« Home « Kết quả tìm kiếm

Am hiểu Bệnh bạch cầu, bệnh bạch huyết và bệnh u tủy


Tóm tắt Xem thử

- HỘI BỆNH BẠCH CẦU ...1.
- BỆNH BẠCH CẦU LÀ BỆNH GÌ? ...5.
- CÁC DẠNG BỆNH BẠCH CẦU ...7.
- Thật ra, đây là bệnh ung thư tủy xương – ‘nhà máy’ trong xương, nơi chế tạo tế bào máu.
- Máu gồm có tế bào máu (blood cells) và huyết tương (plasma), huyết.
- Đây là ‘nhà máy’ tế bào máu.
- Trong cơ thể khỏe mạnh, tủy xương sản sinh phần lớn ba loại tế bào máu, như:.
- bạch cầu.
- Thông thường các tế bào này nằm trong tủy xương cho đến khi trưởng thành để lưu chuyển trong mạch máu và hoàn thành được nhiều chức năng khác nhau..
- Bạch cầu (Lính đánh viêm nhiễm).
- Chống viêm nhiễm, tiêu diệt vi trùng (khuẩn) gây bệnh và những tế bào bị tổn thương trong cơ thể..
- Bạch huyết bào-T (T-lymphocytes) điều khiển hệ miễn nhiễm, có thể diệt siêu vi khuẩn và tế bào ung thư..
- Tất cả tế bào máu đều có cùng một nguồn gốc từ tế bào mầm (stem cell) hay tế bào tiền thân (precursor cell).
- Tuy nhiên, trong thời kỳ phát triển ban đầu, các tế bào này chia thành hai gia đình chính - tủy bào (myeloid) và bạch huyết bào (lymphoid)..
- Khi trưởng thành, những tế bào này gọi là bạch huyết bào (lymphocytes)..
- Vì vậy, số lượng và khả năng của tế bào máu trưởng thành bị giảm bớt..
- Tế bào trở thành ‘bất bình thường’ vì chúng không thể trưởng thành trọn vẹn.
- Những tế bào ‘em bé’, hay còn non, tích tụ trong cơ thể vì chúng không chết và không bị tiêu hao dần..
- Khi phát bệnh bạch cầu, các tế bào bệnh bạch cầu tích tụ trong tủy xương..
- Do đó, khi số lượng tế bào còn non gia tăng, thì số lượng hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu giảm bớt..
- Vì thế, bệnh nhân sẽ có một số triệu chứng hay dấu hiệu thiếu loại tế bào máu nào đó.
- Có một loại u bạch huyết ác tính đặc biệt, liên hệ đến tế bào sản sinh kháng thể kỳ cựu, gọi là tương bào.
- Ngược với những điều thường nghe nói, không phải lúc nào tế bào bệnh bạch cầu cũng phát triển nhanh hơn tế bào thường.
- Thực ra, theo các thử nghiệm trong phòng thí nghiệm nghiên cứu, một số tế bào bệnh bạch cầu lại phát triển chậm hơn tế bào thường..
- Số lượng tế bào máu cao là vì tế bào bệnh bạch cầu tích tụ trong mạch máu.
- Tế bào bệnh bạch cầu còn non, tích tụ trong mạch máu vì cơ thể không sử dụng chúng..
- Do đó, số lượng tế bào này tăng dần.
- Khi số lượng tế bào này tăng quá cao, các mạch máu có thể bị tắt nghẽn và làm tổn thương mô trong cơ thể..
- Bệnh Bạch Cầu Tủy Bào Mạn tính (Chronic Myeloid Leukaemia- CML) Bệnh Bạch Cầu Cấp Tính (Acute Leukaemia) xảy ra khi các tế bào trong thời kỳ phát triển ban đầu bị ảnh hưởng.
- Do đó, các tế bào này còn không trưởng thành được và hoàn toàn vô dụng..
- Bệnh Bạch Cầu Mạn tính (Chronic Leukaemia) xảy ra khi các tế bào khá.
- Thông thường những tế bào có phần lớn chức năng bình thường, và bệnh nhân ít bị thiếu máu, chảy máu và viêm nhiễm hơn.
- Khi bệnh bạch cầu ảnh hưởng đến những tế bào mà sau cùng sẽ biến thành tiểu cầu, hồng cầu, bạch cầu hạt và bạch cầu đơn nhân to, tình trạng này gọi là bệnh bạch cầu tủy bào (myeloid), tủy xương.
- Khi bệnh bạch cầu ảnh hưởng đến những tế bào mà sau cùng sẽ biến thành bạch huyết bào, tình trạng này gọi là bệnh bạch cầu nguyên bào (lymphoblastic), bạch huyết (lymphoid), bạch huyết bào (lymphocytic), hay bạch huyết (lymphatic)..
- Tế bào bất bình thường của bệnh bạch cầu nguyên bào cấp tính, viết tắt là ALL là bạch huyết bào còn non - tức là bạch cầu thuộc hệ bạch huyết, do đó, gọi là nguyên bào bạch huyết bào (lymphoblasts)..
- Khi tủy xương bị ALL ảnh hưởng, khả năng sản sinh tế bào chống viêm nhiễm bị suy giảm, khiến người ta có thể bị viêm nhiễm nặng.
- Ngoài ra, bệnh bạch cầu còn làm cho tế bào sản sinh tiểu cầu và hồng cầu không còn đất hoạt động..
- Nhiều hóa chất dùng để trị ALL, bị màng não cản lại, nhưng tế bào bệnh bạch cầu thì đi qua được.
- Điều trị dự phòng là cách trị liệu não và màng não để tránh trường hợp tế bào bệnh bạch cầu ẩn núp tại những nơi này trong lúc điều trị bằng hóa chất, rồi tiếp tục phát triển sau khi ngưng điều trị.
- Đối với bệnh nhân, sau khi trị liệu lần đầu, bệnh tái phát, thì có thể trị bằng phương pháp ghép tế bào mầm..
- Vì bệnh tiến triển chậm, bạch huyết bào và các tế bào khác không bị tràn ngập nhanh như trường hợp bệnh cấp tính.
- Bệnh bạch cầu tủy bào cấp tính ảnh hưởng đến các tế bào thuộc gia đình tủy bào.
- Gia đình tủy bào gồm có bốn loại tế bào máu:.
- bạch cầu hạt.
- Bạch cầu hạt, là loại tế bào chủ yếu bị ảnh hưởng đối với bệnh bạch cầu dạng này.
- AML xảy ra khi cơ thể bị thiếu tế bào tủy bào trưởng thành vì tủy bào còn non hay ‘em bé’ tích tụ.
- Bệnh bạch cầu này đi đôi với những tế bào chỉ điểm bất bình thường gọi là ‘Nhiễm sắc thể Philadelphia (Philadelphia chromosome)' và ảnh hưởng đến bệnh nhân trẻ nhiều hơn so với CLL..
- Trong thời kỳ thứ nhất, tế bào bất bình thường sản sinh chậm, kinh niên (chronic multiplication).
- Ghép tế bào mầm là cách điều trị đầy hứa hẹn cho người bị bị CML.
- Thậm chí khi bệnh đã lan tràn, trong nhiều trường hợp vẫn có thể trị dứt bệnh bằng liệu pháp hóa học kết hợp, đôi khi bằng liều lượng mạnh và ghép tế bào mầm..
- Nếu bệnh phát triển nhanh khi phát hiện, thì khả dĩ trị được bằng cách cộng thêm phương pháp ghép tế bào mầm (lấy từ bệnh nhân hay bà con tương thích) vào chương trình điều trị..
- U tủy là trường hợp các tế bào sản sinh kháng thể và những chất chống viêm nhiễm khác, phát triển bất bình thường.
- Trị liệu dài hạn bằng cách kết hợp bức xạ, giải phẫu và liệu pháp hóa học, có kết quả tốt đối với nhiều bệnh nhân, và phương pháp ghép tế bào mầm có thể kéo dài mạng sống bệnh nhân.
- Ngoài ra còn có một số chất vô hại với tế bào (non-.
- Bệnh thiếu máu bất sản là trường hợp tủy xương ngưng sản sinh toàn bộ các tế bào máu.
- Bệnh này khác bệnh bạch cầu ở chỗ, là các tế bào không sinh sản thay vì không tăng trưởng.
- Như vậy trong tủy xương có rất nhiều tế bào mỡ thay vì tế bào sản sinh máu như bình thường.
- Loạn sản tủy đi đôi với một số tế bào phát triển quá thời kỳ nguyên bào hay tế bào mầm, và có khi gọi là tiền thân-bệnh bạch cầu hay bệnh bạch cầu âm ỉ.
- ung thư, tùy theo dạng bệnh hay ghép tế bào mầm dị giao (allogenic stem cell transplant) đối với bệnh nhân trẻ tuổi..
- Có nhiều bệnh ác tính khác, đi đôi với tế bào tủy bào và bạch huyết bào, thí dụ như chứng tăng tiểu cầu thiết yếu (thrombocythaemia), huyết cầu tố-niệu kịch phát về đêm (paroxysmal nocturnal haemoglobinuria), tăng hồng cầu vô căn (polycythaemia rubra vera), xơ hóa tủy xương.
- Mục đích khi trị liệu là tiêu diệt phần lớn tế bào bất bình thường, để tế bào bình thường sản sinh trong tủy xương (gọi là liệu pháp cảm ứng [induction therapy.
- Phần lớn nỗ lực nghiên cứu dồn vào việc khai triển kỹ thuật dò tìm số lượng tế bào bệnh bạch cầu còn sót lại trong tủy xương.
- Trị bằng hóa chất theo chu kỳ với liều lượng thấp, sẽ làm giảm thêm số lượng tế bào bất bình thường..
- Trong nhiều trường hợp, dù không dò tìm được, nhưng một số ít tế bào bất bình thường vẫn còn trong tủy xương.
- Liệu pháp hóa học là cách sử dụng thuốc liên tục để tiêu diệt hay kiềm chế tế bào ác tính phát triển.
- Thuốc phải lưu chuyển trong dòng máu để đi đến những tế bào bất bình thường..
- Thuốc của liệu pháp hóa học làm gián đoạn hay tiêu diệt tiến trình nhân đôi hay phát triển của tế bào bất bình thường..
- Thuốc của liệu pháp hóa học ngăn chặn tế bào nhân đôi.
- Liệu pháp hóa học ảnh hưởng đến những tế bào phát triển nhanh.
- Những tế bào này có thể là tế bào bình thường cũng như tế bào bệnh bạch cầu, bệnh bạch huyết hay bệnh u tủy.
- Những tế bào bình thường có thể bị ảnh hưởng bao gồm:.
- Tuy nhiên, tế bào bình thường có khả năng tái sinh..
- Tủy xương là nơi cơ thể sản sinh tế bào máu:.
- Do đó, sau khi điều trị bằng liệu pháp hóa học, tế bào tủy xương bình thường có thể tạm thời ngưng hoạt động, khiến cho bệnh nhân bị thiếu máu và chảy máu hay chảy máu nhiều hơn..
- Vì tế bào bình thường của hệ tiêu hóa (miệng, bao tử và ruột) bị thuốc tiêu diệt, bệnh nhân của liệu pháp hóa học có thể bị những điều dưới đây:.
- Liệu pháp bức xạ là cách sử dụng tia-X đặc biệt để tiêu diệt tế bào ung thư.
- Tế bào mầm hay ghép tủy xương.
- Từ xưa đến nay, từ ngữ ghép tủy xương, vốn dùng để mô tả tiến trình ghép tế bào tủy xương vào bệnh nhân sau khi điều trị bằng liệu pháp hóa học và/hay bức xạ bằng liều lượng mạnh.
- Bây giờ, tiến trình này đựoc gọi là ghép tế bào mầm (stem cell transplantation)..
- Tế bào mầm sinh sôi nẩy nở trong tủy xương và chịu trách nhiệm chế tạo hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu.
- Một số ít tế bào mầm cũng lưu chuyển trong máu.
- Nhưng khi sử dụng liều lượng mạnh, thông thường những tế bào mầm bình cũng chịu chung số phận những tế bào bất bình thường còn tồn tại.
- Những tế bào mầm này sẽ phát triển trong xoang xương, và sản xuất hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu..
- Tế bào mầm có thể được lấy ra bằng nhiều cách và từ nhiều người hiến tặng khác nhau..
- Nguồn tế bào mầm.
- Tủy xương: tế bào mầm có thể lấy từ tủy xương của người hiến tặng..
- Người hiến tặng sẽ được gây mê, rồi đâm nhiều mũi kim vào tủy xương hông chậu để rút tế bào mầm..
- Máu tuần hoàn: trong mạch máu có một số rất ít tế bào mầm.
- Sau khi điều trị bằng liệu pháp hóa học hay bằng kích thích tố tủy xương, thường gọi tắt là G-CSF, tế bào mầm sẽ rời khỏi tủy xương, chạy vào máu nhiều hơn.
- Những tế bào mầm này có thể được lấy ra bằng kỹ thuật gạn lọc đặc biệt, sử dụng máy phân tế bào..
- Đây là nguồn tế bào mầm phong phú.
- Những tế bào mầm có thể được rút ra từ giây nhau phế thải, sau khi sinh em bé, cất giữ dài hạn và có thể là dùng làm nguồn tủy xương.
- Tế bào mầm của người hiến tặng.
- Bản thân (Autologous): tế bào mầm của chính bệnh nhân.
- Những tế bào mầm này có thể rút ra khi bệnh nhân ở trong thời kỳ thuyên giảm..
- Người lạ: tế bào mầm có thể được rút từ người tình nguyện, có tên trong sổ bộ hiến tặng tủy xương hay máu giây nhau, hoạt động khắp thế giới..
- chất có thể ức chế việc sản sinh tế bào bất bình thường (ví dụ như interferon đối với CML),.
- chất có thể kích thích tế bào bệnh bạch cầu trưởng thành bình thường một thời gian (axít retinoic), và.
- chất giúp hệ miễn dịch tiêu diệt tế bào bất bình thường (ví dụ như kháng thể đơn tính)..
- Có một bệnh tương đối ít người biết đến, gọi là bệnh bạch cầu tế bào nhung mao (hairy cell), trị bằng interferon khá dễ dàng, nhưng nay đã có những thuốc tốt hơn, thí dụ như cladribine.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt