« Home « Kết quả tìm kiếm

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ÔN THI ĐẠI HỌC MÔN SINH HỌC CHO HỌC SINH


Tóm tắt Xem thử

- MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ÔN THI ĐẠI HỌC MÔN SINH HỌC CHO HỌC SINH.
- Tuy nhiên, để xóa dần khoảng cách về tri thức giữa các vùng miền thì các em học sinh ở miền núi, vùng sâu vùng xa những vùng đặc biệt khó khăn cần phải nỗ lực hơn rất nhiều.
- phương thức kiểm tra đánh giá theo hình thức kiểm tra trắc nghiệm ở hai kỳ thi tốt nghiệp và đại học.
- Như vậy thách thức đặt ra với thầy và trò trường các trường trung học phổ thông (THPT) trên toàn quốc nói chung là làm thế nào để nâng cao chất lượng học tập của các em học sinh.
- nào để các em học sinh đân tộc thiểu số tự tin vượt qua hai kỳ thi tốt nghiệp và đại học để bước vào cổng các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp, mai ngày trở về xây dựng làng bản quê hương..
- Môn sinh học cũng như các môn khoa học khác ở trường phổ thông giúp các em có những kiến thức nền tảng nhất về khoa học tự nhiên.
- Bộ môn này nằm trong hệ thống ba bộ môn thì đại học khối B toán - hóa - sinh, đây là tiền đề cho học sinh thi vào các trường đại học y khoa, đại học nông lâm ( Chăn nuôi, trồng trọt, lâm nghiệp, thú y.
- Đây là môn khoa học thực nghiệm, nhiều kiến thức trừu tượng, nhiều hiện tượng thực tế trong tự nhiên cần được nghiên cứu, khám phá nhằm xóa đi quan điểm duy tâm “Chúa trời sinh ra muôn loài”.
- Để giúp các em học sinh có được một tư duy lôgic về sự đa dạng phong phú của sinh giới, sự thích nghi một cách hợp lý của giới tự nhiên thì các nhà khoa học đã.
- nghiên cứu sinh học trên cơ sở của các bộ môn khoa học cơ bản: Toán học, vật lý học, hóa học, tự nhiên học, thổ.
- Nhiều học sinh đã cảm thấy khó khăn khi học, tìm hiểu và ôn tập bộ môn.
- Đa phần các em học sinh cho rằng học sinh học rất trừu tượng, nhiều kiến thức lý thuyết, nhiều bài tập khó, kiến thức nhiều mảng đan xen với các bộ môn khác dễ nhầm lẫn..
- Số tiết học chính khoá không nhiều từ 1-2 tiết /tuần, bài học thường dài, vì vậy nhiều em học sinh có tâm lý coi đây là môn học phụ thiếu quan tâm học tập.
- Học sinh miền núi do cơ sở vật chất thiếu thốn nên ở bậc học THCS nhiều em rỗng kiến thức, khó có điều kiện tiếp cận với các bài thực hành….
- Vì vậy hứng thú với bộ môn thường không cao..
- Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng bộ môn trong ôn thi đại học?.
- Tạo hứng thú với bộ môn chuẩn bị lực lượng học sinh tự nguyện tham gia ôn thi đại học.
- Có lẽ mục tiêu đầu tiên tổ bộ môn chúng tôi đặt ra: Làm thế nào để tạo hứng thú cho học sinh với bộ môn sinh học của mình ngay từ khi các em vào lớp 10.
- Về yếu tố chủ quan chúng tôi có một đội ngũ thầy cô giáo vững vàng về kiến thức chuyên môn, tâm huyết với nghề nghiệp, tận tâm với các em học sinh.
- Đây chính là tiền đề giúp chúng tôi thực hiện được mục đích: Xóa đi tâm lý học sinh: môn sinh là môn phụ..
- Luôn gắn kiến thức khoa học với thực tiễn cuộc sống và thực tiễn các địa.
- Bài giảng luôn kích thích tư duy sáng tạo của các em..
- khi giảng bài “ Vận chuyển các chất qua màng tế bào” Một kiến thức khó, trừu tượng vì các em không thể quan sát thấy hiện tượng bằng mắt thường: Người giáo viên có thể sử dụng phương tiện hiện đại như chuẩn bị mô hình động để học sinh có thể quan sát các cơ chế vận chuyển thụ động nhờ khuếch tán.
- Nhưng trong bài giảng chỉ cần giáo viên minh họa thêm bằng một vài hiện tượng.
- Giáo viên chỉ cần liên hệ: Muốn chuyển một gùi hàng từ dưới chân dốc lên đỉnh dốc ta phải làm như thế nào? Cho biết yếu tố nào là ATP, đâu là chất mang?….
- Như vậy người giáo viên luôn tạo cho các em câu hỏi mở, gần gũi với cuộc sống.
- Giáo dục các em tình yêu thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống và ham mê khám phá tự nhiên.
- Luôn động viên các em khi các em tiếp thu được một kiến thức mới.
- Mỗi bài học sinh học không phải là một thách đố với các em về kiến thức mà là một câu chuyện đầy thú vị về thiên nhiên, cuộc sống, là sự giải đáp những gì mà các em vẫn thắc mắc hàng ngày.
- Từ việc tạo cho các em tình yêu đối với bộ môn người giáo viên mới có thể vận động được các em học sinh yêu thích bộ môn sinh tự nguyện ôn thi đại học khối B..
- Ôn tập kiến thức cho học sinh khi ôn thi đại học.
- Ôn thi đại học là kiến thức tổng hợp từ các kiến thức đã được thầy cô trang bị trong sách giáo khoa, trên giờ học chính khóa theo từng chương, từng bài.
- Kiến thức không chỉ nằm trong chương trình 12 mà dàn trải cả ba năm 10,11,12 mang tính chất tổng hợp và khái quát hóa.
- Tuy nhiên, đòi hỏi của đề thi đại học không chỉ đơn giản là trình bày kiến thức theo kiểu học thuộc bài giảng của thầy cô mà cần hiểu kiến thức sách giáo khoa đúng, phân tích được kiến thức một cách thấu đáo, logic và có sự so sánh giữa các phần kiến thức theo cấp độ tăng dần từ dễ =>.
- bám sát sách giáo khoa, giảm tải kiến thức đối với học sinh, không đánh đố học sinh, mà vẫn kiểm tra phân luồng được học sinh dựa trên vốn hiểu biết của các em.
- Để giúp học sinh dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với các đề thi đại học chúng tôi đã cụ thể hóa các phương pháp như sau:.
- 2.1 Tổng hợp hóa kiến thức cho học sinh.
- Để có thể tổng hợp được kiến thức cho học sinh thứ nhất.
- đòi hỏi mỗi giáo viên cần nắm bắt được chương trình cấp hai các em đã học những kiến thức gì? Cách tiếp cận với vốn kiến thức đó ra sao có như vậy thì mới biết cách khai thác vốn kiến thức cũ các em đã tích lũy được làm nền tảng tổng hợp các kiến thức mới.
- Thứ hai cần có cách khái quát hóa kiến thức trong chương trình THPT, tìm mối liên hệ giữa các cấp độ của sự sống được sách giáo khoa trình bày theo từng bài, từng chương, từng phần.
- từ đó nâng dần cấp độ lên mức so sánh, phân tích để phân biệt được các kiến thức trong câu trả lời trắc nghiệm..
- Sinh học ở cấp trung học cơ sở được trang bị một cách hệ thống với các nhóm sinh vật theo lối bổ dọc.
- Ở cấp THPT kiến thức được hệ thống dưới dạng khái quát hóa và hiện đại hóa theo lối đồng tâm mở rộng với từng cấp độ: Phân tử.
- quần thể =>.
- Mỗi cấp độ được xây dựng theo nguyên tắc: cấu trúc phù hợp với chức năng, lý luận kết hợp với thực tiễn, và hướng vận dụng quy luật vào thực tiễn sản xuất và đời sống .Ở mỗi chủ đề kiến thức giáo viên lại phải đảm bảo quan điểm tích hợp về nội dung các kiến thức sinh thái và quan điểm tiến.
- theo cấu trúc hệ thống của sinh giới.
- Chính vì vậy mà việc hệ thống hóa kiến thức là việc làm rất quan trọng khi giáo viên ôn thi đại học.
- Có nhiều cách hệ thống hóa kiến thức, điều này phụ thuộc vào nội dung của chương trình:.
- Hệ thống kiến thức bằng phương pháp Grap hóa.
- Kiến thức các em đã được học ở bài giảng trên lớp vì thế không nên dạy lại theo bài mà cần có cách sơ đồ hóa kiến thức để học sinh có cái nhìn toàn diện..
- Như vậy nếu dùng một sơ đồ giáo viên sẽ vừa tổng hợp được các loại biến dị theo quan điểm của di truyền học hiện đại, vừa phân biệt được từng loại biến dị,.
- học sinh sẽ có cách nhìn tổng thể về biến dị..
- Mỗi tiểu mục nhỏ giáo viên tiếp tục gráp hóa, như vậy sẽ cụ thể được kiến thức của tiểu mục đó: Ví dụ: ôn về đột biến dị bội thể trong đó có khái niệm, cơ chế hình thành thể dị bội trên NST thường và trên NST giới tính, cơ chế biểu hiện, hậu quả… GV lại lập một sơ đồ: từ sơ đồ khai thác kiến thức theo kiểu câu hỏi nhỏ.
- Như vậy với hệ thống câu hỏi nhỏ khai thác từng góc cạnh của từng kiến thức đã học sẽ cho học sinh một cái nhìn vừa toàn diện vừa cụ thể mà có thể phân biệt được đâu là kiến thức trọng tâm.
- Sau mỗi phần khai thác sơ đồ hóa chúng tôi sẽ kiểm tra lại học sinh bằng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm..
- Ví dụ ở tiểu mục đột biến dị bội thể sau khi học xong phần khai thác kiến thức giáo viên cho các em làm bài trắc.
- nghiệm khoảng 10-15 câu hỏi, làm trong khoẳng 10 phút và chữa ngay đáp án nhằm sửa chữa những sai sót khi các em.
- tiếp nhận kiến thức, hoặc có sự nhầm lẫn nào đó và đó cũng là biện pháp để củng cố các kiến thức cho các em một cách chắc chắn nhất..
- Tuy nhiên đó là sự khai thác kiến thức theo từng phần.
- Sau khi học xong các tiểu phần, có một sơ đồ chung và các sơ đồ nhỏ giáo viên cần có hệ thống câu hỏi so sánh mang tính chất tổng quát.
- Từ đó tiếp tục có hệ thống câu hỏi trắc.
- nghiệm toàn phần khoảng 40- 50 câu, làm bài trong 45 phút để giáo viên đánh giá được khả năng tiếp thu toàn bộ.
- chương của các em..
- Hệ thống kiến thức theo chủ đề.
- Không phải phần kiến thức nào cũng có thể ôn tập bằng grap hóa mà có phần lại cần hệ thống theo chủ đề..
- Ví dụ: Khi dạy ôn tập các quy luật di truyền thì giáo viên lại cần phân biệt rõ cho học sinh theo từng chủ đề nhỏ:.
- Quy luật di truyền chéo ( gen trên X).
- Quy luật di truyền thẳng ( Gen trên Y).
- Từ đây giáo viên giúp học sinh khai thác lại sự khác nhau về cách viết kiểu gen, tỷ lệ phân ly kiểu gen, kiểu hình, cơ sở tế bào học của các quy luật.
- Trên cơ sở nắm bắt và phân biệt rõ các quy luật lý thuyết, giáo viên sẽ giúp học sinh nhận dạng các loại bài tập thuộc các quy luật di truyền..
- Hệ thống kiến thức bằng bài tập nhận thức.
- Ngoài kiến thức lý thuyết trong sinh học THPT còn có các dạng bài tập, không chỉ đơn thuần là tính toán và công thức mà đó là kết quả của sự phân tích và tổng hợp lý thuyết.
- Ví dụ: Khi ôn tập phần di truyền học quần thể .
- Giáo viên có thể đặt ra một bài toán nhận thức: Một quần thể ban đầu có tần số alen ở phần đực là f(A.
- phần cái của quần thể đó có tần số alen f(A.
- Xác định cấu trúc di truyền của quần thể ban đầu?.
- Nếu quần thể ban đầu thực hiện tự phối bắt buộc qua 3 thế hệ thì tần số alen trong trong quần thể có thay đổi không? Cấu trúc của quần thể thay đổi như thế nào?.
- Nếu quần thể ban đầu thực hiện giao phối tự do ngẫu.
- nhiên qua 3 thế hệ thì tần số alen trong quần thể có thay đổi không? Nhận xét gì về cấu trúc quần thể ở thế hệ xuất phát?.
- Điều kiện để quần thể ngẫu phối đạt trạng thái cân bằng?.
- Nếu một quần thể đạt trạng thái cân bằng mà biết tỷ lệ kiểu hình trội hoặc lăn có xác định được tần số alen và cấu trúc di truyền của quần thể không?.
- Nếu quần thể có 3 alen A, a1, a thì cấu trúc quần thể được xác định theo công thức nào? Giả sử biết tỷ lệ kiểu hình của quần thể đó, hãy cho biết các tính tần số tương đối của các alen..
- Giải quyết được bài toán trên tức là đã hệ thống được toàn bộ kiến thức chương di truyền quần thể ( Minh họa bằng bài giảng thực nghiệm).
- Kiểm tra đánh giá.
- Sau khi người giáo viên đã giúp học sinh hệ thống tổng quát toàn bộ các kiến thức đã học thì bước thứ hai có thể coi là tương đối quan trọng: Kiểm tra đánh giá khả năng nhận thức của học sinh.
- Tất nhiên với phương châm đổi mới kiểm tra đánh giá của ngành giáo dục thì giáo viên cần phải thay đổi cách kiểm tra đánh giá cho phù hợp.
- Tiếp cận với phương pháp kiểm tra trắc nghiệm từ dễ đến khó .
- Ở trên đã đề cập tới việc kiểm tra từng phần để củng cố kiến thức, xong để các em làm được đề thi đại học thì cần xây dựng đề tổng quát 40 câu với thời gian 60 phút thi tốt nghiệp và 50 câu với thời gian 90 phút thi đại học.
- Giáo viên cần cho học sinh làm thử các đề với cách thức: câu dễ, câu đã biết làm trước vòng 1, sau đó quay lại liên hệ các kiến thức để trả lời các câu chưa làm được.
- Mặc dù vậy trang bị kiến thức chưa đủ mà giáo viên còn cần trang bị cho học sinh cách giải nhanh các đề thi trắc nghiệm..
- AaBBDd? Nếu học sinh ngồi viết sơ đồ lai phải mất 5-7 phút mới có thể có kết quả trong khi đó đề thi trắc nghiệm chỉ cho phép thời gian từ 1-2 phút / câu.
- Ở đây việc kiểm tra và sử lý bài kiểm tra như thế nào lại là một vấn đề cần giáo viên quan tâm.
- Giáo viên sau khi làm đề cần biết phân mức độ cho mỗi lần kiểm tra: Lần 1.
- Và sau mỗi bài kiểm tra dù là lớp ôn đại học cũng cần chữa bài, chấm điểm và theo dõi mức độ tiến bộ trong nhận thức của các em, thống kê các dạng câu hỏi xem dạng câu nào các em ít làm được nhất từ đó bổ trợ chỗ khuyết của các em..
- Để có được kết quả nhất định cho học sinh khi tham gia ôn luyện thi vào các trường đại học, cao đẳng và trung học trên toàn quốc thì giáo viên cần có những giải pháp hữu hiệu kể cả về nội dung ôn tập, phương pháp ôn tập cũng như hình thức kiểm tra.
- Cần tạo một nền tảng kiến thức và tâm lý bình tĩnh khi đã có trong mình vồn kiến thức khá chắc chắn..
- Việc ôn tập không nên tạo ra một trạng thái gò ép mà thật sự thoái mái với vốn kiến thức được gợi mở dần dần.
- Cách tiếp cận nội dung làm sao để học sinh không cảm thấy nhàm chán bởi đang ôn lại kiến thức đã học.
- hiện được những phàn việc quan trọng như vậy chính là giáo viên đã tạo ra cho học sinh động cơ và mục đích học tập đúng đắn, từ đó nhằm xây dựng một nền tảng kiến thức, tâm lý bình tĩnh.
- Chuẩn bị kiến thức và chuẩn bị phương pháp làm bài thi, đó là những gì mà chúng tôi đã chuẩn bị cho học sinh của mình..

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt