« Home « Kết quả tìm kiếm

Một Số Phán Quyết Của Trọng Tài Và Tòa Án Công Lý Quốc Tế Trong Việc Giải Quyết Tranh Chấp Chủ Quyền Biển Đảo


Tóm tắt Xem thử

- 83 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129.
- 2016 * Bài viết được tác giả thực hiện trong quá trình tham gia Hội thảo khoa học quốc tế tại Tokyo, Nhật Bản về tình hình châu Á - Thái Bình Dương, từ ngày 18 đến và được cập nhật thêm phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực trong vụ Philippines kiện Trung Quốc ở Biển Đông ngày 12/7/2016.
- MỘT SỐ PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI VÀ TÒA ÁNCÔNG LÝ QUỐC TẾ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾTTRANH CHẤP CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO TRÊN THẾ GIỚITỪ NĂM 1928 ĐẾN NĂM 2016 * Nguyễn Thanh Minh.
- Lời tòa soạn: Phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực ngày 12/7/2016 bác bỏ đường lưỡi bò của Trung Quốc trên Biển Đông đã tạo điều kiện thuận lợi về mặt pháp lý cho các quốc gia ở vùng Đông Nam Á chống lại sự xâm lấn của Trung Quốc trên Biển Đông.
- Nhân sự kiện này, mời bạn đọc nhìn lại một số phán quyết của các Tòa Trọng tài quốc tế để thấy được vai trò của các tổ chức này trong việc giải quyết các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ.
- Trong một số trường hợp, phán quyết của các thẩm phán đã trở thành những án lệ kinh điển trong lịch sử giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ bằng biện pháp pháp luật mà các thế hệ sau không thể không viện dẫn để phân xử tranh chấp.
- Mở đầu Giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo bằng biện pháp pháp luật đã xuất hiện từ lâu gắn liền với những phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực (Permanent Court of Arbitration - PCA), Tòa án Thường trực Công lý Quốc tế (Permanent Court of International Justice - PCIJ) và Tòa án Công lý Quốc tế (International Court of Justice - ICJ).
- Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trong đó có tranh chấp chủ quyền biển đảo đã xuất hiện ở nhiều khu vực trên phạm vi toàn thế giới.
- Nguyên nhân của tranh chấp chủ quyền biển đảo là do quan điểm chủ quyền của các quốc gia khác xa nhau, đồng thời xuất hiện các tham vọng địa chiến lược, địa quân sự, địa chính trị và địa kinh tế của một số quốc gia.
- Có những vụ việc đã được các bên tham gia tranh chấp đệ trình lên các cơ quan tài phán quốc tế thụ lý và phân xử một cách công bằng.
- Giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ trong đó có tranh chấp chủ quyền biển đảo bằng biện pháp pháp luật là phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hiệp Quốc và những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.
- Đôi khi những phán quyết của các thẩm phán đã trở thành những án lệ kinh BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM 84 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129.
- 2016 điển trong lịch sử giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ bằng biện pháp pháp luật mà các thế hệ sau không thể không viện dẫn để phân xử tranh chấp.
- Giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo trên thế giới nói chung và khu vực Biển Đông nói riêng bằng biện pháp pháp luật trong bối cảnh hiện nay đã trở thành nhu cầu cấp thiết khi mà các quốc gia hữu quan đang có những bất đồng, mâu thuẫn và quan điểm trái ngược nhau về chủ quyền đối với một số quần đảo và đảo trong khu vực Biển Đông.
- Mọi sự tranh chấp chủ quyền biển đảo nếu không được giải quyết bằng biện pháp pháp luật sẽ khó đem lại sự bình yên cho khu vực đó.
- Chính vì vậy, bài viết này nhằm hệ thống lại những phán quyết của các thẩm phán của các cơ quan tài phán quốc tế về giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo trên thế giới và tiếp cận dưới góc độ đúc rút những bài học kinh nghiệm từ những án lệ của các cơ quan tài phán quốc tế về giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo.
- Phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực đối với vụ án tranh chấp đảo Palmas giữa Mỹ và Hà Lan Khái quát chung về đảo Palmas Đảo Palmas là một hòn đảo nằm giữa Indonesia (trước đây là thuộc địa của Hà Lan) và Philippines (trước đây là thuộc địa của Tây Ban Nha), đảo Palmas xét về khoảng cách địa lý thì nằm gần Philippines hơn Indonesia.
- Xét về giá trị kinh tế, đảo Palmas là đảo có người dân sinh sống với những điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển một số lĩnh vực kinh tế, có điều kiện thuận lợi để phát triển giao thương buôn bán.
- Về vị trí địa chiến lược, đảo Palmas có vị trí quan trọng, trên hướng biển là khu vực có thể triển khai chính sách phát triển kinh tế biển và triển khai căn cứ quân sự, đặc biệt là đối với lực lượng hải quân và lực lượng chấp pháp trên biển.
- Năm 1906, Hà Lan đã khẳng định chủ quyền đối với đảo Palmas.
- Nhận thấy Hà Lan khẳng định chủ quyền đối với đảo Palmas, cho nên Hoa Kỳ đồng ý giải quyết tranh chấp tại Tòa án Trọng tài Thường trực (PCA) (1) vào năm 1928, thẩm phán vụ này là Max Huber, người Thụy Sĩ.
- Cơ sở pháp lý và lập luận của hai bên Lập luận của Hoa Kỳ: Hoa Kỳ đòi chủ quyền bằng lập luận về quyền khám phá và sở hữu liền kề.
- Hà Lan đưa ra quan điểm: Hà Lan là quốc gia nắm giữ quyền sở hữu thực tế trong hòa bình, kéo dài liên tục suốt hơn hai thế kỷ mà không gặp phải sự phản đối nào của Nhà nước Tây Ban Nha, đồng thời Hà Lan đã ký hàng loạt các hiệp định với nhà cầm quyền địa phương, từ đó lập nên thuộc địa Hà Lan trên đảo Palmas, kèm theo các hoạt động kinh tế, nghĩa vụ khi có chiến tranh, đối ngoại v.v… 85 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129.
- 2016 Phán quyết của Tòa Tây Ban Nha không thể chuyển nhượng hợp pháp cái mà họ không sở hữu.
- Ngược lại các hoạt động của Hà Lan đối với đảo Palmas là đặc trưng quyền lực của nhà nước, nó diễn ra trong hòa bình bởi không có xung đột nào giữa các quốc gia, nó liên tục trong suốt thời gian dài, mặc dù cũng có những khoảng trống nhất định cụ thể từ năm 1726 đến năm 1825.
- Như vậy, Palmas là lãnh thổ thuộc sở hữu của Hà Lan.
- Phán quyết của Tòa án Thường trực Công lý Quốc tế (PCIJ) đối với vụ án tranh chấp Đông Greenland giữa Na Uy và Đan Mạch giai đoạn 1931-1933 Khái quát chung về đảo Greenland.
- Greenland là lãnh thổ cực bắc Trái đất, rộng khoảng 4.650km 2 , 81% diện tích có băng phủ không thể sinh sống.
- Năm 1931, Na Uy chiếm đóng và tuyên bố chủ quyền phía Đông Greenland - phần đất không có người ở - vì cho rằng đó là đất vô chủ chưa thuộc sở hữu của bất kỳ quốc gia nào.
- Đan Mạch lại đòi chủ quyền với toàn bộ Greenland trong khi chỉ chiếm hữu thực sự một phần diện tích của đảo.
- Năm 1933, hai nước đồng ý giải quyết tranh chấp chủ quyền tại Tòa án Thường trực Công lý Quốc tế, mà sau này là Tòa án Công lý Quốc tế.
- (3) Cơ sở pháp lý và lập luận của hai bên Lập luận của Na Uy: Na Uy cho rằng họ đã chiếm Đông Greenland là vùng đất vô chủ chưa thuộc quyền sở hữu của bất kỳ quốc gia nào.
- Lập luận của Đan Mạch: Đan Mạch đã chứng minh chủ quyền đối với toàn bộ đảo không bằng hành vi chiếm hữu cụ thể nào mà bằng một loạt các sắc lệnh, luật thực thi pháp luật, hành chính trải dài khoảng 1.000 năm trước, đặt Greenland dưới sự điều hành của Đan Mạch, quy định lưu thông hàng hải quanh Greenland, quy định việc săn bắt và đánh cá, quy định việc cấp giấy phép cho các quốc gia và người đến thăm phía Đông Greenland, các hoạt động thám hiểm v.v…, quá trình Đan Mạch thực hiện các hành động đó diễn ra trong hòa bình.
- Phán quyết của Tòa Việc xác lập chủ quyền đối với vùng đất không thể sinh sống chỉ cần quốc gia có ý định chiếm hữu và thực hiện một số hoạt động mang tính quyền lực nhà nước là đủ.
- Tòa xác định Đan Mạch đã có ý định và thẩm quyền quốc gia đã nêu là đầy đủ để có chủ quyền với toàn bộ Greenland.
- Với những khu vực không thể sinh sống thì yêu cầu để duy trì chủ quyền trên lãnh thổ là ít nghiêm ngặt hơn so với các khu vực có thể qua lại và đông dân cư.
- Đây chính là sự thay đổi một phần trong nội dung của nguyên tắc chiếm hữu thật sự khi nó được vận dụng trong một điều kiện lãnh thổ mới.
- Như vậy, chủ quyền của đảo Greenland thuộc về Đan Mạch.
- (4) 86 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129.
- Phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực đối với vụ án tranh chấp chủ quyền đảo Clipperton giữa Pháp và Mexico năm 1931 Khái quát chung về đảo Clipperton Clipperton là một đảo rộng khoảng 9km 2 , là đảo san hô không thể sinh sống ở phía Đông Thái Bình Dương.
- Trong bối cảnh hai quốc gia Pháp và Mexico có yêu sách chủ quyền, nhưng cả hai đều đồng ý giải quyết tranh chấp từ năm 1909, mãi đến năm 1931, PCA mới đưa ra phán quyết của vụ án.
- Cơ sở pháp lý và lập luận của hai bên Lập luận của Mexico: Mexico cho rằng, Tây Ban Nha đã phát hiện ra hòn đảo này trước Pháp rất lâu và để lại quyền thừa kế cho Mexico.
- Lập luận của Pháp: Pháp cho rằng, Pháp là quốc gia phát hiện ra đảo Clipperton năm 1858 và tuyên bố chủ quyền mà không có quốc gia nào phản đối.
- Nước Pháp đã tiến hành các hoạt động như khai thác phân chim, cho các tàu chiến đến neo đậu nhằm khẳng định chủ quyền.
- Phán quyết của Tòa Đối với lãnh thổ không thể sinh sống được thì không cần thiết sự hiện diện thường xuyên các hoạt động mang tính quyền lực nhà nước tại đó, tại thời điểm quốc gia chiếm hữu xác lập chủ quyền mà không có tranh chấp thì việc xác lập chủ quyền coi như đã hoàn thành.
- Giống như đảo Greenland, đối với lãnh thổ không thể sinh sống như Clipperton thì những đòi hỏi khắt khe của nguyên tắc chiếm hữu thật sự hầu như không được vận dụng, ngoại trừ yếu tố hòa bình, hoặc là nó được vận dụng ở mức tối thiểu nhất - không đòi hỏi việc thực hiện quyền lực nhà nước liên tục, thường xuyên trên lãnh thổ chiếm hữu.
- Như vậy, chủ quyền của đảo Clipperton thuộc về nước Pháp, đây là lãnh thổ hải ngoại của nước Pháp.
- Phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế đối với vụ án tranh chấp chủ quyền nhóm đảo Minquies và Ecrehos giữa Anh và Pháp giai đoạn 1951-1953 Khái quát chung về hai nhóm đảo Minquies và Ecrehos Minquies và Ecrehos là hai nhóm đảo nhỏ và đảo đá nằm giữa đảo British Channel thuộc Jersey của Anh và bờ biển Pháp.
- Trong hai nhóm đảo Minquies và Ecrehos có một số đảo có thể sinh sống, còn lại phần lớn là những đảo đá.
- Năm 1951, cả hai nước Anh và Pháp yêu cầu ICJ xem xét bên nào có bằng chứng chủ quyền thuyết phục hơn để có quyền sở hữu với hai nhóm đảo Minquies và Ecrehos.
- Cơ sở pháp lý và lập luận của hai bên Lập luận của Pháp: Nước Pháp có Hiệp ước nghề cá xác định vùng hợp tác bao gồm hai nhóm đảo, các tiểu bang ở Jersey của Anh bị cấm đánh bắt và hạn chế nhập cảnh vào Ecrehos do hai Chính phủ trao đổi ngoại giao, một phần Ecrehos bị 87 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129.
- 2016 đánh dấu trên hải đồ là ở ngoài vùng nước Jersey và bị coi là đất vô chủ, Pháp đã gởi văn bản tới Anh khẳng định chủ quyền ở Ecrehos.
- Một ngôi nhà được dựng lên trên một đảo nhỏ ở Minquies với sự trợ giúp của thị trưởng Pháp, đồng thời Chính phủ Pháp cũng tới thăm Minquies.Lập luận của Anh: Nước Anh đưa ra bằng chứng là Tòa án Jersey đã xét xử tội phạm ở Ecrehos trong vòng một thế kỷ từ năm 1826 đến năm 1921.
- Phán quyết của Tòa Tòa án nhận thấy hoạt động trao đổi thư từ, đặt phao cứu sinh hay một số hành vi tương tự không được coi là Pháp đã thực thi quyền lực nhà nước đầy đủ với các đảo.
- Trong khi Anh đã thực thi các chức năng nhà nước về tư pháp, hành chính để quản lý các đảo trong thời gian dài, nó chứng tỏ Anh đã thực thi quyền lực nhà nước đối với các đảo một cách thực sự và đầy đủ hơn Pháp, vậy nên, chủ quyền hai nhóm đảo thuộc Anh.
- Phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế đối với vụ án tranh chấp biên giới trên bộ và trên biển giữa Cameroon và Nigeria năm 2002 Khái quát chung về biên giới trên biển và trên bộ vùng hồ Chad.
- Nhưng hai quốc gia Cameroon và Nigeria đã bất đồng khi áp dụng đường biên giới đó.
- Năm 1994, Cameroon đệ đơn đến ICJ, khởi đầu cho việc giải quyết tranh chấp chủ quyền vùng biên giới trên bộ và trên biển giữa hai quốc gia.
- Cơ sở pháp lý và lập luận của hai bên Lập luận của Cameroon: Cameroon khẳng định chủ quyền vùng hồ Chad do kế thừa từ thời thực dân.
- Cameroon đã thực thi chủ quyền bằng các cuộc viếng thăm của quan chức địa phương, bầu cử, duy trì pháp luật và an ninh, họp mặt các trưởng làng, thu các loại thuế.
- Từ năm 1987, Cameroon đã phản đối Nigeria dùng quân đội tiếp quản trạm huấn luyện nghề cá và tìm cách quản lý hành chính khu vực tranh chấp.
- Đồng thời phản đối Nigeria vi phạm nguyên tắc estoppels (7) vì 95 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129.
- Nguyễn Thanh Minh (2014), “Một số vấn đề về quy chế pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
- tạp chí Kinh tế và Chính trị Thế giới , số 12.6.
- Nguyễn Thanh Minh (2015), “Các quốc gia trong khu vực Biển Đông cần tuân thủ nghiêm Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển quốc tế năm 1982.
- tạp chí Nghiên cứu Trung Quc , số 3.7.
- Samuels (1982), Tranh chấp Biển Đông , Methuen, NewYork and London.8.
- Thắng, (2008), Hoàng Sa-Trường Sa lãnh thổ Việt Nam nhìn từ công pháp quc tế , Nxb Tri thức.9.
- Nguyễn Toàn Thắng (2009), “Vấn đề thụ đắc lãnh thổ trong luật quốc tế.
- Chuyên đề thuộc đề tài nghiên cứu cấp nhà nước: Cơ sở pháp lý về chủ quyền của Việt Nam đi với hai quần đảo Trường Sa - Hoàng Sa do Trung tâm Luật Biển và Hàng hải Quốc tế chủ trì.10.
- Từ Đặng Minh Thu (1998), Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa - Thử phân tích lập luận của Việt Nam và Trung Quc, Tham luận tại Hội thảo hè “Vấn đề tranh chấp Biển Đông” tại New York City, http.
- TÓM TẮT Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo đang có nhiều biểu hiện phức tạp, khi mà quan điểm chủ quyền giữa các quốc gia còn khác biệt nhau quá lớn.
- Vậy giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo bằng biện pháp nào để góp phần giữ vững môi trường hòa bình ổn định? Các quốc gia không được đơn phương dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp, bởi sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp không cấu thành chủ quyền hợp pháp.
- Như vậy, giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo bằng biện pháp hòa bình là phương thức tối thượng nhất, phương thức này cho phép các quốc gia vận dụng những chế tài quốc tế về giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo.
- Bài viết sẽ điểm lại những án lệ có tính chất kinh điển để tham vấn và nhìn nhận vấn đề một cách khách quan cũng như gợi ý chính sách, bởi trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền biển đảo ở khu vực Biển Đông đang có những dấu hiệu rất đáng quan ngại

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt