BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC:
CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
TỦ SÁCH ĐẠO PHẬT NGÀY NAY
Chủ nhiệm & biên tập: Thích Nhật Từ
Phó chủ nhiệm: Thích Quảng Tâm
Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay do Thầy Thích Nhật Từ chủ biên
bao gồm các Nghi thức tụng niệm thuần Việt và trên 200 đầu sách
nghiên cứu và ứng dụng về Phật học, thuộc loại sách gối đầu
giường cần thiết cho mọi đối tượng độc giả.
Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay đã xuất bản trên 100 CD về Đại
tạng kinh Việt Nam và nhiều tác phẩm Phật học dưới dạng MP3.
Đây là ấn bản đầu tiên trên thế giới về thể tài này. Tủ sách đã xuất
bản hàng trăm sách nói Phật giáo, CD và VCD tân nhạc, cải lương
và tiếng thơ Phật giáo. Ngoài ra còn có hàng ngàn VCD pháp thoại
của Thầy Thích Nhật Từ và các vị pháp sư khác về nhiều chủ đề từ
gia đình, xã hội đến đạo đức và tâm linh.
Quý tác giả, dịch giả muốn xuất bản sách nghiên cứu và ứng
dụng Phật học, quý Phật tử muốn ấn tống kinh sách Phật giáo, các
đại lý cần nhận sách phát hành, xin vui lòng liên hệ:
NHÀ SÁCH ĐẠO PHẬT NGÀY NAY
Chùa Giác Ngộ, 92 Nguyễn Chí Thanh, P.3, Q.10, TP. Hồ Chí Minh
ĐT: (08) 3839-4121; (08) 3833-5914
www.daophatngaynay.com
www.tusachphathoc.com
TỦ SÁCH ĐẠO PHẬT NGÀY NAY
TT. THÍCH NHẬT TỪ
GS. NGUYỄN TRI ÂN
BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC:
CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
NHÀ XUẤT BẢN PHƯƠNG ĐÔNG
MỤC LỤC
Phần 1: Bồ-tát Quảng Đức: Cuộc đời và hạnh nguyện
nhìn qua các văn bản khảo cứu ........................................1
Phần tiểu sử ...................................................................14
Những năm cuối đời ......................................................29
Chuẩn bị tự thiêu ...........................................................48
Thay lời kết ..................................................................64
Phần 2: Giới thiệu và tuyển chọn một số bài viết bằng
chữ Nôm và phiên âm ra chữ Việt ..................................69
Lời giới thiệu .................................................................70
Tư liệu viết bằng chữ Nôm ...........................................81
Xuất kệ vân ...................................................................87
Lời nguyện tâm quyết ...................................................89
Diễn văn nói tại chùa Pháp Hải, ngày lễ An Vị Phật ...91
Diễn văn chùa Long Phước, tỉnh Khánh Hòa ...............94
Lễ an vị Phật chùa Quán Thế Âm, Phú Nhuận, Gia Định.96
Kỷ niệm ngày đức Phật Thích Ca thành đạo .................98
Diễn giảng ...................................................................101
Bát quan trai giới ......................................................... 119
Nghề ủ nấm rơm ..........................................................123
Nguyên nhân và ý nghĩa tự thiêu của Bồ-tát Quảng Đức ..127
Bồ-tát Quảng Đức tự thiêu ..........................................128
Nguyên nhân của tự thiêu............................................135
Ý nghĩa tự thiêu của Bồ-tát .........................................148
PHẦN 1:
BỒ-TÁT QUẢNG ĐỨC:
CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN
NHÌN QUA CÁC VĂN BẢN VÀ KHẢO CỨU
GS.TS. Nguyễn Tri Ân
Đại học Bates, Hoa Kỳ
2 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
Nhìn lại quá trình lịch sử truyền thống dân tộc, Phật giáo
Việt Nam đã ghi đậm những nét son huy hoàng trong mọi
lãnh vực: văn hóa, học thuật, chính trị, quân sự, kiết thiết,
đã hòa một trong nếp sống của quần chúng. Qua các triều
đại Đinh, Lê, Lý, Trần, quốc gia hưng thịnh, Phật giáo đã
là cương lĩnh của chính quyền của nền pháp trị bình đẳng.
Nhưng Phật giáo không vì sự đóng góp hữu dụng vào quốc
sách dân sinh một cách tích cực và chân chánh mà khuynh
loát, đàn áp các tôn giáo khác. Ngược lại, Phật giáo đã dung
hòa mầu nhiệm cùng với các tôn giáo khác để cung ứng
những tinh hoa thuần túy cho sự ích quốc lợi dân. Tinh thần
Phật giáo đã gắn liền với tinh thần quốc gia dân tộc: Phật
giáo thịnh thì quốc gia thịnh, Phật giáo suy thì quốc gia suy.
Điều này lịch sử đã minh nhận.
Thích Quảng Đức, ĐƠN XIN TỰ THIÊU
Trong lịch sử cận đại, Hòa thượng Thích Quảng Đức là
một nhân vật lịch sử, một vị tăng Việt Nam của thế kỷ XX
được xưng tụng và ca ngợi là một vị Bồ-tát xả bỏ thân mạng
để cứu nguy dân tộc và đạo pháp cũng như làm rạng rỡ cho
Phật giáo Việt Nam. Sự tự thiêu của ngài ở Sài Gòn vào ngày
11 tháng 6 năm 1963 chống lại chế độ độc tài và đàn áp tôn
giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm không những đã khiến
cho người Phật tử Việt kính ngưỡng, mà cả thế giới đều ngạc
nhiên và kính phục trước hành động khó nghĩ bàn đó. Trải
qua gần nửa thế kỷ, tên tuổi của Ngài đã viết thành sách, và
đã khắc trên đá. Phật giáo đồ đã, đang và sẽ xây dựng bảo
tháp, công viên và nhiều tượng đài để tưởng niệm đến công
ơn của Ngài. Nhiều ngôi chùa, tu viện và trung tâm văn hóa
Phật giáo đã vinh danh ngài bằng cách dùng tên Quảng Đức
để đặt tên cho cơ sở. Tên của ngài đã được đặt cho tên một
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 3
con đường tại quận Phú Nhuận nơi có ngôi chùa Quán Thế
Âm, ngôi tự viện cuối cùng ngài làm trụ trì.
Nhân kỷ niệm đúng 50 Hòa thượng Quảng Đức tự thiêu,
tập sách này xin đóng góp hai vấn đề để làm sáng tỏ thêm
cuộc đời và hành hoạt của ngài. Phần một là viết lại tiểu sử
bằng cách hiệu đính lại năm sinh, tên tuổi thật dựa vào các
văn bản và tư liệu. Trong phần này cũng ghi thêm đôi chút về
cha mẹ và người anh trai của Hòa thượng. Một số hoạt động
Phật sự của Hòa thượng từ năm 1958 đến năm 1963, nhất
là mấy năm cuối đời trước khi ngài tự thiêu dựa trên một số
văn bản còn lưu trữ sẽ được bàn tới trong phần này. Thêm
nữa, một số văn bản quan trọng cả chữ Nôm lẫn chữ Việt do
ngài viết trong hai tuần trước khi tự thiêu sẽ được tóm tắt giới
thiệu, hiệu đính và phân tích. Phần thứ hai là tuyển chọn và
phiên âm 9 bài ngài viết bằng chữ Nôm qua chữ Việt. Phần
này rất quan trọng vì qua đó chúng ta biết được thêm về tư
tưởng của ngài, nhất là tập Diễn Giảng và các bài diễn văn
khác. Nguyên văn thủ bút và di cảo của bảy bài chữ Nôm
(trong phần 9 bài tuyển chọn in trong tập sách này) được in
trong tạp chí Suối Nguồn, số 9, chuyên đề BÚT TÍCH CHỮ
NÔM VÀ DI CẢO CỦA HÒA THƯỢNG THÍCH QUẢNG
ĐỨC. Xin giới thiệu để quý đọc giả có thêm phần tư liệu
tham khảo.
Công trình nghiên cứu này được dựa trên ba nguồn tư
liệu chính. Thứ nhất là các văn bản, các bài viết, các văn thư
lưu trữ của Hòa thượng để lại ở chùa Quán Thế Âm. Các tư
liệu này được HT. Thích Thông Bửu, đệ tử truyền chân của
ngài cất kỹ trong tủ kính đã gần nửa thế kỷ. Đây là những tư
liệu viết tay bằng chữ Nôm, các công văn giấy tờ, các quyển
sổ chi thu, sổ quy y, và cầu an cầu siêu của Hòa thượng để
lại. Các văn bản bằng chữ Nôm gồm có các bài viết ngắn và
4 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
dài. Ngắn thì 1, 2 trang; dài thì từ 5 trang đến 23 trang. Đây
là những tư liệu chữ Nôm rất quý và có giá trị, chưa bao giờ
được phiên âm ra tiếng Việt, công bố hay xuất bản. Các tư
liệu và “nét bút pháp” như chữ của Hòa thượng viết trong
bản di chúc 10 điều, tạo nên một nền tảng căn bản để chúng
ta tìm hiểu hành động, tư tưởng và hành hoạt của con người
lịch sử này. Bên cạnh đó chúng ta cũng có thể xem các thủ
bút để lại của Hòa thượng có thể đóng góp và làm giàu thêm
một chút về di sản văn Nôm trong lịch sử cận đại của nước
nhà. Phần tư liệu chữ Việt, ngoài công văn giấy tờ và các sổ
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 5
sách chi thu ba ngôi chùa nơi Ngài từng trụ trì vào những
năm cuối đời, Hòa thượng còn để lại hai bản di chúc đánh
máy có ký tên và đóng dấu, được viết rất cẩn trọng không
bao lâu trước ngày ngài tự thiêu. Nếu ta hợp chung hai tờ di
chúc này với ba tư liệu đã được biết đến từ trước: Đơn Xin Tự
Thiêu, năm bài thơ chữ Nôm, và bài Lời Nguyện Tâm Quyết,
chắc chắn sẽ làm sáng tỏ thêm về tâm trí sáng suốt, về sự
hiểu biết thời cuộc chính trị, về tâm nguyện tha thiết với đạo
pháp, với Tăng Ni Phật tử, cùng các đệ tử xuất gia và tại gia,
cũng như sự chuẩn bị chu đáo và cẩn trọng của ngài trước
khi tự thiêu. Qua đây chúng ta cũng thấy hạnh nguyện bồ tát
của Hòa thượng.
Để thấy sự hành hoạt của Hòa thượng trong công việc
hoằng pháp, tôi cũng đi thăm bốn khu vực nơi có lưu vết
tích của Hòa thượng. Thứ nhất là tỉnh Khánh Hòa, nơi ngài
đã sinh ra, lớn lên tu học và hành đạo cho đến năm 1945, khi
ngài phải lánh nạn chiến tranh, rời đất Khánh Hòa vì bị Pháp
lùng bắt, rồi đi hành cước nhiều nơi, thay tên họ và ngày
tháng năm sinh, và cuối cùng định cư tại miền Nam. Tại đây
tôi cũng đã đi thăm trên 10 ngôi chùa nơi ngài từng ở, từng
xuất gia tu học, hành đạo, tại ba quận Vạn Ninh, Vạn Giả,
và Ninh Hòa.(1) Ngoài các ngôi chùa trong ba quận, tôi cũng
1. Theo các công văn, giấy phép đi đường trước 1975 thì ba địa
phương này nằm trong khu vực hành chánh của quận. Sau 1975, danh từ
hành chánh quận đổi lại thành huyện. Bây giờ địa phương Vạn Giả được
nâng cấp lên thành trị trấn làm trung tâm thương mãi và hành chánh của
huyện Vạn Ninh. Xin đọc thêm các tư liệu và công văn bằng chữ Việt
trong phần phụ đính.
Xin tham khảo thêm bài viết “Về 14 ngôi chùa ở Khánh Hòa” của
Thích Như Hoằng ở trong Bồ Tát Quảng Đức: Ngọn Lửa và Trái Tim do
Lê Mạnh Thát chủ biên. Thành Phố Hồ Chí Minh: Nhà Xuất Bản Tổng
Hợp TP Hồ Chí Minh, 2005, trang 127-140.
6 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
đã đến thăm từ đường nơi thờ cha mẹ của Hòa thượng tại
làng Hội Khánh. Tại đây tôi đã tiếp xúc và nói chuyện với cụ
Lâm Sâm, là cháu ruột gọi Hòa thượng bằng chú. Rồi viếng
thăm Phật Học Viện Nha Trang nơi có tháp mộ của sư Viên
Minh vừa là anh cả vừa là sư huynh của Hòa thượng và tiếp
xúc với HT. Trụ trì chùa Long Sơn. Khu vực thứ hai là tỉnh
Định Tường (nay là Tiền Giang) nơi ngài đã làm trụ trì và
địa điểm hoằng pháp sau khi ngài rời Sài Gòn đầu năm 1958
khi trụ sở của Phật Học Nam Việt dời chùa Xá Lợi mới được
xây nguy nga tráng lệ, và mặc dù được ông Mai Thọ Truyền,
Hội Trưởng Hội Phật Học thỉnh ngài trụ trì, nhưng ngài đã
từ chối. Trái lại, ngài đã về vùng Cai Lậy nghèo nàn, dân cư
lam lũ và hành đạo trên hai năm ở đây. Trong thời gian hành
đạo tại vùng Tiền Giang, ngài đã nhận làm trụ trì chùa Thiên
Phước, chùa Long Phước và được mời giảng dạy tại chùa
Phật Ân, thành phố Mỹ Tho, trụ sở của Hội Phật Giáo tỉnh
Định Tường. Thiên Phước là một ngôi chùa nhỏ, hẻo lánh,
ngoài việc trùng tu và mở trường tư thục dạy học, ngài lại có
chút thời giờ nên các bài viết chữ Nôm quan trọng trong tập
di cảo, dùng để giảng dạy đều soạn tại chùa này.
Khu vực thứ ba là thị xã Hà Tiên thuộc tỉnh Kiên Giang
có chùa sắc tứ Tam Bảo, và một vài nơi trong vùng ngài đã
hoạt động Phật sự một thời gian sau những năm tháng rời
Khánh Hòa. Về cuối thập niên 1950, ngài đã về lại đây nhiều
lần tổ chức tu học và giảng pháp trong thời gian ngài trụ trì
chùa Phước Hòa ở Bàn Cờ.
Khu vực cuối cùng là Thành phố Hồ Chí Minh, gồm các
chùa Long Vĩnh nơi Hòa thượng làm trụ trì vào những năm
cuối thập niên 1940 cho đến năm 1955-56 khi chùa giao lại
cho thầy Thích Thanh Roản. Chùa Phước Hòa ở Bàn Cờ, là
trụ sở cũ của Hội Phật Học Nam Việt, nơi ngài làm trụ trì từ
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 7
năm 1953 đến đầu năm 1958. Chùa Quán Thế Âm, nơi di tích
cuối cùng của Hòa thượng, và là nơi có nhiều hồ sơ và vật
kỷ niệm của ngài. Chùa Xá Lợi, là văn phòng và cơ sở chính
trong công cuộc đấu tranh đòi tự do tôn giáo chống lại chế
độ ông Diệm năm 1963, đây cũng là nơi Hòa thượng chụp
nhiều tấm ảnh kỷ niệm trước khi tự thiêu. Sau khi tự thiêu,
nhục thân của Ngài đã quàng tại đây, và cũng là nơi trái tim
bất diệt của ngài được thờ cho đến ngày 20 tháng 8 năm 1963
trước ngày ông Ngô Đình Nhu tổ chức chiến dịch Nước Lũ
tổng tấn công chùa chiền bắt giam Tăng Ni. Chùa Ấn Quang
8 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
nơi Hòa thượng đã được thỉnh về ẩn tu sau khi nộp đơn xin tự
thiêu trình lên Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo. Trong thời
gian hai tuần lễ trước ngày tự thiêu, ngài đã ngày đêm hành trì
tụng niệm Kinh Pháp Hoa và thiền định. Đây cũng là nơi Ngài
viết 5 bài thơ chữ Nôm, bài Lời Nguyện Tâm Quyết và hai tờ di
chúc. Tấm ảnh ngài đứng nghiêm trang chỉnh tề trong bộ y hậu
màu vàng, tay cầm xâu chuỗi 108 hạt đã được chụp ở đây và
đã chính thức được sử dụng làm bức chân dung để thờ ở các
chùa và tự viện. Chùa Phật Bửu nơi ngài dự lễ cầu siêu cho
các vị thánh tử đạo vào buổi sáng trong ngày trọng đại lịch
sử, ngày 11-6-1963, ngày ngài hoàn thành hạnh nguyện bồ
tát lợi tha, tự thiêu để bảo tồn đạo pháp. Điểm cuối ở Sài Gòn
là bảo tháp và công viên kỷ niệm nơi ngài tự thiêu tại ngã tư
đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt (nay là Nguyễn
Thị Minh Khai và Nguyễn Đình Chiểu).
Chùa Quán Thế Âm, nơi di tích cuối cùng của Hòa thượng, và là nơi
có nhiều hồ sơ và vật kỷ niệm của Hòa thượng.
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 9
Ngoài các nơi chốn kể trên, có thể Hòa thượng đã đến Lào
và Cam Bốt. Theo lời kể của thầy đương kim trụ trì chùa sắc
tứ Long Sơn (Phú Cang, Vạn Phú, Vạn Ninh, Khánh Hòa)
và thầy Như Hoằng trụ trì chùa sắc tứ Thiên Tứ (Mỹ Trạch,
Ninh Hòa, Khánh Hòa) thì ngài đã đến hoằng pháp tại thủ đô
Vạn Tượng (Vientiane), thành phố Luang Prabang và Savannakhet là ba nơi có rất nhiều kiều bào người Việt sinh sống.
Tại Vạn Tượng ngài có một vị đệ tử xuất gia chuyên chữa
bịnh cho dân địa phương. Có thể điều này rất đúng vì tại chùa
Thiên Tứ có một bức hình Ngài chụp với ba vị sư người Việt
ở Lào năm 1946. Theo các văn tịch của chùa Thiên Ân nơi
Hòa thượng trụ trì từ năm 1933, thì năm 1945 chiến tranh,
ngài chạy lánh nạn. Có thể là ngài đã lánh nạn qua Lào và
ở đây một thời gian, rồi đã xuống Cam Bốt trước khi trở về
Gia Định và Sài Gòn rồi thay đổi tên họ, năm sinh và định cư
10 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
trên dưới 10 năm ở đây. Cũng theo thầy Như Hoằng thì Hòa
thượng Quảng Đức đã lưu trú tại chùa Thanh Quang và chùa
Kim Cang tại Nam Vang (Phnom Penh). Hài ngôi chùa Việt
này tại thủ đô nước Cam Bốt do các vị sư dòng Chúc Thánh
sáng lập. Tại chùa Thiên Phước (Ninh Quang, Ninh Hòa,
Khánh Hòa), nơi ngài trụ trì các năm 1961-62 (xem phần
sau) còn giữ một ấn tín khắc HOA-THUONG QUANGDUC ӝ CHUA KIEM CANG. Có thể con dấu này đã làm ở
Nam Vang vi khác với các ấn tín Hòa thượng để lại, ấn tín
này các chữ đều viết hoa và không có dấu hỏi ngã nặng
trong hệ thống ngữ âm tiếng Việt (xin xem hình). Nếu thật
sự ngài đã hoạt động Phật sự trong giới kiều bào người
Việt tại Nam Vang sau năm 1945, thì có thể đây là ấn tín
của ngài trong thời gian lưu trú tại Cam Bốt. Trong bài thơ
Cùng hàng Phật tử quy y, thế độ và xuất gia, có ba câu viết
về chốn ngài từng ở và sinh hoạt Phật sự trong đó có nhắc
tới Nam Vang:
Gia Định Sài-Gòn hỡi các con
Hà Tiên, Cai Lậy Thầy vẫn còn
Nam Vang, Núi Lớn Thầy ghi dấu.
Khánh Hòa đệ tử giữ ấn son.
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 11
Nhìn chung, địa bàn hoạt động Phật sự của Hòa thượng
rất rộng lớn, từ xứ trầm hương Khánh Hòa, đến nơi đô hội
phố thị Sài Gòn, từ vùng đồng bằng sông nước Cửu Long,
đến chốn xa xôi Hà Tiên hẻo lánh, từ nước Việt Nam đến hai
quốc gia láng giềng. Phải đi thăm các nơi hành đạo của Hòa
thượng chúng ta mới thấy ngài phải có một hạnh nguyện lớn,
một khả năng ứng dụng tài giỏi, một vị tăng có uy đức không
những được Phật tử cùng đồng bào kính mến, mà ngài còn
rất khéo léo tế nhị với các cấp của chính quyền địa phương,
nên công tác Phật sự của ngài được thuận lợi. Thêm vào đó
ngài phải có một sức khỏe dồi dào và bền bỉ chịu khó đi lại
giảng dạy và hướng dẫn Phật tử các nơi mới làm được những
việc này. Một vài chùa ngài trụ trì như Thiên Tứ, Thiên Ân,
Thiên Phước và Pháp Hải ở (Khánh Hòa) và Long Phước ở
Cai Lậy (Định Tường, nay là Tiền Giang) ở làng mạc hẻo
lánh, cách xa trục lộ giao thông. Khi đi thăm những vùng
này, chúng ta mới thấy dân ở đây còn rất nghèo, phần lớn
các nơi người Phật tử rất ít hiểu biết về Phật Pháp mà chỉ có
lòng tín ngưỡng, do vậy ngài lấy hạnh nguyện độ sanh, giúp
người làm trọng điểm, như chúng ta thấy tuy ngài có cầm
bút viết một số bài bằng chữ Nôm, trọng điểm là 18 trang
Diễn Giảng. Nhưng cuối cùng ngài cảm thấy chuyện dịch
thuật nghiên cứu viết lách không phải là sở trường và bản
nguyện của ngài, nên Hòa thượng đã không hoàn thành tất
cả các bài viết. Có đi thăm các nơi này chúng ta mới thấy
trước hết ngài phải hiểu biết phong tục tập quán, thổ âm và
thổ ngữ địa phương mới hòa nhập vào con người và nếp sống
của từng vùng, rồi mới có dịp hóa độ họ được. Đọc bài viết
Nghề Ủ Nấm Rơm chúng ta nhận thấy rằng ngài đã tìm một
nghề thực dụng để dạy cho đồng bào Phật tử vùng Cai Lậy
sau các vụ mùa khi người nông dân ở đây có sẵn rơm rạ là
12 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
vật liệu chính để làm nấm. Cũng đọc kỹ bài này chúng ta lại
thấy ngài rất am hiểu vườn tược, nhà cửa và nếp sống của
người dân ở đây.(2)
Thứ hai là ngài đã đem các phương tiện khéo léo ra giúp
dân bản địa. Qua các câu chuyện khi tiếp xúc với con cháu
của người dân bản xứ có ông bà cha mẹ từng được ngài
dạy dỗ và giúp đỡ, chúng ta biết rằng ngài đã vận dụng các
phương tiện thiện xảo như chữa bịnh, xem ngày tốt cho các
việc cưới hỏi, đám tang, xem hướng xây cất nhà cửa, và địa
lý cho mồ mả, v.v... tụng kinh trì chú cầu nguyện cho người
sống và kỳ siêu cho người chết, tổ chức trai đàn chẩn tế siêu
độ cho vong linh và cô hồn uổng tử, quy y cho Phật tử tại gia,
tổ chức một ngày tu học theo Bát Quan Trai giới. Tất cả các
điều này như là một phương tiện thiện xảo để giúp đỡ và cảm
hóa người dân. Các tư liệu và sách vở viết tay của ngài để lại
như các bộ Du Già dùng để cúng trai đàn chẩn tế, tuyển tập các
bài thuốc Bắc và thuốc Nam, sách địa lý Tả Ao, sách Lục Hạp
xem tuổi, các quyển lịch Tàu để xem ngày tháng tốt, bản viết
tay mật chú Phổ Am, vân vân, cho ta biết được những điều này.
Thứ ba là ngài phải có kiến thức tổng quát và dung hợp
khéo léo mới tiếp xúc đủ các thành phần trong xã hội, từ
người nghèo không biết chữ ở các vùng quê Cai Lậy đến từng
lớp tri thức hay giàu có ở Sài Gòn. Là một “itinerant monk”
2. Về các sách vở liên quan đến sự học tập, giáo dưỡng và hành trì của
Hòa thượng, xin xem thêm Lê Mạnh Thát chủ biên. Bồ Tát Quảng Đức,
Ngọn Lửa và Trái Tim, NXBTH TP Hồ Chí Minh, 2005, trang 50-51. Đại
đức Thích Như Hoằng, trụ trì tổ đình sắc tứ Thiên Ân (Mỹ Trạch, Ninh
Hà, Ninh Hòa, Khánh Hòa) đã đi các chùa nơi Hòa thượng trụ trì và sưu
tập rất nhiều sách vở, và các bản khế ước Hòa thượng để lại. Ngoài ra, tại
tủ lưu niệm ở chùa Quán Thế Âm, Phú Nhuận, Hòa thượng cũng để lại
các sách vở vừa đề cập ở trên.
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 13
vị sư vô sở trụ vì từ lúc nhập thế hoằng pháp (1933) cho đến
khi tử vì đạo (1963), ngài chưa trụ trì một chùa nơi nào trên
5 năm. Như lời viết của Thượng tọa Thiện Hòa (chức vụ lúc
bấy giờ), Trị Sự Trưởng Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, trong
văn thơ đề ngày 18-1-1962, về thầy Quảng Đức: “Thượng
tọa có đủ duyên tốt là đến đâu một thời-gian thì cảnh chùa
ấy trở nên lành kín và vui vẻ, nhưng ở một lúc khai hóa rồi
đặt người giao phó lại đi nơi khác, nhờ không trụ-trước ngã
sở mà Phật-sự làm được nhiều.”
Vì bản nguyện xây dựng và trùng tu các ngôi chùa đổ nát,
đem Phật pháp đến với kẻ nghèo và bình dân, làm chí nguyện
độ sanh, và ít khi ở một nơi nào thật lâu và thường đi, nên
ngài hầu như không có đệ tử xuất gia, thỉnh thoảng mới có
đệ tử cầu pháp mà thôi. Thí dụ, Thượng tọa Từ Hạnh (chức
vụ bấy giờ) là vị đệ tử cầu pháp khá vững vàng nên ngài đã
giao nhiệm vụ giảng dạy và hướng dẫn các Phật tử tu học ở
các chùa ngài làm trụ trì, sau khi ngài tự thiêu, như chúng
ta thấy rõ ở trong tờ di chúc. Thầy Thông Bửu là người đệ
tử xuất gia vào cuối đời của ngài và được kế thừa tâm pháp,
nhưng lúc đó còn nhỏ tuổi nên không được giao cho các việc
hoằng pháp.(3) Như thế chúng ta thấy ngài lấy tấm lòng bồ tát
giúp cho hàng Phật tử tại gia, quan tâm cho giới cư sĩ hơn là
độ người xuất gia, thường hay tới giúp đỡ những nơi nghèo
nàn. Có thể đó là bản hoài của ngài. Do vậy, ngài đã đạt được
tâm ý tự tại, không chấp trước vào “ngã sở” cái này là của ta,
đến và đi vô ngại, nên ngài không bị phiền não vướng bận.
Nói tóm lại, từ những di cảo, thủ bút, công văn, sổ sách giấy
tờ của Hòa thương để lại, chúng ta có một hình ảnh rõ hơn về
cuộc đời, cách làm việc và tư tưởng dấn thân của ngài.
3. Xin đọc thêm hai bản di chúc của ngài, trang 61,62.
14 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
PHẦN TIỂU SỬ
• Tên và tuổi
Theo thủ bút chữ Hán chính tay Hòa thượng viết ở phần
cuối bài Kệ Xuất Vân thì ngài tên thật là Lâm Văn Tuất, sinh
vào giờ tý, ngày 15 tháng 9, năm Mậu Tuất (29-10-1898). Vì
ngài sinh vào năm Tuất cho nên cha mẹ ngài theo lối thông
thường của một số gia đình người Việt là sinh con năm nào
thì đặt tên con của mình theo năm đó. Do vậy tên ngài (tục
danh hay húy danh) là Tuất. Một số bài viết, hoặc văn bia
tưởng niệm về cuộc đời của ngài vì có thể không hiểu vấn
đề, hoặc muốn viết tên ngài cho có vẽ văn chương hơn nên
nói trại là Nguyễn Văn Tất hoặc Nguyễn Văn Tức.(4) Tất cả
4. Thí dụ Bia Ghi Công Đức Bồ Tát Thích Quảng Đức được dựng
tại công viên mới thành lập năm 2009 ghi ở trong đoạn mở đầu: “Bồ tát
Thích Quảng Đức, thế danh là Lâm Văn Tức sinh năm 1897 (năm Đinh
Dậu tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh
Hòa”. Ở đây chúng ta thấy tên và năm sinh của Hòa thượng khác với
những gì mà Ngài đã tự ghi ở cuối bài Kệ Xuất Vân.
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 15
các tư liệu và văn bản liên quan đến ngài có niên đại từ năm
1933 đến năm 1945, nghi chép về các hoạt động Phật sự, và
chức vị trụ trì ở các chùa sắc tứ Thiên Ân và Linh Sơn tại
huyện Vạn Ninh đều nhắc đến thế danh của ngài là Lâm Văn
Tuất. Hơn nữa, các văn kiện pháp lý của chùa Thiên Ân có
niên đại năm 1960 và 1961 viết rằng các bô lão trong làng
cũng như thầy đương kim trụ trì làm lại giấy tờ sở hữu đất
đai của chùa đều nhắc là Hòa thượng Lâm Văn Tuất. Một vài
văn bản khác ghi Hòa thượng Quảng Đức, tục danh Lâm Văn
Tuất.(5) Nói tóm lại, từ khi sinh ra cho đến lúc lánh nạn chiến
tranh từ năm 1945 khi ngài rời tỉnh Khánh Hòa đều nghi tên
tục danh của ngài là Lâm Văn Tuất.
Do vậy, về vấn đề họ tên và tuổi tác chúng ta cũng cần
nên hiệu đính lại cho chính xác. Tác giả nhắc tới vấn đề này
vì khi đi khảo sát điền giả ở các chùa ngài kiến tạo, trùng
tu hoặc làm trụ trì, mỗi nơi ghi mỗi khác. Các sách vở báo
chí viết về ngài cũng bất nhất trong vấn đề năm sinh và họ
tên. Như trên đã đề cập là cuối phần của bài Xuất Kệ Vân
bằng chữ Nôm do Hòa thượng viết ngày mồng tám, tháng tư
nhuận, năm Quý Mão (30-5-1963),10 ngày trước khi tự thiêu,
ngài đã ghi rất rõ đầy đủ tên họ và năm sinh của mình (xin xem
phụ bản chữ Nôm). Toàn văn bằng chữ Hán như sau:
𡻕次癸卯年潤四月初八日觀世音寺住持和尙釋廣德
出偈云.
俢仕阮文㓗法名是始字行法號仁知覺性釋廣德俗名
林文戌元生戊戌年九月十五日子時而生.
5. Về các điểm này, xin tham khảo thêm các văn kiện số 2 (trang 3941), số 5 (trang 53-55), số 11 (trang 68-69), và số12 (trang 69-71). Trong
các văn kiện này chỉ đề cập tới tên thật của Hòa thượng Quảng Đức là
Lâm Văn Tuất. Lê Mạnh Thát, sđd.
16 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
Phiên âm:
Tuế thứ Quý Mão niên, nhuận tứ nguyệt, sơ bát nhật,
Quán Thế Âm tự, trụ trì Hòa thượng Thích Quảng Đức xuất
kệ vân.
Tu sĩ Nguyễn Văn Khiết, pháp danh Thị Thủy, tự Hạnh
Pháp, hiệu Nhân Tri, giác tánh Thích Quảng Đức, tục danh
Lâm Văn Tuất, nguyên sinh Mậu Tuất niên, cửu nguyệt, thập
ngũ nhật, tý thời nhi sinh.
Dịch nghĩa:
Hòa thượng Thích Quảng Đức, trụ trì chùa Quán Thế Âm
làm bài kệ vào ngày mồng tám, tháng tư nhuận, năm Quý
Mão (30-5-1963).
Tu sĩ Nguyễn Văn Khiết, pháp danh Thị Thủy, tự Hạnh
Pháp, hiệu Nhân Tri, giác tánh (tên họ theo đạo giác ngộ)
Thích Quảng Đức, tục danh Lâm Văn Tuất, sinh giờ tý, ngày
15 tháng 9, năm Mậu Tuất (29-10-1898).
Một thế danh khác của ngài là Nguyễn Văn Khiết sinh
ngày 15 tháng 10 năm 1890. Đây là tên họ và năm sinh theo
thẻ căn cước do ngài khai vào năm 1955. Theo như các tư
liệu cũ nói là cha mẹ của ngài không những cho ngài xuất
gia tu học theo cậu, mà còn cho hẳn làm con nuôi nên đổi
họ theo ông cậu, từ Lâm qua Nguyễn. Vấn đề ngài có tên là
Nguyễn Văn Khiết do cậu ruột và cũng là bổn sư Hòa thượng
Hoằng Thâm chính thức đặt cho không có cơ sở vì như đã
dẫn ở trên là các văn kiện trước năm 1945, không có một bản
nào đề cập đến thế danh này.
Nói chung năm 1955 cho đến ngày viên tịch, thế danh
của ngài là Nguyễn Văn Khiết sinh năm 1890, được dùng
trong các giấy tờ pháp lý. Thí dụ trong đơn cúng chùa Thiên
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 17
Phước đề ngày 9 tháng 11 năm 1959 của ông Lê Văn Phòng,
xã Phú Quý, tổng Hòa Lợi, quận Cai Lậy, xin cúng chùa
Thiên Phước cho Hòa thượng Quảng Đức. Trong đơn có ghi
tên họ, năm sinh của Hòa thượng y cứ theo thẻ căn cước. Ở
đây chúng ta thấy rằng trong đơn ngoài chữ ký của chủ chùa,
các vị đại diện bổn đạo, người tả đơn, đại diện hội đồng xã,
cảnh sát, còn có chữ ký và con dấu của Hòa thượng Đạt
Hương là vị Tri Sự Trưởng Giáo Hội Tăng Già tỉnh Định
Tường, và ông Hội trưởng Chi Hội Phật Giáo Cai Lậy, chứng
minh cho thầy Hòa thượng Nguyễn-Văn-Khiết là thành viên
của hội Phật giáo tại địa phương và tỉnh nhà. Xin được trích
đoạn trong tờ đơn cúng chùa:
“Hiện nay chúng tôi không đủ sức cai quản nữa, nên
chúng tôi tình nguyện cúng đức [đứt] ngôi chùa nói trên cho:
Ông Hòa-thượng Nguyễn Văn Khiết, tục danh Giác Tánh; pháp
hiệu Quảng Đức, sanh năm 1890 tại Nha Trang, thẻ căn cước
số N. I7 07/90 A.057954, cấp tại Saigon ngày 9-12-55.”
Ở cuối đơn trong phần ký tên của người nhận chùa là: “Ông
Hòa-thượng Nguyễn-VănKhiết, pháp hiệu Quảng Đức.”
Các văn bản khác đều thống nhất trong vấn đề này. Thí
dụ các tờ đơn xin đi đường, hoặc giấy phép cất tịnh thất đều
ghi ngài sinh năm 1890. Một số văn kiện khác có niên đại
năm 1962, không ghi năm sinh nhưng ghi rõ là ngài 72 tuổi.
Có nghĩa là ngài sinh năm 1890. Thí dụ tờ đơn đề ngày 282-1962 gởi cho chính quyền quận Ninh Hòa về việc ngài vào
Nam xin xuất tịch có đoạn viết:
Nguyên tôi là Nguyễn-Văn-Khiết, Pháp Hiệu Quảng Đức,
tục danh Giác-Tánh, 72 tuổi, thẻ Kiểm-tra số 90 A 057954.
Sanh chánh tại Nha Trang (Trung Phần) là một tu sĩ xuất gia
tu học đã lâu. Vì sự hoằng hóa Đạo Pháp nên tôi đã vào Nam
18 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
từ năm 1945, mãi đến năm 1955 tôi được chánh quyền miền
Nam cấp thẻ Kiểm-tra và được coi như người dân bản xứ.
Có ba điểm tuy nhỏ nhưng khá thú vị và do đó nên cần
đôi chút lưu tâm ở đây. Thứ nhất ngài viết là vào Nam năm
1945. Điều này rất hợp với các giấy tờ và văn bản còn giữ
ở các chùa ngài từng làm trụ trì ở hai huyện (ngày trước là
quận) tại tỉnh Khánh Hòa nói là ngài lánh nạn địa phương
vào năm 1945. Trong văn bản chứng nhận công tác Phật sự
do Thượng tọa Thiện Hòa ký ngày 18-1-1962, cũng nghi rõ
ở đoạn mở đầu về năm vào miền Nam: “Thượng tọa Thích
Quảng-Đức, tục danh là Nguyễn-văn-Khiết, vì sự hoằng-hóa
mà vào miền Nam: từ năm 1945 đến năm 1961 trong khoảng
thời gian mười mấy năm ...”. Điểm thứ hai là tất cả giấy tờ
sau năm 1955 đều nghi rõ ngài tên là Nguyễn-văn-Khiết.
Và đây cũng là điểm thứ ba là đến năm 1955 ngài mới được
chánh quyền miền Nam cấp cho thẻ căn cước. Như thế cũng
khiến cho chúng ta đặt ra một vài nghi vấn. Thứ nhất là trong
vòng hơn 10 năm, tức là trong thời gian chiến tranh giành
lại độc lập từ chính quyền thực dân Pháp (1945-1954), ngài
có giấy tờ gì hợp lệ không? Thứ hai là trong một số giấy tờ
pháp lý Hòa thượng ghi: “Nguyên tôi là Nguyễn-Văn-Khiết
... tục danh Giác Tánh”. Vấn đề ở đây không biết Ngài có
ngụ ý như thế nào khi viết tục danh là Giác Tánh? Thông
thường người đời chỉ có một tục danh. Trong bài cuối bài
Kệ Xuất Vân ngài cũng nhắc đến là 覺性釋廣德 giác tánh
Thích Quảng Đức (cũng có thể đọc là giác tính), như thế có
phải ngụ ý là tâm tánh của ngài đã giác ngộ rồi không? Các
ghi vấn này cũng cần nên ngẫm nghĩ.
• Phụ mẫu
Hòa thượng sinh ra trong một gia đình làm nông tại làng
Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 19
Hòa. Hội Khánh là một thôn nghèo nằm về phía biển đông
bên phải đường quốc lộ số 1A, đi từ Nam ra Bắc, cách trạm
xe lửa Tu Bông không xa. Thân phụ của Ngài là ông Lâm
Hữu Ứng, pháp danh là Thị Cảm, quy y với tổ Hoằng Thâm
ở chùa Long Sơn. Tuy rằng là một Phật tử nhưng ông vẫn
theo tinh thần, đạo đức và mẫu mực đời sống của đạo Khổng,
lấy gia phong, và thờ cúng ông bà tổ tiên làm trọng.
20 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
Thân mẫu của ngài là bà Nguyễn Thị Nương, xuất thân
từ một gia đình Phật giáo, gốc người tỉnh Phú Yên và theo
gia tộc dời vào xã Phú Cam, huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh
Hòa khoảng bán thế kỷ XIX, nhập tịch và lập nghiệp ở vùng
này.(6) Ở đây gia đình họ Nguyễn đã gặp và làm sui gia với gia
6. Lê Mạnh Thát, sđd, trang 79.
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 21
đình họ Lâm. Bà Nguyễn Thị Nương quy y cùng thầy với chồng
có pháp danh là Thị Tùng. Bà có người anh ruột là ông Nguyễn
Văn Giá xuất gia tu học với Hòa thượng Thiên Quang ở tổ đình
Linh Sơn. Sau khi trưởng thành ông về làm trụ trì chùa Long
Sơn, thường gọi là Hòa thượng Hoằng Thâm (1857-1921). Nói
chung thì toàn thể gia đình cha mẹ anh em của ngài Quảng Đức
đều quy y cùng với Hòa thượng Hoằng Thâm nên đều có pháp
danh bắt đầu bằng chữ thị 是, như trong bài kệ truyền pháp của
dòng Chúc Thánh: Minh thiệt pháp toàn chương, ấn chơn như
thị đồng (明實法全彰 印真如是同).
Ngài là con út trong gia đình gồm bảy anh chị em. Năm
anh chị em trên ngài đều chết sớm, chỉ còn người anh cả
Lâm Văn Quy, được cha mẹ cho đi tu với Hòa thượng Hoằng
Thâm lúc còn nhỏ tuổi. Lúc lên bảy tuổi ngài cũng được cha
mẹ cho đi tu theo chân ông anh cả. Theo ông Lâm Sâm, cháu
gọi Hòa thượng Quảng Đức bằng chú ruột, nói rằng ông bà
nội nhờ cho hai người con trai đi tu nên mới khỏi bị chết yểu.
Ông Sâm cũng nói rằng là khi còn ở nhà chú Tuất thường bị đau
yếu luôn, và nhờ ở chùa và ơn Phật hóa độ nên sức khỏe của
chú càng lúc càng trở nên mạnh khỏe và càng tráng kiện hơn.(7)
Đó là một cách nói hay và dễ nghe. Sự thật thân thể của
cậu Tuất tráng kiện hơn và tinh thần minh mẫn hơn sau một
thời gian đi tu là nhờ nhiều yếu tố khác. Thứ nhất, là từ khi ở
chùa cậu Tuất ăn uống đầy đủ hơn, không phải bữa đói bữa
no như ở nhà. Long Sơn là một chùa có nhiều ruộng đất ở
trong vùng, và có nuôi rất nhiều bò để cày và lấy phân bón.
Do vậy thực phẩm không phải thiếu thốn như làng quê nghèo
Hội Khánh. Thứ hai, Hòa thượng Hoằng Thâm là người giỏi
7. Tác giả phỏng vấn cụ Lâm Sâm tại từ đường họ Lâm, làng Hội
Khánh, Khánh Hòa tháng 5 năm 2008.
22 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
võ nghệ và đã truyền lại các bài quyền cước, các thế võ gốc
Bình Định cho các vị đệ tử. Do vậy nhờ luyện tập võ nghệ
nên thân thể của ngài tráng kiện hơn. Các vị bô lão trong hai
quận về sau ngài trưởng thành và làm trụ trì đã chứng kiến và
kể lại ngài một mình tay không đã đánh bạt bọn quan lại và
bộ hạ đôi lúc đến chùa áp bức hoặc chăn đường làm khó dễ
ngài. Thứ ba, Hòa thượng Hoằng Thâm biết về y học Đông
phương và có một vị đệ tử lớn là ngài Thị Thanh, hiệu Vô
Vi, rất giỏi thuốc bắc. Sau này ngài Thị Thanh kế truyền sư
phụ làm trụ trì chùa Long Sơn, vừa làm nghề thầy thuốc chữa
bệnh có tiếng trong vùng và rất giỏi cúng kính nghi lễ nên
thường được mời thỉnh đi tụng kinh và chữa bịnh. Ngoài ra
trong chùa cũng có phòng thuốc bắc để bốc thuốc cho người
bịnh.(8) Một điểm khác là nước uống ở chùa trong sạch và
tinh khiết nhờ có giếng và mạch nước tốt ở vùng đồi núi. Còn
làng Hội Khánh gần biển, và hơn nữa nhà cha mẹ của ngài
Quảng Đức ở trong vùng ruộng lúa thấp nên thiếu điều kiện
nguồn nước trong sạch tinh khiết.
Phụ mẫu của ngài cả hai đều đẹp tướng. Theo tấm ảnh
hình chân dung thờ ở từ đường, thân phụ của Hòa thượng là
một người có diện mạo quắc thước. Mặt vuông, trán rộng,
mũi lớn, lông mày dày, nhân trung đầy đặn, mắt đen, sáng tỏa
nét của một người tự tin và dễ chịu. Người ông cao, tướng
thanh nhã, tuy là một nông dân nhưng có bàn tay đẹp, các
ngón tay thon dài. Cũng theo bức ảnh chân dung, mẹ ngài nổi
bật nhất là vừng trán thật cao và rộng tỏa nét của một người
thông minh, dù tuổi đã già nhưng tóc vẫn còn đen mướt và
đôi chân mày rất đen đậm tỏ ra một con người có sức khỏe
8. Xin đọc thêm văn kiện 24, ngày 15-4 năm Bảo Đại thứ 1 (1926),
nói về Hòa thượng giáo thọ hiệu Vô Vi, trụ trì chùa cổ tích Long Sơn. Lê
Mạnh Thát, sđd, trang 94-97.
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 23
tốt. Bà người nhẹ nhàng, chiều cao trung bình của một người
phụ nữ Việt, dù đã lớn tuổi nhưng vẫn còn nét đẹp và cung
cách tao nhã. Hai người con trai của ông bà cụ, sư Viên Minh
và Hòa thượng Quảng Đức, người nào cũng cao lớn giống
cha mẹ. Trong các hồ sơ khai lý lịch và thẻ kiểm tra ghi ngài
Quảng Đức cao 1.66m. Cụ Lâm Sâm cũng rất cao lớn. Sau
khi hai ông bà qua đời, sư Viên Minh, vị con trưởng, có lập bài
vị thờ ở chùa Pháp Hải. Theo bài vị thì cụ ông qua đời ngày 28
tháng 7 âm lịch, cụ bà qua đời ngày 20 tháng 5 âm lịch.(9)
9. Ở bàn tổ chùa Pháp Hải có một cái linh vị làm bằng gỗ rất đẹp để
thờ phụ mẫu của Hòa thượng Quảng Đức. Nguyên văn chữ Hán. “Phụng
vị hiển khảo Lâm Hữu Ứng, Pháp Danh Thị Cảm, hương linh chi vị. Thất
24 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
• Huynh Trưởng Lâm Văn Quý, Viên Minh Hòa thượng
Hòa thượng Quảng Đức có người anh cả tên là Lâm Văn
Quý. Dựa trên thông tin nghi trên tháp một thì ông sinh tháng
5, năm Nhâm Ngọ (1882), lớn hơn chú em út Lâm Văn Tuất
nguyệt nhị thập nhật chánh kỵ. Phụng vị hiển tỷ Nguyễn Thị Nương, Pháp
Danh Thi Tùng, hương linh chi vị. Ngũ nguyệt tam thập nhật chánh kỵ”.
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 25
16 tuổi. Ông xuất gia tu học với Hòa thượng Hoằng Thâm,
và được bổn sư cho pháp danh là Thị Cảnh, pháp tự Hạnh
Phước, và pháp hiệu Viên Minh. Các văn bản và tư liệu liên
quan đến tổ Hoằng Thâm và ngài Quảng Đức chỉ có một văn
bản ghi năm 1961 trong đơn xin đi đường của Hòa thượng
Quảng Đức nói là ra chùa Pháp Hải thăm ông anh đang tu ở
đó. Theo bài diễn văn chữ Nôm do Hòa thượng Quảng Đức
đọc hôm lễ khánh thành chùa Pháp Hải cho biết là ngài đã
về trung tu lại chùa này rồi giao lại chùa cho sư huynh của
mình. Sư Pháp Hải đã trụ trì ở đây đến năm 1967 và viên tịch
tại Phật Học Viện Nha Trang. Theo lời Hòa thượng Chí Tín
trụ trì chùa Long Sơn ở Nha Trang thì sư Viên Minh có thời
gian ra đời về nhà lấy vợ và có con trai. Về sau ông đi tu trở
26 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
lại.(10) Vào năm 2008, khi tới thăm từ đường thờ cha mẹ của
Hòa thượng Quảng Đức tại thôn Hội Khánh, tôi có gặp và
nói chuyện với cụ Lâm Sâm, con trai của ông Lâm Văn Quý.
Ông Lâm Sâm sinh năm 1915, như thế vào năm 2008 cụ đã
trên 93 tuổi, nhưng sức khỏe của cụ còn rất tốt, trí óc minh
mẫn, và đã có cháu nội cháu ngoại trưởng thành. Cụ cao lớn,
tướng đẹp, tinh thần quắc thước. Tôi đã hỏi cụ nhiều vấn đề
và cụ đã trả lời rõ ràng và rất sáng suốt.(11)
Theo tinh thần Nho giáo ông Lâm Văn Quý là một người
con có hiếu. Có thể vì cả hai người con trai còn sống đều
đi tu, nên cha mẹ của ngài Quảng Đức đã xin với tổ Hoằng
Thâm cho đệ sư Viên Minh xả giới về nhà lấy vợ để có cháu.
Nếu tính theo năm sinh của cụ Lâm Sâm là năm 1915 thì lúc
đó Hòa thượng Hoằng Thâm vẫn còn sống. Nếu nói rằng
ngài Quảng Đức đi tu lúc lên bảy tuổi (năm 1905), thì thầy
Viên Minh lúc đó đã 23 tuổi. Như thế chúng ta phải nhận
rằng tổ Hoằng Thâm phải rất từ bi độ lượng mới cho đệ tử
lớn vừa là cháu gọi bằng cậu ruột hoàn tục lấy vợ. Trên quan
điểm Đại thừa Phật giáo thì chí nguyện xuất gia của ông
không kiên cố, không vững bền, nguyện bồ đề của ông bị dứt
đoạn. Người đời thường nói rằng nếu đã xuất gia rồi mà lại
hoàn tục lấy vợ có thể xem như là tu chưa trọn đường, hoặc
nửa chừng đứt gánh. Nhưng nếu theo truyền thống và tinh
thần Khổng Mạnh, việc lấy vợ sinh con được xem như là một
nghĩa cử cao đẹp là báo hiếu phụ mẫu để có người nối dõi
phụng thờ cha mẹ lúc tuổi già và để hương khói sau khi cha
mẹ qua đời. Ông đã làm được điều này. Không biết ông đã đi
tu trở lại năm nào sau khi ông bà Lâm Hữu Ứng đã có cháu
đích tôn. So với bào đệ Quảng Đức, thầy Viên Minh là một
10. Tác giả phỏng vấn Hòa thượng Chí Tín, tháng 5, 2008.
11. Tác giả phỏng vấn cụ Lâm Sâm, tháng 5, 2008.
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 27
vị sư bình thường, đã có thời hoàn tục, lấy vợ, có con, rồi đi
tu trở lại. Sư lại không có biệt tài, hoặc hy sinh cho đời cho
đạo, nên ít người biết đến. Theo các văn kiện và tư liệu thì
năm 1961 khi ngài Quảng Đức về Ninh Hòa và xây dựng lại
cảnh chùa Pháp Hải tại làng Lạc Bình xã Ninh Thọ, và làm
trụ trì một thời gian ngắn, sau đó giao lại cho sư Viên Minh.
Trong bài di chúc 10 điều của Hòa thượng Quảng Đức để lại
không nhắc tới ông anh của mình. Sau khi ngài Quảng Đức
tự thiêu và hỏa táng, sư Viên Minh có đem một ít tro cốt xá
lợi về chùa Pháp Hải và sư đã thuê thợ làm một ngọn đèn lưu
ly xá lợi để thờ ở chùa (xem hình). Theo văn bia bằng chữ
28 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
Hán khắc trên tháp mộ thì sư mất ngày 5 tháng 2 năm Đinh
Mùi (15-3-1967) ở thành phố Nha Trang, trụ thế 85 tuổi.
Cũng theo lời Hòa thượng Chí Tín, trong những năm 1964
đến 1967, dưới thời ông Nguyễn Văn Thiệu, sư thường bị
ban an ninh của chính quyền làm khó dễ, cảnh sát và mật vụ
của tỉnh và quận thường tạo đủ thứ khó khăn và không cho
một người nào được gần gũi sư xuất gia tu học. Do vậy sư
không có đệ tử xuất gia kế thừa. Dù là trụ trì chùa Pháp Hải,
nhưng những năm cuối đời, sư bị chính quyền nghi kỵ này
nọ và hạch hỏi đủ thứ, nên phần lớn sư không ở chùa tại làng
Lạc Bình mà phải hành cước nhiều nơi, đôi lúc phải về tá túc
tại chùa Long Sơn thành phố Nha Trang. Do vậy sư đã mất
ở đây và ngay việc tống táng cũng không có nhiều Phật tử
bổn đạo ở chùa Pháp Hải lo cho trọn tình nghĩa. Tưởng nhớ
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 29
ơn đức ngài Quảng Đức đã tự đốt thân mình cứu nguy đạo
pháp, nên Hòa thượng Trí Tín, Hòa thượng Thiện Bình,(12) và
chúng tăng Phật Học Viện Nha Trang đã lo vấn đề an táng và
xây một ngôi tháp mộ nhỏ nằm trong khu vực tháp mộ của
chư tăng, ở sau Phật Học Viện Nha Trang. Trên ngôi tháp mộ
có ghi lại phả hệ, ngày tháng năm sinh và viên tịch, cũng như
người xây tháp.
NHỮNG NĂM CUỐI ĐỜI
Từ năm 1958, khi trụ sở của Hội Phật Học Nam Việt dời
về chùa Xá Lợi, và chùa Phước Hòa được chuyển lại cho
Hội Việt Nam Phật Giáo, trụ sở của Ni Bộ Bắc tông (do chư
Ni miền Bắc di cư vào Nam), thì Hòa thượng hết làm trụ trì
ở đây, và về hoạt động Phật sự tại Cai Lậy. Kể từ năm 1959,
khi Hòa thượng thật sự có chùa riêng, không thuộc về chùa
hội, hoặc chùa tư nữa, do vậy ngài còn lưu giữ tất cả các sổ
12. Tác giả phỏng vấn Hòa thượng Trí Tín và Hòa thượng Thiện Bình
tại chùa Long Sơn, thành phố Nha Trang tháng 5 năm 2008.
30 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
sách giấy tờ, cùng các văn bản pháp lý. Từ các tư liệu này
giúp chúng ta biết chính xác và rõ ràng hành hoạt của Hòa
thượng hơn. Xin điểm qua các giai đoạn chính như sau. Từ
năm 1958 đến đầu năm 1961, Hòa thượng về hoạt động Phật
sự tại vùng Cai Lậy và Mỹ Tho. Ở đây ngài đã nhận trụ trì
hai chùa, và dạy Phật Pháp ở chùa Phật Ân tại thị xã Mỹ
Tho. Ngài đã hoạt động rất tích cực trong thời gian hai năm
ở đây, rất chú trọng tới vấn đề giáo dục cho Phật tử và con
em nghèo thiếu học. Cũng nơi đây ngài đã dịch thuật và soạn
các bài giảng Phật pháp bằng chữ Nôm như là một tư liệu
Phật học giáo khoa căn bản dùng để dạy. Bài Ủ Nấm Rơm
cũng soạn ở đây để dạy cho dân biết thêm cách làm nấm rơm
sau mỗi vụ mùa khi người dân địa phương gặt hái xong và
có sẵn rơm rạ. Ngoài ra ngài đã mở trường tư thục sơ đẳng
Vạn Đức tại chùa Thiên Phước để dạy lớp 1, 2 và 3 cho các
trẻ em nghèo trong vùng.(13) Tháng 1 năm 1961, ngài về thăm
lại Khánh Hòa, sau chuyến viếng thăm đó Hòa thượng chuẩn
bị về trở về cố hương tu tập và an dưỡng tuổi già. Giữa năm
1961 ngài về xây dựng lại chùa Pháp Hải và trụ trì chùa này
một thời gian ngắn trước khi giao cho sư huynh Viên Minh.
Tháng 9 năm 1961, ngài được cung thỉnh về làm trù trì chùa
Long Phước (Ninh Quang), và cuối năm đó Ngài đã quyết
13. Trong các tư liệu còn cất giữ tại chùa Quán Thế Âm có cuốn sổ
ghi Hòa thượng Quảng Đức và đệ tử giáo viên Bùi Văn Ba khai giảng
trường tư thục Vạn Đức ngày rằm tháng 9 năm Đinh Dậu (1957). Thầy
Ba tức là thầy Thích Minh Tánh trụ trì chùa Thiên Phước từ năm 1960
cho đến năm 2005. Sau năm 2005, vì ông cảm thấy sức khỏe yếu kém
và thường đau yếu nên đã nhường chức trụ trì cho Đại đức Thích Thiện
Trung là người kế nhiệm. Xin đọc thêm tập sách Nguồn Gốc và Sự Phát
Triển Chùa Thiên Phước. Tài liệu lưu hành nội bộ của chùa do ông Lê Văn
Đơ viết vào năm 2010. Tác giả cũng đã về chùa Thiên Phước hai lần, lần đầu
tháng 6, năm 2008 và lần thứ hai tháng 5 năm 2010 để tìm hiểu thêm.
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 31
định lấy nơi đó làm chỗ thường trú, và ngài đã xây tịnh thất
trong khuôn viên chùa để nhập thất chuyên tu thiền định.
Giữa năm 1962 ngài trở lại Gia Định nhận làm trụ trì và sửa
sang lại chùa Quán Thế Âm ở Phú Nhuận. Cuối tháng 5,
1963, nhận thấy tình hình Phật giáo miền Nam càng ngày
càng bị đàn áp, tự do tôn giáo và tín ngưỡng bị xúc phạm, các
cuộc biểu tình, xuống đường, và tuyệt thực không đưa đến
một hậu quả khả quan nào nên ngài đã đệ đơn tự thiêu với Ủy
Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo trụ sở trung ương ở chùa
Xá Lợi. Sau đó ngài được thỉnh về ở ẩn tại chùa Ấn Quang
chờ ngày tự thiêu. Trong thời gian này ngày đã viết hai tờ di
chúc, năm bài thơ chữ Nôm, và bài Lời Nguyện Tâm Quyết.
Đó là các di văn cuối đời của ngài.
• Trở về Khánh Hòa
Mặc dù sống, hành đạo và trụ trì các chùa ở miền Nam
tại các vùng Sài Gòn, Gia Định, Cai Lậy và Hà Tiên trên
10 năm. Từ đầu năm 1961, lúc này Hòa thượng đã 63 tuổi,
ngài chuẩn bị trở lại cố hương xứ Khánh Hòa để tu tập, hành
đạo và gần gũi người thân. So với các gian đoạn trước, thời
gian này ngài để lại rất nhiều thư văn, các tư liệu viết tay,
đơn từ, một số bài diễn văn. Theo lá đơn xin đi đường của
Hòa thượng viết tại xã Long Khánh, quận Cai Lậy tỉnh Định
Tường đề ngày 3 tháng 1 năm 1961, khi đó đang làm trụ
trì chùa Long Phước, ngài đã đệ đơn lên chính quyền địa
phương xã và quận để xin cấp giấy phép cho ngài được ra
xã Phú Cam, quận Vạn Ninh để kỵ tổ và thăm tháp của thầy
bổn sư tại chùa Long Sơn quận Vạn Ninh Hòa, thăm ông anh
là nhà sư đang ở chùa Pháp Hải cùng quận, và thăm tổ đình
Sắc tứ Linh Sơn tại Vạn Giả nơi ngài từng nhiều năm làm
trụ trì. Trong đơn ngài cũng đề cập đến là nhân dịp này sẽ đi
thăm chùa sắc tứ Thiên Ân, xã Phước Thuận, nơi ngài từng
32 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
trụ trì nhiều năm. Đọc kỹ chúng ta thấy đơn xin đường trước
hết phải có chữ ký của liên gia trưởng, rồi ông trưởng ấp,
sau đó của ông cảnh sát xã Long Khánh, rồi chữ ký của ông
Chánh Tổng. Phải mất một ngày sau (4-1-1961) mới được
ông Quận Trưởng quận Cai Lậy chứng nhận cho phép Hòa
thượng đi về miền Trung. Khi đến nơi ngài cũng phải trình
với với chính quyền địa phương, và phải có chữ ký và con
dấu của chính quyền địa phương chứng nhận vào tờ đơn đi
đường (Xin xem thên nguyên bản trong Phần III).
Giấy xin phép đi đường này đã cung cấp cho thấy lần này
ngài đã về giỗ tổ đức bổn sư là Hòa thượng Hoằng Thâm tại
tổ đình Long Sơn. Theo long vị tổ Hoằng Thâm thờ tại chùa,
tổ sinh ngày 1 tháng 5, năm Đinh Tỵ (1857) và mất ngày
23 tháng 11 năm Tân Dậu (1921). Bên dưới tờ thứ hai của
giấy phép đi đường, cạnh con dấu và chữ ký của ông Quận
Trưởng quận Cai Lậy, có chữ ký của Hội Phật Giáo quận
Ninh Hòa chứng nhận Hòa thượng có ra dự lễ giỗ tổ chùa
Long Sơn. Bên gốc trái cùng trang có chữ ký của ông đại
diện xã Ninh Thọ ký chứng thật vào ngày 9-1-1961 ghi rõ
là ông Nguyễn Văn Khiết có ở tại chùa Pháp Hải. Ngày 9-1
dương lịch tương đương với ngày 23 tháng 11 năm Canh Tý,
đó là ngày giỗ của Hòa thượng Hoằng Thâm tại chùa Long
Sơn. Giấy phép cấp ngày 4 tháng 1 và giỗ ngày 9, như thế
ngài chỉ ra Khánh Hòa được vài hôm trước ngày kỵ tổ.
Qua tờ giấy đi đường này hé mở cho chúng thấy tình
người, tình đạo, và cách hành hoạt của ngài Quảng Đức cũng
như sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền ông Diệm. Thứ
nhất, khi ngài về làm giỗ cho bổn sư chắc chắn ngài đã gặp
lại các vị pháp hữu khi ngài từng giữ chức trụ trì các chùa nổi
tiếng trong hai quận Vạn Ninh và Ninh Hòa. Cũng trong dịp
này ngài đã đi thăm một vài chùa ngày trước ngài từng trụ trì
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 33
34 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
và có công trùng tu cho đẹp và hoàn thiện hơn, thăm các bổn
đạo và đệ tử tại gia ngày trước đã quy y với ngài. Gặp lại ngài
sau trên 10 năm xa cách, chắc chắn đã đem lại niềm vui cho
nhiều bổn đạo và Phật tử ở một số làng đang bị đè nặng dưới
sự cưỡng chế của chính quyền về mặt tự do tôn giáo và hành
đạo. Đặc biệt trong chuyến đi này, ngài đã đến thăm và ở lại
chùa Pháp Hải với vị huynh trưởng là sư Viên Minh.
Một điểm khác cho chúng ta thấy chính phủ và guồng máy
an ninh của chính quyền Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ kiểm soát
rất gắt gao và chặt chẽ trong vấn đề đi lại của dân chúng, và càng
gắt gao hơn cho các bậc tu sĩ Phật giáo trong thời gian đàn áp
tôn giáo và chống cộng nằm vùng. Khi đi qua tỉnh khác phải xin
giấy đi đường và phải qua 5 cấp chính quyền từ liên gia trưởng,
thôn trưởng, xã, tổng và quận mới được chấp nhận và cho phép
đi. Khi đến nơi cũng phải xuất trình giấy tờ với chính quyền địa
phương và người chịu trách nhiệm phải ký tên và đóng dấu vào
tờ đơn. Vấn đề này thật là phiền toái và nhiêu khê, và nếu không
có việc cần thiết cần phải đi lại thì ít người dân lành nào muốn
đi lại từ tỉnh này qua tỉnh khác.
Vấn đề kiểm soát của chính quyền ông Diệm và Nhu càng
rõ ràng hơn qua biên bản buổi họp của thôn Thạch Thành
(Ninh Quang, Ninh Hòa) đề ngày 26-9-1961 về việc thỉnh
Hòa thượng Quảng Đức về trụ trì chùa Long Phước. Cũng
nên nói rõ đây là ngôi chùa Long Phước ở Khánh Hòa được
ngài trụ trì trong năm hai năm cuối và được ghi trong một vài
văn bản, như Đơn Xin Tự Thiêu. Trong buổi họp gồm có 40
người, ngoài các Phật tử và bô lão trong làng, biên bản còn
ghi là sự có mặt Trưởng đoàn Thanh Niên Cộng Hòa, thôn
bộ Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia (đây là bộ phận tổ chức
của Đảng Cần Lao Nhân Vị do hai anh em Ngô Đình Diệm
và Ngô Đình Nhu thành lập để cai trị miền Nam chống lại
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 35
chủ nghĩa Cộng Sản ở miền Bắc). Trong buổi họp cũng có
mặt nhân viên cảnh sát và công chính. Qua các đơn từ này
chúng ta thấy ngài phải khéo léo và ẩn nhẫn lắm trong việc
phiền toái chờ đợi “cửa quan” chỉ một việc nhỏ là xin giấy đi
lại từ tỉnh này qua tỉnh khác.
• Trùng tu và trụ trì chùa Pháp Hải
Chùa Pháp Hải do Hòa thượng Quảng Đức thành lập năm
1940, và có quả đại hồng chung do ngài đúc năm 1942 (xem
hình). Chùa rất linh ứng vì có thờ bức tranh vẽ Bồ Tát Quán
Thế Âm đứng trên mây. Trong thời gian chiến tranh Pháp
Việt (1945-1954), chùa bị máy bay pháp thả bom bắn phá
hai lần, nhưng quả chuông và bức tranh Quán Thế Âm không
36 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
bị hư hoại. Dân trong vùng cho đó là một sự linh thiêng mầu
nhiệm. Sau chiến tranh Việt Pháp, bà con trong làng chỉ dựng lại
chùa tranh vách đất để làm nơi nương tựa tinh thần, để có tiếng
chùa chuông vang vọng sáng chiều khích lệ và nâng đỡ tin thần
cho người mộ đạo, để thờ Bồ Tát Quán Thế Âm gia hộ cho đồng
bào Phật tử bình an. Sau chuyến đi về thăm Khánh Hòa vào
tháng 3 năm 1961, Hòa thượng đã về lại Ninh Hòa vài lần nữa
để vận động bà con Phật tử trong vùng xây dựng lại chùa Pháp
Hải.(14) Sau nhiều tháng xây dựng, chùa đã hoàn thành. Sau đó
ngài đã tổ chức lễ khánh thành và lễ an vị Phật rất long trọng.
Buổi lễ có mời chư Tăng Ni trong giáo hội tỉnh Khánh Hòa, chi
hội Phật giáo Ninh Hòa, hội đồng xã Ninh Thọ và bà con Phật
tử xa gần. Theo bài diễn văn chữ Nôm đọc hôm lễ an vị Phật và
khánh thành chùa Pháp Hải, ngài viết:
Chúng tôi thay mặt cho Ban Trị Sự chùa Pháp Hải, nam
nữ Phật tử.
Tôi xin trân trọng kính chào quý Đại đức giáo Hội Tăng
Già tỉnh Khánh Hòa và chư sơn thiền đức Tăng Ni hoan hỷ
quang lâm đến chứng minh buổi lễ thỉnh Phật sớm nay.
Quý quan khách nam nữ Phật tử đã bỏ thì giờ quý báu
để đáp lại lời thỉnh cầu của chúng tôi đến dự lễ cung nghinh
đức Phật được đông đảo như thế này làm cho cuộc lễ sớm
nay được thập phần long trọng. Chúng tôi vô cùng cảm tạ
đạo tâm của quý vị.
14. Xin xem thêm Hồ sơ khoa học di tích lịch sử văn hóa chùa Pháp
Hải. Tài liệu viết năm 2009 của Sở Văn Hóa, Thể Thao và Du Lịch
Khánh Hòa. Chùa Pháp Hải có một bản lưu. Khi viết tập hồ sơ này, người
soạn tập hồ sơ này không có các tư liệu gốc chữ Nôm và các đơn từ của
Hòa thượng Quảng Đức để lại cho nên nói là chùa được trùng tu năm
1957, thật sự Hòa thượng về trùng tu chùa năm 1961.
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 37
....
Ngôi chùa Pháp Hải này kiến tạo lần này là nhờ lòng đạo
tâm tín ngưỡng của hai vợ chồng ông Nguyễn [Văn Chất]
cúng một hai miếng đất để lập ngôi chùa, và có vợ chồng con
gái ông Nguyễn Giả và trong nam nữ Phật tử có tấm lòng
giúp đỡ, kẻ của người công. Được như thế cũng nhờ sự đạo
tâm của quý vị, cho nên ước nguyện của chúng tôi được sự
viên thành.
Trước khi về trung tu chùa Pháp Hải, sư huynh Viên
Minh đang ở đó. Không biết sư có giữ chức vụ trụ trì hay
không và lý do tại sao Hòa thượng làm trụ trì một thời gian
ngắn trước sau khi trùng tu chùa xong rồi mới giao lại cho sư
huynh. Theo đơn cung thỉnh trụ trì của ông thôn trưởng và
khuôn trưởng thôn Thạch Thành, trong đơn ghi rõ là tháng
9 năm 1961 Hòa thượng đang trụ trì chùa Pháp Hải. Một tờ
đơn khác do chính Hòa thượng viết tay, đề ngày 11-11-1961,
tựa là “Giấy xin phép đi đường” cũng cho biết lúc này ngài
đang làm trụ trì chùa Pháp Hải tại thôn Lạc Bình, xã Thọ
Ninh, quận Ninh Hòa. Trong tờ đơn ngài gởi cho ông Quận
Trưởng quận Ninh Hòa xin phép vào Nam 20 ngày để đến
chùa Ấn Quang ở Chợ Lớn, và chùa Phật Ân ở Định Tường
về việc xin giấy xuất tịch về cư trú hẳn ở miền Trung. Trong
đơn cũng nói là nhân dịp này ngài sẽ ghé thăm chùa Thiên
Phước ở Cai Lậy. Xin trích đoạn một phần của tờ đơn:
Tôi tên là Nguyễn-văn-Khiết sinh năm 1890, căn cước sô
A0357954, là Hòa thượng Trù trì chùa Pháp-Hải, tại thôn
Lạc Bình, xã Ninh-Thọ, quận Ninh-Hòa, tỉnh Khánh Hòa.
Kính đơn xin phép ông cho phép tôi về tại trụ sở chùa
Ấn Quang “ngã ba Vườn Lài” Sài Gòn và xuống Tỉnh hội
Phật giáo Nam Việt chùa Phật Ân tỉnh Định Tường và ghé
38 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
lại chùa Thiên Phước, thuộc quận Cai Lậy tỉnh Định Tường,
để thăm và xin giấy tời xuất tịch trong giáo hội tăng già Nam
Phần. Thời hạn 20 ngày.
Các văn bản khác cũng cho ta biết Hòa thượng đang ở
chùa Pháp Hải và đã quyết định về ở hẳn tại Ninh Hòa. Như
thế là sau khi ngài được thỉnh mời làm trụ trì chùa Long
Phước, ngài đã quyết định trở về an dưỡng và tu thiền ở đây.
• Trụ trì chùa Long Phước, Ninh Quang, Ninh Hòa
Theo tấm biển đại tự sơn son thiếp vàng bằng chữ Hán
treo ở chánh điện, thì chùa Long Phước là một ngôi chùa cổ
được xây dưới thời nhà Hậu Lê, niên hiệu Cảnh Hưng thứ
17 (1757) và được đại trùng tu vào thời Nguyễn, niên hiệu
Gia Long thứ 11 (1813). Chùa nằm trên một địa thế rộng rãi
thoáng mát, cây trái xanh tươi, nhưng trải qua nhiều cuộc
biến thiên thăng trầm của lịch sử đất nước, chùa không có
thầy trụ trì và bị hư hao đổ nát cần được tái thiết. Khi được
biết Hòa thượng là bậc cao tăng đức độ, gốc người Khánh
Hòa, đã từng làm trụ trì các chùa lớn ở trong vùng và có
biệt tài xây dựng lại cảnh chùa hư hao đổ nát trở nên huy
hoàng sáng lạng, nên toàn dân làng đã họp lại và cử hai vị
đạo hữu có tài ăn nói lại biết Phật pháp đến chùa Pháp Hải
cung thỉnh ngài kiêm trụ trì chùa Long Phước. Sau khi gặp
gỡ và nhận đơn cung thỉnh ngài đã nhận lời. Sau đó ngài đã
về làng và đi các nơi quyên góp vận động tài chánh trùng tu
chùa. Cuối nhiều tháng trùng tu, ngày 13-12-1961 ngài cùng
Phật tử trong khuôn hội đã tổ chức khánh thành chùa lễ nhận
chức trụ trì. Công việc làm mới ngôi chùa gồm có xây lại
chánh điện để thờ Phật và kiến trúc hai dãy nhà bên phải và
bên trái [đông lang và tây lang], để có chỗ sinh hoạt. Trong
bài diễn văn viết bằng chữ Nôm đọc hôm khánh thành chùa
Long Phước, ngài viết:
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 39
Đạo Phật truyền vào nước Việt Nam đã nhiều đời, cho
nên nhiều người có đạo gọi [đạo Phật] là đạo ông bà chắc
quý vị cũng rõ như chúng tôi. Hiển nhiên bằng chứng hiện
đây là chùa Long Phước này tổ khai sơn ta sáng lập từ đời
Cảnh Hưng đến nay tín sổ có bốn trăm năm dư.(15) Trong vũ
trụ bất kỳ hình thái nào cũng phải theo công lẽ là thành trụ
hoại không, hưng vong xuy diệt. Bởi thế cho nên ngôi chùa
Long Phước mấy năm về trước chưa được khả quan, đông
lang tây lang chưa thành tựu. May thay nhờ nhân duyên
hoằng pháp Hội Phật Giáo Việt Nam khuôn hội Long Phước
thành lập. Gần đây lại nhờ sự ủng hộ của chính quyền xã
thôn cùng toàn thể nhân dân hợp thành [nên] mới xây dựng
đông lang, tây lang tương đối huy hoàng.
Ở đây chúng ta thấy ngài dùng chữ đạo Phật là đạo “ông
bà” thờ cúng tổ tiên. Ở một bài văn khác ngài nói rõ hơn đối
với người Việt, nhà nào thắp hương cúng ông bà là nhà đó
theo đạo Phật, là theo đạo của ông bà tổ tiên để lại và không
bị mất gốc theo Tây. Một điều khác chúng ta thấy ở đây là các
thành viên trong thôn và xã có thể đều là Phật tử nên hết sức ủng
hộ ngài xây dựng lại ngôi chùa để có nếp sống tinh thần.
Sau khi về trụ trì chùa Thiên Phước, cuối năm 1961 ngài
đã quyết định ở luôn tại chùa chuyên lo tu thiền định. Theo
đơn xin xuất tăng tịch do ngài nộp cuối năm 1961 cho Giáo
Hội Tăng Già Nam Việt trụ sở ở chùa Ấn Quang phải đợi
đến ngày 15-1-1962 mới được Hòa thượng Thích Thiện Hòa,
Tri Sự Trưởng của Giáo Hội cấp. Trong văn bản nói là thầy
Quảng Đức rời Khánh Hòa năm 1945 và đã hoạt động Phật
15. Chính xác mà nói thì chùa lập dưới thời Hậu Lê, vào năm Cảnh
Hưng 17 (1757) tính đến năm 1962 chỉ có 204 năm. Trên 400 năm thì
tăng gấp đôi số tuổi.
40 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
sự tại miền Nam đến năm 1961. Nay vì tuổi già sức yếu nên
ngài quyết định về cố hương tu dưỡng và xin dời tăng tịch
về địa phương tỉnh Khánh Hòa để cấp trình với giáo hội và
chính quyền địa phương.
Có lẽ là không khí an lành thanh nhã yên tịnh ở xứ trầm
hương Khánh Hòa thích hợp cho vấn đề “tu dưỡng” của ngài
hơn. Nên khi đã về ở hẳn tại chùa Long Phước, ngài chuẩn bị
xây cất tịnh thất để tu thiền định. Trong tờ đơn xin cất tịnh thất
tại chùa Long Phước đề ngày ngày 26 tháng 2 năm 1962, Hòa
thượng xin phép chính quyền địa phương xây cất tịnh thất trong
khuôn viên chùa cho việc tu tập thiền định, và “tu thiền định” là
“bản nguyện” của ngài. Trong đơn có đoạn viết:
“Nguyên tôi là một tu sĩ xuất gia từ lâu, nay đương trụ trì
tại chùa Long Phước, nhưng chùa này chưa có tịnh thất để
tu thiền định. Bởi vậy cho nên tôi phát lời nguyện” xây tịnh
thất để dễ nhập thất tu tập.
Sau khi đã có giấy phép xây cất tịnh thất, hai ngày sau
(28-2-1962), ngài đã làm đơn với chính quyền địa phương
một lần nữa xin vào miền Nam xuất tịch (tức là dời hộ khẩu
từ miền Nam ra Khánh Hòa). Trong đơn ngài nêu rõ lý do:
Tôi vì tuổi già sức yếu, nên phải trở về cố hương để tu
dưỡng (có bản sao giấy Xuất Tăng Tịch đính hậu). Hôm
trở về đến nay tôi được quý Hội Đồng cho phép cư trú; vì
tôi đã nhận chức trụ trì tại chùa Long Phước thuộc quý địa
phương. Để được hợp thức hóa, tôi định trở vào Nam—nơi
đã cấp thẻ Kiểm Tra—để xin Xuất Tịch.
Nói tóm lại từ đầu năm 1961 Hòa thượng đã chuẩn bị rời
Cai Lậy tỉnh Định Tường để trở về Khánh Hòa. Chùa Thiên
Phước ở xã Phú Quý quận Cai Lậy, ngài giao cho đệ tử xuất
gia là thầy Minh Tánh còn gọi là thầy giáo Ba (Bùi Văn Ba).
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 41
Mùa an cư và mùa Vu Lan năm 1961 Hòa thượng đã về trùng
tu và làm trụ trì chùa Pháp Hải một thời gian ngắn. Sau đó
ngài giao chùa lại cho sư Viên Minh. Cuối năm 1961 ngài về
nhậm chức trụ trì chùa Long Phước và đầu năm 1962 ngài đã
dời tăng tịch và hộ khẩu về tại địa phương ở đây. Đồng thời
ngài cũng cho xây cất tịnh thất trong khuôn viên của chùa
để chuyên tu thiền định vốn là bản nguyện của ngài. Ở trong
hoàn cảnh này chúng ta mới hiểu sâu hơn bài Xuất Kệ Vân
Ngài làm trước khi tự thiêu:
Nền Phật dò lần kiếp tẩy sang
Phủi tay rửa sạch nợ trần gian
Tránh đàng danh lợi tìm nơi tịnh
Niệm chữ từ bi lánh cửa quan
Chuỗi hột tay lần khuya với sớm
Kệ kinh tụng niệm vái rồi van
Một lòng thành kính lòng mình nguyện
Tịnh độ từ đây sẽ ở an.
Đứng trên mặt tục đế ta có thể nói là từ đây ngài đã “phủi
tay rửa sạch nợ trần gian” vì chùa nào ngài cần giúp đỡ và
trùng tu ngài đã trùng tu, người nào đáng độ và có duyên để
độ ngài đã độ. Trong thời gian trùng tu các ngôi chùa từ thời
trước 1945 cho được nguy nga tráng lệ và xin triều đình ban
sắc tứ, ngài đã làm hồ sơ nói về sự linh thiêng của các ngôi
chùa cũng như công đức và sự đóng góp của ngôi chùa đối
với người dân trong địa phương. Ngài đã xin triều đình ban
sắc tứ cho ba ngôi chùa Thiên Ân, Thiên Tứ và Linh Sơn nơi
ngài làm trụ trì ở hai quận Vạn Ninh và Ninh Hòa. Khi ngài
bị chính quyền thực dân lùng bắt, ngài đã trốn qua Lào, rồi
Cam Bốt. Rồi từ Cam Bốt ngài đã qua biên giới Việt-Miên
và đã và trụ trì chùa sắc tứ Tam Bảo ở Hà Tiên. Cuối cùng
42 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
ngài về định cư hoằng pháp tại tỉnh Gia Định, làm trụ trì
chùa Long Vĩnh, rồi chùa Phước Hòa và được mời vào làm
Trưởng ban Nghi Lễ. Phải đến năm 1955, một năm sau hiệp
định Genève 1954 khi đất nước chi đôi, khi có trên một triệu
người dân từ miền Bắc di cư vào miền Nam, và miền Nam
có chính quyền mới và đã tổ chức làm thẻ kiểm tra. Đến lúc đó
ngài mới có cơ hội làm lại giấy tờ và đã thay tên đổi họ từ Lâm
Văn Tuất sang Nguyễn Văn Khiết; lấy năm 1890 làm năm sinh.
Ngoài vấn đề đất nước và thể chế chính trị thay đổi, chúng ta
cũng thấy rằng phải sau một thời gian dài từ khi làm trụ trì chùa
Long Vĩnh, được dân địa phương kính mến và chấp nhận như
người bản địa, ngài mới chính thức có giấy tờ hợp pháp, hợ lệ.
Rồi những năm tháng dưới chế độ ông Diệm ông Nhu, dù đi
đâu cũng phải xin phép với chính quyền địa phương, dù làm
cái gì nhỏ nhoi như việc xây cất một tịnh thất để tu thiền cũng
phải làm đơn xin phép. Thế nên khi trở về làm trụ trì chùa Long
Phước và xây tịnh thất để tu thiền, ngài thật sự đã:
“Tránh đàng danh lợi tìm nơi tịnh
Niệm chữ từ bi lánh cửa quan.”
Thật sự vì một “niệm từ bi” nên ngài mới chịu khó làm
những chuyện này. Nếu như một vị sư khác không phải là
ngài, thì lúc đang làm trụ trì hai chùa ở Cai Lậy, nơi ngài có
nhiều thì giờ để viết lách và nghiên cứu thì ngài đâu cần phải
trở về cố hương. Hoặc trước đó, năm 1955, khi đang làm
trụ trì chùa Long Vĩnh được mọi người yêu mến, nếu không
thương mến các vị sư tăng và Phật tử miền Bắc di cư vào
Nam và cần nơi sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng thì ngài đâu cớ
gì phải giao chùa cho thầy Thanh Roãn.(16) Hoặc sau khi chùa
Xá Lợi khánh thành, ngài được cụ Mai Thọ Truyền mời làm
16. Tác giả phỏng vấn Pháp sư Giác Đức tháng 7 năm 2010 tại Boston.
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 43
trụ trì, ngài đã từ chối, và tìm nơi tĩnh mịch hẻo lánh ở Cai
Lậy để giúp đỡ bà con Phật tử nghèo hiền lành chất phác. Khi
đã trở về cố hương, đã giúp ông anh xây lại chùa, rồi cất tịnh
thất cho mình, thật sự lúc đó như trong đơn xin cất tịnh thất
ngài đã nêu rõ là chuyên tu thiền định, như ý trong câu thơ:
“Một lòng thành kính lòng mình nguyện,
Tịnh độ từ đây sẽ ở an.”
Hai câu thơ thứ 5 và 6 cũng cho chúng ta biết ngài kết
hợp tu thiền với tu tịnh độ qua hình ảnh một vị sư già đang
lần chuỗi niệm Phật
“Chuỗi hột tay lần khuya với sớm
Kệ kinh tụng niệm vái rồi van.”
Một điều cũng cần nêu lên ở đây là khi đọc nguyên bản
văn Nôm của bài Xuất Kệ Vân, ta thấy khi phiên âm chữ
Nôm ra chữ Việt hiện đại (quốc ngữ), có một chữ mà các
người trước phiên âm không được chính xác. Chữ “sẽ” 𠱊
đọc thành chữ “rất” 叱 khiến câu thơ đổi nghĩa. Nguyên bản
chữ Nôm đọc là “Tịnh độ từ đây sẽ ở an” và bản phiên âm cũ
đọc là “Tịnh độ từ đây rất ở an.”
• Trụ trì chùa Quán Thế Âm, Phú Nhuận
Trở lại vấn đề “từ đây sẽ ở an” có thật sự như vậy không,
hay là bởi tâm nguyện bồ tát độ đời độ người khiến cho Hòa
thượng chưa rời được cõi đời nơi cần sự giúp đỡ của ngài.
Quả thật ngài chưa “ở an” vì Hòa thượng còn trở lại nhận
làm trụ trì chùa Quán Thế Âm ở Phú Nhuận, và cuối cùng
ngài tự thiêu để cứu nguy đạo pháp.
Theo lời thầy Thông Bửu, đệ tử truyền chân và sau này
là Hòa thượng trụ trì tổ đình Quán Thế Âm, thì ngài vẫn còn
duyên với chùa và Phật tử ở vùng này. Chùa Quán Thế Âm
44 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
là do Hội Lính Thủy người Pháp thành lập năm 1920. Đến
những năm cuối thập kỷ 1950 chùa đã tàn phế lắm và chuẩn
bị xóa tên vì đây là chùa tư không có Tăng hoặc Ni thường
trú tụng kinh bái sám, hướng dẫn Phật tử tu học. Đây là điều
ngài thường nói và đều nhấn mạnh trong cả ba bài diễn văn
khánh thành chùa. Ngài nói một ngôi chùa khi thành lập phải
có đủ ba yếu tố căn bản: đó là phải thờ Phật để làm nơi lễ
bái tụng niệm, làm đối tượng tín ngưỡng tâm linh; phải có
pháp của Phật là kinh điển dùng để tụng niệm, học hỏi và tu
tập; và phải có Tăng để hướng dẫn tu học, dạy Phật pháp và
cầu nguyện cho Phật tử, cho quốc thái dân an. Chùa Quan
Ân theo ý của ngài không đủ ba yếu tố trên vì chỉ thờ Bồ
Tát Quán Thế Âm, không có tăng trụ trì. Do vậy cuối năm
1959 ông chủ chùa Lý Văn Lang hết lòng thỉnh ngài về làm
trụ trì và mong ngài với khả năng và tài đức có thể trùng tu
ngôi chùa. Nhưng phải đến năm 1962 khi việc trùng tu chùa
Long Phước xong ngài mới trở lại Gia Định. Thật sự ngài
chính thức về trụ trì chùa Quán Thế Âm vào tháng 6 năm
1962 theo các văn bản và sổ sách giấy tờ còn lưu giữ ở chùa.
Trong thời gian gần một năm trụ trì ở đây, ngài đã làm được
ba việc chính. Thứ nhất là vận động tài chánh để sửa sang
chùa cho đẹp và khang trang hơn. Theo các sổ thu chi, cầu
an, cầu siêu và quy y còn lưu thì bắt đầu từ tháng 6 ngài mới
vận động bà con hỷ cúng trong việc sử sang chùa. Trong gần
ba tháng, tính đến ngày 15 tháng 8, có trên 300 người cúng
tiền, người ít kẻ nhiều tùy theo hảo tâm. Phần đông Phật tử
cúng 20 đồng là số tiền nhỏ nhất, nhưng cũng có nhiều người
cúng 100 hoặc 200 đồng.(17) Từ các khoản tiền này ngài đã
17. Theo giá tiền thời đó được ghi trong cuốn sổ chi của chùa Quán
Âm, do ban thủ quỹ ghi lại thì một chai beer 10 đồng, 1 cục xà phòng
thơm 5 đồng, 1 gói thuốc lá ngon 10 đồng.
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 45
cho người mua các vật dụng từ cây búa, ổ khóa, gỗ làm thùng
phước sương, cờ quốc gia, cờ Phật giáo, chén bát dùng hằng
ngày, bánh, trà, cà fê cho thợ sơn sửa chùa, v.v...Thứ hai là
tổ chức các buổi lễ chính như Vu Lan, lễ vía Bồ Tát Quán,
lễ Đức Phật Thành Đạo và an vị Phật. Lần đầu tiên từ ngày
thành lập chùa từ năm 1920, mùa Vu Lan chùa tổ chức cúng
rằm rất lớn. Ngài đã mời thầy về giảng pháp và đặc biệt tổ
chức trai đàn cúng chẩn tế cầu nguyện cho quốc thái dân an
và siêu độ các vong linh oan hồn uổng tử. Cũng vào dịp này
ngài đã làm lễ quy y cho nhiều gia đình, từ nhóm Phật tử
người Bắc ở khu Pasteur Tân Định, đến mốt số gia đình trong
phường. Sau đó ba tháng ngài đã in thiệp mời Phật tử về dự
lễ “Vía Đức Phật Quán Thế Âm”, và tổ giảng pháp tại chùa.
Sau khi sơn sửa lại chùa, tổ chức hai buổi lễ chính, và đã
vận động quyên góp được một số tài chánh tương đối, ngài
mới làm việc thứ ba là thỉnh tượng Phật. Từ khi thành lập
năm 1920 đến năm 1962 chùa chỉ thờ Bồ Tát Quán Thế Âm,
do vậy khi làm trụ trì, ngài đã vận động Phật tử, đặc biệt có
bà Phan Cẩm Lợi hỷ cúng một tượng Phật Thích Ca Mâu Ni
để thờ ở chánh điện. Trong biên lai còn ghi rõ là ngài đích
thân xuống Chợ Lớn nhờ một nhà điêu khắc đúc cho chùa
một tượng Phật bằng xi măng. Sau đó Hòa thượng còn thỉnh
thêm tượng Quan Công và tượng tiêu diện. Trong dịp lễ an
vị Phật vào ngày vía đức Phật Thích Ca thành đạo năm 1962,
trong lời chào đón quan khách ngài đã viết, có đoạn như sau:
Chúng tôi thấy chùa Quán Thế Âm này vì còn thiếu một
tượng đức giáo chủ Thích Ca để cho tín đồ chiêm ngưỡng lễ
bái công phu tịnh độ, để cầu nguyện cho quốc thái dân an,
thập phương bá tánh, nam nữ Phật tử tăng long phước thọ,
phát bồ đề tâm tăng trưởng. Cho nên, chúng tôi nhờ lòng hảo
tâm những người lúc trước đã lập ngôi chùa này. Sau đó nhờ
46 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
lòng đạo tâm của hai ông bà Lý Văn Lang có lòng xây dựng
quỹ ngôi chùa. Nay có nhân duyên bà Phan Cẩm Lợi cúng
một vị tượng Thích Ca Mâu Ni Phật để tôn thờ sùng bái tu
học giáo pháp của Ngài cải tâm niệm của chúng sinh. Trên
thì nhờ chư Phật từ bi gia hộ, dưới thì nhờ chính quyền ủng
hộ giúp đỡ hai phương diện vật chất cũng như tinh thần. Còn
chúng tôi là người xuất gia là vì bổn phận Phật tử phải hành
Phật sự. Nhờ sự hảo tâm của chư thiện tín cho nên chúng tôi
Phật sự được viên thành sớm.
Ngày nay sự hiện diện đông đủ của quý ngài từ trong
đạo cho đến ngoài đời, điều đó đã chứng minh sự khích lệ
và ưu ái của quý vị đối với chúng tôi trên con đường phụng
sự chánh pháp.
Vấn đề thời cuộc và tư tưởng hy sinh cũng được ngài
nhỏ nhẹ bày tỏ trong dịp này. Trong bài diễn văn lễ vía Phật
thành đạo cuối năm 1962, ngài nhận định thời cuộc lúc đó
“hoàn cảnh khó khăn, nhân tâm tao loạn”. Đây là một lời nói
nhẹ nhàng chung chung vì chắc chắn các buổi lễ tụ họp đông
người dù là đã xin giấy phép nhưng chắc chắn có nhiều công
an mật vụ theo dõi. Riêng tinh thần dấn thân và hạnh nguyện
bồ tát ngài nói rõ hơn trong bài giảng.
Vậy chúng ta là Phật tử, chúng ta không nên nghĩ chỉ làm
lễ kỷ niệm Ngài qua một hình thức thông thường cho có, mà
cần phải nhìn vào đời sống của đức Phật, tin tấn tu học theo
chánh pháp. Cố gắng cởi mở bớt các nghiệp chướng phiền
não, diệt trừ tam độc tham sân si, sống lợi quần sinh, sống
từ bi hỷ xả, mong có hy vọng đạt thành quả vị giác ngộ, đem
lại không khí an bình với tình thương chân thật cho mọi loài.
Chỉ có thực hành như thế mới khả dĩ gọi là kỹ niệm đức Phật
mà thôi.
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 47
Tinh thần và bản nguyện bồ tát của ngài được biểu lộ qua
các câu nói “trọn đời hy sinh”, “sống lợi quần sinh, sống từ
bi hỷ xả mong có hy vọng đạt thành quả vị giác ngộ, đem lại
không khí an bình với tình thương chân thật cho mọi loài”. Tinh
thần này đã được ngài đem ra áp dụng trong cuộc đời hành đạo,
và nhất là việc tự thiêu thân mình gần nửa năm sau.
Tinh thần bồ tát được thể hiện qua ba đức “bi, trí, dũng”
đã được ngài viết rất rõ trong tập Diễn Giảng. Riêng về tư
tưởng và công hạnh tự thắng mình, khi viết về đức Phật trong
bài giảng ngài dịch và soạn để giảng dạy cho Phật tử ở Cai
Lậy, ngài đã lấy ý từ sách Phật Học Phổ Thông của HT.
Thiện Hoa. Sau khi ngài tự thiêu chúng ta mới thấy tư tưởng
này rõ ràng hơn vi hình như ngài tự viết cho chính mình:
“Đem sức mạnh ngàn cân, dùng trăm mưu vạn chước để
đánh bại kẻ đối phương, người đời làm được dễ dàng gọi là
anh hùng bạt tỵ mà thử hỏi những người ấy có ai thắng nổi
tất cả dục vọng của mình chưa, hay là ai cũng như ai đều
chịu dưới mệnh lệnh của vọng tâm mình sai khiến. Thế thì
thắng người rất dễ, thắng ngoại cảnh cũng thường. Vả lại,
thắng mình thật khó, thắng nội tâm hết sức gay go...”
Ở đoạn cuối ngài kết luận rằng người nào mà thắng được
cả giặc nội tâm và giặc ngoại cảnh một cách oanh oanh liệt
liệt mới thật là người có đại hùng và đại lực. Hình ảnh Hòa
thượng Quảng Đức định tâm ngồi tự thiêu trong biển lửa
hừng hừng cháy gần 15 phút mà thân tâm như như bất động,
chứng tỏ ngài chiến thắng cả nội tâm lẫn ngoại cảnh một
cách oanh liệt và thật đã chứng tỏ ngài có lòng đại từ bi của
một vị Bồ tát và có một đại hùng và đại lực mới làm được
như vậy. Như vậy chuyện bị tự thiêu ngồi trong lửa đốt như
như bất động có thể xảy ra được đối với ngài và không có gì
lạ và khó.
48 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
CHUẨN BỊ TỰ THIÊU
• Đơn xin tự thiêu
Hòa thượng Quảng Đức đang viết đơn xin tự thiêu
Sau vụ đàn áp Phật giáo đẩm máu tại đài phát thanh thành
phố Huế tối hôm lễ Phật Đản 1963, tình hình đấu tranh bất
bạo động của Phật giáo ở Huế càng ngày càng sôi động và
căng thẳng. Giáo Hội đã đưa ra năm nguyện vọng của Phật
giáo đòi chính phủ phải thực thi. Tăng Ni và Phật tử tiếp tục
xuống đường, rồi tuyệt thực nhưng không đến đâu, trái lại
chùa Từ Đàm vẫn bị phong tỏa nặng nề. Tại Sài Gòn, Ủy Ban
Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo được thành lập, và công cuộc
đấu tranh bằng cách xuống đường biểu tình có biểu ngữ, và
tuyệt thực ở chùa Xá Lợi cũng không đưa tới một dấu hiệu
khả quan và nhượng bộ của chính quyền. Trước hoàn cảnh
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 49
đó chưa có một ai nghĩ tới là đem thân mạng tự thiêu để cứu
nguy đạo Pháp. Hòa thượng Quảng Đức đã nghĩ tới điều
rất quen thuộc trong Kinh Pháp Hoa, bộ kinh Ngài thường
hành trì và có thể nói Ngài đã thẩm thấu diệu ý của kinh văn.
Trong Kinh Pháp Hoa Phẩm Dược Vương Bồ Tát có nói về
Bồ Tát Dược Vương dùng các thứ hương hoa ngâm tẩm vào
người rồi đốt thân mình làm đuốc cúng dường chánh Pháp.
Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam thế kỷ XI thời Lý có
hai vị sư Bảo Tính và Minh Tâm chuyên tâm trì tụng Kinh
Pháp Hoa trên 15 năm tinh tấn không ngừng nghỉ và chưa
từng xao lãng. Hai sư mỗi khi niệm đến phẩm Dược Vương
đều phấn chấn tâm thần và cảm động rơi nước mắt. Sau 15
năm trì kinh, hai sư đã nguyện thiêu thân. Rồi hai sư đã mở
hội giảng kinh. Đến ngày giờ đã định các ngài ngồi lên dàn
hỏa, dùng lửa tam muội thiêu đốt thân mình và di cốt kết
thành thất bảo. Vua Lý Thái Tông sai dựng tháp cúng dường
vả đổi niên hiệu là Thông Thụy. Không biết ngài Quảng Đức
có đọc Thuyền Uyển Tập Anh và biết chuyện hai vị thiền sư
triều đại nhà Lý không, nhưng chắn chắn ngài đã noi gương
Bồ Tát Dược Vương.
Ngài rất cẩn thận và kính đáo trong việc chuẩn bị tự thiêu.
Sống trong thời đại mới, và nhất là dưới chế độ đàn áp tôn
giáo, nhất là Phật giáo, trong thời gian đấu tranh đòi tự do tôn
giáo, ở đâu cũng có công an mật vụ theo dõi, nên việc chuẩn
bị tự thiêu phải tuyệt đối giữ bí mật. Đó là một việc chưa
từng có trong lịch sử cận đại.(18) Do vậy nếu muốn thực hiện
18. Theo hồi ký của Sư Bà Thích Nữ Diệu Không thì sư bà cũng có
cùng tư tưởng, nhưng tờ phát nguyện đọc tại chùa Ấn Quang trước một
số các vị Thượng tọa, Đại đức lãnh đạo chậm hơn nhiểu với đơn của Hòa
thượng nộp với Ủy Ban Liên Phái. Hơn thế nữa vì là ni nên người tự thiêu
50 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
được vấn đề thì phải hết sức thận trọng và nghiêm túc tiến
hành qua nhiều giai đoạn. Theo lời thầy Thông Bửu thì sau
khi xem các hình ảnh các thành viên gia đình Phật tử ở Huế
bị xe tăng cán nát và bị thảm sát, thì ngài đã nói với đệ tử là
phương pháp duy nhất có thể cứu vãn Phật giáo lúc bấy giờ
là tự thiêu.(19) Đối với cuộc tranh đấu nóng bỏng lúc bấy giời,
ngài đã nhận định rõ ràng trong Đơn Xin Tự Thiêu.
Mùa Phật Đản 2507 - 1963 tại cố đô Huế, một cảnh tang
thương đã xảy ra cho Phật giáo Việt Nam nói riêng, và Phật
giáo nhân loại nói chung là máu Phật tử đã chảy, xương thịt
Phật tử đã nát tan trước họng súng bạo tàn của kẻ độc ác
vô nhân đạo. Thế là những sinh mạng đã ngã gục và những
thân mạng thương tích trên mình, tất cả đều muốn phát lộ ý
chí của người Phật tử: bảo vệ chánh pháp, bảo vệ đời sống,
sự sống của con người tin đạo, bảo vệ lá cờ Phật giáo quốc
tế mà hơn một phần ba nhân loại tôn thờ. Ai có thể chối cãi
được sự thật của nguyên nhân chính ấy là: Lá cờ Phật giáo
bị triệt hạ bởi công điện số 9195, phát xuất từ Phủ Tổng
Thống ngày 6 tháng 5 năm 1963.
Trước sự kiện thảm thương ấy, Phật giáo Việt Nam đã
đến lúc bắt buộc phải đứng ra tranh đấu cho lý tưởng tự do
tín ngưỡng của mình, được minh định rõ trong Hiến Pháp
Việt Nam Cộng Hòa và đường lối dân chủ pháp trị, cộng
đồng, đồng tiến xã hội của chính phủ do Tổng Thống Ngô
Đình Diệm chủ trương.
đầu tiên được giáo hội và chư tăng chọn là ngài Quảng Đức. Xin tham
khảo Lê Ngân-Hồ Đắc Hoài, biên soạn. Đường Không Biên Giới: Hồi
Ký Sư Bà Thích Nữ Diệu Không. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao Động, 2009,
trang 35-36 và 91-100.
19. Sa-môn Thích Thông Bửu. “Bồ Tát Quảng Đức” trong tập Bồ Tát
Quảng Đức, Ngọn Lửa và Trái Tim, trang 183.
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 51
Với tánh cách ôn hòa, bất bạo động, kỷ luật trong sự tranh
đấu hợp lý, người tăng sĩ Phật giáo Việt Nam cần phải có một
ý niệm sáng suốt, tiêu biểu ý niệm chân chánh, trong giai đoạn
không tiền khoáng hậu của lịch sử Phật giáo dân tộc.(20)
Thế rồi thầy Thông Bửu đã đưa ngài đến gặp Thượng tọa
Tâm Châu tại chùa Từ Quang ở Sài Gòn để bày tỏ ý nguyện.
Thượng Tọa Tâm Châu lúc bấy giờ là Chủ tịch Ủy Ban Liên
Phái Bảo Vệ Phật Giáo, đồng thời cũng giữ chức vụ Phó Hội
chủ Tổng Hội Phật Giáo, rất kinh ngạc và thán phục trước chí
nguyện cao cả của ngài Quảng Đức, nhưng vẫn còn do dự và
không thể quyết định một mình. Nhất là trên mặt pháp lý vì
đây là mạng sống của một con người, của một vị tu sĩ Phật
Giáo miền Nam có đức độ. Do đó, Thượng Tọa Tâm Châu
nói là thầy Quảng Đức phải viết Đơn Xin Tự Thiêu trình lên
Ủy Ban Liên Phái. Ngày 27 tháng 5, ngài viết xong đơn, và
nhờ thầy Đức Nhuận ở chùa Giác Minh đọc lại bản thảo và
đánh máy giúp. Sau đó ngài Quảng Đức đã nộp lên Ủy Ban
Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo tại chùa Xá Lợi. Trong phần
cuối của Đơn Xin Tự Thiêu ngài viết rõ:
Tôi tên là Nguyễn Văn Khiết, pháp danh là Thị Thủy,
pháp tự là Quảng Đức, tu sĩ Giáo Hội Tăng Già Việt Nam,
mang thẻ căn cước số 399703 cấp tại Quận Tân Bình ngày
20. Xin tham khảo thêm Quốc Tuệ, Phật Giáo Việt Nam 1963; Sài
Gòn: 1964, trang 94-96. Toàn văn bản Đơn xin tự thiêu được in lại trong
tập này. Cũng cần nên so sánh văn bản in trong tập sách của Quốc Tuệ với
văn bản được in trong tuyển tập Đại Lễ Kỷ Niệm 36 Năm Bồ Tát Quảng
Đức Tự Thiêu và Hiệp Kỵ Chư Thánh Tử Đạo, do Tổ đình Quán Thế Âm,
Phú Nhuận in năm 1999, vì có một vài chi tiết không giống nhau. Bản
quay ronéo được lưu hành trong năm 1963 nay vẫn còn. Hiện thư viện
Trung Tâm Phật Giáo Huệ Quang tại Thành Phố Hồ Chí Minh còn giữ
một tập bản gốc về các tư liệu này.
52 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
21 tháng 2 năm 1962, hiện tọa chủ chùa Long Phước, xã
Ninh Quang, Khánh Hòa, xác định rằng:
1. Năm nguyện vọng tối thiểu nghi trong Bản Tuyên Ngôn
của Tăng, Tín đồ Phật giáo là phản ảnh tinh thần chân chánh
của Phật giáo Việt Nam.
2. Nguyện luôn luôn son sắt bền chí với lý tưởng tranh
đấu hợp tình, bất bạo động của Phật giáo đồ Việt Nam.
3. Triệt để tuân theo và ủng hộ các cấp lãnh đạo Phật giáo.
Và để minh định lập trường của chúng tôi, chúng tôi tự nguyện
thiêu đốt thân này nếu Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa không
làm thỏa mãn nguyện vọng ghi trong Bản Tuyên Ngôn là phản
ảnh tha thiết mong cầu của toàn thể Phật giáo đồ Việt Nam.
- Phật giáo Việt Nam bất diệt!
- Lá cờ Phật giáo không thể bị triệt hạ.
Và xin Quý Thượng tọa chấp thuận chuyển tới toàn thể
tín đồ lời nguyện ước cuối cùng của tôi: Phật tử chúng ta hãy
cùng nhau tự giác, tự nguyện, bền chí với sứ mạng duy trì
chánh pháp, bảo vệ lá cờ Phật giáo.
Như đã trình bày ở trên trong hai năm cuối, Hòa thượng
kiêm trụ trì hai chùa Long Phước ở Khánh Hòa và Quan Thế
Âm ở Phú Nhuận. Do vậy trong văn thơ này viết là ngài:
“Hiện tọa chủ chùa Long Phước, xã Ninh Quang, Khánh
Hòa”. Thật sự khi đó ngài mới ở Khánh Hòa vào sau khi
nhận được điện thư của thầy Thông Bửu.
Trên nguyên tắc pháp lý, Đơn Xin Tự Thiêu của Hòa
thượng bị Giáo Hội bác bỏ. Lá thư phúc đáp do Thượng tọa
Thích Tâm Giác, Phó Trị Sự Trưởng của Giáo Hội Tăng Già
Việt Nam, ký tên, đã nêu rõ vấn đề này.
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 53
“Với quyết tâm bảo vệ Phật pháp, Đại đức nguyện hiến
xã thân này bằng cách thiêu đốt thân xác để phản đối chính
sách bất bình đẳng tôn giáo với nhà cầm quyền và nêu tỏ thái
độ hy sinh vì đạo cao cả mà mình đã tôn thờ.
Giáo Hội rất thông cảm trước ý chí cao đẹp ấy. Nhưng
trên nguyên tắc pháp lý (Luật Phật đã định cũng như luật
pháp thế gian) Giáo hội không thể chấp nhận điều nguyện
thiêu đốt thân xác của Đại đức được.
Vậy xin Đại đức hoan hỷ và cầu chúc Đại đức vô biên an
lạc.(21)
Nhưng trong thực tế, hạnh nguyện bồ tát tự thiêu của
ngài đã được hoan hỷ chấp nhận một cách bí mật không
thành văn giữa các vị lãnh đạo và chư tăng trong giáo
hội.(22) Sau cuộc họp kín ở chùa Xá Lợi bàn về lá đơn, ngài
đã được chư tăng mời về chùa Ấn Quang ẩn tu để chờ cơ
hội thuận tiện cho việc thực thi hạnh nguyện tự thiêu.(23)
Trong thời gian an trú và chờ đợi ở chùa Ấn Quang, ngoài
thì giờ trì tụng Kinh Pháp Hoa và tham thiền nhập định,
ngài cũng đã để lại bốn văn bản vô cùng quan trọng. Thứ
nhất là năm bài thơ chữ Nôm viết vào ngày tám tháng
4 nhuận (30-5-1963); bài Lời Nguyện Tâm Quyết, cũng
bằng chữ Nôm viết ngày 04-06-1963, Tờ Di Chúc cho vợ
chồng ông chủ chùa và vợ chồng Ông Mười Dé và tất cả
bổn-đạo nam nữ Phật-tử chùa Quán-Thế-Âm, không đề
21. Toàn văn bản lá thư phúc đáp được in lại trong tập Phật Giáo Việt
Nam 1963, trang 99.
22. Lê Ngân-Hồ Đắc Hoài. Đường Không Biên Giới; trang 91-100.
23. Xin đọc thêm Thích Đức Nghiệp, “Hồ ký đặc biệt: Vụ tự thiêu của
Hòa thượng Thích Quảng Đức” trong tập Đạo Phật Việt Nam. Thành Hội
Phật Giáo Tp Hồ Chí Minh, 1995, trang 196-197.
54 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
ngày tháng; và cuối cùng là Tờ Di Chúc, gồm có 10 điều
làm trước ngày tự thiêu.
Trong bốn di bút này, năm bài thơ và bài Lời Nguyện Tâm
Quyết, đã được công bố và xuất bản rất nhiều lần. Còn hai
bản di chúc chưa bao giờ được công bố. Xin tóm tắt và bàn
về nội dung của các văn bản nàn.
• Năm bài thơ Nôm
Năm bài thơ Nôm không có tựa đề của từng bài thơ
một.(24) Bốn bài đầu được xếp theo thứ tự cao xuống thấp.
Trên hết là chư Phật, đến các hiền thánh tăng, rồi các tín đồ
Phật giáo gồm các hàng đệ tử tại gia và xuất gia. Bài cuối có
nhan đề là Xuất kệ vân như đã bàn ở trên. Bài cuối không biết
có viết riêng rẽ không vì đây là bài duy nhất còn lại thủ bút
chữ Nôm và Hán của Hòa thượng. Xin được ghi lại nội dung
chính của bốn bài thơ đầu.
Bài thứ nhất Kệ thiêu thân cúng dường vì Chánh Pháp
(kính dâng thập phương chư Phật) bày tỏ hạnh nguyện bồ tát
tự thiêu thân mình để làm ánh đuốc soi sáng nẻo vô minh, để
cảnh tỉnh kẻ gian án, và phá vỡ mộng bành trướng tôn giáo,
sự đàn áp kẻ khác đạo, mà ngài nguyện thiêu thân. Sau khi
chết, thần thức của ngài sẽ về giúp sinh linh san phẳng hố
bất bình.
Đệ từ hôm nay nguyện đốt mình
Làm đèn soi sáng nẻo vô minh
Khói thơm cảnh tỉnh ai còn ‘ngốc’
24. Năm bài thơ chữ Nôm nổi tiếng của Hòa thượng được in đi in lại
rất nhiều lần. Xin xem Quốc Tuệ, Phật Giáo Việt Nam 1963, trang 103105; Lê Mạnh Thát, sđd, 27-28.
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 55
Tro trắng phẳng san hố bất bình
Thân cháy nát tan ra tro trắng
Thần thức nương về giúp sinh linh
Hỡi ai mộng ảo đang còn mộng
Hãy gấp tỉnh đi kẻo giật mình.
Bài thứ hai Dâng chư Hiền, Thánh, Tăng đề cập sự hàm
oan, sự giam cầm bắt bớ của Tăng Ni, và bày tỏ ý nguyện tự
thiêu sẽ giúp chánh pháp được trường tồn. Quan trọng nhất
là ngài chúc Tăng Ni phải có được tâm dũng tiến mới bảo vệ
Phật giáo.
Phật giáo sử vàng máu thay son
Than ôi! Quỷ kế họ vẫn còn
Quyết diệt suy tàn nền Chánh Pháp
Làm cho Tăng, Tín phải chết mòn
Vì sự bất công tôi thiêu xác
Khói hồn nguyện độ kẻ hàm oan
Kính chúc Tăng, Ni tâm dũng tiến
Chánh Pháp ngàu mai phải trường tồn.
Bài thứ ba Cùng toàn thể tín đồ Phật giáo, ngài đã khuyến
khích Phật tử nên vì đại cuộc, vì nòi giống Việt, vì lịch sử
huy hoàng của Phật giáo Việt Nam mà nên bỏ bản ngã, bỏ
cái ta, và đem ba đức tính cao đẹp của đạo Phật là Bi, Trí
và Hùng ra thực hành mới cứu nguy được đạo. Đặc biệt tư
tưởng và hạnh nguyện Bi, Trí, Dũng được giải thích rất rõ
khi viết về ba đức tính của đạo Phật ở trong tập Diễn Giảng.
Cùng hàng Phật tử tại gia
Hãy quên bản ngã bỏ cái ta
Gấp sửa thân tâm vì đại cuộc
56 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
Ngàn năm sử việt vẫn Phật gia
Thân tôi dù cháy linh thiêng máu
Thần thức tôi luôn giúp đạo nhà
Đã mang đoàn thể còn nòi giống
Bi, Trí, Hùng sao chẳng đem ra.
Bài thứ tư Cùng hàng Phật tử quy y, thế độ và xuất gia
là lời nói giả biệt của một vị thầy nhắn nhủ đệ tử. Ngài nhấn
mạnh hạnh nguyện của ngài đã tròn sau 30 năm hành đạo (kể
từ năm 1933 khi Hòa thượng xuống núi sau 3 năm ẩn tu ở
Núi Đất). Các địa phương được nhắc đến trong bài thơ như
là một công án cho các người nghiên cứu, và mãi trên 50 sau
khi ngài viên tịch, cũng chưa ai đi tìm hiểu hết các nơi ngài
từng hoằng pháp.
Thầy đã đến lúc biệt các con
Ba mươi năm hạnh nguyện đã tròn
Những gì đáng độ Thầy đã độ
Thầy tranh Chánh Pháp lúc mất còn
Gia Định Sàigòn hỡi các con
Hà Tiên, Cai Lậy Thầy vẫn còn
Nam Vang, Núi Lớn Thầy ghi dấu
Khánh Hòa đệ tử vẫn ân son.
Riêng bài Xuất kệ vân nói về hạnh nguyện tu tập của
ngài, và như một vị thiền sư tỏ ngộ đã làm bài kệ chứng đạo,
hoặc kệ thị tịch. Bài này đã được đề cập ở trước.
• Lời Nguyện Tâm Quyết
Bài Lời Nguyện Tâm Quyết, được viết tại chùa Ấn Quang,
sau năm bài thơ trên 4 ngày. Bài này ngắn gọn, lời lẽ tha
thiết, ý chí hùng mạnh, và đầy sự quyết tâm và nghị lực. Bài
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 57
Thủ bút chữ Nôm bản Lời Nguyện Tâm Quyết của Hòa Thượng Thích Quảng Đức
58 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
viết chứng minh ngài rất sáng suốt và bình lặng: “Tôi là một
tu sĩ mệnh danh là Trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi
điềm nhiên tọa thị để cho Phật giáo tiêu vong”. Vì vậy nên
ngài “vui vẻ phát nguyện thiêu thân giả tạm này cúng dường
chư Phật để hồi hướng công đức bảo tồn Phật giáo”. Rồi
ngài cầu nguyện mười phương chư Phật và chư Đại đức,
Tăng, Ni chứng minh cho Ngài đạt thành bốn chí nguyện
là: cầu nguyện Phật Trời gia hộ cho Tống Thống Ngô Đình
Diệm sáng suốt; nhờ ơn Phật gia hộ cho Phật giáo Việt Nam
được trường tồn bất diệt; mong hồng ân đức Phật gia hộ cho
chư Đại đức Tăng Ni, và Phật tử Việt Nam tránh khỏi tai nạn
khủng bố, bắt bớ, giam cầm của kẻ gian ác; và cuối cùng là
cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc. Ngài
cũng nhắn nhủ hai điều rất thiết tha nhưng vô cùng quan
trọng, đó là: Thứ nhất: “Tổng thống Ngô Đình Diệm nên lấy
lòng bác ái từ bi đối với quốc dân, và thi hành chánh sách
bình đẳng tôn giáo để giữ vững nước nhà muôn thuở;” và thứ
hai: “Chư Đại đức, Tăng Ni, Phật tử nên đoàn kết nhất trí hy
sinh để bảo tồn Phật giáo.”
Trong bài Lời Nguyện Tâm Quyết này lời lẽ rất rõ ràng,
chính xác, hết lòng vì đạo, vì nước nhà và tạo muốn sức
mạnh thuyết phục người đọc. Đối với Tổng thống Ngô Đình
Diệm là một người Thiên Chúa giáo, thì Hòa thượng dùng
chữ là “mong ơn Phật Trời gia hộ”; và “nên lấy lòng bác ái
từ bi đối với quốc dân”. Còn đối với Tăng Ni, Phật tử thì ngài
dùng chữ “hồng ân đức Phật gia hộ”. Còn đối với quốc dân
ngài chỉ cầu nguyện cho đất nước thanh bình mà thôi.
Một điểm quan trọng cần chú ý là văn bản Nôm của Hòa
thượng viết, khi phiên âm ra tiếng Việt đôi khi vì cố ý, hoặc
vội vã hay vô tình nên có những sai sót đáng kể. Đây là bản
so sánh.
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 59
A: Lời văn trong bản chữ Nôm (xin xem bản phiên âm
mới ở phần sau)
B: Lời văn trong bản phiên âm chữ Việt cũ(25) (xin xem
phiên bản cũ ở phần sau)
1. A: Lời Nguyện Tâm Quyết 心决 (dòng số1)
B: Lời Nguyện Tâm Huyết
2. A: Tôi Tỳ Kheo Thích Quảng Đức (dòng số 1)
B: Tôi Pháp danh Thích Quảng Đức
3. A: Tôi vui vẻ 𢝙 𡲈 phát nguyện (dòng số 2)
B: Tôi vui lòng phát nguyện
5. A: Mong ơn Phật Trời 佛𡗶 gia hộ cho Tổng thống
(dòng số 4)
B: Mong ơn Phật Tổ gia hộ cho Tổng thống
6. A: Nam Mô A Di Đà Phật (dòng số 10)
B: Nam Mô Đấu Chiến Thắng Phật
7. A: Tỳ Kheo Thích Quảng Đức thủ ký (dòng số 11)
B: Tỳ Kheo Thích Quảng Đức kính bạch.
25. Văn bản gốc quay bẳng ronéo vẫn còn giữ ở Thư viện của Trung
Tâm Phật Giáo Huệ Quang, Thành Phố Hồ Chí Minh. Các bản phiên âm
Việt Ngữ xuất bản năm 1964, được tìm thấy Tập Sử Liệu Thức (không
có ghi số trang), trong Phật Giáo Việt Nam 1963, trang 100-101. Bài văn
được in lại trong tuyển tập Bồ Tát Quảng Đức Ngọn Lửa và Trái Tim, trang
25-26. Vào năm 1999, Hòa thượng Thông Bửu đã cho người phiên âm lại
chính xác hơn, tuy thế vẫn còn vài chữ không chính xác. Tài liệu này chỉ lưu
hành nội bộ được in trong tập Đại Lễ Kỷ Niệm 36 Năm Bồ Tát Quảng Đức
Tự Thiêu và Hiệp Kỵ Chư Thánh Tử Đạo.
60 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
Trong một bài văn Nôm ngắn gọn chỉ có 11 dòng gồm
302 chữ mà người phiên âm ra tiếng Việt hoặc vô tình, hoặc
cố ý đã đổi chữ, hoặc đọc sai chữ, hoặc đọc thiếu chữ, hoặc
đổi cả câu. Tất cả 7 lần. Bản phiên âm mới nhất của Phạm
Quý Vinh, cũng có vài sai sót vì là tác giả không có bản copy
chính và quen văn Nôm của HT. Quảng Đức.(26) Thí dụ bài
tựa đọc là Lời Nguyện Tâm Quyết phiên âm là Lời Nguyện
Tâm Huyết. Hai chữ Tâm Huyết mới nghe qua có vẻ thuận
tai và có ý nghĩa hơn, nhưng ý của Ngài là Tâm Quyết. Nói
ngược lại cho thật nôm na là Quyết Tâm. Ở cuối bài, ngày
viết Nam Mô A Di Đà Phật là một câu chào nhẹ nhàng và
thân thiện mà các vị Tăng Ni và hàng Phật tử thuần thành gặp
nhau hay chắp tay chào và xưng niệm, nhưng có lẽ vì muốn
cho tinh thần và khí thế đấu tranh được mạnh mẽ phấn chấn
lên, nên người phiên âm cố ý đổi thành Nam Mô Đấu Chiến
26. Trong bản phiên âm mới của Phạm Quý Vinh, “Về Một Bức Thủ
Bút Chữ Nôm của Hòa thượng Thích Quảng Đức” đăng trong tạp chí
Sông Hương số 227-2008, và được đăng lại trong Thích Nhật Từ &
Nguyễn Kha, đồng chủ biên. Pháp Nạn Phật Giáo 1963: Nguyên Nhân,
Bản Chất và Tiến Trình. Tp. Hồ Chí Minh: NXB Hồng Đức, 2013, trang
577-579, cũng có ba chỗ không chính xác, như: 1) tuyên ngôn phiên âm
trở thành tuyên cáo; 2) âm và trở thành âm đều; 3) cuối cùng giữ vững
nước nhà muôn thuở phiên âm thành nước nhà xưng yên muôn thuở. Có
vài lý do đưa tới sự không chính xác ở trên. Thứ nhất là người phiên âm
không có bản ảnh có độ phân giải lớn cho nên không phóng to để xem
chi tiết khi các chữ Hán Nôm được Hòa thượng viết hơi thảo và rất khó
đọc. Thứ hai, là phải đọc các văn bản chữ Nôm khác do Hòa thượng viết
mới quen các chữ ngài thường dùng trong kho từ vựng chữ Hán Nôm của
ngài. Thứ ba, Hòa thượng dùng ngữ âm hay là cách phát âm miền Nam
để viết văn Nôm. Cho nên khi đọc nếu không theo âm điệu miền Nam thì
đọc không ra chữ, mà đoán theo bộ, theo nét, theo cách ghép âm, hoặc
theo phương pháp mượn âm, mượn ý, mượn chữ thì khó mà đoán được.
Và điểm cuối cùng một số chữ (từ vựng) Hòa thượng dùng để viết không
có trong tự điển hoặc tự vị Hán Nôm.
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 61
Thắng Phật. Đương nhiên là câu Nam Mô Đấu Chiến Thắng
Phật nghe có vẻ vừa thách thức vừa có vẻ tự hào hơn là Nam
Mô A Di Đà Phật. Cuối cùng chữ thủ ký nghĩa là chính tay
ngài ký tên, đổi thành kính bạch là kính trình thưa thỉnh lên
bề trên. Phải chăng đây là sự thiếu cẩn trọng trong lúc dầu sôi
lửa hay là một cách đổ thêm mấy trăm thùng xăng vào ngọn
lửa đang đấu tranh đang hừng hực bùng cháy lúc bấy giờ!
• Hai tờ di chúc
Hòa thượng Quảng Đức để lại hai bản di chúc vô cùng
quan trọng. Bản thứ nhất không có ghi ngày tháng, chỉ đề là
Phật lịch 2507 (năm 1963), và ký tên là Hòa thượng Quảng
Đức (Nguyễn Văn Khiết) trụ trì chùa Quán Thế Âm, có chữ
ký và đóng dấu son. Tờ di chúc này ngắn gọn, lời lẽ chân
thành và tha thiết, di ngôn cho các bổn đạo biết Hòa thượng
“phát nguyện thiêu thân cúng dường để tranh-đấu 5 nguyện
vọng cho Phật-giáo Việt-Nam”, dặn dò và sắp xếp các việc
có liên quan đến chùa Quán Thế Âm, đến ông bà chủ chùa,
và một vài lời ân cần nhắn nhủ đến các bổn đạo. Trong di
chúc Ngài cũng sắp xếp công việc ba chùa ở miền Nam là
chùa Quán Thế Âm ở Phú Nhuận, chùa Long Phước ở làng
Long Khánh và chùa Thiên Phước ở làng Mỹ Phú, tại Cai
Lậy, đều do Thượng tọa Từ Hạnh là đệ tử cầu pháp với ngài
nhận lãnh công việc lãnh đạo thay thế sau khi Ngài viên tịch.
Còn thầy Minh-Bửu [Minh Phước - Thông Bửu] sẽ đứng ra
chủ tang. Tóm lại, đây là tờ di chúc thứ nhất di ngôn cho hai
vị đệ tử thân tín và các Phật tử chùa Quán Thế Âm. Xin xem
nguyên bản ở phần tư liệu.
Tờ Di Chúc thứ hai được đánh máy một bản vào ngày
16 tháng 4 (nhuần) năm Quý Mão (7-6-1963), và được ký
vào đêm 19 tháng 4 nhuần, trước ngày ngài tự thiêu. Bản di
chúc này được Hòa thượng đưa cho đệ tử truyền pháp là thầy
62 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
Thông Bửu vào hồi 7 giờ sáng ngày 20 tháng 4 (11-6-1963),
khoảng 4 giờ trước khi ngài tự tay dùng lửa đốt mình. Như
thế Hòa thượng đã ký vào buổi tối khi được thầy Đức Nghiệp
cho biết ngài phải chuẩn bị để sáng hôm sau tự thiêu. Bản di
chúc này gồm có 10 điều dặn dò các việc quan trọng. Điều 9
cho ta biết là Tờ Di Chúc chỉ đánh máy một bản vào ngày 16
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 63
tháng 4 nhuần và giao cho đệ tử hơn 4 giờ trước khi ngài về
cõi Phật. Tờ Di Chúc này chưa bao giờ được công bố và phổ
biến dẫu rằng thỉnh thoảng vẫn được nhắc tới. Chúng ta có
64 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
thể tóm tắt các vấn đề trong tờ di ngôn như sau. Về vấn đề tu
học, ngài chân thành dặn dò các đệ tử xuất gia cũng như tại
gia hãy nghiêm trì giới luật, diệt bỏ cống cao ngã mạn, sám
hối các tội lỗi, siêng năng tu học và chừa bỏ sự biếng nhác.
Về 4 ngôi chùa ngài trùng tu và trụ trì trong những năm cuối
đời, Hòa thượng dặn sau này đều được lập làm nơi kỷ niệm
ngài, và phải nhập vào Giáo Hội nếu chưa phải là thành viên.
Riêng chùa Quán Thế Âm phải được trùng tu để làm di tích
cuối cùng. Về việc hậu sự, ngài di huấn cho đệ tử Thông Bửu
làm trưởng tử, đứng chủ tang và thờ di ảnh ở chùa Quán Thế
Âm, còn xương và xá lợi sau khi tự thiêu phải do Giáo Hội
phân định. Ngoài ra, thầy Thông Bửu phải chịu trách-nhiệm
xuất bản những nét bút-pháp do Ngài để lại. Riêng đối với đệ
tử Thông Bửu, ngài dạy là không được sớm xuất thân hành
đạo mà phải chờ khi có trình độ đại học. Ngoài các điểm kể
trên, điều thứ 9 là ngài dạy tờ di chúc này hiện tại phải cất kỹ,
đợi khi chánh pháp thắng tà ngụy mới được phổ biến. Điều
thứ 10 như là một lời tiên đoán về kết quả hy sinh của Ngài:
“Trong lúc thiêu thân giả tạm, nếu tôi nằm ngữa là đạo-pháp
trường-tồn vĩnh-viễn, tôi nằm sấp là chánh pháp suy đồi.”
Đúng như lời tiên tri, xác thân ngài đã nằm ngửa ra phía
sau, sau 15 phút ngồi yên bất động tĩnh tọa trong ngọn lửa
cháy rực và nóng bỏng. Chế độ và chính sách đàn áp tôn giáo
của chính quyền ông Ngô Đình Diệm đã sụp đổ chưa đầy 4
tháng sau ngày Hòa thượng tự thiêu. Đạo pháp đã được cứu
nguy, Phật giáo được thoát khỏi cảnh bị đàn áp và cưỡng
bức, Tăng Ni tín đồ bị giam cầm được thả tự do.
THAY LỜI KẾT
Qua tập sách nhỏ này, chúng ta có cơ hội tìm hiểu thêm
về cuộc đời của Hòa thượng Quảng Đức dựa trên các văn bản
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 65
chữ Nôm, các công văn thư từ chữ Việt, cũng như số tư liệu
điền giả và phỏng vấn. Nhờ vào bút tích để lại, chúng ta biết
rõ tên thật của ngài là Lâm Văn Tuất, sinh giờ Tý, ngày 15
tháng 9, năm Mậu Tuất (29-10-1898) tại một ngôi làng nhỏ
ở Khánh Hòa. Cha mẹ của ngài tuy là Phật tử có quy y, giữ
giới nhưng ở trong xã hội Việt truyền thống họ đều sống theo
tinh thần tam giáo đồng nguyên, lấy kỷ cương phụng thờ tổ
tiên, báo hiếu cha mẹ, và mong muốn có con cháu nối dõi
tông đường. Hòa thượng là người con út trong gia đình bảy
anh em. Huynh trưởng là Lâm Văn Quý tuy đã đi tu và thọ
giới nhưng lấy hạnh hiếu thuận cha mẹ làm đầu và đã chia
sẻ sự lo âu và trách nhiệm gia đình. Trong đời sống hai anh
đã hỗ trợ lẫn nhau trong tình huynh đệ và pháp hữu. Từ năm
1945, Hòa thượng đã tỵ nạn chiến tranh, rời hỏi Khánh Hòa
để khỏi bị chính quyền thực dân Pháp truy nã, và có thể qua
Lào, Cam-Bốt cuối cùng đã vào từ Nam Vang về Hà Tiên, rồi
từ đó ngài đã về hoạt động Phật sự tài Sài-Gòn và Gia Định.
Rồi từ Gia Định ngài đã về Cai Lậy và Định Tuờng sinh hoạt
Phật sự trên hai năm. Cũng trong thời gian ở Gia Định, năm
1955 khi chính quyền Sài Gòn tổ chức làm thẻ căn cước ngài
nhân dịp này thay tên đổi họ thành Nguyễn Văn Khiết, sinh
năm 1890, lớn hơn tuổi thật 8 năm.
Do đi nhiều, tiếp xúc rộng rãi, ngài có một kiến thức rộng
rãi, một khả năng giao tiếp khéo léo được bề trên yêu mến,
bề dưới kính trọng. Nhờ hoạt động Phật sự ở nhiều nơi và
tiếp xức đủ mọi thành phần trong xã hội từ từng lớp tri thức,
và giới thương gia tại Gia Định và Sài Gòn, cho đến người
dân lam lũ miệt vườn Cai Lậy, người lái đò ở bến Tô Châu
xứ Hà Tiên, do vậy cái thấy cái nhìn của ngài rất xa và rộng.
Thế nên đứng trước thời cuộc khó khăn của đất nước, đứng
trước nghịch cảnh Phật giáo Việt Nam bị đàn áp, tín ngưỡng
66 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
bị chà đạp, ngài đã mạnh dạn đứng lên vì ngài cảm thấy thản
nhiên hay miễn cưỡng nhắm mắt làm lơ trước cảnh khổ của
người dân, của người Phật tử và các tang lớp Tăng Ni bị bắt
bớ, tù đầy. Do đó ngài đã xả thân tự thiêu cứu đạo giúp đời.
Qua các bài viết bằng chữ Nôm đã làm sáng tỏ thêm Hòa
thượng là một người tri hành hợp nhất, lời nói và việc làm đi
đôi với nhau. Là một vị tăng dày kiến thức thực tiễn và kinh
nghiệm dồi dào, có một trình độ và nội lực tu chứng cao.
Đứng trước mọi sự mọi vật ngài có một nhận thức đúng đắn,
một cái nhìn trí tuệ, và biết tùy thời tùy cơ, không bị mê ám
rối trí trước nghịch cảnh, nên trong suốt cuộc đời hành đạo
ngài đã hết mình sống lợi cho cho quần sinh xã hội, nhất là
đối với người dân nghèo chất phác. Ngài đã đi nhiều nơi, lập
và trùng tu nhiều chùa, hết lòng giúp đỡ bà con ở nơi từ phố
thị phồn hoa đô hội cho đến các vùng làng quê nghèo hẻo
lánh, qua các phương tiện khéo léo từ y học đến tôn giáo, từ
an ủi động viên tinh thần cầu an cho người sống, cầu siêu cho
kẻ chết, giúp đỡ không phân biệt.
Hạnh nguyện bồ tát của Hòa thượng Quảng Đức đã được
biểu lộ nhiều nhất qua bài nói chuyện trong lễ Phật Thành
Đạo tại chùa Quán Thế Âm năm 1962. Nhưng rõ nhất là qua
tập Diễn Giảng khi nói về ba đức tính cao thượng của đạo
Phật là Bi, Trí, Dũng. Lời nguyện và hạnh bồ tát độ đời đã
được nói rõ qua hai câu đối ngài viết ở chùa Long Phước, xã
Ninh Quang, Khánh Hòa, một năm trước ngày tự thiêu. Đó
là ngài nguyện xả bỏ cái thân mộng huyễn này là vì báo đáp
ơn đức của Phật và vì muốn cứu giúp người đời ra khỏi hoạn
nạn tai ương. Bời vì có xả bỏ được thân hình giả tạm này một
cách uy hùng và không thể nghĩ bàn được thì mới cứu giúp
cho Phật Pháp được mãi mãi trường tồn. Và nếu làm như thế
sẽ để lại tiếng thơm cho đời sau, không phải chỉ nơi này mà
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ HẠNH NGUYỆN • 67
còn vang vọng khắp nơi. Xin mượn câu đối của ngài để thay
lời kết.
佛恩以報誓捨幻身還渡恒娑衆
法藏長存誓成正覺流芳塵刹土
不思議!
Phiên âm:
Phật ân dĩ báo thệ xả ảo thân hoàn độ hằng sa chúng.
Pháp tạng trường tồn thệ thành chánh giác lưu phương
trần sát độ.
Bất tư nghì!
Dịch nghĩa:
Vì báo ơn đức Phật nguyện bỏ huyễn thân để độ hết thảy
chúng sanh,
Vì chánh pháp trường tồn nguyện thành chánh giác để
lưu tiếng thơm cho đời.
Không thể nghĩ bàn!
***
PHẦN 2:
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN
MỘT SỐ BÀI VIẾT BẰNG CHỮ NÔM
VÀ PHIÊN ÂM RA CHỮ VIỆT
70 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
Đạo Phật là mạch sống vô tận, là nguồn hạnh phúc vô
biên. Đạo Phật là đạo của hết thảy, của mọi thời gian và
phương sở. Người ta cần ánh sáng và không khí thế nào thì
cũng phải cần đạo Phật như thế ấy. Nhờ giáo pháp của Phật
Đà tâm ta rộng, trí ta sáng, ý chí ta hùng mạnh, ta làm những
việc đáng làm, hy sinh những việc đáng hy sinh. Vậy ta phải
quyết tâm tin theo đạo Phật, truyền bá chánh Pháp của Phật,
cảm hóa mọi người theo đạo Phật.
Thích Quảng Đức, Diễn Giảng
LỜI GIỚI THIỆU
Đầu năm 1958 sau khi hết làm trụ trì chùa Phước Hòa,
Hòa thượng đã về hoạt động Phật sự tại Cai Lậy và Mỹ Tho.
Trong hơn hai năm hoằng pháp tại đây, ngoài các việc ngài
thường làm như trùng tu chùa, tổ chức các ngày lễ chính
trong năm, cầu an cầu siêu cho Phật tử, tổ chức trai đàn chẩn
tế, Hòa thượng đã chú trọng đến vấn đề giáo dục, phiên dịch
và viết lách.
Đối với người dân nghèo ở xã Phú Quý, Hòa thượng và
đệ tử Minh Tánh vận động dân địa phương mở trường tư thục
sơ đẳng Vạn Đức để dạy miễn phí, hoặc học phí tượng trưng
cho các con em trong vùng. Trường được xây cất bằng cây
và lá dựng trên một khoảnh đất rộng bằng phẳng cạnh chùa.
Tuy nghèo và đơn sơ, nhưng trường đã mở được ba lớp học,
từ lớp một đến lớp ba. Trường đã tích cực hoạt động nhiều
năm và đã dạy cho trẻ em nghèo nhưng hiếu học biết đọc,
biết viết, biết làm toán. Năm 1960 Hòa thượng về lại Khánh
Hòa rồi sau chiến tranh lan rộng. Năm 1963 sau khi ngài tự
thiêu, tiếp đến những năm kế tiếp thầy Minh Tánh không đủ
sức điều hành và cáng đáng nên trường đã bị đóng cửa.
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 71
Đối với Tăng Ni và Phật tử trong vùng Hòa thượng đã
chuyên tâm soạn dịch Phật Pháp để có tư liệu và giáo án
giảng dạy. Lúc đầu ngài lấy bộ Phật Học Phổ Thông khóa
thứ nhất và khóa thứ hai của Hòa thượng Thiện Hoa làm căn
bản dùng cho việc giảng dạy. Do vậy ngài đã tuyển chọn
và dịch lại một số bài trong bộ sách này từ chữ Việt qua
chữ Nôm để làm tư liệu cho chính mình. Trong các văn
bản chữ Nôm chúng ta đã tìm thấy các bài: Đạo Phật,
Lược Sử Đức Phật Thích Ca, Bát Quan Trai Giới, Lục
Hòa, Lược Sử Đức Phật A Di Đà và 48 Lời Nguyện, v.v...
đều xuất xứ từ bộ Phật Học Phổ Thông. Tuy thế, trước khi
dịch, ngài đã soạn lại dàn bàn để cho người dạy lẫn người
học nắm vững những điểm then chốt. Đặc biệt trong khi
phiên âm từ chữ Việt qua chữ Nôm, ngài đã sửa lại văn
cú, thêm bớt một số ý và viết thêm những kinh nghiệm tu
học để làm cho ý nghĩa của đoạn văn được trong sáng và
súc tích hơn. Lúc mới đọc bản chữ Nôm của Hòa thượng
chúng ta có cảm tưởng là ngài đã chuyển dịch nguyên
văn từ Việt ra Nôm. Nhưng đọc kỹ và so sánh cả hai bản,
chúng ta thấy có nhuân bút sửa đổi cho hay hơn, súc tích
hơn, trong sáng và khoa học hơn. Có đoạn bản chữ Nôm
dài hơn, nhưng cũng có đoạn phần chữ Nôm ngắn gọn
hơn. Xin dẫn ra đây ba đoạn, trích từ bài số 1, khóa thứ
nhất làm thí dụ để chúng ta thấy rõ vấn đề. Toàn bài khá
dài, nên chỉ xin trích dẫn ba đoạn: lời giới thiệu, lợi ích
của đạo Phật, và phần kết luận. Chỉ chừng ấy thôi cũng để
cho chúng ta thấy đôi chút tri thức, kinh nghiệm tâm linh,
trình độ tu hành và sự am hiểu của Hòa thượng. Ngoài ra
khi so sánh hai bản cũng cho ta biết cách hành văn của
ngài: rõ ràng, trong sáng, logic, giúp cho nguời đọc nắm
vững vấn đề dễ dàng.
72 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
• Phật Học Phổ Thông, HT. Thích Thiện Hoa
Lời nói đầu
Ðạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho
nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ đạo Phật. Dân
chúng thường nói “Ðạo Phật là đạo của ông bà”, hay “Nhà
nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...”. Kể về số
lượng thì tín đồ Phật giáo ở Việt Nam thật là đông đảo;
nhưng xét về phần phẩm, thì chúng ta chưa có thể lạc quan
được. Tình trạng phẩm ít, lượng nhiều ấy phát sinh vì nhiều
nguyên-nhân phức tạp:
- Có người theo đạo Phật vì truyền-thống của ông cha
(ông cha theo đạo Phật, nên con cháu cũng theo).
- Có người theo đạo Phật vì cảm-tình đối với thân bằng
quyến thuộc, hay đối với cái Ðạo đã chia sẻ những phút vui
buồn, thịnh suy của đất nước.
- Có người theo đạo Phật, vì mong cầu được tai qua nạn
khỏi, hay cầu của, cầu con v.v...
Ngày nay, vẫn biết có một số đông tín đồ đã hiểu đúng giá
trị cao siêu và lợi ích rộng lớn của đạo Phật, nhưng cái số ấy
không phải là đa số, nếu đem so với cái khối tín đồ hiểu Ðạo
một cách nông cạn, hay sai lạc nói trên.
Vì không hiểu một cách thấu đáo đạo Phật, nên lòng tin
không được chắc chắn. Mỗi khi gặp một lý thuyết nào lạ,
một tôn giáo nào mới, thì họ ùa hòa tin theo, như cây thiếu
rễ cái, gió thổi phía nào thì ngã rạp theo phía ấy, thật đáng
buồn thương.
Tình trạng buồn thương ấy có thể bổ cứu được, nếu chúng
ta có một chương trình dạy Phật pháp bằng chữ Việt. Dân tộc
ta là người Việt, ở đất Việt, ăn cơm Việt, nói tiếng Việt, mà
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 73
• Bài chữ Nôm, HT. Thích Quảng Đức
Lời nói đầu
Đạo Phật truyền đến nước Việt Nam gần hai mươi thế
kỷ. Dân tộc Việt Nam đa số là tín đồ đạo Phật. Chúng tôi có
thể nói những nhà nào có đốt hương đều là tín đồ đạo Phật
cả. Chẳng qua do sự ảnh hưởng gần hay xa. Một bằng chứng
rõ ràng là người đời thường nói đạo Phật là đạo của ông bà,
v.v... Tín đồ đạo Phật về phần lượng thì vô số, nhưng xét về
phần phẩm thì hết sức bi quan, chỉ có bề rộng mà chẳng có
bề sâu, vì người theo đạo Phật hầu hết với ba nguyên nhân.
Một, vì sự truyền thống của ông bà. Ông bà theo đạo Phật
nên con cháu noi theo. Hai, vì cảm tình của quyến thuộc, vì
thương anh em hay chồng vợ mà theo đạo Phật. Ba, vì cầu tai
qua nạn khỏi, hay hạnh phúc, theo đạo Phật với tính cách mê
tín thần quyền như theo thánh thần. Bởi thế cho nên tín đồ
phần đông chẳng hiểu biết đạo Phật là gì. Lòng tin đạo không
chắc chắn. Mỗi khi gặp một lý thuyết nào lạ, hay tôn giáo nào
mới thì hùa tin theo. Nay qua đạo này, mai qua tôn giáo kia,
chẳng khác nào như cây thiếu rễ cái bị gió thổi phía nào thì
ngã rạp theo phía nấy. Thật đáng buồn thương! Còn những
người hiểu biết chỗ quý báu cao sâu của đạo Phật, phát tâm
chánh tín quy y theo thì trăm người chỉ được một hai. Chúng
ta thử hỏi tất cả tín đồ đạo Phật: Đạo Phật là gì? Ai là người
khai sáng ra đạo Phật? Giáo lý của đạo Phật ra sao? v.v..., thì
bị thất vọng. Vì ít gặp người trả lời cho chúng ta được thỏa
mãn. Sở dĩ có khuyết điểm lớn lao ấy là vì từ trước đến nay
thiếu một chương trình dạy Phật pháp bằng chữ Việt nên dân
tộc ta là người Việt, ở đất Việt, ăn cơm Việt, và nói tiếng
Việt, mà kinh sách Phật toàn bằng chữ ngoại quốc. Cả pho
triết lý cao sâu của đạo Phật vẫn còn nằm nguyên trong ba
tạng chữ Tàu, thử hỏi có mấy ai đọc được. Như thế, thì bảo
74 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
kinh sách bằng chữ ngoại quốc; cả chi triết lý cao sâu của đạo
Phật vẫn còn nằm nguyên trong 3 tạng chữ Tàu, thử hỏi có
mấy ai đọc được? Như thế thì bảo tín đồ làm sao hiểu biết giáo
lý cao sâu của đạo Phật và lòng tin làm sao vững chắc được?
Sự Lợi ích Của Ðạo Phật
Mục đích của đạo Phật là đem lại những kết quả đẹp đẽ
sau này cho chúng sanh:
1. Chơn thường: Chúng sanh trôi lăn, lặn hụp trong biển
sanh tử luân hồi; chúng sanh sống trong cảnh vô thường, khi
trẻ khi già, khi lành khi ốm, khi sống khi chết... Ðạo Phật
đem lại cho người tu hành một quả vị là không bao giờ bị luật
vô thường nói trên chi phối.
2. Chơn lạc: Chúng sanh đang sống trong cảnh giới tối
tăm, buồn tủi, khổ đau; nếu có vui cũng chỉ vui được trong
chốc lát, như người khát, uống nước mặn vào, đỡ khát trong
chốc lát, rồi về sau lại càng khát hơn lúc đầu. Ðạo Phật có mục
đích đem lại cho kẻ tu hành một sự an vui toàn vẹn và bất tận.
3. Chơn ngã: Chúng sanh bị không biết bao nhiêu nghịch
cảnh ở chung quanh chi phối, ràng buộc, như kẻ tù tội bị
giam hãm trong ngục thất, không bao giờ được tự do hoạt
động theo ý muốn của mình. Ðạo Phật có mục đích làm cho
những người tu hành được giải thoát hoàn toàn ra ngoài
những trói buộc nói trên, làm cho con người đầy đủ năng lực
để thực hiện ý nguyện tốt đẹp của mình, và sống một cuộc
đời an nhiên tự tại.
4. Chơn tịnh: Chúng sanh đang sống trong cảnh giới ô
trọc, lấm láp trong bùn nhơ của cõi tục, từ trong tâm hồn cho
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 75
tín đồ làm sao hiểu được giáo lý cao sâu của đạo Phật và lòng
tin chuẩn chắc được. Bởi nhận thấy tình cảnh ấy, nóng lòng
nên chúng tôi bạo dạn và cố gắng soạn ra chương trình Phật
học phổ thông này mong giúp tín đồ mau hiểu giáo lý, thấy
được chỗ quý báu của đạo, để cho lòng tin được chân chính
và chuẩn bền.
Sự ích lợi của đạo Phật
Đạo Phật có lợi lợi ích gì cho đời? Đạo Phật rất có ích
cho đời. Chủ nghĩa của đạo Phật là từ bi, bác ái và bình
đẳng. Đạo Phật dạy người không ỷ mạnh hiếp yếu, không
cậy khôn lấn dại. Giáo lý đạo Phật giúp tinh thần con người
trở nên cao thượng, sáng suốt, biết được chân giá trị của con
người, không mê lầm lý nhân quả, không mờ ám thuyết luân
hồi. Hơn nữa, giáo lý của đạo Phật là pháp xuất thế gian dạy
người tu hành đạt đến chân lý không còn sanh diệt trong
vòng tam giới. Thế thì Phật pháp không những làm lợi ích
cho người trong đời hiện tại mà còn lợi ích đến vị lai vô tận
nữa. Đạo Phật là con đường chơn chánh đưa chúng sanh ra
khỏi sanh tử luân hồi mà không tôn giáo nào đem lại được
cái kết quả thù thắng ấy. Vả lại chủ nghĩa của đạo Phật thật
cao sâu rộng rãi, bao la cùng khắp, đã nhận lấy tất cả chúng
sanh đồng một bản thể bình đẳng như như thì đạo Phật đâu
có ngã nhân, bỉ thử, sai biệt, đâu có giai cấp bất đồng. Hơn
nữa, giáo lý của đạo Phật rất có ích cho nhân quần xã hội,
trong đời hiện tại và vị lai. Do ba phương diện đặc sắc là mở
mê bày ngộ, cứu khổ ban vui, dứt dữ tu lành.
76 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
đến ngoài thể chất. Ðạo Phật có mục đích làm cho người tu
hành gạn lọc được bao nhiêu ô trọc của cõi đời, được sống
một cuộc sống trong trắng, tinh khiết, không vướng chút bận
nhơ của trần tục.
Không phải chỉ trong vị lai, đạo Phật mới đem lại lợi ích
cho đời, ngay trong xã hội hiện tại, đạo Phật cũng đem lại
nhiều lợi ích quý báu:
- Ðạo Phật, nhờ tinh thần Từ Bi, làm cho xã hội, nhân loại
thương yêu nhau hơn.
- Ðạo Phật, nhờ ánh sáng Trí Tuệ, làm cho xã hội, nhân
loại bớt si mê lầm lạc, thấy được đâu là giá trị thật, đâu là
phỉnh phờ, giả dối.
- Ðạo Phật, nhờ tinh thần Bình Ðẳng tuyệt đối, san bằng
được những bất công của xã hội, nhân loại, và làm cho cảnh
giới Ta-bà này được sáng sủa, an vui hơn.
Ðó là những lợi ích mà đạo Phật đem lại cho cõi đời.
Kết Luận
Những lợi ích nói trên quý báu như thế, nhưng sẽ không
bao giờ đến với chúng ta, nếu không học và hành theo Phật.
1. Học Phật: Ðức Phật mặc dù là một đấng xuất phàm,
thông minh xuất thế, nhưng khi xuất gia Ngài cũng phải học
hỏi đêm ngày, hao tốn sức biết bao nhiêu, mới phát huy ra
được cái giáo lý nhiệm mầu để lại cho chúng ta. Vậy chúng
ta muốn trở thành một Phật tử chân chính thì trước tiên là
phải học hỏi như Phật. Chúng ta không chỉ học trong giáo
lý của Ngài mà còn học qua đời sống, đức hạnh, hành vi của
đời Ngài nữa.
2. Hành theo Phật: Nhưng học mà không tập, không
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 77
Kết Luận
1. Khuyên người học đạo Phật
Nói tóm lại nhờ đạo Phật con người thoát khỏi được lưới
vô minh, phá tan rừng tà kiến. Nhờ đạo Phật con người sửa
đổi được các tật xấu hóa thành các nết tốt. Nhờ đạo Phật con
người cải tạo được thế giới chiến tranh, đau khổ, trở nên thế
giới hòa bình an vui. Tất cả chúng ta sẽ nhờ đạo Phật mà
được giác ngộ giải thoát tất cả phiền não trói buộc, được tự
tại vô ngại và chứng quả vị đồng bậc ngang hàng với chư
Phật. Vậy, nếu chúng ta không tìm học và thực hành theo đạo
Phật thì thật là hoang uổng cho kiếp sống của chúng ta lắm
ru. Trông mong hãy cố gắng!
78 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
hành, thì chẳng khác gì cái đãy đựng sách, chữ nghĩa kinh
sách chất chứa thật nhiều, mà chẳng có ích lợi gì cả. Vậy
nên học phải đi đôi với hành. Chúng ta phải cố gắng thực
hành cho được những điều đã học, làm cho được những điều
mình thấy là hay là phải. Phật đã làm gì, chúng ta phải tập
làm lại; Phật đã có những đức tánh Từ, Bi, Hỷ, Xả, Hoan Hỷ,
Tinh Tấn, Thanh Tịnh... chúng ta cũng cố gắng thực hiện cho
được những đức tánh ấy.
Có như thế, mới khỏi hổ với hai tiếng Phật tử và mới gọi
là đền đáp trong muôn một, ân đức sâu dày của đức Từ Phụ
Thích Ca.
***
Về sau có lẽ không vừa ý về các bài học, cách viết và
cách trình bày của HT. Thiện Hoa trong bộ Phật Học Phổ
Thông nên ngài Quảng Đức đã tự mình soạn ra tập Diễn
Giảng. Tập sách này ngài khởi viết ngày 20 tháng 4 năm Kỷ
Hợi (13-5-1959) tại chùa Thiên Phước. Đây là sáng tác độc
đáo nhất của ngài trong thời gian hoằng pháp tại đây, và cũng
là tập sách bày tỏ tri thức hiểu biết và tư tưởng dấn thân của
người tu theo đạo Phật. Trong lời giới thiệu, ngài dự định sẽ
viết ba tập, từ dễ đến khó, từ kiến thức sơ đẳng cho đến các
vấn đề cao siêu, từ giáo lý phổ thông đến địa hạt nghiên cứu.
Nội dung tập đầu gồm có “phần giáo lý phổ thông, lịch sử,
tiền thân Phật, câu chuyện đạo, thanh thiếu niên gia đình
Phật tử”. Rất tiếc ngài chỉ viết xong một phần nhỏ ở tập một,
gồm có 12 đề tài: 1) Đạo Phật; 2) Mục đích của đạo Phật; 3)
Mục đích của người theo đạo Phật; 4) Sự lợi ích của người
theo đạo Phật; 5) Nhiệm vụ của người theo đạo Phật; 6)
Tam Đức; 7) Thực hành theo đạo Phật; 8) Đừng vội tin
tuởng; 9) Tam Bảo; 10) Tam Tạng; 11) Quy Y; và 12) Ăn
chay. Hòa thượng mới viết hết phần quy y rồi không biết
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 79
2. Làm theo đạo Phật
Người Phật tử phải cố gắng trau thân dồi tâm ngoài cũng
như trong được sạch sẽ, trong cũng như ngoài được thanh
tịnh. Được như thế mới không hổ danh Phật tử, ngõ hầu đáp
lại một phần nào ân sâu của Phật.
***
một lý do gì đó ngài bỏ dở nửa chừng, không tiếp tục viết
nữa. Như thế có nghĩa là trong phần giáo lý căn bản và
phổ thông ngài chưa viết hết. Còn các phần khác đuợc đề
cập trong phần giới thiệu có các đề mục về lịch sử, tiền
thân Phật, câu chuyện đạo, thanh thiếu niên gia đình Phật
tử, thì ngài chưa viết đến. Biết đâu ngài đã viết nhưng sau
mấy lần di chuyển chỗ ở và làm trù trì một nơi khác, hoặc
trải qua các cuộc chiến tranh và biến thiên lịch nên tài liệu
bị thất lạc hoặc thiêu hủy. Cũng có thể là các thế hệ về sau
không biết đọc chữ Hán và chữ Nôm vì thấy chúng không
có giá trị nên đã vứt đi (tác giả đã gặp chuyện này nhiều
lần khi đi khảo cứu).
Nhìn chung nội dung các đề tài trong tập Diễn Giảng rất
cần thiết và hữu dụng. Hòa thượng không những đem kiến
thức hiểu biểt và kinh nghiệm tu học ra giảng dạy mà còn
trình bày rất khoa học và theo lối sư phạm. Bài ngắn nhưng
rõ ràng và sâu sắc bày tỏ tư tưởng đơn giản thiết thực, nhưng
cũng có những sự việc dù làm suốt đời vẫn không hết. Lấy
80 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
thí dụ ngài dạy 10 nhiệm vụ của người theo đạo Phật để thấy
rõ vấn đề hơn. Nguời Phật tử phải:
1. Phát nguyện quy y Phật, Pháp, Tăng.
2. Cố gắng học hỏi những giáo lý cao sâu của Phật.
3. Truyền bá giáo lý của Phật cho hết thảy mọi người.
4. Truyền bá mọi người theo đạo Phật.
5. Giản dị và điều độ trong đời sống của mình, không xa
hoa cầu kỳ.
6. Khiêm tốn với tất cả mọi người, không kiêu căng, tự
cao tự đại.
7. Giúp đỡ người hoạn nạn, không đuợc gây phiền não
cho người.
8. Nhân từ đối với loài vật, không được giết hại chúng nó.
10. Bình tĩnh lạc quan trước mọi hoàn cảnh khó khăn
nguy hiểm.
10. Làm tròn bổn phận đối với gia đình và xã hội.
Trong mười điều này, có những điều rất căn bản nếu như
một Phật tử chân chính cần phải quy y Tam bảo, học hỏi
giáo lý, phải có lòng từ bi thương người, thương vật, giữ giới
không sát sanh hại vật, phải có một đời sống giản dị, khiêm
tốn, và làm tròn bổn phận đối với gia đình và xã hội. Bên
cạnh đó, ngài khuyên làm những việc khó làm, như truyền
bá giáo lý của đạo Phật đến cho mọi nguời, nên bình tĩnh và
lạc quan truớc mọi hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Vấn đề
hoằng pháp truyền bá giáo lý đến cho mọi người là một vấn
đề năng động, người Phật tử cần phải nỗ lực, cương quyết và
có tâm nguyện, có kiến thức và sự hiểu biết mới làm được.
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 81
Vấn đề bình tĩnh và lạc quan trước hoàn khó khăn và nguy
hiểm thì cần phải có một trình độ hành trì và tu chứng mới
làm được.
TƯ LIỆU VIẾT BẰNG CHỮ NÔM
Một số các bài được tuyển chọn phiên âm ra Việt ngữ và
đăng trong tập sách này đều nằm trong 13 di cảo của Hòa
thượng, may mắn còn lưu giữ đến nay.
Trước khi đọc giả có cơ hội xem những bản phiên âm
tiếng Việt, xin được tóm tắt một vài ý chính về phần nội dung
của các văn bản, ngày tháng và xuất xứ. Đây là những tư liệu
gốc có thể cung cấp thêm nhiều thông tin cần thiết, không
những giúp cho người đọc, mà có thể giúp cho các nhà nghiên
cứu có thêm một nguồn tư liệu để có thể tìm hiểu thêm tư tưởng
và các hoạt động Phật sự của Hòa thượng những năm cuối đời
trước khi tự thiêu.
1. Bài thơ Kệ Xuất Vân. Đây là bài cuối trong năm bài thơ
chữ Nôm Ngài viết vào ngày 30-5-1963, trên 1 tờ giấy nhỏ,
11 ngày trước khi tự thiêu. Cuối bài thơ có phần chữ Hán ghi
rõ ngày tháng năm sinh, họ tên thật và các đạo hiệu của Hòa
thượng. Đây là một chi quan trọng giúp cho chúng ta giải mã
một vài nghi vấn về ngày tháng năm sinh và tên họ thật của
Hòa thượng.
2. Lời Nguyện Tâm Quyết viết ngày 04-06-1963, 1 tờ. Nội
dung là lý do tại sao Ngài phải tự thiêu để bảo vệ Phật giáo,
và có lời khuyên Tổng thống Ngô Đình Diệm nên thương
dân. Ngài nhắc nhở Tăng Ni và Phật tử cố gắng đoàn kết để
bảo vệ Phật giáo. Bài này đã công bố nhưng có một vài chi
tiết trong bản phiên âm Việt ngữ không được chính xác.
3. Diễn văn lễ thỉnh Phật và làm lễ an vị Phật chùa Pháp
82 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
Hải, xã Ninh Thọ, quận Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa, gồm
2 tờ, không đề ngày tháng. Nội dung của văn bản là Hòa
thượng chào đón chư Đại đức Tăng Ni trong tỉnh, quận, xã
cũng như chính quyền địa phương và Phật tử xa gần đến dự
lễ cung nghinh đức Phật và làm lễ an vị. Hòa thượng cũng
cám ơn các thí chủ người cúng đất kẻ cúng tiền để tạo dựng
ngôi chùa mới. Phần cuối có ghi tên của hai Phật tử hỷ cúng
một số tiền. Trong bài diễn văn Hòa thượng nhấn mạnh sự
quan trọng của Tam bảo, vì lập chùa là để phụng thờ Tam bảo
và nền tảng căn bản cho Phật tử chiêm ngưỡng tượng Phật,
để tụng kinh, tu học và cầu nguyện cho quốc thái dân an. Bài
này có thể ngài khoảng giữa năm 1961 khi chùa làm lễ an vị
Phật. Vì cuối năm 1961 ngài đã về nhậm chức trụ trì và làm
lễ khánh thành chùa Long Phước, cùng quận.
4. Diễn văn lễ khánh thành chùa Long Phước, Ninh
Quang, quận Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa, gồm 1 tờ, viết ngày
6 tháng 11 năm Tân Sửu, tức là ngày 13-12.1961. Nội dung
chùa được xây dựng từ thời Cảnh Hưng nhà Lê, nên chịu luật
thành trụ hoại không và biến thiên của lịch sử nên bị tàn phế,
nay được xây dựng lại huy hoàng hơn có chánh điện thờ Phật
và hai dãy nhà đông và tây để sinh hoạt Phật sự.
5. Diễn văn lễ an vị Phật chùa Quán Thế Âm, 1 tờ. Không
ghi rõ ngày tháng, nhưng dựa theo các sổ thu chi của chùa thì
lễ an vị Phật được tổ chức vào lễ vía Phật Thành Đạo năm
1962. Nội dung là cám ơn các Phật tử đã ủng hộ tài chánh
sửa sang chùa và cám ơn một Phật đã tử hý cúng tượng Phật
để thờ. Đó là đối tượng tín ngưỡng cho việc tụng kinh cầu
nguyện. Nhân dịp lễ, ngài khuyên Phật tử cần phải làm Phật
sự để báo ơn Phật.
6. Bài giảng lễ Đức Phật thành đạo tại chùa Quán Thế
Âm, Phú Nhuận, Gia Định, 2 tờ. Theo tư liệu các quyển sổ
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 83
chi và thu thì ngài làm lễ Đức Phật thành đạo tại chùa Quán
Thế Âm vào cuối năm 1962. Bài này khá dài nội dung là
nhắc lại công lao tu hành của Phật và phương pháp thiền định
để đưa đến sự chứng ngộ dưới cội bồ đề.
7. Diễn giảng, đề ngày 20 tháng 4 năm Kỷ Hợi (13-51959), viết tại chùa Thiên Phước, quận Cai Lậy. Gồm có
10 tờ. Nội dung đạo Phật là gì, mục đích và tôn chỉ của đạo
Phật, trích dẫn các lời Phật dạy, giải thích về tam đức Bi, Trí,
Dũng. Nói về ý nghĩa và sự cần thiết của Tam bảo, giải thích
về Tam Tạng, ba phép quy y. Bài viết chưa hoàn tất, đang bỏ
dở dang ở phần cuối. Đây là một trong những sáng tác hay
nhất và độc đáo nhất của ngài.
8. Phật Học Phổ Thông, không đề ngày tháng và nơi viết.
Gồm có 23 trang. Nội dung nói về ưu tư cho một chương
trình học Phật bằng chữ Việt. Các bài viết gồm có nhiều khóa
của cấp sơ đẳng. Bài một nói về đạo Phật. Bài hai là lược
sử đức Phật Thích Ca từ giáng sanh đến thành đạo. Bài ba
lược sử đức Phật Thích Ca từ Thành Đạo đến nhập Niết Bàn.
Riêng bài ba mới viết xong phần dàn bài và lời giới thiệu.
Trong lời giới thiệu Hòa thượng định viết bốn bài, nhưng
việc viết lách của Hòa thượng bị ngưng. Trên thực tế, Phật
Học Phổ Thông là giáo án của ngài được dịch và lấy ý chính
từ bộ Phật Học Phổ Thông, quyển 1 và 2 của HT. Thiện
Hoa. Nhưng đây không phải là nguyên văn lời dịch từ chữ
Việt sang chữ Nôm, trái lại ngài đã viết lại dàn bài, thêm bớt
những ý cần thiết cho hợp trình độ tri thức của người nghe.
Tuy không phải là bài sáng tác, nhưng bộc lộ những ưu điểm
về tri thức và phương pháp dạy học rất sư phạm của ngài.
9. Lược Sử Đức Phật A Di Đà và 48 Lời Nguyện, gồm có
8 trang viết trên mặt bên trái không có chữ in của cuốn nông
lịch người Trung Hoa in ở Chợ Lớn. Nội dung nói Phật tử
84 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
tu pháp môn niệm Phật phải biết lịch sử và hạnh nguyện của
đức Phật A Di Đà. Bài viết giải nghĩa A Di Đà là gì và tóm
lược tiền thân đức Phật A Di Đà qua bốn câu chuyện. Phần
kết luận nói nhân địa hạnh nguyện của đức Phật A Di Đà do
nhờ Phật Thích Ca chỉ dạy. Khuyên Phật tử noi theo gương
Phật mà phát nguyện độ sanh. Bài viết cũng ghi lại 48 đại
nguyện của Phật A Di Đà. Rất tiếc là chỉ ghi đến nguyện 22.
Còn thiếu 26 lời nguyện và phần kết luận.
10. Bài Bát Quan Trai Giới, gồm có 4 tờ, viết trên bề trái
của cuốn Nông Lịch. Nội dung giảng về sự quan trọng của
sự giữ giới, và giải thích về ý nghĩa của tám giới. Rất tiếc bài
viết chỉ giải thích giới thứ nhất là không sát sanh, và sự lợi
ích không sát sanh hại vật. Bảy giới còn lại chưa đề cập tới
mặc dù dàn bài ghi rất rõ ràng. Có thể đây là bản dịch chữ
Nôm của Hòa thượng lấy từ tập Phật Học Phổ Thông, khóa
1, dùng để giảng dạy trong các dịp tổ chức tu học một ngày
cho Phật tử các chùa ngài làm trụ trì.
11. Bài Phép Thọ Bát Quan Trai Giới, gồm có 6 trang,
viết trên giấy học trò. Nội dung ghi lại nghi thức truyền thọ
Bát Quan Trai giới cho Phật tử tại gia và giải thích sơ lược
qua về 8 giới. Đây là bản dịch chữ Nôm của Hòa thượng lấy
từ tập Phật Học Phổ Thông, khóa 1, và có một vài chi tiết
Hòa thượng thêm vào cho rõ ràng hơn.
12. Bài Sáu Phép Lục Hòa. Phần lớn bài viết mất cả chỉ
còn lại trang cuối phần kết luận về sự quan trọng và lợi ích
của phép lục hòa trong đạo Phật cần được phải áp dụng. Theo
nội dung và mạch văn trong bài thì đây là bản dịch chữ Nôm
của Hòa thượng lấy từ tập Phật Học Phổ Thông, khóa 1,
nhưng ngài đã thêm vào nhiều ý kiến và tư tưởng rất hay và
hữu dụng có liên quan đến sự Phật giáo Việt Nam không có
thống nhất trong thời điểm đó.
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 85
13. Bài nghề Ủ Nấm Rơm, gồm có bốn trang, viết trên
quyển tập lớn loại chi thu. Đây là một bài viết dạy về phương
pháp và kinh nghiệm là nấm rơm rất chi tiết, từ phương pháp
lựa đất chọn chỗ làm mô nấm, đến cách ủ nấm, cách săn sóc
mô nấm, và cuối cùng là cách thâu hoạch nấm. Bài này có
thể viết vào năm 1959, khi Hòa thượng trụ trì chùa Thiên
Phước, quận Cai Lậy, và dạy người dân ở đây làm nấm rơm
sau các vụ mùa vì đã có sắn rơm lẫn rạ. Đây là bài viết có
nhiều chữ Nôm khó đọc nhất trong các văn bản chữ Nôm của
Hòa thượng để lại.
Chín bài chữ Nôm của Hòa thượng viết được tuyển chọn
và chuyển qua tiếng Việt ở trong phần này. Ngoại trừ bài số
1 và số 2 đã được công bố và in lại nhiều lần sau ngày Hòa
thượng tự thiêu, bảy bài còn lại chưa bao giờ biết tới, hoặc
được chuyển âm qua phần Việt ngữ. Bài Kệ Xuất Vân chỉ
được phiên âm qua tiếng Việt lời thơ, còn hai hàng chữ Hán
ở phần cuối chưa bao giờ được nhắc tới, và bản Hán-Nôm
cũng chưa bao giờ được công bố. Qua hai hàng chữ Hán này
đã cho ta biết thêm một vài chi tiết hấp dẫn và quan trọng.
Trong các bản phiên âm tiếng Việt của bài Lời Nguyện Tâm
Quyết có nhiều chỗ không chính xác vì có nhiều lý do, nay
xin được hiệu đính lại. Xin đọc thêm lời bàn trong phần I.
Nhân đây tác giả xin chân thành cảm tạ TT. Thích Lệ Trang
chùa Định Thành, anh Nguyễn Nam nhà nghiên cứu văn hóa
Á Châu tại viện Harvard Yenching, thuộc Đại học đường
Harvard, và thầy Nguyễn Văn Thoa, chuyên gia Hán Nôm
ở TP. Hồ Chí Minh, đã giúp đọc lại một số thác bản chữ
Nôm để tác giả hiệu đính cho chính xác hơn. Tác giả cũng
xin bày tỏ lòng biết ơn ban biên tập tờ Suối Nguồn đã đọc và
bổ túc những chỗ thiếu sót trong lúc chuẩn bị đăng một số
bài chữ Nôm cho tạp chí Suối Nguồn. Tuy thế, nếu có vài sai
86 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
sót trong lúc phiên âm tác giả rất mong các bậc thiện tri thức
lượng thứ và bổ chính.
• Thứ tự các bài phiên âm:
1. Xuất Kệ Vân.
2. Lời Nguyện Tâm Quyết.
3. Diễn văn lễ khánh thành chùa Pháp Hải, Khánh Hòa.
4. Diễn văn lễ khánh thành chùa Long Phước, Ninh Hòa
Khánh Hòa.
5. Diễn văn lễ an vị Phật tại Chùa Quán Thế Âm, Phú
Nhuận.
6. Bài nói chuyện lễ Kỷ Niệm Đức Phật Thích Ca Thành
Đạo tại chùa Quán Thế Âm, Phú Nhuận.
7. Diễn Giảng.
8. Bát Quan Trai Giới.
9. Nghề Ủ Nấm Rơm.
***
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 87
XUẤT KỆ VÂN
Nền Phật dò lần kiếp tẩy sang
Phủi tay rửa sạch nợ trần gian
Tránh đàng danh lợi tìm nơi tịnh
Niệm chữ từ bi lánh cửa quan
Chuỗi hột tay lần khuya với sớm
Kệ kinh tụng niệm vái rồi van
Một lòng thành kính lòng mình nguyện
Tịnh độ từ đây sẽ ở an.
次癸卯年潤四月初八日觀世音寺住持和尙釋廣德出
偈云
俢仕阮文㓗法名是始字行法法號仁知覺性釋廣德俗
名林文戌元生戊戌年九月十五日子時而生
Dịch âm:
Tuế thứ Quý Mão niên, nhuận tứ nguyệt, sơ bát nhật,
Quán Thế Âm tự, trụ trì Hòa thượng Thích Quảng Đức xuất
kệ vân.
Tu sĩ Nguyễn Văn Khiết, pháp danh Thị Thủy, tự Hạnh
Pháp, hiệu Nhân Tri, giác tính Thích Quảng Đức, tục danh
Lâm Văn Tuất, nguyên sinh mậu tuất niên, cửu nguyệt, thập
ngũ nhật, tý thời nhi sinh.
Dịch nghĩa:
Hòa thượng Thích Quảng Đức, trụ trì chùa Quán Thế Âm
làm bài kệ vào ngày mồng tám, tháng tư nhuận, năm Quý
Mão (30-5-1963).
88 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
Tu sĩ Nguyễn Văn Khiết, pháp danh Thị Thủy, tự Hạnh
Pháp, hiệu Nhân Tri, giác tánh [tên họ theo đạo giác ngộ].
Thích Quảng Đức, tục danh Lâm Văn Tuất, sinh vào giờ tý,
ngày 15 tháng 9, năm Mậu Tuất (29-5-1898).
Thủ bút bài Xuất Kệ Vân của Hòa thượng Thích Quảng Đức. Phòng lưu
niệm, chùa Quán Thế Âm, Phú Nhuận.
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 89
LỜI NGUYỆN TÂM QUYẾT
Tôi Tỳ-kheo Thích Quảng Đức, trụ trì chùa Quan Thế
Âm, Phú Nhuận, Gia Định. Nhận thấy Phật giáo nước nhà
đang lúc nghiêng ngửa, tôi là một tu sĩ mệnh danh là Trưởng
tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi điềm nhiên tọa thị để cho
Phật giáo tiêu vong. Nên tôi vui vẻ phát nguyện thiêu thân
giả tạm này cúng dường chư Phật để hồi hướng công đức
bảo tồn Phật giáo. Mong ơn mười phương chư Phật, chư
Đại đức, Tăng, Ni chứng minh cho tôi đạt thành chí nguyện
như sau:
▪ Một là mong ơn Phật Trời gia hộ cho Tổng thống Ngô
Đình Diệm sáng suốt chấp nhận năm nguyện vọng tối thiểu
của Phật giáo Việt Nam ghi trong bản tuyên ngôn.
▪ Hai là nhờ ơn Phật từ bi gia hộ cho Phật giáo Việt Nam
được trường tồn bất diệt.
▪ Ba là mong nhờ hồng ân đức Phật gia hộ cho chư Đại
đức Tăng Ni, Phật tử Việt Nam tránh khỏi tai nạn khủng bố,
bắt bớ, giam cầm của kẻ gian ác.
▪ Bốn là cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân
an lạc.
Trước khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gửi
lời cho Tổng thống Ngô Đình Diệm nên lấy lòng bác ái từ bi
đối với quốc dân, và thi hành chánh sách bình đẳng tôn giáo
để giữ vững nước nhà muôn thuở.
Tôi thiết tha kêu gọi chư Đại đức, Tăng Ni, Phật tử nên
đoàn kết nhất trí hy sinh để bảo tồn Phật giáo.
90 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
Nam Mô A Di Đà Phật.
Làm tại chùa Ấn Quang ngày bốn tháng sáu năm một
nghìn chín trăm sáu mươi ba [04-06-1963].
Tỳ-kheo Thích Quảng Đức thủ ký.
***
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 91
DIỄN VĂN NÓI TẠI CHÙA PHÁP HẢI
NGÀY LỄ AN VỊ PHẬT
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Ngưỡng bạch quý Đại đức Tăng, chư giáo hội Tăng Già
Trung Việt tỉnh Khánh Hòa.
Kính thưa Hội Phật Giáo chi hội Ninh Hòa và toàn thể
các khuôn hội.
Kính thưa hội đồng xã Ninh Thọ, ông thôn trưởng, và ban
chỉ đạo thôn Lạc Bình.
Kính thưa quan khách nam nữ Phật tử và thập phương
bổn đạo.
Nay tôi thay mặt cho Ban Trị Sự chùa Pháp Hải, nam nữ
Phật tử.
Tôi xin trân trọng kính chào quý Đại đức giáo Hội Tăng
Già tỉnh Khánh Hòa và chư sơn thiền đức tăng ni hoan hỷ
quang lâm đến chứng minh buổi lễ thỉnh Phật sớm nay.
Quý quan khách nam nữ Phật tử đã bỏ chút thì giờ quý
báu để đáp lại lời thỉnh cầu của chúng tôi đến dự lễ cung
nghinh đức Phật được đông đảo như thế này làm cho cuộc lễ
sớm nay được thập phần long trọng. Chúng tôi vô cùng cảm
tạ đạo tâm của quý vị.
Kính thưa quý Ngài,
Từ xưa đến nay hễ lập ra một ngôi chùa thì phải sắm đủ
ba ngôi báu là Phật, Pháp và Tăng cho nên gọi là ngôi Tam
bảo. Vì thế nên cổ đức gọi Phật bảo là tượng hình ra đó để
92 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
phụng thờ [người có] lòng chủ trương. Pháp bảo là tàng chứa
những lời Phật nói truyền phương [pháp] tu hành. Tăng bảo
là [người có] lòng thành thương đời cạo tóc đi tu.
Chúng tôi thấy chùa Pháp Hải này Phật tượng chưa tướng
hảo quang minh để cho tín đồ chiêm ngưỡng, nhờ như hai
thời công phu và tịnh độ để cầu nguyện cho quốc thái dân an,
thập phương bổn đạo thiện nam tín nữ tăng long phước thọ,
phát bồ đề tâm tăng trưởng. Cho nên chúng tôi nhờ lòng đạo
tâm của chư thiện tín [cung thỉnh được] vị tượng đức giáo
chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật để tôn thờ sùng bái [và]
tu học giáo pháp của Ngài [để] cải tâm niệm của chúng sanh.
Trên nhờ chư Phật từ bi gia hộ, dưới thì nhờ chánh quyền có
sự giúp đỡ về hai phương diện vật chất cùng tinh thần của
chư giáo hội trong tỉnh, và thập phương bổn đạo nam nữ Phật
tử ủng hộ giúp đỡ. Còn chúng tôi là người xuất gia vì bổn
phận con Phật [nên] phải làm Phật sự.
Thưa quý vị,
Ngôi chùa Pháp Hải này kiến tạo lần này là nhờ lòng đạo
tâm tín ngưỡng của hai vợ chồng ông Nguyễn cúng một hai
[miếng đất] để lập ngôi chùa, và có vợ chồng con gái ông
Nguyễn Giả, và trong nam nữ Phật tử cũng có tấm lòng giúp
đỡ, kẻ của người công. Được như thế cũng nhờ sự đạo tâm của
quý vị, cho nên ước nguyện của chúng tôi được sự viên thành.
Sáng nay có sự hiện diện đông đủ của quý Ngài từ trong
đạo cho đến ngoài đời. Điều đó đã chứng minh sự khích lệ
và ưu ái của quý vị đối với chúng tôi trên con đường phụng
sự chánh pháp.
Vậy trước khi dứt lời chúng tôi xin quý Ngài nhận nơi
đây lòng chơn thành tri ân ơn của chúng tôi. Và chúng tôi
nguyện cầu thập phương chư Phật, chư đại Bồ Tát gia hộ
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 93
cho quốc thái dân an, quý vị thân tâm an lạc đạo nghiệp viên
thành, bồ đề tâm tăng trưởng, hiện tiền phướ thọ tăng long,
hậu nhật được Di Đà thọ ký.
Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát Ma Ha Tát.
(Trang sau Đại Mỹ, Đinh Bá Châu (pd) Đồng Trân;
Nguyễn Thị Lá (pd) Đồng Trung, cúng 200 đồng Xuân Hòa
Nguyễn Thị Cúc (pd) Tâm Quang cúng 100 đồng; Trần Thị
Ánh cúng 100 đồng).
***
94 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
DIỄN VĂN CHÙA LONG PHƯỚC
XÃ NINH QUANG, QUẬN NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Ngưỡng bạch Thượng tọa chư Tăng Giáo Hội Khánh Hòa.
Kính thưa quý Chi Hội Phật Giáo Ninh Hòa và quý khuôn hội.
Kính thưa quý hội đồng xã Ninh Quang và các ngành các
giới trong thôn nhà, cùng thiện nam tín nữ trong thôn và hội
viên Phật tử xa gần.
Thay mặt nhân dân trong thôn, hội viên Phật giáo khuôn
hội Long Phước và tăng chúng trong chùa. Kính lời chào
mừng quý vị đã hoan hỷ bỏ chút thì giờ quý báu đến dự lễ
khánh thành hôm nay tăng phần trang nghiêm long trọng.
Chúng tôi thật cảm động đạo tâm của quý vị.
Thưa quý vị,
Đạo Phật truyền thống nhà Việt Nam đã lâu đời, cho nên
nhiều người có đạo gọi [đạo Phật] là đạo ông bà chắc quý vị
cũng rõ như chúng tôi. Hiển nhiên bằng chứng hiện đây là chùa
Long Phước này tổ khai sơn đã sáng lập từ đời Cảnh Hưng đến
nay tín sổ có bốn trăm năm dư. Trong vũ trụ bất kỳ hình thái
nào cũng phải theo công lẽ là thành trụ hoại không, hưng vong
thịnh diệt. Bởi thế cho nên ngôi chùa Long Phước mấy năm về
trước chưa được khả quan, đông lang tây lang chưa thành tựu.
May thay nhờ nhân duyên hoằng pháp Hội Phật giáo Việt Nam
khuôn hội Long Phước thành lập. Gần đây lại nhờ sự ủng hộ của
chánh quyền xã thôn cùng toàn thể nhân dân hợp [thành] mới
xây dựng lại đông lang, tây lang tương đối huy hoàng.
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 95
Chúng tôi là tu sĩ trong Phật giáo đối trước cảnh tượng
mỹ quang, trong lớp không khí dịu dàng với tấm lòng ưu ái
vì đạo của quý vị và toàn thể Phật tử phát lồ một cách rõ ràng
khiến cho chúng tôi không ngừng cảm động.
Trước khi dứt lời, chúng tôi xin nguyện làm tròn [sứ
mạng] đức Như Lai phó chúc. Cầu được quốc thái dân an,
quý vị và toàn thể nam nữ Phật tử tăng long phước thọ.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Tân Sửu niên, thập nhất nguyệt sơ lục nhật (Ngày sáu
tháng mười một năm Tân Sửu (13-12-1961)
***
96 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
LỄ AN VỊ PHẬT CHÙA QUÁN THẾ ÂM
PHÚ NHUẬN, GIA ĐỊNH
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Ngưỡng bạch Hòa thượng chứng minh.
Kính bạch chư sơn thiền đức Giáo Hội Tăng Già Nam Việt.
Kính thưa Hội Phật Học Nam Việt, nam nữ Phật tử.
Kính thưa Hội đồng xã Phú Nhuận, Ban Trị Sự ấp chiến
lược Đông Nhì.
Kính thưa quý quan khách nam nữ Phật tử và thập phương
bổn đạo.
Nay tôi thay mặt cho bổn đạo chùa Quán Thế Âm, nam
nữ Phật tử, tôi xin trân trọng kính chào chư Đại đức Tăng Ni
quang lâm đến chứng minh buổi lễ thỉnh Phật hôm nay và
quý quan khách nam nữ Phật tử gần xa hiến chút thì giờ quý
báu để đáp lại lời mời của chúng tôi đến dự lễ cung nghinh
đức Phật được đông đủ như thế này, làm cho buổi lễ hôm nay
được thập phần long trọng. Chúng tôi vô cùng cảm động đạo
tâm của quý vị.
Kính thưa quý ngài:
Từ xưa đến nay hễ lập ra một ngôi chùa thì phải để đủ ba
ngôi báu là Phật, Pháp và Tăng cho nên gọi là ba ngôi báu. Vì
thế nên cổ đức gọi Phật bảo là tượng hình ra cho đó phụng thờ
lòng có chủ trương. Pháp bảo là tàng trữ chứa chấp những lời
Phật dạy truyền phương tu hành. Tăng bảo là lòng thành xuất
tục thương người đời cắt tóc đi tu. Chúng tôi thấy chùa Quán
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 97
Thế Âm này vì còn thiếu một tượng đức giáo chủ Thích Ca
để cho tín đồ chiêm ngưỡng lễ bái công phu tịnh độ, để cầu
nguyện cho [quốc] thái dân an, thập phương bá tánh, nam nữ
Phật tử tăng long phước thọ, phát bồ đề tâm tăng trưởng. Cho
nên, chúng tôi nhờ lòng hảo tâm những người lúc trước đã
lập ngôi chùa này. Sau đây nhờ lòng đạo tâm của hai ông bà
Lý Văn Lang có lòng xây dựng quỹ ngôi chùa. Nay có nhân
duyên bà Phan Cẩm Lợi cúng một vị tượng Thích Ca Mâu
Ni Phật để tôn thờ sùng bái tu học giáo pháp của Ngài cải
tâm niệm của chúng sinh. Trên thì nhờ chư Phật từ bi gia hộ,
dưới thì nhờ chính quyền ủng hộ giúp đỡ hai phương diện vật
chất cũng như tinh thần. Còn chúng tôi là người xuất gia là
vì bổn phận Phật tử phải hành Phật sự. Nhờ sự hảo tâm của
chư thiện tín cho nên chúng tôi Phật sự được viên thành sớm.
Ngày nay có sự hiện diện đông đủ của quý Ngài từ trong
đạo cho đến ngoài đời, điều đó đã chứng minh sự khích lệ và
ưu ái của quý vị đối với chúng tôi trên con đường phụng sự
chánh pháp.
Vậy trước khi dứt lời chúng tôi xin quý Ngài nhận nơi
đây lòng chân thành tri ân của chúng tôi và chúng tôi nguyện
cầu thập phương chư Phật cầu cho quốc gia cùng liệt vị thân
tâm an lạc, đạo nghiệp viên thành, bồ đề tâm tăng trưởng.
***
98 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
KỶ NIỆM NGÀY ĐỨC PHẬT THÍCH CA THÀNH ĐẠO
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính thưa toàn thể hội hữu.
Mở trang lịch sử của đức Phật để ôn lại mẫu đời của
Ngài. Nếu sự giáng sinh của Thái tử Tất Đạt Đa đã báo hiệu
một vị cứu thế xuất hiện thì ngày thành đạo là ngày bắt đầu
công cuộc cứu thế ấy, mà sớm nay chúng ta vận lòng thành
kính tri ân cử hành lễ kỷ niệm.
Hình ảnh một vị Sa-môn sau khi bất mãn với lối tu khổ hạnh
trong sáu năm tại núi Tuyết Sơn, một hình một bóng tự đi tìm
lấy sự giải thoát không xóa mê mờ được trong trí óc của chúng
ta. Lời thề nguyền cương quyết, dù máu ta có khô, da xương
ta có rục, ta thề không rời khỏi chỗ này, nếu không tìm ra đạo.
Khi đứng dưới gốc cây tất bát la [cây bồ đề] còn vang dội trong
tim gan chúng ta từng lời từng chữ. Phát nguyện xong lấy cỏ
làm nệm, Ngài ngồi tĩnh tọa tham thiền, vận dụng tận cùng tất
cả năng lực tư duy quán sát, chiến thắng tất cả giặc phiền não ở
nội tâm, phát triển trí tuệ tuyệt vời. Cho đến một đêm nọ, đêm
mồng tám tháng 12: canh một, Ngài chứng quả túc mệnh minh;
canh hai, chứng quả thiên nhãn minh thấy rõ khắp không gian;
canh ba chứng quả lậu tận minh diệt trừ hết thảy mê mờ từ vô
thỉ. Mây vô minh đã vẹt, tâm trí khai thông, đến lúc sao Mai mọc
Ngài hoát nhiên đại ngộ, chứng quả Nhất Thiết Chủng Trí, được
đạo vô thượng, thành bậc Chánh Giác, hiệu là Thích Ca Mâu Ni.
Thành đạo nghĩa là gì? Đạo nghĩa là sự thật, là phương
pháp thực hiện sự thật ấy. Thành đạo nghĩa là thật hành rốt
ráo các phương pháp ấy. Và rõ ràng hơn thành đạo nghĩa là
thành tựu các trí giác triệt để cùng khắp vậy. Chính đó là
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 99
thành công lớn lao nhất trong lịch sử nhân loại mà đức bổn
sư chúng ta trải qua bao nhiêu kiếp cực kỳ gian lao tu học
mới đem lại kết quả như thế được.
Hôm nay chúng ta làm lễ kỷ niệm chính là để kỷ niệm sự
thành công vĩ đại và rực rỡ ấy. Với nữa việc thành đạo của
đức Bổn Sư là một phát minh có một không hai. Cái chân lý
của vạn hữu bổn lai thường trụ. Cho nên thành đạo nghĩa là
giác ngộ chứ không phải sáng tạo ra chân lý. Cũng ví như
định luật của khoa học mà các nhà khoa học phát minh ra,
chứ không phải sáng tạo ra nó được. Nhưng trong vũ trụ cái
đáng quý nhất là năng lực phát minh. Nhất là sự phát minh
ra chân lý. Cho nên sớm nay chúng ta kỷ niệm là kỷ niệm sự
phát minh quý báu mà đức Bổn Sư của chúng ta phải trải qua
bao nhiêu sự hy sinh mới thành công được. Sau khi thành
đạo rồi vì đức Bổn Sư rất phân vân giữa hai thái cực. Một
đằng thì chân lý vũ trụ quá cao; một đằng thì tâm lý chúng
ta quá thấp. Cho nên Ngài áp dụng phương thức muôn đời
của các đức Phật là thực hành hai lối giáo dục. Một là quán
triệt tông chỉ tối cao và thực hành các biện pháp thiết dụng.
Nghĩa là muốn cho mọi người đều được giác ngộ chân lý.
Đức Bổn Sư đều áp dụng mọi hình thức giáo hóa cho thích
hợp với trình độ mọi người. Nhưng dù các hình thức đó có
muôn ngàn sai biệt đi nữa, mục đích vẫn quy về tông chỉ tối
cao. Nhờ lối giáo dục khó khăn đó đức Bổn Sư cố gắng dìu
dắt chúng sanh. Cho nên những người đã theo Ngài đều thật
chứng được chân lý. Ngày nay chúng ta đang tu học đây nhờ
lối giáo dục ấy mà nhất định chúng ta cũng sẽ thực hiện được
sự thật điều mong muốn duy nhất của chúng ta.
Sớm nay chúng ta kỷ niệm ngày thành đạo giữa một hoàn
cảnh khó khăn, nhân tâm tao loạn. Chúng ta lại càng ý thức
được ý nghĩa giác ngộ vô thượng mà Ngài đã chứng được
100 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
dưới gốc cây Bồ Đề. Lịch sử nhân loại ngày nay đã chứng
minh được những lời dạy của Ngài là khuôn vàng thước
ngọc cho muôn đời để tiến bước trên con đường giác ngộ đó.
Chúng ta hãy noi gương cao cả của đức Từ Phụ trọn đời hy
sinh cho mọi loài. Với bốn mươi chín năm giáo hóa, độ thoát vô
số chúng sinh lên bờ giác ngộ, pháp âm lưu mãi với thời gian.
Vậy chúng ta là Phật tử, chúng ta không nên nghĩ chỉ làm lễ kỷ
niệm Ngài qua một hình thức thông thường cho có, mà cần phải
nhìn vào đời sống của đức Phật, tinh thần tu học theo chánh
pháp. Cố gắng cởi mở bớt các nghiệp chướng phiền não, diệt trừ
tam độc tham sân si, sống lợi quần sinh, sống từ bi hỷ xả, mong
có hy vọng đạt thành quả vị giác ngộ, đem lại không khí an bình
với tình thương chân thật cho mọi người. Chỉ có thực hành như
thế mới khả dĩ gọi là kỷ niệm đức Phật mà thôi.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Công trường Quảng Đức, nơi kỷ niệm Hòa thượng Quảng Đức tự thiêu
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 101
DIỄN GIẢNG
Tập I
Thiên vận ngày 20 tháng 4 năm Kỷ Hợi (13-15-1959)
[Hòa Thượng] Quảng Đức, trụ trì chùa Thiên Phước.
Lời nói đầu
Giáo pháp của Phật ví như phương thuốc chữa bệnh.
Thuốc ở đời chữa về thân bệnh, thuốc của Phật chữa về tâm
bịnh. Vì chúng sanh nhiều bịnh nên Phật chế ra nhiều thuốc.
Chúng sanh vô lượng, pháp môn vô lượng. Phật tùy bịnh cho
thuốc. Người căn tánh sáng suốt, Phật dạy giáo lý cao. Kẻ
căn tánh ám độn Phật dạy giáo lý thấp. Giáo lý ấy được ghi
bên trong ba tạng: kinh, luật, luận, có hằng vạn quyển. Vì thế
người ta thường gọi là rừng Nho sách vở đạo Khổng, biển
Thích kinh sách đạo Phật. Nghĩa là kinh sách nhiều không
kể xiết được.Và người tu được học trọn đời không thể hiểu
hết được giáo lý của Phật nếu không chứng ngộ bởi rừng
giáo điển vô tận, nghĩa lý siêu huyền. Nên có nhiều giáo hữu
thường phàn nàn kinh sách đạo Phật nhiều mà nghĩa lý lại
khó, nhất là viết bằng Hán văn. Mỗi bộ nói mỗi khác, chỗ này
nói có, nơi kia nói không. Nào là Tính tông, nào là Tướng
tông, nào là Đại thừa, nào là Tiểu thừa. Chúng tôi không biết
tu học thế nào cho phải. Chúng tôi cũng đồng quan điểm ấy.
Vì kinh sách xuất bản thường tụng hằng ngày, hoặc bằng
Hán văn, hoặc đã dịch ra Việt văn. Chính những bộ ấy nghĩa
lý lại sâu xa khiến người tụng đọc khó hiểu khó tin nếu không
có thầy chỉ dẫn. Ví như Kinh Di Đà, Dược Sư, Địa Tạng,
v.v..., vì lẽ khó hiểu khó tin ấy nên chúng tôi chẳng quản tài
102 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
sơ trí tiện tham khảo trong các kinh sách, mạnh dạn soạn tập
sách này để giúp ích các giáo hữu mới vào đạo hay sắp vào
đạo có một nấc thang tu học Phật pháp từ thấp lên cao, từ dễ
tới khó, một đức tin sáng suốt vững chắc nơi đạo Phật, một
nhận thức chân chánh về đạo Phật, một nếp sống mới, sống
theo tinh thần giáo lý đạo Phật để lợi ích cho mình và người.
Có tin, hiểu, làm như thế chúng ta mới mong đời sống hiện
tại bớt khổ thêm vui và một ngày kia sẽ được giác ngộ giải
thoát như Phật.
Nội dung tập này gồm có phần giáo lý phổ thông, lịch
sử, tiền thân Phật, câu chuyện đạo, thanh thiếu niên gia đình
Phật tử. Những bài học giáo lý cũng như về lịch sử. Cuối mỗi
bài có chú thích những chữ khó và đặt thành những câu hỏi
cho dễ hiểu.
Vậy tập sách này nếu được hữu duyên tới tay quý vị,
chúng tôi xin thành thật hoanh nghênh những phê bình và lời
chỉ giáo chỗ khuyết điểm để chúng tôi tiếp tục biên soạn tập
hai, tập ba, cho được hoàn bị hơn.
Tập sách này thuộc sơ bộ nên chúng tôi không thể trình
bày được những điểm cao siêu của đạo Phật mà chỉ là những
giáo lý phổ thông. Nhất là nó phải nằm trong địa hạt giáo
khoa. Hai tập sau cũng trong phạm vi đó nhưng đầu bài khó
hơn, có nghĩa là từ dễ đến khó. Chúng tôi hy vọng sau khi
hoàn thành ba tập giáo khoa sẽ biên tập loại sách nghiên cứu.
Khi ấy chúng tôi mới có thể trình bày được nhiều cái cao,
hay, đẹp của giáo lý Phật Đà để giúp quý vị cũng như các bạn
tham khảo. Sau hết, chúng tôi xin ghi tạc những vị trước tác,
dịch thuật đã cho những tài liệu quý giá để biên soạn tập sách
giáo khóa này. Chúng tôi cũng thành thật tri ân các Thượng
tọa, Đại đức cùng quý Phật tử xa gần đã trợ giúp về sự xuất
bản để phổ biến giáo lý đạo Phật cho hết thảy quần sanh.
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 103
Hai: Phần giáo lý
I. Đạo Phật
Đạo Phật là con đường giác ngộ. Giác ngộ cho mình sáng
suốt rồi giác ngộ cho người sáng suốt. Ngài đã tìm ra con
đường giác ngộ và chỉ vẽ con đường ấy cho ta là đức Phật
Thích Ca Mâu Ni vậy.
Đạo Phật đã cho ta một đời sống thanh thoát, bình giản,
không xa hoa, hiếu kỳ, lập dị, một tinh thần độc lập, tự chủ,
không khuất phục trước quyền thế bất công, một tâm hồn cao
thượng vị tha, không hẹp hòi cố chấp, một ý chí hùng mạnh
quả cảm, quyết tranh đấu cho chân lý, một đầu óc tiến thủ,
sáng suốt, nhanh nhẹn, không hủ lậu thái hóa, không mê tín
dị đoan, không mù quáng trước bả lợi danh bất chính.
Đạo Phật là mạch sống vô tận, là nguồn hạnh phúc vô
biên. Đạo Phật là đạo của hết thảy, của mọi thời gian và
phương sở [nơi chốn]. Người ta cần ánh sáng và không khí
thế nào thì cũng phải cần đạo Phật như thế ấy. Nhờ giáo pháp
của Phật Đà tâm ta rộng, trí ta sáng, ý chí ta hùng mạnh, ta
làm những việc đáng làm, hy sinh những việc đáng hy sinh.
Vậy ta phải quyết tâm tin theo đạo Phật, truyền bá chánh
Pháp của Phật, cảm hóa mọi người theo đạo Phật.
Giải nghĩa
• Giác ngộ: hiểu biết, tỉnh ngộ.
• Thanh thoát: thanh tịnh, giải thoát.
• Bình giản: giản dị, bình thường.
• Xa hoa: lòe loẹt, hào nhoáng bề ngoài.
• Hiếu kỳ: ưa sự kỳ lạ.
• Lập dị: làm ra vẻ khác người.
104 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
• Khuất phục: chịu hèn theo người.
• Thoái hóa: thụt lùi.
• Dị đoan: điều lạ lùng.
• Hủ lậu: cũ kỹ không hợp thời.
• Tiến thủ: hết sức bước tới.
• Hy sinh: bỏ tánh mạng và quyền lợi của mình cho người.
Câu hỏi
1. Thế nào gọi là đạo Phật?
2. Ai là giáo chủ đạo Phật?
3. Đạo Phật đã có cho ta những gì?
4. Đạo Phật là đạo của ai?
5. Ta có cần đạo Phật không?
6. Nhờ giáo pháp của Phật, tâm, trí, ý ta thế nào?
7. Ta phải làm gì đối với đạo Phật?
Lời Phật dạy:
“Ta thà giữ đạo chịu nghèo hèn mà chết chớ không chịu
vô đạo được giàu sang mà sống.” Kinh Lục Độ Tập.
II. Mục đích của đạo Phật
1. Khai hóa hết thảy chúng sinh ngộ được tâm thanh tịnh,
sáng suốt sẵn có của mình cũng giống như Phật vậy.
2. Chỉ vẽ mọi pháp môn để hướng dẫn chúng sinh bỏ con
đường mê lầm tới nơi giác ngộ, bỏ địa vị phàm phu lên địa
vị Phật, Thánh.
3. Tìm các phương tiện thích đáng cứu trợ chúng sanh
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 105
bớt khổ thêm vui cho tâm hồn và thể xác ở cõi đời hiện tại
và tương lai.
Tôn chỉ của đạo Phật
Tôn chỉ là một đường lối tiến hành có phương pháp thứ
tự để đạt tới mục đích cao cả vậy. Đạo Phật lấy ba đức: tâm
từ bi, trí sáng suốt, ý chí hùng mạnh tinh tấn làm tông chỉ.
Giải nghĩa
• Mục đích: cái chỗ mình chủ tâm đi tới.
• Khai hóa: mở mang, dạy bảo.
• Chúng sinh: chúng là mọi, [là] nhiều; sinh là sống.
Người ta cũng như muôn loài phải nhờ nhiều nhân duyên
hòa hợp mới sống được. Đạo Phật có chia ra 10 giới [cõi]:
Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, từ giới [cõi] địa ngục
tới Bồ Tát đều gọi là chúng sinh cả, chỉ trừ có Phật.
• Từ bi: thương xót ban vui cứu khổ cho người.
Câu hỏi:
1. Mục đích của đạo Phật là gì?
2. Tông chỉ của đạo Phật là gì?
Lời Phật dạy:
“Việc làm chưa xong không nên nửa chừng thôi nghỉ”.
III. Mục đích của người theo đạo Phật
1. Mong cầu thành Phật vì Phật là bậc giác ngộ tối cao, hoàn
toàn giải thoát không bị phiền não, sanh tử ràng buộc được.
2. Mong độ hết thảy chúng sinh vì sự cứu độ làm lợi ích
cho chúng sinh là những nguyên nhân chính đưa ta tới địa vị
chư Phật.
106 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
3. Mong đoạn [dứt trừ] hết thảy phiền não. Phiền não
là những cái gì làm đau khổ, cắn rứt ở tâm hồn và thể xác.
Phiền não còn là những bức thành ngăn đạo giác ngộ giải
thoát của ta.
4. Mong biết hết thảy mọi pháp vì hiểu biết khắp cả mới
gọi là Phật. Vậy bất luận một sự gì, vật gì, môn gì, ta đều phải
thông suốt cùng khắp.
Giải nghĩa
• Phiền não: là buồn phiền ảo não.
• Địa vị: địa là chốn, vị là ngôi, cái cảnh ngộ mình ở, cái
trình độ mình tới.
Câu hỏi
1. Tại sao mong cầu thành Phật, mong độ hết thảy
chúng sanh, mong đoạn hết thảy phiền não, mong biết hết
thảy mọi pháp?
Lời Phật dạy:
“Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”. Kinh
Phạm Võng.
IV. Sự ích lợi của người theo đạo Phật
1. Tâm hồn bình tĩnh, tự tại, gặp cảnh ngang trái không
buồn giận, gặp cảnh thuận không say mê đắm đuối.
2. Đời sống bớt khổ thêm vui. Tự vui với cảnh nghèo
thiếu của mình, không tham vật dục nhiều nên thể xác được
an nhàn đỡ vất vả.
3. Tư tưởng sâu rộng. Phật là người tư tưởng cao sâu vĩ
đại, hùng mạnh, ta theo Phật sẽ nhiễm dần tư tưởng ấy. Ví
như gần mực thì đen gần đèn thì sáng.
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 107
4. Ngang hàng với Phật. Nếu ta nói theo lời của Phật, làm
theo việc của Phật, chẳng sớm thì muộn ta sẽ được như Phật.
5. Mọi người kính nể. Dù người theo đạo Phật hay không
nhưng vì thấy người khác tu học Phật dĩ nhiên phải kính
trọng người tu học ấy, trừ kẻ vô đạo, bởi vì người tu Phật chỉ
mong đem sự ích lợi cho mọi người không phân biệt kẻ oán
người thân.
Giải nghĩa
• Tự tại: theo ý muốn của mình, không bị ai trói buộc.
• Vật dục: vật chất, dục tình.
• Vô đạo: không tin theo đạo nào.
Câu hỏi
1. Tại sao tâm hồn được bình tĩnh, tự tại, đời sống bớt khổ
thêm vui, tư tưởng sâu rộng ngang hàng với Phật [và được]
mọi người kính nể?
Lời Phật dạy:
“Nhận được lỗi mình mới khó”.
V. Nhiệm vụ của người theo đạo Phật
1. Phát nguyện quy y Phật, Pháp, Tăng.
2. Cố gắng học hỏi những giáo lý cao sâu của Phật.
3. Truyền bá giáo lý của Phật cho hết thảy mọi người.
4. Truyền bá mọi người theo đạo Phật.
5. Giản dị và điều độ trong đời sống của mình, không xa
hoa cầu kỳ.
6. Khiêm tốn với tất cả mọi người, không kiêu căng, tự
cao tự đại.
108 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
7. Giúp đỡ người hoạn nạn, không được gây phiền não
cho người.
8. Nhân từ đối với loài vật, không được giết hại chúng nó.
9. Bình tĩnh lạc quan trước mọi hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
10. Làm tròn bổn phận đối với gia đình và xã hội.
Giải nghĩa
• Quy y: trở về nương tựa.
• Cầu kỳ: cố ý làm cho khác hơn người.
• Khiêm tốn: nhu nhường.
• Lạc quan: xem mọi việc đều là vui tốt.
Câu hỏi
1. Nhiệm vụ của người theo đạo Phật là những gì?
Lời Phật dạy:
“Người học đạo phải bỏ tất cả thói xấu của mình mới trở
nên trong sạch được”. Kinh Tứ Thập Nhị Chương.
VI. Tam đức
A. Bi
Bi là từ bi, là cứu khổ ban vui, diệt trừ những nỗi thống
khổ cho chúng sinh, đem mọi hạnh phúc đến cho muôn loài.
Vì lòng từ bi khi thấy chúng sanh đau khổ Phật tử phải tìm
cách cứu giúp khiến họ được hưởng kiếp sống an lành. Vì
lòng từ bi Phật tử phải thường mang lại những niềm vui tươi
cho hết thảy, không được làm đau khổ một ai, dù là đối với
các súc vật. Vì lòng từ bi Phật tử không được thản nhiên hay
mỉm cười trước cảnh đau khổ của kẻ khác mà phải xả thân
cứu người ra khỏi biển khổ. Vì lòng từ bi Phật tử phải thường
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 109
đem cái vui sướng của mình mà ban bố cho hết thảy người
vui. Ta đừng hiểu lầm rằng từ bi là hiền lành nhu nhược, ươn
hèn, trơ như gỗ đá. Ai bảo hay cũng ừ, bảo trái cũng gật, mũ
ni che tai, sự [việc] ai không biết, mà từ bi phải có trí [quán
sát] xét đoán việc gì nên làm hay nên bỏ. Từ bi là sức sống
vô tận, là nguồn cảm động vô biên của loài người. Vậy từ bi
là lòng thương không bờ bến đối với muôn loài chúng sinh.
Từ bi là đạo đức then chốt của người theo đạo Phật. Người
có lòng từ bi thì quỷ thần phải kính trọng, thú dữ phải quy
hàng. Người tu hạnh từ bi thường xem hạnh phúc và đau khổ
của người cũng như [của] mình, thường ban vui cứu khổ cho
người, mà không cầu báo, sống rộng rãi để nhịp nhàng với
bản thể vô biên của trụ vũ và hết thảy cả chúng sinh.
Giải nghĩa
• Thống khổ: đau đớn, chua cay.
• Nhu nhược: yếu ớt.
• Bản thể: chính bản thân của mọi vật.
• Trụ vũ: khoảng không gian và thời gian.
Câu hỏi
1. Thế nào gọi là bi, vì lòng từ bi Phật tử phải thế nào?
2. Từ bi có phải nhu nhược không?
3. Vậy từ bi là gì?
4. Người có tâm từ bi thì được lợi gì?
5. Người tu hạnh từ bi phải thế nào?
Lời Phật dạy:
“Một đời sống trôi qua một cách vô ích thì chỉ kết liễu
trong ân hận”. Kinh Di Giáo.
110 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
B. Trí
Trí là trí tuệ, là hiểu biết sáng suốt, nhận thức đúng đắn
mọi sự, mọi vật. Phật tử thường tin tấn học hỏi trau dồi sự
hiểu biết cho mình và cho người. Những điều gì chưa biết
Phật tử phải cố gắng tìm hiểu cho đến nguồn gốc. Đành rằng,
điều hay nên học hiểu, nhưng điều dở cũng cần phải hiểu biết
hơn. Điều hay ta theo, điều dở ta tránh. Có trí tuệ sâu rộng
mới hướng dẫn mình và người, không bị lầm đường lạc lối.
Người có trí tuệ mới biết tùy thời, tùy cơ, không bị mờ ám rối
trí trước nghịch cảnh, không bị dục vọng thấp hèn lôi cuốn
mới biết mưu sự lợi ích cho hết thảy chúng sinh. Chư Phật là
những người có đại trí tuệ hiểu biết cùng khắp. Vậy, trí tuệ
là thanh gươm sắc bén chặt tan rừng vô minh phiền não, là
chìa khóa để mở tung những ổ khóa bí mật huyền vi của trụ
vũ và nhân sinh.
Giải nghĩa
• Vô minh: không sáng suốt ngu dốt.
• Huyền vi: sâu kín, nhỏ nhiệm.
• Nhân sinh: đời người.
Câu hỏi
• Thế nào gọi là trí?
• Phật tử phải làm gì cho mình và người?
• Có nên biết những điều dở không?
• Người có trí tuệ thì được lợi gì?
• Ai là người có đại trí tuệ?
• Vậy trí tuệ là gì?
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 111
Lời Phật dạy:
“Si mê là mẹ đẻ của muôn tội lỗi; trí tuệ là cha sinh của
muôn hạnh lành”. Kinh Pháp Cú Thí Dụ.
C. Dũng
Dũng là dũng tiến, là mạnh bạo, bền chí cố gắng không
ngừng. Phật tử thường mạnh tiến hy sinh tính mạng mình
mưu hạnh phúc cho người. Phật tử không bao giờ sờn lòng
thối chí khi mục đích cao đẹp của mình đã quyết định. Phật
tử thường oai hùng quả cảm quyết tiến không sợ sệt trước
một sức mạnh nào. Phật tử hùng dũng vượt qua mọi thử
thách gian lao mỉm cười trước nguy hiểm, tự tại trước thất
bại, vững chí tinh tiến trên con đường chánh nghĩa.
Dũng tiến không phải là hăng hái nhất thời ngày nay làm
cố hết ngày mai nghỉ. Bởi hiểu lầm như thế nên nhiều người
làm quá sức mình sinh ra mệt nhọc, trước tinh tấn bao nhiêu
thì sau lại lười biếng bấy nhiêu. Vậy, dũng tiến có nghĩa là làm
phải có chừng mực bền chí nhưng hùng dũng cương quyết tùy
sức mạnh yếu của mình, không được thái quá hay bất cập.
Ba đức Bi, Trí, Dũng phải nhịp nhàng với nhau. Nếu có bi
tình thương mà không trí xét đoán thì bi ấy dễ bị sai lầm. Nếu
có trí, lý trí không bi thì trí ấy bị viễn vong mơ hồ, lý thuyết
suông. Bi trí có mà thiếu dũng thì bi trí không thể thực hiện
được. Có dũng mà không có bi trí thì dũng ấy thành bất nhân,
độc ác và sẽ rơi vào con đường mê lầm trụy lạc.
Vậy, bi trí dũng ba đức là tông chỉ cơ bản của đạo Phật,
thiếu một không thể được.
Giải nghĩa
• Quả cảm: quả quyết dám làm.
112 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
• Gian lao: vất vả khó nhọc.
• Thái quá: bốc quá, quá độ
• Bất cập: lười quá.
• Cơ bản: nền tảng.
Câu hỏi
1. Thế nào gọi là dũng?
2. Với đức dũng Phật tử phải thế nào?
3. Dũng tiến có phải là hăng hái nhất thời không?
4. Người hiểu dũng tiến thì thế nào?
5. Vậy dũng tiến phải thế nào?
6. Có bi mà không trí thì thế nào?
7. Có trí mà không bi thì thế nào?
8. Bi, trí, dũng là gì của đạo Phật?
Lời Phật dạy:
“Cắt đứt mọi mối lo âu buồn tủi trong tâm hồn đó là một
hạnh phúc rất lớn”.
Đạo Phật là nguồn sống cho loài người. Đạo Phật là đạo
từ bi, giác ngộ. Đức Phật dạy ta không được cậy khỏe bắt
nạt yếu, không được thông minh chê người ngu dốt; không
được cậy giàu khinh nghèo; không được cậy tài khéo chê kẻ
quê vụng. Phải dẹp bỏ những tâm niệm độc ác hại người, hại
vật, mặc dầu nó nhỏ bằng mũi kim hay ngọn cỏ. Ý nghĩ, lời
nói, việc làm phải song song, hướng về thanh tịnh, từ bi và
trí giác, phải yêu thương giúp đỡ chúng sanh, bất luận người
thân hay kẻ oán trong khi họ nghèo khổ. Nếu một người thực
hành lời Phật dạy thì người ấy trở thành hiền nhân quân tử.
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 113
Một gia đình thực hành lời Phật dạy thì gia đình ấm cúng an
vui. Một thế giới thực hành lời Phật dạy, thì thế giới thịnh
vượng hòa bình. Nói tóm, nếu ai nấy làm đúng lời Phật dạy thì
sẽ thành những người giác ngộ từ bi, là Phật. Không còn tham
lam mê muội, tàn hại lẫn nhau. Cõi thế giới này sẽ tưng bừng
hóa thành một cõi nước thân yêu đẹp đẽ vô cùng sung sướng.
Câu hỏi
1. Đạo Phật dạy ta thế nào?
2. Nếu một người thực hành lời Phật dạy thì thế nào?
3. Một gia đình, một thế giới, cõi thế gian này sẽ như thế nào?
Lời Phật dạy:
“Ai biết sửa khỏi lỗi lầm thì người ấy được tiến hóa trong
giáo pháp của ta”. Kinh Trường A Hàm.
VIII. Đừng vội tin tưởng
Đức Phật dạy: “Đừng tin tưởng một điều gì dẫu vinh vào
một tập tục vì tập tục đó đã truyền qua nhiều đời. Đừng
tin tưởng một điều gì dẫu điều đó được nhiều người nhắc
đi nhắc lại. Đừng tin tưởng một điều gì dù điều ấy là bút
tích của thánh hiền xưa để lại. Đừng tin tưởng một điều gì
do mình tưởng tượng ra mà lại nghĩ rằng một vị tối linh đã
mách bảo cho. Đừng tin tưởng một điều gì dẫu điều đó vinh
vào uy tín của các huynh trưởng hay các vị thầy. Nhưng chỉ
điều gì mà chính các ngươi đã tự mình từng trải kinh nghiệm
và nhận ra đúng. Cái gì hợp với lợi ích của các ngươi và kẻ
khác thì hãy tin tưởng và thừa nhận điều đó là đúng sự thật.”
Giải nghĩa
• Tối linh: rất thiêng liêng.
• Huynh trưởng: người anh cả.
114 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
• Bút tích: dấu nét bút.
Câu hỏi
1. Ta có nên tin tưởng những tập tục ngay không? Tại sao?
2. Tại sao điều gì ta nên tin và thừa nhận là đúng?
IX. Tam bảo
Tam bảo là ba ngôi báu: Phật, Pháp, Tăng.
Phật: Phật nói đủ theo tiếng Phạn là Phật Đà [Buddha].
Người Tàu dịch là giác giả, nghĩa là người giác ngộ. Phật đã
trải nhiều đời nhiều kiếp tu hành tự mình đã giác ngộ hoàn
toàn, lại đem phương pháp giác ngộ ấy, dạy mọi chúng sinh
để được giác ngộ như mình, giác ngộ và thực hành hai phần
đã được viên mãn nên gọi là Phật.
Pháp: Pháp tiếng Phạn gọi là Đạt Ma [Dharma], nghĩa là
phương pháp, giáo pháp, phép tắc, hay là pháp luật. Phật nói
ra vô lượng pháp môn, phương tiện để chúng sinh noi theo tu
hành, diệt trừ mọi sự mê lầm khổ não, chứng được thanh tịnh
an vui. Nghĩa là được giác ngộ như Phật. Ba tạng kinh luật
luận đều gọi là pháp cả.
Tăng: Tăng tiếng Phạn gọi là tăng già [Sangha], nghĩa
là hòa hợp chúng. Tức là những vị xuất gia tu hành thay
Phật làm gương mẫu cho người, truyền bá giáo lý của Phật
cho hết thảy chúng sinh. Phật là đấng giác ngộ hoàn toàn.
Pháp của Phật là những lời châu báu. Tăng theo Phật là
những người có học vấn đức hạnh. Ba ngôi đó rất được
tôn quý ở đời nên gọi là Tam bảo, ba ngôi báu. Là Phật tử
phải trọng kính Tam bảo, phát nguyện quy y Tam bảo, lấy
Tam bảo làm định hướng, làm gương mẫu cho đời sống
hằng ngày của mình.
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 115
Câu hỏi
1. Ba ngôi báu là gì?
2. Thế nào gọi là Phật?
3. Thế nào gọi là Pháp?
4. Thế nào gọi là Tăng?
5. Là Phật tử phải thế nào đối với Tam bảo?
6. Lấy Tam bảo làm gì cho đời sống của mình?
Lời Phật dạy:
“Kẻ nào chưa tìm được chân lý hằng phải bị sinh tử luân
hồi trong thời gian vô tận”.
X. Tam tạng
Kinh điển của Phật giáo chia làm ba loại, người ta thường
gọi là tam tạng: kinh, luật, luận. Kinh, tiếng Phạn gọi là Tu
đa la [Sutra], Tàu dịch là kinh. Nghĩa là những lời dạy thích
hợp với chân lý của chư Phật và căn cơ của chúng sinh. Tạng
kinh ghi chép những lời Phật dạy về sự lý nhân quả, nhân
duyên tu hành của chư Phật và chúng sinh.
Luật tiếng Phạn gọi là Tỳ ni da [Vinaya], nghĩa là giới
luật. Tạng luật ghi chép giới luật của Phật chế ra để dạy các
đệ tử ngăn bỏ điều dữ, tu tập điều lành.
Luận tiếng Phạn gọi là A tỳ đàm [Abhidharma], Tàu dịch
là đốn pháp. Nghĩa là những phương pháp đối trị hay biện
luận. Tạng Luận do các để tử Phật làm ra để phát huy nghĩa
lý nhiệm mầu trong kinh luật hay quyết đoán những lý lẽ
phải trái của đạo Phật với các đạo khác khiến người tu học
tránh tà theo chánh.
116 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
Kinh, Luật, Luận sở dĩ gọi là Tam Tạng vì chữ tạng nghĩa
là kho, tức là ba cái kho chứa đựng những lời châu báu của
Phật. Người nào thông suốt kinh tạng thì gọi là kinh sư; luật
tạng thì gọi là luật sư; luận tạng thì gọi là luận sư. Nếu thông
suốt cả ba tạng thì gọi là tam tạng pháp sư. Thí như Đường
Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, người Tàu sang Ấn Độ
thỉnh kinh vậy.
Câu hỏi
1. Ba tạng là gì?
2. Thế nào gọi là kinh?
3. Thế nào gọi là luật?
4. Thế nào gọi là luận?
5. Người thông suốt cả ba tạng gọi là gì?
Lời Phật dạy:
“Hết thảy kinh sách như ngón tay chỉ mặt trăng”. Kinh
Lăng Nghiêm.
XI. Tam quy
Tam Quy là ba phép quy y: quy y Phật, quy y Pháp,
quy y Tăng. Quy y nghĩa là trở về nương tựa. Ví như con
trở về nương tựa với cha mẹ; trò nương tựa vào thầy cũng
vậy. Chúng sinh còn mê lầm nên quay đầu về nương tựa
vào Tam bảo.
Một: Quy y Phật là lấy Phật làm thầy dẫn đường chỉ lối
cho ta thoát khỏi sông mê biển khổ lên bờ giải thoát an vui.
Hai: Quy y Pháp là lấy giáo pháp của Phật làm thuốc để
điều trị những bịnh trầm trọng của ta. Ví như tham lam, sân
giận, ngu si, kiêu mạn, nghi kỵ, v.v...
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 117
Ba: Quy y Tăng là lấy Tăng làm bậc thiện hữu, bạn tốt chỉ
bảo những lời Phật dạy cho ta tu học.
Phật ví như vị lương y. Pháp ví như thuốc. Tăng ví như
người sắc thuốc. Chúng ta là những con bịnh. Ta muốn khỏi
bịnh và hết tội thì phải trở về nương tựa vào ba ngôi [báu]
đó. Khi ta đã quy y Phật thì không được quy y các đấng trời,
tiên, thánh, thần, ma, quỷ nào hết. Đã quy y pháp của Phật
không được quy y giáo pháp của ngoại đạo. Đã quy y Tăng
không được quy y những bè bạn xấu ác. Như thế, mới gọi là
Phật tử chân chính.
Tam bảo là tấm gương sáng cho mọi người soi, là vị
thuốc hay cho mọi người bịnh uống. Vậy, sự quy y là vấn
đề cần thiết chung cho mọi loài, không phân biệt chủng loại
trời người quỷ thần hay già trẻ trai gái. Người quay đầu về
với Tam bảo là người mở đầu một đời sống mới, đời sống
sáng tươi hạnh phúc. Nếu ta quy y sớm chừng nào thì hay
cho đời ta chừng nấy. Quy y Tam bảo tức là đời ta có chỗ tin
tưởng, có một định hướng vững chắc, gặp cảnh vui không
quá mừng, gặp cảnh buồn không chán nản. Ta cố gắng tránh
điều dữ, làm điều hay thì đời kiếp này sẽ bớt khổ thêm vui, lại
khơi nguồn cho muôn ngàn kiếp sau tươi đẹp cao quý hơn.
Câu hỏi
1. Ba phép quy y là gì?
2. Quy y nghĩa là gì?
3. Tại sao quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng?
4. Phật, Pháp, Tăng ví như ai?
5. Đã quy y Phật thì thế nào?
6. Quy y Tam bảo được lợi ích gì?
118 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
Lời Phật dạy:
“Không thật có chánh tín thì gây thêm nhiều điều lầm lạc,
còn thật có chánh tín thì chẳng những khỏi lầm lạc thêm mà
còn bỏ được những sự lầm lạc từ trước”. Kinh Thanh Tịnh.
XII. Ăn chay là dùng các thứ rau.
***
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 119
BÁT QUAN TRAI GIỚI
Dàn Bài
Điểm I. Duyên khởi: tu hành phải giữ giới
Điểm II. Chánh đề:
A. Định danh và giải nghĩa bát quan trai giới
B. Giải tám điều răn cấm.
1. Không được sát sinh.
2. Không được trộm cắp.
3. Không được dâm dục.
4. Không được nói dối, nói không thật, nói thêu
dệt, nói lưỡi đôi chiều, nói lời hung ác.
5. Không được uống rượu.
6. Không được trang điểm và làm trò ca xướng.
7. Không được nằm giường cao tốt.
8. Không nên ăn quá ngọ.
Điểm III. Kết luận
A. Giới luật là điều cần.
B. Khuyên thực hành.
120 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
BÁT QUAN TRAI GIỚI
I. (Điểm thứ nhất). Duyên khởi: tu hành cần phải giữ giới
Giới luật là một điều tối cần cho người học Phật. Vì có
giữ giới tâm mới định. Do tâm định mới phát sinh trí huệ. Do
có trí huệ mới phát trừ được vô minh phiền não, rồi mới minh
tâm kiến tánh thành Phật. Cho nên giới là đứng đầu của ba
môn học vô lậu: giới, định, tuệ. Đức Phật Thích Ca nói pháp
trong 49 năm, có tám muôn bốn ngàn pháp môn, vô lượng
diệu nghĩa, nhưng không ngoài giới định tuệ.
Song giới có nhiều bậc, tùy theo sức của mỗi người mà
lãnh thọ tạm thời hoặc suốt đời. Như còn tại gia thì tam quy
ngũ giới, bát quan trai giới, bồ tát giới. Xuất gia thì thọ 10
giới Sa-di, 250 giới Tỳ-kheo, và 58 giới Bồ-tát. Còn Tỳ-kheo
Ni (nữ) thì thọ 348 giới. Vì Phật thương những hàng đệ tử tại
gia bị thê thằng tử phược buộc ràng, việc làm ăn quá bận rộn
không được giải thoát nên chế ra pháp bát quan trai giới để
cho hàng Phật tử tại gia tập tu theo hạnh giải thoát trong một
ngày đêm. Cái nhân giải thoát ngày nay đã trồng thì ngày sau
sẽ hưởng được quả giải thoát.
II. (Điểm thứ hai). Chánh đề: Định danh và giải nghĩa
1. Bát quan trai giới là gì? Chữ quan là cửa. Cửa ngăn
đóng tám điều tội lỗi. Chữ trai tiếng Phạn là bô sa ha nghĩa
là khi quá giờ ngọ tuyệt tất cả vật thực không ăn. Nói chung
lại là trong một ngày đêm thân tâm đều giữ tám điều răn cấm
cho được trong sạch và không ăn quá giờ ngọ. Nên gọi là bát
quan trai giới.
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 121
2. Không được sát sinh, không được trộm cướp, không
được dâm dục, không được nói dối, không được uống rượu,
không được trang điểm thoa dầu thơm, ca hát và xem nghe,
không được ngồi nằm giường cao tốt rộng lớn, không được
ăn quá giờ ngọ.
3. Giữ tám điều răn cấm
a. Không được sát sanh
Vì sao không giết hại chúng sanh? Chúng sanh gây nghiệp
lành dữ không đồng nên nay thọ thân hình có lớn nhỏ, dài
ngắn, tốt xấu khác nhau, nhưng cái tánh biết không khác. Vì
nó cũng biết tham sống sợ chết, biết khổ, biết vui, biết đau,
biết ngứa, biết thương, biết ghét như ta. Vậy là Phật tử không
được sát hại từ loài người cho đến loài vật. Vật lớn như con
voi, con trâu, con bò, vật nhỏ như con muỗi, con kiến, con vi
trùng đều không nên giết hại. Thử xem, cá thấy người cá lội,
chim thấy người chim bay, thì có khác nào người thấy cọp
người sợ hãi. Cũng đồng một thứ là tham sống sợ chết cả. Ta
thử thả một con chim vừa buông tay ra, nó liền cất cánh bay
thật nhanh. Vì sao thế? Vì nó mừng rằng vì thoát khỏi cái nạn
cắt cổ nhổ lông. Khi thả con cá cũng thế, nó liền lội vội vàng.
Vì sao? Vì nó mừng rằng thoát khỏi cái nạn bằm xắt trên dao
thớt. Cũng như người thoát khỏi nạn tử hình thì không còn
vui mừng nào hơn. Loài người thiện thì thật là thiện, còn ác
thì không loài nào ác bằng. Loài hổ dữ nó không thể xuống
sông bắt cá. Sấu dữ nó không thể lên núi rừng bắt thú, hay
không thể bắt chim được. Còn loài người thì biết lập mưu
mô kế hoạch mặc dù thú dữ trên rừng, cá sấu ở biển sâu,
chim bay trên hư không đều có thể bắt được tất cả. Cho nên
nói rằng loài người dữ thì thật là dữ hơn hết. Phật tử học
theo hạnh từ bi của Phật phải coi tất cả thân mạng chúng
sanh như thân mạng của ta không khác. Khi thấy người giết
122 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
hại sinh vật ta phải thương xót, hoặc khuyên lơn, hoặc mua
chuộc cứu nó cho khỏi chết. Huống nữa trong đời ai cũng ưa
lòng nhân từ, ghét điều tàn bạo. Nghe người làm nhân từ thì
mình ưa mình phục. Nghe người làm điều bất nhân thì mình
chán mình ghét. Đã ghét thì mình không nên phạm. Đã ưa thì
mình nên tập luyện chuyên cần.
Lợi ích không sát sanh. Một, người không sát nhân hại
vật thì người đó hiền từ. Trong một nước không có sát hại
thì nước đó được thịnh trị. Cho đến cả thế giới đều không
giết lẫn nhau thì tâm ác độc bất nhân của loài người sẽ tiêu
diệt. Cổ đức dạy: “Nhất thiết chúng sinh vô sát nghiệp, thập
phương hà xứ động đao binh”. Nghĩa là tất cả chúng sinh
không gây nghiệp sát thì trong thế giới làm gì có chiến tranh.
Người không sát sanh lại còn mua chim cá phóng sanh thì
hiện đời sẽ được tang kỷ [tuổi]. Đời sau nếu sinh làm người
sẽ được trường thọ.
Tai hại của việc sát sinh. Phật dạy sát sinh có mười điều
tội lỗi. Một, thường ôm lòng ác độc. Hai, chúng sinh oán
ghét không muốn thấy. Ba, thường suy nghĩ những điều ác.
Bốn, chúng sinh sợ hãi như thấy lang sói. Năm, khi ngủ sợ
sệt, lúc thức cũng không an. Sáu, thường có chiêm bao dữ.
Bảy, khi mạng hết chết một cách ghê sợ. Tám, do nghiệp
nhân vắn số. Chín, thân hoại mạng chung đọa vào ác đạo.
***
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 123
NGHỀ Ủ NẤM RƠM
Lựa Đất Hay Chọn Chỗ
Nếu lựa chỗ đất cao ráo, nếu chỗ nào được có đất cát
pha xốp dễ rút nước thì rất tốt. Nên tránh chỗ đất có phèn và
nước mặn bất lợi cho sự sinh nở của nấm. Chỗ nào có bóng
mát gần sông rạch, gần mương, đìa, hồ, tiện việc tưới nước
mỗi ngày. Gặp dạng có trồng chuối liếp cao, có mương hai
bên lại càng hay. Trước khi làm mô nấm nên dọn chỗ. Sau
khi đã lựa được đất, chỗ ủ phải đắp cao lên độ ba tấc tây để
khỏi bị đọng nước làm hư meo nấm. Ban đất bằng thành liếp,
bề ngang chừng một thước hai tấc tây đặng dễ tưới nước và
cũng dễ cho nấm. Bề dài thì tùy khoảng đất hoặc tùy mình
muốn ủ nấm nhiều hay ít.
Làm Mô Nấm
Tùy theo cách mình dùng rơm hay rạ, nhưng hai cách
khác nhau. Dùng rạ làm mô thì lâu mục hơn, song nấm lại
lớn tốt hơn. Nếu rơm hay rạ mới gặt thì phải thấm nước vài
ba ngày. Còn rơm cũ khỏi phải thấm nước. Nếu dùng rạ thì
đem những bó rạ chất nằm ngang trên liếp, gốc rạ quay ra
ngoài, đầu ngọn trở vô đàng trong mô nấm. Đắp nhiều lớp
cao lên thành một mô nấm tròn hoặc dài.
Còn dùng rơm thì có hai cách: Một là đắp như đắp rạ
để bó rơm nằm ngang thành từng lớp chồng chất lên nhau.
Hai là sắp bó rơm dộng đầu xuống đất, cộng lên trời, bó
này khít bó kia, dựa vào nhau và giữ chắn lấy nhau, ép
khít nhau và đắp chạy vòng quanh làm thành mô tròn lớn
nhỏ tùy ý mình muốn.
124 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
Cách Ủ Nấm
Ủ nấm có hai cách như sau đây:
A. Trên một liếp dọn sẵn theo như đã chỉ ở trên. Đem trải
một lớp rơm hay rạ mục để làm lớp chân, rồi đắp lên đó một
lớp rơm hay rạ cao chừng ba tấc tây. Kế rải lên một lớp tro
rơm mỏng. Phải tro rơm, đừng dùng tro khác. Rồi đắp lên
một lớp rơm hoặc rạ nữa. Lại rãi một lớp tro rơm nữa. Cứ
làm như vậy chừng vài ba lớp. Khi nào mô cao độ tám tấc
hay một thước thì thôi. Mỗi lần đắp xong một lớp rơm hay rạ
thì lấy bình hoa tưới sương, bình phải có đầu gương sen, ria
hột nước nhỏ cho thật đều. Làm xong mô rơm, nhớ rãi chung
quanh chân mô và trên mô một lớp mỏng tro rơm. Đừng dùng
vôi vì không tốt bằng tro rơm. Sau khi rãi tro lần chót rồi thì lấy
tàu lá dừa, hay tàu lá chuối, hoặc tàu cau đậy mô lại. Làm như
vậy để mưa nắng khỏi tạt vô bên trong. Có người lấy rơm đắp
thành một lớp mỏng trên chót liếp gọi là lớp A.
B. Cũng như cách trên đắp lên mặt liếp rơm hay rạ cao độ
ba tấc rồi rãi lên một mớ cháo nấu bằng nếp trộn cám và tấm
thêm vào một ít men. Cũng có người dùng bả hèm rượu để
thay thế thứ cháo trên đây. Muốn cho rơm được êm mô giữ
nước được lâu, người ta lấy thân cây chuối chẻ làm hai hoặc
làm tư, đặt lên trên lớp rơm cho mau dẻ. Chừng thì thân cây
chuối hột là tốt hơn hết. Đắp chuối xong rồi, đắp thêm một
lớp rơm độ ba tấc nữa thì rãi một lớp tro rơm trên mặt và đổ
thêm một mớ cháo khi nãy. Thường người ta làm mỗi thứ ít
lắm cũng cỡ ba lớp và muốn mô dẻ xuống, người ta dậm
lên hay cho trâu đạp lên, nhưng trâu đạp thì khó đều. Làm
mô xong cũng không khác cách trước là lấy một lớp rơm
mỏng phủ lên và lấy tàu chuối, tàu dừa hoặc tàu cau để lên
che mưa nắng.
GIỚI THIỆU VÀ TUYỂN CHỌN MỘT SỐ BÀI VIẾT • 125
Săn Sóc Mô Nấm
Phải chăm nấm, tưới nước mô nấm mỗi buổi chiều một lần.
Nhưng nên nhớ coi chừng đừng để cho mô nấm ướt quá. Bữa
nào trời mưa thì đừng tưới nữa, còn bữa nào trời nắng quá thì
đừng nên để cho rơm khô, phải tưới nước cho thấm ướt đều.
Nếu gặp mưa nhiều thì phải che vì nước thấm nhiều thì meo
nấm sẽ bị thiu, nấm không mọc được. Một điều cần nữa nhé,
nếu nhà làm mô nấm gần và trong nhà có nuôi gà, nên nhớ rào
chà tre hoặc chà gai, đừng để gà vịt bươi rúc phá hư mô nấm.
Ngày Nào Có Nấm
Chừng độ hai mươi lăm ngày hay một tháng sau khi làm
mô xong, là meo nấm đã mọc lên. Nếu làm rơm hay rạ cũ thì
một tháng đã thấy có nấm khá, còn dùng rơm hay rạ mới thì
lâu có nấm hơn độ vài tháng sau khi ủ.
Cần phải dỡ nấm khi nó còn nhỏ chừng độ khoảng bốn
hoặc năm ngày sau khi nấm vừa lú ra. Đừng để nụ nấm già
mất ngon hết ngọt. Nên nhớ trong lúc gỡ nụ, đừng giật mạnh
hư meo và có thể tróc lên luôn những nụ non ở gần. Nấm gỡ
được một tháng thì toàn [hết]. Phải thay rơm mục rã bằng
rơm khác, nhưng nhớ để dành một mớ rơm mục cũ làm lớp
chân cho mô nấm mới.
Đường Đỗ Hữu Vị, Ngô Trang Ký, bán hột giống chợ cũ.
Thuốc ủ nấm: đinh hương (5 tiền); đại hồi (5 tiền); tiểu
hồi (5 tiền); tất phát (5 tiền).
NGUYÊN NHÂN VÀ Ý NGHĨA TỰ THIÊU
CỦA BỒ-TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC
TT.TS. Thích Nhật Từ
Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN
Phó Viện trưởng Học viện PGVN tại TP.HCM
Trong suốt gần hai nghìn năm hiện diện trên quê hương,
chưa bao giờ Phật giáo Việt Nam phải đối diện với những đe
dọa và thách thức trầm trọng như trong gần bốn mươi năm
giữa thế kỷ thứ XX. Đó là giai đoạn mà Phật giáo phải chịu
tác động của 3 cuộc khủng hoảng lớn. Thứ nhất là nội lực
của Phật giáo bị suy kiệt sau gần 100 năm bị “nhiệm vụ khai
hóa” của thực dân Pháp gạt ra khỏi vai trò phên dậu văn hóa
của dân tộc. Thứ nhì là cùng đồng hành với dân tộc trong
cao trào chống ngoại xâm nên đã hy sinh gần cạn kiệt nguồn
vốn trí tuệ, thân mạng và cơ sở vật chất trên cả ba miền đất
nước. Thứ ba là sau ngày đất nước qua phân vào năm 1954,
trong khi Phật giáo tại miền Bắc gần như hoàn toàn tê liệt vì
hậu quả của chiến cuộc thì tại miền Nam, trong nỗ lực chập
chững hồi sinh, Phật giáo lại phải đối mặt suốt gần một thập
niên với một chính sách đàn áp, tiêu diệt có hệ thống của
chính quyền Ngô Đình Diệm.
128 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
Chính quyền Ngô Đình Diệm với vị Tổng Giám mục
“quyền huynh thế phụ” đầy tham vọng đạo cũng như đời,
thật ra chỉ là một công cụ để thừa kế và triển khai một cách
dai dẳng và không khoan nhượng, sách lược xâm thực văn
hóa của chủ nghĩa thần quyền ngoại bang, suốt gần 600 năm
khắp nơi trên thế giới.
Phật giáo Việt Nam trở thành đối tượng bị nhắm đến đầu
tiên, liên tục và hung hãn trong suốt 8 năm cai trị của chế độ
Ngô Đình Diệm, một chế độ mà nhiệm vụ chính trị của tập
đoàn lãnh đạo đã làm cho họ không còn chọn lựa nào khác,
không còn cách hành động nào khác hơn là phải tiêu diệt
Phật giáo. Cho nên trong suốt 8 năm, Phật giáo đã bị kỳ thị, đàn
áp, khống chế, thậm chí bị tiêu diệt trong hầu hết mọi lãnh vực
sinh hoạt quần chúng cũng như công quyền tại miền Nam. Từ
luật pháp đến chính trị, từ giáo dục đến an ninh, từ kinh tế đến
thương mãi, từ nông nghiệp đến xã hội, từ quân đội đến hành
chính … và đặc biệt trong lãnh vực tôn giáo thì chính quyền
dùng đủ mọi biện pháp để khống chế và tiêu diệt đến tận cùng.
Trong bài viết này, tác giả phân tích các nguyên nhân dẫn
đến phong trào đấu trong bất bạo động của Phật giáo Việt
Nam và đại nguyện tự thiêu vì chánh pháp của Bồ-tát Thích
Quảng Đức. Trên cơ sở này, phân tích khái quát về ý nghĩa
tự thiêu của Bồ-tát Thích Quảng Đức, để từ đó, mỗi người
tự rút ra cho mình các bài học nhập thế, phụng sự nhân sinh.
I. BỒ-TÁT QUẢNG ĐỨC TỰ THIÊU
Bồ-tát Thích Quảng Đức tên thật là Lâm Văn Tuất (林文
戌),(1) còn gọi là Nguyễn Văn Khiết (阮文㓗) sinh vào giờ
1. “Tuất” thường được phiên âm sai lầm là “Tức” hay “Tất”. Sai lầm
trong trường hợp 1 có thể xem trong Bách khoa mở Wikipedia tại địa
NGUYÊN NHÂN VÀ Ý NGHĨA TỰ THIÊU CỦA BỒ TÁT • 129
Tý, ngày Rằm tháng 9 Mậu Tuất (29-10-1898) tại Khánh
Hòa. Đứng trước cảnh chính quyền toàn trị Ngô Đình Diệm
gây nhiều bất công xã hội, tạo ra bất bình đẳng tôn giáo, bách
hại Phật tử, cấm treo cờ Phật giáo thế giới trong ngày đại lễ Phật
đản, Bồ-tát Thích Quảng Đức đã phát tâm đại bi, thiêu thân vì
chánh pháp vào lúc 11 giờ ngày 20 tháng 4 (nhuần) Mậu Ngọ
(11-6-1963) tại ngã tư Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt.(2)
Một người theo Tin Lành giáo tại Hoa Kỳ, Mục sư Donald
Harrington đã tường thuật rất xúc động về bản chất và ý nghĩa của
chỉ: http://en.wikipedia.org/wiki/Thich_Quang_Duc. Về sai lầm 2 có thể
tham khảo các sách viết về Bồ-tát Quảng Đức tại Việt Nam, tiêu biểu
như Lửa thiêng nhiệm mầu – Lược sử Phật giáo đồ đấu tranh chống kỳ
thị tôn giáo của nhiều tấc giả, xuất bản tháng 12-1963, được GHPGVN
TP.HCM tái bản tháng 5-2013, tr. 111.
2. Nay là ngã tư CMT8 – Nguyễn Đình Chiểu, nơi UBND thành phố
HCM làm và tôn trí tượng đài của Bồ-tát Thích Quảng Đức bằng đồng,
ghi nhận công đức của Người cho đạo pháp và dân tộc.
130 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
việc Bồ-tát Quảng Đức tự thiêu, như ngọn lửa soi sáng lương
tâm chính quyền độc tài toàn trị Ngô Đình Diệm và những người
chủ trương chiến tranh thực dân mới ở miền Nam Việt Nam:
“Cách đây hơn hai tuần, vào ngày 11-6-63 Hòa thượng
Thích Quảng Đức đã ngồi thiền trên đường nhựa nóng. Trong
tay Hòa thượng cầm một xâu chuỗi 54 hạt và bắt đầu niệm
Phật. Trên chiếc áo cà sa của Hòa thượng thì đã tẩm ướt
đầy xăng. Tất cả Tăng Ni lùi lại, kính cẩn, kinh sợ. Khách bộ
hành nhận thấy một biến cố phi thường gì sắp xảy ra nên tất
cả đều dừng lại chờ đợi.
Với vẻ yên lặng, bình thản trên khuôn mặt, Hòa thượng
Quảng Đức niệm lớn: “Nam Mô A Di đà Phật”. Thế rồi
Người bật một que diêm và ngọn lửa phừng phực bốc lên
phủ kín thân thể nhưng Người không hề rên la hay lay động.
Người ngồi thẳng trong mười phút, thân hình chìm trong lửa
đỏ, và khi lửa tàn, Người nằm xuống bất động...
Người ta có thể tự hỏi sự khủng khiếp và niềm phẫn hận
nào đã có thể khiến cho một người của “Tình Thương” của
“Hòa Bình”, quyết chí tự thiêu?... Nếu sự tuyệt vọng hoàn
toàn và chán đời cực độ đã đưa con người trên đời nầy đến
chỗ tự tử, thì một lý tưởng cao cả nhất và lòng yêu đời nồng
nàn nhất một đôi khi cũng đã sản xuất những người tử đạo
quả cảm nhất trong lịch sử... Hòa thượng Quảng Đức hy sinh
đời mình bằng cách tự thiêu để thức tỉnh lương tâm của Tổng
thống Diệm và lưu ý cho toàn thế giới...
Người đã chịu đựng sự đau đớn của tia lửa hồng đang
đốt da thịt nhưng không một lời kêu than. Người gởi mấy lời
của Người cho Tổng thống Diệm, và cho đến nay ông Diệm
vẫn chưa chịu nghe hay chú ý. Nhưng dù sao tiếng nói ấy
vẫn là tiếng nói của tình thương, tiếng nói mà trong thâm
NGUYÊN NHÂN VÀ Ý NGHĨA TỰ THIÊU CỦA BỒ TÁT • 131
tâm của nó chứa đưng sự giải thoát của miền Nam Việt Nam.
Người đã để lại một bóng đen sĩ nhục lên sự huy hoàng mà
Giáo hoàng Gioan đã mang lại cho Giáo hội Thiên Chúa.
Người đã làm và Người phải làm, cho mỗi người Hoa Kỳ đi
tìm linh hồn của Người và cho chính phủ Hoa Kỳ biết rằng,
trừ phi chính phủ Sài Gòn thực thi ngay quyền bình đẳng tôn
giáo cho Phật giáo đồ và tự do cho dân chúng Việt Nam, tất
cả mọi viện trợ của Hoa Kỳ đều phải chấm dứt ngay...
Ngọn lửa ấy có thể thành một tia hy vọng cho những
người từ lâu bị áp bức bởi người ngoại quốc hay bởi ngay
chính đồng bào của họ...”(3).
Để thực hiện đại nguyện tự thiêu, bảo vệ chánh pháp,
Bồ-tát Thích Quảng Đức đã nhờ TT. Thích Đức Nhuận giúp
đánh máy và đọc bản thảo Đơn xin tự thiêu ký ngày 27-51963. Đơn xin tự thiêu của Bồ-tát Thích Quảng Đức khẳng
định năm nguyện vọng Phật giáo và phương pháp bất bạo
động là tinh thần đấu tranh chân chánh của Phật giáo Việt
Nam như sau:
“Tôi tên là Nguyễn Văn Khiết, pháp danh là Thị Thủy,
pháp tự là Quảng Đức, tu sĩ Giáo hội Tăng Già Việt Nam,
mang thẻ căn cước số 399703 cấp tại quận Tân Bình ngày 21
tháng 2 năm 1962, hiện tọa chủ chùa Long Phước, xã Ninh
Quang, Khánh Hòa, xác định rằng:
1) Năm nguyện vọng tối thiểu ghi trong Bản Tuyên Ngôn
của Tăng, Tín đồ Phật giáo là phản ảnh tinh thần chân chánh
của Phật giáo Việt Nam.
3. Được thuyết giảng tại một thánh đường ở New York vào ngày 3-663. Trích theo Bùi Kha, Ngọn lửa Quảng Đức qua miêu tả của báo nước
ngoài. Tháng 5 năm 2013.
132 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
2) Nguyện luôn luôn son sắt bền chí với lý tưởng tranh
đấu hợp tình, bất bạo động của Phật giáo đồ Việt Nam.
3) Triệt để tuân theo và ủng hộ các cấp lãnh đạo Phật giáo.
Và để minh định lập trường của chúng tôi, chúng tôi tự nguyện
thiêu đốt thân này nếu Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không làm
thỏa mãn nguyện vọng ghi trong Bản Tuyên Ngôn là phản ảnh
tha thiết mong cầu của toàn thể Phật giáo đồ Việt Nam.
- Phật giáo Việt Nam bất diệt!
- Lá cờ Phật giáo không thể bị triệt hạ.
Và xin quý Thượng tọa chấp thuận chuyển tới toàn thể tín
đồ lời nguyện ước cuối cùng của tôi: Phật tử chúng ta hãy
cùng nhau tự giác, tự nguyện, bền chí với sứ mạng duy trì
chánh pháp, bảo vệ lá cờ Phật giáo”(4).
Mặc dù không được Giáo hội Tăng già Việt Nam chấp
nhận,(5) Bồ-tát Quảng Đức vẫn thầm lặng theo đuổi đại nguyện
tự thiêu trên tinh thần vô ngã, vị tha. Những ngày cuối đời tại
Chùa Ấn Quang, Bồ-tát tham thiền nhập định, đọc tụng Kinh
Pháp Hoa, ôn lại tấm gương của Bồ-tát Dược Vương dùng hỏa
quang tam-muội để đốt thân cúng dường chánh pháp.
4. Quốc Tuệ (biên tập). Phật Giáo Việt Nam 1963. Saigon, 1964, tr.
94-96.
5. TT. Thích Tâm Giác, Phó Trị sự Trưởng của Giáo hội Tăng già
Việt Nam, trong thư trả lời, đã không chấp nhận cho Bồ-tát Quảng Đức
tự thiêu: “Với quyết tâm bảo vệ Phật pháp, Đại đức nguyện hiến xã thân
này bằng cách thiêu đốt thân xác để phản đối chính sách bất bình đẳng
tôn giáo với nhà cầm quyền và nêu tỏ thái độ hy sinh vì đạo cao cả mà
mình đã tôn thờ. Giáo hội rất thông cảm trước ý chí cao đẹp ấy. Nhưng trên
nguyên tắc pháp lý (Luật Phật đã định cũng như luật pháp thế gian), Giáo
hội không thể chấp nhận điều nguyện thiêu đốt thân xác của Đại đức được.
Vậy xin Đại đức hoan hỷ và cầu chúc Đại đức vô biên an lạc”.
NGUYÊN NHÂN VÀ Ý NGHĨA TỰ THIÊU CỦA BỒ TÁT • 133
134 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
Trong Lời nguyện Tâm quyết,(6) Bồ-tát Thích Quảng Đức
thể hiện lòng từ bi đối với vận mạng của Phật giáo: “Tôi là
một tu sĩ mệnh danh là Trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ
ngồi điềm nhiên tọa thị để cho Phật giáo tiêu vong”. Hành
động của Bồ-tát Quảng Đức một mặt “nguyện thiêu thân giả
tạm này cúng dường chư Phật” mặt khác nhằm mục đích
“hồi hướng công đức bảo tồn Phật giáo.” Từ trong thâm
tâm, ngài mong cầu mọi việc tốt lành đến với tổng thống Ngô
Đình Diệm, “Cầu nguyện Phật Trời gia hộ cho Tống Thống
Ngô Đình Diệm sáng suốt” và mong ông “nên lấy lòng bác ái
từ bi đối với quốc dân, và thi hành chánh sách bình đẳng tôn
giáo để giữ vững nước nhà muôn thuở”. Đối với quê hương,
dân tộc và đạo pháp, Bồ-tát Quảng Đức mong cầu: “Ơn Phật
gia hộ cho Phật Giáo Việt Nam được trường tồn bất diệt;
mong hồng ân đức Phật gia hộ cho chư Đại đức Tăng Ni, và
Phật tử Việt Nam tránh khỏi tai nạn khủng bố, bắt bớ, giam
cầm của kẻ gian ác; và cuối cùng là cầu nguyện cho đất
nước thanh bình, quốc dân an lạc”.
Thông thường “lửa” trong Phật giáo tượng trưng cho
“tham ái” như trong kệ Pháp Cú 146: “Cười sao được,
sướng vui sao nỗi/ Khi lửa tham (pajjalite)(7) cháy rụi thế
gian/ Tối tăm giăng phủ trời đêm/ Sao không nỗ lực tìm đèn
sáng soi?”(8). Lửa rực đỏ từ thân Bồ-tát Thích Quảng Đức
6. Bằng chữ Nôm được Bồ-tát viết ngày 04-06-1963 tại chùa Ấn
Quang. Bài này có đầu đề là “Lời nguyện tâm quyết” nhưng thường bị
phiên âm sai là “Lời nguyện tâm huyết” và một vài chữ khác, so với
nguyên bản chữ Nôm.
7. Trong tiếng Pali, “pajjalite” có nghĩa đen là “bốc cháy”. Trong ngữ
cảnh của Kinh Pháp Cú, nó có nghĩa là “bốc cháy bởi lửa tham” (burning
with fires of passion). Tham khảo Sớ giải Kinh Pháp Cú, kệ 146.
8. Thích Nhật Từ dịch. Nguyên tác Pali như sau: “Ko nu haso kimanando/ niccam pajjalite sati/ andhakarena onaddha/ padipam na gavesatha.”
NGUYÊN NHÂN VÀ Ý NGHĨA TỰ THIÊU CỦA BỒ TÁT • 135
suốt 7 phút đã trở thành “lửa từ bi” như nhà thơ Vũ Hoàng
Chương(9) đã mô tả qua bài thơ bất hũ mang cùng tên. Ngọn
lửa từ bi của Bồ-tát Thích Quảng Đức có khả năng soi sáng
lương tâm như ngọn đuốc trí tuệ. Bằng ngọn lửa từ bi, trái
tim từ bi của Bồ-tát Thích Quảng Đức trở thành “xá lợi trái
tim” đầu tiên và duy nhất về thể loại này, bất diệt với thời
gian, biểu tượng của tình thương chiến thắng bạo tàn, trí tuệ
chiến thắng gian ngụy.
II. NGUYÊN NHÂN CỦA TỰ THIÊU
Bản Tuyên ngôn do HT. Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng
hội Phật giáo Việt Nam ấn ký, gửi chính phủ ngày 10-5-1963
nêu rõ nguyên nhân của cuộc đấu tranh bất bạo động của
Phật giáo là đòi công bằng xã hội và tôn giáo bình đẳng. Do
đó, nguyên nhân tự thiêu của Bồ-tát Thích Quảng Đức là vì
chính sách hà khắc đàn áp Phật giáo của chính quyền, vi phạm
quyền tự do tín ngưỡng của người dân, tạo ra nhiều hành động
bất công đối với Phật giáo. Bản Tuyên ngôn viết như sau:
“Từ nhiều năm nay, Phật giáo đồ đã bị khủng bố đàn áp
khắp nơi, chúng tôi vẫn nhẫn nhục, đương nhiên không phải
hèn yếu, mà vì ý thức được hoàn cảnh dân tộc ta hiện tại.
Nhưng đau đớn thay, một số đã lợi dụng quyền hành gây ra
không biết bao nhiêu tang tóc đối với Tăng và tín đồ Phật
giáo khắp trong nước, đối xử một cách bất công với một tôn
giáo có hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc. Từ hành động
này đến manh tâm khác, thậm chí đã chà đạp lên quyền lợi
thiêng liêng nhất của Phật giáo đồ: Cờ Phật giáo quốc tế bị
(Dhammapada 146).
9. Vũ Hoàng Chương (5-5-1916 – 6-9-1976) sinh tại Nam Định,
nguyên quán tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng,
nay là huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên.
136 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
triệt hạ. Quyết định này đã trái với hiến pháp và ngang nhiên
vi phạm quyền tự do tín ngưỡng. Trước những hành động bất
công đó, Tăng và tín đồ khắp cả trong nước, chúng tôi bắt
buộc phải đứng dậy tranh đấu cho lý tưởng của mình”(10).
Có thể nói, ba chính sách bất bình đẳng sau đây a) Độc tôn
Thiên Chúa giáo, b) Đạo dụ số 10 và c) Triệt hạ cờ Phật giáo,
đã trở thành các nguyên nhân sâu xa, dẫn đến cuộc đấu tranh
bất bạo động của Phật giáo, châm ngòi cho sự sụp đổ chế độ
Ngô Đình Diệm.
1) Chính sách độc tôn Thiên Chúa giáo
Thể chế Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm thực chất
là chế độ gia đình trị và Thiên Chúa giáo trị, bao gồm tổng
thống Ngô Đình Diệm, Tổng giám mục Ngô Đình Thục, cố
vấn Ngô Đình Nhu và đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân.
Thượng Nghị sĩ Mỹ Mansfield, người đã từng ủng hộ Ngô
Đình Diệm, khẳng định rằng: “Chế độ ông Diệm là một chế độ
độc tài, gia đình trị, Công giáo trị”.(11) Trong nỗ lực đưa Thiên
Chúa giáo trở thành tôn giáo độc tôn tại miền Nam Việt Nam,
chế độ gia đình trị này đã tuyên chiến và đàn áp Phật giáo trong
mùa Phật đản 1963. Đó là sai lầm lớn và cũng là nguyên nhân
dẫn đến sự suy vong của chế độ mấy tháng sau đó.
Đề cập đến chủ nghĩa độc tài Công giáo và chính sách
đàn áp Phật giáo một cách tàn nhẫn, Avro Manhattan đã nhận
xét rất chính xác như sau: “Tổng thống Ngô Đình Diệm của
Nam Việt Nam là một người theo đạo Công giáo cai trị Nam
Việt Nam bằng một bàn tay sắt… Ông đã được hồng y Spellman
10. Bản Tuyên ngôn trích trong Lửa thiêng nhiệm mầu, tr. 22-23.
11. Fitzgerald Francess. Fire in the Lake. An Atlantic Monthly Press
Book, Boston, USA 1972, tr.104.
NGUYÊN NHÂN VÀ Ý NGHĨA TỰ THIÊU CỦA BỒ TÁT • 137
và giáo hoàng Pius XII trồng vào cái ghế tổng thống. Ông đã
biến cải ngôi vị tổng thống thành một nhà độc tài Công giáo,
tàn nhẫn nghiền nát những đối lập chính trị và tôn giáo”(12).
Avro Manhattan còn cung cấp cho chúng ta những thông
tin rùng rợn về tội ác mà chính quyền Ngô Đình Diệm đã tạo
ra trong năm 1955-1960: “Người ta ghi nhận rằng, và những
con số sau đây tuy không được chính quyền chính thức khẳng
định nhưng có thể coi là đáng tin cậy, là trong thời gian
kinh hoàng từ 1955 đến 1960, ít nhất là có 24.000 người bị
thương, 80.000 bị hành quyết hay bị ám sát, 275.000 người
bị cầm tù, thẩm vấn hoặc với tra tấn hoặc không, và khoảng
500.000 bị đưa đi các trại tập trung. Đây chỉ là những con
số ước tính bảo thủ, khiêm nhường”(13).
Ký giả người Úc Denis Warner cho rằng: “Trong nhiều
năm, cái chế độ bạo ngược chuyên chế mà Tây phương đồng
minh với ở Saigon (chế độ Ngô Đình Diệm) thì còn tệ hơn
là cái chế độ mà Tây phương đang chiến đấu để chống (chế
độ CS)”. Diệm và gia đình ông ta đã giết hoặc lưu đày tất
cả những thế đối lập. “Diệm đã mất đi sự tin cậy và trung
thành của dân chúng” như Bộ Trưởng McNamara đã nhận
định ngày 26 tháng 3-1964”(14).
12. Avro Manhattan. Vietnam: Why Did We Go? CA: Chick Publications, 1984, tr. 56.
13. Sách đã dẫn, tr. 89.
14. Robert McAfee Brown, Abraham J. Heschel & Michael Novak.
Vietnam: Crisis of Conscience, Associated Press, New York 1967, p. 30:
“The Australian writer Denis Warner wrote that “the tyranny the West
allied with in Saigon was in many years worse than the tyranny it was
fighting against”. Diem and his family had murdered or exiled all potential opposition. Diem had “lost the confidence and loyalty of his people”,
as Secretary McNamara put it on March 26, 1964.
138 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
Tăng Ni, Phật tử biểu tình chống chính sách bất bình đẳng về tôn giáo.
Trong tác phẩm nổi tiếng “Thập giá và lưỡi gươm”, Linh
mục Trần Tam Tĩnh cho chúng ta biết trong giai đoạn 8 năm
trị vì, chính quyền Ngô Đình Diệm đã kìm hãm 90% người
ngoài Công giáo trong chính phủ Công giáo, trong khi tạo
quyền thế bất công cho các cha xứ: “Từ năm 1955 đến năm
1963 là thời vàng son của chủ nghĩa cha chú, với những lợi
ích thật chẳng có bao nhiêu, nhưng với những hà lạm gây
nhiều tiếng tăm hơn, nhất là trong khi dân chusg gồm 90% là
ngoài Công giáo mà bị kìm hãm dưới một thứ chính “Chính
phủ Công giáo.” Khắp nơi, ở thành phố cũng như tại nông
thôn chiếc áo chùng thâm là biểu tượng của quyền thế”(15).
Để thực hiện chính sách bất bình đẳng xã hội và bất bình
đẳng tôn giáo, đưa vai trò Công giáo lên vị trí độc tôn tại
miền Nam Việt Nam, Ngô Đình Diệm đã lập ra đảng Cần
15. Trần Tam Tĩnh. Thập giá và lưỡi gươm. NXB Trẻ, 1988, tr. 124.
NGUYÊN NHÂN VÀ Ý NGHĨA TỰ THIÊU CỦA BỒ TÁT • 139
lao – Nhân vị (gọi tắt là đảng Cần Lao), chủ trương Chủ nghĩa
duy linh – nhân vị. Mục đích của đảng Cần Lao là chống Cộng
sản, chống Phật giáo và chống đảng phái quốc gia, đồng thời,
chủ trương vâng lời các cha, vâng lời Ngô Đình Cẩn và vâng lời
Ngô Đình Diệm.(16) Phương châm hoạt động của đảng Cần Lao
là: “Vì Chúa và cho Giáo hội Công giáo”. Cương lĩnh của đảng
Cần lao khích lệ các linh mục và giáo dân: “Đem hết thể xác và
linh hồn cho đến hơi thở cuối cùng để chống cộng sản vô thần,
chống Phật giáo ma quỷ, chống các đảng phái quốc gia”(17).
Về sự cai trị độc tài của Diệm dựa vào thuyết Nhân vị,
Bernard Newman nhận xét như sau: “Bất kể hiến pháp viết
như thế nào, Diệm cai trị như là một nhà độc tài. Triết lý
chính trị của ông ta dẫn xuất từ một nhóm Công giáo Pháp,
những người đã đặt ra thuyết Nhân Vị... Thuyết Nhân Vị như
là “một pha trộn lộn xộn của những sắc lệnh của giáo hoàng
và kinh tế mẫu giáo, tổ hợp với một sự nghi ngờ những tư
nhân thương gia, một sự e ngại đầu tư ngoại quốc, và một
quan niệm là không thể thành đạt được gì nhiều ở Việt Nam
nếu không có sự kiểm soát của chính phủ”(18).
16. Thường được gọi tắt là chủ nghĩa “ba chống” và “ba vâng”.
17. Chu Bằng Lĩnh. Đảng Cần Lao. Nxb. Mẹ Việt Nam, San Diego,
CA, USA, 1993, tr. 165.
18. Bernard Newman. Background to Vietnam. Signet Books, New
York 1965, p. 117: “Whatever the constitution might say, Diem ruled as
a virtual dictator. His political philosophy was derived from a group of
French Catholics, who formulated a doctrine known as Personalism. It
emphasises human dignity as opposed to the Communist concept of disiplined masses. Its detail is complicated, and difficult of comprehension
to all but a philosopher... Personalism is “a confused mélange of papal
encyclicals and kindergarten economics, combined with a suspicion of
private businessmen, a fear of foreign capital, and an attitude that little
could be accomplished in Vietnam without direct government control”.
140 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
Nhằm đề cao Công giáo, chính quyền Ngô Đình Diệm
“đã tổ chức lớp học về duy linh rồi lợi dụng lớp học ấy mà
xuyên tạc đạo Phật của chúng tôi, dọa nạt và bắt hội viên
của chúng tôi phải ký đơn qua Thiên Chúa giáo, nếu không
sẽ đi học tập dài hạn tại quận và tỉnh”(19). Ngoài ra, chính
quyền họ Ngô cùng dùng chính sách cưỡng bức cải đạo, bắn
giết Phật tử và ban hành nhiều điều luật không giống ai: “Đối
với gân lương từ năm 1954 đến năm 1963, chế độ Ngô Đình
Diệm đã giết chết, bắt giam, tra tấn Phật giáo đồ; dụ dỗ cải
đạo, cấm Phật tử đi lễ chùa”(20).
Theo tướng Trần Văn Đôn, người trực tiếp tham gia
đảo chính Ngô Đình Diệm ngày 1-11-1963, Chính sách
di cư vào Nam, thực chất, chỉ là chiêu bài đưa người Thiên
Chúa giáo vào miền Nam để xây dựng nước Chúa. Trong
số 887.895 người di cư vào Nam sau năm 1954 đã có đến
754.710 người là tín đồ Thiên Chúa giáo, chiếm 85%. Các
chức vụ chủ chốt của chính quyền họ Ngô đều nằm trong tay
Thiên Chúa giáo.(21)
Chính sách toàn trị và Công giáo trị của Diệm là một chủ
nghĩa phát-xít mới tại Việt Nam: “Diệm muốn thống nhất
cả nước thành một khối Công giáo và chuyển các tôn giáo
và đảng phái sang Công giáo. Công giáo ở Việt Nam là chủ
nghĩa tư bản. Giáo hội là đại diện của chính phủ. Nếu anh
muốn giàu sang, nếu anh muốn trở thành sĩ quan, anh phải
19. Hồ sơ của Hội Phật giáo Trung phần gởi Tổng thống và Quốc hội
ngày 20-2-1962.
20. Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm. Lịch sử Phật giáo xứ Huế. NXB
TP.HCM, 2001, tr. 476.
21. Gettleman, Marvin E. Vietnam: History, documents and opinions
on a major world crisis. Penguin Books, 1966, tr. 280–293.
NGUYÊN NHÂN VÀ Ý NGHĨA TỰ THIÊU CỦA BỒ TÁT • 141
là Công giáo”(22). Chính vì chủ trương này mà Phật giáo đã
nghiễm nhiên trở thành đối tượng bị khủng bố và áp bức của
chính quyền Ngô Đình Diệm.
2) Bất bình đẳng tôn giáo trong Đạo dụ số 10
Về phương diện văn bản luật, Đạo dụ số 10 được xem là
nguồn gốc của bất bình đẳng tôn giáo, mà chính quyền Ngô
22. Jerrold Schecter. The New Face of Buddha. John Weatherhill, Tokyo, 1967, tr. 172.
142 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
Đình Diệm muốn sử dụng như một đặc ân dành cho Thiên
Chúa giáo và như một gông cùm đối với Phật giáo và các
tôn giáo khác. Chính sách thiên vị Thiên Chúa giáo đã có từ
thời Pháp thuộc và thời quốc trưởng Bảo Đại, được Việt Nam
Cộng hòa tiếp tục áp dụng có mục đích đàn áp Phật giáo, đề
cao Thiên Chúa giáo.
Đạo dụ số 10 do quốc trưởng Bảo Đại ban hành năm
1950, quy định về các tổ chức hội đoàn bao gồm tôn giáo,
ngoại trừ Thiên Chúa giáo. Trên nguyên tắc, khi chế độ quốc
trưởng Bảo Đại đã bị thay thế bằng chính thể Việt Nam Cộng
hòa, thì Đạo dụ số 10 không còn hiệu lực pháp lý. Ấy thế mà,
từ năm 1954 đến 1963, chính phủ Ngô Đình Diệm dựa vào
Đạo dụ số 10, ra tay đàn áp Phật giáo và nỗ lực loại trừ Phật
giáo ra khỏi bản đồ văn hóa tôn giáo Việt Nam, nhằm từng
bước biến Thiên Chúa giáo thành quốc giáo của Việt Nam.
Điều 7 của Đạo dụ số 10 quy định rằng các hội đoàn bao
gồm “tôn giáo, chính trị, từ thiện, khoa học, văn học, mỹ
nghệ, tiêu khiển, thanh niên, thể thao và đồng nghiệp ái hữu”
có thể bị “bác khước không cho phép lập hội mà không cần
phải nói rõ lý do”. Đối với các hội đoàn đã cho phép thành
lập rồi vẫn có thể bị “bãi đi vì trái điều lệ hay vì lẽ trị an”(23).
Theo điều quy định này, các hội đoàn trong đó có các hội
Phật giáo Việt Nam có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào, mà
không cần trưng dẫn lý do. Hoặc khi cần trưng dẫn lý do, thì
chính quyền có thể viện cớ “vì lẽ trị an”(24), một khái niệm
23. Xem chi tiết tại trang nhà: http://vi.wikipedia.org/wiki/
Bi%E1%BA%BFn_c%E1%BB%91_Ph%E1%BA%ADt_
gi%C3%A1o,_1963
24. Lãnh đạo Phật giáo Việt Nam năm 1963 cho rằng: “Lẽ trị an” là từ
ngữ không có giới hạn nào rõ rệt và đã bị lợi dụng quá đáng từ ngày người
Pháp trở lại Việt Nam đến bây giờ! Ấy là chưa nói rằng, nếu thế gian này có
NGUYÊN NHÂN VÀ Ý NGHĨA TỰ THIÊU CỦA BỒ TÁT • 143
luật rất mơ hồ, không thể thực thi được công bằng xã hội và
tôn giáo, mà trên thực tế đã phá vỡ công bằng xã hội và bình
được cái gì được gọi là vĩnh viễn, thì cái đó là tôn giáo, vậy mà tôn giáo lại
bị ghép vào hiệp hội với giấy phép cho và bãi một cách cực kỳ đơn giản như
trên!” Trích từ Lửa thiêng nhiệm mầu, tr. 30.
144 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
đẳng tôn giáo. Đây là điều mà theo lãnh đạo Phật giáo Việt
Nam “Đạo dụ số 10 triệt hạ hết thảy giá trị tôn giáo”(25).
Có lẽ, do vin vào chính sách “vì lẽ trị an” mà chính quyền
Ngô Đình Diệm có cớ triệt hạ cờ Phật giáo thế giới vào mùa
Phật đản 1963, biểu tượng tâm linh của Phật giáo toàn cầu,
nhằm chứng minh Thiên Chúa giáo là “Công giáo” ở Việt
Nam, mà trên thực tế chỉ là một tôn giáo thiểu số.
Điều 44 của Đạo dụ số 10 quy định về một “chế độ đặc biệt
cho các hội truyền giáo Thiên chúa và Gia-tô”. Sự thiên vị được
đặt trên “căn bản pháp lý của thực dân pháp.”(26) Theo lãnh đạo
Phật giáo Việt Nam năm 1963, các điều 10 và điều 12 đã làm
cho các tôn giáo ngoài Thiên Chúa giáo và Gia-tô giáo “bị kiểm
soát một cách cực kỳ nghiêm khắc, bởi bất cứ nhân viên nào của
Hành chính và Tư pháp”(27). Việc duy trì và áp dụng Đạo dụ số 10
đã tạo tình trạng thiên vị Thiên Chúa giáo và Gia-tô giáo, đang khi
đàn áp Phật giáo, khủng bố Tăng Ni, bắt bớ tín đồ, gây bất ổn tôn
giáo, chính trị và xã hội tại miền Nam Việt Nam.
3) Cấm treo cờ Phật giáo thế giới vào dịp Đại lễ Phật
đản 1963
Từ chủ trương “chống cộng sản vô thần, chống Phật giáo
ma quỷ, chống các đảng phái quốc gia” và dựa vào tinh thần
thiên vị Công giáo của Đạo dụ số 10, chính sách của Ngô
Đình Diệm thẳng tay đàn áp Phật giáo, mà khởi đầu chính là
Công điện 9195 của Phủ Tổng thống Ngô Đình Diệm ngày 6-51963, cấm treo cờ Phật giáo trong đại lễ Phật đản 1963. Theo
TT. Trí Quang, người lãnh đạo phong trào Phật giáo 1963, vụ
25. Lửa thiêng nhiệm mầu, tr. 32.
26. Lửa thiêng nhiệm mầu, tr. 33.
27. Lửa thiêng nhiệm mầu, tr. 31.
NGUYÊN NHÂN VÀ Ý NGHĨA TỰ THIÊU CỦA BỒ TÁT • 145
triệt hạ cờ Phật giáo: “Chỉ như là một giọt nước cũng thừa sức
làm chảy tràn ra một bát nước vốn đã quá đầy”(28).
Để cứu nguy Phật giáo khỏi nạn diệt vong, vào ngày 255-1963, Ban Trị sự TƯ Tổng hội Phật giáo Việt Nam triệu tập
11 giáo phái và hội đoàn Phật giáo, thành lập ra Uỷ ban liên
phái bảo vệ Phật giáo, do TT. Tâm Châu làm chủ tịch, dưới
sự chứng minh tối cao của HT. Thích Tịnh Khiết.
Ủy ban liên phái bảo vệ Phật giáo đã gửi 3 công điện.
Công điện thứ nhất gởi cộng đồng Phật giáo thế giới, lúc 2
giờ sáng 7-5-1963, kêu gọi can thiệp chính phủ Việt Nam
Cộng hòa, trong đó có đoạn kêu gọi không nên triệt hạ lá cờ
Phật giáo: “Cờ Phật giáo bị không cho treo tại các tự viện
Phật giáo ngay trong ngày Đại lễ Phật đản quốc tế, yêu cầu
can thiệp với chính phủ Việt Nam Cộng hòa”.
28. “Cuộc vận động của Phật giáo Việt Nam” in trong tuần báo Hải
Triều Âm, số 18, ngày 27-8-1964.
146 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
Công điện thứ hai gởi và yêu cầu Ngô Đình Diệm thu
hồi công điện 9195 một cách khéo léo: “Chúng tôi không
tin rằng quyết định đó xuất phát từ Tổng thống. Thỉnh cầu
Tổng thống ra lệnh điều tra và thu hồi công điện nói trên.
Trân trọng”.
Công điện thứ ba gởi các hội đoàn Phật giáo Việt Nam,
kêu gọi các sơ môn pháp phái Phật giáo sẵn sàng thống nhất
hành động vì đại cuộc dân tộc và Phật giáo: “Cờ Phật giáo
bị triệt hạ bởi Công điện số 9159. Đã điện cho Phật giáo thế
giới can thiệp và đã điện cho Tổng thống thỉnh cầu đình chỉ.
Nhưng các tập đoàn Phật giáo vẫn thông báo cho các đơn vị
và chờ chỉ thị”.
Bất chấp các nỗ lực của Phật giáo Việt Nam, Chính
quyền Ngô Đình Diệm vẫn ngang nhiên triệt hạ cờ Phật
giáo thế giới, nguyên nhân dẫn đến cuộc biểu tình ở toàn
Thừa Thiên chiều ngày 7-5-1963. Cuộc thảm sát của chính
quyền Ngô Đình Diệm tại đài Phát thanh Huế vào ngày
NGUYÊN NHÂN VÀ Ý NGHĨA TỰ THIÊU CỦA BỒ TÁT • 147
8-5-1963 làm 8 Phật tử(29) (gồm 7 trẻ em và 1 người lớn)
chết trong thương tâm, đã “đổ dầu vào lửa” phong trào
đấu tranh bất bạo động của Phật giáo, góp phần dẫn đến
sự sụp đổ chế độ độc tài kỳ thị tôn giáo Ngô Đình Diệm
vào ngày 1-11-1963.
Các phương tiện truyền thông của chính quyền Ngô
Đình Diệm vu cáo vụ thảm sát đó là do “Việt Cộng ném
lựu đạn”(30) nhưng trên thực tế là do binh sĩ và xe tăng của
29. Danh sách các tu sĩ Phật giáo noi gương Bồ-tát Thích Quảng Đức
bao gồm:
1. Đại đức Thích Nguyên Hương tự thiêu ngày 4-8-1963 tại Phan Thiết.
2. Đại đức Thích Thanh Tuệ tự thiêu ngày 13-8-1963 tại Thừa Thiên.
3. Ni cô Diệu Quang tự thiêu ngày 15-8-1963 tại Ninh Hòa.
4. Thượng tọa Thích Tiêu Diêu tự thiêu ngày 16-8-1963 tại Huế.
5. Đại đức Thích Quảng Hương tự thiêu ngày 5-10-1963 tại Sài Gòn.
6. Đại đức Thích Thiện Mỹ tự thiêu ngày 27-10-1963 tại Sài Gòn.
Ngoài ra, có đạo hữu Nguyễn Thìn tự thiêu ngày 29-9-1963 tại Vũng
Tàu. Phương danh tám vị thánh tử đạo tại đài phát thanh Huế bao gồm:
Tâm Đồng – Đặng Văn Công.
Tâm Thành – Dương Viết Đạt.
Tâm Thanh – Nguyễn Thị Yến.
Tâm Thông – Nguyễn Thị Phúc.
Tâm Hiển – Lê Thị Kim Anh.
Tâm Thuận – Trần Thị Phước Trị.
Tâm Chánh – Nguyễn Thị Ngọc Lan.
Tâm Tôn – Huyền Tôn Nữ Tuyết Hòa.
Về tiểu sử của các vị thánh tử đạo bao gồm tu sĩ Phật giáo và cư sĩ Phật
tử, có thể xem tại: http://thuviengdpt.info/lam-su/tieu-su-thanh-tu-dao.
30. Tường trình của chính quyền Ngô Đình Diệm gửi cho Ủy ban
điều trần Liên Hiệp Quốc là một lạc dẫn về thông tin: “Các cái chết do
tai nạn không may gần đài phát thanh Huế là do các vụ nỗ, do Việt Cộng
gây ra. Quân đội miền Nam Việt Nam không sở hữu các vũ khí này”
(Deaths at the unfortunate incident near Hue radio station was caused
by explosions, most probably made by Communist infiltrators. A South
Vietnam army did not have such weapon in their possession). Xem thêm
148 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
thiếu tá Mathew Đặng Sĩ(31) nổ súng, dưới sự ra lệnh của
Tổng giám mục Ngô Đình Thục(32). Lời bào chữa khéo léo
của Đặng Sĩ vào năm 1964 đã không thể giúp ông thoát khỏi
việc bị tuyên án tử hình, do phạm các tội danh “bắn vào đám
đông không vũ trang, dùng xe bọc thép cán người biểu tình,
và sử dụng chất nổ nguy hiểm để kiểm soát đám đông”(33).
Những sự kiện nêu trên đã dẫn đến cuộc tàn sát đẫm máu,
khủng bố Tăng, Tín đồ Phật giáo, tạo ra pháp nạn Phật giáo
1963. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ của đệ
nhất Việt Nam Cộng Hòa.
III. Ý NGHĨA TỰ THIÊU CỦA BỒ-TÁT
Dựa vào nội dung của Đơn xin tự thiêu, 2 tờ di chúc
của Bồ-tát Thích Quảng Đức, Bản Tuyên ngôn của Tăng,
Tín đồ Phật giáo Việt Nam(34) (về sau viết tắt là Bản Tuyên
chi tiết này tại trang web: https://sites.google.com/site/trialofdangsy/thetrial/evidences/united-nations-fact-finding-mission.
31. Là một người theo Công giáo, nguyên là phó tỉnh trưởng Huế, phụ
trách các vấn đề an ninh vào thời điểm pháp nạn.
32. Đây là lời tiết lộ của cựu bộ trưởng Giáo dục Trần Hữu Thế
đối với GS. Vũ Văn Mẫu. Xem chi tiết tại: http://vi.wikipedia.org/
wiki/Bi%E1%BA%BFn_c%E1%BB%91_Ph%E1%BA%ADt_
gi%C3%A1o,_1963.
33. Để giải quyết các bất ổn nội bộ chính phủ, Nguyễn Khánh ra lệnh
tha tội chết cho Đặng Sĩ nhưng đã phạt phạm nhân này vào trại lao động
khổ sai, đồng thời phải bồi thường cho các gia đình nạn nhân.
34. Bản Tuyên ngôn gồm 2 trang, được tuyên đọc trong phiên họp của
lãnh đạo Phật giáo tại Chùa Đàm, Huế và được HT. Thích Tịnh Khiết,
Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam ấn ký, gửi chính phủ ngày 10-51963. Cùng ký tên còn có TT. Thích Mật Nguyện, Trị sự trưởng Tổng Trị
sự Giáo hội Tăng già Trung Phần, TT. Thích Trí Quang, Hội trưởng Tổng
trị sự Hội Phật giáo Việt nam tại Trung phần, TT. Thích Mật Hiển, Trị
sự trưởng Ban Trị sự Giáo hội Tăng già Thừa Thiên và TT. Thích Thiện
NGUYÊN NHÂN VÀ Ý NGHĨA TỰ THIÊU CỦA BỒ TÁT • 149
ngôn) và Bản Phụ đính về bản Tuyên ngôn của Phật giáo
Việt Nam (về sau viết tắt là Bản Phụ đính)(35), chúng ta
có thể khẳng định rằng ý nghĩa tự thiêu của Bồ-tát Thích
Quảng Đức cũng như phong trào đấu tranh bất bạo động
của Phật giáo Việt Nam là không nhằm mục đính lật đổ
hay đảo chính Chính phủ, đưa người Phật giáo lên thay thế
chính phủ, mà chỉ nhằm thay đổi chính sách bất công tôn
giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm, theo đó, bình đẳng
tôn giáo được thực hiện trong khuôn khổ và lý tưởng công
bằng xã hội. Trên tinh thần này, tôi phân tích vài ý nghĩa
từ việc tự thiêu của Bồ-tát Quảng Đức như sau:
1. Xây dựng một xã hội công bằng cho miền Nam Việt Nam
Về bản chất, phong trào đấu tranh bất bạo động của Phật
giáo Việt Nam năm 1963 không phải là cuộc đấu tranh chính
trị, theo kiểu của một đảng phái chống lại và loại trừ một
đảng phái khác. Trong chính thể đệ nhất Việt Nam Cộng hòa
không có đảng phái nào là của Phật giáo, hay đấu tranh vì
quyền lợi Phật giáo. Giới luật Phật giáo bao gồm giới Tỳkhưu, Tỳ-khưu-ni và Giới Bồ-tát không cho phép và không
khích lệ các tu sĩ Phật giáo tham gia các đảng phái chính trị.
Siêu, Hội trưởng Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên. Xem chi tiết
tại Lửa thiêng nhiệm mầu, tr. 22-24.
35. Bản Phụ đính về Bản Tuyên ngôn của Phật giáo Việt Nam gồm 12
trang, do HT. Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam
ấn ký, gửi chính phủ ngày 23-5-1963. Cùng ký tên còn có TT. Thích
Mật Nguyện, Trị sự trưởng Tổng Trị sự Giáo hội Tăng già Trung Phần,
TT. Thích Trí Quang, Hội trưởng Tổng trị sự Hội Phật giáo Việt nam tại
Trung phần, TT. Thích Mật Hiển, Trị sự trưởng Ban Trị sự Giáo hội Tăng
già Thừa Thiên và TT. Thích Thiện Siêu, Hội trưởng Ban Trị sự Tỉnh hội
Phật giáo Thừa Thiên. Xem chi tiết tại Lửa thiêng nhiệm mầu, tr. 25-37.
Hiện tại, Bản Phụ đính được lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II,
Ký hiệu tài liệu SC.04-HS.8352.
150 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
Chính quyền Ngô Đình Diệm rất khéo léo, ngoài việc
dùng vũ lực trấn áp phong trào dân sự dùng bất bạo động
làm sức mạnh, còn xuyên tạc phong trào Phật giáo do Việt
cộng giật dây. Khi vu cáo phong trào bất bạo động của Phật
giáo với hoạt động chính trị của Việt cộng, có khuynh hướng
giải quyết các mâu thuẫn chính trị ở miền Nam Việt Nam,
chính quyền Ngô Đình Diệm mong muốn làm tê liệt phong
trào dân tộc và chính nghĩa của Phật giáo. Chính sách truyền
thông của chính quyền Ngô Đình Diệm đã thất bại, vì đã vu
cáo những điều không có sự thật, mà theo Phật giáo “chân
thật bất hư” (真實不虛)(36).
36. Trích từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (Prajñā Pāramitā Hri-
NGUYÊN NHÂN VÀ Ý NGHĨA TỰ THIÊU CỦA BỒ TÁT • 151
Bản Tuyên ngôn của Tăng, tín đồ Phật giáo Việt Nam
được gửi đến chính quyền Ngô Đình Diệm là nhằm chấm
dứt tình trạng “máu đã chảy, nhân mạng đã bị hy sinh, cảnh
khủng bố, đàn áp bất nhân, bất công xã hội, bất bình đẳng
tôn giáo và vi phạm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân”.
Lãnh đạo Phật giáo Việt Nam yêu cầu chính phủ thực thi 05
nguyện vọng sau đây:
1. Yêu cầu chỉnh phủ Việt Nam Cộng hòa thu hồi vĩnh
viễn công điện triệt giáo kỳ của Phật giáo.
2. Yêu cầu Phật giáo phải được hưởng một chế độ đặc
biệt như các Hội truyền giáo Thiên Chúa đã được ghi trong
Đạo dụ số 10.
3. Yêu cầu chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng
bố tín đồ Phật giáo.
4. Yêu cầu cho Tăng, tín đồ Phật giáo được tự do truyền
đạo và hành đạo.
5. Yêu cầu chính phủ đền bồi một cách xứng đáng cho
những kẻ bị giết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền
bồi đúng mức(37).
Năm yêu cầu trên còn được gọi là năm nguyện vọng
hòa bình của Phật giáo gồm ba phương diện sau đây. Về
công bằng xã hội, chính phủ không được khủng bố và bắt
bớ tín đồ Phật giáo (yêu cầu 3), phải bồi thường những kẻ
bị giết oan vô tội và trừng phạt kẻ chủ mưu giết hại (điều
daya Sūtra, Prajnaparamitahridaya Sutra, 般若波羅蜜多心經), gọi tắt
là Bát-nhã Tâm Kinh hay Tâm Kinh, một bản kinh Đại thừa quan trọng,
được sử dụng làm tụng bản trong các nghi thức tụng niệm của Phật giáo
Đại thừa tại Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản và Triều Tiên.
37. “Bản Tuyên ngôn” trích trong Sđd, tr.23-24.
152 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
5). Về bình đẳng tôn giáo, chính phủ phải cho phép Tăng,
tín đồ Phật giáo được tự do hành đạo và truyền đạo (điều
4) và được hưởng quyền bình đẳng tôn giáo như Thiên
Chúa giáo (điều 2). Về nguyên nhân đàn áp Phật giáo, yêu
cầu chính phủ thu hồi công điện triệt hạ cờ Phật giáo thế
giới. Cả năm nguyện vọng nêu trên đều nhắm đến việc xây
dựng một xã hội trong đó, công bằng xã hội và bình đẳng
tôn giáo được tôn trọng. Để đạt được mục đích công bằng
xã hội, Tăng, tín đồ Phật giáo quyết tâm “sẵn sàng hy sinh
cho đến lúc nào những nguyện vọng hợp lý trên được thực
hiện”(38).
Trái tim bất diệt của Bồ tát Quảng Đức
Bản Phụ đính ngày 23-5-1963 khẳng định rõ lập trường
đấu tranh của Phật giáo là thuần túy cho công bằng xã hội,
38. “Bản Tuyên ngôn” trích trong Sđd, tr.24.
NGUYÊN NHÂN VÀ Ý NGHĨA TỰ THIÊU CỦA BỒ TÁT • 153
không đượm màu chính trị, thể hiện nghĩa vụ công dân, đóng
góp vào lịch ích quốc gia: “Đối với chính phủ, chúng tôi
không chủ trương lật đổ, chúng tôi chỉ có nguyện vọng “cải
thiện chính sách... Chúng tôi không nhằm mục đích tranh thủ
quyền hành. Nói thế, có nghĩa chúng tôi đã và mãi mãi tranh
đấu cho Phật giáo thuần túy, nhưng không phải vì vậy mà
Phật giáo đồ không quan tâm đóng góp vào ích lợi quốc gia
theo nghĩa vụ công dân của mình”(39).
Để tránh tình trạng bị quy chụp vô căn cứ, xuyên tạc,
vu khống từ chính phủ, cũng như những phần tử lợi dụng
phong trào đấu tranh bất bạo động của Phật giáo để làm loạn,
lãnh đạo Phật giáo tuyên bố: “Không chấp nhận mọi sự lợi
dụng”(40). Nội dung của điều này được Bản Phụ đính giải
thích rõ như sau: “Mục tiêu tranh đấu của Phật giáo đồ chỉ
nhằm vào lý tưởng tôn giáo bình đẳng trong khuôn khổ lý
tưởng công bình xã hội; vì lẽ đó, chúng tôi từ chối mọi sự lợi
dụng không phù hợp với tôn chỉ chúng tôi, nhất là những kẻ
mưu toan chức vị chính quyền”(41).
Nói cách khác, phong trào đấu tranh bất bạo động của
Phật giáo Việt Nam năm 1963 là một phong trào độc lập,
thuần túy tôn giáo, không mang màu sắc chính trị, không
ủng hộ hay chống đối một chính thể nào, không làm bình
phông và không tạo nguyên nhân cho cuộc đảo chính diễn
ra sau đó vài tháng, mà chỉ nhằm thay đổi chính sách sai
lầm của chính phủ Ngô Đình Diệm, hầu góp phần mang
lại công bằng xã hội và bình đẳng tôn giáo tại miền Nam
Việt Nam.
39. “Bản Phụ đính” trích trong Sđd, tr. 25-26.
40. “Bản Phụ đính” trích trong Sđd, tr.28.
41. “Bản Phụ đính” trích trong Sđd, tr. 28.
154 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
2. Xây dựng một xã hội “bình đẳng Tôn giáo”
Ngoài mục đích thiết lập công bằng xã hội vốn rất cần
thiết cho bối cảnh tôn giáo và chính trị tại miền Nam Việt
Nam lúc bấy giờ, phong trào đấu tranh bất bạo động của
Phật giáo Việt Nam còn nhắm đến việc thiết lập một xã hội,
trong đó “bình đẳng tôn giáo” được tôn trọng ở mức độ cao
nhất. Theo lãnh đạo Phật giáo lúc bấy giờ, chỉ khi nào công
bằng xã hội được thiết lập thì bình đẳng tôn giáo mới được thực
thi đúng nghĩa. Nói cách khác, bình đẳng tôn giáo là mục đích
thiêng liêng của chủ thuyết công bằng xã hội: “Tôn giáo bình
đẳng là một điểm nổi bật nhất, thiêng liêng nhất trong lý tưởng
công bình xã hội”(42).
Để tránh tình trạng bị lý giải, quy chụp sai lầm, lãnh đạo
Phật giáo khẳng định “Chỉ tranh đấu cho lý tưởng “Tôn giáo
bình đẳng”.(43) Tôn giáo bình đẳng theo lãnh đạo Phật giáo là
42. “Bản Phụ đính” trích trong Sđd, tr. 27.
43. “Bản Phụ đính” trích trong Sđd, tr. 27.
NGUYÊN NHÂN VÀ Ý NGHĨA TỰ THIÊU CỦA BỒ TÁT • 155
các tôn giáo có tư cách tôn giáo như nhau về mặt luật pháp
và được luật pháp tôn trọng. Chỉ với cách ứng xử này, chính
phủ có thể giúp cho các tôn giáo tỏa sáng các giá trị nhân
bản trong phục vụ đất nước và con người. Bản Phụ đính ghi
rõ: “Các tôn giáo được xác định sẽ cùng hưởng một chế độ
“bình đẳng”, có nghĩa cùng được quan niệm là có tư cách
tôn giáo như nhau. Nhưng bình đẳng là “bình trong đồng
đẳng” vì lẽ đó, giá trị các tôn giáo vẫn khác nhau”(44).
Cuộc tranh đấu lịch sử của PGVN
Không chấp nhận tình trạng dùng danh từ “Công giáo”
(một tôn giáo thiểu số tại Việt Nam) gọi cho đạo Thiên Chúa,
không chấp nhận chế độ đặc biệt mà chính phủ dành cho
Thiên Chúa giáo, đòi hỏi một chính sách thực sự bình đẳng,
lãnh đạo Phật giáo Việt Nam mong mỏi miền Nam Việt Nam
không còn chia rẽ tôn giáo, do chính sách toàn trị Ngô Đình
44. “Bản Phụ đính” trích trong Sđd, tr. 27.
156 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
Diệm gây ra. Bản Phụ đính cho thấy sự thiên vị của Đạo dụ
số 10 là nguy cơ chia rẽ tôn giáo một cách trầm trọng: “Với
quan niệm tôn giáo bình đẳng như vậy, đối chiếu với tình
trạng hiện hữu, chúng tôi bất mãn sự thiên vị của Đạo dụ
số 10. Đó là nguy cơ cho quốc gia và làm chia rẽ tôn giáo.
Vì lẽ đó, Phật giáo đồ chúng tôi đã phải công khai bày tỏ rõ
rệt nguyện vọng của mình. Và như thế, không những lý, mà
phạm vi chúng tôi tranh đấu cũng đã được ấn định rõ ràng:
Với danh nghĩa Phật giáo, chúng tôi đang làm một việc tranh
đấu cho lý tưởng “Tôn giáo bình đẳng trong khuôn khổ của
lý tưởng công bình xã hội”(45).
Đang khi nỗ lực thiết lập bình đẳng tôn giáo tại miền
Nam Việt Nam, lập trường của lãnh đạo Phật giáo Việt Nam
là không xem Thiên Chúa giáo và Gia-tô giáo là kẻ thù của
dân tộc hay của Phật giáo. Quan điểm chấp nhận sự đa dạng
tôn giáo này là thống nhất, được ghi rõ trong Ban Phụ đính
như sau: “Chúng tôi tuyên bố không coi ai là kẻ thù, nhất là
đối với đạo Thiên Chúa. Lẽ thứ nhất, dầu từ ngày đạo dụ số
10 ra đời cho đến bây giờ, sự thiên vị đạo Thiên Chúa đã
công khai, nhưng chúng tôi tranh đấu là tranh đấu cho lý
tưởng công bình, chứ không phải tranh đấu với tư cách một
tôn giáo chồng lên một tôn giáo”(46). Theo tuyên bố này, mục
đích chính của phong trào đấu tranh Phật giáo là góp phần
xây dựng một thế giới không chỉ có công bằng xã hội, mà
còn có bình đẳng và tự do tôn giáo vì lãnh đạo Phật giáo nhận
thức rất rõ: “Nếu cho tôn giáo của mình có giá trị tuyệt đối
và chỉ có tôn giáo của mình mới đáng tồn tại thì đây là quan
niệm sai lầm nhất”(47).
45. “Bản Phụ đính” trích trong Sđd, tr. 27.
46. “Bản Phụ đính” trích trong Sđd, tr. 26.
47. “Bản Phụ đính” trích trong Sđd, tr. 26.
NGUYÊN NHÂN VÀ Ý NGHĨA TỰ THIÊU CỦA BỒ TÁT • 157
3. Góp phần làm thay đổi diện mạo chính trị miền Nam
Việt Nam
Tăng Ni, Phật tử biểu tình đòi quyền bình đẳng tôn giáo.
Phần lớn các cuộc đấu tranh vì mục đích chính trị đều sử
dụng đến vũ khí như một phương tiện, hoặc có trường hợp
đặc biệt, sử dụng “bất bạo động”(48) (Sanskrit: ahiṃsā, Pāli:
avihiṃsā) như một lợi thế, chẳng hạn như cuộc chiến dành
độc lập của Ấn Độ đối với đế chế Anh, do Gandhi lãnh đạo.
Phong trào đấu tranh bất bạo động của Phật giáo Việt Nam
1963 là cuộc chiến đấu không ngang sức của một bên tay
không (không vũ khí), không có xu hướng bạo lực với một
bên là chính thể cầm quyền, dùng vũ khí, xe thiết giáp, quân
đội khủng bố, đàn áp tàn nhẫn, dã man.
48. Ahiṃsā trong tiếng Sanskrit có nghĩa đen là “không gây tổn hại”
(to do no harm) hoặc sự xa lánh bạo lực (the avoidance of violence). Về
chiết tự, hiṃsā có nghĩa là hãm hại (harm) hoặc thương tổn (injury). Phối
hợp với tiếp đầu ngữ “a”, a-hiṃsā là bất hại (non harming), là bất bạo
động (non-violence).
158 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
Về nội dung, cuộc chiến bất bạo động của Phật giáo 1963
chịu ảnh hưởng tinh thần của Gandhi và sâu xa từ học thuyết
từ bi và vô não của đức Phật. Nguồn gốc của sự ảnh hưởng
được nêu rõ trong Bản Phụ đính như sau: “Chúng tôi, hơn
thế nữa, phải thực hiện tư tưởng Phật giáo ngay trong cuộc đấu
tranh của chúng tôi… Ngay bây giờ, chúng tôi có thể tuyên bố một
cách minh bạch rằng người tăng sĩ Phật giáo là người sẵn sàng
noi gương Gandhi, vị Thánh của sức mạnh bất bạo động... Nhưng
tinh thần và phương pháp bất bạo động không phải chỉ có thế, nên
chúng tôi sẵn sàng hy sinh đến cùng theo phương pháp này”(49).
Nếu sức mạnh bất bạo động của Gandhi nằm ở chính
sách “bất hợp tác” (Non-cooperation movement)(50) thì sức
mạnh của bất bạo động của Phật giáo Việt Nam là thiền định,
niệm Phật và các khẩu hiệu từ bi, ôn hòa, thể hiện yêu sách
bình đẳng như: “Phật giáo nhất trí bảo vệ Chánh pháp dù
phải hy sinh”, “Phật giáo đồ ủng hộ chính sách tôn giáo bình
đẳng”, “Yêu cầu chính phủ thi hành chính sách tôn giáo bình
đẳng”, “Chúng tôi đã đến lúc bị bắt buộc tranh đấu cho chủ
trương tôn giáo bình đẳng”. Khi phong trào đấu tranh trở
thành cao trào, các khẩu hiệu trở nên quyết liệt, hùng dũng,
sẵn sàng bỏ thân mạng vì chính pháp như: “Chúng tôi không
từ chối một hy sinh nào”, “Phản đối chính sách bất công gian
ác”, “Đả đảo hành động sát nhân, vu khống”, “Máu đã chảy”,
“Hãy giết chúng tôi đi”, “Phật giáo bất diệt” v.v... đã trở thành
những sức mạnh vô úy, chống lại xe tăng, binh lính đầy bạo lực
và đằng đằng sát khí của chính quyền Ngô Đình Diệm.
49. “Bản Phụ đính” trích trong Sđd, tr. 28.
50. Bao gồm bãi công, bãi chợ, bãi lớp học, không nộp thuế cho chính
phủ Anh, không làm việc trong chính phủ Anh, tẩy chay hàng hóa Anh
v.v... làm cho cơ cấu hành chính của Anh tại Ấn Độ bị tê liệt.
NGUYÊN NHÂN VÀ Ý NGHĨA TỰ THIÊU CỦA BỒ TÁT • 159
Thản nhiên và bất động trong lửa đỏ 7 phút, sự tự thiêu
của Bồ-tát Quảng Đức đã làm rúng động toàn cầu. Tổng
thống Mỹ, John Kennedy phải thốt lên lời kinh ngạc: “Trong
lịch sử, chưa có một bức hình nào trên báo đã tạo được
nhiều xúc động cùng khắp cả thế giới như bức hình này”(51).
Ký giả Malcolm W. Browne, người đã chụp hình tự thiêu của
Bồ-tát Thích Quảng Đức đã tự sự về tác động của bức ảnh
tại Hoa Kỳ như sau: “Những bức hình mà tôi chụp về cuộc
tự thiêu của HT. Quảng Đức ... được thành phần diều hâu
bày bán khắp cùng ngõ hẻm... Trên New York Times và báo
Washington Post có hàng chữ: “Chúng tôi cũng phản đối:
We, too, protest”(52).
Noi gương từ bi và vô úy của Bồ-tát Thích Quảng Đức,
51. Nguyên văn tiếng Anh: “No news picture in history has generated
so much emotion around the world as that one”.
52. Bruce D. Berkowitz. The New Face of War, Revised Edition, The
Bobbs-Merrill Company, Inc. Indianapolis-New York, 1968, tr. 261-262.
160 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
có thêm sáu tu sĩ(53) đã tự thiêu và 12 Phật tử(54) đã bỏ thân
vì Phật pháp. Từ vài trăm nhà sư biểu tình trước Trụ sở Quốc
hội vào ngày 30-5-1963 cho đến 30.000 người tuyệt thực tại chùa
Xá Lợi vào ngày 18-8-1963, phong trào đấu tranh bất bạo động đã
lớn mạnh như một cơn lốc ngoại giao, buộc Bộ Ngoại giao Mỹ vào
ngày 22-8-1963 phải lên án chính sách đàn áp Phật giáo của chính
quyền Ngô Đình Diệm. Như giọt nước làm tràn ly, vào ngày 1-111963, chính quyền Ngô Đình Diệm đã bị đảo chính, kết thúc triều
đại toàn trị, Thiên Chúa giáo trị tại miền Nam Việt Nam.
Dựa vào chủ trương của đức Phật “lấy từ bi xóa hận
thù”(55), đạo Phật không xem Thiên Chúa giáo, gia đình Ngô
Đình Diệm và những người trực tiếp thực hiện “Chiến dịch
nước Lũ”(56) là kẻ thù. Mặt khác, mặc dù về bản chất, phong
trào đấu tranh của Phật giáo Việt Nam không chủ trương lật
đổ chế độ, do đó, độc lập với các đảng phái chính trị tại hai
miền Nam Bắc Việt Nam, nhưng các tác động duyên khởi
theo công thức “cái này có tạo điều kiện cho cái kia có, cái
này không tạo tiền đề cho cái kia không; cái này sinh làm
nhân cho cái kia sanh, cái này diệt dẫn đến sự hoại diệt của
53. Tên của các vị tu sĩ phát nguyện tự thiêu là Thượng tọa Thích
Tiêu Diêu, Đại đức Thích Quảng Hương, Đại đức Thích Thiện Mỹ, Đại
đức Thích Nguyên Hương, Đại đức Thích Thanh Tuệ và Sư cô Thích Nữ
Diệu Quang.
54. Có thể xem tiểu sử của các thánh tử đạo tại địa chỉ: http://phatgiaoaluoi.com/news/Lich-su-Phat-giao-Viet-Nam/Di-anh-va-tieu-suchu-Thanh-tu-dao-1916/
55. Kệ Pháp Cú 5 đầy đủ được Thích Nhật Từ dịch như sau: “Trả
thù hận bằng tâm oán giận/ Muôn kiếp dài khó đặng thành công/ Từ bi
chuyển hóa thù chung/ Đây là định luật công bằng xưa nay”. Nguyên tác
Pali: “Na hi verena verani/ sammantidha kudacanam/ averena ca sammanti/ esa dhammo sanantano”.
56. Tiến hành trong ngày 20-8-1963.
NGUYÊN NHÂN VÀ Ý NGHĨA TỰ THIÊU CỦA BỒ TÁT • 161
cái khác”(57) như quy luật muôn đời, góp phần đưa đến sự cáo
chung của chế độ Ngô Đình Diệm, là chân lý mà ta không
thể phủ định được.
Bồ tát Quảng Đức vị pháp thiêu thân
Tại miền Nam, nếu cộng đồng Phật giáo và toàn thể mọi
người ăn mừng khi thoát khỏi ách cai trị độc tài toàn trị của
họ Ngô thì phía bên kia chiến tuyến ở miền Bắc, như có thêm
nghị lực thực hiện cuộc chiến tranh cách mạng theo một cao
độ mới: “Sụp đổ của Diệm, chiến tranh cách mạng đã phát
57. Học thuyết hình thành thế giới quan và nhân sinh quan Phật giáo,
không chấp nhận nguyên nhân đầu tiên là duy thần, duy vật hay duy tâm.
Thế giới là một trường tương tác và tương tức vô tận.
162 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
triển lên một bước mới”(58). Theo đó, phong trào giải phóng
dân tộc chống lại đế quốc ngày càng thành công, như báo cáo
của Lầu Năm Góc đã ghi nhận: “Trong vòng ba tháng sau
đảo chính, Việt Cộng nổi dậy khắp nơi. Tỉnh Kiến Hòa phải
rút đi 51 đồn bót, mất 15 xã,... Trong số 4.248 ấp chiến lược
ở miền Nam thì có 3.915 ấp bị phá hẳn. Trong phúc trình gửi
Tổng thống Johnson ngày 16-3-1964, Mc. Namara đưa ra một
bức tranh bi thảm, hậu quả của cuộc đảo chính lật đổ chế độ
Ngô Đình Diệm: Trong số đất đai của 22 tỉnh (trong 44 tỉnh),
Việt Cộng kiểm soát tới 50% hoặc nhiều hơn thế. Phước Tuy,
Việt Cộng kiểm soát 80%; Bình Dương 90%; Hậu Nghĩa 90%;
Long An 90%; Định Tường 90%; Kiến Hòa 90%; An Xuyên (Cà
Mau) 85%. Quận Mỏ Cày và các xã Định Thủy, Bình Khánh,
Phước Khánh, Phước Hiệp, “đỏ 100%”...”(59).
Tuyên thệ tại chùa Xá Lợi
58. Lê Duẩn. Thư vào Nam. Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1985, tr.248.
59. Cao Thế Dung. Việt Nam ba mươi năm máu lửa – Cuộc chiến
tranh tàn sát thương binh lần thứ nhất 1945-1963. Nxb Alpha, Falls
Church, VA, USA, 1991, tr. 606-607.
NGUYÊN NHÂN VÀ Ý NGHĨA TỰ THIÊU CỦA BỒ TÁT • 163
Điều này cho thấy, các phong trào dân tộc và yêu nước
ở miền Nam nhân cơ hội này thừa thắng xông lên, phát triển
mạnh mẽ. Vì cuộc đấu tranh của Phật giáo là độc lập, việc
tự thiêu của Bồ-tát Thích Quảng Đức không thể được xem
là một phần của phong trào dân tộc đang lớn mạnh tại miền
Nam. Sự giống nhau về tinh thần yêu nước được đức Phật
giảng dạy với tinh thần dân tộc của các phong trào Giải
phóng miền Nam Việt Nam đã làm cho phong trào bất bạo
động của Phật giáo và các phong trào yêu nước trở nên gần
nhau, tương tác đa chiều, góp phần làm tan rã chính sách ủng
hộ chính quyền Ngô Đình Diệm, và do đó, sự can thiệp của
Mỹ ở Việt Nam phải đến hồi kết thúc. Là một thành phần
yêu nước của dân tộc, phong trào đấu tranh của Phật giáo đã
trực tiếp tạo ra duyên cớ đảo chính vào ngày 1-11-1963. Điều
này, dù muốn dù không, đã gián tiếp góp phần làm thay đổi
cục diện chính trị của đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa và rộng
hơn ở toàn miền Nam Việt Nam.
Tác động tích cực từ việc tự thiêu của Bồ-tát Thích Quảng
Đức và các thánh tử đạo là rất lớn và ngoài sức tưởng tượng.
Mười hai năm sau, chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ tại miền
Nam Việt Nam kết thúc vào năm 1975. Hai miền Nam Bắc
được thống nhất.
Vào năm 1981, Phật giáo ba miền được thống nhất. Tinh
thần nhập thế và đồng hành với dân tộc được tái khẳng định
như là chủ trương của GHPGVN. Những nhiệm vụ mới trong
bối cảnh mới được đặt ra cho GHPGVN. Phương pháp tiếp
biến văn hóa, vận dụng lời Phật dạy vào trong cuộc sống sẽ
giúp Phật giáo trở thành sự lựa chọn tâm linh của quảng đại
quần chúng nhân dân.
Ôn lại 50 năm lịch sử của phong trào đấu tranh bất bạo
164 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
động Phật giáo để rút ra những bài học về dấn thân, phụng sự
nhân sinh trên tinh thần vô ngã, vô úy, từ bi, trí tuệ và vị tha.
Đây là con đường phụng sự chúng sinh được đức Phật chỉ
dạy, mà tất cả đệ tử Phật cần noi theo.
***
NGUYÊN NHÂN VÀ Ý NGHĨA TỰ THIÊU CỦA BỒ TÁT • 165
TÀI LIỆU THAM KHẢO
• Tiếng Việt
1. Cao Thế Dung. Việt Nam ba mươi năm máu lửa – Cuộc
chiến tranh tàn sát thương binh lần thứ nhất 1945-1963. Nxb
Alpha, Falls Church, VA, USA, 1991.
2. Chu Bằng Lĩnh. Đảng Cần Lao. Nxb. Mẹ Việt Nam,
San Diego, CA, USA, 1993.
3. Lê Cung. Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam
năm 1963. NXB. ĐHQG Hà Nội, 1999.
4. Lê Duẩn. Thư vào Nam. Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1985,
tr.248.
5. Lê Mạnh Thát (chủ biên). Bồ-tát Thích Quảng Đức –
Ngọn lửa và Trái tim. NXB. Tổng hợp TP.HCM, 2005.
6. Phú Tiên Nguyễn Duy Tinh. Lửa thiêng nhiệm mầu.
Sài Gòn, 1963. GHPGVN TP.HCM tái bản 2013.
7. Quốc Tuệ (biên tập). Phật Giáo Việt Nam 1963. Saigon, 1964.
8. Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm. Lịch sử Phật giáo xứ
Huế. NXB TP.HCM, 2001.
9. Trần Tam Tĩnh. Thập giá và lưỡi gươm. NXB Trẻ, 1988.
• Tiếng Anh
1. Avro Manhattan. Vietnam: Why Did We Go? CA:
Chick Publications, 1984.
2. Bernard Newman. Background to Vietnam. Signet
Books, New York 1965.
3. Bruce D. Berkowitz. The New Face of War, Revised
Edition, The Bobbs-Merrill Company, Inc. IndianapolisNew York,1968.
166 • BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC: CUỘC ĐỜI VÀ LỬA TỪ BI
4. Fitzgerald Francess. Fire in the Lake. An Atlantic
Monthly Press Book, Boston, USA 1972.
5. Jerrold Schecter. The New Face of Buddha. John
Weatherhill, Tokyo, 1967.
6. Joseph Buttinger. Vietnam: A Dragon Embattled,
Volum II Vietnam at War. Frederick A. Praeger, Publisher,
New York, 1967.
7. Marvin E Gettleman. Vietnam: History, Documents and
Opinions on a Major World Crisis. Penguin Books, 1966.
8. Robert McAfee Brown, Abraham J. Heschel & Michael Novak. Vietnam: Crisis of Conscience. Associated
Press, New York 1967.