Professional Documents
Culture Documents
0.1. Khi quan sát lịch sử phát triển của tiếng Việt, chúng ta chỉ có thể quan sát sự phát triển của nó từ
giai đoạn nó tách ra khỏi nhánh ngôn ngữ Mon-Khmer để tạo thành nhóm Việt-Mường riêng rẽ. Vì
thế, khi nói đến quá trình phát triển của tiếng Việt, về thực chất, chính chúng ta cũng nói về lịch sử
phát triển của nhóm Việt-Mường.
0.2. Khác với các ngôn ngữ khác, tiếng Việt có văn tự để ghi chép rất muộn, cho nên các tri thức về
tiếng Việt càng cổ xưa thì càng phải dựa vào ngôn ngữ họ hàng chứ không phải bản thân tiếng Việt.
Do đó, việc nghiên cứu lịch sử tiếng Việt chính xác đến mức độ nào là tuỳ thuộc vào sự hiểu biết vào
Có thể nói, vào thời điểm này, tiếng Việt cũng như các ngôn ngữ Việt-Mường hiện nay là các ngôn
ngữ chưa có thanh điệu. Trong vốn từ vựng của nó, cư dân vẫn đồng thời dùng cả từ đơn tiết lẫn
những từ đa tiết. Để cấu tạo từ mới, các ngôn ngữ Mon-khmer dùng cả biện pháp láy lẫn biện pháp
phụ tố.
Ở giai đoạn này, hầu như các ngôn ngữ Mon-Khmer chưa có sự tiếp xúc với tiếng Hán và cũng rất
có thể là các ngôn ngữ Mon-Khmer chưa có sự tiếp xúc với tiếng Phạn. Nói một cách khác, vào thời
điểm lúc bấy giờ, môi trường ngôn ngữ Nam Á đang ở trong tình trạng gần như thuần khiết.
Sự khác nhau có tính phương ngữ này là cơ sở để về sau hình thành các ngôn ngữ khác nhau trong
nhóm Việt-Mường. Như vậy, các ngôn ngữ khác nhau trong nhóm Việt-Mường chính là hệ quả của
sự khác nhau ban đầu này và do yếu tố địa lí chi phối.
Ở giai đoạn tiền Việt-Mường, tiếng Việt vẫn là một ngôn ngữ chưa có thanh điệu. Bởi vì vừa tách
khỏi nhánh Mon-Khmer nên tiếng tiền Việt-Mường vẫn còn lưu giữ đặc điểm không có thanh điệu
của các ngôn ngữ Mon-Khmer thuộc họ Nam Á. Và cho đến hiện nay, tiếng Arem trong nhóm Việt-
Mường hiện tại cũng là một ngôn ngữ không có thanh điệu.
Ở thời kì tiền Việt-Mường, tiếng Việt là một ngôn ngữ mà vốn từ vựng của nó về cơ bản là thuần
Mon-Khmer và nó đã có ít nhiều tiếp xúc với các ngôn ngữ thuộc họ Nam Đảo và Thái-Kadai. Riêng
đối với họ Hán-Tạng thì các ngôn ngữ tiền Việt-Mường dường như chưa có sự tiếp xúc.
Do hai khả năng vừa phân tích trên, nhiều nhà nghiên cứu dự đoán ở giai đoạn tiền Việt-Mường,
tiếng Việt vẫn còn sử dụng phương thức phụ tố trong cấu tạo từ để tạo thành từ mới. Điều đó chứng
tỏ tiếng tiền Việt-Mường còn lưu giữ đầy đủ đặc điểm của Mon-Khmer. Sự phân biệt giữa tiếng tiền
Việt-Mường với các ngôn ngữ Mon-Khmer có chăng chỉ là sự ảnh hưởng của các ngôn ngữ Thái. Vì
vậy, có thể nói, các ngôn ngữ Thái là tác nhân làm cho khối Mon-Khmer tách riêng ra một nhóm ở
phía đông của nhánh và đó là tiền thân của tiền Việt-Mường.
2.4. Những dự đoán về mặt văn hoá liên quan đến nhóm Việt-Mường
Các nhà nghiên cứu về lịch sử ngôn ngữ cũng như lịch sử văn hoá thường đồng nhất tiếng Việt ở giai
đoạn tiền Việt-Mường trong lịch sử tiếng Việt như là một ngôn ngữ dùng chung cho nhà nước Văn
Lang của thời kì Hùng Vương. Tuy nhiên, chứng cứ để chứng minh cho sự tồn tại của ngôn ngữ
thống nhất này, vì tính chất quá cổ xưa của lịch sử, không còn được giữ lại. Người ta chỉ có thể nhận
biết điều này nhờ 2 hệ quả như sau:
- Ở giai đoạn lịch sử về sau, tiếng Việt với tư cách là một ngôn ngữ đã bị một ngôn ngữ khác đặt vào
vị thế bị đồng hoá và thời gian ở vị thế ấy kéo dài hàng nghìn năm. Tuy nhiên, khi lịch sử không duy
trì điều kiện bị đồng hoá đó, ngay lập tức tiếng Việt trở thành một ngôn ngữ thống nhất trong toàn
dân. Chính việc tiếng Việt trở thành một ngôn ngữ thống nhất sau khi môi trường bị đồng hoá mất đi
đã chứng tỏ ở giai đoạn tiền Việt-Mường tiếng Việt đã là một ngôn ngữ phát triển khá bền vững
- Khi chúng ta nói tiếng Việt ở giai đoạn tiền Việt-Mường là một ngôn ngữ thống nhất như vậy cũng
có nghĩa là chúng ta nói tới tất cả các ngôn ngữ trong nhóm Việt-Mường hiện nay mà không có sự
Các giai đoạn phát triển của tiếng nhiều tác
phân biệt như ở giai đoạn hiện tại: phân biệt giữa tiếng Việt với tiếng Mường; Mường - Cuối; Cuối -
Arem; Rục - Sách;...
Trong nghiên cứu lịch sử tiếng Việt, giai đoạn tiền Việt-Mường được coi là khởi đầu của lịch sử
tiếng Việt. Do đó, tiếng tiền Việt-Mường được coi là ngôn ngữ mẹ hay ngôn ngữ cơ sở, ngôn ngữ
chung mà từ đó xuất hiện tất cả các ngôn ngữ thuộc nhóm Việt-Mường hiện nay. Và để chứng minh
được điều này, người ta luôn luôn đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải tái lập được dạng thức tiền Việt-
Mường của tiếng Việt.
2.5. Bức tranh ngữ âm của tiếng Việt ở giai đoạn tiền Việt-Mường
(1) Trong tiếng tiền Việt-Mường, cấu trúc ngữ âm của từ gồm hai kiểu chính, đó là kiểu từ đơn tiết
không thanh điệu được kí hiệu là CVC; và kiểu từ song tiết không thanh điệu, được kí hiệu là
CvCVC, trong đó:
--> Đây chính là cấu tạo ngữ âm ở một số ngôn ngữ hiện nay như: Mày, Rục,...
Ví dụ:
Theo kết quả nghiên cứu hiện nay thì bức tranh về cấu trúc ngữ âm của từ trong tiếng tiền Việt-
Mường nghiêng về dạng thức song tiết, theo đó, người ta cho rằng có khoảng 65 - 70% đơn vị từ
vựng là từ song tiết, còn lại, 30 - 35% là đơn vị từ vựng có cấu trúc đơn tiết.
(2) Hệ thống ngữ âm của tiếng tiền Việt-Mường
- Đối với tiền âm tiết, trong tiếng tiền Việt-Mường bao giờ cũng chỉ xuất hiện phụ âm vô thanh, đó là
các phụ âm: *p, *t,*ch,*k,*?,*s.
Còn lại, nguyên âm của tiền âm tiết chủ yếu là hai âm trung hoà: *a và *ơ
Ngoài ra, nguyên âm trong tiền âm tiết còn có: *i và *u
- Ở trường hợp tổ hợp phụ âm thì trong tiếng tiền Việt-Mường các tổ hợp phụ âm thường có dạng
thức như sau:
+ Yếu tố thứ nhất :
> Các âm tắc: *k, *t, *p, *ch
> Các âm xát: *s, *h
> Đôi khi có cả âm mũi: *m
+ Yếu tố thứ haigiai đoạn phát triển của tiếng
Các nhiều tác
Về nguyên tắc có thể là bất kì phụ âm nào nhưng thường gặp nhất là 2 âm lướt: *r và *l. Như vậy, tổ
hợp phụ âm trong tiếng Việt-Mường là tổ hợp của 2 yếu tố nói trên.
- Đối với trường hợp âm tiết chính hoặc từ đơn tiết thì trong tiếng tiền Việt-Mường người ta có thể
xác lập một hệ thống các âm sau đây:
1 ::: Hệ thống phụ âm đầu của âm tiết chính và từ đơn tiết trong tiếng tiền Việt-Mường
Quan sát danh sách hệ thống phụ âm đầu trong âm tiết chính và từ đơn tiết tiếng Việt-Mường chúng
ta có thể thấy:
+ Số lượng: nhiều hơn so với hiện nay.
+ Về vị trí cấu âm: có tối đa 5 vị trí cấu âm
+ Trong tiếng tiền Việt-Mường, hệ thống phụ âm đầu vẫn còn lưu giữ đầy đủ nét đối lập hữu thanh -
vô thanh ở cả trường hợp phụ âm tắc lẫn phụ âm xát.
+ Ở giai đoạn tiền Việt-Mường, tiếng Việt vẫn còn lưu giữ lại sự phân biệt của dãy phụ âm tiền mũi
với dãy phụ âm mũi.
+ Ở giai đoạn này, loạt âm tắc bật hơi vẫn còn được lưu giữ lại tương đối đầy đủ ở 3 vị trí cấu âm
khác nhau.
2 ::: Hệ thống âm cuối trong tiếng tiền Việt-Mường
Trong tình hình nghiên cứu hiện nay, người ta đề nghị xác lập một danh sách các phụ âm cuối trong
tiếng tiền Việt-Mường như sau:
Nhận xét:
+ Về số lượng: nhiều hơn hiện nay (quan điểm âm vị học: 8; quan điểm ngữ âm học: 10)
Các giai đoạn phát triển của tiếng nhiều tác
+ Có sự đối lập giữa các phương thức: tắc - xát - bên - rung.
+ Có 5 vị trí cấu âm (hiện nay chỉ có 3 theo quan điểm âm vị học, hoặc 4 theo quan điểm ngữ âm
học)
3 ::: Danh sách nguyên âm trong tiếng tiền Việt-Mường
*Nhận xét:
+ Số lượng: nhiều hơn hiện nay (19>16)
+ Về cơ bản, các nguyên âm đơn giữ thế đối lập dài-ngắn đều đặn.
+ Số lượng nguyên âm đôi ít hơn và khác về chất so với tiếng Việt hiện đại:
^ hiện đại: 3 hàng
^ tiền Việt-Mường: 2 hàng đầu (trước - giữa)
+ Từ các nhận xét trên, chúng ta nhận biết rằng việc sắp xếp lại nội bộ hệ thống nguyên âm từ giai
đoạn này đến giai đoạn tiếng Việt hiện đại không theo một quy tắc tương ứng đều đặn mà có sự chia
tách hoặc sự hội nhập phức tạp.
4 ::: Trong tiếng tiền Việt-Mường không xuất hiện âm đệm như ở tiếng Việt hiện đại
Khác với hiện nay, âm tiết lí tưởng của tiếng Việt giai đoạn tiền Việt-Mường chỉ có 3 thành phần:
Âm đầu - Âm chính - Âm cuối
2.6. Nhận xét chung về hệ thống ngữ âm tiếng tiền Việt-Mường
Ở giai đoạn tiền Việt-Mường, tiếng Việt về cơ bản vẫn lưu giữ những đặc điểm quan trọng nhất của
nhánh ngôn ngữ Mon-Khmer trong họ Nam Á:
- Vẫn duy trì vốn từ vựng gốc Nam Á và vốn từ vựng gốc Mon-Khmer. Sự vay mượn có chăng chỉ là
sự vay mượn giữa các ngôn ngữ Nam Á và các ngôn ngữ Nam Đảo, và cũng có thể bắt đầu sự vay
mượn từ họ Thái.
- Tiếng tiền Việt-Mường là một ngôn ngữ chưa có thanh điệu - một đặc trưng quan trọng của các
ngôn ngữ Mon-Khmer.
- Tiếng tiền Việt-Mường đồng thời vẫn duy trì dạng thức từ song tiết và vẫn sử dụng phụ tố cấu tạo
từ để tạo từ mới.
Ngoài ra, ở giai đoạn này, các ngôn ngữ tiền Việt-Mường có xu thế song tiết hoá nhiều hơn so với
các ngôn ngữ còn lại trong nhánh Mon-Khmer.
Các giai đoạn phát triển của tiếng nhiều tác
* Trong việc nghiên cứu lịch sử tiếng Việt, giai đoạn tiền Việt-Mường là một giai đoạn rất quan
trọng và được coi là mốc khởi đầu của lịch sử tiếng Việt. Do đó, các khảo sát về sự biến đổi của
tiếng Việt đều được bắt đầu từ giai đoạn tiền Việt-Mường cho đến nay.
Và, dạng thức tiền Việt-Mường đôi khi được hiểu là ngôn ngữ mẹ để từ đó sinh ra tất cả các ngôn
ngữ thuộc nhóm Việt-Mường hiện nay.
.:....
Nhận xét:
Nếu như ở giai đoạn tiền Việt-Mường các ngôn ngữ hiện nay được xếp vào nhóm Việt-Mường đang
là một khối thống nhất thì ở giai đoạn này đã có một sự phân hoá. Sự phân hoá này làm tách biệt
thành một bên là những ngôn ngữ tiền Việt-Mường còn lưu giữ lại đến ngày nay và một bên là các
ngôn ngữ Việt-Mường cổ để nó tiếp tục phát triển theo một hướng khác.
Tính chất triệt để hơn của hiện tượng đơn tiết trong tiếng Việt-Mường chung có thể nhận thấy khi
chúng ta so sánh số lượng tổ hợp phụ âm đầu của tiếng Mường với tổ hợp phụ âm đầu trong tiếng
Cuối hiện nay.
Hiện nay, trong giới nghiên cứu lịch sử tiếng Việt vẫn còn chưa thống nhất khi cho rằng tiếng Việt-
Mường chung là một ngôn ngữ đơn tiết thực sự.
4.2.c. Ở bình diện ngữ âm
Vào giai đoạn Việt-Mường chung, tiếng Việt đã có những biến đổi ngữ âm rất quan trọng. Đó là:
-1- Vào thời kì này, về mặt nguyên tắc, tiếng Việt đã hình thành xong hệ thống thanh điệu dựa trên
sự đối lập âm vực (cao - thấp) và sự đối lập về tuyến điệu (bằng phẳng - không bằng phẳng; trong
không bằng phẳng lại có sự đối lập gãy - không gãy). Như vậy, vào thời điểm này tiếng Việt phải
được coi là một ngôn ngữ có hệ thống 6 thanh điệu. Lí do chính của việc hình thành đầy đủ hệ thống
thanh điệu này là do sự biến đổi về hình thái của âm đầu[1] âm tiết. Theo đó, khác với giai đoạn tiền
Việt-Mường, ở giai đoạn Việt-Mường chung các âm đầu không còn sự đối lập giữa hữu thanh và vô
thanh ở loạt âm tắc.
(X. Sơ đồ của Haudricourt về nguồn gốc các thanh trong tiếng Việt)
-2- Ở giai đoạn Việt-Mường chung, tiếng Việt có một quy luật chuyển đổi ngữ âm, đó là quy luật vô
thanh hoá các phụ âm hữu thanh. Theo đó, những âm tắc hữu thanh (*b, *đ, *-j-, *g) vốn có mặt từ
thời tiền Việt-Mường và Việt-Mường cổ, vào giai đoạn này, bị mất đi tính thanh và trở thành các phụ
âm vô thanh:
Tình trạng này cho đến hiện nay vẫn lưu giữ lại trong tiếng Mường. Do đó, trong hệ thống ngữ âm
tiếng Mường, về nguyên tắc, không có sự đối lập giữa phụ âm vô thanh với phụ âm hữu thanh mà chỉ
có loạt duy nhất là các phụ âm vô thanh.
Ví dụ:
Tải bản FULL (21 trang): https://bit.ly/3advayM
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
Như vậy, việc xác định các tương ứng từ vựng giữa tiếng Việt và tiếng Mường có thể dựa trên việc
tiếng Mường lưu giữ các âm vô thanh còn tiếng Việt lưu giữ các âm xát hoặc là các âm hút vào.
-3- Nếu như hai đặc điểm trên đây liên quan đến phụ âm đầu của âm tiết thì đặc điểm thứ 3 này lại
liên quan đến vấn đề nguyên âm của âm tiết. Ở thời kì này tiếng Việt đã hoàn toàn xoá thế đối lập dài
ngắn đều đặn trước kia của hệ thống ngữ âm tiền Việt-Mường và thay thế vào đó bằng thế đối lập
ngắn và đôi hoá. Người ta có thể thấy hiện tượng này khi so sánh một ngôn ngữ thuộc nhóm Việt-
Mường là tiếng Cuối (ở Nghệ An) với tiếng Việt:
Các giai đoạn phát triển của tiếng nhiều tác
-1-... -2-... -3-: Như vậy, những biến đổi phụ âm, nguyên âm nói trên cho phép chúng ta lập danh
sách ngữ âm của tiếng Việt-Mường chung như sau:
Danh sách phụ âm đầu trong tiếng Việt-Mường chung
Nhận xét:
So với danh sách phụ âm đầu ở giai đoạn tiền Việt-Mường , hệ thống phụ âm đầu ở giai đoạn Việt-
Mường chung đơn giản hơn nhiều do chỗ không còn sự đối lập giữa dãy âm vô thanh với dãy hữu
thanh. Tuy nhiên, nó lại xuất hiện một loạt âm xát mới là hệ quả của hiện tượng đơn tiết hoá.
Danh sách âm cuối trong tiếng Việt-Mường chung
Nhận xét:
Nếu xét về mặt ngữ âm thì danh sách này tương đối giống ngày nay.
Danh sách nguyên âm trong tiếng Việt-Mường chung
3962444