You are on page 1of 100

GIÁO DỤC VIỆT NAM THỜI CẬN DẠI

GIÁO DỤC VIỆT NAM THỜI CẬN DẠI

Tác giả: PHAN TRỌNG BÁU

LỜI NÓI ĐẦU

Nền giáo dục phong kiến khoa cử bằng chữ Hán ở nước ta kéo dài
hàng nghìn năm đến triều Nguyễn đã tỏ ra bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử:
Canh tân đất nước và chống xâm lược.

Trong khi đó thực dân Pháp đánh chiếm đất nước ta, tổ chức nền giáo
dục bằng chữ Pháp và chữ quốc ngữ, từng bước đẩy lùi nền giáo dục cổ
truyền và cuối cùng chiếm lấy vũ khí tinh thần này. Vì có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau như vậy, nên trước khi trình bày những nội dung chính, chúng
tôi xin giới thiệu sơ lược nền giáo dục phong kiến với những nội dung học tập
và thi cử.

Đi đôi với nền giáo dục chính thống của người Pháp, chúng tôi cũng
giới thiệu sự hình thành và phát triển của dòng giáo dục yêu nước và cách
mạng, một tổ chức giáo dục do các nhà yêu nước và các nhà cách mạng đề
xướng và lãnh đạo thực hiện trong quá trình tìm tòi hướng đi cho công cuộc
đấu tranh giành độc lộp dân tộc.

Để bạn đọc dễ theo dõi, nhiều thuật ngữ chuyên môn đồng nghĩa với
những thuật ngữ đang được sử dụng hiện nay, chúng tôi vẫn giữ nguyên và
chỉ chú thích một lần, ví dụ: sử ký (lịch sử), địa dư (địa lý), công dân giáo dục
(giáo dục công dân) v.v...

Phần phụ lục nhằm làm cho độc giả hiểu thêm những nội dung chưa
trình bày trong phần chính nhưng cũng trên những nét lớn mà thôi.
Nhân dịp cuốn sách ra đời, tác giả xin chân thành bày tỏ lòng cám ơn
PGS.TS Chương Thâu đã vui lòng đọc và viết lời giới thiệu cho cuốn sách
này.

Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng cuốn sách vẫn không tránh khỏi thiếu
sót, tác giả mong nhận được sự góp ý của tất cả bạn đọc.

Tác giả

LỜI GIỚI THIỆU

Cuốn sách Giáo dục Việt Nam thời cận đại gồm hai phần: Phần thứ
nhất- Sự hình thành và phát triển của nền giáo dục Việt Nam thời cận đại, đó
là nền giáo dục chính thống của người Pháp tổ chức trên đất nước ta; Phần
thứ hai - Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực giáo dục: Sự ra đời và phát triển của
dòng giáo dục yêu nước và cách mạng, do những nhà yêu nước sáng lập, đối
lập với nền giáo dục của người Pháp.

Khi mới đặt chân lên đất nước ta, người Pháp có tham vọng chỉ trong
ba thế hệ là có thể "Pháp hoá" được nền giáo dục của chúng ta, nghĩa là bắt
nhân dân ta phải nói và suy nghĩ bằng tiếng Pháp, dùng chữ Pháp, như họ đã
từng thực hiện thành công ở một số nước châu Phi. Nhưng chỉ sau một thời
gian, họ đã phải thừa nhận: "Việt Nam không phải là một nước bán khai mà là
một nước văn hiến lâu đời", do đó họ đã thất bại trong chính sách "Pháp hoá"
và phải thay đổi chiến thuật: "lấn dần từng bước". Sau hai lần cải cách giáo
dục năm 1906 và 1917, họ đã dần dần thay thế được nền giáo dục phong
kiến khoa cử chỉ có văn chương phú lục bằng nền giáo dục thực nghiệm có
khoa học xã hội và khoa học tự nhiên. Sau nhiều lần bổ sung chương trình, từ
năm 1930 trở đi, nền giáo dục này đã hoàn chỉnh với các hệ phổ thông, cao
đẳng, đại học và dạy nghề. Các dân tộc miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và
người Khơ-me Nam Bộ đều có trường lớp, sách giáo khoa riêng bằng tiếng
địa phương (chỉ 3 năm đầu, còn lên các lớp trên thì vẫn phải học theo chương
trình chung).
Đương nhiên, nền giáo dục chính thống này chỉ phục vụ cho lợi ích của
giai cấp thống trị nhưng chính nó cũng đã đào tạo được nhiều công nhân lành
nghề và một số cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ chuyên môn giỏi.

Những chuyển biến nói trên đã được tác giả trình bày rõ ràng theo từng
thời kỳ lịch sử. Tác giả cũng đã đánh giá đúng nền giáo dục thực nghiệm
trong đời sống văn hoá và kinh tế nước ta nhất là từ 1917 (sau cải cách giáo
dục lần thứ hai) trở đi qua đó lý giải một số vấn đề như lợi ích của việc đưa
chữ quốc ngữ vào các trường ấu học, hương học và ba lớp dưới bậc tiểu
học. Chẳng hạn: Tại sao ở bậc tiểu học, học sinh chỉ được học tiếng Pháp
không nhiều mà, lên trung học, các em vẫn có thể học hoàn toàn bằng tiếng
Pháp?; vấn đề La-tinh hoá ngôn ngữ của một số dân tộc ít người ở Bắc,
Trung và Nam Bộ v.v... Ngoài ra, tác giả cũng điểm đến những cái được và
chưa được của một số sách giáo khoa tiểu học như quốc văn, luận lý, sử ký...
và phân tích những tiến bộ của các cuốn sách quốc văn của lớp nhì đệ nhất
bậc tiểu học (40 bài tập đọc của Nguyễn Đức Phong và Dương Bá Trạc), Việt
văn giáo khoa thư, Việt Nam văn học sử yếu bậc trung học của Dương
Quảng Hàm.

Đó là nền giáo dục chính thống, còn với dòng giáo dục yêu nước và
cách mạng tác giả cũng đi từ những mầm mống có trong văn thơ của các sĩ
phu yêu nước đến các tổ chức giáo dục trong phong trào Đông Du, Duy Tân,
Đông Kinh Nghĩa Thục, đến các lớp huấn luyện cán bộ cách mạng của
Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu (Trung Quốc), "các trường học sau song sắt"
của các nhà cách mạng, đến Hội truyền bá Quốc ngữ, một tổ chức giáo dục
bình dân trước cách mạng tháng Tám do Đảng Cộng sản lãnh đạo... Với
những vấn đề này, tác giả cũng rất chú ý phân biệt nội dung yêu nước với tính
chất chính trị của nó, đành rằng hai yếu tố này có liên quan chặt chẽ với
nhau: giáo dục không những chỉ để hưng dân trí, chấn dân khí mà còn phải
đào tạo một đội ngũ cán bộ lãnh đạo có lý luận và thực tiễn cách mạng nhằm
đánh đuổi kẻ thù xâm lược, giành độc lập tự do cho đất nước.
Phần tư liệu khá phong phú, qua đó độc giả có thể hình dung được
chương trình các cấp học từ các trường chữ Hán sau cải cách giáo đục lần
thứ nhất (1906) đến các trường tiểu học, trung học Pháp - Việt sau cải cách
lần thứ hai (1917), chương trình của một số trường đại học Sư phạm, Luật
khoa, Y được, Mỹ thuật, Bách nghệ (Bá Công) Huế. Ngoài ra, còn một số đầu
đề thi lấy bằng Tuyển sinh, Khoá sinh, Thí sinh, một số đầu đề văn sách, địa
dư, cách trí, toán đố của kỳ đệ tam khoa thi Hương năm 1909, đầu đề văn
sách khoa thi Hội cuối cùng năm 1918, kèm theo bài làm của một số ông
nghè đỗ khoa ấy. Có thể nói, đây là những tư liệu rất ít người biết vì nó nằm
sâu trong các kho lưu trữ hoặc các thư viện lớn mà tác giả đã mất khá nhiều
công sưu tầm.

Qua một số nội dung đã trình bày, ta có thể thấy cuốn sách Giáo dục
Việt Nam thời cận đại của tác giả Phan Trọng Báu là một công trình khoa học
nghiêm túc chẳng những nó cho ta thấy bức tranh toàn cảnh của một giai
đoạn chuyển đổi, một bước ngoặt quan trọng của giáo dục ở nước ta từ giáo
dục khoa cử phong kiến sang nền giáo dục thực nghiệm mà còn có thể nhận
định một số vấn đề như: Nhân dân ta đã tiếp thu nền giáo dục thực nghiệm
của người Pháp như thế nào? Vì sao người Pháp không thể "Pháp hoá" được
dân tộc ta mặc dù họ đã xác lập được nền giáo dục trên đất nước ta? Tại sao
chúng ta có thể dạy bằng tiếng mẹ đẻ từ tiểu học lên đến đại học ngay sau khi
giành được độc lập? v.v...

Tác phẩm còn có thể có một vài điểm mà người đọc thấy nên làm sáng
tỏ hơn như tác động của giáo dục đối với nền kinh tế của nước ta hồi đó,
hoặc điểm vài nét về giáo dục sau học đường (post scolaire)... Nhưng có thể
vì độ dày của cuốn sách sẽ tăng lên mà tác giả không đề cập chăng?

Dù vậy, đây vẫn là một công trình khoa học hoàn chỉnh mà chúng ta có
thể tham khảo nhất là khi vấn đề cải cách giáo dục của nước ta đang được
triển khai và không phải không còn những vấn đề đang bàn cãi.

PGS.TS CHƯƠNG THÂU


Phần 1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC VIỆT
NAM THỜI CẬN ĐẠI

Trong khi nền giáo dục phong kiến đã suy tàn, bất lực trước nhiệm vụ
trọng đại của lịch sử là xây dựng và bảo vệ đất nước trước sự đe dọa của
một cuộc xâm lăng từ phương Tây, thì thực dân Pháp đánh chiếm đất nước
ta, từng bước xây dựng một nền giáo dục mới nhằm phục vụ cho cuộc xâm
lược và khai thác tài nguyên đất nước ta. Nền giáo dục mới này ngày càng
được mở rộng từ tiểu học đến trung học rồi cao đẳng và đại học. Tuy phải
qua nhiều chặng đường quanh co khúc khuỷu, phải cạnh tranh với nền Hán
học cổ truyền, mặc dầu đã có chính quyền trong tay nhưng họ vẫn không
giám áp đặt như lúc đầu mà phải luôn luôn rút kinh nghiệm về tổ chức, nội
dung, nghiên cứu kỹ tâm lý dân tộc và cuối cùng đã đạt được một nền giáo
dục tương đối hoàn chỉnh, khá hiện đại. Đó là những vấn đề được trình bày
trong phần thứ nhất.

Chương 1. GIÁO DỤC VIỆT NAM DƯỚI TRIỂU NGUYỄN - SỰ SUY


TÀN CỦA NỀN GIÁO DỤC PHONG KIẾN
I - VÀI NÉT VỀ NỀN GIÁO DỤC KHOA CỬ VIỆT NAM TỪ KHỞI
THUỶ ĐẾN THẾ KỶ XVIII

Trong quá trình dựng nước và giữ nước, nền giáo dục phong kiến Việt
Nam đã đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo nhân tài, đúng như Phan
Huy Chú nhận xét:" Con đường tìm người tài giỏi trước hết là khoa mục.
Phàm muốn thu hút người tài năng tuấn kiệt vào trong phạm vi của mình thì
người làm vua một nước không thể nào không có khoa cử". Tuy vậy, những
triều đại độc lập đầu tiên của đất nước như Ngô, Đinh, Tiền Lê vì thời gian tồn
tại còn ngắn ngủi, nội trị ngoại giao chưa ổn định nên cũng chưa có thì giờ để
thực hiện việc giáo dục. Đến triều Lý (1010 - 1225) sau khi đã giành được độc
lập dân tộc, Lý Thái Tổ cho đời đô ra Thăng Long, ra sức củng cố đất nước
mọi mặt, việc giáo dục cũng bắt đầu được xây dựng theo nền nếp chính quy.
Năm 1070 Lý Thánh Tông cho dựng Văn Miếu và năm 1076 lập Quốc Tử
Giám ở kinh thành để làm nơi học tập cho con em quý tộc và quan lại. Năm
1075 Lý Nhân Tông cho mở khoa thi Minh Kinh bác học đầu tiên. Những việc
làm trên chứng tỏ các vua triều Lý đã chú ý đến tổ chức giáo dục để đào tạo
nhân tài. Nhà Trần (1225 - 1400) thay nhà Lý, việc giáo dục lại càng được chú
ý hơn. Nhà Trần đã tổ chức những kỳ thi để chọn cử nhân và thái học sinh
(tiến sĩ) với những quy định chặt chẽ về mọi mặt. Nhưng phải sang thời Lê Sơ
(1428 - 1527), một giai đoạn cực thịnh của chế độ phong kiến dân tộc thì giáo
dục mới thật đi vào khuôn phép chặt chẽ. Nội dung giáo dục lúc này cũng như
các triều trước vẫn là mô phỏng theo nền giáo dục phong kiến Trung Quốc.
Từ khi cắp sách đi học cho đến lúc đi thi, các nho sĩ nhất thiết phải rèn luyện
theo khuôn khổ của Nho giáo, phải học tập những sách Tứ thư, Ngũ kinh và
tham bác sách của Bách gia chư tử, phải học cách làm thơ phú, văn sách,
kinh nghĩa như các triều trước, khi vào thi phải tuân theo những phép tắc hết
sức ngặt nghèo. Việc thi cũng được hoạch định một cách quy củ không tuỳ
tiện như trước. Từ năm Thiệu Bình thứ 5 (1438) trở đi, cứ ba năm có một
khoa thi hương ở các địa phương để lấy sinh đồ và hương cống (như tú tài và
cử nhân sau này). Cứ năm trước thi hương thì năm sau thi hội. Những người
đã đỗ hương cống đều được thi hội để chọn tiến sĩ. Những vị này thường
được dự kỳ điện thí trước mặt vua. Kỳ thi này chỉ phải làm một bài văn sách
hỏi về phép dùng người, phép trị dân đời xưa. Từ năm 1484, Lê Thánh Tông
quy định thứ bậc của các sĩ tử đỗ trong kỳ thi hội như sau:

- Đệ nhất giáp, tiến sĩ cập đệ: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa.

- Đệ nhị giáp (chính bảng): Tiến sĩ xuất thân.

- Đệ tam giáp (phụ bảng): Đồng tiến sĩ xuất thân.

Những người này đều được khắc tên vào bia đá dựng ở Văn Miếu,
được vua ban áo mũ và làm lễ vinh quy.

Có thể nói, các vua đầu triều Lê đều quan tâm đặc biệt đến giáo dục và
thi cử. Thi hội nhà vua đích thân ra đề văn sách, các đại thần phải làm đề điệu
và giám thí. Còn các kỳ thi hương được tổ chức nhiều nơi cùng một lúc nên
nhà vua thường xuyên xuống dụ nhắc nhở thể lệ thi cử, quy định những kỷ
luật cần thiết và cử quan hàn lâm đi làm khảo quan, nhờ vậy mà nhà nước đã
lựa chọn được nhiều người có thực tài làm nòng cốt cho công cuộc xây dựng
đất nước. Nếu như ở hai triều Lý, Trần tồn tại gần 400 năm mà chỉ có 18 khoa
thi hội với 319 người đỗ tiến sĩ thì sang triều Lê, chỉ trong 37 năm trị vì của Lê
Thánh Tông, triều đình đã mở 11 khoa thi hội chọn được 501 tiến sĩ. Có nhiều
khoa, Nhà nước lấy đến 50, có khi đến hơn 60 tiến sĩ. Có kỳ thi hương riêng
một trấn Sơn Nam đã gần 1000 người trúng tuyển. Tuy khoa mục mở rộng và
những người đỗ đạt nhiều, nhưng "cách chọn người công bằng. Đề thi ra vụ
hồn hàm đại thể không trộ bằng câu hiểm sách lạ... Chọn người cốt lấy rộng
học, thực tài... cho nên kẻ sĩ bấy giờ học được rộng rãi mà không cần phải
tìm tòi tỉ mỉ, tài năng được đưa ra ứng dụng mà không bỏ rơi. Trong nước
không để sót nhân tài, triều đình không dùng lầm người kém".

Đó là tình hình giáo dục thi cử khi chế độ phong kiến đang đi lên.

Sang thế kỷ XVII-XVIII, chế độ phong kiến bắt đầu suy yếu, vua chúa
ăn chơi xa xỉ, bòn rút của dân để xây lâu đài cung điện. Nội bộ giai cấp phong
kiến mâu thuẫn sâu sắc vì tranh giành địa vị, thoán đoạt ngôi vua, mỗi dòng
họ cát cứ một miền gây nội chiến triền miên, sức người, sức của bị vét vào
cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn. Không chịu nổi sự thông trị, nông đân
thường nổi lên chống lại và chiến tranh nổ ra liên miên. Đó là thế kỷ XVIII,
được mệnh danh là "thế kỷ khởi nghĩa nông dân". Do phải liên tục đối phó với
khởi nghĩa, nên vua chúa để mặc việc học hành, thi cử cho quan lại, bọn này
lợi dụng "đục nước béo cò" công nhiên ăn hối lộ, sĩ tử tự do mang sách vào
trường thi, thuê mướn người thi để được đỗ. Năm 1750, do thiếu tiền, Nhà
nước đã phải cho mỗi người đi thi được nộp ba quan để qua kỳ khảo hạch
nên người ta thường gọi những người này là "sinh đồ ba quan". Do đó, có
những người ít học cũng đi thi, đông đến nỗi xéo lên nhau chết ở cổng
trường. Còn trong trường thi, ngày trước chặt chẽ là thế mà lúc này thì vô
cùng hỗn loạn, nào mang sách, nào hỏi chữ, nào mượn người thay, không
còn kỷ cương gì nữa. Thi cử như thế đương nhiên không thể kén chọn được
nhân tài đích thực.

Những nét sơ lược trên đây cho ta thấy, khi chế độ phong kiến đang
thịnh thì nền giáo dục khoa cử có thể đào tạo được những người có năng lực
để giúp vua trị nước. Còn khi chế độ phong kiến suy yếu, kỷ cương lỏng lẻo
thì nền giáo dục đó cũng không thể đáp ứng được ý muốn của giai cấp thống
trị là tạo nên một tầng lớp nho sĩ có thực tài để duy trì mọi giường mối của xã
hội phục vụ cho chế độ phong kiến đang trên bước đường tan rã.

II - NỀN GIÁO DỤC PHONG KIẾN VIỆT NAM DƯỚI TRIỀU NGUYỄN

Triều Nguyễn tồn tại hơn 100 năm (từ 1802 đến 1945) nhưng trong
phần này chỉ trình bày từ đầu đến 1886 tức là sau khi nhà Nguyễn đã ký hoà
ước công nhận nền đô hộ của thực dân Pháp trên toàn bộ đất nước ta, Paul
Bert được cử làm tổng trú sứ Bắc Kỳ và Trung Kỳ đã có những cố gắng nhất
định để tổ chức nền giáo dục Pháp - Việt.

1. Tổ chức và nội dung giáo dục, thi cử thời Nguyễn

Chế độ phong kiến Việt Nam vốn đã suy yếu và đang đi xuống ở thế kỷ
trước, đến triều Nguyễn vẫn không thể tránh khỏi khủng hoảng toàn diện. Tuy
nhiên những ông vua đầu của triều đại này vẫn cố gắng xây dựng một xã hội
ổn định, vững mạnh nên rất chú ý đến giáo dục để đào tạo nhân tài. Khi mới
lên ngôi vua, Gia Long đã nói với đình thần "Học hiệu là nơi chứa nhân tài,
trẫm muốn bắt chước người xưa, đặt nhà học để nuôi học trò ngõ hầu văn
phong dấy lên, hiền tài đều nổi để cho Nhà nước dùng". Tuy vậy, mãi tới năm
1807 (tức là 5 năm sau), Gia Long mới mở khoa thi đầu tiên trong 6 trường từ
Nghệ An trở ra. Phép thi cũng giống như thời Lê, người đỗ tam trường gọi là
sinh đồ (tú tài), đậu tứ trường gọi là hương cống (cử nhân). Đó là khoa thi duy
nhất khi Gia Long ở ngôi, đến Minh Mệnh thì chế độ giáo dục khoa cử được
đưa vào nền nếp hơn.

Ngay từ năm thứ nhất (1820), Minh Mệnh đã cho chỉnh đốn lại Quốc Tử
Giám thành lập từ thời Gia Long, đặt học quan, định phép thi, lấy sinh viên,
cấp học bổng, đó là ở Kinh kỳ, còn ở các doanh, trấn, châu, huyện, Minh
Mệnh cho tổ chức lại các trường học, chọn các bậc "lão sư túc nho làm trợ
giáo". Sĩ tử trước khi đi thi phải đến châu, huyện học tập, khi đã hơi thông
kinh sách và biết làm văn thì cho đến doanh trấn để đốc học dạy. Mỗi năm hai
lần, trường này tổ chức những kỳ thi gọi là khảo khoá, chọn học trò đã tương
đối thông thạo nghề văn chương cử tử mới để đi thi, riêng những người xuất
sắc thì không phải chờ kỳ thi mà được vào thẳng Quốc Tử Giám. Đối với
dòng Tôn Thất, Minh Mệnh cũng chú ý hơn. Trước kia, Quốc Tử Giám chỉ thu
nhận có 60 người hoàng phái nhưng Minh Mệnh đã cho phủ Tôn Nhân duyệt
lại những ai có đủ tư cách thì cho sát hạch rồi chia ra từng hạng bổ vào hàng
ngũ "tôn học sinh viên". Năm Minh Mệnh thứ tư (1823), nhà vua lại cho ban
hành quy chế Tập thiện đường là nơi giảng dạy các hàng tử. Với việc ban
hành những luật lệ mới này, Minh Mệnh muốn tạo nên một tầng lớp quý tộc
có học thức để làm nòng cốt cho chính quyền phong kiến. Bộ máy quản lý
giáo dục của triều Nguyễn không có gì thay đổi so với triều Lê, nhưng để đề
cao trách nhiệm của các học quan và tăng cường chất lượng của đội ngũ này,
năm Minh Mệnh thứ 14 (1843), triều đình ban bố những thể lệ thưởng phạt
như học trò khảo hạch, hoặc thi hương phải ghi tên học ở đâu để bộ Lễ có
thể theo dõi việc dạy dỗ của học quan. Học trò trong hạt dầu đỗ nhiều nhưng
không phải học của quan Huấn, quan Giáo địa phương thì cũng phải đưa ra
xét rồi mới khen thưởng, tuy vậy nơi nào văn học mới nhen nhóm thì có châm
chước... Đối với đốc học làm việc lâu năm và có thành tích thì được triệu về
Kinh và đặc cách cho làm ty viên ở Lục bộ.

Trên đây là sơ lược về bộ máy quản lý giáo dục thời Nguyễn. Bây giờ
ta hãy xem nho sĩ thời Nguyễn học những gì?

Trẻ con khi lên 7, 8 tuổi bắt đầu đi học vỡ lòng ở các trường làng, thầy
đồ thường cho học những sách dạy tiếng một như Nhất thiên tự” (một nghìn
chữ) Tam thiên tự (ba nghìn chữ) v.v..., mục đích là để cung cấp cho trẻ một
số mặt chữ Hán làm vốn học những quyển sau, rồi đến sách Sơ học vấn tân
nghĩa là bắt đầu học hỏi bến (hỏi bến nghĩa bóng là hỏi đường lối về việc
học), Ấu học ngũ ngôn thi (thơ năm tiếng dùng để trẻ con học). Đó là sách
của ta soạn, ngoài ra còn phải học những sách của Trung Quốc như Thiên tự
văn (sách một nghìn chữ), Hiếu kinh (của Tăng Tử) Minh Tâm bảo giám
(gương quý soi sáng cõi lòng), Minh đạo gia huấn (sách trong nhà của Minh
Đạo tức Trình Hiệu đời Tống) và nhất là Tam tử kinh (sách ba chữ), một cuốn
sách mà bất kỳ trẻ em nào mới đi học đều phải thuộc lòng.

Sau khi học xong những cuốn sách vừa kể trên, học sinh bắt đầu học
sang Tứ thư và Ngũ kinh là những bộ sách kinh điển của Nho giáo đồng thời
là những tác phẩm văn học cổ đại Trung Quốc.

Nền giáo dục dưới triều Nguyễn không có khoa học tự nhiên, tuy triều
đình cũng có một vài cơ sở để đào tạo những người làm việc ở toà Khâm
Thiên giám. Ở đây, có hai khoa: một là cách suy tính theo lịch, hai là phép
xem thiên văn. Mỗi khoa phải học trong 3 năm. Khoa suy tính theo lịch năm
thứ nhất học phương pháp suy tính lịch Hợp Kỷ; năm thứ nhì dạy phương
pháp làm lịch Thất Chính; năm thứ ba dạy phương pháp suy tính nhật thực,
nguyệt thực và ngày nên làm việc gì, kiêng việc gì, nên bỏ thêm những điều
gì.

Khoa thứ hai là thiên văn cũng học trong 3 năm. Năm thứ nhất dạy về
hình thể 28 vì sao chính và những sao Thiên thi, Thái vi, năm thứ hai, thứ ba
dạy lấy chỗ đóng của 5 sao, cùng là hình thể của các sao mà bản đồ Trung và
Tây kết hợp lại vẽ ra những phần đất thuộc về 28 ngôi sao chính nói trên. Đây
không phải là một trường đào tạo, nhà vua thường giao cho các viên chánh
giám và phó giám dạy theo lối kèm cặp mỗi năm một hai người, dạy có kết
quả thì có thưởng, dạy kém thì bị phạt. Còn mục đích và nội dung học như
vậy thì không thể phục vụ cho đời sống và sản xuất được mà chỉ cốt xem
ngày tốt, xấu như đã nói trên và đoán định "điềm trời".

Việc học tiếng nước ngoài đặc biệt là tiếng Pháp đã trở thành cấp bách
từ những năm 50 của thế kỷ XIX. Nó không còn là một ngôn ngữ dùng trong
ngoại giao mà còn để hiểu địch, tìm hiểu khoa học kỹ thuật hiện đại, đặc biệt
là vũ khí mới của phương Tây. Thế mà mãi tới năm 1868, Tự Đức mới cử
được 5 người vào Gia Định học tiếng Pháp (trước đó cũng đã phái Nguyễn
Hữu Bào đi theo Trương Vĩnh Ký để học). Tiếng Pháp ở đây dạy hãy còn sơ
sài vì người Pháp cũng chỉ mới mở trường đào tạo thông ngôn cho quân đội
của họ và một ít nhân viên hành chính. Mấy năm sau, Tự Đức có cho mở
trường Hành Nhân ở Huế và mượn cố đạo về dạy tiếng Pháp.

Phương pháp học như sau:

Mỗi ngày học ba câu dài (6, 7 từ trở lên) hoặc 4 câu ngắn (4, 5 từ trở
xuống).

Mỗi năm kiểm tra hai lần vào tháng 6 và tháng 12, nội dung gồm:

- Soạn một công văn bằng chữ Hán và dịch ra tiếng Pháp.

- Viết một bài ám tả, chữ phải đẹp, ngay ngắn, đúng chính tả.

- Học thuộc lòng trơn tru.

Cả ba môn, nếu học thuộc từ 200 câu trở lên là hạng ưu, 100 câu là
hạng bình, dưới 100 câu là hạng thứ.

Với cách thức học như trên, trường Hành Nhân cũng chỉ đào tạo ra
thông dịch chứ cũng chưa thể nào có trình độ ngoại ngữ để nắm được khoa
học kỹ thuật. Do đó, năm 1875, Bộ Lại trình lên Tự Đức những công trình rất
quan trọng về quân sự và khoa học kỹ thuật như Cổ kim võ bị, Binh thư tập
yếu, sách dạy chế đạn phá và phát hoả (đạn cháy), sách dạy về kỵ binh, bộ
binh, sách dạy về những quy tắc nói và viết tiếng Pháp v.v... nhưng không tìm
ra người dịch, ngay cả những người Pháp dạy ở trường Hành nhân như Linh
mục Hoằng, Linh mục Đăng cũng bó tay.

Như vậy, ta thấy nội dung giáo dục của triều Nguyễn chủ yếu vẫn là
như các triều đại trước, còn thi cử thì cũng vậy, chỉ có khác là nhà Nguyễn
không lấy Trạng Nguyên mà chỉ lấy Tiến sĩ. Những người đậu nhất, nhì ba,
đều gọi là Tiến sĩ cập đệ (nhất giáp). Những người đậu nhị giáp đều gọi là
Tiến sĩ xuất thân, đến đệ tam giáp thì gọi là đồng tiến sĩ xuất thân. Dưới tiến
sĩ còn có phó bảng mà các triều trước chưa có, mục đích của học vị này là để
"khỏi bỏ sót nhân tài", thi Hương thì đổi hương cống ra cử nhân và sinh đồ ra
tú tài. Ngoài cách lựa chọn quan lại bằng khoa cử, triều Nguyễn còn có lệ
cống cử "để cho những người vốn tài giỏi mà bị bó buộc chưa lộ ra được có
thể ra giúp nước".

Nội dung thi cử Triều Nguyễn cũng tương tự triều Lê. Thi Hương và thi
Hội đều có ba kỳ chính còn có năm thì thêm một kỳ đệ tứ, thí sinh phải làm
chiếu, chế, biểu. Trong các bài thi người ta chú ý đặc biệt đến kinh nghĩa và
văn sách là những môn cơ bản để xem trình độ thông hiểu kinh sử và kiến
thức quảng bác của thí sinh.

2. Triều Nguyễn và công cuộc cải cách giáo dục

Những nội dung giáo dục và thi cử vừa trình bày trên cho ta thấy tính
chất lạc hậu của nó trước thực tế xã hội. Các triều vua nối tiếp Gia Long đều
đã thấy rõ điều đó. Một lần Minh Mệnh hỏi Nguyễn Hữu Thận "Trẫm lâu nay
chú trọng đến văn học, ý muốn bồi bổ nhân tài mà chưa được bao nhiêu,
hoặc sự cất nhắc người còn ti tiện, còn chưa được như cổ nhân chăng?" Hữu
Thận nói: "Sự dạy bảo phần nhiều chưa được người giỏi, cho nên nhân tài ít
có người thành đạt". Phải chăng tại giáo chức như lời tâu của Nguyễn Hữu
Thận? Điều đó có một phần nhưng là ngọn còn cái gốc của nó phải tìm ở nội
dung giáo dục mà nội dung này lại là sản phẩm của chế độ chính trị. Chế độ
phong kiến Việt Nam đã trở nên lỗi thời từ những thế kỷ trước, triều Nguyễn
tuy có nhiều cố gắng để duy trì kỷ cương, xây dựng một xã hội vững mạnh,
nhưng đã bất lực, càng về sau càng bộc lộ những mâu thuẫn lớn không thể
khắc phục nổi như tư tưởng bảo thủ trước yêu cầu đổi mới của đất nước.
Cho nên, nếu nhà Nguyễn cứ duy trì nền giáo dục cổ lỗ thì không thể tìm thấy
nhân tài là điều tất yếu. Đến Tự Đức thì ngay khoa thi đầu tiên lúc mới lên
ngôi, ông đã phải nói với Trương Đăng Quế "Đình đối khoa này chỉ có hai
quyển được 4 phân, so với khoa trước có phần kém", do đó Tự Đức ra sức
canh cải học chế để mong tìm được nhân tài. Cái kém của sĩ tử hồi đó không
phải là không thuộc kinh sử mà chính là họ chỉ biết có kinh sử, ngoài ra họ
không biết hoặc biết rất nông cạn những vấn đề của thực tế xã hội mà Tự
Đức thường gọi là "thời vụ" hoặc "thực điển". Để bổ cứu việc này, năm Tự
Đức thứ 4 (1851) trong kỳ thi chế khoa, Tự Đức đã chỉ thị cho các khảo quan
về yêu cầu của văn sách là: Đầu bài hỏi cần được đạt lý hơn, pháp độ lớn,
kinh điển, đạo nước rõ ràng. Bài làm trả lời cần được bày tỏ từng việc, nghị
luận rộng rãi đầy đủ để giúp công việc trị nước, chớ không nên xét kỹ về đời
cổ mà sơ lược về đời này.

Đến năm 1853, Tự Đức lại ra lệnh cho các tỉnh là phải chú ý rèn luyện
cho học trò hiểu được việc thời vụ ngay từ hạng đại tập (học trò tập trung học
ở tỉnh để chuẩn bị thi Hương); văn sách phải chú trọng hỏi sự trạng thực điển;
về phú nêu không vạch rõ hết được mà nghĩ phỏng theo ý chỗ khác dẫn vào
thì dẫu hay cũng không lấy; về thơ thì dù ngũ ngôn hay Đường luật đều một
bài ra về một điển hay một cảnh khiến cho học trò văn chương và thực tế đều
tốt.

Mặc dầu vậy, mãi đến năm 1873 tức là 20 năm sau, Tự Đức vẫn than
phiền là sĩ tử thực học kém cỏi, nghị luận tầm thường và trong một khoa điện
thí Tự Đức đã đánh hổng một lúc 4 quyển đã lọt vào kỳ đệ tứ. Tự Đức lại chỉ
thị cho các học thần: Từ nay trở đi, trong Kinh ngoài tỉnh các quan coi việc
học cùng học trò phải lấy thực hành làm đầu; sau đến lời lẽ văn chương và
Tự Đức cũng quy định cụ thể là học trò phải chú ý học những việc như "làm
ruộng, thuế khoá, sai dịch, lễ nhạc, binh hình cho đến những việc trị loạn xưa
nay, việc thi thố chính trị hiện thời”. Ta thấy ý kiến của Tự Đức là chính xác,
ông muốn cho những người sẽ ra giúp nước phải là những người hiểu biết
thực tế về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, quân sự của ngay chính trên đất
nước mà họ đang sống chứ không phải xa xôi gì. Đó là một yêu cầu hoàn
toàn đúng đắn, nhưng muốn vậy thì triều đình hay đúng hơn là cơ quan chịu
trách nhiệm về giáo dục phải cải tiến một bước chương trình, nội dung học
tập. Những điều này Minh Mệnh đã nghĩ tới, Tự Đức có nhìn ra nhưng rất hạn
hẹp và vẫn là những mô phỏng của Trung Quốc. Từ năm 1833, Minh Mệnh đã
chỉ thị cho bộ Lễ: "Xét rõ thể văn tam trường của Bắc triều, xem bài nào bình
chính thông suốt có thể là mẫu mực, chọn lấy 30 bài kinh nghĩa, bát cổ, 20 bài
thơ ngụ ngôn và thất ngôn có nêu hai chữ "phú đắc" ở đầu, 20 bài phú luật,
10 bài văn sách, viết tinh tường thành 31 bộ, chia cho Quốc Tử Giám và học
quan các địa phương, cứ theo đây mà dạy học trò học tập". Nhưng đến năm
1871, Tự Đức lại ban cho các tỉnh sách Lịch sử đại thông giám tập lãm của
vua Càn Long nhà Thanh (mà năm Minh Mệnh thứ 18 và Tự Đức thứ 2 đã
ban rồi) và chỉ thị: "Đem bộ sách ấy cùng với sách Ngũ kinh, Tứ thư đại toàn,
gia tâm giảng dạy, đến kỳ thi đem những lời nghị luận và chế độ to tát trong
sách ấy để hỏi học trò".

Bắt học trò đọc sách của nhà Thanh cùng với Tứ thư, Ngũ kinh của thời
viễn cổ Trung Quốc để từ đó rút ra những điều bổ ích cho hiện trạng đất
nước, đó là cái vòng luẩn quẩn chứng tỏ vua tôi Tự Đức vẫn chưa thoát ra
khỏi sự lệ thuộc của Trung Quốc. "Thực điển", "thời vụ" của Việt Nam là phải
xuất phát từ mảnh đất người ta đang sống, từ xã hội người ta đang nhận biết
hằng ngày, nhưng các vua quan triều Nguyễn chỉ đòi hỏi ở người đi học mà
không chỉ giáo cho họ một hướng cụ thể, cho nên Minh Mệnh rồi đến Tự Đức
dù có cố gắng để "canh cải học chế" mà nhân tài vẫn thưa vắng. Tự Đức
cũng tỏ ra ít nệ cổ nên trong phép thi ngoài những phần như ra bài đã nói
trên, nhà vua còn bắt bộ Lễ "Tra lại điển lệ, châm chước bàn định phép thi thế
nào để có thể lấy được nhiều người, không bỏ sót người tài". Nhưng rồi
những người chịu trách nhiệm lựa chọn nhân tài cho đất nước cũng chỉ đề ra
được:

- Thi hương kỳ đệ tam chú ý đến văn sách và thời vụ

- Thi hội kỳ đệ tứ hỏi về văn sách hơn 10 đoạn; về Ngũ kinh, Tứ thư và
các sách sử về thời vụ trên dưới 4, 5 đoạn, cốt được mười phần rộng khắp.

- Các phó bảng vẫn được vào đình đối.

Có thể nói đó là những cải cách chính về giáo dục mà Minh Mệnh và
Tự Đức đã tiến hành. Nhưng ta thấy sau nhiều năm sửa đổi chất lượng của sĩ
tử vẫn không hơn gì trước, mặc dầu yêu cầu hay đúng hơn quan niệm về
"người tài" của Tự Đức không quá hẹp hòi. Ông cho rằng, người tài là những
người "có hiếu liêm, công chính đức hạnh thuần thục, có thể vỗ yên được
người phong nhã và kẻ thô tục, người tài trí sâu rộng kiến thức cao xa có thể
làm được việc lớn, người giỏi trị dân vỗ yên phải phép, đánh giữ tất thành
hiệu có thể làm tướng soái được, người theo về giấy tờ làm cho người xa
phục theo có thể sung chức đi sứ được, người giỏi về lý tài chấn chỉnh việc
hộ, có thể làm bộ trưởng được; người học vấn sâu rộng, văn chương cổ kính
tao nhã, có thể làm cố vấn được, cho đến các người công nghệ khéo, kỹ
thuật giỏi, có thể chế tạo được đồ vật và làm thuốc, xem bói, xem số, xem
ngày...".

Như thế, nghĩa là nhân tài không bó hẹp trong việc văn hoặc võ mà
phải là những người tinh thông một hoặc nhiều mặt về kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội, quân sự, kỹ thuật. Những cải cách về giáo dục của Tự Đức cũng
muốn tạo ra những nhân tài như quan điểm của ông, tuy vậy, những cải cách
về nội dung học tập, về thi cử cũng chưa thoát khỏi sự lệ thuộc về nền giáo
dục Nho giáo của Trung Quốc nên không thể đem lại kết quả như Tự Đức
mong muốn.

III - SỰ BẤT LỰC CỦA NỀN GIÁO DỤC PHONG KIẾN

1. Nhà Nguyễn và việc tiếp xúc với nến giáo dục thực nghiệm
phương Tây

Từ lâu các vua nhà Nguyễn cũng đã thấy được những lợi ích rất to lớn
và thiết thực của khoa học kỹ thuật phương Tây, cho nên, năm 1839, Minh
Mệnh đã cho sở Võ Khố đóng tàu chạy bằng máy hơi nước, Tự Đức cũng cho
mua nhiều tàu biển như Đằng Huy, Mẫn Thoả, Mẫn Thiệp của Pháp, Viên
Thông của Đức. Năm 1875, thợ ta đã đúc được ống khói và một số bộ phận
của máy tàu Mẫn Thoả... Trước đó, năm 1860 triều đình đã cử Nguyễn
Trường Tộ cùng giám mục Gôchiê đạo trưởng Nguyễn Đình và hai viên quan
Trần Văn Đạo, Nguyễn Tăng Doãn sang Pháp mượn giáo sư, thuê chuyên gia
mua sắm máy móc để mở một trường kỹ nghệ. Nhưng sau khi Pháp chiếm ba
tỉnh phía tây Nam Kỳ, tình hình bang giao giữa ta và Pháp trở nên căng
thẳng, triều đình lo sợ, nghi ngờ phái đoàn Nguyễn Trường Tộ nên gọi ông về
nước trước thời hạn. Nguyên nhân gì đã làm cho vua quan triều Nguyễn, nghi
ngờ, thiếu tin tưởng, do dự khi tiếp xúc tuy chỉ một phần rất nhỏ với nền giáo
dục thực nghiệm phương Tây? Đó là tư tưởng cho mình là hơn phương Tây,
chê văn minh vật chất là "dâm xảo" (say mê cái đẹp). Vũ Phạm Khải cho Nhật
Bản là "Đông đi" nên mới đi học "Tây di", còn ta "con Rồng cháu Tiên không
thèm đi học kẻ mọi rợ". Do tầm nhìn hạn hẹp, cho nên họ lo sợ tốn kém mà
không đem lại lợi ích thiết thực. Minh Mệnh khi chọn người sang Pháp du học
- mà cũng chỉ để làm thông dịch thôi - cũng ngại "Chọn một người sang Pháp
học tập, nếu người ấy thuần cẩn, thì thấy phong cảnh nước ngoài không ngăn
được lòng nhớ đất nước, mà việc học không được chăm chỉ, còn người
hoang đãng thì đi về tốn kém cũng chỉ phí mất công phu, rút cục chẳng có ích
gì". Minh Mệnh còn lấy gương Hoàng tử Cảnh sau khi đi Pháp về không chịu
bái yết tôn miếu đã làm Gia Long phải lo sợ và hối hận vì đã cho Cảnh sang
Pháp: "Lấy đấy mà suy ra, phong tục nước ấy dễ làm mê đắm lòng người,
thực đáng ghét".

Tuy nhiên, nói đến việc tiếp xúc với nền giáo dục lúc bấy giờ, ta không
thể không nói đến thái độ của Tự Đức đối với những điều trần về cải cách
giáo dục của Nguyễn Trường Tộ. Đồng thời với Nguyễn Trường Tộ cũng có
một số người có những ý kiến về cải cách giáo dục như Đặng Xuân Bảng,
Đặng Huy Trứ, Phạm Phú Thứ v.v... nhưng chỉ là những đề xuất từng phần,
chưa ai có những ý kiến toàn diện như Nguyễn Trường Tộ. Trong Bản điều
trần số 18 viết năm Tự Đức thứ 19 (1866), ngoài việc nói về mở các trường
quốc học, tỉnh học và các trường tư, ông còn đề nghị mở các trường chuyên
nghiệp để nghiên cứu, chế biến lâm sản, hải sản, luyện kim, trồng rừng;
nghiên cứu cách đắp đê phòng lụt, trị thuỷ, phòng hạn, chú trọng nghề làm
thuốc, du nhập những thổ sản nước ngoài; nói chung là những nghề rất thiết
thực cho quốc kế dân sinh, dễ học, dễ làm. Năm sau, Tự Đức thứ 20 (1867)
trong bản Tám việc cần làm gấp (Tế cấp bát điều) ông lại trở lại vấn đề "Sửa
đổi học thuật, chú trọng thực dụng". Sau khi đã phân tích những sai lầm về
giáo dục của triều đình, ông đã đề ra một chương trình cải cách toàn diện nội
dung giáo dục, biên soạn lại sách giáo khoa kết hợp giữa khoa học hiện đại
phương Tây và khoa học cổ truyền của dân tộc, cải cách chữ viết, cải cách thi
cử v.v...

Những đề nghị cải cách giáo dục cũng như toàn bộ điều trần của
Nguyễn Trường Tộ đều được triều đình Tự Đức xem xét, bàn bạc, nhưng
không thực hiện. Triều đình đã để qua đi những điều kiện quan trọng về canh
tân đất nước trong đó có đổi mới nền giáo dục dân tộc.

2. Sư bất lực của nền giáo dục phong kiến triều Nguyễn trước lịch
sử

Triều Nguyễn, nhất là từ Tự Đức (1848) trở đi, giáo dục đã tỏ ra không
đáp ứng được yêu cầu của lịch sử. Chính Tự Đức cũng thấy rất rõ điều này
và ông đã quan tâm rất nhiều đến sửa đổi việc dạy dỗ học trò và sửa đổi phép
thi sao cho phù hợp với đòi hỏi thực tế của đất nước. Tự Đức đã ra nhiều chỉ
dụ cho các học thần phải chú ý đến "thực điển" và trong các kỳ đình đối ông
cũng rất quan tâm đến những đối sách về nội trị và ngoại giao. Nhưng những
người chịu trách nhiệm về giáo dục cũng bị ràng buộc trong cái học Nho giáo
mà họ đã được đào tạo rất kỹ lưỡng, cũng không đề ra được những kế sách
gì hay, họ cho Tứ thư, Ngũ kinh là khuôn vàng, thước ngọc. Nguyễn Đức Đạt
(1823 -1887) một nhà nho uyên bác đã đào tạo ra nhiều nhà khoa bảng nổi
tiếng một thời cũng đã từng nói: "Tóm hết sự biến trong thiên hạ, thông suốt
tình hình trong thiên hạ, không sách nào rõ bằng Kinh Dịch. Nêu lên chế độ
cho thiên hạ, bồi thực cội gốc cho thiên hạ không sách nào bằng Kinh Thư.
Thu thập trí tuệ của thiên hạ, giúp đỡ việc trị an cho thiên hạ không sách nào
rõ bằng Kinh Thi. Chấn chỉnh quyền bính trong thiên hạ, không sách nào rõ
bằng Kinh Xuân Thu. Châm chước điển tác trong thiên hạ, không sách nào rõ
bằng Kinh Lễ.

Do quá coi trọng sách kinh điển Nho giáo trong học tập cũng như thi
cử, cho nên những "thời vụ" và "thực điển" đều hoàn toàn tuỳ thuộc vào sáng
kiến cá nhân, họ không có sách dạy những điều đó. Những vấn đề Tự Đức
lưu ý học trò trong khi học phải chú ý đến "lễ nhạc, binh hình đến việc trị loạn
xưa nay, việc thi thố chính trị hiện thời..." là phù hợp với đòi hỏi của đất nước
lúc đó nhưng vì họ không được học tập đúng theo yêu cầu nên khi gặp câu
hỏi về những vấn đề "thực điển" thì họ trả lời rất chung chung hoặc hoàn toàn
sai lệch, đó lại là những điều nhà nước đang cần giải đáp. Trong đầu đề ra
cho kỳ thi Đình năm 1868, Tự Đức hỏi: "Từ xưa đến nay, các chuyện bình trị
loạn lạc, các việc làm đúng sai, sự việc nào hợp với người xưa mà cũng có
thể áp dụng cho nay hoặc riêng có sáng kiến hợp thời mà không trái với
vương đạo thì hãy trình bày..." Khi ra câu hỏi này hẳn rằng Tự Đức muốn
được nghe những kiến giải sâu sắc của các ông nghè, ông bảng về nội trị
ngoại giao khả dĩ ứng dụng vào tình hình đất nước lúc đó, nhưng tiến sĩ Bùi
Ước cũng chỉ trả lời: "Phải cân nhắc làm sao đến được chỗ trung dung thì
trăm việc được thích đáng...". Còn tiến sĩ Nguyễn Tái thì khuyên nhà vua
"Trên học Thang, Võ, dưới noi Hán, Tuyên, chính thể thì chuộng khoan hoà
nhân ái, pháp lệnh thì cần giản tiện, nghiêm túc", "Đến được chỗ trung dung",
"học Thang, Võ, noi Hán, Tuyên", các ông nghè đều lấy những sự việc đã
được tổng kết, hoặc soi mình vào gương người xưa, việc xưa của Trung
Quốc để làm đối sách cho việc đời nay của đất nước!

Trong một khoa khác, khi vua hỏi về vũ khí của Pháp và cách chế ngự,
đây quả là một việc vượt ra ngoài sách vở và khả năng hiểu biết của sĩ tử vì
họ làm gì được biết, được học những điều đó! Lê Khắc Cần đã trả lời "Súng
của chúng đặt ở hai bên mạn tàu, đầu và đuôi tàu hẹp không đủ chỗ để. Chỗ
cửa sổ lồng kính chắc là nơi ở của tướng giặc và chứa thuốc súng. Tấn công
đầu và đuôi tàu thì chắc thắng, bắn đúng cửa sổ thì súng nổ mà bọn Tây bị
thiêu". Câu trả lời của Lê Khắc Cần đúng ít, sai nhiều, nhất là khi ông đoán
chỗ ở của tướng giặc cũng là nơi chứa thuốc súng thì quá sai, điều đó ngày
nay một người bình thường ai cũng biết. Nhưng ta không nên trách Lê Khắc
Cần, ông có thể chỉ thấy tàu giặc ở dưới sông mà chưa hề biết đâu là những
điều tối thiểu của câu tạo một pháo thuyền vì không có sách nào dạy học trò
đi thi những "thực điển" này.

Đó là trình độ kiến thức của các quan nghè tân khoa vào những năm 60
của thế kỷ XIX, khi Pháp chiếm xong Nam Kỳ, triều đình đã ký điều ước cắt
đất giảng hoà và đương nhiên là phải chuẩn bị lực lượng đối phó với những
âm mưu xâm lược toàn quốc của người Pháp. Còn các đại thần lương đống
của triều đình, những người đã qua "cửa Khổng, sân Trình" đang đứng trước
sự còn mất của đất nước thì cũng ít có kiến giải gì sáng suốt mà họ chỉ vận
dụng một cách máy móc những cái đã học vào thực tế xã hội qua chủ quan
của họ. Đó là chưa nói đến tư tưởng thiếu tự tin, rụt rè, nhút nhát đã làm ảnh
hưởng lớn đến đại sự của đất nước. Không hiểu khoa học tự nhiên, do đó họ
không tin những thành tựu về khoa học - kỹ thuật phương tây là xác thực. Tự
Đức nói: "Gần đây có người suy tôn phương pháp Thái Tây có phải là kiến
thức chân xác vượt lên trên cổ nhân hay cũng chỉ nói thuội về hùa? Mà theo
cách lập thuyết của họ thì không có ngũ hành tương sinh tương khắc, như thế
thì đã trái lý và không hợp với cổ nhân rồi, còn lấy gì mà suy tôn họ nữa".

Theo vua quan Tự Đức thì bất cứ cái gì trái với cổ nhân đều không
đúng, cho nên họ lên án văn minh vật chất. Nguyễn Văn Siêu trong Chư gia
Thiên chúa giáo bị khảo, viết: "Sở dĩ họ làm cho người ta say đắm... không có
gì khác hơn dâm xảo là một, hoá lợi là hai. Nước họ không những kỹ nghệ cơ
xảo mà đến nhà ở, đồ dùng, cái mặc cái ăn đều là lộng lẫy, đủ làm cho tai mắt
người ta lay động, vua trên, tôi dưới đều là thương nhân cả, họ sinh lợi rất dễ
cho nên lôi cuốn người ta rất mau. Than ôi! Dâm xảo và hoá lợi di chuyển
lòng người đến thế nào!" Đối với giặc ngoại xâm thì cũng vận dụng cái học
vấn phiến diện để ứng xử và đã gây những tác hại vô cùng to lớn. Nguyễn Bá
Nghi cho rằng, vũ khí và tàu của giặc là vô địch, ta không thể chống nổi nên
ông ta chủ hoà "Trừ một chước hoà, tôi xin chịu tội". Phan Thanh Giản,
Trương Đăng Quế cũng chủ hoà nhưng lại nhận định về kẻ địch một cách sai
lệch: "Họ và ta vốn không gần nhau, không thể thôn tính nhau, họ chỉ đòi bồi
thường lớn vô biên để no cái sở dục của họ mà thôi". Còn kế sách ngoại giao
với giặc sau khi chúng đã chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ là "Viết thư trách
Pháp hãy lấy nghĩa lý mà nói, xem họ nếu chỉ muốn thông thương như cũ
hoặc xin bỏ cấm đạo mà họ tự rút lui thì ta cho giảng hoà cũng chẳng hại gì.
Nếu họ dối trá, chẳng đánh mà cũng chẳng hoà thì ta cũng chỉ cố sức thủ mà
thôi". Đó là ý kiến của nhóm đình thần Võ Đức Nhu, Phạm Thanh, Lê Khắc
Cần.

Còn cử nhân Vũ Phạm Khải lại vận dụng Bắc sử để biện hộ cho
phương pháp suy nghĩ chủ quan của mình: "Thuở xưa bắn Hậu Nghệ không
hề dùng cây cung của Hậu Nghệ, giết Hạng Vũ không phải dùng thanh kiếm
của Hạng Vũ, trừ giặc Hung Nô đâu có cần ngựa tốt, tên độc của Hung Nô
mà chỉ dùng chước hay quan giỏi của nhà Hán, cũng như đánh Tần, Sở đâu
có phải dùng ngay giáp bền dao bén của Tần, Sở mà chỉ dùng cây gậy của
Tề, Lương. Cổ ngữ nói: Thấy sự quái, mình đừng thèm cho là quái lạ, tự
nhiên sự quái lạ ấy tự hết, thấy cọp đừng sợ, tự nhiên cọp phải sợ mình. Nay
các anh đừng tâng bốc người Tây dương là tài là khéo thì họ có khoe khoang
tài khéo được với ai”.

Có lẽ không cần phải phân tích cũng thấy được cái phương pháp suy
nghĩ chủ quan, sai lầm và nguy hiểm của Vũ Phạm Khải. Giả sử, ông ta đứng
trước họng súng đại bác của kẻ thù liệu ông ta có dám "đừng thèm" cho là
viên đạn kia không thể bắn sập tường thành không? Và liệu "tự nhiên" giặc nó
sợ mình không? Ấy thế mà những bầy tôi như Vũ Phạm Khải, Phan Thanh
Giản, Trương Đăng Quế... đều là những nhà khoa bảng được Tự Đức tin cậy,
là những người sớm tối được bàn bạc việc nước!

Nền giáo dục phong kiến dưới triều Nguyễn như đã trình bày tồn tại
qua hai thời kỳ: khi đất nước còn độc lập và khi thực dân Pháp bắt đầu gây
chiến tranh xâm lược và thôn tính nước ta. Trong cả hai giai đoạn đó, nền
giáo dục này đều bộc lộ một tính chất chung là quá cũ kỹ và lệ thuộc vào nền
giáo dục phong kiến Trung Quốc. Tuy vậy, ở giai đoạn sau, khi đất nước phải
đối mặt với kẻ thù thì trong các khoa thi nhà vua đều chú trọng đến thực tế xã
hội, đòi hỏi những nhà quản lý đất nước phải giải quyết. Đặc biệt, trong các
bài văn sách thi Đình (đình đối) nhà vua luôn hỏi về nội trị, ngoại giao và trong
quan niệm về nhân tài cũng có thay đổi, rộng rãi và toàn diện hơn. Tuy nhiên,
những nhà lãnh đạo và quản lý giáo dục chưa có biện pháp cụ thể tạo điều
kiện cho người đi học tiếp cận với cái mới, để họ có điều kiện giải đáp những
câu hỏi lớn đang đặt ra. Do đó, cả một thời gian khá dài, nền giáo dục vẫn cứ
dậm chân tại chỗ mà không tạo ra được những kết quả phù hợp với nhiệm vụ
lịch sử mà nó phải gánh vác. Những nhận định trên cho phép ta đi đến kết
luận: Nền giáo dục Việt Nam dưới chế độ nhà Nguyễn đã đi đến chỗ suy tàn.

Chương 2. GIÁO DỤC CỦA THỰC DÂN PHÁP THỜI KỲ ĐẦU Ở NAM
KỲ (1861-1885)

I - NHỮNG TRƯỜNG HỌC Ở NAM KỲ TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU


(1861 -1867)

Ngày 1-9-1858, thực dân Pháp nổ súng vào cửa biển Đà Nẳng xâm
lược nước ta, bị quân và dân ta chống lại quyết liệt, quân Pháp phải đổi
hướng tiến công quay vào Gia Định. Bốn năm sau họ đã buộc triều đình Huế
ký hoà ước cắt đất ba tỉnh miền Đông Nam kỳ và sau 5 năm (1867) ba tỉnh
miền Tây cũng bị thôn tính, toàn bộ Nam Kỳ bị đặt dưới quyền cai trị của các
đô đốc. Đó là giai đoạn đầu của chiến tranh xâm lược. Không đợi đến khi
chiếm xong toàn bộ Nam kỳ mà ngay sau khi lấy được Chí Hoà vào 25 - 2 -
1861, ngày 21 tháng 9 năm ấy đô đốc Charner đã ký nghị định thành lập
trường Bá-Đa-Lộc để dạy tiếng Pháp cho người Việt và dạy tiếng Việt cho
người Pháp. Mục đích của trường này rất rõ ràng: Đào tạo những thông dịch
cho đội quân xâm lược và những thư ký làm việc trong các cơ quan hành
chính. Mặc dầu đã được chuẩn bị một phần nhưng thông dịch viên vẫn không
thể đủ cho một đội quân viễn chinh đông đến hàng chục nghìn người. P. Vial
đã viết: "Đối với một nước thực dân, chướng ngại khó khăn nhất phải khắc
phục đứng trước những dân tộc bị chinh phục là sự khác biệt về ngôn ngữ".
Chính những người nông dân dũng cảm của Nam Kỳ lợi dụng sự kém hiểu
biết về ngôn ngữ của quân Pháp đã dẫn chúng vào những ổ phục kích của
quân ta và chúng đã bị tiêu diệt. Đến khi chiếm được đất, việc khác nhau về
tiếng nói và chữ viết lại càng gây cho nhà cầm quyền Pháp nhiều trở ngại.
Muốn ra một thông cáo, hay chỉ thị thì trước tiên phải viết bằng tiếng Pháp, từ
tiếng Pháp phải dịch ra chữ nôm rồi mới dịch ra chữ Hán. Cho nên, việc đào
tạo thông dịch và thư ký (nho sĩ - lettré) là vô cùng khẩn cấp. Trường Bá-Đa-
Lộc nói trên do giáo sĩ Croc và Linh mục Thu, người Việt, phụ trách, ngoài ra
còn có hai thông dịch viên đang phục vụ trong quân đội Pháp.

Thực ra, đây chỉ là một cơ sở đào tạo nhân viên phục vụ cho quân đội
viễn chinh và chiêm đóng của thực dân Pháp. Giáo dục chưa mang tính chất
rộng rãi, những trường này cũng là nơi đào tạo ra những thầy giáo cho các
trường học sau này. Bonard người kế tục Charner dự kiến tổ chức nền giáo
dục phổ thông như sau:

- Nâng từ 30 đến 100 suất học bổng cho trường Bá-Đa-Lộc để mở rộng
hơn nữa việc đào tạo thông dịch viên và thư ký.

- Ở ba tỉnh mới chiếm (Biên Hoà, Gia Định, Định Tường) sẽ duy trì nền
giáo dục cũ như của triều đình Huế. Ở mỗi tỉnh vẫn có đốc học, phủ huyện, có
giáo thụ và huấn đạo. Đốc học trực tiếp trông coi trường học của tỉnh, các học
sinh sẽ được tuyển lựa ở các kỳ khảo hạch từ phủ huyện lên. Dưới các xóm
làng vẫn duy trì các trường học chữ Hán như cũ. Việc thi hương và thi hội
cũng sẽ được tiến hành theo thường lệ ba năm một lần. Tóm lại, Bonard chủ
trương duy trì hoàn toàn chế độ học hành thi cử như cũ, trừ việc khuyên
khích học trò học thêm chữ Pháp. Những chủ trương này bị nhiều ý kiến phản
đối ngay trong nội bộ bọn họ vì nó sẽ "khôi phục lại trên đất Nam Kỳ những
trường học hoàn toàn chống đối lại nền thống trị của chúng ta" và "một điều
chắc chắn rằng những kỳ thi sẽ làm cho chúng ta hết sức lúng túng, vì với
một thiểu số người Pháp không thể kiểm soát nổi việc học hành và xuất bản
sách, và các thầy đồ sẽ lợi dụng cơ hội để quây rối dân chúng và kích động
họ chống lại chúng ta". Những lý do khá xác đáng đó đã làm chủ trương của
Bonarđ không thể thực hiện được. Họ lại định cử những người đã tốt nghiệp
trường Bá-Đa-Lộc về các làng để dạy chữ quốc ngữ, nhưng vì số này quá ít,
chỉ đủ phục vụ trong quân đội nên chủ trương này chỉ có trên giấy tờ. Ở các
làng người ta vẫn tiếp tục học chữ Hán.
Ngày 16-7-1864, đô đốc De La Granđière ra nghị định tổ chức một số
trường tiểu học ở các tỉnh để dạy quốc ngữ và dạy toán. Họ cho xuất bản cấp
tốc ba cuốn sách giáo khoa, một về các mẫu chữ quốc ngữ, hai cuốn về số
học và hình học sơ giản. Để thay thế cho các tập sách đọc mà họ chưa kịp
biên soạn, đồng thời để tuyên truyền cho chế độ thuộc địa họ đã phát đến tận
tay các học sinh tờ Nguyệt san thuộc địa hoặc tờ Gia Định báo. Các quan cai
trị cũng rất quan tâm đến công việc này, thanh tra nội chính trực tiếp đôn đốc
việc tổ chức và dạy đỗ trong các trường. Ngay De La Grandière mỗi khi đi
công cán cũng thường ghé thăm các trường học, cho quà và trực tiếp góp ý
với các giáo viên về phương pháp sư phạm hoặc một chi tiết trong nội dung
giảng dạy. Đầu năm 1867, họ bắt đầu gửi 12 học sinh sang Pháp, cuối năm
đó lại gửi thêm 15 người nữa. Tuy vậy, "Tình hình bước đầu của những
trường học quả là vất vả. Dân chúng mới bị chinh phục và chưa thích nghi với
sự quan tâm của các quan cai trị, không hiểu và không thể hiểu nổi tư tưởng
rất đỗi quảng đại của chúng ta. Do đó những lời kêu gọi đối với những người
chủ gia đình cho con em đi học đều được coi như là một cách bắt lính, chủ
làng đi bắt trẻ con như người ta bắt thuế".

Ở một vài làng theo đạo Thiên chúa, tình hình có khá hơn đôi chút vì trẻ
con ở đây đã được tập đọc trong sách Kinh thánh chứ không phải trong
những mảnh Gia Định báo. Về nhà chúng lại đem các sách đó và sự tích các
Thánh mà chúng đã được phát đọc cho người trong gia đình nghe. Thế là
mục đích giáo dục coi như đã có thành quả, vì đó là trường của Giáo hội
Thiên chúa. Bởi vậy khi thấy bọn trẻ ỏ trường này đọc chữ quốc ngữ, bập bẹ
một vài tiếng Pháp và làm được 4 phép tính thì Vial đã tỏ ra rất lạc quan: "Bây
giờ vấn đề chỉ còn là nhân số trường của chúng ta lên và phát triển cái mầm
mống quý giá của công cuộc chinh phục tinh thần này". Nhưng rồi Vial tự thấy
đánh giá như vậy là quá sớm vì một điều cũng rất cơ bản mà họ không thể
thoả mãn ngay được là tổ chức giáo dục rộng rãi cho 2000 làng ở Nam Kỳ lúc
bấy giờ. Chính Vial cũng phải thừa nhận là một công việc quá to lớn và ông ta
cho rằng "Trong một thời gian khá lâu nữa người ta sẽ còn bắt buộc phải giữ
chương trình như chúng ta đang thực hiện" (tức là vẫn phải để cho các làng
dạy chữ Hán còn trường dạy quốc ngữ và chữ Pháp thì chỉ mở ở mức độ cho
phép). Điều đó là có cơ sở vì sau 6, 7 năm mò mẫm họ chỉ mới tổ chức được
ở Nam Kỳ 58 trường học (trong đó có hai trường của Giáo hội) với 1368 học
sinh.

II - NHỮNG THAY ĐỔI VỀ TỔ CHỨC VÀ NỘI DUNG GIÁO DỤC TỪ


1868 ĐẾN 1885

Từ năm 1868 đến năm 1885 là thời kỳ thực dân Pháp mở rộng chiến
tranh xâm lược ra toàn quốc, cuối cùng đã đạt mục tiêu là buộc triều đình Huế
phải ký hoà ước công nhận quyền đô hộ của họ trên toàn bộ đất nước ta. Giai
đoạn này, giáo dục của họ cũng chỉ mới mở rộng được ở Nam Kỳ còn ở Bắc
và Trung Kỳ là đất mới chiếm nên chưa tổ chức được gì.

Ở Nam Kỳ, Pháp đã đầu tư vào công thương nghiệp, khai thác một
phần tài nguyên lúa gạo, nhân công rất dồi dào ở địa phương. Năm 1864, họ
bắt đầu xây dựng thành phố Sài Gòn, mở xưởng Ba Son, mua máy móc ở
Pháp sang lắp đặt, sửa chữa tàu thuyền, một số tư bản thương nghiệp thu
gom lúa gạo để xuất khẩu, ngân hàng "Comptoir d Escompte" (Ngân hàng
chiết khẩu) đã lập chi nhánh ở Sài Gòn. Những chủ tư bản này đều có đại
diện trong Hội đồng thành phố và có tiếng nói trên các diễn đàn kinh tế, văn
hoá... về giáo dục, mặc dầu đã qua gần 10 năm mở trường học nhưng họ
cũng chưa tạo ra được một hình mẫu giáo dục tương đối ổn định để mở rộng
ra khắp Lục tỉnh. Nhiều ý kiến vẫn còn tranh cãi về nội dung, tổ chức giáo dục
trong đó có các sĩ quan cấp cao cầm đầu chính quyền, những "thực dân văn
hoá" rất am hiểu tình hình Nam Kỳ và cả tư bản công thương nghiệp như đã
nói trên.

1. Những lúng túng trong việc tổ chức giáo dục cho toàn xứ Nam
Kỳ

Sau khi chiếm xong toàn bộ Nam Kỳ, đô đốc Lagrandière cho mở ở mỗi
tỉnh lỵ một trường tiểu học do một số thông dịch viên làm thầy giáo. Chương
trình chỉ có học đọc, học viết chữ quốc ngữ, giáo viên được trả mỗi ngày một
franc và những học sinh biết đọc biết viết cũng được trả như vậy. Những
người này được phép trở về làng của mình mở trường dạy học. Năm 1867,
nhà cầm quyền tổ chức một kỳ thi chung cho các thuộc địa và phát phần
thưởng ở trường trung học Bá-Đa-Lộc là trung tâm giáo dục ở Nam Kỳ hồi đó,
đồng thời cũng tổ chức bồi dưỡng các giáo viên tập sự và giáo viên chính
thức. Giáo viên được chia thành 2 bậc: bậc một là những người có thể dịch
tiếng Pháp ra tiếng Việt, mỗi năm 60 france và bậc 2 mỗi năm 300 franc cho
những người có thể dịch tiếng Việt ra tiếng Pháp và làm 4 phép tính. Ngày 22-
6-1868, một quyết định cho phép trường Bá-Đa-Lộc nhận những học sinh mới
theo học dở dang ở trường trung học Pháp về vì thiếu ngân sách.

Cũng trong năm này đô đốc Lagranđière tổ chức một trường tiểu học
cho con Pháp kiều (công chức và nhà buôn). Trường này ngoài hai bậc sơ
đẳng tiểu học và cao đẳng tiểu học còn có một lớp đào tạo thông địch người
Pháp và người Việt, dạy theo chương trình trung học.

Ngày 10-7-1871, đô đốc Dupré lại cho thành lập ở Sài Gòn một trường
Sư phạm với 60 giáo sinh, tất cả đều được học bổng.

Đầu năm 1873, nhà cầm quyền tổ chức hội nghị giáo dục toàn Nam Kỳ,
mong tìm giải pháp cụ thể cho việc định ra một đường lối giáo dục để đưa
công tác này lên những bước mới hơn - Một điểm mà hầu như toàn thể hội
nghị đều phải thừa nhận là việc tổ chức giáo dục trong 10 năm qua đã bị thất
bại, vì nhân dân vẫn học chữ Hán mà không mấy ai đến trường dạy chữ quốc
ngữ và chữ Pháp.

Về nguyên nhân, họ cũng nhất trí với nhau là thiếu am hiểu tình hình
của một dân tộc có nền văn minh từ mấy nghìn năm, do vội vã, thiếu chuẩn
bị, chủ quan: "cái sai lầm nhất là đòi thay thế triệt để, toàn bộ nền giáo dục
của xứ này bằng việc học chữ La-tinh". Đã vậy, nhà cầm quyền lại không hề
lưu ý đến sách giáo khoa, mặc dầu cũng đã có ý kiến là phải biên soạn sách
lịch sử, dịch những sách triết học của Trung Quốc, và đặc biệt là thiếu từ điển
Pháp - Việt - La tinh và Việt - Hán - La-tinh là những công cụ rất cần thiết cho
các thông dịch, các thầy giáo cũng như những người phải làm việc giấy tờ ở
các cơ quan hành chính. Trong cuộc tranh luận ta thấy nổi lên hai loại ý kiến
chính: Một là của các chủ tư bản mới sang Nam Kỳ, có quyền lợi gắn chặt với
đất này. Hai là những người ở cơ quan Nội chính am hiểu khá sâu sắc tình
hình nước ta. Những ý kiến này rất trái ngược nhau cũng là nguyên nhân làm
cho các sĩ quan cai trị lúng túng trong khi định ra đường lối giáo dục.

a) Những ý kiến của các nhà kinh tế

Quan điểm cơ bản của những người này là muốn nhanh chóng áp đặt
một nền giáo dục hoàn toàn bằng tiếng Pháp, gạt bỏ hẳn chữ Hán nhằm
"đồng hoá" hay "Pháp hoá" xứ Nam Kỳ, sớm đặt vào quỹ đạo khai thác cùng
với các thuộc địa ở châu Phi để tăng nhanh lợi nhuận. Họ cho rằng: Nền giáo
dục của chúng ta trước hết, trên hết là bằng tiếng Pháp... Đó là một nền giáo
dục thực dụng và phải đi đến một mục đích nhất định. Bằng cách phổ cập hoá
tư tưởng và văn hoá (không phải về hình thức mà là nội dung) mà người ta
giáo dục tính thần yêu nước. (Ở đây, có nghĩa là yêu nước Pháp, trung thành
với nước Pháp - TG). Bằng phổ biến một cách liên tục những nguyên tắc về
tài năng của người Pháp trong dân chúng mà chúng ta Pháp hoá người Việt."

Về biện pháp, để thực hiện những vấn đề trên, họ cho rằng phải học
phương pháp tuyên truyền của Giáo hội, in nhiều sách, phát không "đồng thời
với giáo dục, các ông sẽ phổ cập hoá tư tưởng và chữ La-tinh, làm như thế
các ông sẽ nện một đòn chế tươi chữ Hán, kẻ kình địch nguy hiểm nhất".

Đối với nền giáo dục phong kiến dạy bằng chữ Hán mà chính nhà cầm
quyền lúc đó cho là vấn đề đau đầu nhất thì họ cũng thấy không có gì khó
khăn, thậm chí không cần dùng biện pháp chính quyền mà: "lấy văn học đối
lập với văn học; với chữ Hán lấy chữ Latinh ra chọi lại, lấy tư tưởng chọi lại
với tư tưởng, hình thức chọi với hình thức". Còn chữ quốc ngữ, họ thừa nhận
là một cái máy rất khoẻ nhưng lắp ráp vụng về nên hiệu lực kém, cho nên cần
phải làm thế nào phổ biến nhanh chóng hơn nữa, phổ cập bằng biện pháp
chính quyền tức là bắt người ta đọc và viết. Họ cũng không quên nhắc đi
nhắc lại biện pháp có hiệu lực mà Giáo hội Thiên chúa đã làm cách đây mấy
thế kỷ, lúc đó vẫn đang có hiệu quả Là biên soạn sách và phát đến tận tay
học sinh. Nếu làm được như vậy sẽ dễ dàng xoá bỏ chữ Hán, sẽ tạo cho chữ
quốc ngữ một vị trí quan trọng vì "sớm muộn cũng sẽ thành phương tiện trực
tiếp giao lưu tinh thần với Bắc Kỳ và Nam Kỳ". (TG nhấn mạnh). Họ cho rằng,
một vài cuốn sách giáo khoa đã in ra chưa đủ làm người đọc thích thú, cho
nên cần hy sinh một số nội dung nặng nề về tuyên truyền mà nên gợi tò mò
bằng cách in những truyện cười của Việt Nam hay của Pháp cũng được, như
thế sẽ làm cho học trò cũng như độc giả thích thú hơn. Khi người ta đã ham
đọc loại sách đó rồi, họ sẽ đưa ra những nội dung khác phục vụ cho chính trị
được đầy đủ hơn.

Không phải những người này chỉ phát biểu về đường lối chung, mà còn
đề cập cả lĩnh vực chuyên môn về văn học, ngôn ngữ học. Theo họ để diễn
đạt một khái niệm trừu tượng mà tiếng Việt chưa có, có thể dùng một từ gốc
Pháp kết hợp với một từ Việt đồng nghĩa để tạo một từ mới chỉ một khái niệm
cụ thể. Họ cho rằng, nếu thực hiện được những ý kiến trên sẽ "làm cho người
An Nam học tiếng Pháp so với ngày nay dễ dàng hơn nhiều"

Rõ ràng, đây là những ý kiến xuất phát hoàn toàn từ chủ quan của các
chủ tư bản, không hiểu gì về đất nước và con người Việt Nam. Quan điểm
này đã bị phá sản từ đầu, do đó, không có tiếng vang nào đối với tổ chức giáo
dục lúc đó.

b) Phương án Luro

Năm 1874, nhà cầm quyền Pháp tổ chức cơ quan Học chính Nam Kỳ
để nghiên cứu và chỉ đạo giáo dục trong toàn xứ. Loại ý kiến làm nền tảng
cho đường lối giáo dục từ sau khi cơ quan này được thành lập là của Luro.
Trong bài giảng ở trường Tham biện (trường đào tạo chủ tỉnh) dưới đầu đề
"Nền giáo dục ngày xưa so với quốc ngữ ngày nay", Luro đã phân tích khá
sâu sắc về nền giáo dục phong kiến. Đó là một nền giáo dục hoàn toàn tự do
về mặt tổ chức và rất chú trọng luân lý đạo đức. Ngay từ lúc mới học vỡ lòng,
đứa trẻ vừa làm quen với mặt chữ đã tiếp thu dần dần những nguyên tắc về
nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội, Luro phê phán người Pháp đã gạt bỏ
tất cả những cái đó. Thay cho những thầy giáo cao tuổi có đạo đức được mọi
người trọng vọng là những tên nhãi nhép vừa mới được đào tạo trong những
năm đầu tiên khi người Pháp mới tới xứ này, chúng chỉ mới biết đọc biết viết
và làm 4 phép tính; kiến thức của thầy như vậy thì làm sao truyền thụ nhiều
cho học sinh? Cho nên, lũ trẻ con ở các làng gửi đến cũng chỉ biến thành
những con vẹt biết viết.

So sánh kết quả của nền giáo dục phong kiến và nền giáo dục mới của
Pháp, Luro cho rằng: Đối với nền giáo dục bằng chữ Hán, biết đọc biết viết có
nghĩa là thấm nhuần những điều cơ bản về đạo đức, luân lý trong các sách
vở kinh truyện tức là đã tiếp thu sự giáo huấn và học tập vì ông thầy không
bao giờ quên hai điều đó. Còn đối với nền giáo dục của Pháp thì đứa bé chỉ
học đọc học viết trong một vài cuốn sách mà thầy giáo rất ít rút ra những kết
luận về luân lý, cho nên đứa bé không được giáo dục một tí gì về đạo đức,
nghĩa là đứa bé chỉ được một nhúm kiến thức thô sơ và cũng chỉ có thế mà
thôi. Cho nên, Luro đã đánh giá: "Sự thực kết quả các trường học của chúng
ta gần như không có gì".

Luro chỉ ra nguyên nhân những sai lầm đi đến thất bại trong nền giáo
dục của người Pháp những năm qua là vì: Người Pháp đã quá nóng vội,
muốn làm cho người dân quên hết phong tục, tập quán, ngôn ngữ và có
người đã tính toán một cách đơn giản rằng bắt hai triệu người dân học chữ
Pháp còn dễ hơn bắt năm chục viên chức cai trị học tiếng Việt. Và, Luro đã
đưa ra một phương án bổ cứu tương đối toàn diện, đại lược như sau:

- Không nên nóng vội mà phải đi sâu vào tâm lý nhân dân, vì đó cũng là
một điều kiện cai trị bằng phương pháp đồng hoá". Phải hiểu rằng, phong tục,
ngôn ngữ, luật pháp của một dân tộc không phải dễ dàng thay đổi trong vài ba
năm. "Phải tìm hiểu những thứ đó, hướng dẫn người dân bị trị đi theo ý định
của ta, muốn vậy ta cũng phải học chữ Hán".

- Không nên đóng cửa các trường dạy chữ Hán mà cứ để cho họ dạy
như thường nhưng bắt buộc các thầy giáo dạy chữ Hán phải học quốc ngữ và
dạy lại cho học trò. Luro cho rằng, việc này không khó, vì ông ta đã thấy có
người học chữ quốc ngữ trong hai tháng, nếu mỗi ngày dạy một giờ chữ quốc
ngữ mà trả từ 200 đến 300 franc (trong một năm) thì tất cả các thầy giáo đua
nhau mà đi học. Lại phải dùng cả chữ quốc ngữ, chữ Hán để phổ biến khoa
học, làm cho nền văn minh của nước Pháp thâm nhập vào nhân dân.

- Việc phổ biến tiếng Pháp thì đầu tiên phải dựa vào lớp công chức
quan lại mới và các nhà giàu. Phải làm sao để nhân dân thấy rằng, tiếng
Pháp là cái cửa ngõ mà mọi người phải qua để đi tới con đường khoa học.
Trong các trường thì nên dạy cho học sinh về khoa học là sở trường của
người Pháp. Đó là phương pháp duy nhất để quần chúng hoá trường học và
thu hút người dân thuộc địa vào quỹ đạo của văn minh, khoa học.

- Đào tạo những người "cộng sự" là một việc họ cũng đang gặp nhiều
khó khăn thì Luro cho rằng phải làm sao cho những người này vừa là nho sĩ
vừa là công chức, vừa là thông địch và không nên biến họ thành những con
vẹt. Như thế thì quá vô dụng, vì họ phải am hiểu đường lối chính trị của nước
Pháp và thực hiện dưới sự kiểm tra đôn đốc của chính quyền. Cuối cùng,
Luro cũng nói rằng vì công chức, chủ yếu là giáo viên còn quá trẻ, cần phải
tuyển dụng những người từ 25 đến 30 tuổi và do đó nên kéo dài thêm thời
gian đào tạo.

Ta thấy ý kiến Luro khá chính xác, vì Luro đã nghiên cứu tương đối sâu
sắc văn hoá - giáo dục, do đó, Luro cũng nắm bắt được một số đặc điểm của
truyền thống giáo dục, văn tự, ngôn ngữ, tập quán và Luro cũng hiểu được
việc xoá bỏ những cái đó không phải dễ dàng. Luro đã tỏ ra không vũ đoán,
chủ quan như các chủ tư bản ở Sài Gòn đã đưa ra những biện pháp khó chấp
nhận và đã thất bại. Tuy nhiên, Luro cũng khá chủ quan khi đưa ra ý kiến bắt
các quan cai trị phải học chữ Hán. Đó là một việc làm đầy khó khăn vì hầu hết
họ đều xa lạ với loại chữ tượng hình, do đó ý kiến này bị phản đối kịch liệt mà
tiêu biểu là Philastre. Philastre cho rằng, biện pháp xoá bỏ chữ Hán như Luro
đề xuất là sự nghiệp của nhiều thế kỷ, là nhìn quá xa, làm như vậy có khi sai
mục đích. Theo Philastre, một người Việt Nam được xem là học thức phải là
một người hiểu biết về xứ sở của họ qua chữ Hán. Bởi vậy, người Pháp vẫn
phải dạy những nội dung như người Việt Nam đã học từ trước tới nay, nhưng
phải thay chữ Hán bằng chữ quốc ngữ. "Người ta sẽ không từ chối học chữ
La tinh, nhất là nếu tiếng An Nam sẽ được đưa ra bằng bản dịch của một vài
tác phẩm sơ đẳng và cổ điển Trung Quốc. Nếu sau đó người ta có thể cung
cấp cho học sinh những sách viết bằng tiếng An Nam, chứa đựng những tư
tưởng mới đối với họ, họ sẽ tiếp tục theo học, chữ Hán sẽ mất một phần uy
thế và người An Nam sẽ bắt đầu viết tiếng nói của họ". Tuy vậy, ý kiến của
Luro vẫn được nhà cầm quyền cấp cao để ý, vì chẳng những Luro là "một cái
đầu xuất sắc nhất trong cơ quan thanh tra", mà còn là "một trong những sĩ
quan am hiểu tường tận nhất đất nước và nhân dân Nam Kỳ". Ngay từ đầu,
những năm 70, chính Luro đã đề ra và được các đô đốc chấp nhận việc mở
trường Tham biện để đào tạo chủ tỉnh, Thanh tra nội chính. Những ý kiến về
đường lối giáo dục trên, chính là một trong những bài giảng quan trọng của
Luro trong trường này.

2. Những phương án của Lafont và Lemyre de Viler

Mặc dầu đã thành lập cơ quan học chính toàn xứ Nam Kỳ vào năm
1874, nhiều cuộc tranh luận đã nổ ra giữa các chủ tư bản Pháp mới sang
Nam Kỳ với các Thanh tra nội chính như đã trình bày trên, nhưng mãi ba năm
sau tình hình vẫn không có gì chuyển biến hơn. Tình trạng thiếu thầy giáo và
học trò phải "bắt như bắt lính" vẫn tồn tại phổ biến. Cho tới tháng 3-1879,
Lafont ký một quyết định tổ chức giáo dục ở Nam Kỳ theo hệ thống 3 cấp, bãi
bỏ tất cả những trường đã tổ chức theo quyết định ngày 17-11-1874 của phó
đô đốc Krant. Theo quyết định mới này, mỗi huyện đều có một trường cấp
một, như thế tất cả 20 trường, 6 trường cấp hai, trường trung học Chasseloup
Laubat (thành lập năm 1871) sẽ dạy cấp ba nhưng tạm thời dạy cấp 1, còn
trường Bá-Đa-Lộc sẽ dạy 3 cấp. Bước đầu chữ Hán được duy trì; các trường
làng vẫn hoạt động nhưng có sự kiểm soát của nhà chức trách.

Cấp I học ba năm, chương trình gồm tiếng Pháp, bốn phép tính, cách
đo lường, chữ Hán và chữ quốc ngữ chỉ học đến một mức độ nhất định, đủ
để biết đọc biết viết.

Cấp II học 3 năm, tiếng Pháp bao gồm: tập đọc, tập viết, ngữ pháp, tập
đối thoại. Môn toán thì học phân số, quy tắc tam suất, chiết khấu, hình học sơ
giải: những khái niệm đại cương về hình học, vẽ theo dòng và vẽ kỹ thuật.
Học sinh bắt đầu học lịch sử và địa lý Việt Nam, chữ Hán và chữ quốc ngữ
vẫn tiếp tục học. Cuối cấp này có một kỳ thi lấy bằng sơ học (brevet
élémentaire) và được học lên cấp ba.

Cấp III học 4 năm, chương trình như cấp 2, nhưng mở rộng và nâng
cao hơn, ngoài ra có một số môn mới như thiên văn, sinh vật, địa chất. Tất cả
những môn này đều học bằng chữ Pháp, riêng môn tiếng Pháp sẽ học hết
ngữ pháp; toán học hết số học, đại số học hết phương trình bậc hai; hình học:
hình học phẳng, đại cương về lượng giác... về chữ Hán ở cấp này phải học
thứ tự, tiếp tục học lịch sử, địa lý Việt Nam ngoài ra còn phải tập làm thêm
phú, văn sách... Cuối cấp ba có thi tốt nghiệp, người đậu sẽ được cấp bằng
cao đẳng (brevet supérieur). Quyết định này cũng nói cụ thể về giáo viên: mỗi
trường cấp một có một hiệu trưởng người Pháp; cấp hai: 2 giáo viên người
Pháp, một giáo viên người Việt; Cấp ba thì 4 giáo viên người Pháp một giáo
viên người Việt. Số giáo viên này quy định cho 45 học sinh kể cả cấp một cho
đến cấp 2 và cấp 3.

Rõ ràng, chương trình này có nhiều điểm dựa trên ý kiến của Luro như
thời gian đào tạo và nhất là địa vị chữ Hán vẫn chiếm một tỷ lệ khá lớn trong
chương trình học các cấp. Thực ra, nếu chương trình này có chú ý ít nhiều
đến "tâm lý của một dân tộc vốn có nền văn minh lâu đời" thì nó vẫn rơi vào
không tưởng, thiếu cơ sở thực tế nhiều mặt.

Một là, trong khi đề ra mỗi huyện phải có một trường cấp một thì tác giả
của chương trình lại bỏ trống mất cơ sở là tổng và xã. Vậy những đơn vị hành
chính nhỏ nhất ấy sẽ học chữ Hán hay chữ Pháp và chữ quốc ngữ? Nếu học
chữ Hán thì bao giờ mới có thể loại trừ được thứ chữ tượng hình ra khỏi đời
sống văn hoá của nhân dân, liệu đến năm 1882 tất cả công văn giấy tờ có thể
dùng hoàn toàn bằng chữ quốc ngữ như ý định của Lafont được không?

Hai là, nếu chương trình này được thực hiện thì lấy đâu ra một số lớn
giáo viên người Pháp và người Việt để cung cấp cho 20 trường cấp một hàng
huyện, 6 trường cấp 2 hàng tỉnh? Đó là chưa nói đến những cơ sở vật chất
khác như trường sở, bàn ghế, nơi ăn chỗ ở cho giáo viên, và đặc biệt là sách
giáo khoa, ngoài những quyển sách biên soạn lỗ mỗ cách hàng chục năm đã
bị thời gian vượt qua, hầu như người ta chưa có sách giáo khoa. Ngay như ở
trường trung học Chasseloup Laubat học sinh của một lớp mà theo dõi bài
tập đọc trong từng trang sách cũ kỹ của 3 quyển khác nhau, còn ở các trường
khác thì chỉ có những mảnh Gia định báo rách nát, nói chi đến số lớn sách
giáo khoa phải cung cấp theo phương án tổ chức của quyết định mới này. Do
đó, phương án 19-3-1879 cũng không thể ra đời.

Lemyre de Viler thay Lafont, có ý định áp dụng một nền giáo dục với nội
đung như ở Pháp nhưng dạy bằng chữ quốc ngữ, chữ Hán gần như bị xoá bỏ
hoàn toàn. Một số giáo viên người Pháp được đưa sang để dạy tiếng Pháp.
Nghị định ngày 14-6-1880 để trường trung học Chasseloup Laubat dạy ba
cấp, Mỹ Tho mở thêm một trường trung học, Chợ Lớn mở một trường cho
Hoa Kiều và lai Hoa Kiều. Ngày 2-7-1880, ở Sài Gòn, lại tổ chức thêm một
trường cho cả nam và nữ học sinh từ 6 tuổi đến 12 tuổi, có hai giáo viên
người Pháp và hai người Việt. Trong số 12 trường huyện đã tổ chức từ trước
thì 3 trường biến thành ngoại trú với các giáo viên người Pháp, 2 trường giao
lại cho các giáo sĩ và trở thành trường công giáo, 7 trường khác vì dạy tồi quá
nên phải sáp nhập với trường tổng. Còn các loại trường tổng, xã thì do những
cơ sở này tổ chức và tự lo lấy kinh phí. Trường học thì đã chắp vá như vậy,
giáo viên còn là một vấn đề nan giải hơn, mặc dầu đã có một số người Pháp
mới đưa sang nhưng không thấm vào đâu. Đa số giáo viên người Việt là thư
ký của sở Nội vụ, một số khác tuy không đủ trình độ nhưng vẫn phải dùng. Họ
không hề được đào tạo về sư phạm, do đó mọi chế độ của trường, ngay cả
chương trình, thời khoá biểu cũng khá tuỳ tiện vì do họ tự vạch lấy. Đã thế họ
còn bị bạc đãi, chỉ được trả lương từ 7 đến 15 đồng một tháng, nghĩa là "gần
như số tiền người ta trả cho một tên đầy tớ bình thường nhặt ở đâu đó".
Trong khi ấy những giáo viên người Pháp dạy cùng cấp thì được trả lương
gấp 10 lần 15 lần thậm chí đến 20, 30 lần! Do đó, nghị định của Lemyre de
Viler tuy có vẻ cứng cỏi nhưng "thiếu thầy, thiếu sách làm cho nghị định không
thể thực hiện được". Tuy không thi hành được một cách đầy đủ nhưng chủ
trương của Lafont và Lemyre de Viler nhưng ta cũng có thể hình dung được
hệ thống giáo dục Nam Kỳ lúc này như sau:

- Trường tỉnh (chủ yếu là những trường ở Sài Gòn) dạy cả 3 cấp nhưng
tuỳ tình hình cụ thể về giáo viên và sách giáo khoa mà châm chước.

- Trường quận (rất ít) dạy 2 cấp.

- Trường tổng và xã dạy cấp 1, chủ yếu là chữ quốc ngữ và chữ Pháp.

3. Những chủ trương bổ trợ cho công cuộc mở trường học và sử


dụng chữ quốc ngữ

Đi đôi với phương án mở trường học, nhà cầm quyền còn ra những
nghị định bắt buộc nhân dân đến năm 1882 phải dùng chữ quốc ngữ trong
mọi công văn giấy tờ. Điều 2 của Nghị định ngày 6-4-1878 ghi rõ: Bất cứ
người nào nếu không biết chữ quốc ngữ sẽ không được tuyển dụng hoặc
thăng trật (trong các cấp phủ, huyện, tỉnh). Nghị định này cũng ghi rõ là các
hương chức sẽ được miễn một nửa hoặc toàn bộ thuế thân nếu biết chữ
quốc ngữ, những ai muốn làm hương chức mà không biết chữ quốc ngữ thì
không được xét.

Đối với công chức người Pháp, Nghị định ngày 23-7-1879 quy định tiền
thưởng hằng năm cho những người biết tiếng Việt là 100 đồng, biết chữ Hán
là 200 đồng.

Lemyre de Viler trong một thông tư ra ngày 28-10-1879 còn quy định:
Mỗi lần, những làng của một tổng có thể thực hiện được, nhà cầm quyền sẽ
ra Nghị định riêng cho địa hạt đó dùng chữ quốc ngữ trong các giấy tờ và
công văn hành chính. Ngoài ra, De Viler còn quy định thưởng từ 50 đến 100
đồng cho những làng nào viết được các công văn bằng quốc ngữ.

Khi đưa ra những nghị định, thông tư này nhà cầm quyền Pháp bao giờ
cũng nhằm vào lợi ích của họ, cho nên, Bélia giám đốc nội vụ hồi đó đã nói
không úp mở: Chúng ta sẽ rất có lợi cả về chính trị cũng như thực tế nếu làm
tiêu tan dần dần chữ Nho, việc dùng thứ chữ đó chỉ có thể có một ảnh hưởng
tai hại đối với công trình "đồng hoá" và chính phủ đang dồn mọi nỗ lực để
thực hiện.

De Viler cũng so sánh chính sách của thực dân Anh và Đức ở các
thuộc địa để khẳng định sự truyền bá "nền văn minh châu Âu" của mình:
Người Anh công bố tiếng Anh ở Mũi Hảo Vọng (Cap de Bonne Espérance);
Đức không dùng tiếng Pháp ở Alsace, Lorraine... việc dùng chữ Nho là một
cản trở to lớn đối với sự phát triển nền văn minh châu Âu; vậy, mọi nỗ lực của
chúng ta phải nhằm xoá bỏ cản trở đó.

III - KẾT QUẢ TỔ CHỨC GIÁO DỤC CỦA NGƯỜI PHÁP TRÊN ĐẤT
NAM KỲ

Cho mãi tới năm 1886, đúng một phần tư thế kỷ, sau khi 7 đặt nền giáo
đục phục vụ xâm lược lên đất Nam Kỳ, thực dân Pháp dù đã thay đổi nhiều
phương án, đã tổ chức tranh luận, tổ chức cơ quan nghiên cứu và chỉ đạo
giáo dục nhưng cũng chỉ thu được những kết quả còn ít ỏi:

Số Giáo viên Hoc


Đơn vị Ghi chú
trường Pháp Việt sinh
Tỉnh 17 73 91 2.821 - Có 10 trường nam, 7 trường

Quận, 16 24 51 1.553 nữ

Tổng, 219 270 10.441 - Số trường tỉnh bao gồm cả


những trường ở Sài Gòn
Xã 91 91 3.416
Tổng
343 97 503 18.231
cộng
Qua bảng thống kê ta thấy:

- Nếu như dân số Nam Kỳ lúc đó thường được tính là 2 triệu (số tròn)
thì tỷ lệ đi học chưa được 1%. Nếu không tính số con em của Hoa kiều và
Pháp kiều thì tỷ lệ đó còn thấp hơn nữa. Trong khi đó, những trường học chữ
Hán vẫn tồn tại với gần 9000 học sinh và 426 thầy đồ. Con số đó chứng tỏ
nền giáo dục của thực dân Pháp không phải dễ dàng gì áp đảo nền giáo dục
chữ Hán.
- Trường tổng và trường xã chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số trường
học: 316 trường trên 503 tức là 71,57% nhưng chất lượng rất kém. Thầy giáo
thì "đại đa số không thể trả lời được những câu hỏi đơn giản nhất bằng tiếng
Pháp". Do đó trường học của thực dân Pháp ở Nam Kỳ chỉ có thể đào tạo ra
"vài trăm người An Nam nói tiếng Pháp, vài ngàn người nói sai tiếng Pháp đó
là những bồi bếp, kéo xe v.v..." còn "những người An Nam thì vẫn nói tiếng
của họ, nhưng lại không biết đọc biết viết". Do đó, họ cho rằng đã đào tạo ra
những "người vô học". Cultru cũng đã nhận xét loại trường do kinh phí địa
phương đài thọ là "không được tích sự gì, chúng đã tồn tại như không có
chúng". Còn các tổng lý thì mãi tới năm 1885 nghĩa là 3 năm sau hạn định
phải dùng chữ quốc ngữ trong các công văn giấy tờ, vẫn kêu xin bỏ chữ quốc
ngữ vì họ không hiểu gì: "Quý vị hãy đoán xem chúng tôi lúng túng thế nào khi
chúng tôi nhận được lệnh viết bằng thứ chữ trên (chữ quốc ngữ), chúng tôi
phải chạy kiếm hàng chục người thông dịch mà chúng tôi phải trả tiền để rồi
rốt cục họ đã làm chúng tôi hiểu hoàn toàn ngược lại với những gì người ta
muốn truyền lệnh cho chúng tôi...". Như vậy, việc dựa vào trường học, chủ
yếu là trường tổng và trường xã để thực hiện chủ trương dùng công văn giấy
tờ hành chính vào năm 1882 cũng không thực hiện được hoặc nếu có về hình
thức thì cũng không hiệu lực.

Trong 25 năm đầu, tổ chức giáo dục ở Nam Kỳ, người Pháp đã tập
trung vào hai mục tiêu cơ bản: Một là đào tạo thông dịch viên và nho sĩ phục
vụ cho đội quân xâm lược và bộ máy chính quyền trong các vùng đất mới
chiếm đóng, hai là tổ chức một nền giáo dục phổ cập để truyền bá chữ Pháp,
chữ quốc ngữ và xoá bỏ chữ Hán. Nhưng họ không thành công mặc dầu đã
dùng nhiều biện pháp và luôn luôn thay đổi chính sách, đường lối giáo dục.
Như vậy, trên con đường "chinh phục tinh thần" họ muốn làm hết sức khẩn
trương nhưng đã bị chậm lại rất nhiều. Kết quả là sau 25 năm họ không thể
thay thế chữ Hán bằng chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Họ đã thất bại một bước
trong công cuộc truyền bá nền « văn minh châu Âu" mà tưởng rằng rất dễ
dàng và đơn giản. Lý do này giải thích vì sao họ đã tỏ ra thận trọng hơn khi tổ
chức nền giáo dục ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ giai đoạn sau.
Chương 3. CẢI CÁCH GIÁO DỤC LẦN THỨ NHẤT - SỰ TỒN TẠI
SONG SONG HAI NỀN GIÁO DỤC PHÁP - VIỆT VÀ PHONG
KIẾN (1886 -1916)

Sau một phần tư thế kỷ đánh chiếm đất nước ta, thực dân Pháp đã đặt
được những viên gạch đầu tiên cho một nền giáo dục mới. Sang giai đoạn
này (1886 - 1916) trong 10 năm đầu họ còn phải tập trung sức lực vào dập tắt
những cuộc đấu tranh vũ trang, nên việc tổ chức giáo dục còn tuỳ tiện nhất là
ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Sau khi đã đàn áp xong những cuộc khởi nghĩa mà
tiêu biểu là phong trào do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo (1885 -
1896), họ bắt đầu khai thác đất nước ta với một quy mô lớn hơn. Mặt khác họ
cũng bắt đầu củng cố bộ máy chính quyền phong kiến làm trung gian giữa
nhân dân và Nhà nước "Bảo hộ", giáo dục trong giai đoạn này chính là để
phục vụ cho những chủ trương kinh tế và chính trị đó.

I - TỪ PAUL BERT ĐẾN PAUL DOUMER, NHỮNG TIỀN ĐỀ CỦA CẢI


CÁCH GIÁO DỤC LẦN THỨ NHẤT

Tháng 6-1886, Paul Bert được cử giữ chức tổng sứ Bắc Kỳ và Trung
Kỳ mở đầu một thời kỳ mới về giáo dục. Với những kinh nghiệm tổ chức và
nội dung giáo dục ở Nam Kỳ, P.Bert thấy cần phải có một chính sách mềm
dẻo hơn trong công cuộc chinh phục tinh thần" ở Bắc và Trung Kỳ. Khi phong
trào Cần Vương đang lan rộng, nhà cầm quyền Pháp thấy càng phải hết sức
thận trọng để lôi kéo những sĩ phu yêu nước. Đối với những quan lại còn ẩn
dật đang chờ xem thế cuộc, họ ra sức mua chuộc, còn với nhân dân thì họ
luôn luôn đề cao chính sách "khai hoá văn minh" truyền bá tư tưởng Âu Tây
nhưng vẫn "tôn trọng những giá trị tinh thần, những truyền thông tốt đẹp của
dân tộc".

P. Bert chính là một viên quan cai trị có uy tín với chính phủ Pháp được
cử sang làm nhiệm vụ đầy khó khăn này. Ông ta chẳng những là một nhà
chính trị, mà còn là một nhà giáo dục nổi tiếng, cho nên ngay sau khi tới Hà
Nội, P. Bert đã ra lời kêu gọi đầy "thiện chí": "Người Pháp đến đây là để nâng
cao đời sống nông nghiệp, công nghiệp, kinh tế và còn nâng cao cả đời sống
tinh thần bằng giáo dục". Tuy vậy, P.Bert vẫn chủ trương làm từ từ sao cho
ảnh hưởng của nước Pháp ngấm dần nhưng liên tục vào nhân dân ta. Ông ta
không tán thành việc bắt người Việt Nam bỏ chữ Hán để học chữ Pháp và
chữ Quốc ngữ như các đô đốc làm ở Nam Kỳ, vì như vậy là trái với khoa
học". Đi đôi với việc trực tiếp tổ chức ban Học chính, P. Bert còn tự tay đôn
đốc việc xây dựng trường sở và ra những chỉ thị cụ thể để chỉ đạo công tác
giáo dục. Lúc này, ở Bắc Kỳ chỉ mới có hai trường dạy chữ Pháp và quốc ngữ
do tướng Brière De Lisle thành lập năm 1885. Bước đầu, P. Bert vẫn cho mở
thêm những trường tương tự, nhưng chương trình tinh giản hơn nhiều như
chữ Pháp không sa lầy vào ngữ pháp, phải dạy nhiều từ vựng có liên quan
đến công việc làm. Lên các lớp trên học sinh đã hiểu biết ít nhiều tiếng Pháp
thì sẽ được đào tạo thành thông ngôn và công chức. Việc dạy chữ quốc ngữ
P.Bert cũng hết sức quan tâm, vì "Những quan chức và nhà buôn sẽ học thứ
chữ đó một cách dễ dàng, và như vậy việc giao thiệp giữa ta và dân bản xứ
sẽ rất thuận lợi". Đối với chữ Hán, P. Bert không chủ trương xoá bỏ, nhưng
việc dạy phải tuỳ theo từng loại trường.

Những trường mới mở (mà P.Bert gọi là trường Pháp - Việt) chữ Hán
vẫn phải đảm bảo một mức độ nhất định. Còn với những trường dạy chữ Hán
để đi thi hương, P.Bert cũng chỉ mới có gợi ý cho cấp dưới: Trước mắt, cần
làm cho các nho sĩ nhận thức được rằng họ phải biết tiếng Pháp, hiểu người
Pháp, còn người Pháp cũng phải học tiếng người "bản xứ" để hiểu biết người
dân mình cai trị. Để đạt đồng thời cả hai mục tiêu này P.Bert cũng gợi ý cần
thành lập trường học ở một số trung tâm hành chính và cho các thông ngôn,
công chức và cả hạ sĩ quan trong quân đội Pháp đến làm giáo viên. P.Bert
còn cho các giáo sĩ được phép mở trường tư, dạy trẻ em ở các tầng lớp xã
hội không phân biệt giàu nghèo, loại trường này cũng được Nhà nước bảo
trợ. Ngoài những trường dạy văn hoá P.Bert còn cho tổ chức hai trường dạy
nghề, một để đào tạo công nhân mộc và rèn, một để đào tạo công nhân làm
đồ mỹ nghệ "bản xứ".
Sau một năm ráo riết hoạt động, P.Bert đã tổ chức được một trường
thông ngôn, 9 trường tiểu học con trai, 4 trường tiểu học con gái, chương
trình học giống như các trường tiểu học Nam Kỳ, một trường dạy vẽ và 117
trường dạy quốc ngữ.

Đi đôi với việc mở trường dạy học, ông còn tìm mọi cách để nắm chắc
tầng lớp quan lại và sĩ phu phong kiến như: Tổ chức ở Huế một trường trung
học đặc biệt để dạy tiếng Pháp cho những người hoàng tộc và con em quan
lại cao cấp trong triều. Đầu tháng 7-1886, P. Bert còn ký Nghị định thành lập
"Bắc Kỳ Hàn lâm viện" để tập hợp các nhà "thông thái đất Bắc" có học vị từ
cử nhân trở lên. P. Bert cũng có dự định mở một nhà in chữ Hán và tổ chức
một tờ báo chữ Hán có phần dịch ra chữ Pháp và chữ quốc ngữ để làm cơ
quan ngôn luận cho Viện Hàn lâm. Phải thừa nhận P.Bert là một viên quan cai
trị rất năng động và có kinh nghiệm trong công cuộc "chinh phục tinh thần",
nhưng cuối năm 1886, P.Bert chết, phần lớn công cuộc giáo dục mà ông ta
dự tính đều phải đình lại.

Cho mãi đến gần 10 năm sau, sự nghiệp giáo dục của người Pháp ở
Bắc Kỳ và Trung Kỳ không có gì đáng kể, tất cả sức lực của họ đang dồn vào
để "bình định" xứ này, tuy vậy năm 1889, họ cũng đã tổ chức được những
trường học ở vùng biên giới Việt - Trung như Cao Bằng, Lạng Sơn, Đồng
Đăng, Na Sầm, Thất Khê... Năm 1892, họ còn tổ chức lớp học tiếng Pháp ban
đêm ở tận Đông Hưng, Móng Cái cho một số công chức Việt Nam và Trung
Quốc. Đến khi De Lanessan được cử sang làm toàn quyền vào năm 1894 thì
họ mới thực hiện dần một số công việc mà P.Bert đã đề ra. De Lanessan cho
phục hồi những lớp học chữ quốc ngữ và chữ Hán cho các quan chức người
Pháp, mở nhà in, cho ra tờ Công báo bằng chữ Hán. Rousseau thay De
Lanessan đã cho mở trường Quốc học Huế do Khâm sứ Trung Kỳ kiểm soát.
Trường này có mục đích đào tạo con em tầng lớp trên của triều đình phong
kiến thành những quan cai trị có cả cựu học lẫn tân học, những "cộng sự"
trung thành của họ, do đó mọi chế độ đều được quy định rất chặt chẽ. Nhà
trường chỉ tuyển lựa những học sinh từ 15 đến 20 tuổi, dưới lứa tuổi này có
trường dự bị cho học sinh từ 8 đến 15 tuổi. Thời gian học kéo dài 5 đến 6
năm, có cả ba thứ chữ Pháp, Việt, Hán. Doumer thay Rousseau vào đầu năm
1897, năm sau ông ta cho thành lập trường Viễn Đông Bác cổ, cơ quan
nghiên cứu khoa học lớn của Pháp, mà một trong những công việc đầu tiên là
đề xuất cho được một chương trình cải cách giáo dục. Tháng 6-1898, Doumer
ký nghị định về thể thức thi chữ quốc ngữ và chữ Pháp trong các kỳ thi
hương. Theo nghị định thì đến 1903, việc thi còn tự nguyện nhưng các ông
cử, ông tú nếu đậu cả phần này sẽ được bổ dụng trước. Từ 1903, trở đi chữ
Pháp và quốc ngữ sẽ trở nên bắt buộc trong các kỳ thi Hương và dĩ nhiên chỉ
những người biết tiếng Pháp mới được tuyển dụng vào các cơ quan Nhà
nước.

Tóm lại, cho đến 1905 hệ thống giáo dục ở Việt Nam tồn tại dưới ba
hình thức khác nhau:

Ở Nam Kỳ đa số các tổng xã đều có trường tiểu học Pháp - Việt dạy
chữ Pháp và Quốc ngữ, chữ Hán hầu như bãi bỏ hoàn toàn hoặc chỉ là môn
phụ, ngoài ra còn một vài trường trung học như Chasseloup Laubat, Bá-Đa-
Lộc, chương trình và nội dung giảng dạy của các loại trường này như đã trình
bày sơ lược ở Chương hai.

Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ số trường dạy chữ Pháp và chữ quốc ngữ còn
rất ít ỏi riêng Trung Kỳ trường dạy chữ Hán vẫn tồn tại khắp nơi. Bảng thống
kê trường Pháp - Việt năm 1900 sau đây cho ta thấy:

Địa Trường Trường Số


Chú thích
phương Pháp-Việt Trung học học/sinh
Hà Nội 15 1 - Ngoài ra Hà Nội còn

Hải Phòng 5 có 16 lớp học buổi tối


do các thông ngôn dạy.
Nam Định 4
- Các địa phương khác
Thanh Hoá 2
chưa có số liệu học
Vinh 2 57 sinh.
Huế 2
1 400
Hội An 1

Nha Trang 1
Như vậy, ba kỳ (Bắc, Trung, Nam) với ba chế độ giáo dục khác nhau đã
làm cho người Pháp gặp rất nhiều khó khăn trong việc theo dõi và chỉ đạo.
Tuy nhiên, những điều kiện hay đúng hơn là những tiền đề cho một cuộc cải
cách giáo dục đã xuất hiện. Đó là tình hình chính trị đi dần vào ổn định, sự
phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi phải có một đội ngũ công nhân và cán bộ kỹ
thuật có trình độ cao hơn. về giáo dục, họ cũng cần có sự thể nghiệm đường
lối sao cho phù hợp với một đất nước có nền văn hoá phương Đông lâu đời
bước đầu tiếp xúc với nền văn hoá còn khá xa lạ của phương Tây. Toàn
quyền Paul Beau thay Doumer đã lĩnh trọng trách này. Năm 1903, P.Beau ký
nghị định thành lập Hội đồng nghiên cứu cải cách giáo dục và sau ba năm
hoạt động, đến 1906 một nghị định công bố nội dung cải cách đã ra đời.

II - CẢI CÁCH GIÁO DỤC LẦN THỨ NHẤT - SỰ TỒN TẠI SONG
SONG HAI NỀN GIÁO DỤC PHONG KIẾN VÀ PHÁP - VIỆT

Nhận xét về tình hình giáo dục từ khi người Pháp chiếm được toàn bộ
Việt Nam cho đến đầu thế kỷ XX, E.Maitre một người chủ chốt trong hội đồng
soạn thảo chương trình cải cách giáo dục đã viết: ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, nền
giáo dục cổ truyền căn bản vẫn là một nền giáo dục rộng rãi trong nhân dân.
Một vài trường Pháp - Việt mà họ mới tổ chức ra sau này chỉ để đào tạo thông
dịch và một số viên chức trình độ thấp. Ở những trường này chữ Pháp của
học sinh đã yếu, việc dạy chữ Hán tuy có trong chương trình nhưng hầu như
bị bỏ rơi, cho nên khi ra trường họ rất kém đến nỗi không dịch nổi một bức
công văn, đó là điều thứ nhất.

Hai là, giáo dục Pháp - Việt không áp đảo nổi nền giáo dục chữ Hán,
kết quả lại còn đi ngược với ý muốn của họ "Vì những gánh nặng về tài chính
ngày càng gia tăng ở các làng xã cho nên số lớn trường công (tức trường
Pháp - Việt) ngày càng biến đi mà những trường tư (tức trường dạy chữ Hán
của các thầy đồ - TG) lại phát triển. Tính riêng tỉnh Bắc Ninh chỉ có 15 trường
công nhưng lại có đến 407 trường tư. Điều làm cho thực dân Pháp lo lắng
hơn hết, như kinh nghiệm ở Nam Kỳ, là nếu những trường tư phát triển thì họ
không thể kiểm soát được công cuộc "chinh phục tinh thần" để phục vụ cho
việc khai thác thuộc địa. Mặt khác không ít nho sĩ đã dùng nghề dạy học để
truyền bá tư tưởng yêu nước trong nhân dân làm cho nền an ninh ở đất nước
này không đảm bảo, cho nên trường tư là một mối lo ngại lớn.

Ba là, nếu không cải cách giáo dục, sẽ không điều hoà được mâu thuẫn
giữa những "cộng sự" của họ. Vì những người học ở trường Pháp - Việt ra
tuy có ít nhiều tân học và vẫn tỏ ra là những người có công thực hiện và
truyền bá tư tưởng Thái Tây vào trong nhân dân, nhưng xem ra vẫn lép vế so
với phái cựu học. Những người này một khi đỗ đạt sẽ được làm quan ít ra
cũng tri huyện hoặc tri phủ và hoạn lộ xem ra vẫn thênh thang, do đó cánh tân
học vẫn thường phàn nàn: Chúng tôi vẫn là những người thấp kém về mặt xã
hội đối với những nho sĩ hạng thấp nhất".

Một điểm nữa làm cho nhà cầm quyền cũng phải quan tâm là tình hình
châu Á đầu thế kỷ XX đã có những chuyển biến hết sức quan trọng, nhất là ở
Trung Quốc và Nhật Bản như ta đã biết. Các nước này đều đã cải cách nền
giáo dục truyền thống của họ: "Người Trung Quốc và những quốc gia có nền
văn minh Trung Hoa đều hiểu rằng nền văn minh cổ đại của họ không còn là
một thứ vũ khí hữu hiệu nữa. Bởi vậy, Trung Quốc đã cải cách hoàn toàn nền
giáo dục của họ theo kiểu Nhật Bản. Người An nam với sự tiếp xúc với người
Pháp đã làm quen với những phát minh hiện đại mà họ đã xác nhận một cách
công khai những tiến bộ đó, cũng đòi hỏi một nền giáo dục thích hợp hơn với
thời đại của họ" vả chăng, những thất bại và thành công trong gần nửa thế kỷ,
việc tổ chức nền giáo dục phục vụ cho công cuộc xâm lược và khai thác nước
ta, cũng là những kinh nghiệm quan trọng để cho họ tiến hành cải cách giáo
dục.

Công việc này sẽ tác động vào những đối tượng chính sau đây:

- Hệ thống trường Pháp - Việt;


- Hệ thống trường dạy chữ Hán;

- Hệ thống trường chuyên nghiệp.

1. Những cải cách trong hệ thống trường Pháp – Việt

Trường Pháp - Việt là những trường dạy chủ yếu bằng chữ quốc ngữ
và chữ Pháp từ 3 đến 4 năm, nội dung còn khá tuỳ tiện, nó giống như những
trường tiểu học Pháp - Việt ở Nam Kỳ mà chúng tôi đã trình bày. Với cải cách
của toàn quyền P.Beau, hệ thống trường Pháp - Việt được tổ chức lại gồm hai
bậc: tiểu học và trung học.

a) Bậc tiểu học Pháp - Việt

Những trường của bậc này có 4 lớp: lớp tư, lớp ba, lớp nhì và lớp nhất.
Cuối bậc có kỳ thi lấy bằng tiểu học Pháp - Việt. Chương trình học hầu hết
bằng tiếng Pháp, tiếng Việt và chữ Hán chỉ chiếm một tỷ lệ rất thấp.

Lớp Pháp Việt Hán Chú thích


Tư 23 giờ 30 3 giờ 45 30 phút Tổng số giờ học trong tuần
Ba 22 giờ 5 giờ 15 30 phút là 27 giờ 45 phút
Nhì 23 giờ 30 3 giờ 45 30 phút
Nhất 22 giờ 3 giờ 45 2 giờ
Riêng môn tiếng Pháp, để học sinh có một số vốn tối thiểu theo học ba
lớp trên, chương trình chú trọng dạy ngay từ lớp đầu tiên (lớp tư) khi mới
bước vào trường tiểu học.

Lớp Tập đọc Từ vựng Làm văn Thuộc lòng Cộng


Tư 7 giờ 4 giờ 45 phút 30 phút 12 giờ 15
Ba 4 giờ 3 giờ 2 giờ 30 phút 9 giờ 30
Nhì 3 giờ 2 giờ 2 giờ 1 giờ 8 giờ
Nhất 2 giờ 1 giờ 6 giờ
Sở dĩ chương trình tiếng Pháp nặng như vậy vì mục tiêu là: ở lớp nhì,
vốn từ cuối năm phải đạt được ít nhất 1.500 từ. Môn đối thoại, thầy giáo
hướng dẫn cho học sinh tự tìm lấy những câu trả lời, không nhất thiết chỉ
trong phạm vi những câu đã học thuộc lòng. Lên đến lớp nhất cần tận dụng
các bài về cách trí (dạy cơ thể con người, thức ăn, trang phục, khoáng chất,
nước...) để làm cho vốn từ ngày càng nhiều thêm và khi giảng thầy giáo cũng
cần cho học sinh tập đối thoại.

Các môn bằng tiếng Việt và Hán

1. Quốc ngữ

2. Chính tả

3. Luận

4. Tập dịch Việt - Pháp

5. Học thuộc lòng

6. Chữ Hán

Về tiếng Việt và tiếng Hán chương trình đã ít, tuỳ tiện, yêu cầu lại thấp:
Lớp nhất là cuối cấp tiểu học mà học sinh chỉ cần đọc trôi chảy và đúng, còn
thầy giáo cũng chỉ cần giảng cho học sinh hiểu bài bằng cách cắt nghĩa chữ
khó và tóm tắt đại ý.

Chữ Hán chỉ mang nội dung luân lý, không dạy khoa học bằng loại chữ
này.

b) Bậc trung học

Sau khi tốt nghiệp tiểu học, học sinh được thi vào trường trung học.
Bậc này chia làm hai: trung học đệ nhất cấp và trung học đệ nhị cấp. Trung
học đệ nhất cấp (premier cycle secondaire), cấp này chỉ học có một năm, chia
làm hai ban:

- Ban Văn học, học thêm một ít chương trình của ban tú tài Pháp,
nhưng tuỳ theo hoàn cảnh của địa phương mà thay đổi cho thích hợp, ở đây
có thể dạy thêm tiếng Pháp, tiếng Việt và tiếng Hán

- Ban Khoa học chia làm 3 ngành: nông nghiệp, công nghiệp và thương
nghiệp, có mục đích đào tạo những nhân viên cho các ngành kinh tế, do đó
chương trình văn học sẽ không còn hoặc chỉ dùng rất ít, trái lại việc học
những môn khoa học thực hành sẽ được chú ý hơn.

Ngoài ra, ban khoa học còn có thể thi vào lớp Sư phạm hoặc Pháp
chính.

2. Những cải cách trong hệ thống trường chữ Hán

Nếu trong cải cách của hệ thống trường Pháp - Việt chỉ là hoàn chỉnh
thêm một bước chương trình trung học (thực ra cũng chưa đầy đủ) để đào
tạo những nhân viên cho các ngành kinh tế, hành chính và sư phạm thì việc
cải cách trong hệ thống trường chữ Hán sẽ làm thay đổi khá nhiều cơ cấu của
nền giáo dục cổ truyền này. Bởi vậy, trước khi đưa ra chương trình cải cách
các trường học chữ Hán, chẳng những các chuyên gia kinh tế, chính trị, văn
hoá... bàn cãi rất sôi nổi mà các sĩ quan trong quân đội cũng có ý kiến. Tuy
nhiên hai điểm cơ bản quán triệt toàn bộ việc cải cách hệ thống trường chữ
Hán là:

- Trong khi chưa có điều kiện xoá bỏ, phải giữ lại nền giáo dục chữ Hán
cổ truyền ở mức độ nào?

- Làm thế nào để đưa vào một chương trình khoa học, nhưng lại phải
dùng chữ quốc ngữ làm chuyên ngữ?

Trên cơ sở của hai yêu cầu đó, nền giáo dục chữ Hán được chia làm
ba bậc: ấu học, tiểu học và trung học.

a) Bậc ấu học có ba loại trường

- Trường một năm hoặc dưới một năm cho những làng xa xôi hẻo lánh
nên chỉ dạy chữ quốc ngữ, không dạy chữ Hán và chữ Pháp.

- Trường 2 năm: dạy quốc ngữ và chữ Hán

- Trường 3 năm: dạy cả 3 thứ quốc ngữ, Hán và Pháp. Ở hai loại
trường này chữ Hán không bắt buộc nhưng chữ Pháp thì bắt buộc. Sau khi
học xong bậc ẩu học (3 năm) sẽ có một kỳ thi gọi là "hạch tuyển", người đậu
sẽ được cấp bằng tuyển sinh.
b) Bậc tiểu học

Các trường tiểu học, học trong 2 năm mở ở các phủ huyện do các giáo
thun, huấn đạo chịu trách nhiệm. Chương trình dạy cũng gồm các môn của
ba thứ chữ, nhưng quốc ngữ vẫn chiếm nhiều giờ hơn: 15 giờ 30 mỗi tuần và
dạy các môn chủ yếu như toán, luận, cách trí, sử, địa, vệ sinh, luân lý...

Chữ Hán chiếm tỷ lệ quan trọng sau chữ quốc ngữ, mỗi tuần 10 giờ,
tuy vậy chương trình vẫn còn khá nặng vì bao gồm các sách Tứ thư (trừ
Trung dung), nhưng đã được san định lại, ngoài ra còn các sách khác như
Chính biên toát yếu, Luật lệ toát yếu, Việt sự tổng vịnh, An nam sơ học sử
lược, Pháp lan tây sử lược, Nam quốc địa dư, Đông Dương chính trị v.v...

Chữ Pháp tuy có ít hơn hai loại chữ trên chút đỉnh nhưng mỗi tuần vẫn
chiếm đến gần 10 giờ chủ yếu tập trung vào hai môn chính: tập đọc, tập làm
văn (5 giờ 30) và tập đối thoại (3 giờ 30). Cuối năm thứ hai, học sinh có một
kỳ thi (hạch khoá) để lấy bằng Khoá sinh, người đậu được miễn sưu dịch 3
năm và được học lên trung học.

c) Bậc trung học

Trường trung học thường mở ở các tỉnh lỵ do đốc học phụ trách, học
sinh được cấp học bổng. Chương trình học vẫn gồm các môn của ba thứ chữ
nhưng chữ quốc ngữ và chữ Pháp được dạy nhiều hơn chữ Hán.

Chữ quốc ngữ chiếm nhiều thời gian nhất, mỗi tuần 16 giờ các môn học
cũng như ở bậc tiểu học nhưng có nâng cao.

Chữ Pháp ở đây lại chiếm nhiều thời gian hơn chữ Hán, 12 giờ mỗi
tuần, trừ 1 giờ học toán còn bao nhiêu tập trung vào học làm văn, học đọc và
học dịch.

Chữ Hán tuy chỉ có 7 giờ mỗi tuần, nhưng chương trình vẫn nặng vì
ngoài các sách Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ còn phải tập làm phiến, sớ, tấu.
Học hết trung học, học sinh phải qua một kỳ thi gọi là "thí sinh hạch",
người đậu được cấp bằng Thí sinh, được miễn sưu dịch một năm và được đi
thi hương.

d) Cải cách thi hương

Trong những năm trước nhà cầm quyền Pháp cũng đã đưa thêm chữ
Pháp vào chương trình thi hương. Lần này đi đôi với việc cải cách giáo dục ở
hệ thống trường chữ Hán, họ cũng tiến hành luôn cả việc cải cách thi hương,
về hình thức và nghi lễ vẫn như cũ, nhưng nội dung có thay đổi:

- Trường nhất: Văn sách viết bằng chữ Hán gồm 5 đầu bài.

- Trường nhì: Luận chữ Việt.

- Trường ba: Dịch một bài chữ Pháp ra chữ Việt và một bài chữ Hán
sang chữ Pháp.

- Kỳ phúc hạch để chọn cử nhân, thí sinh phải làm một bài luận chữ
Hán, một bài luận chữ Việt và một bài dịch chữ Pháp sang chữ Hán. Tuỳ theo
số điểm cao thấp mà định cử nhân hoặc tú tài.

Về thi Hội trong chương trình cải cách lần này chưa thấy nói đến nhưng
theo một chuyên gia về cải cách giáo dục lúc đó thì, kỳ thi để chọn tiến sĩ sẽ
sửa đổi lại cho thích hợp với những cải cách đề ra trong những kỳ thi hương,
cho đến lúc sự phát triển của nền giáo dục đại học cho phép chuyển hoá
thành một kỳ sát hạch có mục đích đánh giá những thí sinh qua những công
trình thực sự cơ bản và mang dấu ấn cá nhân".

e) Sách giáo khoa

Từ khi mới tổ chức nền giáo dục ở Nam Kỳ cho đến lúc này, nhà cầm
quyền Pháp đã gặp một vấn đề nan giải là sách giáo khoa, vì họ không có
người đủ năng lực để biên soạn. Thời kỳ đầu mới chiếm đóng họ phải cho
học sinh dùng tờ Gia Đinh báo làm sách tập đọc, sau đó lại mang sách từ
Pháp sang, nhưng vì không hợp với trình độ học sinh nên kết quả rất hạn
chế. Cho đến những năm 80 của thế kỷ XIX, Trương Vĩnh Ký và một số người
Pháp của cơ quan Học chính Nam Kỳ đã biên soạn được một số sách giáo
khoa để dạy trong các trường tiểu học. Những sách này dần dần được bổ
sung thêm một vài quyển khác và đã thành những sách dạy trong các trường
tiểu học lúc đó.

Lần này hội đồng cải cách giáo dục cũng muốn trong một thời gian
ngắn có thể biên soạn xong một số sách bằng quốc ngữ và chữ Hán theo
những yêu cầu sau đây:

- Sách quốc ngữ.

+ Sách tập đọc với nội dung: hành chính, phong tục và những nguyên
tắc về đạo đức, giải thích một số hiện tượng thiên nhiên, những điều khuyên
về vệ sinh v.v...

+ Sách địa dư thế giới (Đông Dương và Pháp sẽ viết thành một phần
riêng).

+ Toán pháp, cách trí, vệ sinh.

+ Ngữ pháp sơ giải.

- Sách chữ Hán.

+ Luân lý theo quan điểm Nho giáo.

+ Lịch sử Việt Nam bao gồm cả chế độ cai trị, luật pháp ở Đông
Dương.

Ngoài ra Hội đồng cải cách giáo dục còn dự định biên soạn một cuốn từ
điển Pháp - Việt và một cuốn trích giảng văn học Việt Nam lấy những bài văn
tiêu biểu của các tác giả đương thời cho học sinh các trường tiểu học. Còn
sách chữ Pháp họ vẫn cho dùng những sách giáo khoa đã biên soạn từ trước
cho các trường ở Nam Kỳ.

3. Những cải cách đối với trường nữ học

Trường dành riêng cho nữ sinh sẽ có ba loại:

- Trường sơ học: học chung với trường nam


- Trường tiểu học: tổ chức tại các tỉnh lỵ, có thể do các nữ giáo viên
người Pháp phụ trách.

- Trường cao đẳng sẽ tổ chức tại thủ phủ các xứ nhằm đào tạo chủ yếu
các nữ giáo viên.

Chương trình dạy trong các trường nữ học chủ yếu là thực hành gồm
có một chương trình chung dạy bằng tiếng mẹ đẻ gồm tập đọc, tập viết, học
tính, luân lý, vệ sinh và một chương trình thực tập gồm gia chánh (khâu vá,
giặt giũ, nấu ăn v.v...) và những nghề thủ công dành riêng cho nữ (thêu, đan,
dệt, làm bánh, làm vườn...)

Trong các trường tiểu học, tiếng Pháp là tự nguyện còn các trường cao
đẳng đó là ngôn ngữ bắt buộc.

Ill - VÀI NHẬN XÉT VỀ CẢI CÁCH GIÁO DỤC LẦN THỨ NHẤT

Nghị định cải cách giáo dục ban hành năm 1906 nhưng vì thiếu thầy,
thiếu sách giáo khoa cho nên mãi tới 1910 mới chính thức thực hiện.

Nhìn chung cuộc cải cách giáo dục lần này có những điểm nổi bật sau
đây:

1. Sự xâm nhập mạnh mẽ của nền giáo dục Pháp – Việt vào hệ
thống giáo dục phong kiến

Nếu như trước kia từ P. Bert đến P. Doumer chỉ mới có một vài quy chế
cho việc học chữ Pháp, chữ quốc ngữ mang tính chất từng phần thì lần này,
P.Beau đã kế thừa những thành quả trên, hệ thống lại cụ thể hơn và bổ sung
một số điểm cho phù hợp với tình hình lúc đó. Do vậy, cải cách giáo dục lần
này mang tính toàn diện (tuy còn ở mức độ nhất định), vì nó tác động đến cả
hai hệ thống giáo dục phong kiến và Pháp - Việt, nhưng nó vẫn không triệt để
vì:

- Đối với nền giáo dục phong kiến lần này họ đã cắt bớt đi một phần
chữ Hán để thay vào phần khoa học thường thức như toán, cách trí, vệ sinh...
Nhưng họ vẫn chưa dám thẳng tay xoá bỏ hoàn toàn nền giáo dục phong kiến
và những cơ cấu của nó như nội dung chương trình, sách giáo khoa và tổ
chức thi cử...

- Nếu trước kia hai nền giáo dục phong kiến và Pháp - Việt tồn tại hầu
như biệt lập với nhau, thì cuộc cải cách giáo dục lần này thực dân Pháp vẫn
để tồn tại song song nhưng lại cố làm cho hai nền giáo dục này xích lại gần
nhau hơn mà "sự khác nhau sẽ chỉ như giáo dục cổ điển và giáo dục hiện đại
ở Pháp". Do đó ta thấy ở các trường ấu học, tiểu học và trung học của giáo
dục phong kiến chương trình cổ điển là phần chữ Hán, có chương trình hiện
đại là chữ Pháp, chữ quốc ngữ và chính phần chữ Pháp của các trường này
cũng lấy trong sách giáo khoa của trường Pháp - Việt. Học sinh sau khi học
xong trường ấu học không nhất thiết phải theo học trường tiểu học và trung
học để đi thi hương mà còn có thể học trường tiểu học Pháp - Việt để thi vào
các trường trung học Pháp - Việt (xem sơ đồ). Như vậy, tuy cải cách lần này
chưa triệt để nhưng nền giáo dục thực dân đã xâm nhập mạnh mẽ hơn vào
nền giáo dục phong kiến cổ truyền, sẽ tạo điều kiện để xoá bỏ hoàn toàn nền
giáo dục này khi cần thiết.

Lấy năm 1916 là năm cuối của cuộc cải cách lần thứ nhất, ta thấy sự
chênh lệch khá lớn trong các trường Pháp - Việt và các trường dạy chữ Hán
về số học sinh và thi:

HỆ PHÁP - VIỆT

Tiểu học Trường Học sinh Trung Trường Học Chú


học sinh thích

Sơ học 591 26.038 Cao đẳng Số lượng


4
Sơ đẳng 194 19.615 Tiểu hoc 420 Trường
Kiêm bị 3.808 quốc học 1 67 Kiêm bị
Cộng 785 49.461 5 487 chưa có
HỆ PHONG KIẾN

Loại trường Trường Học sinh Chú thích


Ấu học 837 14.124 Các trường ấu học,
Tiểu học 3.704
Trung học 1.186 trung học chưa có số
Cộng 837 19.014 lượng
HỌC SINH TRÚNG TUYỂN QUA CÁC KỲ THI

Bắc Kỳ Trung Kỳ Nam Kỳ


Chú
Thí Trúng Thí Trúng Thí Trúng
Kỳ thi thích
sinh tuyển sinh tuyển sinh tuyển
Tiểu học 547 280 23 7 82 45 Thi
Trung học hương
năm
1915: 40
Thi hương 1886 160
cử nhân

120 tú tài
Qua bảng thống kê ta thấy học sinh các trường Pháp - Việt đông gấp
đôi học sinh trường chữ Hán. Khoa thi Hương năm 1915 là khoa cuối cùng ở
Bắc Kỳ; ở Trung Kỳ trường chữ Hán nhiều hơn nên năm 1918 còn một khoa
nữa đây là khoa cuối cùng khi nền giáo dục Pháp - Việt và phong kiến đang
cùng tồn tại song song.

2. Chất lượng giáo dục sau cải cách lần thứ nhất không đáp ứng
được những yêu cầu mà thực dân Pháp đã đề ra

Với cải cách giáo dục lần thứ nhất, nhà cầm quyền Pháp hy vọng trong
một thời gian ngắn có thể đào tạo được một số công nhân kỹ thuật và viên
chức giúp việc, đó là hướng của các trường Pháp - Việt. Đối với hệ thống
giáo dục phong kiến, sẽ có được một tầng lớp quan lại tuy vẫn lấy cựu học
làm chính, nhưng đã ít nhiều tân học có thể làm cầu nối giữa nhân dân và
"nhà nước bảo hộ". Tuy nhiên, các trường Pháp - Việt với 14 môn dạy bằng
tiếng Pháp, trên tổng số 20 môn ngay từ những lớp đầu tiên của bậc tiểu học,
cũng đủ thấy sự mô phỏng hầu như hoàn toàn theo chương trình của bậc tiểu
học ở Pháp. Nó đã gây ra nhiều khó khăn về thầy, sách giáo khoa, tổ chức cơ
sở vật chất, chất lượng và hiệu quả không thể cao. Thứ ngôn ngữ học đường
này như F. Vial đã nhận xét, không phải Pháp cũng không phải Việt, khi giao
tiếp thì nó trở thành "những lời nhại, một sự méo mó đến khủng khiếp của cả
hai bên".

Còn nội dung giảng dạy chữ Quốc ngữ và chữ Pháp ở hệ thống trường
chữ Hán với định hướng trên, người ta đã tập trung học nhiều về luật pháp,
đơn từ, phong tục V.V.. nghĩa là, những môn "đầu vị" cho việc cai trị ở phủ,
huyện. Đối với thi hội chưa có gì thay đổi, nghĩa là thí sinh vẫn phải trình bày
những vấn đề "kinh bang tế thế", nhưng chữ Pháp và chữ Quốc ngữ vốn
chưa phải là thứ chữ quen thuộc của dân tộc ta, riêng chữ Pháp cách đọc,
cách viết, cách đặt câu với bao nhiêu thứ rắc rối, muôn tiếp thu học trò phải
mất rất nhiều thời gian mới có thể lọt qua kỳ thi hương. Đến kỳ thi Hội sĩ tử lại
phải kiến giải những vấn đề nóng bỏng về kinh tế, chính trị, xã hội mà họ
chưa được học hỏi bao nhiêu nên không có cách nào khác là nói dựa hoặc
trình bày, lý giải vấn đề một cách chủ quan, nông cạn và hời hợt. Báo Nam
Phong hồi bây giờ sau khi đã công bố một số bài văn thi Hội của mấy ông tiến
sĩ vừa mới đỗ, đã mỉa mai: "Quốc văn như vậy, Hán văn cũng rưa rứa như
vậy. Đó là cái tinh hoa của nhân tài nước Đại Nam ta đấy".

Do đó, dù công cuộc cải cách giáo dục của toàn quyền Beau đã cố
dung hoà hai nền giáo dục Pháp - Việt và phong kiến nhưng kết quả rõ ràng
là không thể đáp ứng được những yêu cầu như người ta hy vọng.

Chương 4. CẢI CÁCH GIÁO DỤC LẦN THỨ HAI:XOÁ BỎ NỀN GIÁO
DỤC PHONG KIẾN, XÁC LẬP VÀ CỦNG CỐ NỀN GIÁO DỤC
VIỆT NAM. (1917 -1929)

Chương trình cải cách giáo dục lần thứ nhất của toàn quyền P.Beau có
thể nói là thời kỳ quá độ trên chặng đường phát triển của nền giáo dục nước
ta lúc đó. Sự tồn tại song song hai nền giáo dục là một việc bất đắc dĩ, khi
chưa có điều kiện để xoá bỏ nền giáo dục phong kiến, hơn nữa kết quả đào
tạo của nền giáo dục mới cải cách không đáp ứng được yêu cầu đề ra. Phạm
Quỳnh đã phải nhận xét: "Sự học cũ cải cách lại không những là không tốt
hơn ra mà lại xấu kém đi, cái trình độ học trò không những là không cao hơn
trước mà lại thấp kém xưa, thật là đủ khiến cho những người có bụng tồn cổ
sinh thất vọng trong lòng... Cứ xem những học trò đậu mấy khoa sau này cựu
học không dầy, tân học cũng mỏng, mới không ra mới, cũ không ra cũ, thời đủ
biết thực như lời Tây gọi là những quả lép của cái cây đã đến ngày cỗi vậy".
Lại nữa, sự tồn tại cùng một lúc hai nền giáo dục cũng làm tăng trưởng mâu
thuẫn giữa những người "cựu học" và "tân học" ngay trong một thế hệ học
sinh: "Một bên thì không ngừng quay về với quá khứ âm thầm chống đối
những cải cách có nguồn gốc phương Tây, một bên dựa trên quá khứ nhưng
lại hướng về và chuẩn bị cho những đổi mới của đất nước". Đương nhiên,
những mâu thuẫn này là không có lợi cho nền thống trị của thực dân Pháp.

Lúc này thế chiến thứ nhất lại sắp sửa kết thúc, Pháp có nhiều triển
vọng thắng trận nhưng tổn thất về người và của vẫn rất nhiều, họ phải chuẩn
bị cho một đợt khai thác lớn ở thuộc địa nhất là Việt Nam để bù đắp cho
những thiệt hại do chiến tranh gây ra. Việc mở rộng kinh tế đòi hỏi phải có
thêm công nhân, nhất là công nhân kỹ thuật và nhiều nhân viên giúp việc có
trình độ chuyên môn vững vàng. Trong bối cảnh đó, thực dân Pháp thấy
không thể cho tồn tại nền giáo dục nửa cũ, nửa mới, họ đã quyết định bãi bỏ
nền giáo dục "bản xứ" với những thể chế của nó. Sau khoa thi cuối cùng ở
Bắc Kỳ năm 1915, ở Trung Kỳ năm 1918 cùng với khoa thi Hội và thi Đình
vào đầu năm 1919, ngày 14-6-1919, Khải Định ký Dụ bãi bỏ tất cả các trường
học chữ Hán cùng với hệ thống quản lý từ triều đình đến cơ sở, chỉ còn lại hai
trường thuộc quyền Nam Triều, trên danh nghĩa, là trường Hậu bổ và Quốc
Tử giám (nhưng vài năm sau cũng bị bãi bỏ). Từ nay nền giáo dục ở Việt
Nam sẽ do nhà cầm quyền Pháp hoàn tòàn chỉ đạo và quản lý. Nền giáo dục
phong kiến đã suy tàn từ thế kỷ XIX, sống lay lắt từ khi có sự xâm nhập của
nền giáo dục thực dân Pháp đến đây bị xoá bỏ hoàn toàn.

I - CẢI CÁCH GIÁO DỤC LẦN THỨ HAI – TỔ CHỨC, NỘI DUNG

Đầu năm 1917, Sarraut được bổ nhiệm làm Toàn quyền Đông Dương,
cuối năm đó, ngày 21-12-1917, Sarraut ký Nghị định ban hành bộ "Học chính
tổng quy" (Règlement general de línstruction - publique) và đến tháng 3-1918
Sarraut lại gửi thông tri cho các tỉnh giải thích rõ thêm một số nội đung cần
thiết.

Bộ Học quy của Sarraut chia làm 7 chương có 558 điều, mỗi chương lại
chia thành từng mục lớn và mục nhỏ. Sau đây là những vấn đề chính.

1. Tổ chức

- Bộ Học quy xác định rõ: Công cuộc giáo dục ở Việt nam chủ yếu là
dạy phổ thông và thực nghiệp. Các trường học chia làm: trường Pháp chuyên
dạy học sinh người Pháp theo chương trình "chính quốc", trường Pháp - Việt
chuyên dạy người Việt theo chương trình "bản xứ".

Toàn bộ nền giáo dục chia làm ba cấp:

Đệ nhất cấp: tiểu học

Đệ nhị cấp: trung học

Đệ tam cấp: cao đẳng hay đại học.

Ngoài ra, còn các trường thực nghiệp tức là các trường dạy nghề
tương ứng với bậc tiểu học và trung học.

a) Hệ tiểu học

Hệ tiểu học bao gồm các trường của đệ nhất cấp. Theo học quy của
Sarraut thì mỗi xã đều có một trường tiểu học, nếu xã nhỏ thì hai ba xã gần
nhau có thể tổ chức chung một trường tiểu học. Các trường tiểu học chia làm
hai loại:

- Trường tiểu học bị thể (école primaire de plein exercices) có 5 lớp: lớp
đồng ấu, dự bị, sơ đẳng, lớp nhì và lớp nhất. Ở mỗi tỉnh lỵ và huyện lỵ có một
trường tiểu học bị thể để dạy học trò đi thi lấy bằng tốt nghiệp tiểu học.

- Trường sơ đẳng tiểu học (école élémentaire) là những trường chỉ có


hai hoặc ba lớp dưới mà thôi. Những trường này chủ yếu mở ở các làng xã
"học trò phần nhiều chỉ có thể học mấy năm cho biết đọc biết viết rồi về làm
ruộng, không có chí học đến lấy bằng tốt nghiệp tiểu học thì chỉ nên đặt
trường sơ đẳng mà thôi. Hoặc như có đứa nào sức theo đuổi được hơn nữa
thời lên trường bị thể nào gần đó mà học cho đến khi thi tốt nghiệp".

Học quy còn nói sơ lược về chương trình tiểu học và thời gian dạy các
môn đó. Về chương trình thì đại lược như sau: Tiếng Pháp, toán, tập đọc,
luân lý, vệ sinh, thủ công V.V..

b) Hệ trung học

Trung học chia làm hai: cao đẳng tiểu học và trung học. Theo chương
trình cũ thì trung học chỉ có cao đẳng tiểu học và sau đó là một năm chuyên
ngành. Nhưng trong cải cách của A. Sarraut lại có cả hệ cao đẳng hoặc đại
học do đó phải thêm một bậc trung học nữa để đi thi lấy bằng tú tài. Bậc trung
học được chia làm hai:

- Cao đẳng tiểu học có 4 năm: đệ nhất, đệ nhị, đệ tam và đệ tứ niên,


cuối năm thứ tư học sinh được đi thi để lấy bằng cao đẳng tiểu học (còn gọi là
bằng thành chung hay "đíp lôm").

- Trung học có 2 năm kết thúc bằng kỳ thi lấy bằng tú tài. Đây chỉ là
bằng tú tài "bản xứ" không có giá trị như "tú tài tây".

Toàn bộ các trường tiểu học và trung học đều nằm trong hệ thống
trường Pháp - Việt.

Theo nguyên tắc thì chỉ có những người đậu tú tài mới được thi vào
cao đẳng. Nhưng trong những năm đầu vì chưa tổ chức được trường trung
học nên các học sinh tốt nghiệp cao đẳng tiểu học vẫn được thi vào các
trường cao đẳng (sau này trừ những trường như Nông nghiệp, Điện, tuy cũng
gọi là cao đẳng nhưng vì tính chất học nghề nên vẫn lấy học trò có bằng cao
đẳng tiểu học).

c) Hệ thực nghiệp

Học thực nghiệp ở bậc tiểu học gồm những trường dạy nghề mộc, nề,
rèn, trường gia chánh (école ménagère) trường canh nông, trường mỹ thuật
công nghiệp và mỹ nghệ. Ở bậc trung học có các trường thực nghiệp bị thể
(écoles professionnelles de plein exercices) nghĩa là dạy toàn khoá chứ
không phải chỉ sơ lược như ở đệ nhất cấp. Có thể so sánh sự tương ứng
giữa giáo dục phổ thông và thực nghiệp như sau:

Cấp Phổ thông Thực nghiệp


Đệ nhất cấp Tiểu học, Cao đẳng Trường dạy nghề, gia chánh v.v...

Đệ nhị cấp tiểu học và trung Các trường thực nghiệp bị thể
học
Như vậy, hệ phổ thông sau khi tốt nghiệp trung học, học sinh sẽ thi vào
các trường cao đẳng, còn hệ thực nghiệp thì tuỳ tính chất của từng loại
trường và số năm học sẽ tương ứng với tiểu học hoặc trung học, sau khi tốt
nghiệp sẽ làm việc ở các cơ sở sản xuất.

Trừ các trường cao đẳng và trường trung học Pháp ở Hà Nội là trực
thuộc phủ Toàn quyền, còn các trường phổ thông và thực nghiệp ở xứ nào thì
thuộc quan đầu xứ quản lý có bộ phận chuyên môn giúp việc.

d) Hệ cao đẳng

Về nguyên tắc tổ chức, các trường Cao đẳng Đông Dương họp lại
thành Viện Đại học Đông Dương, nhưng vì các trường cao đẳng chưa mở hết
nên trong học quy này Sarraut cũng chỉ nói những nét khái quát mà thôi.

- Trường Sĩ hoạn ở Hà Nội và trường Hậu bổ ổ Huế là những trường


chuyên đào tạo quan lại, theo quy chế này sẽ ngừng hoạt động và tổ chức lại
trực thuộc Giám đốc đại học Đông Dương quản lý.

- Trường Y học Đông Dương, trường Thú y vẫn tiếp tục học.

- Trường Công chính sẽ trực thuộc vào Giám đốc Đại học Đông Dương.

- Bỏ các lớp dạy luật (Cours de droit) đặt ra theo nghị định ngày 29-3-
1910.

đ) Các khoa thi

Theo Học quy mới này, các khoa thi sẽ chia làm hai loại: loại thi theo
chương trình "bản xứ" và loại thi theo chương trình Pháp.
Loại thi theo chương trình "bản xứ":

- Thi tốt nghiệp tiểu học.

- Thi tốt nghiệp trung học bao gồm cao đẳng tiểu học và trung học (tú
tài).

Loại thi theo chương trình Pháp:

- Bằng sơ học (Brevet élémenteire).

- Bằng cao đẳng (Brevet supérieur).

- Bằng tú tài Tây.

Thi tốt nghiệp các trường cao đẳng sẽ có quy chế riêng.

Trên đây là những điểm cơ bản nhất, ngoài ra bộ Học quy của Sarraut
còn đề cập những vấn đề khác nhau: Quyền hạn của Nha Học chính, của Hội
đồng cố vấn; quy chế về ngạch bậc giáo viên, lương giáo viên và về thăng trật
giáo viên v.v...

2. Môt số vấn đề xung quanh bộ Học quy mới của Sarraut

a) Vấn đề dạy chữ Pháp

Không kể thời kỳ các võ quan nắm quyền cai trị ở Nam Kỳ hoặc những
toàn quyền kế vị P. Bert như De Lanessan, Doumer v.v... mà ngay sau khi
toàn quyền P. Beau đưa ra chương trình cải cách lần thứ nhất việc dạy chữ
Pháp vẫn được bàn cãi. Vấn đề là không phải nên bỏ hay nên học chữ Pháp,
tiếng Pháp chữ Pháp thì không thể bỏ, đó là chủ trương bất di bất dịch,
nhưng nên dạy chữ Pháp bắt đầu từ lớp nào cho thích hợp? Toàn quyền P.
Beau cho dạy tiếng Pháp ngay từ lớp đầu tiên khi trẻ em mới bước chân tới
trường với một chương trình khá nặng, nhưng đã không thành công vì những
lý do đã trình bày ở chương trước. Báo Trung Bắc Tân Văn viết: "Dạy cho
người thuộc địa là dạy cho biết yêu Đại Pháp là việc trước hết... Sau nữa là
để dần dần khiến cho người thuộc địa phải dùng tiếng Đại Pháp thì mới thân
được với người Đại Pháp". Đó là mục tiêu lâu dài của người Pháp ở xứ này,
nhưng không phải vì thế mà bắt trẻ con Việt Nam học ngay bằng tiếng Pháp
được. Như vậy thì quá tốn kém vì phải có rất nhiều thầy giáo dạy tiếng Pháp,
rất nhiều sách giáo khoa bằng tiếng Pháp ngay một lúc của các cấp học.
Người Mỹ dạy tiếng Anh ở thuộc địa của họ có thể làm được như vậy vì họ
giàu, nhưng nước Pháp thì không nên làm như vậy mà "Cách tốn ít nhất là chỉ
dạy quốc ngữ mà thôi. Có một cách tốn vừa phải mà lợi nhất là mở rộng các
trường Pháp - Việt ra”. Dĩ nhiên, không phải chỉ có học quốc ngữ không thôi
mà đây là bước đầu "Bởi vì người An Nam muốn học chữ Pháp cho đến nơi
trước hết phải thông hiểu tiếng nước mình đã". Sau này Phạm Quỳnh sẽ còn
phân tích sâu sắc, cặn kẽ và đầy thuyết phục hơn mối tương quan giữa việc
học quốc ngữ và chữ Pháp, nhưng lúc này ý kiến của báo Trung bắc Tân Văn
vẫn là một ý kiến được nhà cầm quyền chú ý. Điều 134 trong Học quy của
Sarraut viết: "Về nguyên tắc tất cả các môn học ở bậc tiểu học phải dùng chữ
Pháp làm phương tiện giảng dạy", nhưng thực tế việc làm đó gặp nhiều khó
khăn và đã thất bại từ thời P. Beau. Trong thông tri đề ngày 20-3-1918,
Sarraut lại nói là tiếng Pháp bắt đầu dạy từ lớp ba, nghĩa là sau khi học trò đã
đọc thông viết thạo tiếng mẹ đẻ, vả lại việc này cũng phù hợp với những
trường sơ đẳng tiểu học của các làng xã chỉ dạy vài năm rồi học trò lại trở về
đi cày chứ không phải dạy 5 năm như những trường tiểu học bị thể.

b) Vấn đề dạy chữ quốc ngữ và chữ Hán

Như đã trình bày ở trên, vấn đề dạy chữ Pháp có liên quan mật thiết với
dạy chữ quốc ngữ và ngược lại - Theo quy chế mới thì chỉ những trường sơ
đẳng mới dạy hoàn toàn bằng chữ quốc ngữ, còn các trường tiểu học kiêm bị
thì hai lớp dưới học bằng chữ quốc ngữ, từ lớp ba trở lên phải dùng hoàn
toàn tiếng Pháp. Ở đây, vấn đề quyết định là nội dung giảng dạy chứ không
phải tiếng Pháp hay tiếng Việt. Người Pháp sẽ không bao giờ cho dùng tiếng
Pháp để truyền bá tư tưởng cách mạng chống lại họ và dĩ nhiên tiếng Việt thì
phải là "cỗ xe dùng để chở tư tưởng Pháp, tất cả những khái niệm mà học
sinh cần phải có về những bước tiến đã được thực hiện trên đất nước của họ
từ khi người Pháp sang cai trị, nói lên đầy đủ về hoà bình, an ninh, về sự khai
thác những tài nguyên thiên nhiên, về sự phát triển giáo dục, y tế, tóm lại là
sự nghiệp người Pháp ở Đông Dương". Chỉ riêng nội dung giảng dạy tiếng
Việt ở bậc tiểu học cũng phải như vậy. Học tiếng Việt còn giúp cho học tiếng
Pháp được dễ dàng hơn, vì "Học tiếng Pháp nhớ được tiếng Pháp đã là khó
rồi, nhất là những tiếng trừu tượng, phần nhiều xưa nay trong tiếng An nam
không có bao giờ thì lại càng khó lắm. Trước khi học đến những tiếng ấy cho
được vỡ nghĩa, cho nhớ được ta hãy nên dùng cái tiếng thường mẹ ru vú hát
của đứa trẻ mà dạy cho nó hiểu qua loa mấy điều cốt yếu thì đến khi học đến
chữ Tây nó mới hiểu được rõ nghĩa"

Phạm Quỳnh cũng đã cân nhắc việc nên học chữ Pháp hay chữ quốc
ngữ ở bậc tiểu học, đã nhất trí với ý kiến trên và nói thêm: "Biết nói tiếng
Pháp hơi đúng đã phải là có Pháp học chưa? Cái Pháp học ấy dùng ngay
bằng tiếng An Nam há chẳng phải là dễ hiểu hơn ư? Như vậy vấn đề đã rõ
ràng. Việc dạy chữ quốc ngữ phải hướng vào những nội dung phục vụ cho lợi
ích của người Pháp. Còn việc dạy chữ Hán trong các trường Pháp - Việt thì
không phải bàn cãi nhiều, vì nền giáo dục phong kiến đã bị xoá bỏ hoàn toàn,
do đó việc dạy được quy định như sau:

- Đối với trường sơ đẳng tiểu học thì chữ Hán không phải là môn bắt
buộc nghĩa là học trò muốn học hay không là tuỳ ý của từng người. Những
trường nào muốn dạy chữ Hán phải có sự thoả thuận giữa cha mẹ học sinh,
Hội đồng kỳ mục xã và hiệu trưởng. Thầy dạy chữ Hán phải do nhà trường và
Hội đồng kỳ mục lựa chọn và phải dạy tại trường, mỗi tuần 1 giờ 30 phút vào
sáng thứ 5 hàng tuần. Hiệu trưởng phải chịu trách nhiệm về nội dung và
phương pháp dạy chữ Hán của thầy giáo, không được vắng mặt trong buổi
sáng thứ năm và phải theo dõi, giám sát thái độ giảng dạy của giáo viên.

- Đối với các trường tiểu học kiêm bị, nếu phụ huynh học sinh và chính
quyền địa phương yêu cầu học chữ Hán, thì Thống sứ hoặc Khâm sứ sau khi
tham khảo ý kiến Hội đồng hàng tỉnh rồi mới ra quyết định đưa chữ Hán thành
môn học bắt buộc, tuy vậy cũng chỉ đối với hai lớp cuối cấp mà thôi.
Như vậy, với việc ban hành những quy chế mới, Sarraut đã xoá bỏ
hoàn toàn nền giáo dục phong kiến xác lập một nền giáo dục mới, phục vụ
cho công cuộc khai thác thuộc địa.

II - NHỮNG KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU CỦA VIỆC THỰC HIỆN CẢI CÁCH
GIÁO DỤC LẦN THỨ HAI

Nếu như chương trình cải cách giáo dục của toàn quyền P.Beau tiến
hành khá chậm chạp thì việc thực hiện những quy chế mới lần này được xúc
tiến khá tích cực. Một là tình hình chính trị tương đối ổn định, hai là về tổ chức
và giảng dạy họ đã tích luỹ được một số kinh nghiệm thất bại cũng như thành
công, cho nên lần này họ làm có trọng điểm không chạy theo tuyên truyền
chính trị như toàn quyền P. Beau đã từng làm: mở trường Đại học chẳng
hạn). Mặt khác, họ cũng phải gấp rút đào tạo một số công nhân và cán bộ kỹ
thuật phục vụ trong các xí nghiệp và đồn điền đang được mở rộng.

Kể từ năm 1918, Học quy mới bắt đầu có hiệu lực, đến năm 1923, số
học sinh ở các hệ thống kê được như sau:

1. Hệ tiểu học và trung học

Sau 5 năm thực hiện cải cách chỉ tính riêng số trường tiểu học, trung
học và học sinh đã đạt được trong niên khoá 1922 - 1923 là: (xem bảng sau)
Trường Bắc Kỳ Trung Kỳ Nam Kỳ Tổng cộng

Trường Học sinh Trường Học sinh Trường Học sinh Trường Học sinh

Hệ tiểu
học
- Tiểu học
89 30 41 160
kiêm bị
- Trường
182 59.953 118 32.330 184 74.410 484
sơ đẳng
-Trường
868 670 747 2.386 161.693
sơ học
Hệ trung
học
- Trung
1 47 1 39 2 86
học
- Cao
đẳng tiểu 2 481 2 335 3 515 7 1.33
học
Tổng cộng 1.142 55.481 820 32.665 1.077 74.961 3.039 163.110

Qua bảng thống kê trên có thể thấy, sau khi Học quy của Sarraut được
ban hành, nhà cầm quyền Pháp đã mở nhiều trường học hơn trước, nhưng
tuyệt đại bộ phận lại là trường tiểu học: 3.030 trên tổng số 3.039 trường
chiếm 99,8%, chỉ có 7 trường cao đẳng tiểu học, còn trung học thì vẻn vẹn có
2 trường! Trong số 3.030 trường tiểu học lại có đến 2.870 trường sơ đẳng (chỉ
có 1 đến 3 lớp dưới của bậc tiểu học). Như vậy, trong toàn nước ta chỉ có 160
trường tiểu học kiêm bị. Một điểm chúng ta cần lưu ý là trong các trường sơ
đẳng thì trường sơ học do làng xã đóng góp lại chiếm một tỷ lệ rất cao (2.386
trường chiếm 78,7%).

Về ngân sách thì trong năm 1922, phần chi cho giáo dục cả nước là 3
triệu 118 ngàn đồng, trong đó đã có 1 triệu 691 ngàn đồng là "học phí" (fonds
de concours) do các làng xã nộp. Như vậy, nhân dân đã phải đóng góp khá
nhiều (theo số liệu trên là quá nửa) để xây dựng trường lớp và trả lương cho
thầy giáo chứ không phải như trong quy chế của Sarraut đã ghi là "kinh phí
các trường tiểu học do ngân sách địa phương (ngân sách hàng tỉnh đài thọ)".

Trường lớp thì như đã trình bày, còn chất lượng giảng dạy cũng còn rất
thấp. Ở các trường tiểu học, nhất là tiểu học kiêm bị việc dạy tiếng Pháp gặp
khá nhiều khó khăn vì giáo viên mới đào tạo, trình độ còn yếu không thể đáp
ứng việc dạy học bằng tiếng Pháp như đã quy định. Ở các trường cao đẳng
tiểu học, chương trình giống như trường trung học Pháp và do các giáo viên
nước ngoài dạy kể cả người Anh, Ý, Tây Ban Nha, cho nên, học sinh ở bậc
này tiếp thu nội dung không phải dễ dàng, do đó việc thi tốt nghiệp để rồi lên
học ở trường trung học quả là thật khó khăn. Đó là chưa kể những "thầy
giáo", "bà giáo" bất đắc dĩ, trình độ văn hoá và sư phạm rất hạn chế cũng
được lên bục giảng đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng học sinh.

2. Hệ chuyên nghiệp và cao đẳng

Sarraut là một toàn quyền có chú ý đến việc mở trường chuyên nghiệp
và cao đắng. Trong một bài diễn văn đọc vào tháng 8-1919, Sarraut tự hào là
đã tổ chức được những trường chuyên nghiệp mà trước đó chưa ai nghĩ đến
như trường nông nghiệp Bến Cát (Nam Kỳ); Tuyên Quang (Bắc Kỳ), Sarraut
còn có những dự kiến to lớn như thành lập các trường Cao đắng nông nghiệp
Hà Nội, trường cao đẳng Cơ điện, Hoá học, trường Khoa học công nghiệp
v.v... Sarraut còn hứa hẹn cấp học bổng cho một số học sinh giỏi sang Pháp
học ở các trường Công chính, Kiến trúc, Dệt v.v... Nhưng cho đến năm 1923,
cũng chỉ mới có một số trường dạy nghề ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải
Phòng, Nam Định, Huế chuyên đào tạo thợ sửa chữa cơ khí, trường Canh
nông Bắc Kỳ, Nam Kỳ tổng cộng 1.148 học sinh. Ngoài ra, còn một số trường
mỹ thuật ứng dụng Hà Nội; mỹ nghệ "bản xứ” ở các tỉnh Biên Hoà, Gia Định,
Thủ Dầu Một vẫn hoạt động nhưng số học sinh khi tăng khi giảm. Điều này
cũng dễ hiểu vì nhu cầu mỹ thuật (ứng dụng) và mỹ nghệ (bản xứ) chủ yếu là
xuất khẩu nên chưa cẩp thiết bằng sự phát triển của các xí nghiệp cơ khí
phục vụ cho việc sửa chữa máy móc ở các nhà máy, đồn điền và các hầm mỏ
đang được mở rộng và khai thác.

Hệ cao đẳng trong thời gian này có thêm một số trường mới:

- Ngày 8-7-1917, Sarraut ký nghị định thành lập các trường cao đẳng
Luật và Pháp chính, Sư phạm, Công chính, Thương mại.

- Năm 1918, trường Cao đẳng Nông nghiệp được thành lập để đào tạo
những cán sự chuyên môn về nông nghiệp.

- Cũng năm 1918, trường Y học Đông Dương sau gần 20 năm hoạt
động được đổi thành trường Kiêm bị cao đắng Y - Dược (Ecole de plein
exercices de Médecine et de Pharmacie) nhưng vẫn giữ ban Y sĩ và Dược sĩ
Đông dương.

Trong niên khoá 1922 - 23, số sinh viên các trường cao đẳng được
phân bố như sau:

1- Y Dược 106

2- Công chính 104

3- Thương mại 55
4- Luật và Pháp chính 51

5- Canh nông 45

6- Sư phạm 41

7- Thú ý 34

Tổng cộng 436

Trong thống kê trên ta thấy trường Y dược chiếm đầu bảng về số sinh
viên, nhưng cũng quá nhỏ nhoi so với dân số nước ta lúc đó, vả lại đa số
những bác sĩ và dược sĩ đều tập trung ở thành phố mở bệnh viện tư, phòng
bào chế tư hoặc trong biên chế của quân đội Pháp. Trong khi đó trường Sư
phạm đào tạo giáo viên lại chỉ chiếm một tỷ lệ rất ít, gần cuối bảng (41 sinh
viên) chỉ hơn trường Thú y (34 sinh viên) là những bác sĩ phục vụ nhu cầu
chữa bệnh gia súc trong các đồn điền của tư bản Pháp. Tuy nhiên, do những
hạn chế nhiều mặt (trình độ sinh viên chưa đồng đều, thời gian học còn ngắn,
chương trình đào tạo chưa hoàn chỉnh...) nên tuy tốt nghiệp cao đẳng thực
chất họ chỉ có trình độ trung cấp.

Nhìn lại 5 năm (1918 - 1923) sau khi bộ Học quy của Toàn quyền
Sarraut ra đời, nhà cầm quyền Pháp đã xây đựng được bước đầu một hệ
thống giáo dục từ tiểu học đến cao đẳng, trong đó số trường Pháp - Việt đóng
vai trò quan trọng làm cầu nối cho giáo dục phổ cập với giáo dục chuyên
nghiệp và cao đẳng, phục vụ công cuộc khai thác lần thứ hai. Sarraut đã loại
trừ nền giáo dục phong kiến, xây dựng một nền giáo dục thống nhất cho cả
ba kỳ về nội dung, tổ chức, phương pháp giảng dạy. Kết quả bước đầu tuy
còn nhỏ bé, nhưng "mô hình Sarraut" đủ để làm cơ sở cho những toàn quyền
đi sau kế thừa và mở rộng.

III - PHÁT TRIỂN VÀ CỦNG CỐ NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM

1. Mở rộng bậc tiểu học

Một trong những việc phải làm gấp theo kế hoạch của những toàn
quyền kế tục Sarraut là mở rộng giáo dục làng xã, trước hết, để tuyên truyền
về việc "nước Pháp rất chú ý đến truyền thống hiếu học của dân An Nam", hai
là, để đối phó với những bất mãn có thể xảy ra trong nhân dân khi hàng loạt
Trường chữ Hán ở các thôn xóm phải nghỉ học sau khi chủ trương cải cách
giáo dục được ban hành.

Năm 1923, Merlin thay Sarraut, bãi bỏ quy định học tiếng Pháp từ lớp
sơ đẳng mà chỉ bắt buộc dạy ở hai lớp nhì và lớp nhất thôi, tuy vậy nếu là
trường tiểu học kiêm bị thì số giờ học tiếng Pháp ngay từ 3 lớp dưới vẫn
chiếm một tỷ lệ nhất định. Theo Merlin, ở hệ tiểu học từ các trường kiêm bị,
trường sơ đẳng hay sơ học cho đến các lớp học gia đình do tư nhân tổ chức
đều nằm trong kế hoạch giáo dục phổ cập. Khác với Sarraut, Merlin quy định
sau khi học xong ba năm bậc sơ đẳng, học sinh phải thi sơ học yếu lược rồi
mới được lên lớp trên. Nhưng những lớp này (lớp nhì và lớp nhất) phải học
bằng tiếng Pháp cho nên phần nhiều học sinh nông thôn không thể theo
được. Để tránh chỗ bất hợp lý này, năm 1927 lại có Nghị định mở thêm lớp
nhì đệ nhất (cours moyen première année) làm lớp chuyển tiếp giữa lớp sơ
đẳng và lớp nhì đệ nhị (moyen deuxième année). Như vậy, với kỳ thi sơ học
yếu lược một số lớp học sinh đã bị rơi rụng đi, rồi với việc dạy bằng tiếng
Pháp ở các lớp trên của bậc tiểu học, số lượng học sinh lên đến lớp nhất còn
lại rất ít. Chỉ lấy số liệu của năm 1925 là năm chưa tổ chức lớp nhì đệ nhất,
cũng có thể chứng minh được điều này:

Niên khoá 1924 - 25 tổng số học sinh ở Việt Nam: 187.000 (số tròn).

Lớp đồng ấu chiếm 90.000 = 48%

Lớp dự bị 54.500 = 29%

Lớp sơ đẳng 25.500 = 14%

Lớp nhì và lớp nhất 17.000 = 9%

Lớp Số giờ học Số giờ học tiếng Pháp mỗi tuần


mỗi tuần Bắc Kỳ Trung Kỳ Nam Kỳ
Đồng ấu 27,30 giờ 5 giờ 5 giờ 5,30 giờ
Dự bị 27,30 giờ 7,30 giờ 7 giờ 7,47 giờ
Sơ đẳng 27,30 giờ 9 giờ 10 giờ 8,45 giờ
Qua số liệu trên ta thấy cứ lên mỗi lớp thì số học sinh vơi đi xấp xỉ một
nửa. Cứ 100 em học sinh vào lớp đồng ấu thì 48 em lên lớp dự bị, 29 em lên
lớp sơ đẳng, 14 em lên lớp nhì và đến lớp nhất thì chỉ còn 9 em!

Kế hoạch của Merlin chưa đem lại kết quả mong muốn vì ở nhiều
huyện, nhiều tỉnh nhất là Bắc Kỳ và Trung Kỳ trường học chữ Hán lại mọc lên,
bởi vậy tháng 12 năm 1926, toàn quyền Đông Dương lại ký Nghị định thành
lập một loại trường học mới gọi là "trường phổ cập giáo dục" do các làng xã
chịu trách nhiệm về trường lớp, tuyển dụng giáo viên, lương và các chi phí
khác, Nha Học chính chỉ chịu trách nhiệm chỉ đạo phần chuyên môn. Nhà
cầm quyền Pháp rất khuyến khích mở loại trường này, vì họ cho rằng chẳng
những nó phù hợp với truyền thống hiếu học mà còn đáp ứng được tính tự
hào của nhân dân khi trong làng có một trường học riêng của mình. Tuy vậy,
trong quá trình tổ chức họ cũng căn cứ vào tình hình của từng địa phương mà
đề ra biện pháp cụ thể. Ở Bắc Kỳ về nguyên tắc mỗi làng đều có một trường
gọi là trường "hương học", ở Trung Kỳ dân cư thưa hơn nên có thể tổ chức
loại trường "liên hương" tức là hai ba làng gần nhau thì tổ chức một trường,
thực chất đây cũng là trường hàng tổng. Ở Nam Kỳ, trường làng đã phát triển
khá dày (chỉ còn 115 làng chưa có trường trên tổng số 1419 làng) nên chỉ cần
tổ chức những lớp "bổ trợ dự bị" (cours auxiliaires préparatoires) cho những
làng chưa có điều kiện mở trường. Như vậy, bên cạnh những trường công do
Nhà nước đài thọ còn có loại trường do các làng xã tự đứng ra tổ chức.
Chương trình ở các trường này dạy từ 1 đến 3 năm nên phải hết sức đơn
giản và dễ áp dung vào đời sống. Nó nhằm làm cho học sinh dù học chỉ một
năm cũng có thể đọc thông viết thạo và làm bốn phép tính, còn lên các năm
sau thì càng mỏ rộng trên cơ sở của những hiểu biết cũ. Về khoa học thường
thức học sinh được học một số điều đơn giản về phép giữ gìn vệ sinh nhằm
chống lại những bệnh phổ biến như sốt rét, mắt hột, đề phòng các bệnh tả, lỵ,
thương hàn, đậu mùa v.v... một số điều đơn giản về nghề nông, chăn tằm và
ít nhiều kiến thức có ích cho nghề thủ công ở địa phương (dệt chiếu, làm
miến v.v...) Môn học luân lý như thờ cúng tổ tiên, bổn phận đối với ông bà,
cha mẹ, anh chị em cũng được đưa vào dạy ngay từ lớp đầu tiên. Ngoài việc
giản lược chương trình đến mức thấp nhất nhưng thiết thực, việc lựa chọn và
đào tạo giáo viên cũng được dễ dàng hơn. Nếu trước kia những công việc
này phải tuân theo những quy chế chặt chẽ, như phải do tỉnh duyệt thì nay
cũng được giao cho làng xã. Những người có bằng Sơ học yếu lược hoặc
bằng khoá sinh chỉ cần làm tờ cam đoan tuân theo luật lệ của làng xã trong
việc dạy dỗ con em là có thể dự tuyển. Tiền lương cũng do sự thoả thuận
giữa thầy giáo và hương lý, có thể là tiền, cũng có thể là ruộng đất cho gia
đình giáo viên cày cấy thu hoa lợi. Việc bồi dưỡng để nâng cao trình độ
chuyên môn cho giáo viên cũng được tiến hành có kế hoạch cụ thể. Hằng
năm cứ vào dịp hè, cơ quan Học chính tỉnh lại tập trung giáo viên về tỉnh lỵ để
bồi dưỡng nghiệp vụ. Những lớp này thường do hiệu trưởng và một hoặc hai
giáo viên trường tiểu học Pháp - Việt tỉnh chịu trách nhiệm. Thời gian học
không quá 6 tuần, phương pháp học nhẹ nhàng, thoải mái, mỗi ngày học hai
buổi nhưng mỗi buổi chỉ có 1 giờ. Buổi sáng, thường dành riêng để học
chuyên môn, buổi chiều thực tập lớp đồng ấu và lớp dự bị.

Chính sách khuyến khích mở loại trường phổ cập đã đem lại những kết
quả khá hơn trước. Ở Bắc Kỳ, riêng năm học 1929 - 30, có 35 trường được
mở thêm, nếu tính tổng số loại trường này từ khi có nghị định thành lập thì
con số lên tới 835 trường với 879 lớp và 27.627 học sinh. Cũng nhờ tổ chức
ở ngay làng xã nên số học sinh gái đã tăng lên (từ 965 em năm học 1928 - 29
đến 1929 - 30 là 1.322 em). Ở hầu hết các tỉnh đồng bằng và trung du đều có
trường, tỉnh nhiều nhất là Hải Dương có 151 trường với 4.871 học sinh, tỉnh ít
nhất là Bắc Giang có 16 trường với 560 học sinh. Ngay cả những tỉnh miền
núi cư dân thưa thớt, trước chưa có trường mà đến 1930 tỉnh Hà Giang đã
mở được 11 trường với 236 học sinh, Cao Bằng 2 trường với 53 học sinh.

Ở Trung Kỳ, số trường "phổ cập giáo dục" này cũng phát triển rất
nhanh, nếu như tháng 7-1919 là khi bắt đầu tiến hành cải cách giáo dục, các
trường chữ Hán bị bãi bỏ, ở Trung Kỳ số trường dạy quốc ngữ còn rất ít ỏi thì
đến năm 1930 ở đây đã có 526 trường suýt soát với Bắc Kỳ, tỉnh nhiều nhất
là Thanh Hoá với 124 trường, phổ biến là trên dưới 50 trường, nhưng cũng có
tỉnh như Quảng Nam 95 trường, Quảng Ngãi 80 trường. Riêng Nam Kỳ, nền
giáo dục tiểu học đã phát triển khá đồng đều nên những lớp "bổ trợ dự bị" chỉ
dành cho những làng xã chưa có điều kiện tổ chức trường học, nay cũng đã
có 32 lớp với 1.584 học sinh trong các tỉnh Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Long Xuyên
và Châu Đốc.

2. Phát triển giáo dục vùng dân tôc ít người

Đi đôi với việc mở rộng giáo dục bậc tiểu học, giáo dục vùng dân tộc ít
người cũng được chú ý hơn trước, đương nhiên ở đây không phải người
Pháp chỉ có mục đích tuyên truyền cho cuộc "khai hoá", mà cốt sao cho mỗi
làng đều có người có thể truyền đạt được những công văn từ tỉnh, huyện gửi
về. Với mục đích đó, Nha học chính đã đề ra phương châm là cố gắng sao
cho mỗi dân tộc đều học bằng tiếng mẹ đẻ. Việc này gặp nhiều trở ngại lớn về
tổ chức, về sách giáo khoa nên tuỳ tình hình thực tế mà nhà cầm quyền Pháp
đã tổ chức giáo dục thích hợp cho từng địa phương. Ở Nam Kỳ, dân tộc Khơ-
me, sống xen kẽ với người Việt trong các tỉnh Bạc Liêu, Cần Thơ, Châu Đốc,
Rạch Giá, Tây Ninh v.v..., nhưng họ vẫn giữ được tiếng nói, phong tục, và từ
lâu đời, họ đã có những trường học - nhà chùa do sư sãi chịu trách nhiệm
vừa dạy chữ vừa giảng về lý thuyết Phật giáo, ở những vùng này, người Pháp
vẫn cho giữ nguyên những trường học - nhà chùa nhưng có dạy thêm
chương trình của 3 lớp đồng ấu, dự bị, sơ đẳng do Nha Học chính biên soạn
bằng tiếng Khơ-me, tiếng Việt và tiếng Pháp coi như tình nguyện. Sau ba
năm, học sinh có trình độ tương đương sơ học của các trường Pháp - Việt.
Để có thể dạy được chương trình của Nha Học chính, giáo viên đều phải có
bằng Sơ học yếu lược và được gửi đi đào tạo ở Phnông-pênh hoặc Căm Pốt
(Căm-pu-chia). Cho đến năm 1930, nhờ phát triển trường học - nhà chùa, một
loại trường truyền thống của vùng dân tộc Khơ-me Nam Kỳ, ở đây đã có
6.111 học sinh trong đó có 3 trường nội trú cho 113 học sinh (2 ở Biên Hoà và
1 ở Thủ Dầu Một).
Việc giáo dục cho các dân tộc ít người ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ gặp nhiều
khó khăn, bởi vì tuyệt đại đa số sống rải rác ở vùng núi do đó muốn có trường
học thì trước hết phải tổ chức nội trú, nhưng học sinh miền núi lại chưa quen
sống xa gia đình, mỗi dân tộc lại có ngôn ngữ, sinh hoạt, phong tục tập quán
khác nhau do đó tổ chức nội trú không dễ dàng. Tuy vậy, sau 2 năm vận động
đến năm 1929 và nhất là năm 1930 ở các tỉnh miền núi đã có được một số cơ
sở nội trú. Ở Trung Kỳ có ba trường ở ba tỉnh Kon Tum, Pleiku, Ban Ma Thuật
cho 229 học sinh các dân tộc Gia-rai, Ba-na, Sê-đăng và Ra-đê. Ở Bắc Kỳ,
các dân tộc ít người sống phân tán nên có đến 7 trường nội trú (Cao Bằng 2
trường, Bắc Cạn, Hoà Bình, Lai Châu, Thái Nguyên, Yên Bái) cho 261 học
sinh người Mường, Thái, Tày, Dao. Để việc sử dụng ngôn ngữ được thuận
lợi, Nha Học chính đề ra nguyên tắc chung, lấy ngôn ngữ của dân tộc đống
nhất làm ngôn ngữ chính cho một vùng, còn nếu ngôn ngữ quá phân tán thì
dùng tiếng Việt hoặc tiếng Pháp. Việc đào tạo giáo viên cũng được chú ý tiến
hành bằng nhiều phương thức. Trường Sư phạm Hà Nội đã tổ chức riêng một
"ban sư phạm miền núi", ở vùng Thanh Hoá, Huế đều có học sinh người thiểu
số học ở trường tiểu học kiêm bị, trường cao đẳng tiểu học Vinh, trường Sư
phạm Huế. Những học sinh này sẽ trở thành những giáo viên cho các vùng
núi bắc Trung Kỳ và Tây Nguyên. Đi đôi với việc đào tạo giáo viên, Nha Học
chính cũng đã biên soạn và phát hành được một số sách giáo khoa dịch từ
tiếng Việt. Ở Bắc Kỳ, có sách tập đọc bằng 3 thứ tiếng Việt, Tày, Pháp. Ở
Trung Kỳ, có 2 cuốn sách học vần cho người Gia Lai và Ba-na.

Đến năm học 1929 - 1930 số học sinh miền núi của Bắc Kỳ và Trung Kỳ
đã có:

- Bắc Kỳ: 18.855 (trong đó có 4.572 học sinh người Việt)

- Trung Kỳ: 2.556 (trong đó có 1.179 học sinh người Việt)

- Nam Kỳ: 6.111 học sinh người Khơ-me.

Riêng dân tộc Ê-Đê là một dân tộc đông người có khả năng tiếp thu
nhanh, nên từ 1926 một trường tiểu học đã được thành lập. Đến năm 1930,
một số học sinh tốt nghiệp bằng tiểu học Pháp: Ê-Đê đã được cử đi học các
trường Sư phạm, trường Bách nghệ ở Huế, họ đã trở thành nòng cốt cho
vùng này trong các lĩnh vực giáo dục, kỹ thuật, hành chính v.v...

Những con số vừa nêu là kết quả của chính sách giáo dục phổ cập của
nhà cầm quyền Pháp được thực hiện từ 1927, nó có tiến bộ hơn so với
những năm trước, nhưng trong thực tế nhu cầu về học hành của nhân dân ta
còn lớn hơn nhiều, mà sự đáp ứng thì còn rất hạn hẹp, riêng những vùng dân
tộc thiểu số thì những kết quả lại càng nhỏ bé.

3. Tăng cường chương trình bậc trung học

Theo Nghị định ngày 26-12-1924, sau hai năm học ở bậc trung học,
học sinh sẽ có một trình độ cao hơn phần thứ nhất của tú tài Pháp, nhưng lại
chưa ngang với tú tài toàn phần cho nên học sinh chưa được thi vào các
trường cao đẳng bên Pháp. Theo quy chế này bằng tú tài "bản xứ" được nâng
lên hơn tú tài phần thứ nhất, nhưng vẫn chưa bằng tú tài Pháp toàn phần.
Như vậy, vẫn có hiện tượng không bình đẳng giữa trung học Pháp với "bản
xứ" và không có lợi cho nhà cầm quyền. Người ta cho rằng nếu tú tài "bản
xứ" chỉ có một phần và nhất là vì đó mà học sinh không được thi vào các
trường cao đẳng hay đại học Pháp, thì kết quả của nó là người dân sẽ mất
lòng tin, sẽ suy bì về sự phân biệt đối xử giữa các học sinh có bằng tú tài
Pháp và "bản xứ". Do vậy, ngày 23-12-1927, toàn quyền Đông Dương lại ký
nghị định tăng thêm bậc trung học một năm nữa là 3 năm và học sinh sẽ
được đi thi lấy bằng tú tài "bản xứ" phần thứ hai (Brevet de capacité de
l’enseignement secondaire franco - indigene 2ème partie). Một vấn đề được
đặt ra là có nên chia tú tài phần thứ hai thành 2 ban khoa học và văn học như
tú tài Pháp hay cứ để nguyên không chuyên môn hoá? Người ta cho rằng,
không nên chia thành hai, vì muốn rằng chương trình của ban tú tài "bản xứ"
là một sư tổng hợp hoàn chỉnh và hài hoà của tất cả những kiến thức về khoa
học và văn học có trong chương trình của tú tài "chính quốc" và người ta cũng
cho rằng cùng một trình độ nhưng học sinh người Việt thường nhiều tuổi hơn,
như vậy tuy họ có chín chắn hơn nhưng nhận thức lại không nhanh bằng học
sinh Pháp. Hơn nữa, từ tiểu học lên đến tú tài đều được dạy bằng hai thứ
tiếng, từ khi bắt đầu cắp sách tới trường học sinh đã phải học cả hai tiếng
Pháp và tiếng mẹ đẻ, cho nên việc không chuyên môn hoá sẽ tạo điều kiện
cho học sinh rèn luyện cả hai thứ tiếng ngày càng sâu sắc hơn. Đó là những
lý do không chia tú tài phần thứ hai thành hai ban, mà bất cứ học sinh nào
sau khi đã đổ phần thứ nhất muốn thi phần thứ hai đều phải thi cả văn học và
khoa học, và ngày 12-10-1930, nhà cầm quyền Pháp đã ra Nghị định thừa
nhận tú tài "bản xứ" có giá trị tương đương tú tài Pháp. Gọi là "bản xứ" nhưng
nội dung hầu như dập mẫu của chương trình Pháp. Tiếng Pháp là môn đứng
đầu bảng của các môn xã hội (6 giờ) ngang toán là "anh cả" của các môn tự
nhiên. Ngay từ năm thứ nhất mỗi tuần học sinh phải học 6 giờ về các môn
như lịch sử văn học Pháp và trích đoạn thơ văn các tác gia tiêu biểu từ thế kỷ
XVII (Corneille) đến thế kỷ XIX (Musset) đọc hợp tuyển thơ văn các tác gia
thế kỷ XIX và đương đại cùng các nhà đạo đức học tiêu biểu của các thế kỷ
XVII đến XIX.

Năm thứ hai với 4 giờ mỗi tuần, ngoài các trích đoạn các nhà thơ, nhà
văn, học sinh còn học đến các tác phẩm của các nhà sử học, các nhà phê
bình, các nhà văn viết về khoa học, các nhà đạo đức học và các nhà viết kịch
thế kỷ XIX.

Năm cuối bậc trung học tuy chỉ có 3 giờ mỗi tuần nhưng chương trình
vẫn rất nặng, vì phải ôn lại hệ thống lịch sử văn học từ thời kỳ Phục hưng (thế
kỷ XV-XVI) các trường phái văn học từ thế kỷ XVIII đến đương đại. Về môn
tập làm văn thì trong cả 3 năm, học sinh phải làm những bài nghị luận văn
học, về các tác phẩm đã học cũng như về luân lý, đạo đức.

Trong khi phải học một chương trình tiếng Pháp nặng nề như vậy thì
văn học Việt Nam và chữ Hán (vì hai môn này có liên quan với nhau theo cấu
tạo của chương trình) học sinh chỉ được học rất qua loa, nhưng mục tiêu xem
ra cũng không phải đơn giản:

- Làm cho học sinh có một số vốn chữ Hán để có thể đọc và hiểu được
những bài Hán văn thông thường hoặc cổ điển dễ.
- Bước đầu tìm hiểu được những tác phẩm văn học, triết học lớn của
Trung Quốc cổ đại cũng như các tác phẩm văn học Việt Nam viết bằng chữ
Hán. Trong ba năm, học sinh phải học cả văn học Việt Nam cổ điển mà
chương trình xếp vào loại Văn học Hán - Việt" (littérature sino - annamite)
cùng với văn học cổ đại Trung Quốc…

Triết học là một môn học mới và khó, vì chẳng những nó phải giải thích
những khái niệm rất trừu tượng mà lúc bấy giờ ngay tiếng Việt cung ít khi
được nghe thấy, nhưng lại phải học bằng tiếng Pháp thì lại càng khó hơn
nhiều.

Môn lịch sử thì sau khi đã ghi vào chương trình "Sự bành trướng của
người da trắng" với những vấn đề như: Công cuộc thực dân của người Âu,
nguyên nhân, các hình thức, trực trị và bảo hộ. Sự di dân của người da trắng
sang châu Mỹ, châu Đại Dương và Nam Phi. Sự hình thành các đế quốc lớn
về thuộc địa cũng như ảnh hưởng và uy tín của người Pháp v.v..., thì chương
trình vẫn được lưu ý là: không cần phải mất thời gian cho học sinh học những
sự kiện, hoặc kết quả của cuộc Đại cách mạng Pháp mà phải cho học sinh
hiếu rõ Gia Long được sự giúp đỡ của người Pháp đã giành lại và xây dựng
nước Việt Nam như thế nào? Còn môn địa lý thì sau khi học đại cương năm
thứ nhất và năm thứ hai để có những kiến thức chung toàn cầu, năm thứ ba
học sinh sẽ học kỹ từng vùng của đất nước mình về mọi mặt: vị trí, hình thể,
tài nguyên, khí hậu, dân sốV.V..

Ngoài ra, họ còn bổ sung vào chương trình văn, sử, triết một số nội
dung được gọi dưới một tên chung là môn "Cổ học Viễn Đông" (Humanités
Extrêmes Orientales). Về văn học không có gì thay đổi nhiều mà chỉ nhấn
mạnh đến ảnh hưởng của văn học Trung Quốc đối với văn học Việt Nam. Lịch
sử ngoài phần Viễn Đông còn có những thời kỳ lớn của lịch sử Đông Dương
trên cơ sở của những nền nghệ thuật tiêu biểu (nghệ thuật Chăm, Khơ-me,
"Hán - Việt") triết học chú ý đến triết học so sánh Socrate và Khổng Tử, Phật
giáo và Thiên Chúa giáo, lòng nhân ái Phật giáo và lòng từ thiện của Thiên
Chúa giáo; sự khác biệt so sánh giữa đạo Phật và Thiên Chúa v.v...
Tuy nhiên, việc đưa chương trình "Cổ học Viễn Đông" vào bậc trung
học là một việc làm vội vàng thiếu tính toán, việc chuẩn bị cho một chương
trình như vậy không dễ dàng. Lịch sử văn học cổ điển Việt Nam chưa được
biên soạn thành giáo trình, chưa có những đoạn trích các tác gia tiêu biểu.
Giáo viên đã giảng cho học sinh một cách tuỳ tiện theo ý thích và hiểu biết
của mình. Lịch sử Việt Nam cũng vậy, người ta đã giảng cho học sinh những
công trình đi sâu vào từng chuyên đề nhưng việc hệ thống hoá thì lại không
làm. Những việc trên chứng tỏ giáo viên chuyên cho từng môn học cũng
không được chuẩn bị chu đáo. Đã thế học sinh còn phải tiếp thu một chương
trình về khoa học tự nhiên với nhiều môn mà ngoài toán, lý, hoá ra còn có
động vật học, thực vật học, địa chất học, chuyển động học (cinématique), tĩnh
học (statique), vũ trụ học (cosmographie) v.v... Do đó, đưa môn "Cổ học Viễn
Đông" càng làm cho chương trình trung học vốn đã nặng nề và khó lại càng
trở nên nặng nề và khó hơn cả bậc trung học Pháp.

4. Cũng cố giáo dục cao đẳng

Sau khi đã chỉnh đốn giáo dục ở bậc tiểu học và trung học, bậc cao
đẳng được xác định cụ thể về muc đích, nội dung đào tạo và ngôn ngữ giảng
dạy. Trường cao đẳng Nông lâm nhằm "Đào tạo những cán bộ chuyên môn
bản xứ có thể hoặc giúp việc, hoặc khi cần thiết thay thế những nhân viên
người Pháp trong các cơ quan Nông lâm". Còn Trường Bưu điện "Có mục
đích đào tạo những điện báo viên ở các cơ quan Bưu chính và Điện tín Đông
Dương". Để khắc phục sự yếu kém về nghiệp vụ và trình độ sử dụng tiếng
Pháp môn văn học Pháp rất được chú trọng ngay cả trong các trường kỹ
thuật, dĩ nhiên, ở mỗi trường họ đều nhằm một mục đích khác nhau. Nếu như
ở trường Cao học Đông Dương thì học văn học Pháp là để:

- Làm cho sinh viên hoàn thiện trong việc sử dụng và hiểu biết về văn
học Pháp.

- Làm cho họ hiểu biết, cảm thụ và thưởng thức ngay cả trong những
sự khác biệt nhỏ nhất về tư tưởng và tình cảm đã được diễn tả trong văn học
Pháp.
- Qua văn học Pháp sinh viên có thể hiểu cách cấu tạo và sự phát triển
của tư tưởng mới. Còn Trường Bưu điện thì có sự thành thạo về nghiệp vụ
thư tín với những nội đung hành chính, tư pháp, kinh tế...

Tuy nhiên, nói đến cũng có bậc cao đẳng vấn đề quan trọng hàng đầu
là khẳng định tư tưởng của giai cấp thống trị, của chủ nghĩa đế quốc. Nếu
như ở chương trình trung học ta đã thấy học sinh phải học sự bành trướng
của người da trắng, sự hình thành các đế quốc lớn về thuộc địa v.v... thì
chương trình lịch sử thế giới của trường Cao đẳng Sư phạm học sinh phải
học cụ thể hơn sự hình thành thuộc địa của Pháp ở châu Phi, của Anh ở châu
Á và châu Đại Dương; với lịch sử Pháp họ đã cắt xén đi khá nhiều nhất là lịch
sử đấu tranh của giai cấp công nhân Pháp thế kỷ XIX. Khi nói đến sự kiện
1871 thì chỉ nhấn mạnh chiến tranh Pháp - Phổ, việc cắt hai tỉnh Alsace và
Lorraine cho Phổ mà không hề có lấy một dòng nói về công xã Pari, là những
việc lớn đã xảy ra ngay trên đất Pháp, còn những sự kiện rung chuyển thế
giới như Cách mạng Tháng Mười Nga thì càng bị bưng bít và xuyên tạc đi
đến mức độ người ta chỉ biết là cuộc nội chiến của nước Nga mà phần thắng
lợi thuộc về Đảng Bôn-sê-vích.

Cũng vậy, khi dạy lịch sử văn minh Phương Tây ở Trường Cao học
Đông Dương thì họ luôn luôn nhân mạnh đến vai trò nước Pháp trong công
cuộc phát triển văn minh Phương Tây. Còn với lịch sử văn minh Phương
Đông thì họ dạy khá kỹ về văn minh Ấn Độ, Trung Quốc và nhấn mạnh ảnh
hưởng của hai nền văn minh này đến Đông Dương, còn văn minh Việt Nam
thì không hề có lấy nửa câu, khi cần nói đến họ thường dùng khái niệm "Hán -
Việt" (Sino - Annamite) để chứng minh rằng Việt Nam không có một nền văn
minh bản địa, tất cả những nền văn hoá nổi tiếng của Hoà Bình, Đông Sơn!,
nền văn học dân tộc thời Lý, Trần, Lê.v.v... đều mang tính chất ngoại lai.

Sau 4 năm củng cố bậc cao đẳng và mở thêm một số trường dạy nghề
đến năm 1929 số sinh viên ở các trường cao đẳng đã lên đến 551 người, còn
các trường chuyên nghiệp đã vươn lên đến các tỉnh miền núi như Sơn La,
Cao Bằng. Những trường loại này tập trung nhiều ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ là hai
địa phương có nhiều điểm khai thác, Trung Kỳ chỉ có một trường kỹ nghệ
thực hành ở Huế.

Bắc Kỳ có:

- Trường Kỹ thuật Hà Nội 288 học sinh

- Trường kỹ nghệ thực hành Hải Phòng 189 học sinh

Ngoài ra, còn có trường dạy vẽ quạt và mành mành ở Sơn Tây, trường
đào tạo công nhân người Tày về nghề rèn và mộc ở Sơn La, trường tiểu học
kiêm bị Bắc Ninh và Cao Bằng cũng có lớp dạy nghề, tổng cộng tất cả học
sinh chuyên nghiệp ở Bắc Kỳ là 900 người.

Ở Nam Kỳ, các trường kỹ nghệ thực hành và kỹ thuật tập trung xung
quanh Sài Gòn và Biên Hoà như:

- Trường cơ khí Á Châu 175 học sinh

- Trường kỹ nghệ thực hành 75 học sinh 

- Trường kỹ thuật Gia Định 73 học sinh

- Trường kỹ thuật Biên Hoà 74 học sinh

- Trường kỹ thuật Thủ Dầu Một 68 học sinh

Tổng cộng: 465 học sinh

Đi đôi với việc củng cố bậc Cao đẳng, mở thêm một số trường dạy
nghề, giai đoạn này Nha Học chính đã hoàn thành việc biên soạn bộ sách
giáo khoa bậc tiểu học. Cuốn sách đầu tiên ra đời vào tháng 10-1925 là cuốn
Luân lý giáo khoa thư lớp đồng ấu, cho đến cuối 1927 thì những sách giáo
khoa bằng tiếng Việt của ba lớp đồng âu, dự bị, sơ đẳng như Tập đọc, Toán
pháp, Cách trí, Địa dư, sử ký... được hoàn thành, còn các sách bằng tiếng
Pháp cho hai lớp nhì và lớp nhất thì tiếp tục ra đời như Pháp văn độc bản
(Livre unique de Franqais) Toán pháp, Vệ sinh... đưa tổng số lên 25 đầu sách.
Một số đồ dùng giảng dạy như các loại tranh treo tường với các chủ điểm về
thành phố, nông thôn, các nghề thủ công, rừng, biển, núi v.v... các loại bản đồ
về vị trí, hình thể, cư dân... của Đông Dương và Pháp cũng được đưa vào
giảng dạy. Ngoài ra, Nha Học chính còn cho xuât bản hàng tháng các loại tạp
chí sư phạm như Học báo (Bắc Kỳ và bắc Trung Kỳ) Sư phạm học khoá
(dùng cho Nam Kỳ và nam Trung Kỳ) có các phần chuyên môn và nghiệp vụ
quản lý giáo dục. Những tờ báo này đã giúp cho các cơ quan giáo dục và các
trường, chủ yếu là tiểu học kiêm bị, có tài liệu tham khảo bổ sung cho các
sách giáo khoa.

Với cải cách giáo dục lần thứ hai, nhà cầm quyền Pháp đã làm được
hai việc lớn là xoá bỏ nền giáo dục phong kiến và củng cố, mở rộng nền giáo
dục Việt Nam. Xoá bỏ nền giáo dục phong kiến là một việc làm cần thiết và
phù hợp với sự phát triển của xã hội: Với cải cách giáo dục lần thứ nhất nền
giáo dục Việt Nam chỉ phát triển cầm chừng, nó vẫn bị giáo dục Nho giáo "níu
áo". Còn lần này sau khi đã xoá bỏ nền giáo dục phong kiến, người ta đã có
kế hoạch củng cố và mở rộng từng bước nền giáo dục Việt Nam bằng những
hình thức phù hợp, như tổ chức loại trường phổ cập giáo dục ở nông thôn,
phát triển giáo dục trong cộng đồng các dân tộc ít người, tăng cường chương
trình, thời gian cho bậc trung học và công nhận giá trị bằng cấp của nó, củng
cố các trường cao đẳng, tất cả đã khá đồng bộ làm chất lượng giáo dục được
nâng cao rõ rệt. Riêng bậc tiểu học, biện pháp tăng cường học tiếng Pháp
bằng cách mở thêm lớp nhì đệ nhất đã tỏ ra có hiệu quả, vì từ lớp này trở đi
học sinh đã có thể làm quen dần với tiếng Pháp để lên đến cao đẳng tiểu học
và trung học có thể sử dụng tương đố thành thạo tiếng Pháp. Sau khi bậc
trung học được củng cổ, người ta đã có thể tổ chức một số trường cao đẳng
và đại học (mà trước đó chỉ mới ở trình độ trung cấp) như cao đẳng Nông
lâm, cao đẳng Công chính v.v...

Những trường này về mặt tuyển sinh đã được nâng cao từ cao đẳng
tiểu học lên tú tài phần thứ nhất; những người có bằng tú tài toàn phần được
miễn thi, thời gian học ở các trường đều được kéo dài thêm ít nhất là một
năm, nội dung học được tăng cường và như vậy đã có điều kiện để nâng cao
chất lượng nghề nghiệp sau khi ra trường.
Nhược điểm của công cuộc cải cách này là thời gian học tiểu học và
trung học quá dài (13 năm), một người muốn học xong cao đẳng hay đại học
phải mất 15, 16 năm thậm chí có ngành gần 20 năm (Y, Dược). Chương trình
trung học quá nặng nề, đầy ắp những kiến thức "hàn lâm" không cần thiết cho
bậc trung học (triết học, cổ học) đồng thời chương trình cũng bị "Pháp hoá"
cao độ làm cho người ta thấy tiếng mẹ để chỉ là một ngoại ngữ, một ngoại
ngữ bị coi thường, bị rẻ rúng từ cấu tạo chương trình cho đến nội dung học
tập, còn tiếng Pháp mới là ngôn ngữ chính. Những nhược điểm này, người ta
không cần quan tâm khắc phục khi mà nền giáo dục chỉ có mục đích phục vụ
cho quyền lợi của chủ nghĩa thực dân Pháp hơn là cho quảng đại quần
chúng.

Chương 5. GIÁO DỤC VÙNG DÂN TỘC ÍT NGƯỜI

Đi đôi với việc củng cố và mở rộng giáo dục Pháp - Việt ở đô thị và
đồng bằng, nhà cầm quyền Pháp cũng rất chú ý đến tổ chức giáo dục vùng
dân tộc ít người. Tuy nhiên, cũng tuỳ tình hình của từng vùng mà người Pháp
có chính sách phù hợp, không dập khuôn theo hình mẫu của đồng bằng.

I - GIÁO DỤC VÙNG DÂN TỘC ÍT NGƯỜI CUỐI THẾ KỶ XIX

Ở Nam Kỳ, tuy giáo dục Pháp - Việt được bắt đầu từ 1861, nhưng
người Pháp chưa thể cùng một lúc với đến những vùng dân tộc thiểu số là
người Khơ-me Nam Kỳ, vì ở đây đã có một nền giáo dục cổ truyền do các
nhà sư dạy về giáo lý đạo Phật và người Khơ-me vẫn được học trong các nhà
chùa do các nhà sư giảng dạy. Ở Trung Kỳ, giáo dục Nho giáo vẫn được giữ
nguyên chưa có gì thay đổi. Còn Bắc Kỳ, vốn là một địa bàn có thể sớm đưa
vào khai thác tài nguyên nên người Pháp thấy cần phải tổ chức ngay những
trường học để phục vụ cho công cuộc này.

Năm 1889, họ tổ chức trường học ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn và
một số nơi khác như Đồng Đăng, Na sầm, Thất Khê... Đa số những trường
học này lúc đầu là do sáng kiến của những sĩ quan chỉ huy các đạo quan binh
Bắc Kỳ. Trong một bức thư đề ngày 11/8/1892 của đại tá chỉ huy đạo quan
binh thứ 2 (Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn) đã trình bày rõ ràng mục đích của
những lớp học vùng biên giới: "Truyền bá tiếng nói và chữ viết của người
Pháp (kể cả chữ quốc ngữ) cho người Thổ để trong một thời gian không dài
lắm họ có thể theo học được những trường miền xuôi". Chủ trương này được
nhà cầm quyền ủng hộ về kinh phí và nhân sự. Gọi là "trường" nhưng đây chỉ
là những lớp học độ dăm ba người chủ yếu là học tiếng Pháp và tiếng Việt để
làm phiên dịch cho các làng bản có quân Pháp đồn trú. Những trường này
đều do sĩ quan, hạ sĩ quan trong quân đội Pháp giảng dạy cùng với sự giúp
sức của thông ngôn người Việt và người Tày. Chương trình gồm chữ Pháp,
chữ quốc ngữ, 4 phép tính và sơ lược về thường thức, vệ sinh... Đương
nhiên, đây chỉ là biện pháp tình thế, về lâu dài học sinh phải được gửi về miền
xuôi đào tạo trong những trường chính quy có hệ thống hơn.

Cuối tháng 12/1897, ở Hà Giang cũng đã có một lớp học tuy chỉ có 5
em trong một túp lều mới dựng, thầy giáo là một người Hoa biết chữ quốc
ngữ và ít nhiều chữ Pháp nhưng đã được tri châu Thương Văn Thọ hết sức
ủng hộ và đã cho con trai đến học.

Ở Yên Bái, theo Báo cáo về giáo dục ngày 9/2/1899, của đại uý
Lamiable chỉ huy trưởng tiểu khu thì ở đây có 3 trường: Yên Bái: 2 và Ngòi
Hóp: 1. Hai trường ở Yên Bái có 33 học sinh, chia làm 3 lớp:

- Lớp 1 học đọc, học viết, có 9 học sinh.

- Lớp 2 có 8 học sinh đã đọc thông viết thạo chữ quốc ngữ, viết chính
tả tiếng Pháp và làm 4 phép tính.

- Lớp 3 có 16 học sinh, toán học đến quy tắc tam suất, tiếng Pháp bắt
đầu học ngữ pháp và địa dư. Trường này do một hạ sĩ quan trong đội lính lê
dương giảng dạy, lương tháng 10 đồng.

Trường Ngòi Hóp chỉ có 5 học sinh do một thầy giáo người Việt phụ
trách có sự giám sát của viên thiếu uý đồn trưởng. Ở Nghĩa Lộ, lúc đầu cũng
có 1 trường nhưng hoạt động không đều nên học sinh bỏ dần và phải đóng
cửa. Ngoài ra, còn có một trường dạy chữ Hán cho 8 học sinh, thầy giáo
được trả lương tháng 5 đồng.

Tỉnh Lao Cai chỉ có 1 trường chia làm 3 lớp:

- Lớp 1 có 18 học sinh mới học đánh vần chữ quốc ngữ và chữ Pháp.

- Lớp 2 có 11 học sinh bắt đầu tập đọc những câu ngắn và tập viết, học
đếm đến 1000 và làm 4 phép tính dễ.

- Lớp 3 có 9 học sinh đã làm được luận bằng chữ quốc ngữ và 4 phép
tính, tập đọc những bài tiếng Pháp ngắn và dễ.

Những trường học này đều học 2 buổi, buổi sáng học quốc ngữ và
toán, buổi chiều học tiếng Pháp. Buổi tối có lớp nâng cao tiếng Pháp cho
những học sinh khối lớp 3 và một vài người làm ở hiệu buôn. Tất cả học sinh
đều được cung cấp sách vở giấy bút không mất tiền, thầy giáo thường là hạ
sĩ quan của đội lính lê dương có thông ngôn giúp việc, được trả lương mỗi
người 1,5 franc mỗi ngày, nếu dạy cả tháng được trả lương 10 đồng còn
thông ngôn được trả 5 đồng. Ở Cốc Lếu, có 1 trường dạy chữ Hán cho người
Việt và 1 cho người Hoa do những nhà buôn người Hoa ở địa phương tổ
chức.

Trường Bảo Hà có 3 học sinh do 1 giáo viên đã tốt nghiệp trường thông
ngôn Hà Nội dạy tiếng Pháp, quốc ngữ và chữ Hán lương tháng 10 đồng.

Ở làng Dương Quy có 1 trường dạy chữ Hán cho 11 học sinh, thầy giáo
được trả lương tháng 5 đồng.

Phố Lu chỉ có 1 trường nhưng hoạt động không đều, chỉ có viên đội
thông ngôn dạy mỗi tuần 2 buổi cho 8 học sinh. Người ta còn vận động cả
người dân tộc Nhắng đi học để tăng thêm sĩ số và xin kinh phí cho giáo dục.

Tính đến năm 1899, một số tỉnh miền núi như Hà Giang, Lào Cai, Yên
Bái, đã bắt đầu có trường học đúng hơn là những lớp dạy tiếng Pháp và quốc
ngữ được thống kê như sau:

Năm Địa phương Trường Thầy Học Trường Học


Pháp-Việt giáo sinh chữ Hán sinh
1897 Hà Giang 1 2 10 1 8
1899 Yên Bái 2 2 50
Ngói Hóp 1 1 8
1899 Lào Cai 1 1 38
Cốc Lếu 1
Bảo Hà 1
Dương Quy 1 1 30 1
Lạng Sơn 1
Cao Bằng 1

Nhìn chung, những trường này chưa có quy chế cụ thể mà tuỳ điều
kiện từng địa phương, tuỳ theo sáng kiến của các sĩ quan chỉ huy các đạo
quan binh, các tiểu khu quân sự, do đó đa số thầy giáo đều là hạ sĩ quan
thông ngôn trong quân đội Pháp, một số người Pháp biết tiếng Việt. Chương
trình cũng khá tuỳ tiện, thường là theo sách giáo khoa các trường hàng xã,
hàng tổng ở Nam Kỳ giản lược đi, chủ yếu là dạy cho học sinh biết đọc biết
viết chữ quốc ngữ, một số từ tiếng Pháp làm cơ sở cho các trường lớp sẽ tổ
chức sau này. Chữ Hán vẫn được sử dụng rộng rãi trong nhân dân nên ngoài
những trường Pháp - Việt mới lập người ta đã cho tổ chức một số trường học
chữ Hán và bắt đầu áp dụng phương pháp dạy học mới của các trường Pháp
- Việt nghĩa là thầy giáo dạy học trò ở trường (không phải như các thầy đồ
dạy ở nhà), mỗi tuần học 5 ngày sáng thứ 5 đi dạo, thăm các di tích lịch sử
hoặc các thắng cảnh, chủ nhật nghỉ. Loại trường này chỉ có ở một vài trung
tâm của tỉnh huyện, một vài xã gần đồn binh Pháp. Trường chữ Hán của các
thầy đồ vẫn tồn tại nhưng số này không nhiều chỉ ở các làng bản vùng thấp,
vùng cao hầu như không có.

Trên đây là những nét chính của giáo dục vùng dân tộc ít người ở Bắc
kỳ, cũng có thể nói là tiêu biểu cho giáo dục miền núi nước ta cuối thế kỷ XIX.

II - GIÁO DỤC VÙNG DÂN TỘC ÍT NGƯỜI TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN


1945
Từ 1900 đến 1926, người Pháp đã tiến hành hai lần cải cách giáo dục
(1906 và 1917) nhưng hai sự kiện này không tác động mấy đến giáo dục vùng
dân tộc ít người mà phải đến 1927, sau những sửa đổi của toàn quyền Merlin,
thì những trường học miền núi ở Bắc, Trung, Nam Kỳ mới có những chuyển
biến rõ rệt.

1. Giáo dục ở miền núi Bắc Kỳ

Sau khi đã tổ chức được những trường học ở các tỉnh Hà Giang, Lào
Cai, Yên Bái năm 1905, người Pháp đã có ý định tổ chức trường thông ngôn
ở Cao Bằng. Theo kế hoạch của Bộ tham mưu quân đội Pháp ở miền bắc
Đông Dương thì mỗi trung tâm của đạo quan binh sẽ tổ chức một trường,
cũng có thể tổ chức 2 trường cho những khu vực đặc biệt. Mục đích của
những trường này là đào tạo thông ngôn ba thứ tiếng Pháp - Hoa - Việt để
giúp cho các ban chỉ huy các đạo, các tiểu khu và các đồn binh khi cần tiếp
xúc với nhân dân và làm các công việc hành chính. Kế hoạch này chưa kịp
thực hiện thì đến tháng 6-1905, toàn quyền Đông dương ký Nghị đinh giải tán
các đạo quan binh nên những trường học được giao về cho các tỉnh dưới sự
chỉ đạo chung của Nha học chính Đông Pháp. Những trường học đã có từ
trước đều nằm trong hệ thống trường Pháp - Việt dạy theo chương trình của
các trường miền xuôi.

Năm 1927, sau một số sửa đổi về giáo dục của toàn quyền Merlin, giáo
dục miền núi được chú ý hơn. Nha học chính Đông Pháp đã đề ra phương
châm là cố gắng sao cho mỗi dân tộc đều học bằng tiếng mẹ đẻ của mình.
Tuy nhiên, chủ trương này đã tỏ ra rất khó thực hiện vì miền núi nước ta nhất
là Bắc Kỳ có nhiều dân tộc ngôn ngữ không giống nhau, sống phân tán do đó
người ta phải điều chỉnh lại bằng một nguyên tắc chung là lấy ngôn ngữ của
dân tộc đông nhất làm ngôn ngữ chính cho một vùng, còn nếu ngôn ngữ quá
phân tán thì dùng tiếng Việt hoặc tiếng Pháp. Việc đào tạo giáo viên cũng
được tiến hành bằng nhiều biện pháp, ngoài lấy những người địa phương có
trình độ cao dạy cho các lớp thấp hơn (tốt nghiệp tiểu học Pháp - Việt dạy cho
các lớp sơ học); trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội đã tổ chức một ban Sư
phạm miền núi cung cấp giáo viên cho các tỉnh biên giới Bắc Kỳ. Đến kỳ nghỉ
hè các giáo viên sơ học được về tỉnh lỵ để bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và
kiến thức chuyên môn. Tuy nhiên số giáo viên cũng chỉ đáp ứng được nửa
nhu cầu (20/40), Nha học chính cũng cho dịch cuốn sách Tập đọc lớp đồng
ấu ra 2 thứ tiếng Tày - Pháp và giữ nguyên phần tiếng Việt để làm sách giáo
khoa trong các trường sơ học, còn các môn khác thì phải học chung với
chương trình miền xuôi, vấn đề nội trú cũng được đề ra nhưng gặp không ít
khó khăn vì học sinh chưa quen sống xa gia đình, mỗi dân tộc lại có ngôn
ngữ, sinh hoạt, phong tục, tập quán khác nhau do đó các em không muốn rời
nhà. Tuy vậy, sau 2 năm vận động, đến năm 1929 và nhất là năm 1930, các
tỉnh miền núi Bắc Kỳ đã tổ chức được 7 trường nội trú với hơn 200 học sinh
Tày, Nùng, Mường:

Trường nội trú Tỉnh Dân tộc 1929 1930


1. Quảng Uyên Cao Bằng Tày 25 36
2. Nguyên Bình Cao Bằng Tày, Nùng 22 41
3. Bắc Cạn Bắc Cạn Tày, Nùng 30 45
4. Hoà Bình Hoà Bình Mường 20 20
5. Lai Châu Lai Châu Tày 2 19
6. Chợ Chu Thái Nguyên Tày 72 72
7. Yên Bái Yên Bái Tày 28 28
Cộng 199 201
Còn số học sinh các dân tộc miền núi ở các tỉnh Bắc Kỳ đã lên đến:

Dân

Tỉnh Việt Tày Mường Dao Thái Nùng Hoa tộc Cộng

khác
Bắc Cạn 232 924 12 29 54 3 1251
Cao Bằng 689 2014 7 359 174 75 3318
Hà Giang 55 71 2 2 7 10 147
Hải Ninh 586 35 3 165 17 3 809
Hoà Binh 136 3 115 1 255
Lai Châu 14 59 1 14 1 89
Lạng Sơn 591 1797 1 528 69 9 295
Lao Cai 175 109 6 7 566 39 29 403
Sơn La 8 365 75 4 3 26 480
Tuyên
433 50 1 18 25 537
Quang
Thái
1047 175 1 23 47 1293
Nguyên
Yên Bái 614 689 21 3 25 26 1378
Tổng cộng 4590 6290 211 40 12 1 1110 499 120 12873

Nếu theo số thống kê đã nói trên, các dân tộc thiểu số Bắc Kỳ là
700.000 người thì số dân đi học chỉ chiếm 0,018%. Số học sinh còn lệ thuộc
vào điều kiện địa lý, những vùng sâu vùng xa bao giờ số người đi học cũng ít
hơn vùng thấp, Lạng Sơn là một ví dụ. Là một tỉnh miền núi nhưng địa hình
tương đối thấp, ít có những vùng hiểm trở như các tỉnh Hà Giang, Sơn La, do
đó sau khi có chủ trương phổ cập giáo dục thì trường học đã phát triển khá
nhanh. Năm học 1925 - 1926, huyện Thất Khê đã có 6 trường (Bản Piêng,
Minh Đạo, Bản Né, Bản Trại, Bản A và Chi Ma), huyện Bắc Sơn có 5 trường
ngoài ra các huyện Điềm He, Châu Ôn và các huyện khác ít nhất mỗi huyện 1
trường. Lạng Sơn không có trường nội trú có thể do trường học ở đây phân
bố đều hơn các tỉnh khác, đặc biệt năm 1930 Lạng Sơn đã tổ chức được một
trường Cao đẳng tiểu học gồm 3 lớp (đệ nhất, đệ nhị, đệ tam niên) có 66 học
sinh Việt, Tày, Nùng, chương trình như các lớp Cao đẳng tiểu học miền xuôi.
Có thể đây là trường Cao đang tiểu học duy nhất cho các tỉnh biên giới Bắc
Kỳ trong giai đoạn này.

Từ 1933 đến 1945, bậc tiểu học được giao lại cho triều đình Huế quản
lý, tuy vậy, Nha Học chính Đông Pháp vẫn là tổ chức bao trùm. Giai đoạn này
sách giáo khoa bậc sơ học Pháp - Việt miền núi đã được biên soạn thêm, có
một số sách bằng chữ Tày về các môn tiếng Tày, Luân lý, Cách trí, Vệ sinh.
Tiếng địa phương cũng được chú trọng ở 3 lớp dưới, đồng thời tiếng Pháp
càng lên các lớp trên càng được mở rộng và nâng cao:

Nhì đệ Nhì đệ Lớp


Môn học Đồng ấu Dự bị Sơ đẳng
nhất nhị nhất
Tiếng địa 12 giờ 9,45 giờ 7,30 giờ 5 giờ 4 giờ 3 giờ
phương
Tiếng
3,45 4,30 4,30 9 10 12
Pháp
Tuy có cải tiến như vậy nhưng sách giáo khoa biên soạn bằng tiếng địa
phương cũng chỉ dừng lại ở bậc sơ học còn muốn học lên các lớp trên thì học
sinh vẫn phải theo các chương trình chung của miền xuôi. Người ta chưa đủ
sức hoặc không quan tâm biên soạn sách cho phù hợp với trình độ chung của
toàn bậc tiểu học ở miền núi.

2. Giáo dục miền núi Trung Kỳ

Miền núi Trung Kỳ có 2 địa bàn quan trọng: Bắc Trung Kỳ gồm các tỉnh
Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh và Tây Nguyên là phần đất của các tỉnh Công
Tum, Plâycu, Đắc Lắc.

a) Bắc Trung Kỳ

Dân tộc thiểu số bắc Trung Kỳ tập trung ở miền tây Thanh Hoá và Nghệ
An. Đây có những vùng tương đối thấp như Quan Hoá, Như Xuân của Thanh
Hoá hay Quỳ Châu, Nghĩa Đàn thuộc Nghệ An nhưng cũng có những vùng
cao khá hiểm trở giáp biên giới Việt - Lào. Ở vùng thấp người ta đã tổ chức
những trường sơ học hoặc tiểu học kiêm bị cho người Việt, ngoài ra còn có
người Mường, người Thái học chung, còn ở vùng cao thì việc tổ chức trường
lớp rất khó khăn. Giáo viên cũng là một vấn đề nan giải vì người miền xuôi
không quen với khí hậu miền núi, còn người Thái người Mường thì không
muốn về đồng bằng để học tập, đào tạo thành giáo viên, họ không thích sống
xa nhà và nhất là không quen với phong tục tập quán. Tuy nhiên sau nhiều
năm vận động đến 1927 đã có 23 giáo sinh người Thái về học lớp Sư phạm
Thanh Hoá, nhờ đó mà tỉnh này đã tổ chức được 7 trường tiểu học kiêm bị
Pháp - Việt. Ở Nghệ An cũng thòi gian này đã vận động được 13 em người
Thái về học lớp Sư phạm trường Quốc học Vinh, trong số này có 10 em được
cấp học bổng. Các tỉnh Quảng Bình, Quạng Trị cũng có trường nhưng số
lượng so với 2 tỉnh trên còn kém.
Năm học 1929 - 30 số trường học miền núi ở các tỉnh bắc Trung Kỳ đã
có:

Học sinh
Số
Tỉnh Dân tộc ít Người Chú thích
trường
người Việt
Thanh Hoá 22 555 Thái 502
Nghệ An 10 262 Thái 82
Quảng Bình 3 88 Mường 82
Quảng Trị Số học sinh Quảng Trị
1
không có trong thống kê.
Cộng 36 905 591
b) Tây Nguyên

Các tỉnh miền núi Nam Trung Kỳ ngoài Tây Nguyên với các dân tộc Ê-
đê, Ba-na, Sơ-đăng còn có dân tộc Chăm cư trú ở miền Tây tỉnh Quảng Ngãi,
Bình Thuận...

Riêng Tây Nguyên là một địa bàn khá đặc biệt, ở đây có những địa
phương như Lâm Viên, Kon Tum có người Việt đến cư trú từ lâu đời, còn ở
Buôn Ma Thuật người Ê-đê ở biệt lập chưa có quan hệ nhiều với người Việt,
họ lại là một dân tộc chiếm số đông. Theo người Pháp thì ngưòi Ê-đê khá
thông minh nếu nắm được họ thì sẽ có lợi cho việc cai trị vùng này, do đó họ
rất được nhà cầm quyền Pháp quan tâm.

Từ 1917, công sứ Sabetier đã mở một trường dạy tiếng Pháp và Ê-đê,


cử một số học sinh giỏi đi đào tạo ở Huế, Quy Nhơn và họ đã trở thành
những "cộng sự xuất sắc" về các mặt giáo dục, y tế, bưu điện, thư ký văn
phòng. Từ 1925, đi đôi với việc mở những trường sơ học, tiểu học Pháp -
Việt, nhà cầm quyền đã cho tổ chức ở Buôn Ma Thuật trường tiểu học Pháp -
Rhadé (Ê-đê). Trường này khác với các trường tiểu học Pháp - Việt ở miền
núi Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ ở chỗ nó là một loại trường hướng nghiệp, là một
trung tâm "không chỉ đào tạo thành những công nhân mà còn để cho họ thích
nghi với một nền giáo dục có liên hệ chặt chẽ với tâm lý cộng đồng mà lao
động chân tay chiếm một vị trí quan trọng". Trường được chia làm 2 bậc: sơ
học 4 năm và tiểu học thêm 2 năm, ngoài văn hoá mỗi tuần còn có 10 giờ lao
động ở xưởng trường hay ở trại chăn nuôi. Với chương trình này ở bậc sơ
học, tất cả mọi kiến thức về tự nhiên và xã hội đều được truyền đạt bằng
tiếng mẹ đẻ. Để thích hợp với chương trình đã đề ra, những môn học ở các
trường Pháp - Việt như luân lý, lịch sử Việt Nam, lịch sử nước Pháp, địa dư,
chữ Hán đều được giản ước đến mức tối đa và được biên soạn phù hợp với
tâm lý chung của dân tộc. Tiếng Pháp đương nhiên là môn học được coi trọng
số 1 và được học ngay từ lớp đầu tiên nhưng lên đến lớp nhì thì mới học
hoàn toàn bằng tiếng Pháp. Cuối bậc sơ học học sinh được thi lấy bằng Sơ
học yếu lược Pháp - Rhadé và cuối lớp nhất thì thi lấy bằng Tiểu học Pháp -
Rhadé. Từ năm lớp nhì người ta đã có thể bắt đầu đào tạo học sinh thành
những người có trình độ nghề nghiệp sơ cấp như công nhân kỹ thuật cơ khí,
công nhân nông nghiệp (chăn nuôi, thú y...) thư ký hành chính, giáo viên, kế
toán... phục vụ cho sự phát triển kinh tế, văn hoá các tỉnh Tây Nguyên.

Cũng như các tỉnh miền núi khác, trường học ở đây cũng có tổ chức nội
trú, học sinh được cung cấp quần áo, chăn màn, được ăn uống trong các bếp
tập thể, chăm sóc y tế khi ốm đau, tóm lại người ta đã tạo điều kiện để hấp
dẫn học sinh đến trường và để cho việc đào tạo đạt kết quả tốt. Ngoài trường
học cho người Ê-đê ở Đắc Lắc, Tây Nguyên còn có một số trường ở Kon Tum
và Đồng Nai cho người Gia-rai, Ba-na, Sơ-đăng...

Các tỉnh khác như Phan Rang, Bình Thuận cũng có trường học cho
người Chăm...

Năm học 1930 - 31, số học sinh các tỉnh miền núi nam Trung Kỳ được
thống kê như sau:

Số Chú
Địa phương Học sinh Nội trú
trường thích
Dân tộc Người
thiểu số Việt

Phan Rang 4 86 Chăm 12


Binh Thuận 5 90 Chăm 86
Đắc Lắc 1 1 Ê-đê 34
Kon Tum 20 Ba-na
4 64 Gia-rai 29 141
2 Sơ-đăng
Đồng Nai 2 19 111
Pleiku 1 42 Gia rai
Buôn Ma Thuật 2 187 Ê-đê 129 Ê-đê
Cộng 19 469 452 312 (1)
Năm học 1929-30 đã có 12 học sinh người Ê đê tốt nghiệp Sơ học yếu
lược Pháp - Ê-đê và 7 học sinh thi đỗ tiểu học Pháp - Ê-đê, đây là lần đầu tiên
có học sinh người Tây Nguyên đỗ tiểu học. Trong số này có 2 người đã được
cử về học ở ban Sư phạm trường Quốc học Huế. Cũng trong năm học 1930-
31 trường Kỹ nghệ thực hành Huế đã nhận 20 học sinh người Ê-đê về học
các bộ môn mộc, rèn, cơ khí, nguội, điện... và họ đã tỏ ra rất có năng khiếu.

Theo thống kê thì tổng số học sinh Bắc Trung Kỳ và Tây Nguyên là
2317 em, so với dân số thì tỷ lệ học sinh là 0,038%.

Từ 1933 đến 1945 số trường và học sinh miền núi Trung kỳ được tăng
lên rõ rệt, lấy năm học 1941 - 1942 làm ví dụ ta thấy học sinh các dân tộc Việt
Thái Mường bắc Trung Kỳ là 1011 em, còn ở Tây Nguyên là 2607, trong đó:

Sơ-đăng: 85; Ê-đê: 1143; Ba-na: 420; Gia-rai: 632; Chăm 207; Dân tộc
khác: 120; tổng cộng cả hai khu vực là 3619 em.

3. Giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số Nam Kỳ

Dân tộc thiểu số Nam kỳ đa số là người Khơ-me gốc Cam- pu-chia. Khi
người Pháp đặt chân lên đất Nam Kỳ thì người Khơ-me ở đây có một nền
giáo dục riêng do các nhà tu hành đảm nhận, đó là giáo lý nhà Phật. Cũng
như nền giáo dục Nho giáo của người Việt, nền giáo dục cổ truyền của người
Khơ me Nam kỳ không có khoa học tự nhiên mà chủ yếu là dạy người ta làm
điều thiện, tu nhân tích đức để sau khi không còn ở trần thế nữa thì sẽ lên
Niết bàn là nơi Cực lạc, người Pháp không động đến những điều đó, trường
học - nhà chùa vẫn được giữ nguyên. Cho đến sau cải cách giáo dục lần thứ
2 (1917) thì họ thấy cần phải sửa đổi nền giáo dục của người Khơ-me Nam
Kỳ. Những công việc này tiến hành tương đối dễ dàng hơn ở Bắc Kỳ và Trung
Kỳ. Trước hết, người ta vẫn duy trì những "trường học - nhà chùa" có sửa đổi
và được chia làm 2 bậc: Sơ học học trong 3 năm qua các lớp đồng ấu, dự bị,
sơ đẳng, cuối bậc học sinh được đi thi lấy bằng sơ học; tiểu học học thêm 3
năm gồm lớp nhì đệ nhất, nhì đệ nhị lớp nhất và có kỳ thi tốt nghiệp tiểu học.
Trường học - nhà chùa chỉ dạy hết bậc sơ học, lên tiểu học các em phải học
theo chương trình như các trường Pháp - Việt. Ở bậc sơ học, tiếng Khơ-me là
ngôn ngữ chính, tiếng Việt và tiếng Pháp coi như tình nguyện. Ngoài giáo lý
nhà Phật, chương trình còn có toán, cách trí, địa dư, sử ký... Những sách này
do Nha Học chính Đông Pháp chỉ đạo biên soạn.

Việc đào tạo giáo viên trong các trường học - nhà chùa cũng được tiến
hành bằng nhiều biện pháp khá linh hoạt. Năm 1928 nhà cầm quyền đã cử 23
nhà sư đến trường Vat-Langka ở Phnông-Pênh để học phương pháp sư
phạm và một số nội dung mới như toán cách trí, vệ sinh... Sau một năm học,
họ đã có chứng chỉ tốt nghiệp và đã trở thành những nhà sư - thầy giáo. Năm
1929 nhiều nhà sư tỉnh Châu Đốc đã được gửi sang học trường Tukvill (tỉnh
Kam-pot) và một năm sau họ trở về dạy ở các trường địa phương. Đi đôi với
việc đào tạo chính qui người ta còn mở tại chỗ những lớp sư phạm cho các
nhà sư trẻ do một số thầy giáo từ Cam-pu-chia sang giảng dạy. Ở tỉnh Trà
Vinh, người ta còn tổ chức cứ 2 chùa thì có 1 nhà sư và một thầy giáo "thế
tục" luân phiên giảng dạy theo chuyên môn của mình. Nhà sư giảng về giáo lý
đạo Phật còn thầy giáo thì dạy về những nội dung mới như tiếng Pháp, vệ
sinh... Tất cả những loại trường này đều được Nhà nước giúp đỡ về sách
giáo khoa và các dụng cụ giảng dạy như phấn, bảng đen, bản đồ... Ngoài
trường học - nhà chùa người ta còn tổ chức thêm những trường công dạy từ
lớp đồng ấu đến lớp nhất như các trường Pháp - Việt. Loại trường này không
dạy giáo lý nhà Phật do đó không có các nhà sư mà chỉ có các thầy giáo "thế
tục", đây là những trường Pháp - Cambốt (Franco - Combodgienne). Số
trường nội trú cho học sinh vùng dân tộc thiểu số ít hơn ở Bắc và Trung Kỳ,
toàn bộ xứ này chỉ có 3 trường, đó là Hớn Quản (Thủ Dầu Một), Vô Dật và
Phú Riềng ở Biên Hoà. Từ năm học 1926 - 27 đến 1930-31 số học sinh người
Khơ-me Nam Kỳ đã có những bước tiến khả quan:

Trường học- Trường Pháp -


Năm học Nội trú Chú thích
nhà chùa Cam bốt
1926-1927 282
1927-1928 1307
1928-1929 1475 118
1929-1930 2204 3907 116 (1)
Năm học 1929-1930 là năm mà số học sinh đạt cao nhất trong giai
đoạn này thì tỷ lệ người đi học cũng chỉ là 0,020%.

Từ 1933 đến 1945 số học sinh vùng dân tộc ít người ở Nam Kỳ có tăng
lên trong tình hình chung của toàn quốc, năm học 1942-1943 có 10850 học
sinh, đó là một con số đáng kể của người Khơ-me Nam Bộ thời kỳ này.

Chương 6. GIÁO DỤC CHUYÊN NGHIỆP, CAO ĐẲNG VÀ ĐẠI HỌC

Khi người Pháp sang xâm lược nước ta, để giải quyết nạn ngôn ngữ
bất đồng họ phải tổ chức ngay một số trường đào tạo thông dịch viên phục vụ
cho quân đội. Có thể nói đây là những trường chuyên nghiệp đầu tiên. Song
song với trường này là những trường đào tạo nhân viên hành chính, tư pháp,
tài chính (thuế khoá) phục vụ công việc cai trị. Kế đến là những trường sư
phạm sơ cấp đào tạo giáo viên dạy chữ quốc ngữ, chữ Pháp và bốn phép
tính cùng một số điều sơ đẳng về vệ sinh, cách trí, cung cấp cho các trường
tổng, xã ở những vùng mới chiếm đóng.

Những trường chuyên nghiệp khác đào tạo công nhân kỹ thuật phục vụ
khai thác tài nguyên đất nước thì mở sau, vì họ còn phải chờ các trường tiểu
học Pháp - Việt cung cấp học sinh.

Đầu thế kỷ XX, sau hai lần cải cách, nền giáo dục ở nước ta đi dần vào
ổn định, người Pháp mới lần lượt tổ chức một số trường cao đẳng như Y
Dược, Sư Phạm, Luật... vì lúc này các trường trung học đã có thể cung cấp
những học sinh đỗ bằng thành chung hoặc bằng tú tài. Như vậy, những
trường Cao đẳng và Đại học xuất hiện sau các trường chuyên nghiệp và cho
mãi đến những năm cuối cùng của chế độ thuộc địa Pháp thì ở Việt Nam mới
có những trường Cao đẳng và Đại học tương đương với bên Pháp.

Với sự phát triển không đồng đều, so với giáo dục phổ thông và chuyên
nghiệp như vậy, chương này tác giả không chia các trường Cao đẳng và Đại
học theo sự phát triển song song với giáo dục phổ thông mà trình bày theo
quá trình ra đời và phát triển của một số trường Cao đẳng và Đại học xuyên
suốt từ khi người Pháp tổ chức cho đến 1945. Vì có trường sau khi ra đời một
thời gian thì đóng cửa để rồi khi có điều kiện họ lại cho tái giảng (Sư phạm,
Pháp chính...) Như vậy, chia nhỏ e rằng trình bày dễ trùng lặp mà người đọc
sẽ khó theo dõi. Còn các trường chuyên nghiệp thì tác giả sẽ trình bày theo
trật tự thời gian song song với giáo dục phổ thông.

I - CÁC TRƯỜNG CHUYÊN NGHIỆP

Cho đến trước cải cách giáo dục lần thứ nhất (1905) người Pháp chưa
có điều kiện tổ chức trường Cao đẳng mà chỉ có những trường dạy nghề mà
người ta thường gọi chung là trường chuyên nghiệp.

1. Trường đào tạo thông dịch viên ở Nam Kỳ

Như trên đã nói, trường chuyên nghiệp đầu tiên trong giai đoạn này có
thể là trường đào tạo thông dịch viên mà người Pháp tổ chức ở Nam Kỳ
tháng 9 năm 1961. Mục đích của trường là đào tạo những thông dịch viên cho
quân đội và thư ký làm việc trong các cơ quan hành chính.

Lúc đầu, trường có tên D'Adran (Bá Đa Lộc) một giám mục đã giúp Gia
Long đưa hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện vào cuối thế kỷ XVIII. Trường
do linh mục Pháp Crôc và linh mục Thu người Việt phụ trách, ngoài ra còn có
hai thông địch viên đang phục vụ trong quân đội Pháp giúp việc. Đây là
trường đào tạo người Pháp nói tiếng Việt, nên bản nội quy ghi rõ:
- Những học sinh thông dịch được lựa chọn từ hàng ngũ những người
lính bộ hay lính thuỷ của quân đội viễn chinh. Họ phải viết đúng tiếng Pháp và
chứng tỏ có thể học được tiếng Việt.

- Sau một thời gian tập sự ba tháng, những học sinh nào chứng tỏ
không thể theo học sẽ bị trả về đơn vị.

- Những học sinh trong thời gian thực tập tỏ ra có khả năng thì sẽ được
công nhận là thông dịch viên tập sự và được bổ túc thêm 9 tháng tiếng Việt và
được trả lương mỗi tháng 6 đồng. Sau thời gian này họ sẽ được đề bạt làm
phụ thông dịch viên, xếp ngạch hạ sĩ quan lương tháng 40 đồng, rồi thông
dịch viên hạng nhì, hạng nhất ngạch sĩ quan, được trả lương từ 50 đến 60
đồng mỗi tháng.

Trường đào tạo thông dịch viên và thư ký, còn gọi là ký lục (lettré) thì
được tổ chức theo Quyết định số 5 ngày 1-12- 1861. Học sinh muốn vào
trường phải qua một kỳ thi tuyển gồm: Một bài dịch chữ Pháp hoặc La-tinh ra
quốc ngữ và một bài dịch ngược lại (quốc ngữ ra La-tinh hoặc Pháp); một bài
văn về một vấn đề cai trị. Ngoài ra còn phải thi vấn đáp về một chủ đề nào đó.

Những người đã thông thạo chữ Hán muốn vào học trường đào tạo thư
ký cũng phải qua một kỳ thi tuyển gồm một bài luận, thảo một Nghị định hoặc
Quyết định, viết một báo cáo, làm bài văn về vấn đề nội chính và một bài
tường thuật. Tất cả đều bằng chữ Hán.

Còn đối với những người đã đỗ tú tài hoặc làm thơ lại cũ thì được miễn
thi và "xếp ngay mà chính ngạch, được trả lương từ 10 đến 30 đồng".

Năm 1873, thực dân Pháp ở Nam Kỳ qui định việc cai trị phải có 3 loại
viên chức điều hành: viên chức hạng nhất phụ trách tư pháp, viên chức hạng
nhì trông coi việc hành chính, còn viên chức hạng ba phụ trách thuế khoá. Trừ
những viên chức phụ trách hành chính và tư pháp đã được đào tạo ở trường
thông ngôn từ trước, viên chức làm công việc thuế khoá (hạng ba) phải học ở
trường Tập sự (College de Stagaires) do Trương Vĩnh Ký điều hành. Nội dung
học tập chủ yếu là Giáo trình tổ chức cai trị hành chính An Nam (Cours
d’administration Annamite) do Luro chánh thanh tra công việc "bản xứ" từ
năm 1862 biên soạn. Học viên vào trường này phải biết chữ Hán, chữ quốc
ngữ, chữ Pháp hoặc La-tinh.

Sau khi ra trường, học viên được nhận danh hiệu viên chức hạng ba.
Sau hai năm làm việc được dự kỳ thi chuyển lên hạng nhì và hai năm sau
được thi chuyển lên hạng nhất. Những viên chức tốt nghiệp loại giỏi được giữ
chức thanh tra công việc "bản xứ" và được làm việc tại Sài Gòn.

2. Trường dạy nghề Hà Nội

Năm 1898, thực dân Pháp mở Trường dạy nghề Hà Nội (Ecole
Professionnelle de Hà Nội) do phòng Thương mại Hà Nội tổ chức. Thời gian
học 3 năm gồm những ngành:

- Ngành nông nghiệp gồm chăn nuôi, làm vườn, chăn tằm.

- Ngành mỹ nghệ có: sơn, đúc đồng, khảm trai...

Học sinh muốn dư thi vào trường này phải biết chữ quốc ngữ, chữ
Pháp và bốn phép tính nghĩa là đã qua một năm học mà người Pháp mới mở.
Ngoài học chuyên môn học sinh còn được dạy thêm chữ Pháp, sao cho sau 3
năm sẽ có trình độ công nhân chuyên nghiệp và có thể nhanh chóng trở
thành đốc công hoặc quản đốc phân xưởng.

Cho đến trước cải cách giáo dục năm 1906, nhà cầm quyền Pháp đã tổ
chức ở Đông Dương 12 trường chuyên nghiệp tập trung chủ yếu ở Nam Kỳ
để đào tạo những công nhân kỹ thuật phục vụ cho khai thác thuộc địa. Ở Bắc
Kỳ, họ cũng có mở nhưng ít hơn. Các trường này có thể chia làm ba loại:

- Công nghiệp châu Âu như các xí nghiệp công nghiệp được trang bị
bằng các máy móc mang từ Pháp sang, giao thông vận tải, điện lực...

- Công nghiệp "bản xứ" đúng ra là thủ công nghiệp mới phát triển: làm
mũ, nghề dệt, các nghề kéo sợi...

- Mỹ nghệ và thủ công nghiệp đang cần phát triển như nghề mộc, rèn,
gốm, sơn mài, khảm v.v...
Để đỡ tốn kém trong việc đào tạo họ đã nghiên cứu khá cụ thể: đối với
học sinh các trường đào tạo công nghiệp châu Âu thì cần cho học sinh học
một số lý thuyết về máy móc kỹ thuật và hình học. Tiếng Pháp cũng có thể
dạy đến trình độ nhất định, bởi vì "họ luôn luôn ở dưới quyền người Pháp và
có những áp dụng thường thức về khoa học". Còn đối với học sinh chỉ học
những nghề của người bản xứ đã hoặc sẽ phát triển thì chủ yếu là nâng cao
năng khiếu nghề nghiệp luyện tay nghề và phải có sức khoẻ.

Theo dự kiến thì việc tuyển lựa những học sinh này sẽ mở rộng hơn,
học thực hành là chính đo đó chỉ cần dạy bằng tiếng mẹ đẻ.

3. Trường Bách nghệ Huế

Đây là một trường dạy nghề lớn nhất Trung Kỳ bên bờ sông Phú Cam
cách nhà ga Huế khoảng hơn 1 km. Trường bắt đầu xây dựng năm 1923
hoàn thành năm 1924, gồm: phòng học cho học sinh, phòng vẽ, nhà ăn, nhà
nghỉ, khu tắm giặt vệ sinh ngoài ra còn giảng đường, phòng thí nghiệm, thư
viện, văn phòng, nhà ở của hiệu trưởng và nhân viên, bệnh xá, xướng máy
mái vòm có đủ các loại máy cơ khí phay, rèn, đột dập, tiện nguội, máy động
lực cho học sinh thực hành. Ngoài khu chung còn có khu thể dục thể thao
gồm sân bóng đá, bóng rổ, sân điền kinh v.v... Tất cả khu nhà xưởng và sân
bãi nằm trong khuôn viên rộng gần 3 héc-ta.

Thời gian học là 3 năm, 1 năm học chính thức và 2 năm thực tập, cuối
khoá học được cấp bằng tốt nghiệp trường công nghiệp thực hành. Chương
trình gồm các môn chung: Tiếng Pháp, Toán, khoa học, và các bộ môn: cơ
khí, điện công nghiệp. Các môn này được phân bố: Năm thứ nhất mỗi tuần 9
giờ, năm thứ hai 4 giờ và năm thứ ba 2 giờ 30 phút.

Về thực hành chuyên môn có: Năm thứ nhất học sơ lược về rèn, gò,
mộc, lắp ráp; năm thứ hai phân ngành theo năng lực, sở trường, năm thứ ba
học chuyên sâu về các nghề: lắp ráp, máy công cụ, rèn, mộc, gò, làm khuôn,
điện. Ngoài ra theo yêu cầu của sở giao thông công chính, trường còn có một
lớp hội hoạ và một lớp lái xe tải và xe lu lăn đường.
Những học sinh học lái xe ôtô và xe lu thì chỉ học một năm gồm 6 tháng
học chương trình chung, và 6 tháng học lái xe và sửa chữa.

Năm 1930, nhà trường còn tổ chức lớp bổ túc tay nghề cho 15 thợ nề,
20 thợ mộc, 10 thợ rèn và 20 nhân viên thương nghiệp. Thợ nề, mộc, rèn
được học bằng tiếng Việt và một số từ ngữ tiếng Pháp liên quan đến nghề
nghiệp. Riêng học sinh thương nghiệp học hoàn toàn bằng tiếng Pháp gồm
các môn: Thư tín Thương nghiệp, kế toán, toán thương nghiệp và đánh máy
chữ.

Lúc này người Pháp đang đẩy mạnh khai thác tài nguyên, bởi vậy họ
rất chú trọng tạo điều kiện cho học sinh dân tộc ít người đến học ở trường
này.

Năm học 1923 - 1924 mới có 3 học sinh Ê-đê, năm sau đã có thêm 3
học sinh Ê-đê và 3 học sinh Gia-Rai (Kon Tum), và sang năm học 1930 - 1931
đã tăng lên 12 người học trong các nghề lái xe, sửa chữa cơ khí và điện lực.

Số học sinh ra trường hàng năm còn ít so với nhu cầu phát triển kinh tế
ở Trung Kỳ, nhưng những học sinh được đào tạo ở đây đã có mặt hầu khắp
những ngành công nghiệp quan trọng lúc đó:

Bảng thống kê sau đây cho ta thấy:

Cơ sở 1925 1926 1927 1928 1929 1930 Cộng


Sở giao thông
công chính
Công nhân cơ
2 1 3 2 12 8 28
khí
Tổ trưởng sản
19 5 9 8 12 53
xuất
Đường sắt
Công nhân cơ
3 5 5 13
khí và điện lực
Bưu điện
Công nhân cơ 1 2 2 5
khí và điện lực
Trợ lý giảng dạy 1 1 1 3
Nhà máy điện 2 4 1 5 6 4 22
Nhà máy và xí
1 4 4 7 16
nghiệp khác
Giao thông
đường bộ
Thợ cơ khí và lái
1 1 4 6 16 28
xe
Xưởng sửa chữa
1 1
vũ khí
Tổng cộng 7 25 12 28 43 54 169
Để dạy hoàn toàn quốc ngữ, các giáo viên đã cố gắng "Việt hoá" nhiều
từ chuyên môn của tiếng Pháp.

Trong một vài năm họ đã có được một giáo trình bằng tiếng Việt tuy vẫn
còn những từ phiên dịch dựa theo tiếng Trung Quốc hoặc dùng nửa Việt nửa
Pháp, nhưng chúng ta cũng ghi nhận sự cố gắng mò mẫm khắc phục khó
khăn của những giáo viên và các trợ lý giảng dạy của trường (Xem phụ lục).

II - GIÁO DỤC CAO ĐẲNG VÀ ĐẠI HỌC

1. Trường Đại học Đông Dương đầu tiên

Theo đề án của Hội đồng cải cách giáo dục lần thứ nhất (1906) thì
không có việc thành lập trường đại học. Nhưng trước sư đòi hỏi của các sĩ
phu yêu nước, tiêu biểu là phong trào Đông Du do Phan Bội Châu lãnh đạo
(1904 -1908) toàn quyền P. Beau thấy cần phải có một sự đối phó kịp thời.

Ngày 16-6-1906, toàn quyền P.Beau ký Nghị định thanh lập trường đại
học đầu tiên của Việt Nam cũng là của Đông Dương.

Điều 1, Nghị định ghi rõ: Trường đại học Đông Dương bao gồm một số
trường cao đắng cho sinh viên thuộc địa và các xứ lân cận. Trường sẽ dùng
tiếng Pháp để phổ biến những kiến thức khoa học và những phương pháp
nghiên cứu của người châu Âu.

Như thế toàn quyền P.Beau có tham vọng khá lớn là muốn thành lập ở
Việt Nam một Trung tâm vừa giảng dạy vừa nghiên cứu khoa học, để có thể
cạnh tranh với các trường đại học của các nước phương Đông nhất là Nhật
Bản. Cho nên ít lâu sau tờ Đăng Cổ Tùng Báo cũng đã vội vã "khua trống":
Những ông nào mà độ trước tới nay kêu gào rằng nhà nước bảo hộ không
chịu mở mang dân trí cho nước Nam thì nên ngẫm xem.

Thực không còn nói rằng Nhà nước dử mồi, mà đừng kêu rằng nhà
nước chỉ muốn cho mình biết nghề nô lệ nữa, vì trường học này không phải là
dạy dịch từ hàn để mà làm thông ngôn xì xằng đâu, thực là dạy các khoa cao
đẳng học... Sang Nhật Bản mà học thì bất quá cũng vào đến Université de
Tokyo là cùng, thì đã vào bậc cao đẳng rồi. Học cũng thế mà lại phiền thêm
phải học tiếng Nhật nữa".

Trường Đại học Đông Dương bao gồm 5 trường cao đẳng:

1. Luật và Pháp chính

2. Khoa học

3. Y học (đã có sẵn từ trước)

4. Xây dựng

5. Văn chương

- Trường Luật và Pháp chính: chia làm 3 ngành:

+ Ngành thứ nhất coi như đã tổ chức xong, đó là trường Hậu bổ Hà Nội
để đào tạo quan lại.

+ Ngành thứ hai là đào tạo những yiên chức cho cơ quan cai trị của
"Nhà nước Bảo hộ".

+ Ngành thứ ba có thể dạy một ít chữ Hán nhưng thiên về thương
nghiệp để đào tạo những viên chức cho ngành thương chính và thuế quan.
- Trường cao đẳng khoa học gồm các ngành toán, vật lý, hoá học và
sinh vật có mục đích, từ năm thứ hai trở đi đào tạo thành những giáo viên
trung học hoặc cao đẳng sư phạm, và những người làm công tác nghiên cứu
khoa học.

- Trường cao đẳng Y khoa coi như đã tổ chức xong từ trước có hai
ngành Y và Dược.

- Trường cao đẳng Xây dựng sẽ được tổ chức thành 3 ngành:

+ Cầu đường, đường sắt, mỏ (đã có trước ở trường Công chính).

+ Điện khí thực hành (bao gồm cả ngành bưu điện).

+ Nông nghiệp, dâu tằm và thú y

- Trường cao đẳng Văn chương dạy ngôn ngữ và văn học cổ điển
phương Đông, lịch sử và địa lý các nước Viễn Đông, lịch sử văn học Pháp và
nước ngoài, lịch sử triết học và nghệ thuật.

Ngày 12-10-1907, nhà cầm quyền cho ban hành những quy chế của
trường đại học bao gồm quy chế tuyển sinh, giảng dạy và học tập.

Sau hơn một năm chuẩn bị khá cập rập, ngày 10-11-1907, Trường đại
học Đông Dương khai giảng, trong tổng số 94 sinh viên chỉ có 39 là có bằng
cấp đúng quy định (đã tốt nghiệp trường trung học Sài Gòn hoặc đã đỗ thi
Hương và được chứng nhận biết tiếng Pháp).

Sau một tháng học thử còn lại 68 sinh viên chính thức và 8 dự thính.
Đến cuối năm học chỉ còn có 41 người và họ cũng chỉ là sinh viên năm thứ
nhất, sau đó trường phải đóng cửa vì không đủ điều kiện để hoạt động. Dĩ
nhiên toàn quyền P. Beau bị dư luận công kích kịch liệt nhất là báo chí của
thực dân Anh ở Ấn Độ.

Tại sao Trường Đại học Đông Dương không thể tồn tại lâu dài? Điều đó
cũng dễ hiểu, thứ nhất, đây không phải là một cơ quan giáo dục cao đẳng có
tổ chức chặt chẽ, từ cơ sở vật chất đến nội dung giảng dạy đều chưa được
nghiên cứu phù hợp với thực tế lúc đó. Giáo viên hầu hết kiêm nhiệm nhiều
việc chứ không phải là những giáo sư chuyên giảng dạy mặc dầu họ đều là
những người có học vị, bằng cấp cao. Học sinh tuyệt đại đa số là công chức
ở các cơ quan trung ương của chính quyền thực dân đóng ở Hà Nội lúc đó.
Do vậy, thời gian học phải bố trí vào buổi tối mỗi ngày từ 5 giờ chiều đến 10
giờ đêm, những môn cần làm thí nghiệm học vào sáng thứ năm hàng tuần.

Hai là, trình độ sinh viên quá thấp so với chương trình giảng dạy. Mặc
dầu người ta đã chú ý đến vấn đề này bằng cách châm chước bằng cấp và
trình độ tiếng Pháp, nhưng sinh viên vẫn không thể nào tiếp thu nổi nội dung
nhất là đối với các môn khoa học xã hội như triết học, luận lý học, văn học
phương Tây v.v... Do đó, học viên bị rơi rụng đi một cách nhanh chóng sau
mấy tháng đầu để rồi nhà trường phải đóng cửa không kèn không trống.

Cho đến 10 năm sau khi trường Đại học Đông Dương buộc phải đóng
cửa, nhà cầm quyền Pháp chưa nghĩ đến việc tổ chức hệ thống giáo dục cao
đẳng và đại học bởi vì những học sinh tốt nghiệp hệ trung học sau cải cách
giáo dục lần thứ nhất còn quá ít, hơn nữa trình độ tiếng Pháp chưa thể tiếp
thu một cách đầy đủ chương trình giảng dạy ở bậc cao đẳng và đại học. Phải
đến 1918 tức là sau cải cách giáo dục lần thứ hai, những yêu cầu của một
sinh viên trường cao đẳng đã có thể đáp ứng được do học tập hệ thống ở các
trường trung học, nhà cầm quyền Pháp đã có chủ trương mở một số trường
cao đẳng theo hệ chính quy lúc đó.

Tháng 12 năm 1918, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định ban hành
Quy chế chung về bậc Cao đắng Đông Dương (Règlement général de
L’enseignement supérieur en Indochine), nội dung có những điểm cơ bản sau
đây:

a) Tổ chức và lãnh đạo

- Bậc cao đẳng do Giám đốc Cao đẳng học vụ phụ trách. Chức vụ này
do Toàn quyền Đông Dương bổ nhiệm, chọn trong số quan chức giáo đục đã
bảo vệ thành công luận án tiến sĩ ở Pháp và đã có 15 năm công tác trong
ngành giáo đục.
b) Điều kiện dự tuyển

Học sinh muốn dự tuyển vào trường cao đẳng Đông Dương phải tuân
theo những điều kiện như:

- Về học lực, phải có một trong những bằng cấp hoặc bằng thành
chung, bằng cao đẳng tiểu học (Brevet de I'enseignement primaỉe supérieur)
hay bằng trung học (Brevet de I’enseignement secondaire Indochmois) hoặc
tú tài (Baccalauréat).

- Tuổi: từ 18 đến 25

- Trong đơn dự tuyển phải ghi lời cam kết: Sau khi ra trường phải phục
vụ trong các cơ quan Nhà nước "bảo hộ" ít nhất 10 năm.

Với những điều kiện như trên lúc này nhà cầm quyền Pháp đã có thể
chuyển một số trường trung cấp lên cao đẳng như Y, Dược, Pháp chính
(Luật) hoặc thành lập một số trường mới như Cao đẳng Sư phạm, Nông
lâm...

2. Trường cao đẳng Y Dược Đông Dương

Năm 1898, Toàn quyền Paul Doumer dự định thành lập một trường đào
tạo thầy thuốc người Việt, lúc đầu định đặt ở Sài Gòn nhưng năm 1901 lại
chuyển ra Hà Nội và năm 1902 thì chính thức thành lập. Hai giáo sư đầu tiên
được tuyển chọn từ Pháp sang là bác sĩ Le Roy des Barres và Degorce vốn
là những bác sĩ nội trú của các Bệnh viện Paris, giảng về lâm sàng và bệnh
học. Hai giảng viên dạy tiếng Pháp và các môn khoa học bổ trợ, bác sĩ Yersin
vốn được bổ nhiệm làm hiệu trưởng cũng giảng dạy môn động vật học. Ngoài
ra còn 2 giảng viên phụ và một thông ngôn người Việt giúp việc.

Nghị định 12-8-1905, tổ chức thêm một lớp hộ sinh viên và một lớp thú
y. Tất cả các lớp học kể trên đều học trong 4 năm. Lúc mới vào trường học
sinh phải học 1 năm dự bị gồm các môn Pháp văn, Vật lý, Sinh vật học. Sau
thời gian dự bị, học sinh phải thi kiểm tra, những người đủ điểm mới được
tiếp tục học chính thức. Những người không đỗ ở kỳ thi này sẽ phải học lớp
dự bị.
Từ năm 1910, Sarraut sang làm Toàn quyền, trường Y Dược được
chỉnh đốn lại về các mặt tổ chức và giảng dạy.

Nếu như những năm trước trường do Khâm sứ Bắc Kỳ chỉ đạo thì nay
được đặt dưới sự điều hành chung của Nha học chính Đông Dương.

Năm 1914, khoa Mắt của trường được nâng lên thành Trung tâm Nhãn
khoa Đông Dương, sau đó khoa Thú y được tách ra khỏi trường và thành lập
trường Cao đẳng Thú y Đông Dương.

Nghị định ngày 7-1-1919, quy định Trường phải dạy các môn vật lý, hoá
học và sinh vật như trường Y ở Pháp, đó là bước đầu để có thể tổ chức một
trường cao đẳng Y khoa đúng với tên gọi của nó.

Nghị định ngày 4-7-1920, tổ chức ban Quân y, mà người ta đã xoá bỏ


năm 1909. Những học sinh của ban này nếu không tốt nghiệp cũng vẫn phải
phục vụ quân đội trong 5 năm.

Năm 1923 tức là sau 5 năm tổ chức các môn học Lý, Hoá, Sinh, toàn
quyền Đông Dương ra nghị định chuyển trường Y Dược Đông Dương, thành
trường Y Dược kiêm bị Đông Dương độc lập với trường ở Pháp. Theo Nghị
định này, nhà trường sẽ tổ chức một số bộ môn thực hành về mô học, giải
phẫu bệnh học, phẫu thuật thực hành, vi khuẩn học, ký sinh vật học, sinh lý
học và hoá dược. Nhờ những cải tiến như đã nói trên, những sinh viên dẫu
chưa đỗ tú tài vẫn có thể học đủ chương trình để khi tốt nghiệp ra trường
xứng đáng với tên gọi: Y Sĩ Đông Dương.

Đến năm 1930, trường Kiêm bị Y Dược Đông Dương đã được tổ chức
như sau: Tải bản FULL (file doc 219 trang): bit.ly/3p8bmS6
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
- Một lớp cho người Pháp lấy từ những học sinh đã đỗ tú tài học thẳng
lên bác sĩ y khoa.

- Một lớp cho người Việt bước đầu tuyển chọn những người đậu Cao
đẳng tiểu học nhưng hướng phấn đấu phải lấy những người đậu tú tài tây
hoặc "bản xứ".
Trường gồm tất cả bảy khoa:

+ Một ban dự bị Lý, Hoá, Sinh (PCB)

+ Trường kiêm bị Y khoa

+ Trường kiêm bị Dược khoa

+ Khoa Y sĩ Đông Dương Tải bản FULL (file doc 219 trang): bit.ly/3p8bmS6
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
+ Khoa Dược sĩ Đông Dương

+ Khoa Y Dược cho người nước ngoài (thuộc châu Á)

+ Khoa nữ hộ sinh cho người Việt

a) Ban Lý, Hoá, Sinh

Chương trình ban Lý, Hoá, Sinh gồm những môn

Mỗi tuần
Môn học
Lý thuyết Thực hành
1. Vật lý 3 giờ 2 giờ
2. Hoá học 3 giờ 4 giờ
3. Thực vật học 2 giờ 3 giờ
4. Động vật học 2 giờ 3 giờ
Nội dung học giống như ban Lý, Hoá, Sinh các trường Y Dược bên
Pháp. Cuối khoá học, sinh viên sẽ được cấp bằng chứng nhận tốt nghiệp Lý,
Hoá, Sinh. Những sinh viên này nếu có nguyện vọng có thể đổi bằng tốt
nghiệp như những sinh viên đã học ở Pháp, sau khi đã được Chủ tịch Viện
Hàn lâm Pháp cho phép và nộp một khoản lệ phí theo quy định lúc đó.

b) Trường kiêm bị Y khoa Đông Dương

Trường này học trong 5 năm theo như chương trình bên Pháp. Sau
thời gian học vào cuối năm thứ 5 sinh viên sẽ sang Pháp thực tập lâm sàng
và trình bày luận án tốt nghiệp.

Ra trường, khi đã vào làm việc trong những cơ sở y tế như cam kết, họ
sẽ được xếp lương theo ngạch bậc từ y sĩ hạng nhất loại A lương 5.000 đồng
Đông Dương một năm đến hạng 6 lương 3.000 đồng Đông Dương một năm,
lương tập sự là 2.400 đồng một năm.

c) Trường kiêm bị Dược khoa Đông Dương

Trường bắt đầu nhận sinh viên từ năm học 1923 - 1924. Sinh viên có
thể thực tập ở những xưởng bào chế lớn tuỳ theo ý kiến của Giám đốc học
chính Đông Dương hoặc Hiệu trưởng. Cũng có trường hợp sinh viên phải
thực tập trong những bệnh viện có hiệu thuốc do dược sĩ người Pháp trông
coi.

Các năm thứ nhất và thứ hai học sinh thi lên lớp ở Việt Nam, còn thi tốt
nghiệp phải sang Pháp. Trường Dược khoa lấy rất ít sinh viên. Năm học 1930
- 1931 chỉ có 5 sinh viên theo học.

d) Khoa Y sĩ Đông Dương

Khoa Y sĩ Đông Dương học trong bốn năm, do các giáo sư trường kiêm
bị Y khoa Đông Dương giảng dạy. Học sinh trường Y sĩ học chung với sinh
viên trường Y khoa một số môn về lý thuyết cũng như thực hành về lâm sàng
(Xem phần phụ lục).

Cuối năm, học sinh phải thi lên lớp và cuối năm thứ tư thì thi tốt nghiệp
gồm những môn về lý thuyết vào tháng sáu và những môn về lâm sàng vào
tháng 9. Những môn này thi ở bệnh viện trước hội đồng giám khảo gồm 3
người trong đó có một giáo sư về lâm sàng làm chủ tịch. Phần thi lý thuyết
gồm 3 môn nối tiếp nhau về bệnh học nội, ngoại, sản, điều trị và vệ sinh, cho
thuốc.

Phần thực hành lâm sàng gồm lâm sàng và điều trị bằng thuốc, lâm
sàng và điều trị phẫu thuật, lâm sàng và điều trị về sản. Mỗi học sinh khám
cho 3 bệnh nhân mỗi người 20 phút và trình bày 10 phút trước hội đồng giám
khảo. Ngoài ra học sinh năm thứ 3 và thứ 4 còn được thực tập ở bệnh viện
mắt, chữa những bệnh thông thường và quặm. 4184139

Học sinh sau khi ra trường sẽ xếp lương theo ngạch bậc như sau:

You might also like