You are on page 1of 40

Chiến tranh Việt Nam

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bước tới: menu, tìm kiếm

Chiến tranh Việt Nam là một bài viết về một chủ đề nhạy cảm, và thường xuyên
gây ra bút chiến.
Nếu bạn dự định thêm vào các sửa chữa lớn (thêm vào hơn một từ, không tính
việc thêm dẫn chứng và sửa lỗi chính tả), xin hãy đọc các thảo luận đã có và viết
vào thảo luận nội dung bạn muốn đưa vào, đồng thời bàn thảo để có được sự đồng
thuận từ cộng đồng trước khi đưa chúng vào bài. Xin không viết trực tiếp vào bài
bỏ qua việc thảo luận trước.
Nếu bạn không chú ý cảnh báo này và liên tục sửa bất chấp cộng đồng, sửa đổi
của bạn sẽ bị xóa và cộng đồng có thể cảnh cáo hoặc yêu cầu một bảo quản viên
khóa tài khoản của bạn.
Chiến tranh Việt Nam
Một phần của Chiến tranh Lạnh

Thời gian Khoảng 1954 tới 1959[1] – 30 tháng


Tư, 1975

Địa điểm Đông Nam Á với chiến trường chính


là toàn bán đảo Đông Dương

Nguyên nhân Mong muốn Việt Nam thống nhất và


bùng nổ độc lập (Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng
Miền Nam Việt Nam)
Chính sách kiềm chế và Thuyết
Domino (Hoa Kỳ)

Kết quả Chiến thắng của Việt Nam Dân chủ


Cộng hòa
Việt Nam thống nhất dưới chính
quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam

Thay đổi Việt Nam Cộng hòa bị giải thể và


lãnh thổ phần lớn lãnh thổ của nó được quản
lý bởi Cộng hòa Miền Nam Việt
Nam và sau này thống nhất với Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
Tham chiến
Việt Nam Cộng hòa Việt Nam Dân chủ
Hoa Kỳ Cộng hòa
Hàn Quốc Mặt trận Dân tộc Giải
Cộng hòa Khmer phóng Miền Nam Việt Nam
Thái Lan Liên Xô[2]
Úc Trung Quốc
New Zealand Khmer Đỏ
Philippines Bắc Triều Tiên
Vương quốc Lào Pathet Lào
Chỉ huy
Ngô Đình Diệm Hồ Chí Minh
Nguyễn Văn Thiệu Lê Duẩn
Lyndon Johnson Phạm Văn Đồng
Chiến tranh Việt Nam (1954–1975) là giai đoạn cuối và khốc liệt nhất của Chiến tranh
Đông Dương (1945–1975). Đây là cuộc chiến giữa hai bên. Một bên là Việt Nam Cộng
hòa ở Nam Việt Nam và Hoa Kỳ, cùng một số đồng minh khác như Úc, New Zealand,
Đại Hàn, Thái Lan và Philippines tham chiến trực tiếp và một bên là Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ở miền Bắc Việt Nam do Đảng Lao động Việt Nam (tên của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong thời kì Chiến tranh Đông Dương) lãnh đạo cùng với những người cộng
sản tại miền Nam Việt Nam và sự trợ giúp từ các nước xã hội chủ nghĩa (cộng sản), đặc
biệt là của Liên Xô và Trung Quốc. Cuộc chiến này tuy gọi là "Chiến tranh Việt Nam"
nhưng chiến sự lan ra toàn cõi Đông Dương, lôi cuốn vào vòng chiến cả hai nước lân cận
là Lào và Campuchia ở các mức độ khác nhau. Do đó cuộc chiến còn được gọi là Chiến
tranh Đông Dương lần thứ 2.

Mục lục
[ẩn]

• 1 Tên gọi
• 2 Bản chất của Chiến tranh Việt Nam
• 3 Viện trợ nước ngoài trong Chiến tranh Việt Nam
• 4 Diễn biến theo thời gian
o 4.1 Giai đoạn 1954–1959
 4.1.1 Miền Bắc
 4.1.2 Miền Nam
 4.1.3 Lực lượng Cộng sản ở miền Nam
o 4.2 Giai đoạn 1960–1965
 4.2.1 Bối cảnh quốc tế
 4.2.2 Chiến trường miền Nam
o 4.3 Giai đoạn 1965–1968
 4.3.1 Sự leo thang chiến tranh của Hoa Kỳ
 4.3.2 Miền Bắc và chiến tranh không quân
 4.3.3 Các chiến dịch tìm-diệt
 4.3.4 Sự kiện Tết Mậu Thân
 4.3.4.1 Hậu quả quân sự và chính trị
o 4.4 Giai đoạn 1968–1972
 4.4.1 Việt Nam hóa chiến tranh
 4.4.2 Chiến dịch Lam Sơn 719
 4.4.3 Chiến dịch mùa hè 1972 của miền Bắc
 4.4.4 Vừa đánh vừa đàm
 4.4.5 Chiến dịch Linebacker II
 4.4.6 Hiệp định Paris
o 4.5 Giai đoạn 1973–1975
 4.5.1 So sánh lực lượng hai bên sau khi Hoa Kỳ rút quân
 4.5.2 Cuộc tấn công cuối cùng
 4.5.3 Về việc kết thúc chiến tranh
• 5 Phong trào phản chiến
• 6 Kết quả và Việt Nam sau cuộc chiến
• 7 Tham khảo
• 8 Chú thích
• 9 Đọc thêm
o 9.1 Tiếng Việt
o 9.2 Tiếng Anh
• 10 Xem thêm

• 11 Liên kết ngoài

Tên gọi
Tại Việt Nam, sách báo còn dùng tên Kháng chiến chống Mỹ cứu nước để chỉ cuộc
chiến tranh này[9], cũng là để phân biệt với các cuộc chiến tranh khác đã xảy ra ở Việt
Nam khi chống Pháp, chống Nhật, chống Mông Cổ, chống Trung Quốc. Một số người[10]
cảm thấy tên Kháng chiến chống Mỹ không trung lập do cuộc chiến còn phản ánh yếu tố
của một cuộc nội chiến[10]; một số khác cho rằng tên Chiến tranh Việt Nam thể hiện cách
nhìn của người phương Tây hơn là của người sống tại Việt Nam[10]. Tên gọi của cuộc
chiến này vẫn còn đang là một vấn đề tranh cãi. Tuy nhiên hiện nay các học giả trong và
ngoài Việt Nam đang dần dần chấp nhận tên "Chiến tranh Việt Nam" vì tính chất quốc tế
của nó[10].

Cuộc chiến này chính thức kết thúc với sự kiện 30 tháng 4, 1975, khi Tổng thống Dương
Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa đầu hàng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam. Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, sau đó, quản lý
miền Nam cho đến khi đất nước thống nhất. Nhà nước thống nhất với quốc hiệu là Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời vào năm 1976.

Bản chất của Chiến tranh Việt Nam


Bản chất của Chiến tranh Việt Nam rất phức tạp và đa diện tùy theo lập trường của các
bên và hiện nay đang còn được tranh luận nhưng có thể rút ra một số đặc điểm sau:

• Đối với các nhà lãnh đạo của Mỹ[11] và Việt Nam Cộng hòa[12] [13] thì đây là cuộc
chiến tranh giữa hai hệ tư tưởng: chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản, để ngăn
chặn sự lan tràn của chủ nghĩa cộng sản (Xem Thuyết Domino), chính phủ Mỹ đã
đứng ra cáng đáng chi phí của cả cuộc chiến[14][15][16], có giai đoạn quân đội Mỹ đã
trực tiếp chiến đấu trên chiến trường thay cho quân đội Việt Nam Cộng
hòa[17][18][19][20].

• Đối với các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải
phóng Miền Nam thì đây là cuộc chiến tranh nhằm thực hiện các mục tiêu giành
độc lập, thống nhất hoàn toàn cho đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Họ
nhìn nhận cuộc chiến này là một cuộc chiến chống ngoại xâm, chống lại chủ
nghĩa thực dân mới mà Mỹ áp đặt tại miền Nam Việt Nam[21][22][23].
• Đối với đa số người Việt ở cả miền Bắc và miền Nam, sau 2000 năm chiến đấu
chống các lực lượng ngoại xâm, người Mỹ đơn giản là sự hiện diện mới nhất của
ngoại bang trên đất nước Việt Nam[24][25][26]. Họ đã góp nên sức mạnh cho phong
trào dân tộc mãnh liệt do Hồ Chí Minh lãnh đạo[27]. Phong trào này, do Đảng Lao
Động Việt Nam, với uy tín trong nhân dân đạt được từ việc đã tổ chức Mặt trận
Việt Minh giành độc lập cho đất nước và kiên trì chiến đấu chống sự trở lại của
chế độ thực dân Pháp, và tổ chức do đảng này thành lập là Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam đi tiên phong, đã đạt được sự ủng hộ rộng rãi của đa số nhân
dân[28][29][30][31][32]. Trong khi đó, phía Việt Nam Cộng hòa ngày càng phụ thuộc vào
Mỹ và đã không duy trì được vai trò độc lập của họ trong con mắt của người dân
(nhất là sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm bị sát hại) – đặc biệt là khi đa số các
nhân vật lãnh đạo của họ là những người trong chính phủ Trần Trọng Kim, hình
thành dưới chế độ bảo hộ của phát xít Nhật, hay đã từng làm việc cho Pháp[33][34].
Cuộc chiến này, do đó, mang tính dân tộc rất cao[35][25][36][28]: sự độc lập và thống nhất
của đất nước đã trở thành yếu tố quyết định giúp những người Cộng sản thắng lợi
chứ không phải là nhờ vào hệ tư tưởng hay ưu thế quân sự của họ. Đại đa số
người dân miền Nam không quan tâm về dân chủ hay độc tài, hoặc các hệ tư
tưởng chính trị. Họ chỉ muốn được yên ổn để làm ăn.[37]

• Về quan điểm của người dân Hoa Kỳ, có hai chiều hướng chính. Một phía tin vào
chính phủ và ủng hộ cuộc chiến chống Cộng của quân đội Hoa Kỳ. Phía kia cho
rằng đây là cuộc chiến tranh xâm lược[38], chiếm đóng lên miền Nam Việt Nam để
điều khiển và kiểm soát thị trường kinh tế, nhân lực, sức lao động và tài nguyên ở
vùng Đông Nam Á[39], còn chính sách chống Cộng sản của chính phủ Mỹ theo
Jonathan Neale chỉ là để phục vụ cho quyền lợi của những tập đoàn tư bản Mỹ[40].

• Trên cục diện quốc tế đây là cuộc "chiến tranh nóng" trong lòng Chiến tranh Lạnh
đang diễn ra quyết liệt lúc đó trên thế giới[41]. Cả Liên Xô và Trung Quốc mặc dù
có những xung đột sâu sắc với nhau vẫn cùng viện trợ tối đa cho Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa chống lại Mỹ.

Cuộc chiến tranh này được nhiều người phân đoạn theo các cách khác nhau: Người
Mỹ[42][43][44][45]thường quan niệm "Chiến tranh Việt Nam" được tính từ khi khi họ trực tiếp
tham chiến trên bộ đến khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa đầu hàng (từ 1965 (nhiều
nguồn cho là 1964[46]) đến 1975). Có nhiều nguồn[47][48][49][50] khác lại coi cuộc chiến bắt đầu từ
1960 đến 1975, tính từ khi miền Bắc bắt đầu công khai ủng hộ đấu tranh vũ trang tại
miền Nam. Nhưng quan điểm chung[51][9] và chính thống hiện nay của chính phủ Việt
Nam[9] vẫn coi Chiến tranh Việt Nam được tính từ 1954 đến 1975.

Viện trợ nước ngoài trong Chiến tranh Việt Nam


Bài chi tiết: Viện trợ nước ngoài

Chiến tranh Việt Nam là một trong những cuộc chiến tranh tốn kém nhất trong lịch sử
nhân loại, trong khi Hoa Kỳ viện trợ ồ ạt cho Việt Nam Cộng hòa thì Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa cũng nhận được sự giúp đỡ to lớn từ phía Trung Quốc, Liên Xô và khối các
nước xã hội chủ nghĩa khác. Viện trợ nước ngoài có vai trò và tác động to lớn đến quy
mô, cường độ và hình thái chiến tranh Việt Nam.

Việt Nam Cộng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[53]


Giai đoạn 1955-
hòa[52] từ Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội
1975
từ Hoa Kỳ chủ nghĩa

Loạt bài
Súng bộ binh 1.900.000 3.608.863 Chiến tranh Việt Nam
Giai đoạn 1954–1959

Phi cơ 1.200 458 Miền Bắc – Miền Nam


Thuyết Domino
Giai đoạn 1960–1965
Trực thăng 600 Không có số liệu
Diễn biến Quốc tế – Miền Nam
Kế hoạch Staley-Taylor
Xe tăng-Thiết giáp 2.074 2.210
Sự kiện Phật Đản, 1963
Đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm
Tên lửa SA 75M Không có trang bị 23 Giai đoạn 1965–1968
Miền Bắc
Các chiến dịch Tìm-Diệt
Pháo các loại 1.532 8.438
Chiến dịch Phượng Hoàng
Diễn biến Quốc tế
Xe cơ giới các loại 56.000 16.116 Tết Mậu Thân, 1968
Giai đoạn 1968–1972
50.000 (vô tuyến) Không có trangDiễn
bị biến Quốc tế
Máy thông tin
70.000 (hữu tuyến) Việt Nam hoá chiến tranh
Hội nghị Paris
Bệ phóng tên lửa Không có trang bị 1.357 Hiệp định Paris
Chiến dịch:
Lam Sơn 719 – Chiến cục năm 1972 –
Diễn biến theo thời gian Hè 1972 –Chiến dịch Linebacker –Linebacker II
Giai đoạn 1973–1975
Chiến dịch:
Tây Nguyên – Huế - Đà Nẵng
Xuân 1975 – Hồ Chí Minh
Sinh viên Sài Gòn biểu tình phản đối
Charles de Gaulle và Hồ Chí Minh Sự kiện 30 tháng 4, 1975
Hậu quả chiến tranh
Chất độc da cam
Thuyền nhân
sửa tiêu bản
Sự phân đoạn như sau cốt chỉ để tiện tham chiếu cho các diễn biến chính trên chiến
trường. Trong báo chí và các diễn đàn về Chiến tranh Việt Nam còn rất nhiều cách phân
đoạn khác nhau tuỳ theo trọng điểm phân tích.

Giai đoạn 1954–1959

Sau khi thất bại tại Điện Biên Phủ, Pháp đã mất hẳn ý chí tiếp tục chiến đấu giữ thuộc địa
Đông Dương.[54]. Hiệp định Genève, theo sự dàn xếp của các cường quốc, tạm thời chia
Việt Nam ra thành hai khu vực cho hai phe quân sự đối địch. Miền Bắc dành cho các lực
lượng của Quân đội Nhân dân Việt Nam, miền Nam dành cho tất cả các lực lượng thuộc
khối Liên hiệp Pháp. Vĩ tuyến 17 được xem là ranh giới, và một khu phi quân sự tạm thời
được lập dọc theo hai bên bờ sông Bến Hải thuộc tỉnh Quảng Trị. Quân đội hai bên phải
rút về khu vực được quy định trong vòng 300 ngày. Trong thời gian chuyển tiếp đó,
người dân hai miền được quyền lựa chọn nơi sinh sống là khu vực mà mình muốn và sẽ
được hỗ trợ trong việc di chuyển. Tình trạng chia cắt này chỉ là tạm thời cho đến khi cuộc
tổng tuyển cử tự do cho việc thống nhất Việt Nam sẽ được tổ chức vào năm 1956. Tuyên
bố cuối cùng của Hội nghị công nhận chủ quyền, thống nhất, và toàn vẹn lãnh thổ của
Campuchia, Lào và Việt Nam, đồng thời ghi nhận bản tuyên bố của chính phủ Pháp về
việc sẵn sàng rút quân đội Pháp khỏi lãnh thổ các nước này theo yêu cầu và thỏa thuận
với chính quyền sở tại. Tuyên bố này còn nói rằng các chính quyền tại hai khu vực quân
sự tại Việt Nam không được cho phép các hành động trả thù đối với những người đã từng
cộng tác với phía bên kia cùng gia đình họ[55].

Kết quả Hiệp định: Quân đội Nhân dân Việt Nam, lực lượng vừa giành được thắng lợi
quan trọng trên chiến trường, tập kết về miền Bắc. Lực lượng Quốc gia Việt Nam, trong
đó có những người mong muốn độc lập cho Việt Nam nhưng bác bỏ lý luận đấu tranh
giai cấp và chuyên chính vô sản của những người Cộng sản, theo quân đội Pháp tập kết
về miền Nam. Quân đội Pháp dần dần rút khỏi miền Nam và trao quyền lực cho chính
quyền Quốc gia Việt Nam. Chính quyền này từ chối hiệp thương tổng tuyển cử tự do với
lý do mà Tổng thống Ngô Đình Diệm đưa ra là: không thể có bầu cử tự do với những
người cộng sản[56]. Cuộc tổng tuyển cử tự do cho việc thống nhất Việt Nam đã không bao
giờ được tổ chức.

Không công nhận kết quả Hiệp định Genève và thấy trước kết quả sẽ thiên về phe Cộng
sản nếu tổng tuyển cử được thi hành[57], Mỹ bắt đầu các hoạt động tại Việt Nam, chuẩn bị
cho sự can thiệp sâu rộng hơn. Năm 1954, đội bán quân sự của Mỹ do Edward Lansdale,
người của CIA và đã làm cố vấn cho Pháp tại Việt Nam từ 1953, chỉ huy đã thực hiện các
hoạt động tuyên truyền tâm lý chiến để kêu gọi và vận động dân chúng miền Bắc di cư
vào Nam[58]; chọn và gửi người Việt tới các căn cứ quân sự Mỹ ở Thái Bình Dương để
huấn luyện; huấn luyện các lực lượng vũ trang của Quốc gia Việt Nam (sau là Việt Nam
Cộng hòa); xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ quân sự tại Philippines; bí mật đưa một
lượng lớn vũ khí và thiết bị quân sự vào Việt Nam; phát triển các kế hoạch "bình định
Việt Minh và các vùng chống đối"[59].

Trong khi chính phủ Việt Nam Cộng hòa từ chối hiệp thương tổng tuyển cử tự do và ra
sức củng cố quyền lực, đàn áp khốc liệt những người cộng sản còn lại ở miền Nam bằng
những chiến dịch "tố cộng", "diệt cộng", miền Bắc vẫn chuẩn bị cho tổng tuyển cử và cố
gắng theo đuổi các giải pháp hòa bình[60]. Hà Nội tìm kiếm hỗ trợ quốc tế, kêu gọi các
đồng chủ tịch hội nghị Genève, nhắc nhở Pháp về trách nhiệm đối với hiệp định. Tháng 7
năm 1956, sau khi yêu cầu đàm phán không được chính quyền Ngô Đình Diệm trả lời,
Hà Nội yêu cầu các đồng chủ tịch hội nghị Genève tổ chức một cuộc hội nghị mới, yêu
cầu này lại được lặp lại vào tháng 8. Các yêu cầu đàm phán với chính phủ Ngô Đình
Diệm tiếp tục được gửi vào tháng 6 và tháng 7 năm 1957, tháng 3 và tháng 12 năm 1958,
tháng 7 năm 1959, và tháng 7 năm 1960, nhưng đều bị từ chối. Trong khi tiến trình yêu
cầu và từ chối đàm phán vẫn tiếp diễn, miền Bắc còn cố tái lập quan hệ thương mại với
miền Nam[61], để giúp "nhân dân hai vùng trao đổi kinh tế, văn hóa và xã hội, nhằm tạo
thuận lợi cho việc khôi phục cuộc sống bình thường của người dân." Nhưng cũng như
vấn đề bầu cử, chính quyền Việt Nam Cộng hòa thậm chí còn từ chối cả việc thảo luận.

Về quân sự, nhìn chung, trong giai đoạn 1954-1959 quân đội Việt Nam Cộng hòa giữ ưu
thế trên chiến trường miền Nam. Nhưng đến cuối năm 1959 tình hình an ninh quân sự
của miền Nam đã có những bất ổn, lực lượng Cộng sản ở miền Nam đã phát động chiến
tranh du kích khắp nơi. Tình hình chính trị trở nên xấu đi vì các đường lối của chính phủ
Việt Nam Cộng hòa.

Tháng 9 năm 1960, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức ủng hộ các hoạt
động đấu tranh vũ trang và chính trị của Cộng sản miền Nam[62]. Đến thời điểm này, sự
căng thẳng của lực lượng Cộng sản miền Nam đã lên đến mức mà nếu chính phủ Hà Nội
không ủng hộ thì họ có thể mất ảnh hưởng của mình đối với các sự kiện sẽ xảy ra ở phía
Nam vĩ tuyến 17. Năm 1960 trở thành một năm có biến động lớn, mở ra một giai đoạn
mới của Chiến tranh Việt Nam.

Miền Bắc

Bài chi tiết: Miền Bắc Việt Nam 1954–1959

Tại miền Bắc, những người Cộng sản ngay lập tức bắt tay vào việc tổ chức đất nước theo
mô hình xã hội chủ nghĩa như ở các nước Liên Xô, Trung Quốc. Các chiến dịch cải cách
ruộng đất, hợp tác hóa nông nghiệp, cải tạo tư bản tư doanh đã san bằng các thành phần
xã hội, xóa bỏ các giai cấp địa chủ và tư bản, không cho phép các chính kiến đối lập với
Đảng Cộng sản. Đời sống xã hội dựa trên nguyên tắc kỷ luật hóa cao độ, các quyền tự do
chính trị và các tổ chức bị hạn chế đến mức chỉ còn là hình thức trong một "nhà nước-
đảng". Xã hội nhanh chóng chuẩn bị cho cuộc sống quân sự hóa toàn diện khi "mỗi người
dân đều là một chiến sĩ".

Quân đội Nhân dân Việt Nam được tổ chức lại, nhất là về mặt chính trị để bảo đảm trung
thành tuyệt đối với Đảng. Việc hiện đại hóa quân đội được tiến hành nhưng chậm và
không đồng bộ, nhiều sư đoàn bộ binh được thành lập thêm nhưng vẫn mang tính bộ binh
đơn thuần, hoả lực thiếu, yếu và chắp vá. Quân đội chưa có các quân binh chủng kỹ thuật
cao như không quân, radar...; hải quân, tăng thiết giáp còn đang trong quá trình sơ khai;
phương tiện vận tải, thông tin liên lạc còn yếu kém. Điều này là do tình hình kinh tế kém
phát triển của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời sự hạn chế nguồn viện trợ từ Liên
Xô, Trung Quốc. Nhưng chính vào giai đoạn này miền Bắc đã bí mật cho tiến hành phát
triển tuyến đường tiếp vận chiến lược: Đường Trường Sơn – còn được gọi là Đường mòn
Hồ Chí Minh. Đây sẽ là một tuyến vận chuyển chiến lược đảm bảo nhu cầu chiến tranh sẽ
được mở rộng tại miền Nam sau này. Mặc dù vào lúc đó, tuyến đường này vẫn chỉ là các
lối mòn trong rừng cho giao liên và các toán cán bộ vào Nam.

Nhìn chung, các nỗ lực tranh đấu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào thời kỳ này là đấu
tranh chính trị và ngoại giao để đòi tổng tuyển cử theo Hiệp định Genève, mà nếu nó xảy
ra có lẽ các lãnh tụ cộng sản sẽ có ưu thế. Miền Bắc ở giai đoạn này đang tích luỹ nhưng
chưa đủ khả năng để tiến hành chiến tranh tại miền Nam.

Miền Nam

Bài chi tiết: Miền Nam Việt Nam 1954–1959

Ở miền Nam, với sự trợ giúp tích cực của Hoa Kỳ, Ngô Đình Diệm – được bổ nhiệm làm
thủ tướng và trở thành tổng thống sau cuộc trưng cầu ý dân ngày 23 tháng 10 năm 1955 –
đã nhanh chóng ổn định tình hình chính trị, xã hội. Chính phủ Hoa Kỳ đã viện trợ lớn cho
Việt Nam Cộng hòa và đã đạt được một số thành quả quan trọng: kinh tế phục hồi và phát
triển nhanh, tái định cư, đời sống của dân chúng khá sung túc... Với ảnh hưởng tuyệt đối
của mình, Hoa Kỳ đòi hỏi chính phủ Việt Nam Cộng hòa phải xây dựng một lãnh thổ phi
cộng sản, độc lập, tự do theo tiêu chuẩn Mỹ và sẵn sàng đương đầu với miền Bắc.

Chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm nhanh chóng thanh lọc bộ máy cầm quyền,
đưa những người trung thành với ông vào các vị trí quan trọng trước kia vẫn dành cho
người Pháp. Nhà nước Việt Nam Cộng hòa, lúc đó mang biểu hiện của hình thức tập
quyền, chính trị của quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào các đặc tính cá nhân của Tổng
thống và gia đình ông. Quân đội Việt Nam Cộng hòa được cấp tốc trang bị và huấn luyện
với sự giúp đỡ của các cố vấn Hoa Kỳ. Quân lực Việt Nam Cộng hòa, vào thời điểm đó,
về trang bị, trình độ huấn luyện được xem là đứng đầu khu vực Đông Nam Á, vượt trội
hơn Quân đội Nhân dân Việt Nam - đang là đối thủ tiềm tàng ở miền Bắc.

Chính phủ Việt Nam Cộng hòa cũng tiến hành các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, liên gia
phòng vệ, dồn dân lập ấp chiến lược... một cách quyết liệt[63] không tính đến các đặc điểm
tâm lý và quyền lợi của dân chúng cũng như hoàn cảnh lịch sử Việt Nam. Điều này đã
làm biến dạng mô hình xã hội dân chủ tự do, suy giảm niềm tin của dân chúng vào chính
thể của Tổng thống Ngô Đình Diệm và đẩy những người kháng chiến cũ vào rừng lập
chiến khu.

Về mặt tôn giáo, chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm được lực lượng Công giáo
ủng hộ mạnh ở thành thị và bộc lộ nhiều tính thiên vị Công giáo kể cả trong cơ cấu bộ
máy chính quyền. Mặc dù vậy, phần lớn người Việt ở miền Nam vẫn giữ truyền thống
theo đạo Phật. Mâu thuẫn vì tôn giáo sau này cũng trở thành một trong những động lực
khởi phát cuộc đảo chính của Quân lực Việt Nam Cộng hòa chống lại Tổng thống Diệm
vào tháng 11 năm 1963.
Lực lượng Cộng sản ở miền Nam

Bài chi tiết: Miền Nam Việt Nam 1954–1959

Hệ thống những người Cộng sản ở miền Nam Việt Nam là bộ phận cấu thành của Cộng
sản Việt Nam, nhưng mang một số đặc điểm riêng do ảnh hưởng của hoàn cảnh xã hội,
văn hóa. Trong giai đoạn này, tổ chức Cộng sản ở miền Nam là Trung ương Cục miền
Nam, đã có các đối sách hợp lý, gây khó khăn cho chính phủ của Tổng thống Diệm. Từ
chỗ bị truy lùng ráo riết mà chỉ trong hai năm họ không những hồi phục về tổ chức mà
còn phát triển thế chủ động tấn công cả về chính trị và về quân sự. Về chính trị, họ đã làm
chính quyền lao đao bằng các cuộc đấu tranh chính trị rầm rộ ở nông thôn và thành thị do
họ chỉ đạo từ xa[64]. Về quân sự, họ đã phát triển chiến tranh du kích và đã đánh được
những trận lớn như trận Tua Hai (Tây Ninh) vào căn cứ cấp trung đoàn của quân đội Việt
Nam Cộng hòa. Chiến thuật này đã phát huy tác dụng làm hạn chế được sức mạnh quân
sự của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên, do thiếu thốn về cơ sở vật chất và hệ
thống nhân lực, lực lượng Cộng sản ở miền Nam tồn tại, chung sống một cách "hòa
bình", đan xen với bộ máy chính quyền địa phương của chính phủ Việt Nam Cộng hòa.

Giai đoạn 1960–1965

Giai đoạn 1960–1965 là giai đoạn miền Bắc công khai hậu thuẫn Cộng sản miền Nam và
bắt đầu đem quân thâm nhập miền Nam[65]. Các lực lượng Cộng sản miền Nam thành lập
Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và Quân Giải phóng Miền Nam. Trong
khi đó, Hoa Kỳ giúp Việt Nam Cộng hòa tiến hành chiến lược Chiến tranh đặc biệt. Tuy
nhiên, quân Cộng sản vẫn thắng thế trên chiến trường, đánh những chiến dịch lớn sát các
đô thị. Tổng thống Ngô Đình Diệm không kiểm soát nổi khủng hoảng chính trị và bị Hội
đồng Quân nhân Cách mạng đảo chính. (Một số tài liệu của cả hai bên cho rằng chính Mỹ
đã bật đèn xanh[66] [67] cho cuộc đảo chính này). Việt Nam Cộng hòa sau đó đã rơi vào cuộc
khủng hoảng lãnh đạo.

Bối cảnh quốc tế

Thập niên 1960 là thời kỳ nở rộ của khối Cộng sản và đã xuất hiện mầm mống chia rẽ
giữa hai cường quốc hàng đầu trong khối là Liên Xô và Trung quốc về các vấn đề tư
tưởng, đường lối cách mạng[68]. Nhất là từ khi Liên Xô rút hết các cố vấn khỏi Trung Quốc
sau năm 1960.

Tại Liên Xô và Đông Âu hình thức kinh tế tập trung và kế hoạch hóa đang phát huy các
mặt tích cực của nó. Liên Xô tập trung mọi nguồn lực, bất chấp hậu quả sau này, cố đạt
cho bằng được những chỉ tiêu kinh tế, chính trị được cho là ưu thế của hệ thống xã hội
chủ nghĩa để tranh đua với Hoa Kỳ vai trò lãnh đạo thế giới. Việc phóng thành công vệ
tinh nhân tạo đầu tiên của loài người (Sputnik 1) và đưa người đầu tiên vào vũ trụ (Yuri
Gagarin) là biểu tượng của một siêu cường đang thắng thế. Liên Xô và Hoa Kỳ - hai kẻ
thù tư tưởng - sẵn sàng đối chọi nhau ở mọi vấn đề quốc tế. Và Việt Nam là nơi mà hai
phe muốn phô trương sức mạnh của mình.
Liên Xô tuy đã có vũ khí nguyên tử từ năm 1949[69] nhưng ưu thế quân sự của Hoa Kỳ vẫn
áp đảo. Do đó Liên Xô vẫn e ngại sự quá căng thẳng với Hoa Kỳ và chỉ viện trợ cho miền
Bắc ở mức đủ để xây dựng một "chủ nghĩa xã hội" cho đến thời điểm này.

Trong thập niên 1960 quan điểm của Liên Xô về chiến tranh Việt Nam đã có nhiều thay
đổi. Từ quan điểm cùng chung sống hòa bình của Nikita Khrushchev trong chính trị quốc
tế, nghĩa là phía Liên Xô muốn có sự chung sống giữa hai nhà nước Việt Nam và thống
nhất thông qua trưng cầu dân ý với sự giúp đỡ quân sự hạn chế đến ủng hộ đấu tranh vũ
trang làm cách mạng bằng bạo lực của Leonid Brezhnev với viện trợ quân sự to lớn cho
miền Bắc Việt Nam. Khi Khrushchev bị hạ bệ, Leonid Brezhnev lên thay, ban đầu chính
sách của Liên Xô vẫn giữ nguyên nhưng đến đầu năm 1965, tân thủ tướng Liên Xô,
Kosygin, thăm Bắc Kinh, Hà Nội, Bình Nhưỡng nhằm hai mục đích hàn gắn quan hệ Xô
– Trung và ngăn chặn hoạt động quân sự của Mỹ ở Việt Nam.

Trong chuyến thăm Hà Nội, tháp tùng Kosygin có các chuyên viên tên lửa. Và ngày 10
tháng 2 năm 1965, Liên Xô và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký Hiệp ước hỗ trợ kinh tế
và quân sự Việt - Xô. Từ đây sự giúp đỡ quân sự của Liên Xô cho miền Bắc ngày càng
tăng và đóng vai trò quan trọng trong chiến tranh Việt Nam.

Đến thời điểm này cách tiếp cận của họ đã khác: viện trợ cho miền Bắc Việt Nam nhiều
hơn[70]. Đây cũng là thời kỳ Quân đội Nhân dân Việt Nam được hiện đại hóa mạnh mẽ,
trang bị lại với vũ khí mới kể cả các vũ khí hạng nặng, các binh chủng kỹ thuật ra đời để
đáp ứng chiến tranh hiện đại: không quân, radar, tên lửa phòng không... Quân đội miền
Bắc liên tiếp tiến hành các cuộc tập trận lớn với giả định đánh quân đổ bộ đường không
và chống xe tăng Mỹ.

Đầu năm 1961, Tổng thống Kennedy gửi 400 cố vấn quân sự đến miền Nam Việt Nam.
Điều này Trung Quốc lo ngại, Ban lãnh đạo Trung Quốc có hai quan điểm khác nhau.
Mao Trạch Đông ủng hộ cuộc đấu tranh vũ trang của Việt Nam còn Chu Ân Lai thì muốn
sử dụng biện pháp ngoại giao, chính trị cùng với chiến thuật du kích và hoạt động bí mật
ở miền Nam.

Thập niên này đang có tranh cãi trong phe xã hội chủ nghĩa giữa những người thuộc "phe
xét lại" (Nikita Sergeyevich Khrushchyov và Liên Xô) và những người "Marxist-Leninist
chân chính" (Mao Trạch Đông và Trung Quốc) và các biện pháp cách mạng ở thế giới thứ
ba bằng hòa bình hay bằng bạo lực cách mạng[71][72][73].

Trung Quốc, lúc đó đang cạnh tranh vai trò lãnh đạo phe Xã hội chủ nghĩa với Liên Xô[73],
cũng không muốn vai trò của mình kém hơn đối thủ cùng tư tưởng. Họ viện trợ cho miền
Bắc, trong giai đoạn này, còn nhiều hơn Liên Xô. Họ khuyến khích miền Bắc chiến đấu
giải phóng miền Nam mà không sợ quân đội Mỹ tham chiến. Cả Liên Xô và Trung Quốc
đảm bảo nếu Hoa Kỳ đánh ra miền Bắc thì họ sẽ can thiệp bảo vệ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa.

Mùa hè 1962, Trung Quốc gửi cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa súng đạn đủ để
trang bị cho 200 tiểu đoàn. Trung Quốc đồng ý gửi tình nguyện quân vào Bắc Việt nếu
quân Mỹ vượt qua vĩ tuyến 17. Tính từ 1956 đến 1963, Trung Quốc đã chuyển lượng vũ
khí cho miền Bắc ở số lượng trị giá khoảng 320 triệu nhân dân tệ[70]. Tháng 12-1964, bộ
trưởng quốc phòng Trung Quốc thăm Hà Nội và ký Hiệp ước hữu nghị hợp tác quân sự
Việt-Trung. Lúc đầu Trung Quốc hứa gửi phi công sang miền Bắc Việt Nam, nhưng sau
đó họ rút lại vì lo ngại ưu thế hơn hẳn của không quân Mỹ. Sau đó một số lượng đáng kể
nhân viên quân sự Trung Quốc được gửi sang miền Bắc, bắt đầu từ tháng 6 năm 1965.
Mao Trạch Đông sử dụng cuộc chiến Việt Nam khơi gợi tinh thần chống đế quốc trong
nhân dân Trung Quốc để chống lại những người theo "phe xét lại" trong bộ máy và để
bảo đảm vị trí của ông trong lịch sử. Đây là mục đích chính của chiến dịch "Ủng hộ Việt
Nam và chống Mỹ" tại Trung Quốc.

Hoa Kỳ cũng quyết tâm không bỏ cuộc tại Nam Việt Nam. Năm 1964, Mỹ bắt đầu
chuyển hướng sự chú ý từ miền Nam hướng ra miền Bắc và tuyên bố sẽ không chấp nhận
việc tăng chuyển quân và vũ khí từ miền Bắc vào Nam[74]. Hoa Kỳ tăng cường can thiệp
vào chiến tranh Việt Nam và tháng 2 năm 1965 không quân Mỹ oanh kích miền Bắc. Để
đối phó với sự gia tăng chiến tranh của phe Cộng sản, Hoa Kỳ giúp Việt Nam Cộng hòa
tiến hành chiến tranh đặc biệt và tăng cường viện trợ kinh tế cũng như quân sự.

Chiến trường miền Nam

Bài chi tiết: Miền Nam Việt Nam 1960–1965, Sự kiện Phật Đản, 1963, và Đảo
chính 1963 tại Nam Việt Nam

Thanh niên sinh viên Sài Gòn

Từ năm 1960, với chủ trương "Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước
đi lên chủ nghĩa xã hội" của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa[75], lực lượng Cộng
sản ở chiến trường miền Nam phát động liên tiếp các đợt tiến công quy mô kết hợp đấu
tranh chính trị với đấu tranh vũ trang mà cao trào là phong trào Đồng khởi. Phong trào
này gây cho chính phủ Việt Nam Cộng hòa thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm lúng túng
trong việc lập lại trật tự, dẫn đến một phần đáng kể của nông thôn miền Nam đã thành
vùng do lực lượng Cộng sản kiểm soát (cuối năm 1960). Theo số liệu được ghi trong
Sách giáo khoa lịch sử hiện hành thì cuối năm 1960, lực lượng Cộng sản Miền nam kiểm
soát 600/1298 xã ở Nam Bộ, 904/3829 thôn ở đồng bằng ven biển Trung bộ và 320/5721
thôn ở Tây Nguyên. Nhân đà thắng lợi, ngày 20 tháng 12 năm 1960 phía Cộng sản miền
Nam thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam gồm nhiều đại diện các
thành phần tôn giáo, tầng lớp xã hội, dân tộc khác nhau do những người Cộng sản lãnh
đạo. Quân Giải phóng Miền Nam cũng được thành lập ngay sau đó, ngày 15 tháng 2 năm
1961, theo nghị quyết của Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam và Quân uỷ Trung ương
Quân đội Nhân dân Việt Nam.[76]

Đứng trước tình hình trên, tướng Maxwell D. Taylor được phái sang Việt Nam để hành
động gấp giúp Việt Nam Cộng hòa đẩy lùi phía Cộng sản. Kế hoạch Staley-Taylor (hay
chiến tranh đặc biệt) với việc sử dụng chủ yếu quân lực Việt Nam Cộng hòa đã được
trang bị bằng vũ khí tối tân do Mỹ cung cấp và thực hiện các kế hoạch quân sự do cố vấn
Mỹ tư vấn. Nhà nước Hoa Kỳ cũng tăng thêm nguồn viện trợ kinh tế cho chính phủ Ngô
Đình Diệm nhằm tăng quân số và tiêu dùng cho các chi phí quân sự. Với khả năng cơ
động cao, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã giành được những thắng lợi nhất định. Đồng
thời, chính phủ Việt Nam Cộng hòa thắt chặt chính sách Ấp chiến lược nhằm cách ly
quân Cộng sản với dân chúng.

Thiết giáp xa M-113 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa trên chiến trường

Về phía Cộng sản, lực lượng Quân Giải phóng miền Nam trong thời điểm này được xem
là không còn đủ để đáp ứng tình hình do chiến tranh mở rộng về quy mô và số lượng. Vì
vậy, binh sĩ của Quân đội Nhân dân Việt Nam ở miền Bắc đã hành quân vào Nam theo
đường mòn Trường Sơn để tăng cường cho Quân Giải phóng. Tuy nhiên, trong thời kỳ
1960-1965 các đơn vị từ miền Bắc vào chủ yếu đứng chân vòng ngoài tại tuyến đường
Trường Sơn, Tây Nguyên để xây dựng các căn cứ quân sự phục vụ chiến sự sau này.

Sau gần hai năm đối phó với chiến tranh đặc biệt, Quân Giải phóng miền Nam đã đúc kết
kinh nghiệm đối phó với chiến thuật trực thăng vận và thiết xa vận của quân đội Việt
Nam Cộng hòa. Điều này đã tạo ra thắng lợi cho họ trong trận Ấp Bắc (ngày 2 tháng 1
năm 1963 tại tỉnh Tiền Giang). Trong các năm 1963 và 1964 Quân Giải phóng miền Nam
thắng thế tiến công trên toàn chiến trường và đến tháng 12 năm 1964 họ tiến hành chiến
dịch Bình Giã tại tỉnh Bà Rịa làm thiệt hại các chiến đoàn thiết giáp cơ động và các đơn
vị dự bị chiến lược của quân đội Việt Nam Cộng hòa[77]. Quân đội Việt Nam Cộng hòa trở
nên yếu thế buộc phải lui về thế thủ gần các thành phố lớn.

Ngày 8 tháng 5 năm 1963 xảy ra sự kiện Phật đản tại Huế, bắt nguồn từ sự kỳ thị tôn giáo
của chính phủ Ngô Đình Diệm. Sự kiện này đã làm chấn động trên toàn thế giới, cũng
như đã tạo ra phong trào phản đối sự lộng hành gia định trị của chính phủ Tổng Thống
Ngô Đình Diệm. Ngày 1 tháng 11 năm 1963 Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, dưới sự chỉ
huy của tướng Dương Văn Minh và sự im lặng không phản đối của Hoa Kỳ, đã làm đảo
chính lật đổ, giết chết hai anh em ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và xử bắn ông
Ngô Đình Cẩn.

Ngay sau đó chính quyền Việt Nam Cộng Hòa rơi vào khủng hoảng lãnh đạo trầm trọng
và chỉ ổn định lại khi Hội đồng lãnh đạo Quốc gia, đứng đầu bởi hai tướng Nguyễn Văn
Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ, lên chấp chính (tháng 6 năm 1965). Tháng 6 năm 1965, trước
các thất bại liên tiếp trên chiến trường và tình hình chính trị rối loạn tại Việt Nam Cộng
hòa, chính phủ Hoa Kỳ quyết định huỷ bỏ kế hoạch Staley-Taylor và đưa quân đội Hoa
Kỳ sang trực tiếp tham chiến để giữ miền Nam khỏi rơi vào tay lực lượng cộng sản[78].

Giữa giai đoạn khủng hoảng chính trị đó, giới lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa vẫn có tham
vọng Bắc tiến để thống nhất Việt Nam. Ngày 14 tháng 7 năm 1964, người đứng đầu chính
phủ là tướng Nguyễn Khánh công khai tuyên bố Bắc tiến. Hai ngày sau, tướng Nguyễn
Cao Kỳ cũng khẳng định Không lực Việt Nam Cộng hòa đã sẵn sàng. [79]Nhưng kế hoạch
này đã bị Washington bác bỏ và nó không bao giờ trở thành sự thực.

Giai đoạn 1965–1968

Một khu căn cứ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam sau một trận tập
kích

Đây là giai đoạn ác liệt nhất của Chiến tranh Việt Nam mà người Mỹ gọi là Chiến tranh
cục bộ. Ngay tên gọi "chiến tranh cục bộ" đã cho thấy tính phức tạp rất dễ bùng nổ của
tình hình mà Tổng thống Lyndon B. Johnson phải giải quyết. Một mặt quân đội Hoa Kỳ
phải can thiệp vũ trang nhằm quét sạch lực lượng cộng sản; mặt khác, họ phải kiềm chế
chiến tranh trong phạm vi Việt Nam, không để nó lan ra ngoài vòng kiểm soát, đụng
chạm đến khối Cộng sản để có thể dẫn đến một cuộc chiến tranh như Chiến tranh Triều
Tiên. Chính phủ Hoa Kỳ đã thành công trong việc kiềm chế, nhưng việc đó làm họ không
thành công trong mục tiêu bình định lực lượng cộng sản. Các đồng minh lớn của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa là Liên Xô, Trung Quốc cũng quyết tâm theo đuổi giúp cho nước
này chiến đấu chống Hoa Kỳ. Họ thấy đây là cơ hội rất tốt để làm Hoa Kỳ sa lầy tại Việt
Nam. Trong lúc đó, các cường quốc này vươn lên và tranh chấp ngôi vị lãnh đạo thế giới.
Việc các lực lượng quốc gia hoan nghênh đưa quân đội Hoa Kỳ vào miền Nam Việt Nam
đã phần nào đẩy lui lực lượng cộng sản và mở ra một hy vọng chiến thắng nhưng, đồng
thời, từ đó chính phủ Việt Nam Cộng hòa luôn phải tham khảo ý kiến của đồng minh Hoa
Kỳ trước khi ra quyết định. Họ hiếm khi đưa ra chính sách lớn, họ còn thậm chí không
được tham khảo ý kiến về quyết định của Mỹ năm 1965 đưa một lực lượng lớn quân vào
tham chiến trên bộ.[80]

Sự leo thang chiến tranh của Hoa Kỳ

Chính vì những tế nhị chính trị như vậy nên sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ đã diễn ra
theo cách leo thang dần. Đầu tiên họ cho rằng không cần tham chiến vẫn có thể giải quyết
chiến tranh nếu ngăn chặn được nguồn tiếp tế của miền Bắc. Hoa Kỳ ra sức ép nếu miền
Bắc không chấm dứt tiếp tế cho lực lượng cộng sản miền Nam thì sẽ phải đối mặt với
việc bị ném bom. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bất chấp sức ép của Hoa Kỳ và
tiếp tục tiếp tế vào miền Nam. Sự kiện Vịnh Bắc Bộ vào tháng 8 năm 1964 dẫn tới việc
Quốc hội Hoa kỳ đã uỷ nhiệm cho chính phủ Hoa Kỳ tiến hành mọi hoạt động chiến
tranh nếu thấy cần thiết mà không cần có sự phê chuẩn của Quốc hội. Ngay sau đó, Hoa
Kỳ bắt đầu các cuộc ném bom miền Bắc. Để duy trì việc ném bom, Hoa Kỳ phải đưa máy
bay và lính không quân vào các sân bay tại miền Nam, lập các căn cứ tại đó. Điều này
dẫn đến việc lực lượng cộng sản tiến công các sân bay.

Để bảo vệ các căn cứ trong sân bay, Hoa Kỳ cần gửi thêm thủy quân lục chiến. Sau đó lại
xuất hiện vấn đề phải phòng thủ từ xa và, cuối cùng, là phải tìm-diệt đối phương sâu
trong các căn cứ của họ. Thế là quân Mỹ đã dần dần trực tiếp đánh thay cho Việt Nam
Cộng hòa, và quân đội của quốc gia này dần dần chỉ còn là lực lượng giữ an ninh tại các
vùng họ kiểm soát.

Miền Bắc và chiến tranh không quân


Tốp máy bay F105 Của Không quân Mỹ đang oanh tạc Bắc Việt Nam 1966

Nữ dân quân Hà Tĩnh Nguyễn Thị Kim Lai bắt phi công Mỹ nhảy dù

Bắt đầu từ tháng 8 năm 1964 miền Bắc đã phải đối phó với chiến tranh trên không rất ác
liệt của Không quân và Hải quân Hoa Kỳ. Đầu tiên là chiến dịch Mũi Tên Xuyên (Pierce
Arrow) ngày 5 tháng 8 năm 1964, hành động trả đũa sự kiện Vịnh Bắc Bộ[81] do máy bay
của Hải quân Mỹ thực hiện, đánh phá các căn cứ hải quân của Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ở Lạch Trường (Thanh Hóa), Bãi Cháy (Hòn Gai). Tại Bãi Cháy, bộ đội cao xạ
phòng không đã chủ động đánh trước khi máy bay Mỹ oanh kích. Hai máy bay Mỹ loại
A-4 Skyhawk bị bắn rơi. Phi công Mỹ Everett Alvarez nhảy dù xuống biển đã bị dân chài
bắt sống, trở thành người tù binh Mỹ đầu tiên trong Chiến tranh Việt Nam[82]. Tiếp đến là
chiến dịch Sấm Rền đầu năm 1965 đánh phá các tỉnh từ Thanh Hóa trở vào, sau đó chiến
tranh không quân lan rộng ra toàn miền Bắc Việt Nam. Để đề phòng các phản ứng của
quốc tế, Không quân Mỹ chỉ chừa lại nội thành hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng mà
thôi. Chiến tranh không quân nhắm vào hệ thống đường xá giao thông và các mục tiêu
công nghiệp, quân sự. Thậm chí các trạm biến thế điện nhỏ, các nhánh đường sắt phụ
cũng bị đánh. Bị đánh phá nặng nhất là tại khu vực hai tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, là
cuống họng tiếp tế vào Nam, và tại khu vực Vĩnh Linh giáp sông Bến Hải - nơi dân
chúng phải sống trong địa đạo.

Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thoả thuận với chính phủ Trung Quốc đưa một
bộ phận quân đội Trung Quốc vào miền Bắc Việt Nam đóng ở những vị trí quan trọng về
chiến lược như tỉnh Quảng Ninh, Thái Nguyên và dọc đường Quốc lộ 1 đến phía nam Hà
Nội, vừa để giúp Việt Nam làm đường vừa để thị uy với Hoa Kỳ đừng mang quân đổ bộ
ra Bắc vì sẽ phải đánh nhau với quân Trung Quốc. Tổng số quân Trung Quốc đã có mặt
tại miền Bắc từ tháng 6 năm 1965 đến tháng 3 năm 1973 là gần 320.000 người. Tại mỗi
thời điểm, đông nhất có khoảng 130.000 người, bao gồm các đơn vị tên lửa đất đối
không, pháo phòng không, các đơn vị công binh làm đường, dò mìn, và vận tải[8].

Việc ném bom miền Bắc khó có thể đánh sụp được tiềm lực chiến tranh của miền Bắc vì
xã hội miền Bắc là xã hội nông nghiệp lạc hậu không có nhiều các mục tiêu công nghiệp
lớn. Mọi nguồn lực chiến tranh được các nước cộng sản bên ngoài cung cấp. Ở điều kiện
miền Bắc Việt Nam, chiến tranh không quân sẽ chỉ có tác dụng lớn nếu như nó đánh gẫy
được ý chí của nhân dân miền Bắc.

Cuộc sống của người dân miền Bắc đã khó khăn lại càng căng thẳng, ngay cả bộ đội cũng
bị thiếu ăn. Ở thành thị, dân chúng phải tản cư về nông thôn để tránh bom, nhu yếu phẩm
cho dân thành thị được bán theo chế độ tem phiếu rất nghiêm ngặt. Ở nông thôn, ngoài số
thực phẩm tối thiểu được để lại để nuôi sống gia đình, tất cả các nông phẩm phải đưa hết
vào kho cho nhu cầu quốc phòng. Nông thôn gần như không thấy nam thanh niên. Nữ
thanh niên vừa lao động sản xuất vừa phải tham gia vào lực lượng dân quân tự vệ bảo vệ
trật tự và tham gia huấn luyện quân sự, bắn máy bay. Chính phủ đã huy động hàng vạn nữ
thanh niên đi Thanh niên xung phong sinh hoạt tập trung như bộ đội vào tuyến lửa tại các
tỉnh bị đánh phá nặng nề nhất như Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, và vào tuyến đường
Trường Sơn, sang Lào để làm nhiệm vụ hậu cần, làm đường và đảm bảo giao thông. Số
này bị thương vong vì bom đạn và bệnh tật rất nhiều. Để bảo đảm dân số và tôn trọng tín
ngưỡng người Việt là để lại con cháu nối dõi tông đường, người ta cố gắng tạo điều kiện
cho thanh niên lấy vợ sớm trước khi nhập ngũ. Nhà nước tìm mọi cách nâng cao tinh thần
của dân chúng cho kháng chiến. Tất cả mọi người đều phải tham gia các tổ chức quần
chúng của Đảng Lao động Việt Nam như Đoàn thanh niên, Đội thiếu niên, Hội phụ lão,
Hội phụ nữ, Hội vợ chiến sĩ, Hội mẹ chiến sĩ... các hội này thực hiện các chỉ thị của Đảng
để giữ vững tinh thần và niềm tin trong dân chúng và thi hành các đường lối của Đảng
trong dân. Những tin tức ác liệt của chiến trường, số thương vong nặng nề ở miền Nam
và chết bom ở miền Bắc không được công bố hoặc với số lượng giảm đi rất nhiều, chủ
yếu trên thông tin báo đài là các tin chiến thắng lẫy lừng.

Người ta cố gắng xây dựng và nhân rộng các điển hình của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng bằng cách đưa những người có chiến công thật đi tuyên truyền, kể chuyện chiến
thắng, chưa có chiến công thì hư cấu thành chiến công. Ngành nào, địa phương nào cũng
phải có chiến công anh hùng cách mạng. Nói chung, tinh thần của người dân miền Bắc
vẫn cao, họ vẫn có thể chấp nhận hy sinh cao hơn nữa để theo đuổi chiến tranh.

Lực lượng phòng không của Quân đội Nhân dân Việt Nam không thể đua tranh với
Không quân và Hải quân Hoa Kỳ nên họ chỉ dồn sức bảo vệ các mục tiêu thật quan trọng
như Hà Nội, Hải Phòng, các thành phố lớn, các điểm giao thông quan trọng và các nơi
máy bay địch hay qua lại nhiều. Những nơi còn lại được phân cho các lực lượng dân quân
tự vệ trang bị pháo và súng máy phòng không đảm trách. Đến năm 1965, lực lượng
phòng không của miền Bắc có trang bị khá hiện đại do Liên Xô cung cấp, gồm nhiều
trung đoàn pháo phòng không các tầm cỡ điều khiển bằng radar. Hệ thống radar cảnh giới
và dẫn đường cho không quân. Hệ thống tên lửa phòng không và không quân tiêm kích.
Các lực lượng phòng không không quân của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã chiến đấu
khá sáng tạo, vô hiệu hóa được các thủ thuật chiến tranh điện tử và chống trả quyết liệt
với Không quân và Hải quân Hoa Kỳ.

Các chiến dịch tìm-diệt

Ngay sau khi quân đội Hoa Kỳ đổ bộ vào miền Nam Việt Nam tình hình chiến sự thay
đổi có lợi cho phía Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Quân Giải phóng miền Nam bị đẩy lui
vào thế thủ, bị không quân và kỵ binh bay của Mỹ truy đuổi. Các đơn vị lớn phải rời bỏ
vùng đồng bằng trống trải để lui về miền núi và nơi có rừng. Ở đồng bằng họ chỉ để lại
các đơn vị nhỏ và phát động chiến tranh nhân dân đánh du kích.

Nông dân bị tình nghi là cộng sản

Tháng 11 năm 1965 đã xảy ra một trận đánh rất ác liệt tại vùng thung lũng sông Ia Drang,
gần biên giới Campuchia thuộc tỉnh Kon Tum. Một trung đoàn chính quy Quân Qiải
phóng miền Nam và một lữ đoàn thuộc Sư đoàn 1 Kỵ binh bay của Mỹ đã dàn quân đánh
nhau để thử sức. Thực chất đây là hai trận đánh liên tiếp, trận Xray và trận Albany, diễn
ra trong bốn ngày đêm. Mỗi bên thắng một trận, hai bên đều bị thương vong nặng, và tuy
cùng tuyên bố thắng lợi, đều biết được thực lực đối phương là đáng gờm. Sau trận này
phía cộng sản nhận thức được ưu thế áp đảo quân sự của quân Mỹ. Phía Mỹ có hoả lực
cực mạnh và tổ chức chiến đấu hoàn hảo. Đặc biệt có yểm trợ không quân rất hiệu quả
mà vũ khí khủng khiếp nhất của họ là máy bay B52, bom napal và trực thăng vũ trang,
nên từ đó Quân Qiải phóng miền Nam bỏ tham vọng đánh tiêu diệt các đơn vị cấp đại
đội, tiểu đoàn; họ tránh đánh những trận dàn quân xung phong mà chỉ áp dụng chiến
thuật đánh tập kích. Quân của họ luôn bám sát những toán quân Mỹ nhưng không giao
chiến, chỉ khi đối phương dựng trại nghỉ ngơi hoặc sơ hở thì họ tập kích hoặc phục kích,
đánh xong nhanh chóng rời chiến trường. Một khi xung phong thì luôn áp sát đánh gần để
không cho đối phương sử dụng pháo binh và không quân. Dù rất hiện đại nhưng quân đội
Mỹ không quen chiến đấu trong địa hình rừng núi quen thuộc của đối phương, nơi mà vũ
khí của họ không phát huy hết tác dụng. Quân Mỹ "tìm-diệt" nhưng chẳng thấy địch đâu
tuy bất cứ lúc nào họ cũng có thể xuất hiện.

Trong hai năm 1966 và 1967 chiến sự giữa hai bên diễn ra chủ yếu tại miền Đông Nam
Bộ, nơi có các căn cứ và kho tàng lớn của lực lượng cộng sản. Bộ chỉ huy chiến trường
của Mỹ đã tung ra ba chiến dịch lớn để đánh vào các căn cứ này, đó là các chiến dịch:

1. Chiến dịch Cedar Falls – đánh vào khu Tam giác sắt Củ Chi, nơi có hệ thống địa
đạo mà lực lượng cộng sản dùng làm bàn đạp thâm nhập Sài Gòn;
2. Chiến dịch Attleboro – đánh vào chiến khu Dương Minh Châu; và
3. Chiến dịch Junction City – đánh vào chiến khu C của Quân Qiải phóng miền
Nam.

Đặc biệt là chiến dịch Junction City, khi Mỹ định đánh một trận lớn để diệt gọn cơ cấu
lãnh đạo chiến tranh của lực lượng cộng sản miền Nam tại vùng rừng Tây Ninh. Bao vây
và đánh vào khu căn cứ đầu não của Trung ương cục Đảng Lao động Việt Nam, Mặt trận
Dân tộc Giải phóng và Quân Giải phóng. Các cuộc tiến công tuy đã huy động rất lớn các
lực lượng của Mỹ nhưng không đem lại kết quả: các cơ cấu lãnh đạo, kho tàng, căn cứ
của lực lượng cộng sản vẫn an toàn, quân Mỹ bị tiến công liên tục, trong thế trận đối
phương đã bày sẵn, trong địa bàn quen thuộc của đối phương và phải bỏ dở các cuộc
hành quân. Đến cuối năm 1967, tuy đẩy lui chủ lực Quân giải phóng tại vùng đồng bằng,
nhưng quân Mỹ vẫn không bình định được lực lượng này trong vùng rừng núi miền Nam
Việt Nam.

Để xoay chuyển tình thế tạo đột phá cho cuộc chiến tranh, Bộ chính trị Đảng Lao động
Việt Nam tại Hà Nội quyết định mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm
1968.

Sự kiện Tết Mậu Thân

Bài chi tiết: Sự kiện Tết Mậu Thân

Vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968 lực lượng cộng sản tung ra trận Tổng tiến công và nổi
dậy khắp miền Nam, đánh vào hầu hết các thành phố, thị xã và các căn cứ quân sự của
đối phương. Đây là một sự kiện gây chấn động trên thế giới và gây nhiều bàn cãi nhất về
Chiến tranh Việt Nam, sự kiện có một vai trò to lớn trong cuộc chiến tranh này.

Nắm được điểm yếu của phía Mỹ là dư luận của cả nhân dân và chính giới tại Mỹ ngày
càng trở nên thiếu kiên nhẫn và phong trào phản chiến ngày càng lên mạnh[83] không cho
phép quân đội tham chiến quá lâu tại nước ngoài mà không có được một tiến bộ rõ rệt
khả dĩ cho phép rút quân về nước, Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam hoạch định một
trận đánh gây tiếng vang lớn ("Một cú đập lớn để tung toé ra các khả năng chính trị" – Lê
Duẩn) nhằm buộc Mỹ xuống thang chiến tranh đi vào đàm phán. Trong thực tế, vào tháng
1-1968, tình báo của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã thu thập được các tài liệu nói về
cuộc tổng tấn công sắp tới của lực lượng cộng sản. Tuy vậy, họ cho rằng đây chỉ là tài
liệu do đối phương tung ra để làm nghi binh và không đáng tin cậy. Westmoreland, tổng
chỉ huy quân đội Mỹ tại Việt Nam, nhận định Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ tấn công
vào mùa khô với các trọng điểm là Quảng Bình, Quảng Trị và Khe Sanh. [84] Hầu hết
người Mỹ và đồng minh Việt Nam Cộng hòa của họ hoàn toàn bất ngờ và bị động trước
cuộc tấn công này.

Cuộc tiến công đã đồng loạt nổ ra vào đêm 30 Tết Mậu Thân, tức ngày 30 tháng 1 năm
1968, trên khắp các đô thị miền Nam. Ngay đêm đầu tiên, lực lượng biệt động Sài Gòn đã
nhằm vào các mục tiêu khó tin nhất trong thành phố[85]: Toà Đại sứ quán Mỹ, dinh Tổng
thống, Đài phát thanh, Bộ Tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất... Sau đó quân tiếp ứng
thẩm thấu vào thành phố tiếp quản các mục tiêu và tham gia chiến đấu. Cuộc tiến công đã
gây bất ngờ lớn[85] cho phía Mỹ và Việt Nam Cộng hòa.

• Bất ngờ về mục tiêu và thời điểm tiến công: 10 ngày trước, hai sư đoàn Quân đội
Nhân dân Việt Nam đã có hành động nghi binh bằng cách tấn công căn cứ của
lính thuỷ đánh bộ Mỹ tại Khe Sanh làm bộ chỉ huy Mỹ tập trung tâm trí và binh
lực lên miền núi Quảng Trị để tránh một trận Điện Biên Phủ mới[86]. Việc lực
lượng cộng sản tiến công vào các đô thị không hề được lường trước làm cho Quân
lực Việt Nam Cộng hòa và Mỹ hoàn toàn bất ngờ khi một bộ phận sĩ quan và binh
lính (kể cả Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu) đang về quê nghỉ Tết Nguyên đán.
• Bất ngờ về quy mô tiến công: cuộc tiến công làm sửng sốt mọi người khi mà đồng
loạt tại tất cả các đô thị cùng diễn ra các trận đánh quyết liệt trong gần một tháng
(chỉ riêng đợt 1) và điều bất ngờ này cho thấy 3 năm tìm-diệt của quân đội Hoa
Kỳ chỉ đạt được hiệu quả thấp.

Nguyễn Ngọc Loan (tướng cảnh sát Việt Nam Cộng Hòa) bắn chết tù binh cộng sản ngay
trên đường phố trong Sự kiện Tết Mậu Thân

• Bất ngờ về độ sát thương bạo liệt không khoan nhượng: từng dãy phố bị ném bom
napal, quân hai bên có lúc, có nơi đánh nhau như điên dại, tràn lan mức độ giết
chóc và trả thù, hành quyết ngay trên phố (Xem Sự kiện Nguyễn Ngọc Loan)...
Những điều này được truyền thông nhanh chóng, gây ấn tượng rất lớn lên tâm lý
dư luận thế giới[87].
• Về mặt tác chiến trong số các đô thị, lực lượng cộng sản thành công nhất tại cố đô
Huế (Xem Thảm sát Huế Tết Mậu Thân). Họ chiếm giữ thành phố 25 ngày và sau
đó đánh nhau ác liệt giành giật từng khu nhà đoạn phố với thủy quân lục chiến
Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Để khuếch đại tiếng vang đến mức tối đa, các lãnh đạo cộng sản đã lựa chọn phương án
mạo hiểm nhất là đánh thẳng vào hậu phương của đối phương. Trong việc lập kế hoạch
cho cuộc tổng tiến công, họ đã có những đánh giá không đúng với thực tế tình hình và
duy ý chí: họ hy vọng cùng với tiến công quân sự đánh vào các lực lượng Việt Nam Cộng
hòa ở trong các đô thị, họ có thể phát động dân chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa đánh sụp
chính quyền Việt Nam Cộng hòa và đặt Mỹ trước tình thế phải đi đến quyết định ra đi
khỏi chiến tranh. Kế hoạch trên dựa trên nhận định thấp về khả năng của Quân lực Việt
Nam Cộng hòa và đánh giá quá cao khả năng của Quân Giải phóng miền Nam, nên trong
thực tế Quân Giải phóng đã phải chịu thương vong cực kỳ to lớn mà không phát động
được khởi nghĩa của người dân; chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn đứng vững.

Một đặc điểm nữa[85] của việc lập kế hoạch tiến công Mậu Thân 1968 là các cấp chỉ huy
chiến đấu của Quân Giải phóng miền Nam đã không tách bạch được đâu là mục tiêu
chính trị thực chất của cuộc tiến công và đâu là mục tiêu được phổ biến rộng rãi trong
quân để cổ vũ khí thế chiến đấu. Mục tiêu thực chất là đánh lớn gây tiếng vang hướng tới
dư luận và chính giới Mỹ để buộc đối phương xuống thang, đàm phán. Còn mục tiêu
chính trị được phổ biến tuyên truyền trong cán bộ binh sĩ để nâng cao sĩ khí là đó là trận
cuối cùng "đánh dứt điểm" đối phương. Các cán bộ chiến trường khi lập kế hoạch tác
chiến cũng tin tưởng vào quyết tâm đánh dứt điểm của cấp trên nên họ lập kế hoạch và
tiến hành đánh theo kiểu trận đánh cuối cùng. Điều này làm cho các thiệt hại của Quân
Giải phóng càng thêm nặng nề.

Điều tệ hại hơn nữa cho Quân Giải phóng là họ đã không linh hoạt thay đổi tuỳ theo tình
hình[85][88]. Khi thấy chưa đạt được mục tiêu trong đợt tấn công đầu tiên họ đã phát động
tiếp đợt 2 vào tháng 5, đợt 3 vào tháng 8 khi mà kế hoạch đã bại lộ và đối phương đã đề
phòng và chuẩn bị đón đánh, làm cho thiệt hại của mình càng to lớn hơn nữa.

Sau Tổng tiến công Mậu Thân, Quân Giải phóng bị đẩy ra xa và suy yếu trầm trọng[83]:
Các đơn vị quân sự chịu thương vong lớn, các lực lượng chính trị bị bộc lộ và bị triệt phá
gần hết, thương vong cao hơn hẳn những năm trước. Thậm chí đã có ý kiến trong giới
lãnh đạo Quân Giải phóng là cho giải tán các sư đoàn, trung đoàn chính quy quay trở về
lối đánh du kích. Họ không còn khả năng đánh lớn tại miền Nam và phải rút lui về các
chiến khu tại vùng nông thôn, miền núi hoặc đi ẩn náu tại bên kia biên giới Lào và
Campuchia, phải 3–4 năm sau lực lượng của họ mới hồi phục lại được. Trong các năm
sau Mậu Thân, từ 1969 đến 1971, là thời gian Quân lực Việt Nam Cộng hòa chủ động
tiến công lùng đánh lực lượng cộng sản, triệt phá phong trào chính trị của Mặt trận Dân
tộc giải phóng miền Nam ở nông thôn và thành thị. Đó là cơ sở để giới quân sự Mỹ và
Việt Nam Cộng hòa cho rằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã thất bại.

Mặt khác, những người cộng sản cũng có lý do để cho rằng Mậu Thân 1968 là thắng lợi
có tính chiến lược trong chiến tranh của họ[83]: bắt buộc Mỹ phải xuống thang và bắt đầu
rút khỏi Việt Nam. Lực lượng quân Giải phóng suy yếu thì sẽ hồi phục lại, còn Mỹ một
khi đã ra đi thì khó mà trở lại được.
Cuộc tổng tiến công đã làm dư luận Mỹ thấy rằng việc đưa quân tham chiến với nỗ lực
cao đã làm căng thẳng trong xã hội Mỹ, phúc lợi giảm sút, gây nhiều hệ luỵ xấu cho xã
hội... mà vẫn không dứt điểm được quân đối phương, và trong tương lai chiến tranh
không biết đến bao giờ kết thúc[83]. Điều này đưa đến kết luận là Mỹ không thể thắng được
trong cuộc chiến này. Các chính trị gia trong Quốc hội Mỹ gây sức ép lên chính phủ đòi
xem xét lại cam kết chiến tranh, đòi huỷ bỏ uỷ quyền cho chính phủ tiến hành chiến tranh
không cần phê chuẩn, thúc ép giải quyết chiến tranh bằng thương lượng[89].

Quy mô của cuộc tiến công làm dư luận Hoa Kỳ mất kiên nhẫn và sự tin tưởng với giới
quân sự, họ đòi chấm dứt chiến tranh và rút quân về nước[89]. Một mặt họ thiếu niềm tin
vào hiệu quả của quân đội, mặt khác, các hành động bạo liệt mất nhân tính được trình
chiếu trên TV đánh vào lương tâm công chúng (Xem Thảm sát Mỹ Lai, Saigon
Execution). Họ đòi hỏi phải chấm dứt chiến tranh ngay lập tức. Họ coi chiến tranh là bẩn
thỉu.

Sơn Mỹ, Quảng Ngãi, Nam Việt Nam 1968

Ngay các nhà lãnh đạo chính phủ Hoa Kỳ cũng chia rẽ trong quan điểm sẽ làm gì tiếp
theo[89]. Các cố vấn hàng đầu của tổng thống và ngay Tổng thống Johnson thoái chí đi đến
kết luận không thể tăng quân thêm nữa theo yêu cầu của giới quân sự mà phải xuống
thang, đàm phán.

Kết quả ngày 31 tháng 3 năm 1968 Tổng thống Lyndon B. Johnson tuyên bố chấm dứt
ném bom miền Bắc Việt Nam, sẵn sàng đàm phán để chấm dứt chiến tranh, không tăng
thêm quân theo yêu cầu của Bộ chỉ huy chiến trường, và từ chối tranh cử nhiệm kỳ tới.
Tổng thống Richard M. Nixon, thắng cử vì hứa chấm dứt chiến tranh, tuyên bố sẽ dần rút
quân về nước và đàm phán với phía Cộng sản. Vấn đề của Mỹ bây giờ không còn là chiến
thắng cuộc chiến nữa mà là rút ra như thế nào.

Tất cả những điều trên làm cho những người cộng sản thấy rằng họ đã đạt được mục tiêu
của cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968 cho dù với giá hy sinh cực kỳ to lớn.

Hậu quả quân sự và chính trị

Cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968 đã dẫn đến các kết quả chính trị và quân sự cho cả
thời kỳ 1969–1971[89][83].
• Về quân sự: lực lượng cộng sản mất quân, mất đất, mất dân, mất thế đứng chân
tại nhiều nơi trên chiến trường miền Nam, họ phải rút về các vùng nông thôn,
rừng núi hoặc sang ẩn tránh tại các vùng bên kia biên giới tại Lào và Campuchia.
Chiến trường miền Nam trở nên yên tĩnh hơn. Quân lực Việt Nam Cộng hòa có
thời giờ xây dựng và tiến hành các chiến dịch bình định nông thôn đặc biệt là
chiến dịch Phượng hoàng để đánh bật gốc rễ các cán bộ cộng sản nằm vùng trong
nông thôn miền Nam.

• Về chính trị: Vai trò của đấu tranh chính trị của những người cộng sản trong
chiến tranh từ nay suy giảm đi nhiều vì các cơ sở chính trị của họ bị phá và với sự
ác liệt không khoan nhượng của chiến tranh ở giai đoạn này không cho phép dân
chúng tụ tập trên chiến trường để yêu sách chính trị. Từ đó trở đi sức mạnh vũ
trang quyết định tất cả.

Từ sau Mậu Thân trở đi, quyền lực tiến hành chiến tranh của Tổng thống Mỹ càng ngày
càng bị hạn chế bởi Quốc hội và dư luận trong nước và quốc tế. Sự rút quân về nước là
không thể đảo ngược và chiến tranh Việt Nam đi vào giai đoạn mới mà chính quyền và
quân đội Việt Nam Cộng Hòa phải đơn độc chiến đấu bảo vệ chế độ "tự do" ở miền nam
Việt Nam – Việt Nam hóa chiến tranh là không thể tránh khỏi.

Giai đoạn 1968–1972

Biên giới Việt Nam – Campuchia 1970

Xe tăng tiến vào thị trấn Snoul, biên giới Việt Nam-Campuchia năm 1970

Đây là giai đoạn "sau Mậu Thân" hay giai đoạn "Việt Nam hóa chiến tranh", giai đoạn
Hoa Kỳ rút dần khỏi chiến trường Việt Nam. Để đồng minh của họ đứng vững, Hoa Kỳ
giúp Việt Nam Cộng hòa xây dựng quân đội theo hình mẫu của quân lực Hoa Kỳ, với các
loại vũ khí chiến tranh tối tân mà Hoa Kỳ để lại và với cơ sở hậu cần chiến tranh mà quân
đội Hoa Kỳ đã sử dụng. Hoa Kỳ sẽ yểm trợ về không lực tối đa cho quân đội Cộng hòa
trong các giao tranh với phía Cộng sản.

Một sự kiện quan trọng đã xảy ra trong thời kỳ này và có hậu quả to lớn cho Đông Dương
sau này là việc Hoa Kỳ giúp Lon Nol làm đảo chính tháng 3 năm 1970 ở Campuchia, lật
đổ hoàng thân Norodom Sihanouk và phát động chiến tranh chống cộng sản tại
Campuchia.

• Xem: Chiến dịch Campuchia

Thắng lợi tạm thời trên chiến trường sau Mậu Thân đã dẫn Hoa Kỳ đến sai lầm nặng
nề[cần dẫn nguồn] này, tạo điều kiện cho Quân giải phóng mau chóng hồi phục và làm cho
Campuchia rơi vào một thời kỳ tồi tệ trong lịch sử. Thấy Quân Giải phóng mất đất đứng
chân, lui về các căn cứ bên kia biên giới Campuchia, Hoa Kỳ muốn triệt hạ nốt những
chỗ đứng cuối cùng của đối phương để giải quyết triệt để chiến tranh. Điều này hóa ra lại
làm lợi lớn cho lực lượng cộng sản. Trước đây Quân Giải phóng chỉ đóng trên đất
Campuchia ở một số vùng sát biên giới với Việt Nam, họ cố gắng lôi kéo, chiều lòng
chính quyền Sihanouk và tự kiềm chế để không mất lòng chủ nhà. Chính quyền Sihanouk
tuy không muốn nhưng không làm gì được đành chấp nhận phải sống như vậy với phe
Cộng sản Việt Nam. Nay với diễn biến chính trị như trên, Cộng sản Việt Nam liền quay
ra mang tiếng ủng hộ Sihanouk, thực chất là ủng hộ Khmer Đỏ[cần dẫn nguồn], đánh nhau
không hạn chế trên đất Campuchia. Từ lúc đó, không còn gì và không có đối thủ kiềm
chế lực lượng cộng sản Việt Nam trên đất Campuchia nữa. Campuchia trở thành nơi rất
an toàn và tiện dụng cho Quân giải phóng phục hồi sinh lực sau Mậu Thân.

Ngày 30 tháng 4 năm 1970, Quân lực Việt Nam Cộng hòa kết hợp cùng quân đội Hoa Kỳ
tiến vào khu căn cứ của lực lượng cộng sản Việt Nam tại Campuchia nhưng đã bị sa lầy.
Ngày 30 tháng 6 năm 1970, chính phủ Mỹ phải ra lệnh rút quân Mỹ về. Quân lực Việt
Nam Cộng hòa cùng quân của chính phủ Lon Nol không thể tự đương đầu với Quân Giải
phóng. Các sư đoàn 5, 7, 9 của Quân Giải phóng không những đánh đuổi quân Việt Nam
Cộng hòa mà còn giúp Khmer Đỏ đánh quân chính phủ Lon Nol, giành các tỉnh Đông và
Đông Bắc Campuchia để nối thông với Lào.

Việt Nam hóa chiến tranh

Tiến trình Việt Nam hóa chiến tranh đã diễn ra tương đối thuận lợi. Quân lực Việt Nam
Cộng hòa sau Mậu Thân được trang bị theo kiểu Mỹ đã tỏ ra tự tin hơn và đã làm chủ
trên chiến trường miền Nam từ năm 1969 đến tận cuối năm 1971. Nhưng điều đó chưa
nói lên điều gì lớn vì Quân Giải phóng trong thời kỳ này chưa hồi phục sau Mậu Thân và
không chủ trương đánh lớn. Cũng có thể họ yên lặng mà không làm gì có thể trì hoãn
việc rút quân của Mỹ.

Sự yên tĩnh trên chiến trường miền Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc rút quân Mỹ
mà không gây ra một sự xấu đi trầm trọng nào. Tranh thủ thời gian yên tĩnh trên chiến
trường, phía Việt Nam Cộng hòa đổ công tiến hành bình định nông thôn. Từ đó, các nhà
lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa và Mỹ đã hiểu rất rõ tầm quan trọng của việc chống lại cơ
cấu đấu tranh chính trị của những người cộng sản ở địa bàn nông thôn. Một chương trình
lớn tái thiết nông thôn được thi hành với viện trợ kinh tế lớn của Hoa Kỳ. Trong thời kỳ
này, với sự giúp đỡ của CIA, Chiến dịch Phượng hoàng đã được triển khai nhằm tróc rễ
các cơ sở bí mật nằm vùng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Các nỗ
lực của Phượng hoàng chủ yếu diễn ra bằng các biện pháp khủng bố, ám sát, thủ tiêu. Các
toán nhân viên Phượng hoàng áo đen được CIA huấn luyện và được phái xuống các xóm
ấp, họ ở cùng trong dân nghe ngóng thu thập tình báo, bắt các phần tử nghi ngờ là cộng
sản hoặc thân cộng sản, tra khảo để phanh ra tổ chức, nếu không khai thác được và vẫn
nghi là Cộng sản thì thủ tiêu. Các phần tử cộng sản hoặc thân cộng sản nếu không tiện bắt
thì ám sát. Số người bị thủ tiêu lên đến hàng ngàn người. Các biện pháp này đã có hiệu
quả tốt về an ninh, tình hình nông thôn trở nên được đảm bảo an toàn hơn rõ rệt cho phía
chính phủ.

Trong thời kỳ này, viện trợ của Hoa Kỳ dồi dào nên đời sống của dân chúng trở nên tốt
hơn, nhất là dân trong các thành phố lớn và nó làm cho đời sống dân nông thôn đổ về
thành phố tị nạn dễ thở hơn. Lúc này, tình trạng tham nhũng trong chính quyền và quân
đội lên cao. Trong quân đội rất phổ biến kiểu "lính ma": có quân số để sĩ quan lĩnh lương
nhưng không có quân chiến đấu. Những điều này gây ảnh hưởng lớn đến sức chiến đấu
của Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Một vấn đề lớn nữa của Việt Nam hóa chiến tranh là khi Quân lực Việt Nam Cộng hòa
nhất nhất theo các tiêu chuẩn Mỹ thì họ cũng quen kiểu đánh nhau tốn tiền như Mỹ, và
sức chiến đấu của quân đội phụ thuộc lớn vào viện trợ của Mỹ[90]. Viện trợ kém thì ảnh
hưởng rõ rệt đến sức chiến đấu của quân đội, điều này góp phần giải thích tại sao quân
đội này mau chóng sụp đổ trong năm cuối cùng của cuộc chiến.

Chiến dịch Lam Sơn 719

Tình hình miền Nam tương đối yên lặng trong các năm 1969–1971. Quân Giải phóng tích
cực dự trữ lương thực, đạn dược tại các căn cứ ở Lào, Campuchia và các vùng rừng núi
mà Quân lực Việt Nam Cộng hòa chưa với tới được. Năm 1970, sau khi quân đội Mỹ và
Việt Nam Cộng hòa đã thất bại trong việc đánh phá căn cứ của phe cộng sản tại
Campuchia, tiếp tế từ miền Bắc đã nối thông từ Lào đến Đông Bắc Campuchia và đổ vào
các khu căn cứ Tây Ninh. Do đó, nếu không cắt được tiếp tế cho Quân Giải phóng ở
Campuchia thì có thể cắt tiếp tế từ Lào. Và tháng 1 năm 1971, Quân lực Việt Nam Cộng
hòa, dưới sự yểm trợ bằng không quân của Hoa Kỳ, tiến hành chiến dịch Lam Sơn 719:
đánh từ Quảng Trị cắt ngang sang Hạ Lào nhằm phá huỷ hệ thống kho tàng của Quân
Giải phóng. Cuộc hành quân này ngay từ đầu đã mang tính phiêu lưu phô trương chính trị
và đã thất bại vì những lý do sau

• Cuộc hành quân không bảo đảm tính bất ngờ.


• Các căn cứ của Cộng sản là những nơi họ đã lâu năm thông thuộc địa bàn và có
bố phòng rất kỹ lưỡng. Ngay quân đội Hoa Kỳ với sức mạnh tổng lực như thế đã
không thể làm gì nổi. Trong thời kỳ tìm-diệt các chiến dịch Atteleboro và Junction
City đều đã thất bại, do đó đưa quân vào đó là sa vào thế trận đã bày sẵn. Hơn nữa
vùng Hạ Lào là nơi tập trung rất nhiều binh lực hiện đại của quân Bắc Việt, còn
mạnh hơn rất nhiều các khu căn cứ khác mà quân Nam Việt Nam chưa có đủ sức
mạnh, kinh nghiệm và bản lĩnh để đương đầu.
• Khi hoạch định kế hoạch người ta chú ý nhiều đến khía cạnh phô trương sức
mạnh của quân đội Nam Việt Nam đánh được vào "đất thánh Cộng sản" chứ ý
nghĩa quân sự thì ít. ("Chỉ cốt sao đến được Sê Pôn rồi về" – Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu.) Chính vì để phô trương nên ban đầu khi gặp khó khăn rất lớn đã
không chấm dứt chiến dịch mà cố gắng tiến nhọc nhằn đến Sê Pôn rồi phải cố sức
mở đường máu với thiệt hại lớn mới về thoát dù chỉ là vài chục km cách biên giới.
• Sự phối hợp của quân Mỹ và quân Nam Việt Nam không tốt. Không quân Mỹ chỉ
ném bom B52 dọn đường theo yêu cầu, còn nhiệm vụ phối hợp hoả lực chiến
thuật cho bộ binh tác chiến gần như không làm được[cần dẫn nguồn].
• Lực lượng máy bay trực thăng vào khu vực đậm đặc phòng không hiện đại đã chờ
sẵn của đường mòn Hồ Chí Minh đã bị thiệt hại quá nặng không thể hoàn thành
nhiệm vụ.

Kết quả cuộc hành quân bị thiệt hại nặng nề nhất là các lực lượng bị tiêu diệt là các đơn
vị dự bị chiến lược tốt nhất của Việt Nam Cộng hòa, cuộc hành quân còn thất bại ở chỗ
tuy có phá được một số kho tàng hậu cần nhưng về cơ bản đã không làm hại gì được cho
hệ thống tiếp tế của Quân Giải phóng.

Sau các cuộc hành quân bất thành của Quân lực Việt Nam Cộng hòa vào Campuchia và
Hạ Lào, đến đầu năm 1972, Quân Giải phóng đã hồi phục sau Mậu Thân và lại tung ra
một đợt tổng tiến công lớn nữa.

Chiến dịch mùa hè 1972 của miền Bắc

Bài chi tiết: Chiến dịch Xuân hè 1972

Xe tăng T-45 của Bắc Việt

Tháng 3 năm 1972 lại xảy ra một nỗ lực nữa của phe cộng sản nhằm làm thoái chí Hoa
Kỳ, buộc họ rút hẳn ra khỏi cuộc chiến. Đây là đòn đánh để kết hợp với nỗ lực ngoại
giao. Quân Giải phóng đã tung ra một cuộc tổng tiến công và nổi dậy chiến lược mùa
xuân năm 1972 (Tuy rằng tên và kế hoạch như vậy nhưng yếu tố "nổi dậy" gần như
không có. Điều đó cho thấy tác dụng của các nỗ lực bình định của Việt Nam Cộng hòa
trong thời gian 1969-1971 là hiệu quả.)
Đây là cuộc tiến công chiến lược gồm các chiến dịch tiến công quy mô lớn, hiệp đồng
binh chủng, tiến công sâu vào hệ thống phòng ngự của Việt Nam Cộng hòa trên ba hướng
chiến lược quan trọng: Trị Thiên, Bắc Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ.

Tại Bắc Tây Nguyên, sau các thắng lợi ban đầu của Quân Giải phóng tại trận Đắc Tô -
Tân Cảnh, chiến sự mau chóng êm dịu trở lại sau khi đội quân này bị chặn lại trong Trận
Kon Tum.

Tại Đông Nam Bộ, ở tỉnh Bình Long sau khi thắng lợi tại Lộc Ninh, Quân Giải phóng
tiến công theo đường 13 để đánh chiếm thị xã An Lộc trong trận An Lộc, dùng xe tăng và
pháo binh dữ dội đánh dàn trận xung phong. Quân lực Việt Nam Cộng hòa quyết tâm cố
thủ thị xã và đưa quân lên ứng cứu. Không quân Mỹ dùng B-52 đánh phá ác liệt các khu
vực tập kết của Quân Giải phóng và gây thiệt hại lớn. Chiến trận xảy ra rất dữ dội tại thị
xã, thương vong của hai bên và của dân chúng rất cao. Nhưng, cuối cùng, Quân Giải
phóng không thể lấy nổi thị xã phải rút đi và sau 3 tháng chiến sự đi vào ổn định. Lần đầu
tiên tại vùng Đông Nam Bộ, xe tăng T-54 và PT-76 của Liên Xô chế tạo xuất hiện, cho
thấy hệ thống tiếp tế của Quân Giải phóng đã hoàn chỉnh vì đã có thể đưa được xe tăng
đến tận chiến trường phía nam.

Trong suốt quá trình diễn ra cuộc chiến tranh, chưa bao giờ miền Bắc và các đồng minh
miền Nam của họ lại phát động một cuộc tiến công ồ ạt dưới sự hỗ trợ của các lực lượng
được trang bị tốt đến như vậy, cuộc tiến công này mạnh hơn bất cứ những gì mà Việt
Nam Cộng hòa có thể tập trung lại được vào mùa xuân năm 1972.[91]

Chiến trường chính của năm 1972 là tại tỉnh Quảng Trị. Tại đây có tập đoàn phòng ngự
dầy đặc của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, nơi tuyến đầu đối chọi với miền Bắc. Cuộc
tiến công của Quân Giải phóng tại Quảng Trị đã thành công to lớn, quân phòng ngự tại
đây hoảng loạn, thậm chí Trung đoàn 56 của Sư đoàn 3 đầu hàng không chiến đấu. Chỉ
sau một tháng và qua 2 đợt tấn công, Quân Giải phóng đã chiếm toàn bộ tỉnh Quảng Trị,
uy hiếp tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế.

Đến lúc đó, việc giữ vững vùng chiếm được và tái chiếm vùng đã mất tại Quảng Trị đã
thành vấn đề chính trị thể hiện ý chí và bản lĩnh của cả hai bên và là thế mạnh để đàm
phán tại Hội nghị Paris. Hoa Kỳ để tỏ rõ ý chí của mình bằng cách từ ngày 16 tháng 4
năm 1972 ném bom trở lại miền Bắc với cường độ rất ác liệt: dùng máy bay B-52 rải
thảm bom xuống Hải Phòng, đem hải quân thả thuỷ lôi phong toả các hải cảng tại miền
Bắc Việt Nam.

Tại chiến trường Quảng Trị, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đem hết quân dự bị ra quyết
tái chiếm thị xã Quảng Trị với sự hỗ trợ tối đa bằng máy bay B-52 của Hoa Kỳ. Quân
Giải phóng quyết tâm giữ vững khu vực thành cổ Quảng Trị của thị xã. Chiến sự cực kỳ
ác liệt, thương vong hai bên rất lớn để tranh chấp một mẩu đất rất nhỏ không dân đã bị
tàn phá hoàn toàn. Sau gần 3 tháng đánh nhau quyết liệt, Quân Giải phóng không giữ nổi
và Quân lực Việt Nam Cộng hòa chiếm được thành cổ và thị xã Quảng Trị. Nhưng, dù có
hỗ trợ của không quân Mỹ, việc tái chiếm thị xã Đông Hà và các vùng đã mất khác là
không thể làm được. Đến cuối năm 1972, chiến trường đi đến bình ổn vì hai bên đã kiệt
sức không thể phát triển chiến sự được nữa.

Cuộc tấn công năm 1972 của Bắc Việt Nam đã không nhận được sự ủng hộ từ 2 đồng
minh chủ chốt là Trung Quốc và Liên Xô trái với mong đợi của Hà Nội do 2 quốc gia này
chỉ mong muốn kết thúc nhanh 1 thỏa ước hòa bình với Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa
tại Paris[92]. Mặc dù chiến dịch không đem đến lợi thế rõ rệt về quân sự nhưng đã làm xã
hội Hoa Kỳ quá mệt mỏi. Dư luận Mỹ và thế giới thúc ép chính quyền phải đạt được một
nền hòa bình bằng thương lượng theo đúng cam kết giải quyết chiến tranh trong nhiệm kỳ
tổng thống của họ. Đến cuối năm 1972, Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đạt
được thoả hiệp cơ bản những ý chính của Hiệp định Paris, và đầu năm 1973, Hoa Kỳ rút
hẳn khỏi cuộc chiến.

Vừa đánh vừa đàm

Đọc bài chính:Hiệp định Paris 1973 để tham khảo về các nguồn dẫn chứng tương
ứng.

Việc đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt Nam là việc phải xảy ra khi chẳng ai dứt điểm
được ai bằng quân sự. Sau Mậu Thân, các bên đã ngồi vào thương lượng cho tương lai
chiến tranh Việt Nam. Việc thương lượng đã diễn ra rất phức tạp vì, một mặt, các bên
chưa thật sự thấy cần nhượng bộ và, mặt khác, Liên Xô và Trung Quốc muốn can thiệp
vào đàm phán – đặc biệt là Trung Quốc. Nước này không muốn Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa tự đàm phán mà muốn thông qua Trung Quốc giống như hiệp định Geneva năm
1954. Nhưng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cự tuyệt dù bị áp lực bởi hai đồng minh.

Hội đàm được chọn tại Paris trải từ tháng 5 năm 1968 đến tháng 1 năm 1973. Ban đầu chỉ
có Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ; sau mở ra thành hội nghị bốn bên, thêm Việt
Nam Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

(Để đi đàm phán có chính danh một chính phủ có tính tính pháp lý cao hơn, năm 1969
phía Cộng sản cho thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam trên cơ sở Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam).

Khi một bên đang thắng thế trên chiến trường thì đàm phán thường bế tắc và điều đó
đúng với Hội nghị Paris suốt thời kỳ từ 1968 đến 1972. Các bên dùng hội nghị như diễn
đàn đấu tranh chính trị. Trong suốt quá trình hội nghị các cuộc họp chính thức chỉ mở
màn, tố cáo nhau, tranh luận vài điều mà không thể giải quyết được rồi kết thúc mà
không đi vào thực chất. Chỉ có các cuộc tiếp xúc bí mật của Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ
của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Tiến sĩ Henry Kissinger, cố vấn của tổng thống Hoa
Kỳ, là đi vào thảo luận thực chất nhưng không đi được đến thoả hiệp.

Đến giữa năm 1972, khi Bắc Việt đã đuối sức[cần dẫn nguồn] và Hoa Kỳ đã mệt mỏi bởi chiến
tranh kéo dài và thực sự muốn đi đến kết thúc [93], thì đàm phán mới đi vào thực chất thoả
hiệp.
• Lập trường ban đầu của Hoa Kỳ: quân đội Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam phải đồng
thời với việc rút Quân đội Nhân dân Việt Nam khỏi Nam Việt Nam. Chính phủ
Nguyễn Văn Thiệu có quyền tồn tại trong giải pháp hòa bình.
• Lập trường ban đầu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: quân đội Hoa Kỳ phải rút
khỏi Việt Nam, Quân đội Nhân dân Việt Nam có quyền ở lại chiến trường miền
Nam. Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu không được tồn tại trong giải pháp hòa bình.

Trong đó, vấn đề quy chế của Quân đội Nhân dân Việt Nam là điểm mâu thuẫn chính
giữa các bên. Cuối năm 1972 chính phủ Hoa Kỳ, dưới áp lực dư luận, đã mệt mỏi vì
chiến tranh, đã thoả hiệp về vấn đề cơ bản này. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
về phía mình cũng thoả hiệp về quy chế của chính quyền của Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu. Hai bên đi đến thoả hiệp chung: Quân Mỹ và các đồng minh nước ngoài rút khỏi
Việt Nam chấm dứt mọi can thiệp quân sự vào vấn đề Việt Nam; Quân đội Nhân dân Việt
Nam được ở lại chiến trường Nam Việt Nam; và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu được
phép tồn tại như một chính phủ có liên quan đến giải pháp hòa bình.

Sau khi văn kiện hiệp định đã được ký tắt, Henry Kissinger đi Sài Gòn để đệ trình cho
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu văn bản đã đạt được. Phía Việt Nam Cộng hòa phản đối
dự thảo này và tuyên bố sẽ không ký kết hiệp định như dự thảo.

Phía Mỹ đứng về phía Việt Nam Cộng hòa và tuyên bố chưa thể ký được hiệp định, đòi
thay đổi lại nội dung chính liên quan đến vấn đề cốt lõi: quy chế Quân đội Nhân dân Việt
Nam. Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bác bỏ sửa đổi của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đe dọa sẽ
ném bom lại miền Bắc Việt Nam nếu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ chối ký theo
phương án Hoa Kỳ đề nghị.

Máy bay B-52 đang ném bom rải thảm

Tháng 12 năm 1972, Hoa Kỳ cho máy bay B52 ném bom rải thảm Hà Nội, Hải Phòng và
các mục tiêu khác trong 12 ngày (18 tháng 12 đến 30 tháng 12), đó là Chiến dịch
Linebacker II. Không khuất phục được Hà Nội, bị thiệt hại nặng nề cho lực lượng không
quân và nhất là bị dư luận quốc tế và trong nước phản đối mạnh mẽ, chính phủ Hoa Kỳ
buộc phải chấm dứt ném bom quay lại đàm phán và đồng ý ký kết Hiệp định Paris theo
phương án đã ký tắt, dù có một vài sửa đổi nhỏ có tính kỹ thuật. Chính phủ Việt Nam
Cộng hòa không tán thành hiệp định nhưng vì áp lực nếu không chấp nhận thì Hoa Kỳ sẽ
đơn phương ký với Hà Nội và từ bỏ trách nhiệm với Việt Nam Cộng hòa nên phải chấp
nhận ký.

Phía Hoa Kỳ ký kết hiệp định Paris

Hiệp định Paris được ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973, được coi là một thắng lợi
quan trọng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 29 tháng 3 năm 1973 quân nhân Mỹ
cuối cùng rời Việt Nam, chấm dứt mọi sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ đối với vấn đề
Việt Nam. Từ nay chỉ còn quân đội Việt Nam Cộng hòa đơn độc chống lại Quân Giải
phóng đang ngày càng mạnh.

Chiến dịch Linebacker II

Bài chi tiết: Chiến dịch Linebacker II

Trong chiến dịch này, Hoa Kỳ đem lực lượng không quân chiến lược với máy bay B-52
ném bom rải thảm xuống Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên trong 12 ngày đêm. Về lý do
quân sự, chính trị thì cuộc ném bom này không cần thiết và có hại vì khi đó Hoa Kỳ đã
quyết tâm rút khỏi chiến tranh. Hoa Kỳ biết rất rõ rằng chỉ bằng một cuộc ném bom dù ác
liệt đến đâu Hoa Kỳ không thể nào bắt Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhượng bộ một vấn
đề cốt lõi mà vì nó họ đã chiến đấu gần 20 năm. Nó chỉ làm dư luận Mỹ và thế giới bất
bình với chính phủ Hoa Kỳ. Đây chỉ là cách để thể hiện trách nhiệm nghĩa vụ đối với
đồng minh (không chỉ đối với Việt Nam Cộng hòa mà còn cả các đồng minh khác nữa).
Khi dự thảo hiệp định đã được ký tắt với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chính phủ Việt
Nam Cộng hòa đã phản đối kịch liệt và không chấp nhận, Hoa Kỳ quyết định dùng bước
này để chứng tỏ họ đã cố gắng đến mức cuối cùng cho quyền lợi của đồng minh rồi.

Hoa Kỳ đã dùng một biện pháp rất cực đoan, tàn bạo mà các chuẩn mực chiến tranh
thông thường không cho phép: dùng máy bay B52 rải thảm bom huỷ diệt vào một loạt
các khu vực dân cư của các thành phố lớn để đánh vào ý chí của dân chúng và đã gây ra
thương vong lớn cho dân cư. Ở Hà Nội, tại phố Khâm Thiên bom trải thảm đã phá sập cả
dãy phố và sát hại nhiều dân thường. Tại bệnh viện Bạch Mai, nhiều tòa nhà quan trọng
đã bị phá hủy, cùng với các bệnh nhân và bác sĩ, y tá bên trong. Chiến dịch này đã phá
hoại nặng nề nhiều cơ sở vật chất, kinh tế, giao thông, công nghiệp và quân sự của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng đã không làm thay đổi được lập trường của Hà Nội.
Về mặt quân sự, Hoa Kỳ đã đánh giá thấp lực lượng phòng không của đối phương.
Không lực Hoa Kỳ quá tin tưởng vào các biện pháp kỹ thuật gây nhiễu điện tử để bịt mắt
radar và tên lửa phòng không của đối phương. Để đáp lại, các lực lượng tên lửa phòng
không của Bắc Việt Nam đã giải quyết vấn đề bằng những biện pháp chiến thuật sáng tạo
và hợp lý, họ đã bắn các máy bay B52 theo xác suất và đã thành công vượt xa mức trông
đợi. Cũng trong chiến dịch này, lần đầu pháo đài bay B-52 bị hạ bởi một máy bay tiêm
kích, do Phạm Tuân điều khiển. Sách báo Việt Nam gọi chiến dịch này là Điện Biên Phủ
trên không, như một cách nêu bật thắng lợi của lực lượng phòng không Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa trong chiến dịch.

Dưới áp lực của dư luận thế giới và trong nước, thất bại trong việc buộc Hà Nội nhượng
bộ, Tổng thống Nixon ra lệnh chấm dứt ném bom vào ngày 30 tháng 12 năm 1972 và hội
đàm lại để ký kết hiệp định. Hiệp định Paris có phương án cuối cùng về cơ bản không
khác mấy so với phương án đã được ký tắt. Chiến dịch Linebacker II là chiến dịch quân
sự cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam.

Hiệp định Paris

Bài chi tiết: Hiệp định Paris 1973

Hiệp định Paris là hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam do 4 bên
tham chiến: Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ
Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm
1973. Theo các nội dung chính như sau:

• Các quân đội nước ngoài phải rút khỏi Việt Nam. Quân đội Nhân dân Việt Nam,
Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Quân Giải phóng miền Nam đóng nguyên tại chỗ
và ngừng bắn tại chỗ.

• Miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát. Các
bên tạo điều kiện cho dân chúng sinh sống đi lại tự do giữa hai vùng.

• Hiệp thương chính trị giữa các lực lượng chính trị, thành lập chính phủ hòa hợp
dân tộc của miền Nam Việt Nam và tiến tới thống nhất hai miền.

• Ngoài ra còn nhiều các điều khoản khác như lập uỷ ban kiểm soát và giám sát và
phái đoàn quân sự liên hợp bốn bên, điều khoản Hoa Kỳ đóng góp tài chính tái
thiết sau chiến tranh, điều khoản Hoa Kỳ gỡ mìn đã phong toả các hải cảng Bắc
Việt Nam, điều khoản trao trả tù binh...

Mặt khác, Hiệp định Paris là hiệp định được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ
soạn thảo để đảm bảo cho việc Hoa Kỳ ra khỏi chiến tranh. Đối với Hoa Kỳ, đây là cách
họ ra khỏi cuộc chiến mệt mỏi này một cách chính đáng. Đối với Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng thì hiệp định này là bước thứ nhất trong hai
bước để đi đến thắng lợi cuối cùng. Đối với Việt Nam Cộng hòa thì hiệp định này là một
tai ương lớn đối với chính thể của họ và đặt sự tồn tại của Việt Nam Cộng hòa trước một
nguy hiểm trong một tương lai gần.

Để trấn an Việt Nam Cộng hòa, Tổng thống Nixon đã hứa riêng với Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu là trong trường hợp Bắc Việt Nam phát động chiến tranh tiêu diệt Việt Nam
Cộng hòa, Hoa Kỳ sẽ phản ứng một cách thích hợp để bảo đảm an ninh cho Việt Nam
Cộng hòa. Lời hứa này về sau không có giá trị thực tiễn vì sau đó Quốc hội Hoa Kỳ đã ra
nghị quyết không cho phép đưa lực lượng vũ trang trở lại Đông Dương mà không được
phép của Quốc hội và quy định khuôn khổ viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa. Với các áp
đặt như vậy thì dù không có sự kiện Watergate, dù Tổng thống Nixon có tại vị thì cũng
không thể giữ lời hứa một cách hữu hiệu được. Đối với người Mỹ, họ thực sự muốn đóng
lại cuộc chiến, quên nó đi và mở sang một trang sử mới.

Hoa Kỳ rút quân theo Hiệp định Paris.


Nguồn: Sách Chính phủ Việt Nam 1945 – 1998 NXB Chính trị Quốc gia, tháng 7 năm 1999

Chính vì vậy trong hiệp định có những điều khoản có vẻ là nhượng bộ của Bắc Việt Nam
nhưng chẳng có ai có thể kiểm chứng và cưỡng chế được; ví dụ điều khoản quy định
quân đội Bắc Việt Nam được quyền thay quân và trang bị vũ khí theo nguyên tắc một-
đổi-một. Số quân Bắc Việt trên chiến trường lúc đó, số quân của họ trên đường mòn Hồ
Chí Minh, số vũ khí họ mang vào và mang ra là những dữ liệu không thể kiểm chứng
được. Còn vũ khí Mỹ vào Việt Nam qua các cảng và cầu hàng không thì dễ dàng được
quản lý. Tương tự, điều khoản về uỷ ban kiểm soát và giám sát quốc tế cũng chỉ là hình
thức vì quyền lực của uỷ ban này không có đủ để can thiệp gì vào các tiến trình sự việc.
Các điều khoản về quy chế chính trị như thành lập chính phủ hòa hợp dân tộc tiến tới
thống nhất cũng không có cơ chế thi hành mà chỉ là ý tưởng.

Nói chung hiệp định này chỉ được thi hành tốt ở những điều khoản rút quân Mỹ (cùng các
đồng minh khác) và trao trả tù binh Mỹ mà thôi. Hoa Kỳ thực sự muốn rút và miền Bắc
sẵn sàng tạo điều kiện cho việc đó.

Sau khi quân đội Hoa Kỳ rút hết vào cuối tháng 3 năm 1973, Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa chuẩn bị cho việc đánh dứt điểm chính quyền Việt Nam Cộng hòa, còn Nam Việt
Nam cố gắng xoay trở chống đỡ chẳng kể gì đến hiệp định. Vai trò của hiệp định Paris,
trên thực tế, đến đây là đã hết.

Giai đoạn 1973–1975


Đây là giai đoạn kết thúc chiến tranh vì với sự ra đi của Hoa Kỳ thì kết cục cho Chiến
tranh Việt Nam đã rõ ràng. Sau 2 năm quân Mỹ rút hết, quân Cộng sản tiến công trận
đánh cuối cùng giải quyết chiến tranh. Việt Nam Cộng hòa không thể tự bảo vệ, quân đội
của họ đã nhanh chóng bị đánh bại và đã đầu hàng vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Trong các năm từ 1973 đến tháng 2 năm 1975 là thời gian hai phía đối địch chuẩn bị vào
các trận đánh nhau to sắp tới. Năm 1973 khá yên tĩnh vì Bắc Việt Nam cần thời gian
chuẩn bị và họ không muốn ngay lập tức mang tiếng vi phạm hiệp định. Việt Nam Cộng
hòa thì ngay từ ban đầu đã không tán thành hiệp định. Năm này chỉ được 1–2 tháng đầu
là có các ảo tưởng hòa bình: quân sĩ hai bên tiếp xúc với nhau qua câu cửa miệng là "hòa
bình rồi...". Sau đó là thời gian hai bên liên tục lên án nhau phá hoại hiệp định và đánh
lấn chiếm vùng kiểm soát của nhau, nhưng ở quy mô nhỏ. Quân đội Việt Nam Cộng hòa
không đủ sức để đánh lớn và quân Cộng sản cũng không có chủ trương đánh lớn vào lúc
đó.

Thời kỳ này có một sự kiện bất ngờ với Việt Nam Cộng Hòa và ngỡ ngàng cho Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa là việc Trung Quốc tấn công chiếm đóng hoàn toàn quần đảo hoàng
Sa vào tháng 1 năm 1974. Vào năm này, Quân lực Việt Nam Cộng hòa gặp khó khăn
trong việc điều quân dự bị, cụ thể là rút tiểu đoàn Thủy quân lục chiến đang đóng ở
hoàng Sa về đất liền để chống lại lực lượng Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt
Nam. Hoa Kỳ và hạm đội 7 của họ cũng không giúp đỡ Việt Nam Cộng hòa tại hoàng Sa
nữa. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công khai phản kháng lại các động thái của
Trung Quốc, nhưng Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã ra
bản Tuyên bố phản đối hành động này của phía Trung Quốc vào ngày 20/1/1974. Sau hải
chiến hoàng Sa 1974, Trung Quốc đã thay thế Việt Nam Cộng hòa thực hiện chủ quyền
tại quần đảo này; nhưng Việt Nam Cộng hòa và nước Việt Nam thống nhất sau này vẫn
tuyên bố chủ quyền tại đây. Sự việc cũng tác động lên quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa với đồng minh Trung Quốc, và giữa Việt Nam Cộng hòa với đồng minh Hoa
Kỳ: các đồng minh của họ đã không còn đáng tin cậy như trước.

Thời kỳ 1974–1975 trước trận Ban Mê Thuột có hai trận đánh lớn có vai trò đáng chú ý:
trận Thượng Đức thuộc tỉnh Quảng Nam bắt đầu khoảng tháng 7 năm 1974 và trận Phước
Long tháng 12 năm 1974. Đây là hai trận của giai đoạn này mà Cộng sản phát động với
một mục tiêu duy nhất là thăm dò lực lượng đối phương.

Tháng 7 năm 1974 quân đội Bắc Việt đưa một sư đoàn đến đánh chiếm chi khu quân sự
quận lỵ Thượng Đức thuộc tỉnh Quảng Nam. Đúng theo tính toán của phía Cộng sản,
quân đội Nam Việt Nam liền điều sư đoàn dù tổng trù bị chiến lược đến tái chiếm. Hai
bên đánh nhau ác liệt trong vòng 3 tháng; kết quả quân Cộng sản vẫn giữ vững Thượng
Đức và quân đội Nam Việt Nam bỏ cuộc. Sau trận đánh, các nhà lãnh đạo của Cộng sản
đã đi đến kết luận là sức chiến đấu, nhất là sức mạnh tấn công, của quân Nam Việt Nam
so với 1972 đã suy giảm đi nhiều khi không còn có yểm trợ của không quân Mỹ. Quân
đội Nam Việt Nam cũng không đủ lực lượng dự bị cơ động để chiến đấu lâu dài: Một
quận lỵ quan trọng ở quân khu 1 Việt Nam Cộng hòa mà cả quân đoàn và quân khu 1
không đủ lực lượng cơ động đến giải vây mà phải dùng đến sư đoàn dù là lực lượng
mạnh nhất tổng dự bị chiến lược. Điều này là một luận cứ góp vào kế hoạch tác chiến cho
chiến dịch năm 1975 đánh dứt điểm quân đội Nam Việt Nam.

Giữa tháng 12 năm 1974, tại mặt trận miền Đông Nam Bộ, quân Cộng sản phát động
chiến dịch Phước Long tiến đánh và sau 3 tuần chiếm hoàn toàn tỉnh này. Tuy mất một
tỉnh ngay tại đồng bằng Nam Bộ cách Sài Gòn chỉ khoảng 100 km nhưng quân Nam Việt
Nam không có phản ứng thích đáng nào để khôi phục. Họ không còn quân dự bị cơ động
để phản kích nữa. Và quan trọng nhất là Hoa Kỳ chỉ phản ứng ở mức không có dấu hiệu
là sẽ can thiệp mạnh. Chiến dịch này đã củng cố tin tưởng của phía Cộng sản là Hoa Kỳ
sẽ ít có khả năng can thiệp trở lại.

So sánh lực lượng hai bên sau khi Hoa Kỳ rút quân

Trong giai đoạn 1973–1975, tuy lượng viện trợ quân sự từ Liên Xô và Trung Quốc giảm
rõ rệt[94], nhưng cán cân lực lượng vẫn nghiêng mạnh về phía quân Cộng sản. Họ được bổ
sung quân số đầy đủ từ miền Bắc. Quân từ miền Bắc lúc đó hành quân bằng cơ giới trên
đường mòn Hồ Chí Minh cả ngày lẫn đêm, đèn pha sáng trưng mà không sợ bị không lực
Hoa Kỳ oanh tạc. Trong các năm này, đường mòn Hồ Chí Minh cũng đã được mở rộng
hơn để đảm bảo cho việc cung cấp quy mô lớn cho chiến trường. Các trang thiết bị đạn
dược và lương thực cũng đã đủ số trong các kho, từ kho của đơn vị chiến đấu đến kho
hậu cứ và kho tại hậu phương miền Bắc. Xăng dầu đã được bơm thẳng theo tuyến đường
ống cung cấp từ miền Bắc vào tận Bù Gia Mập tại miền Đông Nam Bộ và rất gần đến các
kho đứng chân chiến đấu. Đặc biệt ưu thế quan trọng nhất tạo nên áp đảo đối phương là
tinh thần chiến đấu. Binh sĩ của họ nhận thức được cơ hội thuận lợi chấm dứt chiến tranh
giành chiến thắng hoàn toàn nên khí thế lên rất cao và sẵn sàng xung trận.

Quân đội Nam Việt Nam thì ngày càng gặp khó khăn, tuy phương tiện chiến tranh vẫn
còn nhiều trong kho, nhưng họ bị hạn chế về kinh phí tài chính vì viện trợ của Hoa Kỳ đã
bị cắt giảm nhiều, khó khăn trong việc trả lương binh lính và nhất là khó khăn trong việc
tăng cường và bổ sung quân số. Tuy Quân lực Cộng hòa hơn hẳn đối phương về không
quân, nhưng quân chủng này đòi hỏi rất nhiều tài chính khi hoạt động, viện trợ của Hoa
Kỳ lúc đó không đủ nên không quân không phát huy được gì nhiều. Các khu dự trữ xăng
dầu của Việt Nam Cộng hòa luôn là nơi bị đặc công Cộng sản đánh phá nên nhiều lúc vấn
đề nhiên liệu cũng gay gắt. Nhưng điều khó khăn lớn nhất cho Quân đội Việt Nam Cộng
hòa là tinh thần chiến đấu của binh sĩ xuống thấp. Sau Hiệp định Paris, các sĩ quan và
binh lính đã thấy tương lai mờ mịt cho họ, tâm trạng bi quan chán nản và tinh thần chiến
đấu sa sút nghiêm trọng dẫn đến tình trạng đào ngũ, trốn lính rất nhiều, bổ sung không
kịp.

Theo các số liệu thống kê về cán cân lực lượng trên chiến trường thì tương quan lực
lượng là tương đương không nghiêng nhiều về bên nào. Nhưng với những thuận lợi và
khó khăn thực chất của hai bên, ưu thế áp đảo trên chiến trường đã nghiêng hẳn sang phía
quân đội Cộng sản. Việc họ nhanh chóng đè bẹp quân đội Việt Nam Cộng hòa trong
chiến dịch mùa xuân năm 1975 là phản ánh đúng cán cân lực lượng trên chiến trường.

Cuộc tấn công cuối cùng


Cuộc tấn công cuối cùng của quân đội Cộng sản Bắc Việt Nam diễn ra trong 55 ngày đêm
bắt đầu từ ngày 5 tháng 3 cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Tổng thống Dương Văn
Minh của Việt Nam Cộng hòa đầu hàng vô điều kiện. Nó còn được gọi là cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy mùa xuân năm 1975. Cơ quan tham mưu của Bắc Việt Nam lập kế hoạch
tiến công đã phân cuộc tiến công này thành các chiến dịch nối tiếp nhau họ gọi là chiến
dịch Tây Nguyên, chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng và, cuối cùng, chiến dịch Hồ Chí
Minh.

• Chiến dịch Tây Nguyên: với mục tiêu là chiếm Tây Nguyên mà trận mở đầu then
chốt là thị xã Ban Mê Thuột tại Nam Tây Nguyên. Tại đây có hậu cứ của sư đoàn
23 của quân đội Nam Việt Nam. Quân đội Bắc Việt Nam đã thành công trong việc
làm cho đối phương tin rằng mục tiêu tiến công sẽ ở Bắc Tây Nguyên ở hướng thị
xã Kon Tum hoặc thị xã Pleiku. Ngày 10 tháng 3 quân Bắc Việt tiến công Ban Mê
Thuột. Sau hơn một ngày tiến công rất ác liệt, quân đồn trú đã kháng cự rất quyết
liệt nhưng với ưu thế áp đảo quân Bắc Việt đã đánh chiếm được thị xã. Liên tiếp
trong các ngày sau đó họ đã chủ động tiến công quân phản kích, quân phản kích
của Nam Viêt Nam vừa đổ xuống chưa kịp đứng chân cũng đã bị đánh tiêu diệt.
Mất Ban Mê Thuột và không có đủ lực lượng cơ động dự bị khả dĩ có thể phản
kích tái chiếm, lại cùng với việc các lực lượng phòng thủ Bắc Tây Nguyên cũng
đang bị uy hiếp nặng nề, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh bỏ Tây
Nguyên rút các lực lượng còn lại về cố thủ giải đồng bằng ven biển miền trung.
Đường rút lui sẽ là theo đường 14 từ Pleiku đi xuống phía nam sau đó đi vào
đường số 7 đã bị bỏ từ lâu không sử dụng, mục tiêu là thoát xuống thị xã Tuy Hòa
tỉnh Phú Yên. Đây là một thảm hoạ chết người cho Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Cuộc rút lui đã không bảo toàn được số quân mà trái lại nó làm thành làn sóng
hoảng loạn lan khắp các vùng lại còn làm rệu rã hết tinh thần binh sĩ trên toàn
quốc. Việc rút một số lượng quân lớn như thế trong một thời gian chuẩn bị gấp
gáp 2–3 hôm đã diễn ra trên đoạn đường dài hàng trăm km không có kế hoạch,
trong khi tinh thần binh sĩ đã xuống rất thấp và, quan trọng hơn cả, binh sĩ mang
gia đình và người chạy nạn theo cùng. Tất cả những cái đó đã biến dòng người
cùng xe cộ khổng lồ ùn tắc thành một dòng náo loạn không thể chỉ huy và chiến
đấu. Bị đối phương chặn tại Cheo Reo - Phú Bổn đoàn quân này đã bị tan tác
không còn tập hợp lại được nữa. Tây Nguyên thất thủ vào tay quân Cộng sản, hơn
12 vạn quân đồn trú bị tan rã. Toàn bộ sư đoàn 23 Nam Việt Nam hơn 1 vạn quân
về đến Tuy hòa tập hợp đếm lại được còn 36 người.

• Chiến dịch Huế-Đà Nẵng: Kể từ sau cuộc rút chạy khỏi Tây Nguyên tin thất bại
đã bay khắp miền Nam, binh sĩ mất hết tinh thần, quân đội gần như không chiến
đấu mà bỏ chạy. Các nhà lãnh đạo chiến tranh của Bắc Việt nhận định ra quân đội
Nam Việt đã không còn chiến đấu có tổ chức chặt chẽ được nữa; họ liền tiến hành
phương án thời cơ tung ngay quân đoàn 2 (hay Binh đoàn Hương Giang được
thành lập từ các đơn vị của quân khu Trị – Thiên và khu 5) nhanh chóng tiến công
đánh chiếm cố đô Huế và thành phố lớn thứ hai của Nam Việt Nam, Đà Nẵng.
Quân đội Nam Việt Nam vội vã rút lui khỏi Quảng Trị về Huế và trước sức ép của
đối phương quyết định rút chạy bỏ Huế nhưng đường núi về phía nam đã bị đối
phương cắt mất, họ chỉ còn một con đường chạy ra biển để chờ tàu hải quân vào
cứu. Cũng giống như cuộc rút chạy khỏi Tây Nguyên, cuộc rút chạy này đã trở
thành hỗn loạn và cướp bóc. Số nào được cứu lên tàu hải quân thì khi lên đến bờ
cũng không thể tập hợp lại thành đơn vị chiến đấu được nữa, số còn lại bỏ vũ khí
tự tan vỡ. Ngày 26 tháng 3 quân Cộng sản vào Huế. Đà Nẵng cũng không tránh
được bị chiếm. Khi quân đoàn 2 của Bắc Việt Nam tiến đến Đà Nẵng cảnh hỗn
loạn đang diễn ra, quân lính đang cướp bóc. Quân lính và dân cố gắng thoát khỏi
thành phố bằng tàu hải quân, các đơn vị vòng ngoài không còn tinh thần chiến đấu
nữa; quân Bắc Việt bỏ qua vòng ngoài thọc sâu đánh chiếm thành phố mà không
có kháng cự đáng kể. Tại đây 10 vạn binh lính và sỹ quan đã ra hàng (ngày 29
tháng 3). Quân khu 1 Việt Nam Cộng hòa đã bị xoá bỏ.

Trong hai tuần đầu tháng 4 các tỉnh thành phố miền trung lần lượt rơi vào tay quân Cộng
sản. Họ từ phía Bắc tràn vào (với Quân đoàn 2) và từ Tây nguyên tràn xuống (với Quân
đoàn 3 – hay Binh đoàn Tây Nguyên – được thành lập từ các đơn vị của mặt trận Tây
Nguyên). Bây giờ thì không còn sức mạnh nào có thể ngăn nổi sự sụp đổ của quân đội
Nam Việt Nam.

Trên đường phố Quy Nhơn, một phụ nữ dẫn đơn vị lính Việt Nam Cộng Hòa ra hàng các
lực lượng vũ trang cách mạng. Ảnh này do người truyền lên chụp lại tại cuốn Việt Nam
đất nước anh hùng Việt Nam Thông tấn xã, Sài Gòn ấn quán năm 1975.

Nam Việt Nam dồn hết các toán quân còn sót lại của Quân đoàn 2 của họ chuyển sang
cho Quân đoàn 3 chỉ huy để cố lập một phòng tuyến ngăn chặn tại Phan Rang nhưng
cũng không chặn được quân Cộng sản mà tư lệnh chiến trường cũng bị bắt. Quân khu 1
và 2 của Việt Nam Cộng hòa đã bị xoá bỏ. Bây giờ quân Cộng sản đã ào xuống đồng
bằng Đông Nam Bộ của quân đoàn và quân khu 3 Nam Việt Nam, chỉ còn hơn 100 km là
đến Sài Gòn.

Nỗ lực cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa là trông vào tuyến phòng thủ từ xa của Sư đoàn
18 tại thị xã Xuân Lộc tỉnh Long Khánh. Quân đoàn 4 (hay Binh đoàn Cửu Long) của
Cộng sản được thành lập từ các sư đoàn và đơn vị tại miền Đông Nam Bộ định chiếm
Xuân Lộc trong hành tiến. Nhưng sư đoàn 18 đã chống cự có tổ chức, đây là nỗ lực chiến
đấu có tổ chức dài ngày cuối cùng của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Quân đoàn 4 của
Cộng sản không chiếm được Xuân Lộc trong hành tiến bắt buộc phải dừng lại tổ chức
trận địa tiến công. Mặt khác họ không để mất thì giờ với Xuân Lộc mà đi vòng qua vòng
vây tiến về phía Biên Hòa. Sau 12 ngày cầm cự, từ 9 tháng 4 đến 21 tháng 4, Sư đoàn 18
Nam Việt nam bỏ Xuân Lộc rút lui có tổ chức về bên kia sông Đồng Nai cố thủ. Vậy là
tuyến phòng thủ từ xa cuối cùng bảo vệ Sài Gòn không còn. Trước tình hình không thể
cứu vãn tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức để người khác có cơ hội đàm phán với
Cộng sản. Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay nhưng ông không phải là người có
thể nói chuyện được với đối phương. Các dàn xếp của các lực lượng thứ ba đã đưa Đại
tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng thống từ ngày 28 tháng 4.

• Chiến dịch Hồ Chí Minh: Sau khi tập hợp đủ lực lượng gồm 15 sư đoàn và rất
nhiều trung đoàn, lữ đoàn độc lập khác để đảm bảo áp đảo chắc thắng, quân Cộng
sản bắt đầu tiến công Sài Gòn để chấm dứt chiến tranh trong một chiến dịch được
gọi tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh, bắt đầu từ ngày 26 tháng 4. Quân Cộng sản tổ
chức theo 4 quân đoàn 1, 2, 3, 4 và đoàn 232 tương đương quân đoàn đánh 5 mũi
từ 5 hướng vào Sài Gòn. Quân Nam Việt Nam đã kháng cự ác liệt trên một số
hướng nhưng đã đến nước không thể kháng cự lâu dài được nữa. Quân Cộng sản
đánh từ ngày 26 đến cuối ngày 28 tháng 4 thì họ đến được cửa ngõ Sài Gòn và có
thể đi thẳng vào thành phố. Để tránh mọi rắc rối với Hoa Kỳ quân Cộng sản dừng
lại bên ngoài thành phố 1 ngày để người Mỹ tổ chức di tản xong họ mới vào. 8
giờ sáng 30 tháng 4 Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố Sài Gòn bỏ ngỏ và ra
lệnh cho quân đội đơn phương ngừng chiến chờ đối phương vào bàn giao chính
quyền. Bộ tổng tham mưu ra mệnh lệnh chấm dứt kháng cự. Quân Cộng sản tiến
nhanh vào thành phố chỉ gặp những kháng cự lẻ tẻ, vô tổ chức. Đến 11 giờ 30
phút họ bắt tổng thống Dương Văn Minh lên đài phát thanh đọc tuyên bố đầu
hàng vô điều kiện. Chiến tranh Việt Nam chấm dứt.

Về việc kết thúc chiến tranh

Bài chi tiết: sự kiện 30 tháng 4, 1975

Những giờ phút cuối cùng của Sài Gòn trước khi thất thủ
Việc đánh chiếm Sài Gòn kết thúc chiến tranh của phía Cộng sản đã diễn ra khá ôn hòa,
rất ít đổ máu và thành phố nguyên lành. Tất nhiên việc sụp đổ đầu hàng của Việt Nam
Cộng hòa là kết quả của sức mạnh quân sự áp đảo của quân đội Cộng sản, nhưng việc kết
thúc chiến tranh ôn hòa không đổ máu dân chúng, có đóng góp nhiều của lực lượng thứ
ba và vai trò không nhỏ của Tổng thống Dương Văn Minh và các phụ tá của ông. Trong
bối cảnh không còn cơ hội kháng cự, với cách nhìn thực tế và không cực đoan, ông
Dương Văn Minh được các lực lượng chính trị thứ ba đưa lên làm tổng thống để đảm bảo
một cuộc chuyển giao chế độ êm thấm và không đổ máu, không trả thù.[cần dẫn nguồn] Ông đã
làm được việc này bằng cách tuyên bố Sài Gòn bỏ ngỏ và sẵn sàng đón nhận quân Cộng
sản vào để làm thủ tục bàn giao chính quyền. Đối với hoàn cảnh chiến sự và chính trị lúc
đó có lẽ đây là một giải pháp đúng đắn. Cùng với việc ra mệnh lệnh đơn phương ngừng
chiến, thực tế từ sáng sớm 30 tháng 4 quân Nam Việt Nam đã ngừng kháng cự và quân
đội Cộng sản vào Sài Gòn không gặp kháng cự có tổ chức.

Ngay sau khi Cộng sản chiếm thành phố và làm chủ hoàn toàn miền Nam, các cấp chỉ
huy chính trị-quân sự của những người Cộng sản miền Nam mà đại diện là Thượng tướng
Trần Văn Trà – Tư lệnh quân quản Sài Gòn đã có cách nhìn và việc làm thông cảm, hợp
tình, hợp lý và những lời nói khích lệ đối với các cấp chính quyền và quân đội đối
phương.[cần dẫn nguồn] Nếu cách tiếp cận đúng đắn này được chia sẻ bởi các lãnh đạo Cộng
sản cao nhất lúc đó tại Hà Nội thì Việt Nam có thể đã tránh được việc hàng vạn cựu sĩ
quan chế độ cũ bị cầm tù học tập cải tạo trong các Trại tù cải tạo hơn 10 năm và sự chia
rẽ và hận thù trong dân tộc sẽ không sâu sắc như hiện nay.

Ngoài ra, cách đối xử thiếu thiện chí của chính quyền mới đối với các sĩ quan và lính của
Quân lực Việt Nam Cộng Hòa cộng với các chính sách kinh tế sai lầm đã gây ra một cuộc
vượt biển lớn nhất trong lịch sử – các học giả đã dùng từ "thuyền nhân" (boat people) khi
nói về hiện tượng này.

Phong trào phản chiến


Bài chi tiết: Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam

Cuộc chiến tranh tại Việt Nam đã bị phản đối từ đầu thập niên 1960, nhưng không được
chú ý và phải cho đến khi 1 người Mỹ là Norman Morrison tự thiêu vào năm 1965 thì dư
luận thế giới mới biết đến[95].

Phong trào phản chiến bước sang một bước ngoặt mới khi cuộc biểu tình của sinh viên
Đại học Kent State (bang Ohio) ngày 4-5-1970 đã bị Vệ binh quốc gia Mỹ đàn áp làm 4
sinh viên bị chết và 9 người khác bị thương.

Đã có hơn 200 tổ chức chống chiến tranh ở trên khắp các bang ở Mỹ, 16 triệu trong số 27
triệu thanh niên Mỹ đến tuổi quân dịch đã chống lệnh quân dịch, 2 triệu người Mỹ “gây
thiệt hại bất hợp pháp” vì chống chiến tranh Việt Nam, 75.000 người Mỹ bỏ ra nước
ngoài vì không chịu nhập ngũ và đấu tranh chống chiến tranh Việt Nam, trong đó có cựu
Tổng thống Mỹ Bill Clinton.[95]
Cuối năm 1969, các nghị sĩ Mỹ công bố tài liệu nghiên cứu cho biết phong trào hòa bình
đã bị những người cộng sản khống chế hoàn toàn.[96]

Bài viết (hoặc đoạn) này hiện gây tranh cãi về tính trung lập.
Đề nghị: Người gắn tiêu bản nêu lý do tại trang thảo luận. Nếu không có lý do
tại trang thảo luận, tiêu bản có thể bị tháo bỏ.
Xin đừng xóa bảng thông báo này cho đến khi kết thúc hoặc đạt được đồng thuận trong vấn đề
này.

Trong suốt cuộc chiến, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên trì tranh thủ phong trào hòa
bình ở Mỹ. Theo đánh giá của William Colby thì họ được dư luận ủng hộ mạnh mẽ do
việc giới thông tin đại chúng của Mỹ dễ dàng vào được miền Nam Việt Nam trong khi
nếu muốn vào miền Bắc Việt Nam lại rất khó, và do đó, tin tức về những khiếm khuyết
của chính phủ miền Nam thì công chúng Mỹ được biết trong khi chính quyền Hà Nội thì
chẳng có gì hết vì họ không cho phép đưa tin.[97]

Phong trào này đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của những người cộng sản Việt
Nam trong cuộc chiến tranh này.[98]

Kết quả và Việt Nam sau cuộc chiến


Để xem số liệu thiệt mạng xin xem bài Tổn thất nhân mạng trong Chiến tranh Việt
Nam

Nam Việt Nam (Đồng bằng sông Cửu long): Một trực thăng UH-1D của Đại đội Không
quân 336 Không lực Hoa Kỳ rải chất diệt cỏ lên một vùng rừng rậm. Ngày 26/7/1969

Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến gây nhiều tàn phá nhất trong lịch sử Việt Nam và gây
chia rẽ rất sâu sắc trong lòng dân tộc Việt Nam cũng như xáo trộn, chia rẽ trong lòng
nước Mỹ và nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Tuy theo nguồn, số người Việt Nam bị thiệt mạng trong chiến tranh Việt Nam là từ 3 đến
5 triệu, hàng triệu người khác tàn tật và bị thương. Những người sống sót tiếp tục phải
đối mặt với các vấn đề nghiêm trọng về kinh tế xã hội và môi trường mà cuộc chiến đã
gây ra. Trong đó có tỷ lệ dị dạng bẩm sinh cao nhất thế giới[99]Hàng vạn nạn nhân chất độc
hóa học tại Việt Nam hiện nay (Xem Chất độc da cam). Một nửa diện tích rừng của Việt
Nam bị phá hủy. Sự tàn phá môi trường do Mỹ gây ra lớn đến mức đã làm phát sinh một
từ tiếng Anh mới, ecocide. Việt Nam đã trở thành đất nước bị ném nhiều bom nhất trong
lịch sử thế giới. [100] Cơ sở hạ tầng ở cả hai miền Việt Nam đã bị phá hoại gần hết.

Bước ra sau chiến tranh, cùng với niềm tự hào đã chiến thắng "siêu cường số một" thế
giới, Việt Nam đã có được thống nhất và độc lập - mục tiêu mà vì nó nhiều thế hệ đã đấu
tranh suốt từ thời Pháp thuộc.

Nhưng những người cộng sản Việt Nam phải trả giá đắt cho chiến thắng của họ. Các sai
lầm của chính phủ về kinh tế và chính trị, sự cứng nhắc về hệ tư tưởng, thiên tai, lệnh
cấm vận của Mỹ, và sự tàn phá của chiến tranh, tất cả đều góp phần vào các vấn đề thời
hậu chiến của đất nước.[101] Những điểm yếu to lớn về kinh tế, xã hội theo mô hình xã hội
chủ nghĩa và cộng sản (phỏng theo mô hình xây dựng xã hội chủ nghĩa của Đông Âu đã
không còn phù hợp) đã nhanh chóng phát tác trầm trọng (những điểm mà trong thời chiến
dân chúng còn tạm chấp nhận). Cùng với những chia rẽ sâu sắc vốn có của chiến tranh,
rất nhiều các sĩ quan quân đội và viên chức thuộc chế độ Việt Nam Cộng hòa bị bắt đi
học tập cải tạo mà thực chất nhiều người đã bị giam giữ không án hơn 10 năm, càng làm
cho nhân tâm thêm sa sút. Thêm vào đó, nền kinh tế Việt Nam còn chịu ảnh hưởng nặng
nề của cuộc xung đột kéo dài tại biên giới với Trung Quốc và do việc đóng quân quá lâu
(hơn 10 năm) ở Campuchia sau chiến tranh biên giới Tây Nam. Những sai lầm về đường
lối kinh tế và lãnh đạo này đã tạo nên làn sóng khổng lồ những người bỏ nước ra đi. Sau
10 năm thống nhất đất nước nhu cầu đổi mới cho Việt Nam là tất yếu và sống còn.

Đối với Hoa Kỳ, Chiến tranh Việt Nam đã thành một chương buồn trong lịch sử của họ.
Thất bại trong chiến tranh này gây một cú sốc trong tâm lý chính trị của Hoa Kỳ, buộc họ
phải nhận thức và đánh giá hiệu chỉnh lại vai trò cường quốc của họ trên thế giới. Hoa Kỳ
đã tốn 600 tỷ đô la cho cuộc chiến (tính theo giá trị đô la của năm 2004 [10]).

Tham khảo
• Phim tài liệu: Vietnam - The 10,000 Day War (Cuộc chiến 10.000 ngày), đạo diễn:
Michael Mclear.
• Chung một bóng cờ (nhiều tác giả), Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, 1995.
• Hồi ký, hoành Linh Đỗ Mậu - Tâm sự tướng lưu vong, Hà Nội: Nxb Công an
Nhân dân, 2001.
• Hồ Khang, Tết Mậu Thân 1968: Bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, Hà Nội: Nxb Quân đội Nhân dân, 2005.

You might also like