phạm vi nghiên cứu của tạp chí (NVH). 2 Các cải cách nội bộ được diễn ra từ tháng 11 năm 1978 và trước hết tại các khu vực nông thôn. Theo đó, thôn Tiểu Cương, thành phố Phụng Dương, tỉnh An Huy là một trong những địa phương đi đầu trong việc thực hiện chế độ sản xuất theo nhóm gia đình - “chia đất đến từng hộ, tự chịu trách nhiệm về lợi nhuận hoặc thua lỗ trong quá trình sản xuất”. Động thái này đã mở màn cho cuộc vận động cải cách trong nước tại Trung Quốc (NVH). 1 Nghiên cứu văn học... Quốc. Từ năm 1978, ngành học này bắt đầu tuyển sinh đào tạo bậc cao học, và đến năm 1981, bắt đầu tuyển sinh đào tạo nghiên cứu sinh1. Tính đến năm 2017, toàn Trung Quốc có 67 đơn vị đại học được phép đào tạo Tiến sĩ ngành Ngôn ngữ Văn học Trung Quốc, mỗi năm tuyển sinh và đào tạo hàng trăm nghiên cứu sinh chuyên ngành Văn học hiện - đương đại Trung Quốc2 [6, tr.128-137]. Trên phương diện nghiên cứu, ở giai đoạn kiến thiết ban đầu, tổng số đề tài thuộc nhóm ngành “Văn học Trung Quốc” thuộc Quỹ Khoa học xã hội Quốc gia là 34 đề tài, trong đó số đề tài thuộc ngành “Văn học hiện - đương đại Trung Quốc” chỉ có 12 đề tài (năm 1994). Đến năm 2017, tổng số đề 1 Vương Phú Nhân được xem là Tiến sĩ chuyên ngành Văn học hiện - đương đại duy nhất của khoá đào tạo đầu tiên này (NVH). 2 Theo “Bảng thống kê danh mục đề tài Luận án Tiến sĩ ngành Văn học hiện đại Trung Quốc giai đoạn 1984-2012” của Hồng Lượng, giai đoạn 1984-2012, có tổng cộng 1763 luận án Tiến sĩ ngành Văn học hiện đại Trung Quốc được thực hiện tại nước này. Con số này không bao gồm các luận án Tiến sĩ ngành Văn học đương đại Trung Quốc. Theo đó, năm 2012, toàn Trung Quốc có 93 luận án Tiến sĩ ngành Văn học hiện đại Trung Quốc (không bao gồm Văn học đương đại Trung Quốc). Năm 2010, Hội đồng học vị Quốc vụ viện Trung Quốc phê chuẩn cho phép 25 trường đại học trên toàn quốc được tuyển sinh và đào tạo chuyên ngành cấp 1 “Ngôn ngữ văn học Trung Quốc”. Trong số 25 trường này, có nhiều trường vốn dĩ không đào tạo chuyên ngành cấp 2 “Văn học hiện - đương đại Trung Quốc”. Do đó, quy mô tuyển sinh nghiên cứu sinh thuộc chuyên ngành cấp 2 “Văn học hiện - đương đại Trung Quốc” sẽ tiếp tục được mở rộng. Tuy thế, tính đến năm 2012, số nghiên cứu sinh mới trúng tuyển này vẫn chưa tốt nghiệp, chưa nằm trong phạm khảo sát của Hồng Lượng. Như thế, lượng nghiên cứu sinh bảo vệ luận án ngành Văn học hiện đương đại Trung Quốc mỗi năm tại nước này, từ 2012 trở lại đây, nhất định không dưới 100 người (NVH). 5 tài Khoa học xã hội Quốc gia thuộc nhóm ngành “Văn học Trung Quốc” lên đến 418 đề tài, trong đó, số lượng đề tài thuộc ngành “Văn học hiện - đương đại Trung Quốc” đạt 105 đề tài, tăng 9 lần so với năm 1994. Trong suốt hơn 40 năm cải cách, mở cửa, lượng bài báo khoa học, chuyên khảo về văn học hiện - đương đại Trung Quốc đã có sự phát triển vượt trội về quy mô. Nếu như vào năm 1981, số lượng bài nghiên cứu về văn học hiện - đương đại Trung Quốc được công bố trên các tạp chí chỉ vào khoảng 400 bài, và có khoảng 20 cuốn chuyên khảo về lĩnh vực này được xuất bản [15, tr.240-257] thì chỉ riêng giai đoạn 2015-2016, các bài viết về văn học hiện - đương đại Trung Quốc đã công bố trên các tạp chí lên tới 1282 bài, số lượng chuyên khảo đã xuất bản lên tới 74 cuốn [4, tr.129-148]. Trên phương diện nghiên cứu trường hợp về tác gia, tác phẩm, nếu như các bài viết về Lỗ Tấn được công bố trên các tạp chí nước này giai đoạn 1949-1966 rơi vào khoảng 3206 bài và có khoảng 162 cuốn chuyên khảo đã được xuất bản thì chỉ trong vài năm từ sau cách mạng văn hoá đến năm 1980, số lượng bài nghiên cứu về Lỗ Tấn đã đạt 2243 bài và có khoảng 134 chuyên khảo đã được xuất bản. Trong những năm 1980, số lượng bài nghiên cứu về Lỗ Tấn đạt 7866 bài và có khoảng 373 chuyên khảo đã được xuất bản. Số liệu tương ứng trong thập kỷ 90 là 4485 bài nghiên cứu và 220 cuốn chuyên khảo. Trong 10 năm đầu của thế kỷ 21, số liệu tương ứng là 7410 bài và 431 cuốn chuyên khảo. Nếu tính gộp toàn bộ bài nghiên cứu, chuyên khảo về Lỗ Tấn đã được công bố và xuất bản trong giai đoạn 1977-2010, thì trong 33 năm này, học giới Trung Quốc đã công bố 22.004 bài nghiên cứu và 1158 cuốn chuyên khảo về Lỗ Tấn, 6 trung bình mỗi năm công bố 666 bài và 35 cuốn chuyên khảo1 [2]. Như thế, ước tính trong hơn 40 năm mở, cải cách, học giới Trung Quốc đã công bố khoảng 30.000 bài nghiên cứu và xuất bản khoảng 1450 chuyên khảo về Lỗ Tấn. Đây là một số liệu thống kê nằm ngoài sức tưởng tượng của nhiều người, cũng là những con số mà không nhà văn Trung Quốc nào khác có thể sánh được. Nó phản ánh địa vị quan trọng, tầm vóc và sức ảnh hưởng lớn lao của Lỗ Tấn đối với văn học hiện - đương đại Trung Quốc. Từ những con số biết nói ấy, chúng ta phần nào thấy được mạch nguồn, sự chuyển động và thành quả mà văn học hiện đương - đại Trung Quốc đã đạt được trong suốt mấy thập kỷ qua. Có thể nói, nghiên cứu văn học hiện - đương đại Trung Quốc trong mấy thập kỷ qua đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Những thành quả ấy được thể hiện trên nhiều phương diện: Từ việc biên soạn, chỉnh lý và xuất bản toàn tập, văn tuyển của các nhà văn, như Lỗ Tấn toàn tập, Mao Thuẫn toàn tập,... đến việc xuất bản các sử liệu mới được phát hiện, tuyển soạn các tư liệu nghiên cứu, nhật ký, hồi ức, hồi ký và thư tín của các nhà văn,...; từ việc xuất bản tự truyện, phẩm bình, biên niên ký của các nhà văn cho đến việc nghiên cứu nhật ký, thư pháp, bản thảo viết tay của họ,...; từ các nghiên cứu truyền thống nhất về tác gia, tác phẩm, các nghiên cứu về trào lưu, hệ phái, hiện tượng văn chương, các thể loại văn 1 Các số liệu thống kê về các bài nghiên cứu đã công bố, các chuyên khảo đã xuất bản về Lỗ Tấn đều được tham khảo từ Lời mở đầu “Đuốc lửa tương truyền: Trăm năm nghiên cứu Lỗ Tấn ở Trung Quốc - Hồi cố và triển vọng” trong cuốn Tuyển tập học giả nổi tiếng Trung Quốc nghiên cứu về Lỗ Tấn do Nxb. Đại học Sư phạm Bắc Kinh và Nxb. Đại học An Huy phát hành năm 2013 (NVH). NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 6-2021 học, loại hình văn bản văn học, nghiên cứu so sánh văn học Trung Quốc và nước ngoài cho đến việc nghiên cứu các tạp chí văn học mới xuất hiện, các hiện tượng xuất bản liên quan đến văn học, truyền thông văn học, chế độ văn học, giáo dục văn học, văn học và giáo dục đại học,... từ nghiên cứu nội tại văn học, đến các nghiên cứu bên ngoài văn học, như mối quan hệ giữa văn học với chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hoá, triết học, tôn giáo, sinh thái; từ các nghiên cứu văn học sử ban đầu, cho đến các nghiên cứu sau này như lịch sử học thuật, lịch sử tiếp nhận, lịch sử truyền bá,... nhìn chung đều đạt được những thành tựu học thuật quan trọng. Góc nhìn, lĩnh vực, phương pháp nghiên cứu cũng không ngừng được mở rộng và sáng tạo [16, tr. 303-321]. 2. Xu thế chuyển động của khoa nghiên cứu văn học đương đại Trung Quốc từ 1978 đến nay Nhìn lại chặng đường hơn 40 năm phát triển của nghiên cứu văn học hiện - đương đại Trung Quốc, dễ nhận thấy, tiến trình này có thể phân thành hai giai đoạn, trước và sau thời khắc chuyển giao từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI. Theo đó, nghiên cứu văn học hiện - đương đại ở Trung Quốc về cơ bản đã hình thành các xu thế chuyển động như sau: Một là, trên phương diện chọn lựa đề tài nghiên cứu: học giới Trung Quốc có xu hướng chuyển dịch từ các nghiên cứu có tính vi mô, cụ thể sang các vấn đề có tính vĩ mô, phổ quát. Các học giả Trung Quốc trong giai đoạn những năm 80 của thế kỷ XX thường chọn lựa một nhà văn cụ thể nào đó làm đối tượng nghiên cứu, hình thành cục diện lấy nghiên cứu trường hợp làm trọng tâm nghiên cứu, như các nghiên cứu về Lỗ Tấn, Quách Mạt Nhược, Mao Thuẫn, Ba Kim, Nghiên cứu văn học... Lão Xá, Tào Dự,... Dạng thức nghiên cứu này đã tạo dựng địa vị học thuật cho nhiều học giả và khiến cho các nghiên cứu trường hợp về các tác gia trở nên sâu sắc hơn. Việc đào sâu giải mã các đối tượng cụ thể đòi hỏi người nghiên cứu cần không ngừng mở rộng góc nhìn, tầm nhìn nghiên cứu, từ một nhà văn sang nghiên cứu so sánh hai, ba nhà văn, như công trình của Dương Nghĩa So sánh loại hình văn hoá giữa Mao Thuẫn, Ba Kim và Lão Xá [13, tr.78-86] hay nghiên cứu một trào lưu, một nhóm tác giả, một câu lạc bộ văn học, một hình thức thể loại văn học hoặc một tư tưởng văn học. Như thế xu hướng nghiên cứu của họ đã chuyển dịch từ nghiên cứu trường hợp (vi mô) sang nghiên cứu nhóm vấn đề. Từ những năm 90 của thế kỷ XX, cùng với việc thiết lập Quỹ Khoa học xã hội Quốc gia, đặc biệt là từ đầu thế kỷ XXI, khi lượng đề tài và kinh phí tăng lên mỗi năm, khiến cho chủng loại, quy mô và số lượng đề tài đều đạt đến mức độ tương đối lý tưởng, khoa nghiên cứu văn học tại Trung Quốc cũng vì thế dần hình thành một cục diện nghiên cứu mới. Cùng với đó, các trường đại học cũng xem việc chủ nhiệm đề tài Khoa học xã hội Quốc gia là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thành công việc của giảng viên, nhà nghiên cứu. Hệ quả của nó là việc hình thành hiện tượng “hạng mục hoá sự sống”1. Mặc cho Ôn Nho Mẫn và Giáo sư Đại học Bắc Kinh Ôn Nho Mẫn cho rằng, làm học thuật không phải là sản xuất. Có những vấn đề nghiên cứu phải hao tâm khổ tứ cả nửa đời mới giải quyết được. Nhưng đại đa số các đề tài, hạng mục nghiên cứu đều giới hạn thời gian trong 2 đến 3 năm... Trong khi đó, đãi ngộ của giảng viên và nhà nghiên cứu trong các trường đại học và cơ quan nghiên cứu lại gắn liền với việc chủ nhiệm đề tài. Đề tài nghiễm nhiên trở thành “chiếc gậy chỉ huy” của nghiên cứu, như thể ai chủ nhiệm nhiều đề tài thì người đó liền là học giả lớn, có cống hiến 1 7 nhiều học giả Trung Quốc khác đã cực lực phản đối hiện tượng này, song trên thực tế, tình hình này chẳng những không giảm đi mà còn có xu hướng tăng lên. “Hạng mục hoá sự sống” buộc các nhà nghiên cứu phải chọn lựa các đề tài có tính chất vĩ mô, lớn lao, nếu không sẽ khó lòng được phê duyệt. Thế là một loạt các đề tài có phạm vi lớn, có tính phổ quát kiểu như “... trong văn học hiện đại Trung Quốc”, “... trong văn học đương - đại Trung Quốc”, “... trong văn học Trung Quốc thế kỷ XX”, “Biên niên sử...”, “Kho dữ liệu về...”, “... (nhiều tập)”,... dần trở nên hết sức quen thuộc. Những dạng đề tài này, một mặt thể hiện được tầm quan trọng và tính phổ quát của vấn đề nghiên cứu, nhưng mặt khác cũng tồn tại nhiều vấn đề nghiêm trọng như những lỗ hổng về mặt kết cấu và logic của đề tài, tính phù phiếm, không sát với thực tiễn của hệ thống luận điểm hay việc thiếu hụt tính minh xác, cụ thể về mặt nội dung,... Nhiều vấn đề được đặt ra trong các dạng đề tài này thường không được giải quyết triệt để, lơ lửng tầng không. Lại có những đề tài, cấu trúc rất rộng, nhưng nội dung bên trong thì lại hết sức mỏng manh. Nghiên cứu cái gì?, cần giải quyết vấn đề gì?,... đều có phần mơ hồ, nhập nhằng; phạm vi nghiên cứu cũng không được xác định rõ ràng. Ngoài các đề tài cấp Bộ, cấp Nhà nước, một số tạp chí uy tín cũng lấy việc công bố các bài nghiên cứu về các vấn đề vĩ mô, phổ quát làm tôn chỉ hoạt động. Ví như Khoa học xã hội Trung Quốc nhiều năm trở lại đây dường như chỉ công bố các “bài viết lớn” về các lớn và làm học thuật chính là “làm đề tài”. Ông đồng thời cũng chỉ ra rằng, vẻ ngoài phát triển phồn thịnh được tạo ra bởi các hiện tượng học thuật nêu trên không thể che giấu được việc có không ít đề tài trong số đó thực sự chỉ là các “xào xáo học thuật” (NVH). 8 vấn đề vĩ mô. Đây cũng chính là một trong những nguyên do thúc đẩy sự phát triển của nghiên cứu vĩ mô trong khoa học xã hội và nhân văn ở Trung Quốc. Không giống các học giả tiền bối thập niên 80 của thế kỷ XX chỉ chọn một tác giả, thậm chí duy nhất một tác giả làm đối tượng nghiên cứu trọn đời, ngày nay, trong lĩnh vực nghiên cứu văn học hiện - đương đại Trung Quốc, đa số các học giả đều hướng điểm nhìn nghiên cứu ra nhiều lĩnh vực; vấn đề nghiên cứu cũng ngày càng rộng hơn, thậm chí, rất khó để đoán định rằng, học giả nào đó nghiên cứu cái gì, đối tượng nghiên cứu chính của họ là gì? Hai là, trên phương diện nội dung nghiên cứu, học giới Trung Quốc có xu hướng dịch chuyển nội dung nghiên cứu từ “trung tâm” ra “ngoại diên”. Đối với giới nghiên cứu văn học hiện đương đại Trung Quốc, “trung tâm” chính là “bốn xà tám trụ” - tác giả lớn, tác phẩm của nhà văn lớn, hiện tượng, trào lưu, nhóm phái văn học quan trọng và một số vấn đề trọng yếu của văn học sử. Cùng với sự phát triển ổn định và ngày một đi vào chiều sâu của bộ môn nghiên cứu văn học hiện - đương đại Trung Quốc, học giới nước này ngày càng đạt được nhiều thành tựu trong việc nghiên cứu tác gia, tác phẩm lớn và một số vấn đề quan trọng khác. Các đề tài có tính sáng tạo cũng vì thế ngày một cạn kiệt, muốn đào sâu nghiên cứu thêm quả thực hết sức khó khăn. Từ góc độ sáng tạo học thuật, trong quá trình chọn lựa vấn đề nghiên cứu, học giới nước này không có cách nào khác buộc phải dịch chuyển điểm nhìn nghiên cứu về phía ngoại diên. Nghiên cứu các vấn đề ngoại diên do đó trở thành hướng đi tất yếu trong tiến trình phát triển của bộ môn này. Khảo sát Tùng san nghiên cứu NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 6-2021 văn học hiện đại Trung Quốc trong những năm gần đây, dễ nhận thấy, các bài nghiên cứu có xu hướng đặt ra và giải quyết các vấn đề có tính ngoại diên tương đối phổ biến. Theo đó, từ tác giả, tác phẩm ngoại diên cho đến báo, tạp chí ngoại diên, từ góc độ nghiên cứu có tính ngoại diên, cho đến những vấn đề khá mờ nhạt cũng trở thành đối tượng được giới nghiên cứu quan tâm khảo sát. Lý giải cho hiện tượng này, Đinh Phàm và Triệu Phổ Quang nhận định như sau: “Do việc nghiên cứu văn học hiện đương đại quá mức “chen chúc”, một số học giả bắt đầu có ý thức tìm kiếm những lãnh địa mới, khai thác các hiện tượng mới. Trong đó, một số tạp chí trước đây ít được coi trọng thì nay đã bắt đầu thu hút sự chú ý của các học giả, ví như: “Quan niệm biên tập và những vấn đề khác của tạp chí ‘Cổ Kim’”, “Sự dịch chuyển giữa hứng thú thẩm mỹ và sự lựa chọn lịch sử: Luận quan niệm văn học trong ‘Thiên hạ’”,... Còn phải nhắc đến một số hiện tượng văn học bị lãng quên hoặc bị xem nhẹ, giờ đây cũng được đánh giá lại. Ví như các nghiên cứu về quảng cáo văn học hiện đại” [5, tr.1-23]. Ngoài ra, cũng cần phải kể đến một hiện tượng mới xuất hiện gần đây, đó là việc nghiên cứu nhật ký, bản thảo viết tay, thư pháp, câu đối,... của các nhà văn. Đối với các nghiên cứu ngoại diên, các học giả Trung Quốc cho rằng: “Cần có sự biện chứng trong quá trình nhìn nhận, đánh giá. Thứ nhất, các hiện tượng, dữ liệu lịch sử thực sự có giá trị mới được phát hiện, quả thực rất hữu ích đối với các nghiên cứu văn học hiện đại. Nó khiến cho các nghiên cứu ấy thêm phong phú và đa nguyên hoá. Thứ hai, cần lưu ý rằng, các nghiên cứu ngoại diên ngoài việc giúp cho nghiên cứu văn học hiện đương đại có sự tích luỹ và mở rộng về “lượng” thì vẫn chưa đạt được Nghiên cứu văn học... những đột phá về “chất”; vẫn chỉ dừng lại ở sự mở rộng trên cùng một phương diện và suy cho cùng chỉ đóng vai trò lấp đầy những khoảng trống. Thứ ba, nếu nhà nghiên cứu chỉ chìm đắm trong việc sưu tầm các tư liệu vụn vặt thì sẽ là trở ngại mới đối với việc hình thành tư tưởng có tính cục diện lớn. Ví dụ, vài năm trước đây, xu hướng nghiên cứu các tạp chí, các tờ báo nhỏ trở nên hết sức phổ biến. Vấn đề này, từ một góc độ nào đó mà nói, đã bộc lộ sự thiên lệch của thể chế nghiên cứu hiện thời. Việc khai thác vô hạn các mảnh vụn của lịch sử văn học, chẳng hạn như các tờ báo nhỏ và tạp chí định kỳ, có vẻ như rất sáng tạo và là một phần bổ sung cho lịch sử văn học. Tuy nhiên, nếu nhìn từ góc độ vĩ mô của lịch sử văn học, những khai thác đó rất có thể không hiệu quả, thậm chí vô giá trị” [5, tr.1-23]. Những nhận định này đã khái quát vấn đề mấu chốt của hiện tượng nghiên cứu ngoại diên trong văn học hiện - đương đại Trung Quốc. Các nghiên cứu ngoại diên không những cần có sự sáng tạo, mà quan trọng hơn là cần đạt được một giá trị nào đó. Bản thân chủ đề và nội dung của các nghiên cứu ngoại diên vốn rất dễ khiến người ta nghi ngờ về giá trị nghiên cứu của nó. Nếu không xét đến giá trị và ý nghĩa thực sự của các nghiên cứu này, người nghiên cứu rất dễ rơi vào tình cảnh “vô công rồi nghề”. Tất nhiên, xu hướng nghiên cứu dịch chuyển từ trung tâm ra ngoại diên không chỉ là hiện tượng của nghiên cứu văn học hiện - đương đại Trung Quốc, nó đồng thời cũng là khuynh hướng trong nghiên cứu văn học cổ đại Trung Quốc và cả văn học nước ngoài. Các nghiên cứu về Khuất Nguyên, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Tứ đại danh tác, Homer, Dante, Shakespeare, Goethe, Balzac, Tolstoy, Dickens,... thường bị tạm 9 “gác lại”, rất ít thấy các thành quả nghiên cứu mới. Nguyên nhân chủ yếu nằm ở chỗ rất khó để tiếp tục phát hiện cái mới. Ba là, về trọng tâm nghiên cứu, các học giả Trung Quốc dần có xu hướng chuyển dịch từ việc chú trọng quan điểm và phương pháp sang việc chú trọng lý thuyết, dữ liệu lịch sử. Trong thời kỳ đầu cải cách, mở cửa, khi tư tưởng được giải phóng, học giới nước này háo hức đưa ra những ý tưởng mới và bày tỏ những kiến giải mới. Do đó, một loạt các trào lưu đã lần lượt xuất hiện, như “xem trọng phương pháp”, “xem trọng văn hoá”, “xem trọng lịch sử tư tưởng”, “xem trọng dữ liệu lịch sử”,... Vào giữa những năm 1980, khi bắt đầu cải cách và mở cửa, các phương pháp nghiên cứu mới của phương Tây trở nên phổ biến ở Trung Quốc, bao gồm: từ hiện đại, hậu hiện đại đến hậu thuộc địa; từ cách tiếp cận hệ thống đến nguyên lý cấu trúc; từ chủ nghĩa hình thức đến chủ nghĩa phê bình mới; từ phân tâm học đến phê bình nữ quyền,... Không thể phủ nhận rằng, việc tiếp nhận lý luận phê bình văn học phương Tây hiện đại đã đem đến sức sống mới, khởi sắc mới cho đời sống văn học tại Trung Quốc đương thời. Đổi mới về mặt phương pháp do đó trở thành biểu hiện quan trọng của sáng tạo khoa học. Vì vậy mà năm 1985 sau này còn được học giới nước này gọi là “Năm của Phương pháp”. Nhưng mọi sự đổi mới về mặt phương pháp đều có giới hạn của nó. Khi phương pháp ấy được vận dụng phổ biến thì nó liền không còn tính mới nữa. Các học giả Trung Quốc cho rằng, việc quá mức lạm dụng các danh từ mới, thuật ngữ mới của phương Tây mà không xét đến thực tế của đối tượng nghiên cứu chẳng khác nào “ăn sống nuốt tươi”. Ngay sau đó, việc sử dụng các phương pháp mới bắt đầu có xu hướng 10 giảm đi trông thấy. Thay vào đó, nghiên cứu văn hoá, nghiên cứu lịch sử tư tưởng trong văn học dần thu hút sự quan tâm của học giới nước này. Đổi mới, sáng tạo về mặt lý luận, về chiều sâu tư tưởng và về tầm cao triết học, do đó, đã trở thành mục tiêu mới của giới nghiên cứu văn học ở Trung Quốc. Sáng tạo, đổi mới về mặt quan niệm, đặt ra các giả thuyết lý luận vĩ mô trở thành xu thế của thời đại. Vậy xu hướng nghiên cứu nhấn mạnh lý thuyết, quan niệm, tư tưởng này đề cao lý thuyết, quan niệm, tư tưởng của ai? Trên thực tế, chủ yếu vẫn là đề cao học thuyết của các học giả phương Tây. Các học giả Trung Quốc dần ý thức được rằng, lý luận phê bình văn học phương Tây một mặt khiến cho nghiên cứu văn học ở Trung Quốc có được sự mở rộng, chiều sâu và cao độ; nhưng mặt khác, nó đồng thời cũng đem đến những bá quyền diễn ngôn phương Tây mà biểu hiện sinh động nhất chính là các hiện tượng diễn giải gượng ép hay diễn giải quá đà trong quá trình vận dụng chúng vào giải quyết các vấn đề của văn học Trung Quốc. Hệ quả của nhận thức này là một trào lưu bài trừ “Chủ nghĩa lấy phương Tây làm trung tâm” nhằm thoát ra khỏi hệ hình diễn ngôn phương Tây đã xuất hiện tại Trung Quốc. Trong khi đó, nghiên cứu lịch sử tư tưởng hay văn hoá trong văn học rất có thể sẽ khiến cho các nghiên cứu này có nguy cơ đi chệch khỏi hấp dẫn nội tại của thẩm mỹ văn học, loại bỏ đi tính văn học - cái vốn được xem là cốt lõi của các nghiên cứu văn học. Trong hội thảo quốc tế “Truyền thống văn học hiện đại Trung Quốc”, Ôn Nho Mẫn từng đặt vấn đề: “Lịch sử tư tưởng có thể thay thế cho lịch sử văn học hay không?”, trong đó, ông nhấn mạnh: “Các nghiên cứu văn học hiện đại ngày nay dường như ngày càng có xu hướng xích lại gần hơn với lịch sử tư tưởng”. “Trong một NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 6-2021 số trường đại học, những người tham gia thảo luận sôi nổi nhất về lịch sử tư tưởng, lịch sử triết học, lịch sử văn hoá thường là thầy và trò khoa Trung văn, chứ không phải là thầy và trò của khoa Triết học hay khoa Lịch sử. Cứ xem các luận án bảo vệ mỗi năm thì sẽ thấy. Rất nhiều luận án đặt ra và giải quyết các vấn về nhà văn, nhóm phái, trào lưu văn học, đều một cách ý thức hoặc vô thức đi theo hướng nghiên cứu lịch sử tư tưởng. Có những luận án thậm chí bàn luận rất ít về văn học, mà kể cả có bàn đến văn học thì cũng chỉ xem chúng như những tư liệu để khảo sát lịch sử tư tưởng”. “Vấn đề này gần như đã trở thành một hiện tượng của giới nghiên cứu văn học hiện - đương đại Trung Quốc trong những năm gần đây.” Vậy “lịch sử tư tưởng có thể thay thế cho lịch sử văn học hay không?” Ôn Nho Mẫn cho rằng đương nhiên không thể và đặc biệt nhấn mạnh đến khuynh hướng thẩm mỹ của văn học: “Việc biên soạn lịch sử văn học hiện đại không nên chỉ bàn đến “tư tưởng”, còn cần phải chú ý đến các yếu tố “tình cảm”, “tâm lý”, và đương nhiên còn phải chú trọng thẩm mỹ nghệ thuật. Kể cả khi bàn đến lịch sử tư tưởng, cũng chủ yếu thảo luận về các hình thức văn học được dùng để biểu đạt “tư tưởng”. Điều này có sự khác biệt lớn so với các phương diện và phương thức mà lịch sử tư tưởng, lịch sử triết học cũng như lịch sử văn hoá quan tâm” [10, tr.423-427]. Trong một bài viết khác, Ôn Như Mẫn cũng nhận định nghiên cứu văn hoá và nghiên cứu lịch sử tư tưởng một mặt mang đến những góc nhìn mới, sức sống mới cho nghiên cứu văn học hiện - đương đại Trung Quốc, song mặt khác, nó cũng rất dễ tạo ra hiện tượng “nói suông” trong nghiên cứu. Ông chỉ ra rằng: “Chúng ta nhìn thấy không ít các luận án tiến hành các nghiên cứu văn hoá trong văn học bị chỉ Nghiên cứu văn học... trích. Lỗi căn bản thường gặp đó là việc tuỳ tiện trích dẫn và sử dụng các dẫn chứng văn học để chứng minh các vấn đề lý luận vĩ mô được đặt ra trước đó như “tính hiện đại”, “chủ nghĩa tiêu dùng”, “toàn cầu hoá”, “hậu thực dân”, “tưởng tượng về quốc gia, dân tộc” [11, tr.23-27]. Xu hướng thích “khoe mẽ” các lý thuyết vĩ mô này rốt cuộc chẳng tồn tại được lâu. Cho nên trong những năm gần đây, trào lưu xem trọng lý thuyết và tư tưởng bắt đầu hạ nhiệt, sự coi trọng đối với “dữ liệu lịch sử” đang trở nên nóng dần. Đặc biệt, trong lĩnh vực nghiên cứu văn học đương đại, việc nghiên cứu dữ liệu lịch sử, biên soạn lịch sử truyền khẩu và niên biểu của các nhà văn dành được nhiều sự chú ý. Dữ liệu lịch sử ngày càng được học giới Trung Quốc trọng thị, không ít nhà nghiên cứu đã chuyển từ hướng nghiên cứu lý luận trước đây sang hướng nghiên cứu thực chứng dữ liệu lịch sử. Ngô Tú Minh, Trình Quang Vĩ và nhiều học giả Trung Quốc nổi tiếng khác đã nhiều lần lên tiếng kêu gọi việc khai thác các dữ liệu lịch sử là hết sức khẩn cấp, không thể chậm trễ [12]. Minh chứng cho điều này, Ngô Tú Minh đã chủ biên cuốn Tùng thư sử liệu văn học đương đại Trung Quốc (Nxb Đại học Chiết Giang, 2017), còn Trình Quang Vĩ đã chủ nhiệm 2 đề tài thuộc Quỹ Khoa học xã hội Quốc gia: “Trường thiên dữ liệu lịch sử văn học đương đại” (Đề tài cơ bản, 2011), “Khảo chứng gia thế Mạc Ngôn” (Đề tài trọng điểm, 2016). Nhiều phiên bản “Biên niên sử” tác gia, tác phẩm cũng đã được xuất bản, trong đó, phiên bản do Kim Hồng Vũ biên soạn đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Rất nhiều luận văn, luận án đều chú trọng việc trích dẫn các dữ liệu lịch sử văn học, thậm chí có nhiều bài viết, lượng dẫn chứng được trích dẫn lên đến cả trăm lượt. 11 Nên nhìn nhận thế nào về “cơn sốt dữ liệu lịch sử” này? Có người cho rằng: “Giới học thuật Trung Quốc hiện nay rất coi trọng dữ liệu lịch sử, nhưng không phải từ ý thức tự giác về sử liệu, mà từ sự bất lực và là sản phẩm của sự thiếu hụt về lý thuyết, tư tưởng, quan niệm, phương pháp. Là giải pháp ứng phó, là nơi trú ẩn trong cuộc trốn chạy những thiếu hụt về mặt lý thuyết” [14, tr.13-18]. Một số học giả khác cho rằng, quan điểm này có phần cực đoan và có thể đã xem nhẹ động cơ của việc coi trọng các dữ liệu lịch sử. Họ đồng thời nhấn mạnh rằng, sự xem trọng đối với dữ liệu lịch sử vừa xuất phát từ ý thức tự giác và nhu cầu đổi mới của giới nghiên cứu, cũng là cách để giới nghiên cứu tiến hành các điều chỉnh đối việc quá mức xem trọng lý thuyết, tư tưởng, quan niệm và phương pháp trong nghiên cứu văn học đương đại trước đây, nhằm đạt được sự cân bằng mới giữa lý thuyết và dữ liệu lịch sử” [15, tr.240-275]. Đây được các học giả Trung Quốc xem là nhu cầu tất yếu cho sự phát triển của khoa học chuyên ngành. Có thể nói, con đường mà nghiên cứu văn học hiện - đương đại Trung Quốc đã đi qua trong mấy thập kỷ vừa qua chính là tiến trình chuyển dịch từ xem trọng quan điểm, phương pháp sang nhấn mạnh lý thuyết và dữ liệu lịch sử như đã khái quát ở trên. Bốn là, về lĩnh vực nghiên cứu, học giới Trung Quốc đang có xu hướng dịch chuyển dần từ hiện đại sang đương đại. Theo tuyến tính thời gian, lẽ đương nhiên, văn học hiện đại được hình thành trước, rồi mới có văn học đương đại. Vào đầu thời Trung Hoa Dân Quốc, khi bộ môn này mới thành lập, lẽ tự nhiên là chỉ có văn học hiện đại, còn văn học đương đại mới chỉ bắt đầu từ năm 1949. Khi ông Vương Diêu biên soạn cuốn 12 Lịch sử Tân văn học Trung Quốc, tất nhiên cũng chỉ có văn học hiện đại. Vì vậy, lịch sử nghiên cứu văn học hiện đại dài hơn so với lịch sử nghiên cứu văn học đương đại. Thêm vào đó, văn học hiện đại có sự xuất hiện của nhiều nhà văn bậc thầy, giới nghiên cứu cũng dành nhiều sự quan tâm, khảo sát hơn, do đó, thành tựu nghiên cứu đạt được cũng phong phú hơn. Vì vậy, trong 30 năm đầu trước khi nước Trung Quốc mới được thành lập, trọng tâm nghiên cứu chủ yếu là văn học hiện đại. Truyền thống nghiên cứu này tiếp tục kéo dài trong 20 năm đầu của thời kỳ mới. Nhiều người cho rằng văn học đương đại quá gần gũi với chúng ta, chưa có sự kiểm chứng của thời gian, do đó, không dễ để biên soạn văn học sử, thế nên cũng chẳng thể xem nó là đối tượng nghiên cứu mà chỉ là đối tượng phê bình, bình luận hay đánh giá nhất thời mà thôi. Tuy thế, cùng với việc “mỏ” văn học hiện đại bị khai thác, đào bới đến gần như cạn kiệt, cũng như sự nối dài liên tục, sự phong phú về mặt tác phẩm của văn học đương đại, trọng tâm nghiên cứu đã dần chuyển dịch từ hiện đại sang đương đại. Sau cải cách, mở cửa chừng 20 năm trở lại đây, biểu hiện của điều này ngày một thêm rõ rệt. Từ góc nhìn của ngày nay, nếu lấy điểm xuất phát từ năm 1890 theo quan điểm của nhóm Nghiêm Gia Viêm, thì văn học hiện đại Trung Quốc đã trải qua tiến trình phát triển gần 50 năm. Nếu theo Đinh Phàm, lấy điểm xuất phát là năm 1912, thì văn học hiện đại Trung Quốc đã có lịch sử 37 năm phát triển. Còn văn học đương đại Trung Quốc cho đến nay đã trải qua 70 năm phát triển. Từ góc nhìn này, các công trình nghiên cứu về văn học đương đại Trung Quốc nhiều hơn so với văn học hiện đại Trung Quốc cũng là điều dễ hiểu. Dựa theo số liệu thống kê của Đinh Phàm và Triệu Phổ Quang, giai đoạn từ tháng 1 năm NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 6-2021 2014 đến tháng 7 năm 2015 và giai đoạn từ tháng 8 năm 2015 đến tháng 7 năm 2016, tổng lượng công trình nghiên cứu về văn học hiện đại và văn học đương đại Trung Quốc có tỉ lệ lần lượt là trên 40% và trên 60% [3, tr.129-148]. Xét một cách tổng thể, có thể nói, các nghiên cứu về văn học hiện đại đã tương đối thuần thục và chuẩn mực, nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực này nhìn chung được thực hiện tốt. Việc nghiên cứu văn học đương đại Trung Quốc còn tương đối hỗn loạn và không theo một trật tự hay chuẩn mực nào, nhiều vấn đề còn đang trong tình trạng “ngổn ngang”, nhiều nghiên cứu cơ bản chưa được hoàn thiện. Điều này để lại một không gian nghiên cứu tương đối lớn cho giới học giả. Đó cũng là lý do tại sao đại đa số các nhà nghiên cứu trẻ tập trung nỗ lực nghiên cứu vào lĩnh vực này. Tuy thế, điều này cũng lại làm nảy sinh một vấn đề khác: nhóm nghiên cứu văn học hiện đại đang dần già đi, sức nghiên cứu ngày càng suy yếu, sự phát triển tiếp sau của phân môn này vì thế cũng là điều đáng lo ngại. 3. Thành tựu chủ yếu của khoa nghiên cứu văn học đương đại Trung Quốc 3.1. Hoạt động phê bình văn học đương đại Trung Quốc được triển khai rộng khắp Phê bình văn học trước nay luôn là một bộ phận quan trọng của nghiên cứu văn học. Là cầu nối giữa tác giả và bạn đọc, nhà phê bình văn học không chỉ đơn thuần chia sẻ với bạn đọc trải nghiệm đọc của bản thân đối với các tác phẩm của nhà văn, mà còn phản ánh tâm tư, nguyện vọng của bạn đọc đến các tác giả. Do đó, nhà phê bình không chỉ có con mắt trí tuệ để nhìn nhận, đánh giá các giá trị, thành tựu hay chỉ ra những yếu điểm còn tồn tại trong tác phẩm; Nghiên cứu văn học... mà còn là biểu hiện của quan điểm lý luận văn học và chuẩn mực phê bình trong một thời đại nhất định nào đó. Những phê bình có tính chất vĩ mô còn phải đưa ra các nhận định, đánh giá có tính lịch sử về các trào lưu sáng tác, hiện tượng văn học, phong trào văn học, nhóm phái văn học,... Do đó, phê bình văn học không chỉ cung cấp những tham chiếu quan trọng cho văn học sử, mà còn cũng đưa ra những gợi mở thiết thực cho sự phát triển của lý luận văn học. Nhìn một cách tổng thể, ở mỗi thời kỳ khác nhau, phê bình văn học sẽ có những diện mạo tương ứng. Nhưng những thành tựu mà phê bình văn học đương đại Trung Quốc đã đạt được trong suốt hơn 70 năm qua là rất đáng nể. Các tạp chí, tờ báo trong lĩnh vực phê bình văn nghệ đã phát huy tác dụng quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của phê bình văn học đương đại ở nước này. Các chuyên mục phê bình văn nghệ của các báo: Nhân dân nhật báo, Quang minh nhật báo, Văn hội báo, cũng như các tạp chí uy tín như Bình luận văn học, Nghiên cứu văn nghệ, Văn nghệ tranh minh, Bình luận tác gia đương đại, Văn đàn phương Nam, Văn đàn đương đại, Bình luận tiểu thuyết, Lý luận và phê bình văn nghệ, Bình luận sông Dương Tử, Báo Văn nghệ, Báo Văn học,... đều có những ảnh hưởng to lớn đối với đời sống của văn đàn Trung Quốc đương đại và để lại nhiều thành tựu quan trọng. Thông qua những diễn đàn này, nhiều lớp nhà phê bình văn học Trung Quốc đã dần khẳng định được tài năng và địa vị học thuật của mình trong đời sống nghiên cứu văn học nước nhà [1, tr.8-15]. Trong suốt 70 năm phát triển của văn học đương đại Trung Quốc, văn đàn nước này ghi nhận sự góp mặt của những nhà phê bình đã thành danh trong thời kỳ Ngũ Tứ 13 và những năm 30, 40 của thế kỷ XX như: Mao Thuẫn, Thành Phỏng Ngô, Phùng Lôi Phong, Hồ Phong, Chu Dương, Lâm Mặc Hàm, Trần Hoang Môi, Lý Hà Lâm, Hà Kỳ Phương, Thái Nghĩa, Dĩ Quần, La Tôn, Tần Triệu Dương, Hồ Thái,...; cũng có những nhà phê bình phải từ sau những năm 50 trở đi mới có sức ảnh hưởng như: Trần Sung, Chu Trại, Phùng Mục, Lý Hy Phàm, Lam Linh, Diêm Cương, Nghiêm Gia Viêm, Trần Đan Thần, Tạ Miện, Trương Quýnh, Dương Khuông Hán, Liu Dịch Thành, Cố Tương, Miêu Tuấn Kiệt, Thái Khôi, Trương Nhẫn, Vương Ngu, Phàn Phát Giá, Hàn Thuỵ Đình, Tư Thổn,...; lại có một lớp nhà phê bình trưởng thành từ những năm 80 về sau như: Lôi Đạt, Tăng Trấn Nam, Phạm Vịnh Qua, Trần Tư Hoà,...; thế hệ những nhà phê bình trưởng thành trong thế kỷ mới cũng đang dần bước lên vũ đài văn học và dần có sức ảnh hưởng trong một số lĩnh vực. Tóm lại, các nhà phê bình nêu trên đã xuất bản nhiều công trình phê bình có giá trị về tác giả, tác phẩm văn học Trung Quốc đương đại. Họ đồng thời cũng công bố nhiều bài nghiên cứu có giá trị học thuật, tạo được sức ảnh hưởng lớn cả trong và ngoài văn đàn. 3.2. Việc tích luỹ, biên soạn, xuất bản tư liệu văn học đương đại Trung Quốc đạt được nhiều thành quả quan trọng Hệ thống tư liệu mà văn học đương đại Trung Quốc đề cập đến hoặc có liên quan hết sức rộng lớn. Nó không chỉ bao gồm các dữ kiện về đời sống nhà văn, quá trình sáng tác, quá trình hình thành các nhóm phái văn học, sự hình thành các trào lưu văn học,... mà còn bao gồm cả các dữ kiện về bối cảnh lịch sử, xã hội mà tác phẩm ra đời, như dữ liệu về các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hoá quan trọng có sức ảnh 14 hưởng đối với đời sống văn học,... Ngoài ra còn liên quan cả đến dữ liệu quốc gia về văn học, hồi ức của các nhà văn, các bài phỏng vấn của báo chí cũng như hoạt động xuất bản, quảng cáo và phát hành tác phẩm văn học,... Nó còn xuất hiện tản mát trong tự truyện của các nhà văn, các bài viết trên báo chí, thư tín, nhật ký và các bài nói chuyện,... Đương nhiên, tư liệu quan trọng nhất đối với nghiên cứu văn học vẫn là các dữ kiện liên quan trực tiếp đến tác phẩm của các nhà văn, như quá trình sáng tác, thời điểm xuất bản, các phiên bản khác nhau của tác phẩm, sức ảnh hưởng của tác phẩm trong và ngoài nước,... Ngoài ra, còn phải kể đến sự xuất hiện của các ấn phẩm tuyển tập tác phẩm, như các tập về văn học đương đại trong bộ Tuyển tập Tân Văn học, phần văn học đương đại trong Tuyển tập tân văn nghệ do Hoang Môi, Phùng Mục chủ biên, Kho danh tác văn học 50 năm Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa do Nhà xuất bản Hội nhà văn tổ chức biên soạn, Tuyển tập tản văn đương đại do Lâm Phi chủ biên, Tuyển thơ mới Trung Quốc do Tạ Miện, Dương Khuông Hán chủ biên, Tổng tập thơ mới Trung Quốc do Tạ Miện chủ biên, Tổng tập 100 năm văn học Trung Quốc (11 cuốn) do Tạ Miện và Mạnh Phồn Hoa biên soạn,... Những xuất bản phẩm này không chỉ tạo được tiếng vang trong giới nghiên cứu văn học, mà còn cung cấp những cứ liệu quan trọng cho việc biên soạn lịch sử văn học đương đại Trung Quốc. Các tờ báo văn nghệ đương đại cũng có những đóng góp quan trọng trong việc tích luỹ, bổ sung các dữ liệu văn học, đặc biệt là các báo bám sát và dõi theo trạng thái phát triển mới của văn học như Báo Văn nghệ, Báo Văn học, Văn học nhân dân, Thi san, Đương đại, Tháng mười, Thu hoạch, Trung Sơn, Hoa Thành,... [3, tr.129-148]. NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 6-2021 Tùng thư tư liệu nghiên cứu văn học đương đại Trung Quốc do Viện Khoa học xã hội Trung Quốc và các trường đại học tài trợ, được hơn hai mươi nhà xuất bản ấn hành được xem là một trong những đóng góp quan trọng của học giới Trung Quốc trong việc hình thành kho dữ liệu phục vụ cho nghiên cứu văn học Trung Quốc đương đại. Bộ tùng thư này được phân thành hai nhóm chính: nghiên cứu tác giả và nghiên cứu thể loại tác phẩm. Nhóm thứ nhất tập trung khai thác và tập hợp các tư liệu về tự truyện của các nhà văn lúc sinh thời, niên biểu xuất bản tác phẩm và các bình luận liên quan đến tác phẩm của họ. Cho đến nay nhóm tư liệu này đã xuất bản 87 cuốn, người được chọn đều là các nhà văn có ảnh hưởng lớn trên văn đàn Trung Quốc. Nhóm tư liệu thứ hai cũng đã xuất bản Chuyên khảo nghiên cứu tiểu thuyết trường thiên, Chuyên khảo nghiên cứu Thi ca. Bộ tùng thư này ban đầu do nhóm Đường Kim Hải (Đại học Phục Đán), Hà Bính Thái (Đại học Hàng Châu), Bốc Trọng Khang (Đại học Tô Châu),... đề xướng, nhận được sự ủng hộ và tham gia của học giả đến từ 33 trường đại học khắp Trung Quốc. Sau đó hạng mục đăng ký và trở thành Đề tài nghiên cứu thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc do các giáo sư Sở nghiên cứu Văn học Trương Quýnh, Tưởng Thủ, Hà Hoả Nhậm làm thường trực Hội đồng biên soạn. Công tác biên tập, xuất bản diễn ra trong hơn mười năm. Sau này, đề tài này tiếp tục được Vương Nghiêu, Ngô Nghĩa Cần quan tâm, thực hiện và đã xuất bản thêm nhiều cuốn mới. Ngoài bộ tùng thư có quy mô đồ sộ nói trên, Tuyển sử liệu văn học đương đại Trung Quốc do Tạ Miện, Hồng Tử Thành chủ biên, phần sử liệu trong cuốn Tân văn nghệ: Lý luận, sử liệu do Trương Quýnh chủ biên cũng được xem là những tuyển tập Nghiên cứu văn học... tư liệu lịch sử có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển của khoa nghiên cứu văn học đương đại Trung Quốc. Ngoài ra, Niên giám văn học Trung Quốc do Sở nghiên cứu Văn học, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc biên soạn, Ký sự văn học thường niên (1999-2018), Báo cáo tình hình văn học thường niên (20132018) do Bạch Diệp chủ biên, Thông tin và tư liệu nghiên cứu văn học đương đại do Hiệp hội nghiên cứu văn học đương đại Trung Quốc biên soạn và phát hành nội bộ,... đều đã kiên trì thực hiện trong suốt hơn 40 năm, qua đó, cung cấp những cứ liệu, tư liệu quan trọng cho sự phát triển của bộ môn nghiên cứu văn học đương Trung Quốc trong mấy thập niên trở lại đây. Thêm vào đó, các tuyển tập có tính chất tổng kết một giai đoạn văn học như Dữ liệu tranh luận văn học 1949-1999 do Trương Học Chính (Đại học Nam Khai) chủ biên, hay Bốn mươi năm gió mưa văn học: Thuật bình tranh luận tác phẩm văn học đương đại Trung Quốc do Ô Khả Huấn (Đại học Vũ Hán) chủ biên,... cũng là những đóng góp tích cực của học giới Trung Quốc trên phương diện tích luỹ, khai thác và xuất bản các nguồn tư liệu văn học [1, tr.435-436]. 3.3. Nhiều chuyên khảo có giá trị về tác gia, tác phẩm văn học đương đại Trung Quốc được xuất bản Các nghiên cứu chuyên sâu về tác gia, tác phẩm đương đại có ý nghĩa quan trọng đối với việc hình thành và phát triển của bộ môn nghiên cứu văn học đương đại, không chỉ trên phương diện xác định và hình thành các nghiên cứu hàn lâm về tác giả, tác phẩm kinh điển của văn học đương đại, mà còn là tiền đề quan trọng trong việc xây dựng và biên soạn lịch sử văn học đương đại. Trong tiến trình phát triển 15 hơn 70 năm của văn học đương đại Trung Quốc, bằng sự nỗ lực của giới nghiên cứu văn học nước này, nhiều chuyên khảo về tác giả, tác phẩm đương đại Trung Quốc đã lần lượt được xuất bản, trong đó phải kể đến: Hiểu Tuyết với Bài ca du mục của cuộc sống: Luận sáng tác của Ngải Thanh, Diệp Tử Minh với Con đường sáng tác của Mao Thuẫn, Đổng Kiện với Sáng tác của Điền Hán, Trần Đan Thần với Sáng tác của Ba Kim, Chu Lương Bố với Sáng tác của Đinh Linh, Tăng Trấn Nam với Luận Vương Mông, Ô Khả Huấn với Luận về sáng tác của Vương Mông, Dương Khuông Hán, Dương Khuông Mãn với Chiến sĩ và thi nhân Quách Tiểu Xuyên, Luận về sáng tác của Ngải Thanh, Đới Quang Trung với Sáng tác của Triệu Thụ Lý, Nghiêm Gia Viêm với Bản Cảo luận về tiểu thuyết Kim Dung, Trương Quýnh, Vương Thục Ương với Luận sáng tác của Đinh Linh, Dịch Bân với Niên phổ Mục Đán, Trần Vi Nhân với Lá bài bị ghép nhầm: Đọc lại Triệu Thụ Lý, Triệu Dũng với Hồn ma của Triệu Thụ Lý: giữa tính công cộng, tính văn học và tính địa phương, Lưu Khả Phong với Sáng tác của Liễu Thanh, Hình Tiểu Lợi với Niên phổ Liễu Thanh, Niên phổ Trần Trung Thực, Sáng tác của Trần Trung Thực, Lý Kiến Quân với Điệp biến của Trần Trung Thực, Hậu Phu với Sáng tác của Lộ Giao, Hàng Vũ với Thời gian của Lộ Giao, Vương Cương với Niên phổ Lộ Giao, La Ngân Thắng với Sáng tác của Dương Giáng, Triệu Trạch Hoa với Sáng tác của Sử Thiết Sinh, Phòng Vĩ với Sáng tác của Vương Tiểu Ba, Trịnh Ân Ba với Sáng tác của Lưu Thiệu Đường, Phó Quốc Sung với Sáng tác của Kim Dung, Trương Quốc Hoa với Sáng tác của Uông Tăng Kỳ,... tổng cộng có hơn một trăm cuốn [17, tr.9]. 16 Ngoài các chuyên khảo về tác giả, tác phẩm, còn có các chuyên khảo, chuyên luận về các trào lưu văn học, hiện tượng văn học, khu vực văn học, ví như về phái “Trà Tử Hoa” do Chu Lập Ba là đại diện, về phái “Sơn Dược Đản” do Triệu Thụ Lý là đại diện, hay về phái “Bạch Dương Điện” do Tôn Lê làm đại diện,... Ngoài ra, Tùng văn học giả gốc Mân (gần 30 cuốn) do Trương Quýnh và Ngô Tử Lâm chủ biên cũng được xem là một trong những thành tựu quan trọng về việc khảo cứu tác giả, tác phẩm của các nhà văn gốc Phúc Kiến. Thêm vào đó, còn phải kể đến việc một lượng lớn tuyển tập tác phẩm của các nhà văn đương đại được tuyển chọn và xuất bản, như: Quách Mạt Nhược toàn tập, Mao Thuẫn toàn tập, Ba Kim toàn tập, Lão Xá toàn tập, Tào Dự toàn tập, Ngải Thanh toàn tập, Đinh Linh toàn tập, Hà Kỳ Phương toàn tập, Quách Tiểu Xuyên toàn tập, Uông Tăng Kỳ toàn tập, Lộ Giao toàn tập, Sử Thiết Sinh toàn tập, Vương Tiểu Ba toàn tập, Dương Giáng toàn tập, Kim Dung toàn tập,... hay văn tuyển của các tác giả Liễu Thanh, Hạ Kính Chi, Vương Mông, Tông Phác, Tưởng Tử Long, Thiết Ngưng, Vương An Ức, Giả Bình Ao, Hàn Thiếu Công,... Tuyển tập, văn tuyển tác phẩm của các nhà văn được tuyển chọn và xuất bản không chỉ có ý nghĩa trong việc định hình diện mạo văn học đương đại Trung Quốc mà còn cung cấp cứ liệu tin cậy về văn bản văn học trong quá trình khảo sát, nghiên cứu các nhà văn nói trên. 3.4. Hiện trạng và thành quả của việc biên soạn lịch sử văn học đương đại Trung Quốc Khảo sát lịch sử hơn 70 năm hình thành, phát triển của văn học đương đại Trung Quốc, học giới nước này cho rằng, NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 6-2021 công tác biên soạn lịch sử văn học đương đại Trung Quốc có thể chia thành mấy đợt chính như sau: Đợt thứ nhất diễn ra vào cuối những năm 50, đầu những năm 60 của thế kỷ XX. Cuốn lịch sử văn học đương đại Trung Quốc xuất hiện sớm nhất vào năm 1959, đúng dịp kỷ niệm 10 năm thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Theo yêu cầu tổng kết thành tựu 10 năm từ khi lập nước, Sở nghiên cứu Văn học, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc đã biên soạn và xuất bản cuốn 10 năm văn học Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ngay sau đó, Khoa Trung văn, Đại học Sư phạm Hoa Trung cũng đã biên soạn, xuất bản cuốn Sử cảo văn học Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Cuốn đầu do Mao Tinh, Trần Bá Xuy, Vương Liêu Huỳnh, Chu Trại, Vương Thục Minh, Giả Chi, Đặng Thiệu Cơ, Phàn Tuấn, Đổng Hành Kỷ, Trác Như, Trần Thượng Triết, Trương Quốc Dân,... phân công biên soạn, bao gồm 6 chương tương ứng với các phần: Mở đầu, Tiểu thuyết, Thi ca, Kịch và Ca kịch mới, Tản văn, Văn học Thiếu nhi,... Ngoài ra, còn có thêm phụ lục “Các sự kiện quan trọng của văn học nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa mười năm trở lại đây”. Toàn bộ cuốn sách dài 13 vạn chữ, giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm quan trọng - bao gồm cả tác giả dân tộc thiểu số - của văn học đương đại Trung Quốc trong giai đoạn mười năm phát triển đầu tiên. Sử cảo văn học Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa do Khoa Trung văn, Đại học Sư phạm Hoa Trung tổ chức thực hiện và xuất bản vào năm 1962. Tuy là cuốn sách đầu tiên về văn học đương đại Trung Quốc lấy tiêu đề là “Sử cảo” song trên thực tế, sách này chỉ là tuyển tập các nhà văn, tác phẩm đương đại quan trọng, thiếu hụt những khái quát mang tính lịch sử và Nghiên cứu văn học... quy luật vận động nội tại của văn học. Trong đợt biên soạn lịch sử văn học đương đại Trung Quốc lần thứ hai, diễn ra vào cuối những năm 70, đầu những năm 80, nhóm biên soạn cuốn sách này vẫn kiên trì quan điểm biên soạn và cho ra mắt bộ Văn học đương đại Trung Quốc (3 tập). Sau đó, được sự uỷ thác của Bộ Giáo dục Trung Quốc, nhóm này lại biên soạn bộ giáo trình Văn học đương đại Trung Quốc (2 tập, Vương Khánh Sinh chủ biên). Nếu như trong cuốn “Sử cảo” đầu tiên, nhóm biên soạn chỉ chọn lọc một số tác giả, tác phẩm quan trọng trong giai đoạn 10 năm đầu của văn học đương đại Trung Quốc, thì với bộ Văn học đương đại Trung Quốc xuất bản năm 1983, nhóm đã quy tụ được 16 chuyên gia tham gia biên soạn, phạm vi khảo sát của cuốn sách cũng được nới rộng ra hơn 30 năm với nhiều vấn đề cốt lõi của văn học đương đại Trung Quốc. Bộ sách vì thế thực sự đạt đến quy mô và cấu trúc cần có của một bộ văn học sử. Trong đợt biên soạn lịch sử văn học đương đại Trung Quốc lần thứ hai này, đặc biệt cần phải nhắc đến cuốn Khái quát văn học đương đại (1979) do các học giả Khoa Trung văn, Đại học Bắc Kinh Trương Chung, Xa Thục Thâm, Hồng Tử Thành biên soạn1. Cũng trong giai đoạn này, Giáo sư Đại học Sư phạm Bắc Kinh Trần Trí Cương kết hợp với giáo sư của 11 trường đại học khác biên soạn, xuất bản cuốn Sử cảo văn học đương đại Trung Quốc. Giáo sư Đại học Phục Đán Lục Sỹ Thanh kết hợp với giáo sư của 22 trường đại học khác biên soạn, xuất bản cuốn Lịch sử văn học đương đại Trung Quốc (3 tập, 1980). Cuốn sách sau đó được chỉnh lý và tái bản với tên gọi mới Khái quát văn học Trung Quốc đương đại (1986) (NVH). 1 17 Từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX trở lại đây, có thể chỉ ra vài bộ lịch sử văn học đương đại Trung Quốc có sức ảnh hưởng lớn trên văn đàn nước này sau đây: Lịch sử văn học đương đại Trung Quốc (1999) của Hồng Tử Thành, Giáo trình lịch sử văn học đương đại Trung Quốc (1999) của Trần Tư Hoà, Thông sử văn học Trung Hoa (10 tập, 1997) do Trương Quýnh chủ biên (tái bản năm 2011, tăng thêm 2 tập, tổng 12 tập),... Từ thập niên 80 trở lại đây, học giới Trung Quốc còn dựa theo thể loại, khu vực, dân tộc,... biên soạn nhiều bộ văn học sử, điển hình như: Lịch sử thơ mới đương đại Trung Quốc do Hồng Tử Thành và Lưu Đăng Hàn biên soạn, Lịch sử tiểu thuyết đương đại Trung Quốc do Kim Hán, Uông Danh Phàm biên soạn, Lịch sử tiểu thuyết Đài Loan do Cổ Kế Đường biên soạn, Lịch sử Văn học Đài Loan và Lịch sử Văn học Hồng Kông do Lưu Đăng Hàn biên soạn. Ngoài ra, còn có Lịch sử Văn học Giang Tây (Ngô Hải chủ biên), Thông sử Văn học Hắc Long Giang (Sở nghiên cứu Văn học Viện Khoa học Xã hội Hắc Long Giang biên soạn), Lịch sử Văn học Thượng Hải (Trần Bác Hải), Sử cảo văn học dân tộc ít người đương đại Trung Quốc (Lý Hồng Nhiên chủ biên), Khái quát văn học dân tộc ít người đương đại (Ngô Trùng Dương), Tổng sử văn học đương đại Trung Quốc (Triệu Tuấn Hiền), Lịch sử trào lưu văn học đương đại Trung Quốc (Lý Dương), Lịch sử văn học đương đại dân tộc Mông Cổ (Sayin Bayar chủ biên), Cương luận văn học mạng, Bản thể luận văn học mạng (Âu Dương Hữu Quyền). Đặc biệt, năm 1996, Đại từ điển văn học đương đại Trung Quốc do Vương Khánh Sinh chủ biên đã chính thức ra mắt độc giả, thúc đẩy bộ môn nghiên cứu văn 18 NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, SỐ 6-2021 học đương đại Trung Quốc phát triển thêm một bước nữa [17, tr.10-14]. 4. Kết luận Trải qua 70 năm hình thành và phát triển, văn học đương đại Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu to lớn và có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của văn học đương đại thế giới. Thông qua việc xác định rõ mạch nguồn phát triển của văn học đương đại Trung Quốc, bài viết đã khái lược cách phân kỳ văn học hiện đại, văn học đương đại của học giới Trung Quốc; chỉ ra xu thế dịch chuyển và vận động của khoa nghiên cứu văn học đương đại Trung Quốc trên các phương diện: chọn lựa đề tài nghiên cứu, nội dung nghiên cứu, trọng tâm nghiên cứu và lĩnh vực nghiên cứu. Khảo sát hoạt động sáng tác, phê bình văn học, khảo cứu văn học và các hoạt động công bố, xuất bản liên quan, bài viết khái lược thành tựu mà văn học đương đại Trung Quốc đã đạt được trong hơn nửa thế kỷ qua trên một số phương diện cụ thể. Qua đó, bài viết khái quát tầm vóc và sức sống nội tại mãnh liệt của khoa nghiên cứu này tại Trung Quốc. Từ bức tranh toàn cảnh về văn học đương đại Trung Quốc được phác hoạ ở trên, dễ nhận thấy, các nghiên cứu về văn học Trung Quốc hiện - đương đại tại Việt Nam dường như chỉ dừng lại ở việc khảo cứu một số tác giả, tác phẩm cụ thể. Các nghiên cứu về trào lưu, thể loại, nhóm phái văn học hiện - đương đại Trung Quốc hay nghiên cứu so sánh văn học đương đại Việt - Trung còn để lại nhiều khoảng trống. Tài liệu tham khảo [1] 陈思和 (2008),《中国当代文学史教程》, 复旦大学出版社。 [2] 丛书编委会 (2013),《中国鲁迅研究名家 精选集》(10卷),安徽大学出版社。 [3] 丁帆、赵普光(2017),《中国现代( 百年)文学研究现状的统计与简析(2015.82016.7)》,《中国现代文学研究丛刊》,第 1期。 [4] 丁帆、赵普光(2017),《中国现代 (百年)文学研究现状的统计与简析 (2015.82016.7)》,《中国现代文学研究丛刊》,第 1期。 [5] 丁帆、赵普光 (2015),《中国现代(百年) 文学研究的统计与简析(2014.1-2015.7)》, 《中国现代文学研究丛刊》,第12期。 [6] 洪亮 (2013),《1984-2012 年中国现代文 学博士论文题名一览表》,《中国现代文学 研究丛刊》,第7期。 [7] 王嘉良、范越人整理 (2002),《“中国现 代文学研究学术生长点 研讨会”综述》, 《文学评论》,第1期。 [8] 汪政、晓华,《三足鼎立的小说天下》, 《上海文学》,第4期。 [9] 王国平:《“有力量的文字像钉子”— 文 学界把脉网络文学发展现状与未来走向》, 《光明日报》2018年5月23日,第9版。 [10] 温儒敏 (2002),《文学课堂:温儒敏文学 史论集》,吉林人民出版社。 [11] 温儒敏(2004),《现当代文学研究中 的“空洞化”现象》,《文艺研究》,第3 期。 [12] 吴秀明 (2016),《中国当代文学史料问 题研究》,中国社会科学出版社; 程光炜: 《当代作家年谱 的编撰拖延不得》,《光 明日报》2017 年9月4日,第11 版。 [13] 杨义 (1987),《茅盾、巴金、老舍的文化 类型比较》,《文艺研究》,第4期。 [14] 周保欣 (2017),《重建史料与理论研究 的新平衡》,《学术月刊》,第10期。 [15] 张建勇、刘福春、辛宇 (1982):《1981年 中国现代文学研究述评》,《中国现代文学 研究丛刊》,第2期。 [16] 张建勇、辛宇 (1981),《1980年中国现 代文学研究述评》,《中国现代文学研究丛 刊》,第3期。 [17] 张炯、杨匡汉、李建军、李洁非 (2019), 《中国当代文学学科的形成、发展及其历史 性成就》,《人文》,第二卷,第2期。