« Home « Kết quả tìm kiếm

Quản Lý Và Khai Thác Vùng Biển Đảo Của Triều Nguyễn Giai Đoạn 1802-1858 - Đinh Thị Hải Đường


Tóm tắt Xem thử

- LỊCH SỬ - KHẢO CỔ - DÂN TỘC HỌC Đinh Thị Hải ĐườngQuản lý và khai thác vùng biển đảo của triều Nguyễn giai đoạn Đinh Thị Hải Đường * Tóm tắt: Từ sự nhận thức sâu sắc về chủ quyền biển đảo và vai trò quan yếu của hải cương, triều Nguyễn đã đưa ra các chính sách, các hoạt động quản lý, khai thác và bảo vệ vùng biển đảo: xây dựng cơ sở bố phòng tấn, bảo, đồn binh, pháo đài trên các đảo.
- khẳng định và thực thi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
- xây dựng và huy động các lực lượng vào hoạt động tuần tra, canh phòng biển đảo (như Tấn thủ, binh đồn, thủy quân).
- huy động bộ phận cư dân khai thác nguồn lợi biển đảo.
- kiểm soát hoạt động giao thương đường biển và khai thác nguồn lợi sinh vật biển.
- Hoạt động quản lý, khai thác, bảo vệ vùng biển đảo nhìn chung đã phát huy hiệu quả tích cực trong khẳng định, thực thi, bảo vệ chủ quyền biển đảo, đảm bảo an ninh - phòng thủ biển, góp phần làm tăng khả năng phòng thủ đất nước từ phía biển.
- Từ khóa: Biển đảo.
- khai thác.
- bảo vệ.
- triều Nguyễn.
- Quản lý, thực thi, bảo vệ chủ quyền những đảo xa bờ và hiểm yếu nơi hai quầntrên các đảo và quần đảo đảo này là “xứ Hoàng Sa” của Đại Nam [4, Để kiểm soát, canh giữ, bảo vệ an ninh, tr tr.108]).(*)chủ quyền trên vùng biển đảo rộng lớn của - Lực lượng quản lý, thực thi chủ quyềnđất nước, triều Nguyễn đã cho xây dựng các trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sacơ sở bố phòng (như tấn, bảo, sở, đồn binh, Qua châu bản triều Nguyễn [8] và nhữngpháo đài) trên những hải đảo trọng yếu.
- Ví ghi chép trong Đại Nam thực lục liên quannhư các vị vua đầu triều Nguyễn đã cho xây đến việc thực thi chủ quyền của triềudựng pháo đài Biện Sơn, pháo đài Tĩnh Hải Nguyễn trên hai quần đảo Hoàng Sa vàtrên đảo Biện Sơn (Thanh Hóa) [6, t.2, Trường Sa, có thể dễ dàng nhận thấy, dướitr.841], xây dựng đồn binh của đội Thanh triều Nguyễn, các vị vua đầu triều đã luônHải trên đảo Côn Lôn hay như xây dựng theo dõi sát sao và trực tiếp ban hành nhữngpháo đài ở Côn Lôn thủ, Hà Tiên Phú Quốc lệnh định chỉ đạo hoạt động của các lựcthủ trên đảo Côn Lôn, đảo Phú Quốc [6, t.3, lượng được Nhà nước phái đi làm nhiệm vụtr.384].
- Đặc biệt, đối với hai quần đảo thực thi và bảo vệ chủ quyền trên hai vùngHoàng Sa, Trường Sa, Nhà nước có nhiều quần đảo này.
- Dưới các vị vua đầu triều,biện pháp quản lý, thực thi, bảo vệ chủ Nội các và 6 Bộ (nhất là Bộ Công, Bộ Binh,quyền trên hai quần đảo này (Triều Nguyễn Bộ Hộ) là những cơ quan ở cấp trung ương,phân định rõ quần đảo Hoàng Sa và quần trực tiếp thực thi, chỉ đạo việc thực thi hoặcđảo Trường Sa trong phận biển Đại Nam(quần đảo Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa.
- Ở cấp Sa [6, t.1, tr.922], cho thấy chức năng, nhiệmđịa phương, quan tỉnh Quảng Ngãi, Bình vụ thực thi, bảo vệ chủ quyền biển đảo trênĐịnh (như quan Bố chính, Án sát tỉnh các vùng quần đảo này từ Đội Hoàng Sa,Quảng Ngãi) trực tiếp đảm trách công việc Đội Bắc Hải sang đội Thủy quân.liên quan đến lực lượng công cán Hoàng Dưới triều Minh Mạng, đội Thủy quânSa, Trường Sa do tỉnh phái ở Quảng Ngãi, càng khẳng định vai trò quan trọng đối vớiBình Định.
- các vùng biển đảo này khi Đội Hoàng Sa, Lực lượng chủ chốt trực tiếp và thường Đội Bắc Hải hoàn toàn vào đội Thủy quân.niên thực hiện các chuyến công cán Hoàng Cũng từ đây, Đội Hoàng Sa không cònSa, Trường Sa do Nhà nước phái đi gồm được ghi chép trong các nguồn chính sử củaĐội Hoàng Sa, Đội Bắc Hải, đội Thủy nhà Nguyễn.
- Dưới triều Thiệu Trị, Nhàquân, Biền binh thủy quân, Vệ giám thành nước vẫn tiếp tục phái người đi vãng thám(đảm trách việc vẽ bản đồ biển đảo), những Hoàng Sa, Trường Sa vào năm Ất Tỵngười dẫn đường và lái thuyền trong dân t.6, tr.749].
- Nam, nhất là ở vùng duyên hải, báo hiệu - Các biện pháp đảm bảo an ninh đường nguy cơ của một cuộc chiến tranh xâm lượcbiển, khẳng định và thực thi chủ quyền trên từ phía phương Tây đang được châm ngòi.hai vùng quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa Khi đó, hoạt động quân sự, quốc phòng của Để triển khai cụ thể và trực tiếp các hoạt nhà Nguyễn trên cả nước Đại Nam đượcđộng đảm bảo an ninh đường biển, quản lý, đẩy mạnh, đặc biệt là hoạt động bố phòng ởthực thi và bảo vệ chủ quyền trên hai vùng vùng duyên hải, để ngăn chặn nguy cơ xâmquần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, hàng năm lược.
- Vì vậy, đối với việc phái người đếnnhà Nguyễn đã phái các đoàn công cán đi Hoàng Sa, Trường Sa, liên tiếp trong cácthực hiện nhiệm vụ trên hai vùng quần đảo năm từ Bính Ngọ (1846), Đinh Mùi (1847)này.
- Ngay từ năm Quý Hợi (1803), vua Gia và chuẩn bị cho năm Mậu Thân (1848) vuaLong đã cho tái lập Đội Hoàng Sa qua việc Thiệu Trị đều có châu phê “đình hoãn” do“lấy Cai cơ Võ Văn Phú làm Thủ ngự cửa việc công quá bận rộn [8, tr biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm Nhiệm vụ quản lý, thực thi và bảo vệ chủđội Hoàng Sa” [6, t.1, tr.566].
- Cùng với đội quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, TrườngHoàng Sa, đội Bắc Hải cũng được tái lập và Sa của các lực lượng công cán nói trêncả hai đội này được đặt trong cơ cấu tổ chức được triển khai, thực thi bằng nhiều biệnchung của các đội Trường Đà, đảm nhận pháp, hoạt động cụ thể.trọng trách thực thi nhiệm vụ khai thác, quản Các lực lượng được phái ra Hoàng Sa,lý trên các vùng quần đảo này [11, tr.368 - Trường Sa làm nhiệm vụ, trong mỗi chuyến369].
- Đến năm Bính Tý (1816), Đại Nam khởi hành đều phải có quyết định của triềuthực lục bắt đầu ghi chép về sự tham gia của đình dưới hình thức “tờ sai để thi hành côngthủy quân trong hoạt động thăm dò đường vụ” [10].
- Cùng với đó, tỉnh thần Quảng54 Đinh Thị Hải ĐườngNgãi có trách nhiệm “cấp bằng” cho lực Hoạt động này không chỉ là sự thực thi chủlượng công cán do tỉnh phái.
- Đó cũng là việc lợicáo kết quả chuyến công cán như theo lệ muôn đời” (năm Quý Tỵ t.3,định năm Bính Thân tr.99, 183, tr.743].
- Ngoài ra, năm Bính Thân t.4, tr.867].
- triều Nguyễn tiến thêm một bước quan Một trong những hoạt động thực thi trọng trong hoạt động quản lý, thực thi chủnhiệm vụ của đoàn công cán Hoàng Sa, quyền trên hai quần đảo này là cho cắmTrường Sa là đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ mốc thể hiện quyền làm chủ của triềuhải đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
- Năm Bính Nguyễn ở nơi đây khi Nhà nước “sai suấtThân (1836), vua Minh Mạng đã chuẩn y đội Thuỷ quân Phạm Hữu Nhật đem binhlời tâu của Bộ Công về việc các đoàn được thuyền đi.
- Chuẩn cho mang theo 10 cái bàiphái đi khảo sát, đo vẽ bản đồ “xứ Hoàng gỗ, đến nơi đó dựng làm dấu ghi (mỗi bàiSa” có nhiệm vụ “không cứ là đảo nào, hòn gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặtnào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến, cũng xét bài khắc những chữ “Minh Mệnh thứ 17,xem xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiềucao, chiều rộng, chu vi và nước biển bốn năm Bính Thân, Thuỷ quân Chánh độibên xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vângđá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đếndị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành đây lưu dấu để ghi nhớ” [6, t.4, tr.867].bản đồ” [6, t.4, tr.867].
- Kết quả khảo sát, đo Hoạt động thu lượm nguồn lợi hải vậtvẽ bản đồ của đoàn công cán qua các năm trên hai vùng quần đảo Hoàng Sa, Trườngcó bước tiến hơn các năm trước, nhất là kết Sa dưới triều Nguyễn tuy không được chúquả năm Mậu Tuất (1838) với việc đoàn trọng như thời các chúa Nguyễn, nhưng đócông cán đã đi khảo sát được 25 đảo thuộc cũng chính là một hoạt động thể hiện sự3 vùng của các vùng quần đảo giữa Biển thực thi chủ quyền của nhà Nguyễn trên haiĐông này [8, tr.175].
- vùng quần đảo này.
- Ví như năm quân hơn 20 người đi thuyền đến “xứẤt Mùi (1835), Nhà nước cho thuyền công Hoàng Sa” vẽ bản đồ, khi trở về đã “đem“chở gạch đá đến đấy xây đền, dựng bia đá dâng vua những thứ chim, cá, ba ba, ốc, sòở phía tả đền để ghi dấu và tra hột các thứ ngao, đã bắt được ở nơi đó, đều là nhữngcây ở ba mặt tả hữu và sau” [7, t.2, tr.493].
- vật lạ, ít thấy” [6, t.4, tr.120 - 121].
- 2016 Hoạt động cứu tuất thuyền biển gặp nạn trấn áp, ngăn chặn, triệt tiêu các lực lượngtrên các vùng quần đảo này của nhà Nguyễn chống đối, gây rối, phá hoại sự yên ổn, ankhông chỉ là hoạt động nhân đạo, mà còn là ninh, quốc phòng mặt biển, hải đảo của đấthoạt động thực thi chủ quyền ở nơi đây.
- ngăn chặn các hoạt độngvà thủy quân tại Đà Nẵng đã cứu tàu Pháp trốn ra biển buôn lậu của thuyền buôn Đạigặp nạn tại phía Tây Hoàng Sa vào năm Nam dẫn đến những nguy hại về nguy cơCanh Dần tr.55, 63].
- Xây dựng các lực lượng tuần tra, Thủy quân triều Nguyễn được Nhà nướccanh phòng biển đảo phái đi tuần tra mặt biển, hải đảo và là lực 2.1.
- Tấn thủ, binh đồn trên các đảo lượng đắc lực trong hoạt động an ninh - Lực lượng quan chế được bố phòng ở phòng thủ biển đảo.
- Bên cạnh đó, thủy ven biển được Nhà nước phái đi tuần traquân, binh đồn cũng là lực lượng quân chế mặt biển, hải đảo để tăng cường hiệu lựcđược triều Nguyễn cho bố phòng ở các cơ an ninh, phòng thủ: “tháng 2 hàng năm,sở này.
- Đó là các trường hợp như Quản cơ các tỉnh ven biển điều phái thuyền binh điĐặng Văn Thành giữ chức Thành thủ uý tuần ngoài biển để dò bắt giặc” [5, t.5,pháo đài Biện Sơn kiêm quản pháo đài Tĩnh tr.430].
- còn phải đôn đốc công việc tuần phòng của Lực lượng bố phòng trên các đảo, trong các tỉnh.đó có Tấn thủ, chủ yếu làm nhiệm vụ tuần Thủy quân tuần phòng biển đảo dướitra, canh phòng biển đảo, tiêu diệt cướp triều Nguyễn được trang bị vũ khí thủybiển, bảo vệ thuyền bè, làm yên miền biển chiến như súng quá sơn, súng thần công,mà không đảm nhận chức năng thu thuế súng trường, thuốc đạn, giáo dài, mác sắt,thuyền buôn như các Tấn thủ nơi cửa biển ở câu liêm, ống phun lửa, cầu đinh lửa, pháovùng duyên hải.
- Đó là vì dưới triều thăng thiên, quả đá, kim từ thạch và phươngNguyễn, Nhà nước đã đặt lệnh cấm tàu tiện đi biển hiệu quả như kính thiên lý.
- Bênthuyền ra biển buôn bán đồng thời cũng quy cạnh đó, năm Mậu Tuất (1838), ở kinhđịnh những mức phạt nghiêm khắc các thành, Nhà nước cho đóng một loại thuyềnhành vi vi phạm [2, tr.563 - 564].
- Khi đó, riêng, nhanh nhẹ, tiện lợi, chuyên dụngnhiệm vụ thu thuế thuyền buôn đã trở thành trong hoạt động tuần tra mặt biển (là thuyềnđộc quyền của các tấn cửa biển mà không bọc đồng với kích thước riêng để đi tuầnphải trên các đảo.
- Thủy quân tuần tra mặt biển và Nguyễn cũng cho dựa theo kiểu thuyền đạihải đảo dịch mà đóng thuyền tuần biển và gọi là Mục đích của hoạt động tuần tra mặt thuyền Tuần Dương [5, t.5, tr biển và hải đảo dưới triều Nguyễn là để t.5, tr Đinh Thị Hải Đường 2.3.
- Lực lượng khai thác nguồn lợi biển viên giữ tấn sở huấn luyện, tuần phòng” [6.
- Xây dựng đội dân binh trên đảo và t.4, tr.462].vùng ven biển Về phía dân gian, cư dân trên đảo và Bên cạnh lực lượng quân chế và quan vùng ven biển tự nhận thức việc bảo vệ anchế, nhà Nguyễn cũng huy động nhân dân ninh, trật tự biển đảo đối với họ không chỉsinh sống trên các đảo vào nhiệm vụ an là trách nhiệm, nghĩa vụ mà còn là quyềnninh - phòng thủ biển đảo.
- Những hoạt động đó sẽ giúp họ tự bảonhà Nguyễn, dân sinh trên hải đảo bị vệ lợi ích, bảo vệ sự yên ổn nơi mình sinhnghiêm cấm bán hoặc tiếp tế lương thực sống và làm ăn.
- Đó cũng là động lực đểcho giặc biển và thuyền buôn lậu, đồng thời họ hoạt động một cách tự nguyện và tíchphải có trách nhiệm tuần tra, canh phòng cực.
- Năm Giáp Ngọ (1834), như trường hợp của cư dân đảo Lý Sơnvua Minh Mạng hạ lệnh cho Tổng đốc, (Quảng Ngãi) năm Giáp Ngọ (1834) [6,Tuần phủ, Bố chánh, Án sát các địa phương t.4, tr.462].ven biển phải xem xét các đảo có dân cư - Sử dụng các hộ thuyền người Thanhsinh sống ở hải phận tỉnh mình để.
- sức đánh cá trên biểncho dân ở đấy đem thuyền đánh cá nhanh Hoạt động khai thác biển của ngư dânchóng sửa chữa, cho được nhanh nhẹn.
- Mỗi chiếc có thể ngồi được lợi biển thay cho Nhà nước bởi đó cũng làtrên, dưới 20 người.
- Về phí tổn sữa chữa để bảo vệ lợi ích cho chính mình.
- Điều nàyhết bao nhiêu, thì Nhà nước cấp tiền.
- Khi gặp giặc biển thì một mặt thực tế, dưới triều Nguyễn, nguồn lợi cácùng nhau chống đánh, một mặt chạy báo, tôm rộng khắp mà hoạt động khai thác củacho khỏi bị chậm trễ, không kịp việc” [5, dân gian lại bị hạn chế, tạo cơ hội khai tháct.5, tr.426].
- Trước nhu cầu khai thácphòng, góp phần tăng hiệu lực an ninh - hải sản của bộ phận ngư dân nước Thanhphòng thủ biển đảo của đất nước.
- trên hải phận Đại Nam, nhận thấy có thể Những người dân lệ thuộc vào các tấn, thu lợi từ hoạt động thu thuế đánh bắt vàsở cùng tham gia tuần phòng được Nhà cũng là để quản lý, kiểm soát đối tượngnước cấp phát binh khí, các viên quan coi này, phòng ngừa những nguy cơ gây mất angiữ tấn, sở có trách nhiệm huấn luyện ninh trật tự có thể xảy ra trên biển, triềunhững người dân lệ thuộc này cho quen Nguyễn cho phép những người Thanh đãviệc tuần phòng để tăng khả năng ứng phó đến trình báo thì được đánh bắt cá tôm trênkhi gặp thuyền giặc như trường hợp của cư vùng biển Đại Nam với điều kiện khai báodân phận biển Quảng Ngãi theo lệ định năm và nộp thuế cho triều đình.
- Những hộ đánhGiáp Ngọ (1834) được Nhà nước “chiếu cá người Thanh chịu nộp thuế để đánh bắttheo dân số, liệu cấp cho khí giới và uỷ cho chủ yếu là hai bang Khai Vĩ, Hà Cố (Hà 57Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101.
- thiết cấm chỉ” [5, t.8, tr.509].
- Bên cạnh đó, Tuy nhiên, hoạt động kiểm soát và thu những thuyền hộ người Thanh đến Đạithuế của triều đình đối với thuyền hộ người Nam “làm ăn” cũng bị “cấm chỉ khôngThanh gặp nhiều khó khăn bởi tính gian xảo được ra bể đi buôn” (lệ định năm Bínhcủa họ, sự kiểm soát của triều đình đối với Thân t.5, tr.419].bộ phận này trên thực tế đã không mang lại Mục đích chính của triều Nguyễn tronghiệu quả như triều Nguyễn mong muốn.
- Ví việc ngăn cấm dân gian ra biển thôngnhư từ năm Tân Sửu (1841) đến Đinh Mùi thương là để ngăn chặn nguy cơ xâm lược(1847), hoạt động thu thuế của Nhà nước từ phía các nước phương Tây.
- Khi được hỏi về thuế lệ, các hộ người Tây dương đến nữa, hại không phảithuyền này chống chế bằng câu trả lời “khó là nhỏ” [6, t.6, tr.1043].
- Trước hành động xảo trá đó, Nhà nước dân gian ra biển thật khó để có thể đượckhông có giải pháp cứng rắn nào hơn việc thực thi triệt để.
- Các châu Vạn Ninh, Vânkiên quyết “không bỏ đánh thuế” [5, t.3, Đồn ở Quảng Yên là những ví dụ điển hình.tr.207 - 208].
- Qua đó cũng của Quảng Yên, Nhà nước đã cho nhữngthể hiện sự hạn chế của nhà Nguyễn trong ngư dân này được “đem cá muối của xứkhả năng kiểm soát lực lượng phức tạp này.
- Quản lý, kiểm soát hoạt động giao t.2, tr.876].
- Khi đó, lệ cấm dân buôn ra biểnthương đường biển của dân gian để phòng ngừa tệ nạn cũng chỉ còn được áp - Cấm dân gian ra biển buôn bán với dụng đối với những hoạt động vượt biểnthương nhân nước ngoài của dân gian đến các nước buôn bán hoặc Dưới triều Gia Long, Nhà nước cho phép trốn ra biển để trao đổi cùng thương nhânthuyền buôn được vượt biển đến Hạ Châu nước ngoài, còn việc “ra biển” để trao đổi(Mã Lai) buôn bán song phải tuân theo hàng hoá giữa cư dân các miền ven biểnnhững thủ tục kiểm soát chặt chẽ của Nhà trong nước thì khó có thể nghiêm cấm.nước như làm đơn xin đi buôn nộp lên quan Tuy nhiên, ngay cả với lệnh cấm dân giantổng trấn thành Gia Định, phải đóng đủ vượt biển đến các nước buôn bán thì thực tếtrước tiền thuế, được cấp giấy phép có đóng vẫn tồn tại những trường hợp dân gian trốnấn Tổng trấn của quan Tổng trấn thành Gia ra biển buôn bán với bên ngoài (nhất là buônĐịnh như theo lệ định năm Kỷ Mão (1819).
- Theo nghiên cứu của tác giảTuy nhiên, vào năm Mậu Tý (1828), Nhà Choi Byung Wook về hoạt động ngoạinước đã định lệ nghiêm cấm “từ nay thuyền thương Đại Nam thời kỳ này thì sau năm58 Đinh Thị Hải Đường1830 vẫn tồn tại rất nhiều thuyền buôn tư định năm Bính Tý (1816), lệ định năm Bínhnhân người Việt từ miền Nam Đại Nam đến Tuất (1826) và lệ định năm Kỷ Dậu (1849).Hạ Châu buôn bán.
- 130 ứng ban, thuyền đại dịch, thuyền miễn dịch,chuyến từ năm 1848 đến 1849 [9, tr.50].
- Vínước quy định giới hạn về kích thước như dưới triều Gia Long, Nhà nước quythuyền.
- đo bằng thước đo ruộng, 1 thước thuyền hộ người Thanh đã cư trú tại các= 0,470 m, 1 tấc = 0,047 m) [1, tr.17].
- Có thể doanh trấn của Đại Nam, Nhà nước cũngthấy, kích thước thuyền khai thác nguồn lợi chiểu theo lệ thuyền vượt biển của cư dânkhông gian đường biển của dân gian bị giới Đại Nam ở các doanh trấn để thu thuế cảnghạn ở con số nhỏ trong khi đó, kích thước bề miễn nghĩa vụ vận tải như theo lệ định nămngang của thuyền buôn các nước đến Đại Bính Tý (1816).Nam buôn bán lên đến 36 thước như trường Bên cạnh thuế miễn vận tải, những khi đihợp thuyền buôn nước Thanh và thuyền buôn, thuyền chở hàng hoá qua cửa biểnphương Tây đến Đại Nam buôn bán như phải nộp thuế hàng hóa thông thương mớitrong lệ định thuế cảng ở cửa biển Gia Định được Nhà nước cho thông thương.
- Ví nhưnăm Tân Mão t.3, tr.252].
- năm Bính Thân (1836), Nhà nước đã đặt lệ - Thu thuế cửa biển định về việc thuyền buôn các tỉnh Nam kỳ Thuế cửa biển dưới triều Nguyễn gồm khi chở hàng hoá qua cửa biển, quan coithuế miễn vận tải (loại thuế mà thuyền tư đồn cửa biển có trách nhiệm khám đo, thunhân của quan viên và dân gian phải nộp thuế những thuyền xà ngang từ 4 thước trởcho thời gian 1 năm để không phải đi vận lên, nộp vào kho.
- Nhà nước chỉ thu thuế ở sở tuầnthương.
- Nếu 1 năm dinh dưỡng - còn tiến hành quản lý, kiểmthuyền đi buôn 2 chuyến thì Nhà nước cũng soát chặt chẽ hoạt động khai thác nguồn lợitheo lệ đó mà thu thuế.
- Đối với những Để kiểm soát các hoạt động trên biển,thuyền chỉ có một đạo bằng phê (ghi rõ họ, tránh những mối tệ do ngư dân tạo nên,tên, tuổi, quê quán chủ thuyền, kích thước triều Nguyễn cũng giới hạn chặt chẽ kíchchiều dài, chiều rộng của thân thuyền đến thước thuyền đánh cá của dân gian.
- kích thước giới hạn chỉ còn từ 7 thước trở - “Cấp phát” vũ khí cho thuyền buôn xuống [5, t.8, tr.498 - 499].
- Những kích Những thuyền buôn khi qua cửa biển, thước này nhỏ hơn kích thước của thuyềnnếu làm đơn xin (đơn được quan tỉnh, lý đánh bắt hải sản người nước Thanh trêntrưởng phê bằng) thì được Nhà nước “cấp vùng biển Đại Nam và nhỏ hơn một sốphát” vũ khí (như súng trường, ống phun thuyền cướp biển.
- Lệ định này đã hạn chế rấtlửa) dưới hình thức cho mượn và các lớn hiệu quả khai thác nguồn lợi hải sản củathuyền phải có trách nhiệm nộp trả lại khi cư dân.
- Mục đích Nhà nước xung quanh các đảo gần do thuyền nhỏ,“cấp phát” khí giới cho thuyền buôn là để không đủ sức chống chọi với sóng gió biểntăng khả năng tự vệ của thuyền buôn trước khơi xa và với các lực lượng cướp biển.
- Mặtcác vấn nạn trên biển, nhất là cướp biển, khi khác, theo lẽ thường, những thuyền đánh cámà những vũ khí này (súng trường, ống muốn gian trá trên biển thì phải đủ nhanhphun lửa) Nhà nước nghiêm cấm dân gian nhẹn để lẩn trốn thuyền tuần tra của Nhàchế tạo.
- Với những vũ khí Nhà nước cho nước, hoặc phải đủ lớn để có sức mạnhphép dân gian chế tạo như dao găm bằng chống trả khi gặp những lực lượng cản trởsắt, câu liên bằng sắt, quả đấm bằng đá và như thuyền cướp biển, thuyền tuần tra.
- Số vũ khí trên được Nhà tệ trên biển do ngư dân gây ra được hạnnước cho phép quan tỉnh chế tạo riêng để chế, Nhà nước có nhiều khả năng hơn trongcấp cho thuyền buôn dân gian mà không việc kiểm soát lực lượng này.phải lấy từ số vũ khí của quân binh và lệ Những lệ định trên cũng phần nào lý giảiđịnh “cấp phát” vũ khí này cũng chỉ được vì sao hoạt động khai thác hải sản một cáchthực hiện đối với những thuyền “ra biển chính thức (được sự cho phép của Nhàbuôn bán” của dân gian mà không phải với nước) của cư dân Đại Nam mới chỉ là hoạtthuyền buôn bán đường sông [5, t.5, tr.419] động khai thác ven bờ mà chưa thể vươn ra[6, t.6, tr.166].
- Quản lý, kiểm soát hoạt động khai đổi trong nước mà chưa có vị thế thươngthác hải sản của cư dân mại lớn trên thế giới, nếu có cũng chỉ là Triều Nguyễn bên cạnh việc độc quyền những hoạt động nhỏ lẻ của những cá nhânsử dụng, khai thác nguồn lợi tổ yến (yến “phạm luật” không được sự bảo hộ của Nhà60 Đinh Thị Hải Đườngnước.
- Từ phía dân gian, khả năng khai thác Nhà nước đã đặt lệ định về thuế đầm cá tômbị hạn chế, từ phía Nhà nước, nhu cầu khai ở miền biển.
- Nguyên tắc thu thuế của Nhàthác không được đặt ra cấp thiết đã khiến nước đối với hoạt động đánh bắt của ngưcho nguồn lợi biển trên phương diện thương dân ở các đầm cá tôm này là “cứ 11 phầnnghiệp đường biển (nhất là ngoại thương lấy 1 phần”.
- Cùng với việc nộp thuế, ngưđường biển) và khai thác hải sản không dân đánh bắt cũng phải khai báo cho ngườiđược triệt để, trong khi có nhiều quốc gia lĩnh trưng trước khi đánh bắt.
- Đó là về phương diện khai thác khác, đầm nọ đầm kia, nếu đến đánh cá nơinguồn lợi biển, còn trên lĩnh vực an ninh - nào, báo trước cho người lĩnh trưng, cứ 11quốc phòng, các chính sách này được coi phần lấy 1 phần, không được đòi hỏi khắtnhư một “giải pháp an toàn” của nhà khe” [6, t.5, tr.225].
- Đến năm Ất Hợi không chỉ kiểm soát việc khai thác nguồn(1815), nhà Nguyễn kiểm soát chặt chẽ lợi hải sản của ngư dân mà còn đồng thờihơn.
- Những thuyền từ 7 thước trở xuống, quản lý, kiểm soát hoạt động của các ngưtrên thực tế có làm nghề đánh cá và có dân này, phòng ngừa mối tệ, sự gian lận khi“man trưởng nhận lĩnh” thì mới được Nhà ngăn chặn những kẻ “tiếng là chịu thuếnước cấp thẻ thuyền, cho làm thuyền đánh đánh cá, nhưng kỳ thực mưu làm việc nghềcá và phải nộp thuế miễn vận tải.
- Những khác” [6, t.5, tr.225].thuyền từ 5 thước đến 7 thước, nếu trên Với mục đích ngăn ngừa tệ nạn, đềdanh nghĩa là làm nghề đánh cá nhưng thực phòng từ lúc chưa xảy ra, nhà Nguyễn đãtế thuyền hộ lại đang đi buôn, không làm tìm cách hạn chế hoạt động khai thác nguồnnghề đánh cá, và những thuyền từ 7 thước 1 lợi từ biển đảo của cư dân như cấm thuyềntấc đến 9 thước 9 tấc mà nhà Nguyễn cho là buôn ra biển buôn bán và hạn chế hoạt động“hơi lớn”, đều phải theo lệ đi vận tải theo đánh bắt hải sản của ngư dân.
- Nhưng, cácphiên, nộp thuế chuyên tiền miễn vận tải triều vua Nguyễn đã không lường tính đượcnhững năm thuyền đi làm nghề, được cấp rằng hoạt động khai thác của ngư dân Đạithẻ thuyền nhưng không được làm nghề Nam mạnh thì bản thân họ sẽ có tráchđánh cá.
- nhiệm kiểm soát và giám sát nguồn lợi thay - Thu thuế đánh bắt hải sản cho Nhà nước, bởi đó cũng chính là bảo vệ Triều Nguyễn trên cơ sở nhận thức lợi ích cho họ.
- Do đó, từ mục đích dường như tốt củakiểm soát hoạt động khai thác nguồn lợi các chính sách này là hạn chế những tệ nạnbiển của ngư dân, năm Đinh Dậu (1837), trên biển, bảo đảm an ninh - phòng thủ 61Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(101.
- 2016biển, bảo vệ biển đảo, nhưng trên thực tế, nguyên quý.
- Nhìn chung, hoạt động khaicác chính sách quá khắt khe của Nhà nước thác nguồn lợi biển đảo bị hạn chế và chivề kiểm soát, hạn chế hoạt động khai thác phối mạnh mẽ bởi chính sách an ninh -nguồn lợi biển và hoạt động ra biển của cư phòng thủ biển đảo, trong đó có nhữngdân đã làm triệt tiêu đi một khả năng bảo chính sách, biện pháp đã làm hạn chế rấtvệ, phòng thủ biển từ phía nhân dân.
- Nếu lớn hiệu quả khai thác nguồn lợi biển củaNhà nước san sẻ nhiều hơn nữa gánh nặng dân gian, cũng là làm giới hạn một nguồnan ninh - phòng thủ cho những cư dân khai lực phát triển kinh tế của đất nước.thác nguồn lợi biển đảo và khi đó, nếu khảnăng bảo vệ biển đảo của cư dân khai thác Tài liệu tham khảonguồn lợi biển được thực hiện tốt, Nhà nước [1] Đỗ Bang (1997), Kinh tế thương nghiệp Việt Namcó thể sẽ đỡ công sức hơn trong việc phái dưới thời Nguyễn, Nxb Thuận Hoá, Huế, tr.17).quan quân đi tuần tra, bắt giặc biển khó nhọc [2] Cổ luật Việt Nam: Quốc triều hình luật vàmà không mấy hiệu quả, đồng thời lại vẫn Hoàng Việt luật lệ, (2009), Phiên dịch:có thể thu được nguồn lợi lớn từ việc đánh Nguyễn Ngọc Nhuận, Nguyễn Tá Nhí vàthuế các hoạt động khai thác này.
- Điều này Tổ phiên dịch Viện Sử học, Hiệu chỉnh:cũng phản ánh một thực tế là nhà Nguyễn Nguyễn Hữu Tâm, Nxb Giáo dục Việtkhông đủ khả năng kiểm soát tốt các hoạt Nam, Đà Nẵng.động khai thác nguồn lợi biển của cư dân, do [3] Lê Tiến Công (2015), Tổ chức phòng thủđó phải tiến hành các biện pháp ngăn chặn, và hoạt động bảo vệ vùng biển miền Trungcấm đoán! dưới triều Nguyễn giai đoạn Do những biến động quân sự từ năm Luận án Tiến sĩ lịch sử, Trường Đại họcĐinh Mùi (1847) đến năm Mậu Ngọ (1858) Huế, Huế.với hàng loạt hoạt động gây hấn quân sự [4] Phan Huy Lê (2014), “Cần phân biệt rạchtrắng trợn của quân thuyền phương Tây trên ròi giữa Đại Trường Sa, Tiểu Trường Saphận biển Đại Nam, nhiều hoạt động, biện với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa”, Tạppháp an ninh, phòng thủ biển được đẩy chí Xưa & Nay, số tháng 9 (451).mạnh song cũng có những biện pháp, hoạt [5] Nội các triều Nguyễn (2005), Khâm địnhđộng an ninh, phòng thủ biển đảo có phần ít Đại Nam hội điển sự lệ, t.5, Nxb Thuậnđược quan tâm hơn so với trước, thậm chí Hoá, Huế.một số biện pháp, hoạt động an ninh - phòng [6] Quốc sử quán triều Nguyễn (2004), Đạithủ vì thế mà cũng có thể bị tạm dừng.
- Bên cạnh những hiệu quả đạt được, hoạt [7] Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Namđộng quản lý, khai thác và bảo vệ vùng biển nhất thống chí, t.2, Nxb Thuận Hóa, Huế.đảo dưới triều Nguyễn cũng bộc lộ những [8] Ủy ban biên giới quốc gia, Bộ ngoại giaohạn chế nhất định, nhất là dưới triều vua (2013), Tuyển tập các châu bản triềuThiệu Trị và Tự Đức.
- Đó là sự hạn chế Nguyễn về thực thi chủ quyền của Việttrong hoạt động đầu tư, trang bị vũ khí, Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa vàphương tiện hoạt động đường biển của Nhà Trường Sa, Nxb Tri thức, Hà Nội.nước cho lực lượng quản lý, thực thi khai [9] Choi Byung Wook (2008), Ngoại thươngthác, bảo vệ biển đảo.
- Nhà nước cũng ngăn Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XIX từ taycấm và kiểm soát chặt chẽ hoạt động khai người Hoa chuyển qua người Việt, Tạp chíthác nguồn lợi từ biển đảo của dân gian Nghiên cứu lịch sử, số 3 (383).trong khi độc quyền khai thác các nguồn tài [10] biengioihaidao.wordpress.com Đinh Thị Hải Đường 63

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt