« Home « Kết quả tìm kiếm

CHÍNH TRỊ HỌC ĐẠI CƯƠNG.docx


Tóm tắt Xem thử

- Ngọc Ánh Lớp: K2AXDĐ CHÍNH TRỊ HỌC ĐẠI CƯƠNG Câu 1: Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị? Chính trị là hoạt động trong quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia trong vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia của nhân dân vào quyền lực nhà nước và hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phải, nhà nước nhằm tìm kiếm khả năng thực thi những đường lối, những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng con người.
- Là một bộ phận cấu thành của tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh có vị trí đặc biệt quan trọng.
- Bởi lẽ: Bản thân Hồ Chí Minh là một “nhà chính trị chuyên nghiệp”.
- Lĩnh vực chính trị Việt Nam gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc được Hồ Chí Minh để tâm nhiều hơn cả.
- Chính trị là một lĩnh vực mà Hồ Chí Minh có nhiều sáng tạo độc đáo, nhất là sự sáng tạo ấy có ảnh hưởng tích cực tới cách mạng thế giới, được quốc tế thừa nhận.
- Có thể khái quát một số nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh như sau: 1.
- Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội: Trong toàn bộ tiến trình đấu tranh cách mạng của dân tộc ta, tư tưởng bao trùm là tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
- Tư tưởng đó được Người quán triệt và thể hiện trong toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
- Đây là hạt nhân cốt lõi nhất trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, đồng thời là tư tưởng trọng tâm xuyên suốt toàn bộ hệ thống.
- Độc lập dân tộc, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh bao gồm những nội dung.
- Dân tộc đó phải thoát khỏi nô lệ (dưới mọi hình thức) bằng con đường cách mạng do chính dân tộc đó tiến hành.
- Độc lập về chính trị phải gắn liền với sự phồn thịnh về mọi mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Điều này bắt nguồn từ bản chất của sự vận động lịch sử mà sau những tìm tòi công phu cùng sự nếm trải thân phận của một người dân mất nước, Hồ Chí Minh đã nhận thức được.
- Do đó, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành xu hướng mang tính cách mạng phổ biến của cách mạng thể giới, mang tính quy luật của thời đại.
- Tư tưởng cách mạng đó của Người đã đặt nền tảng vững chắc cho đường lối xuyên suốt toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam.
- Tư tưởng về đại đoàn kết: Đại đoàn kết là một tư tưởng lớn trong tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh, trở thành chiến lược đại đoàn kết của Đảng ta và là một nhân tố cực kỳ quan trọng thường xuyên góp phần quyết định thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta qua mọi thời kỳ.
- Hồ Chí Minh quan niệm sức mạnh là ở đại đoàn kết toàn dân, ở sự đồng lòng của toàn xã hội.
- Đoàn kết vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho cách mạng chính trị xã hội bởi vì đoàn kết tạo ra sức mạnh chính trị.
- Đoàn kết, theo Hồ Chí Minh, phải dựa trên cơ sở có lý, có tình, có nghĩa, đoàn kết là để phát triển, để làm tốt hơn nhiệm vụ cách mạng, cách mạng muốn thắng lợi thì phải đoàn kết, đoàn kết lấy liên minh công – nông – trí thức làm nền tảng, lấy lợi ích tối cao của dân tộc làm điểm quy tụ để đảm bảo hài hòa giữa các lợi ích.
- Chiến lược đoàn kết của Hồ Chí Minh vừa là sự đúc kết và phát huy truyền thống đại đoàn kết của dân tộc ta qua hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước, vừa thể hiện tinh thần bất hủ của chủ nghĩa Mác – Lênin là “Vô sản các nước và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới đoàn kết lại”.
- Tư tưởng về Nhà nước của dân, do dân, vì dân: Ngọc Ánh Lớp: K2AXDĐ Hồ Chí Minh rất chú trọng tới xây dựng Nhà nước kiểu mới – nhà nước dân chủ cộng hòa.
- Điều mà Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm là tính chất nhà nước.
- Hồ Chí Minh quan niệm, giá trị thực chất của dân chủ là phải có cơm ăn, áo mặc, học hành… Người chỉ rõ vai trò động lực của dân chủ, xem dân chủ là chìa khóa của tiến bộ xã hội.
- Hồ Chí Minh phê phán bệnh độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, vô chính phủ.
- Hồ Chí Minh khẳng định: Nước ta là nước dân chủ.
- Từ quan niệm này, Hồ Chí Minh cho rằng: chế độ dân chủ phù hợp với nhà nước ta.
- Tính chất nhân dân và bản chất giai cấp của nhà nước ta được Hồ Chí Minh xác định rõ ràng và đích thân Người cùng toàn Đảng, toàn dân, ra sức xây dựng.
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân cũng có nghĩa là dân có quyền kiểm soát nhà nước.
- Nhà nước của dân, theo quan niệm của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở chỗ dân không chỉ có quyền giám sát, kiểm tra mà còn có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội.
- Về bản chất giai cấp của nhà nước ta, Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng, Đảng ta là Đảng cầm quyền, nhà nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, mang tính chất dân chủ nhưng dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công nhân – nông dân – trí thức, do giai cấp công nhân lãnh đạo, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, quản lý xã hội bằng hiến pháp và pháp luật, thực hiện sự thống nhất quyền lực nhưng phân công, phân cấp rõ ràng.
- Nhà nước do dân: dân là lực lượng chủ yếu làm cách mạng.
- Cùng những quan điểm trên, Hồ Chí Minh còn nêu lên quan điểm phục vụ của cán bộ nhân viên nhà nước vì dân là: Việc gì có lợi cho dân, thì làm cho kỳ được.
- Người thường xuyên nhắc nhở rằng, Nhà nước ta không phải bộ máy áp bức dân, cán bộ viên chức nhà nước không phải là những người “làm quan cách mạng” bóc lột nhân dân, kéo bè cánh để thu vén lợi ích cá nhân.Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đảng ta là một đảng cầm quyền.
- Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân đã trở thành nguyên tắc xuyên suốt, thuộc về bản chất của nhà nước ta từ năm 1945 đến này và mãi về sau này, chừng nào xã hội còn giai cấp và nhà nước.
- Lý luận về Đảng cầm quyền: Phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về đảng chính trị nói chung, đảng của giai cấp công nhân nói riêng, Hồ Chí Minh luôn coi xây dựng Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, là nhân tố quyết định trước hết đối với mọi thắng lợi của cách mạng.
- Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chung, ngoài thì liên lạc với dân tộc vị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi.
- Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có chí khôn, tàu không có bàn chỉ nam” Theo cách thể hiện của Hồ Chí Minh, thì “đảng cách mệnh” có nghĩa là “đảng của giai cấp vô sản”, “đội tiên phong của vô sản giai cấp”, xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc về đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác – Lênin, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho tổ chức và mọi hoạt động của Đảng.
- Như vậy, bản chất giai cấp của đảng đã được Hồ Chí Minh khẳng định.
- Không chỉ như vậy, theo quan điểm của Người thì cách mạng ở một nước thuộc địa nửa phong kiến như nước ta thì “quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một”.
- Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự hình thành một Đảng Cộng sản ở Việt Nam vừa quán triệt đầy đủ học thuyết Mác – Lênin về Đảng Cộng sản, vừa phù hợp với hoàn cảnh một nước thuộc địa lạc hậu chậm phát triển, nơi có truyền thống đấu tranh yêu nước lâu đời của nhân dân, nơi số lượng giai cấp công nhân còn ít ỏi nhưng đã có mối quan hệ chặt chẽ trong phong trào yêu nước ngay từ đầu.
- Ở Việt Nam, quan điểm trên của Hồ Chí Minh có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với chính sách đại đoàn kết dân tộc trong lịch sử, đối với việc xây dựng củng cố và tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, đối với việc tăng cường lãnh đạo của giai cấp công nhân mà đội tiên phong đó là Đảng Cộng sản Việt Nam, đối với việc giải quyết các Ngọc Ánh Lớp: K2AXDĐ vấn đề mối quan hệ giữa Đảng – giai cấp – dân tộc cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Phương pháp cách cách mạng: Cũng như các nhà kinh điển, bản thân Hồ Chí Minh chưa đưa ra một định nghĩa về phương pháp cách mạng, song Người là bậc thầy về phương pháp cách mạng trong mọi thời kỳ, mọi giai đoạn cách mạng, trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam.
- cách vận động nhân dân, cách thuyết phục kẻ thù, cũng như cách tiến cách lùi trong đánh giặc, cách xây dựng đất nước cũng như cách bảo vệ đất nước… Tất cả đã toát lên “linh hồn và nội dung” của một nội dung hoàn chỉnh phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh vừa là cách mạng vừa là nghệ thuật mang tính thực tiễn sâu sắc.
- Nói cách khác, đó là những quy luật hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, mà theo đó tư tưởng chính trị của Người được thực hiện hóa.
- Phương pháp cách mạng Việt Nam là phương pháp cách mạng vô sản được vận dụng và phát triển một cách sáng tạo vào một nước thuộc địa nửa phong kiến.
- Nó được thể hiện đầy đủ 3 yếu tố tác động biện chứng với nhau trong 1 thể thống nhất: Các biện pháp, bước đi thích hợp với hệ thống các nguyên tắc Hồ Chí Minh nhằm định hướng, điều chỉnh hành động.
- Mục tiêu cách mạng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Có thể khái quát một hệ thống các phương pháp cách mạng chung, cơ bản của Hồ Chí Minh như sau.
- Xuất phát từ thực tế Việt Nam, lấy cải tạo biến đổi hiện thực Việt Nam làm mục tiêu cho mọi hoạt động cách mạng.
- Ngọc Ánh Lớp: K2AXDĐ - Kết hợp các phương pháp đấu tranh cách mạng một cách sáng tạo.
- Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh mà nội dung cốt lõi là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” cũng như toàn bộ hệ thống tư tưởng của người là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điểu kiện Việt Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiến tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tài sản tinh thần quý báu của toàn Đảng, toàn dân ta.
- Trải qua bao khúc quanh của lịch sử và những biến cố khắc nghiệt của thời đại, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng chính trị của người nói riêng vẫn có trong hành trang của dân tộc ta đi tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
- Với ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta.
- Ngày nay, chúng ta có thể khẳng định rằng việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh là học tập tinh thần cách mạng, khoa học và nhân văn cao cả của Hồ Chí Minh, là nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của Hồ Chí Minh để xử trí trước mọi việc.
- Bài liên hệ: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh lý luận được hiểu là “Đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc đấu tranh, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận, rồi lại đem nó chứng minh với thực tế.
- Từ quan niệm về “Lý luận” và “Thực tế” cũng như mối quan hệ của chúng, Hồ Chí Minh đi tới nguyên tắc “lý luận liên hệ với thực tế” trong nghiên cứu học tập lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin.
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, học lý luận là để trở thành những cán bộ hoàn chỉnh, “hoàn toàn.
- Hồ Chí Minh nêu ra mục đích học tập lý luận rất toàn diện, bao gồm bốn nội dung: Thứ nhất, học để sửa chữa tư tưởng.
- thứ hai, học để tu dưỡng đạo đức cách mạng.
- Theo Hồ Chí Minh, để quán triệt tốt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thì trước hết cần khắc phục “bệnh kém lý luận, bệnh coi khinh lý luận, bệnh lý luận suông” trong cán bộ, đảng viên.
- Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên rằng, quán triệt tốt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn cũng có nghĩa là góp phần khắc phục và ngăn ngừa bệnh giáo điều, sách vở cũng như bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa.
- Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 9/2/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới đã đề ra nhiệm vụ và giải pháp, trong đó nhấn mạnh phải: “Phát huy dân chủ trong công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận.
- Đây chính là sự cụ thể hóa và vận dụng quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lý luận gắn với thực tiễn, qua đó nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, thực sự hiệu quả, thiết thực trong việc học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
- Câu 2: Tại sao nói “Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc, quốc gia xoay quanh vấn đề giành giữ và thực thi quyền lực chính trị, mà tập trung ở quyền lực nhà nước”.
- Chính trị là một hiện tượng xã hội ra đời gắn liền với sự ra đời của giai cấp và nhà nước.
- Chính trị bao giờ cũng là sự bộc lộ mối quan hệ giữa các giai cấp: Trong một xã hội có giai cấp, chính trị với những thiết chế được đặt ra là để xác lập mối quan hệ giữa các giai cấp.
- Khái niệm quan hệ chính trị cho chúng ta thấy, đó là quan hệ giữa các giai cấp, trong việc giành, giữ và tổ chức quyền lực Nhà nước.
- Trong các quan hệ đó, các giai cấp xác định đâu là giai cấp thống trị, đâu là giai cấp, tầng lớp bị thống trị, đâu là giai cấp, tầng lớp tham gia vào thực hiện các nhiệm vụ chính trị.
- Bởi vậy nghiên cứu và định hình chính trị cũng được các học giả Đông-Tây-kim-cổ bàn luận không ít giấy mực.
- Trước khi chính trị học ra đời với tư cách là một khoa học nghiên cứu chính trị như một chính thể, có đối tượng, phương pháo, khái niệm, phạm trù.
- đã có rất nhiều quan niệm, quan điểm, thậm chí là tư tưởng, học thuyết của các học giả khác nhau bàn về các khía cạnh của chính trị.
- Dưới đây là trình bày 1 số quan điểm về chính trị của chủ nghĩa Mác, nghiên cứu 1 cách nghiêm túc các quan điểm đi trước về chính trị, đồng thời vận dụng một cách khoa học các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các nhà kinh điển của CNMLN đã đề xuất những nhận định đúng đắn về chính trị.
- CT là lợi ích, là quan hệ lợi ích, là đấu tranh giai cấp, trước hết vì lợi ích giai cấp: Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định, chính trị luôn mang bản chất giai cấp.
- Bản chất giai cấp của chính trị được quy định bởi lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế của giai cấp.
- Chính trị ra đời và tồn tại gắn liền với xã hội có phân chia giai cấp.
- Hoạt động chính trị chính là hoạt động thực tiễn của các giai cấp - vì lợi ích giai cấp.
- Khi cơ sở kinh tế làm cho nhà nước mất đi, giai cấp không còn, khi đó, chính trị cũng không còn cơ sở tồn tại.
- Quyền lực là vấn đề trung tâm của chính trị.
- Tính tập trung về kinh tế của CT biểu hiện ở chỗ: Thứ nhất, tất cả mọi hoạt động của nền kinh tế đều đặt dưới sự quản lý, điều tiết của 1 thể chế chính trị.
- Hoạt động chính trị chính là hoạt động vì lợi ích của 1 quốc gia, cộng đồng và trên hết là lợi ích giai cấp.
- Thứ hai, các thành phần kinh tế của 1 cộng đồng, quốc gia thì chính trị không thể không nắm phần quan trọng, phần chủ yếu nhất của nền kinh tế đó.
- Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế biểu hiện ở chỗ: Thứ nhất, CT luôn là hoạt động đi trước, hoạt động tạo hành lang, tạo môi trường cho nền kinh tế phát triển.
- Thứ hai, chính trị có tính ổn định thì kinh tế mới có bước phát triển.
- Giải quyết những vấn đề chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật.
- Chính trị không chủ dừng lại ở việc làm thế nào để điều tiết 1 nhà nước hoặt động, quản lý tất cả mọi mặt đời sống, xã hội, ban hành pháp luật, tức là hoạt động đối nội, mà còn là liên quan đến quan hệ mang tính đa quốc gia, mang tầm vóc quốc tế, có ảnh hưởng đến sự tồn vong của một quốc gia - tức hoạt động đối ngoại.
- Do đó vấn đề chính trị là hết sức phức tạp và nhạy cảm.
- Từ đầy, chúng ta có thể rút ra được khải quát về chính trị: Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, cũng như các dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành giữu, tổ chức và sử dụng QLNN, là sự tham gia của nhân dân vào công việc của NN và xã hội, là hoạt động chính trị thực tiễn của giai cấp, các đảng phái chính trị của nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
- Câu 3: Chính trị vừa là khoa học vừa là nghệ thuật.
- Phân tích CT là khoa học: CT là một khoa học có đối tượng phương pháp nghiên cứu riêng: Đối tượng nghiên cứu của CTH xoay quanh các vấn đề của đời sống chính trị nhằm sáng tỏ những quy luật chung nhất của đời sống chính trị, cơ chế tác động, cơ chế sử dụng cùng những phương thức, những thủ thuật chính trị để hiện thực hóa những quy luật chung đó.
- Ngọc Ánh Lớp: K2AXDĐ Ở VN, CT luôn được xem là 1 khoa học: Xuất phát từ thực tiễn CMVN hiện nay, CTH ở VN tập trung nghiên cứu vấn đề dân chủ hóa hệ thống chính trị nói riêng và dân chủ hóa đời sống xã hội nói chung, trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, nghiên cứu phương diện chính trị của quán trình đa dạng hóa cơ cấu xã hội, giai cấp, đấu tranh giai cấp, nghiên cứu lý luận chungn về ĐCQ, những đặc trưng và yêu cầu QLNN trong điều kiện dân chủ hóa đời sống xã hội, nghiên cứu các quan hệ và tác động qua lại lẫn nhau giữ chủ thể lãnh đạo và chủ thể quản lý cũng như giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo, quản lý và bị quản lý, nghiên cứu những phương pháp có hiệu quả trong quản lý, trong kiểm soát xã hội, nghiên cứu các quá trình hình thành và ảnh hưởng của văn hóa chính trị đối với việc tích cực hóa hoạt động chính trị của mọi thành viên tronng xã hội, đối với việc hoàn thiện kỹ năng hoạt động của cán bộ lãnh đạo và quản lý các quá trình chính trị xã hội, nghiên cứu những động lực hoạt động chính trị và sự thể hiện của chúng trong quá trình đổi mới hiện nay ở VN.
- Cơ sở PPL của khoa học chính trị là PP duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của CNMLN.
- Hoạt động CT là hoạt động của con người liên quan đến tranh giành quyền lực, quyết liệt một mất một còn, nên các chủ thể chính trị (trước hết là giai cấp) không thể không sử dụng mọi biện pháp, thủ đoạn để đạt được mục tiêu CT.
- Chẳng hạn như: Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vận dụng nó theo phương châm “”Dĩ bất biến ứng vạn biến” bằng việc ký Hiệp định sơ bộ ngày với Pháp để bảo toàn lực lượng, sau đó ngày đã kêu gọi toàn quốc kháng chiến khi toàn dân toàn quân đã sẵn sàng đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc.
- Hoạt động chính trị là “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
- Hoạt động CT là nghệ thuật tổ chức lực lượng, sử dụng con người, nghệ thuật vận động quần chúng, nghệ thuật tiến hành chiến tranh cách mạng.
- Trong hoạt động chính trị thực tiễn, tính khoa học và nghệ thuật kết hợp, bổ sung cho nhay.
- Hoạt động chính trị phải tuân theo quy luật khách quan nhưng cần linh hoạt mềm dẻo.
- Là một lĩnh vực nhạy cảm, liên quan đến vận mệnh con người, hoạt động chính trị đòi hỏi sự chuẩn xác gắn với thực tiễn, tuân theo quy luật khách quan, tránh chủ quan, duy ý chí, đồng thời nó đòi hỏi sự nhạy cảm tinh tế, mưu lược đạt đến trình độ nghệ thuật cao.