You are on page 1of 444

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

——

GIAO TRINH

LỊCH Su
ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
(Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị)

NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ Quốc GIA sự THẬT


GIÁO TRÌNH
LỊCH Sử
ĐẢNG CỌNG SẢN
VIỆT NAM
(Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị)
Biên mục trên xuất bản phẩm
của Thư viện Quốc gia Việt Nam

Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam : Dành cho bậc đại
học hệ không chuyên lý luận chính trị. - H. : Chính trị Quốc gia, 2021. -
440tr.; 21 cm
ISBN 9786045765906

1. Đảng Cộng sản Việt Nam 2. Lịch sử 3. Giáo hình


324.259707509 - dc23
CTM0460p-CIP
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
• • •

GIÁO TRÌNH
LỊCH Sử
ĐẢNG CỌNG SẢN
VIETNAM ■
(Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị)

NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ Quốc GIA sự THẬT


Hà Nội - 2021
BAN CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN
1. Đồng chí Phạm Văn Linh, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo
Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo;
2. Đồng chí Bùi Văn Ga, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo;
3. Đồng chí Nguyễn Văn Phúc, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo;
4. Đồng chí Lê Hải An, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo;
5. Đồng chí Mai Văn Chính, úy viên Trung ương Đảng,
Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Thành viên;
6. Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, ủy viên Trung ương
Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân
Việt Nam, Bộ Quốc phòng, Thành viên;
7. Đồng chí Nguyễn Văn Thành, úy viên Trung ương
Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an, Thành viên;
8. Đồng chí Triệu Văn Cường, Thứ trưởng Bộ Nội vụ,
Thành viên;
9. Đồng chí Huỳnh Quang Hải, Thứ trưởng Bộ Tài chính,
Thành viên;
10. Đồng chí Nguyễn Tất Giáp, Phó Giám đốc Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Thành viên;
11. Đồng chí Phạm Văn Đức, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam, Thành viên;
12. Đồng chí Nguyễn Hồng Minh, Tổng cục trưởng Tổng cục
Dạy nghề, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Thành viên.

(Theo Quyết định sô' 165-QD/BTGTW ngày 06/6/2016,


số1302-QD/BTGTW ngày 05/4/2018, số 1861-QD/BTGTW
ngày 04/01/2019 của Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng)

5
HỘI ĐỒNG BIÊN SOẠN

- PGS.TS. Nguyễn Trọng Phúc, Chủ tịch Hội đồng


- PGS.TS. Ngô Đăng Tri, Phó Chủ tịch Hội đồng
- PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà, Thư ký chuyên môn
- Thiếu tướng, PGS.TS. Nguyễn Bình Ban
- PGS.TS. Vũ Quang Hiển
- PGS.TS. Phạm Xuân Mỹ
■ PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hà
- TS. Nguyễn Hữu Công
- Đại tá, PGS.TS. Nguyễn Văn Sự
- PGS.TS. Nguyễn Văn Giang
- PGS.TS. Trần Thị Thu Hương
- TS. Nguyễn Thị Hoàn
- TS. Dương Văn Khoa
- TS. Ngô Quang Định
- Nguyễn Đức Trung, Thư ký hành chính

6
LỜI GIỚI THIỆU

Thực hiện các nghị quyết của Đảng về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngày 28/3/2014 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng ban hành Kết luận số 94-KL/TW “về việc
tiếp tục đổi mới việc học tập lý luận chính trị trong hệ thống
giáo dục quốc dân”. Kết luận số 94-KL/TW khẳng định, đổi mới
việc học tập (bao gồm cả nội dung, chương trình, phương pháp
giảng dạy, xây dựng đội ngũ giáo viên...) lý luận chính trị trong
hệ thống giáo dục quốc dân có tầm quan trọng chiến lược; đồng
thời yêu cầu đổi mới việc học tập lý luận chính trị trong hệ
thống giáo dục quốc dân phải tạo bước tiến mới, có kết quả, chất
lượng cao hơn, góp phần làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng giữ vai
trò chủ đạo trong đời sống xã hội; bảo đảm thế hệ trẻ Việt Nam
luôn trung thành vối mục tiêu, lý tưởng của Đảng và vối chế độ
xã hội chủ nghĩa.
Dưối sự chủ trì của Ban Tuyên giáo Tiling ương Đảng, Bộ
Giáo dục và Đào tạo, trực tiếp là Ban Chỉ đạo biên soạn chương
trình, giáo trình lý luận chính trị, trong những năm qua, việc tô
chức biên soạn bộ giáo trình các môn lý luận chính trị được thực
hiện nghiêm túc, công phu, cẩn trọng với nguyên tắc cần phân

7
định rõ nội dung của từng đối tượng học, từng cấp học, bậc học,
tránh trùng lắp, đồng thời bảo đảm tính liên thông. Phương châm
của đổi mới việc học tập lý luận chính trị là cùng với đổi mổi về nội
dung phải đồng thời đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập
theo hướng sinh động, mềm dẻo, phù hợp với thực tiễn cũng như
đốĩ tượng học tập; tạo được sự hứng thú và có trách nhiệm cho
người dạy, người học. Đối với sinh viên đại học hệ không chuyên lý
luận chính trị, phải xây dựng các bài giảng chung, tổng hợp các
vấn đê cơ bản nhất về chủ nghĩa Mác - Lênin, trọng tâm là về chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, gắn vổi tư
tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối của Đảng. Sinh viên
hệ chuyên lý luận chính trị cần học tập các kiến thức sâu rộng,
đầy đủ hơn, phù hợp với yêu cầu đào tạo.
Trong quá trình biên soạn, tập thể các tác giả đã kế thừa nội
dung các giáo trình do Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn
giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức biên soạn. Đồng thời,
Ban Chỉ đạo, tập thể tác giả đã tiếp thu các ý kiến góp ý của
nhiều tập thể cũng như các nhà khoa học, giảng viên các trường
đại học trong cả nước. Cho đến nay, về cơ bản bộ giáo trình đã
hoàn thành việc biên soạn theo những tiêu chí đề ra. Nhằm cung
cấp tài liệu giảng dạy, học tập cho giảng viên, sinh viên các
trường đại học theo chương trình mới, Bộ Giáo dục và Đào tạo
phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quỗc gia Sự thật xuất bản bộ
giáo trình lý luận chính trị dành cho bậc đại học hệ chuyên và
không chuyên lý luận chính trị, gồm 5 môn:
- Giáo trình Triết học Mác - Lênin
- Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin

8
- Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học
- Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
- Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mặc dù đã có nhiều cô' gắng trong quá trình tổ chức biên
soạn, tiếp thu các ý kiến góp ý để hoàn thiện bản thảo và xuất
bản, song do nhiều lý do chủ quan và khách quan, bộ giáo trình
chắc chắn khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, cần được
tiếp tục bổ sung, chỉnh sửa và cập nhật. Rất mong nhận được
các ý kiến góp ý của bạn đọc để bộ giáo trình được hoàn thiện
hơn trong những lần xuất bản sau.
Thư góp ý xin gửi về: Vụ Giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và
Đào tạo, sô' 35 Đại cồ Việt, Hà Nội; hoặc Nhà xuất bản Chính
trị quô'c gia Sự thật, sô' 6/86 Duy Tân, cầu Giấy, Hà Nội, Email:
suthat@nxbctqg.vn.
Trân trọng giới thiệu bộ giáo trình với đông đảo bạn đọc.

Hà Nội, tháng 6 năm 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA sự THẬT

9
Chương nhập môn
ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM vụ,
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu,
HỌC TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh


sáng lập (3/2/1930). Từ thòi điểm lịch sử đó, lịch sử của
Đảng hòa quyện cùng lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Đảng đã lãnh đạo và đưa sự nghiệp cách mạng của giai
cấp công nhân và dân tộc Việt Nam đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác, “có được cơ đồ và vị thế như ngày
nay”1. “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thòi là đội tiên phong của nhân
dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lẩn thứ tư Ban
Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà
Nội, 2016, tr.20.

11
cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ
chức cơ bản”1.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là một chuyên
ngành, một bộ phận của khoa học lịch sử. Chuyên ngành
lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã được nghiên cứu từ rất
sớm. Năm 1933, tác giả Hồng Thế Công (tức Hà Huy Tập)
đã công bố tác phẩm Sơ thảo lịch sử phong trào cộng sản
Đông Dương, ở các thời kỳ lịch sử của Đảng, Hồ Chí Minh
và các nhà lãnh đạo đã có những tổng kết quan trọng. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960) đã nêu
rõ nhiệm vụ nghiên cứu, tổng kết lịch sử Đảng, nhất là tổng
kết kinh nghiệm, bài học lãnh đạo của Đảng, con đường và
quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam.
Năm 1962, cơ quan chuyên trách nghiên cứu, biên
soạn lịch sử Đảng là Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung
ương được thành lập (nay là Viện Lịch sử Đảng). Từ
những năm 60 của thế kỷ XX, bộ môn Lịch sử Đảng đã
được giảng dạy, học tập chính thức trong các trường đại
học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp. Theo sự chỉ đạo
của Bộ Chính trị khóa VII, ngày 13/7/1992, Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tưống Chính phủ) đã ban
hành Quyết định số 255/CT thành lập Hội đồng chỉ đạo
biên soạn giáo trình quôc gia các bộ môn khoa học Mác -

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.88.

12
Lẻnin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có bộ môn Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam dành
cho bậc đại học được biên soạn lần này là sự kế thừa và
phát triển các giáo trình đã biên soạn trước đây, phù hợp
với yêu cầu đổi mối căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo theo quan điểm của Đảng.

I- ĐÔÌ TƯỢNG NGHIÊN cứu


CỦA MÔN HỌC LỊCH sử ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Đối tượng nghiên cứu của khoa học Lịch sử Đảng là sự


ra đời, phát triển và hoạt động lãnh đạo của Đảng qua các
thời kỳ lịch sử.
1. Môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nghiên
cứu sâu sắc, có hệ thống cấc sự kiện lịch sử Đảng, hiểu rõ
nội dung, tính chất, bản chất của các sự kiện đó gắn liền
vối sự lãnh đạo của Đảng. Các sự kiện thể hiện quá trình
Đảng ra đời, phát triển và lãnh đạo sự nghiệp giải phóng
dân tộc, kháng chiến cứu quốc và xây dựng, phát triển đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trên các lĩnh vực
chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng,
an ninh, đốì ngoại,... cần phân biệt rõ sự kiện lịch sử
Đảng gắn trực tiếp với sự lãnh đạo của Đảng; phân biệt sự
kiện lịch sử Đảng với sự kiện lịch sử dân tộc và lịch sử
quân sự trong cùng thời kỳ, thời điểm lịch sử.

13
Sự kiện lịch sử Đảng là hoạt động lãnh đạo, đấu
tranh phong phú và oanh liệt của Đảng, làm sáng rõ
bản chất cách mạng của Đảng với tư cách là một đảng
chính trị, là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.
Hệ thống các sự kiện lịch sử Đảng nhằm làm rõ thắng
lợi, thành tựu của cách mạng, đồng thòi cũng thấy rõ
những khó khăn, thách thức, hiểu rõ những hy sinh,
cống hiến lớn lao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân,
sự hy sinh, phấn đấu của các tổ chức lãnh đạo của Đảng
từ Trung ương tới cơ sở, của mỗi cán bộ, đảng viên, vởi
những tấm gương tiêu biểu. Các sự kiện phải được tái
hiện trên cơ sở tư liệu lịch sử chính xác, trung thực,
khách quan.
2. Đảng lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, xây
dựng và phát triển đất nưởc bằng Cương lĩnh, đường lô'i,
chủ trương, chính sách lớn. Lịch sử Đảng có đối tượng
nghiên cứu là Cương lĩnh, đường lối của Đảng; phải
nghiên cứu, làm sáng tỏ nội dung Cương lĩnh, đường lối
của Đảng, cơ sở lý luận, thực tiễn và giá trị hiện thực của
đường lối trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt
Nam. Cương lĩnh, đưòng lối đúng đắn là điều kiện trước
hết quyết định thắng lợi của cách mạng. Phải không
ngừng bổ sung, phát triển đường lối phù hợp với sự phát

14
triển của lý luận, thực tiễn và yêu cầu của cuộc sống;
chống nguy cơ sai lầm về đường lối, nếu sai lầm về đường
lốì sẽ dẫn tói đổ vỡ, thất bại.
Đảng đã đề ra Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930);
Luận cương chính trị (10/1930); Chính cương của Đảng
(2/1951) và Cương lĩnh xây dựng đất nưóc trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (6/1991), Cương lĩnh xây dựng đất
nưốc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011). Trong quá trình lãnh đạo, Đảng đề
ra đường lối nhằm cụ thể hóa Cương lĩnh trên những vấn
đê' nổi bật ở mỗi thòi kỳ lịch sử: Đường lối cách mạng giải
phóng dân tộc; đường lối kháng chiến bảo vệ Tổ quốc;
đường lốì cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; đường lối
cách mạng xã hội chủ nghĩa; đường lối đổi mối; đường lối
quân sự; đường lối đôi ngoại, V.V.. Đảng quyết định
những vấn đề chiến lược, sách lược và phương pháp cách
mạng. Đảng là người tổ chức phong trào cách mạng của
quần chúng nhân dân, hiện thực hóa đường lối đưa đến
thắng lợi.
3. Đảng lãnh đạo thông qua quá trình chỉ đạo, tổ chức
thực tiễn trong tiến trình cách mạng. Nghiên cứu, học tập
lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam làm rõ thắng lợi, thành
tựu, kinh nghiệm, bài học của cách mạng Việt Nam do
Đảng lãnh đạo trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, kháng
chiến giành độc lập, thống nhất Tổ quốc, thành tựu của
công cuộc đổi mới. Từ một quốc gia nông nghiệp lạc hậu,

15
một nước thuộc địa nửa phong kiến, bị đế quốc, thực dân
cai trị, dân tộc Việt Nam đã giành lại độc lập bằng cuộc
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với bản Tuyên ngôn độc
lập lịch sử; tiến hành hai cuộc kháng chiến bảo vệ Tô
quốc, thống nhất đất nước; thực hiện công cuộc đổi mối,
đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội vối những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đảng cũng thẳng thắn nêu
rõ những khuyết điểm, hạn chế, khó khăn, thách thức,
nguy cơ cần phải khắc phục, vượt qua.
Nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng là giáo dục sâu sắc
những kinh nghiệm, bài học trong lãnh đạo của Đảng.
Tổng kết kinh nghiệm, bài học, tìm ra quy luật riêng của
cách mạng Việt Nam là công việc thường xuyên của Đảng
ở mỗi thời kỳ lịch sử. Đó là nội dung và yêu cầu của công
tác lý luận, tư tưỏng của Đảng, nâng cao trình độ lý luận,
trí tuệ của Đảng. Lịch sử Đảng là quá trình nhận thức,
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam. cần nhận
thức rõ và chú trọng giáo dục những truyền thống nổi bật
của Đảng: truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất
của Đảng; truyền thốhg đoàn kết, thống nhất trong Đảng;
truyền thông gắn bó mật thiết với nhân dân, vì lợi ích
quốc gia, dân tộc; truyền thống của chủ nghĩa quốc tế
trong sáng.
4. Nghiên cứu lịch sử Đảng là làm rõ hệ thống tổ chức
Đảng, công tác xây dựng Đảng qua các thời kỳ lịch sử.

16
Nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng để nêu cao hiểu biết về
công tác xây dựng Đảng trong các thời kỳ lịch sử về chính
trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Xây dựng Đảng về
chính trị bảo đảm tính đúng đắn của đường lối, củng cố
chính trị nội bộ và nâng cao bản lĩnh chính trị của Đảng.
Xây dựng Đảng về tư tưởng để bảo đảm Đảng lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưỏng, kim chỉ nam cho hành động. Xây dựng Đảng về
tổ chức là củng cố, phát triển hệ thông tổ chức và đội ngũ
cán bộ, đảng viên của Đảng, tuân thủ các nguyên tắc tổ
chức cơ bản. Xây dựng Đảng về đạo đức với những chuẩn
mực về đạo đức trong Đảng và ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về đạo đức, lối sốhg của một bộ phận cán bộ, đảng
viên hiện nay.

II- CHỨC NÀNG, NHIỆM vụ CỦA MÔN HỌC


LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Là một ngành của khoa học lịch sử, Lịch sử Đảng


Cộng sản Việt Nam có chức năng, nhiệm vụ của khoa học
lịch sử, đồng thời có những điểm cần nhấn mạnh.

1. Chức năng của khoa học Lịch sử Đảng

a) Chức năng nhận thức


Nghiên cứu và học tập lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

17
để nhận thức đầy đủ, có hệ thống những tri thức lịch sử
về sự lãnh đạo, đấu tranh và cầm quyền của Đảng, nhận
thức rõ về Đảng với tư cách một đảng chính trị - tổ chức
lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân
tộc Việt Nam. Quy luật ra đời và phát triển của Đảng là
sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nưốc Việt Nam. Đảng được trang
bị học thuyết lý luận, có Cương lĩnh, đường lối rõ ràng, có
tổ chức, kỷ luật chặt chẽ, hoạt động có nguyên tắc. Từ
năm 1930 đến nay, Đảng là tổ chức lãnh đạo duy nhất
của cách mạng Việt Nam. Từ Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, Đảng trở thành Đảng cầm quyền, nắm chính
quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi
của cách mạng. Đảng thường xuyên tự xây dựng và chỉnh
đôn để hoàn thành sứ mệnh lịch sử trước đất nước và
dân tộc.
Nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
còn nhằm nâng cao nhận thức về thời đại mới của dân tộc -
thời đại Hồ Chí Minh, góp phần bồi đắp nhận thức lý luận
từ thực tiễn Việt Nam. Nâng cao nhận thức về giác ngộ
chính trị, góp phần làm rõ những vấn đề của khoa học
chính trị (chính trị học) và khoa học lãnh đạo, quản lý.
Nhận thức rõ những vấn đề lớn của đất nưốc, dân tộc
trong mối quan hệ với những vấn đề của thời đại và
thế giới. Tổng kết lịch sử Đảng để nhận thức quy luật

18
của cácli mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, quy luật đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều
kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.

b) ('hức năng giáo dục


Nghiên cứu, biên soạn, giảng dạy, học tập lịch sử
Đảng ('ông sản Việt Nam cần quán triệt chức năng giáo
dục của khoa học lịch sử, đó là giáo dục sâu sắc tinh
thần yêu nước, ý thức, niềm tự hào, tự tôn, ý chí tự lực,
tự cường dân tộc. Tinh thần đó hình thành trong lịch sử
dựng nưốc, giữ nưóc của dân tộc và phát triển đến đỉnh
cao ở thời kỳ Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của
dân tộc. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam giáo dục lý
tưởng cách mạng với mục tiêu chiến lược là độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là sự giáo dục tư tưởng
chính trị, nâng cao nhận thức tư tưởng, lý luận, con
đường phát triển của cách mạng và dân tộc Việt Nam.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam giáo dục chủ nghĩa
anh hùng cách mạng, tinh thần chiến đấu bất khuất,
đức hy sinh, tính tiên phong gương mẫu của các tổ chức
đảng, những chiến sĩ cộng sản tiêu biểu trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc và phát triển đất nưốc.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò quan trọng
trong giáo dục truyền thống của Đảng và dân tộc, góp
phần giáo dục đạo đức cách mạng, nhân cách, lối sốhg

19
cao đẹp như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng
ta là đạo đức, là văn minh”1.

c) Chức năng dự báo và phê phán

Cùng với hai chức năng cơ bản của sử học là nhận


thức và giáo dục, khoa học lịch sử Đảng còn có chức năng
dự báo và phê phán. Từ nhận thức những gì đã diễn ra
trong quá khứ để hiểu rõ hiện tại và dự báo tương lai của
sự phát triển. Năm 1942, trong tác phẩm Lịch sử nước ta,
Hồ Chí Minh đã dự báo: “Năm 1945 Việt Nam độc lập”.
Sau này, Người còn nhiều lần dự báo chính xác trong hai
cuộc kháng chiến. Lãnh đạo đòi hỏi phải thấy trước, do
vậy trong giai đoạn hiện nay, khi tình hình thế giới diễn
biến phức tạp, khó lường, Đảng nhấn mạnh cần nâng cao
năng lực dự báo.
Để tăng cường sự lãnh đạo, nâng cao sức chiến đấu
của Đảng, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển
của Đảng. Phải kiên quyết phê phán những biểu hiện tiêu
cực, lạc hậu, hư hỏng. Trong giai đoạn hiện nay, sự phê
phán nhằm mục đích ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưỏng chính trị, đạo đức, lối sốhg và những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, t.12, tr.403.

20
2. Nhiệm vụ của khoa học Lịch sử Đảng

Nhiệm vụ của khoa học Lịch sử Đảng được đặt ra từ


đối tượng nghiên cứu, đồng thời cụ thể hóa chức năng của
khoa học Lịch sử Đảng.
- Nhiệm vụ trình bày có hệ thông Cương lĩnh,
đường lốì của Đảng. Khoa học Lịch sử Đảng có nhiệm
vụ hàng đầu là khẳng định, chứng minh giá trị khoa
học và hiện thực của những mục tiêu chiến lược và
sách lược cách mạng mà Đảng đề ra trong Cương lĩnh,
đường lối từ khi Đảng ra đời và suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng. Mục tiêu và con đường đó là sự kết hợp,
thông nhất giữa thực tiễn lịch sử vối nền tảng lý luận
nhằm thúc đẩy tiến trình cách mạng, nhận thức và cải
biến đất nưổc, xã hội theo con đường đúng đắn. Sự lựa
chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền vối chủ nghĩa xã
hội phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử, đã và
đang được hiện thực hóa.
- Nhiệm vụ tái hiện tiến trình lịch sử lãnh đạo, đấu
tranh của Đảng. Từ hiện thực lịch sử và các nguồn tư
liệu thành văn và không thành văn, khoa học Lịch sử
Đảng có nhiệm vụ rất quan trọng và làm rõ những sự
kiện lịch sử, làm nổi bật các thời kỳ, giai đoạn và dấu
mốc phát triển căn bản của tiến trình lịch sử, nghĩa là
tái hiện quá trình lịch sử lãnh đạo và đấu tranh của
Đảng. Những kiến thức, tri thức lịch sử Đảng được làm

21
sáng tỏ từ vai trò lãnh đạo, hoạt động thực tiễn của
Đảng, vai trò, sức mạnh của nhân dân, của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Hoạt động của Đảng không biệt
lập mà thống nhất và khơi dậy mạnh mẽ nguồn sức
mạnh từ giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn
dân tộc.
- Nhiệm vụ tổng kết lịch sử của Đảng. Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam không dừng lại ở việc mô tả, tái
hiện sự kiện và tiến trình lịch sử, mà còn có nhiệm vụ
tổng kết từng chặng đường và suốt tiến trình lịch sử,
làm rõ kinh nghiệm, bài học, quy luật và những vấn đề
lý luận của cách mạng Việt Nam. Kinh nghiệm lịch sử
gắn liền với những sự kiện hoặc một giai đoạn lịch sử
nhất định. Bài học lịch sử khái quát cao hơn gắn liền với
một thời kỳ dài, một vấn đề của chiến lược cách mạng
hoặc khái quát toàn bộ tiến trình lịch sử của Đảng.
Quy luật và những vấn đề lý luận ở tầm tổng kết cao hơn.
Hồ Chí Minh nêu rõ:
“Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh
nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật
kỹ lưỡng, rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó
chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính”1.
“Lý luận do kinh nghiệm cách mạng ở các nước và
trong nước ta, do kinh nghiệm từ trưốc và kinh nghiệm

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.273.

22
hiện nay gom góp phân tích và kết luận những kinh
nghiệm đó thành ra lý luận”1.
Hồ Chí Minh nhiều lần đặt ra yêu cầu phải tổng kết,
tìm ra quy luật riêng của cách mạng Việt Nam. Qua nhiều
lần tổng kết, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định:
“Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày
càng được xác định rõ hơn”2.
“Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù
hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của
lịch sử’3.
- Một nhiệm vụ quan trọng của lịch sử Đảng là làm rõ
vai trò, sức chiến đấu của hệ thôhg tổ chức đảng từ Trung
ương đến cơ sở trong lãnh đạo, tổ chức thực tiễn. Những
truyền thống nổi bật của Đảng; tấm gương của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo, những chiến sĩ cộng
sản tiêu biểu trong các thời kỳ cách mạng; trí tuệ, tính
tiên phong, gương mẫu, bản lĩnh của cán bộ, đảng viên;
những giá trị truyền thống, đức hy sinh... luôn luôn là
động lực cho sự phát triển và bản chất cách mạng của
Đảng. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (10/2016) khẳng
định: “Chúng ta có quyền tự hào về bản chất tốt đẹp,

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.312.


2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Vắn kiện Đảng toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, t.55, tr.356.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.66.

23
truyền thống anh hùng và lịch sử vẻ vang của Đảng ta -
Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đại biểu của dân
tộc Việt Nam anh hùng”1.

III- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu, HỌC TẬP


MÔN HỌC LỊCH sử ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

1. Quán triệt phương pháp luận sử học

Phương pháp nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng Cộng


sản Việt Nam cần dựa trên phương pháp luận khoa học
mácxít, đặc biệt là nắm vững chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét và nhận
thức lịch sử một cách khách quan, trung thực và đúng quy
luật. Chú trọng nhận thức lịch sử theo quan điểm khách
quan, toàn diện, phát triển và lịch sử cụ thể. Tư duy từ
thực tiễn, từ hiện thực lịch sử, coi thực tiễn và kết quả của
hoạt động thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Chân lý là
cụ thể, cách mạng là sáng tạo. Nhận thức rõ các sự kiện
và tiến trình lịch sử trong các mối quan hệ: nguyên nhân
và kết quả, hình thức và nội dung, hiện tượng và bản chất,
cái chung và cái riêng, phô biến và đặc thù.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là kết quả của tư duy biện
chứng, khoa học để xem xét, nhận thức lịch sử. Khi nghiên

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lẩn thứ tư Ban
Chấp hành Trung ương khóa XII, Sđd, tr.20.

24
cứu, học t ập lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, cần thiết
phải nli.ui thức, vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử để
nhận thức tiến trình cách mạng do Đảng Cộng sản Việt
Nam hình đạo. Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội; về
giai cấp và đấu tranh giai cấp; về dân tộc và đấu tranh
dân tộ<, về vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân
trong l|< I) sử; về các động lực thúc đẩy sự phát triển của
xã hội và lịch sử; về cách mạng xã hội và tính tất yếu của
cách niiing xã hội chủ nghĩa, sứ mệnh lịch sử của giai cấp
vô sản và Đảng Cộng sản.
Cùng vối chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh In nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động
của Đnng. Tư tưởng Hồ Chí Minh dẫn dắt sự nghiệp cách
mạng < lìa Đảng và dân tộc. Nghiên cứu, nắm vững tư
tưởng I lổ Chí Minh có ý nghĩa quan trọng để hiểu rõ lịch
sử Đảng Tư tưởng Hồ Chí Minh và tư duy, phong cách
khoa học của Người là cơ sở và định hướng về phương
pháp nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, không ngừng sáng tạo, chống chủ nghĩa giáo điều và
chủ quan duy ý chí.

2. (hìc phương pháp cụ thể

Khoa học lịch sử và chuyên ngành khoa học Lịch sử


Đảng Cong sản Việt Nam đều sử dụng hai phương pháp cơ
bản: phương pháp lịch sử và phương pháp logic, đồng thời
chú trọng vận dụng các phương pháp nghiên cứu, học tập
các môn khoa học xã hội khác.

25
a) Phương pháp lịch sử

Phương pháp lịch sử là các con đường, cách thức tìm


hiểu và trình bày quá trình phát triển của các sự vật và
hiện tượng nói chung, của lịch sử loài người nói riêng với
đầy đủ tính cụ thể, sốhg động, quanh co của chúng.
Phương pháp lịch sử là nhằm diễn lại tiến trình phát
triển của lịch sử với muôn màu muôn vẻ, nhằm thể hiện
cái lịch sử vối tính cụ thể hiện thực, tính sinh động của nó.
Nó giúp chúng ta nắm vững được cái lịch sử để có cơ sỏ
nắm cái logic được sâu sắc.
Phương pháp lịch sử đi sâu vào tính muôn vẻ của
lịch sử để tìm ra cái đặc thù, cái cá biệt trong cái phổ
biến. Các hiện tượng lịch sử thường hay tái diễn, nhưng
không bao giò hoàn toàn như cũ; phương pháp lịch sử
chú ý tìm ra cái khác trước, cái không lặp để thấy
những nét đặc thù lịch sử. Phương pháp lịch sử để thấy
bưốc quanh co, có khi thụt lùi tạm thòi của quá trình
lịch sử. Phương pháp lịch sử đòi hỏi nghiên cứu thấu
đáo mọi chi tiết lịch sử để hiểu vai trò, tâm lý, tình cảm
của quần chúng, hiểu điểm và diện, tổng thể đến cụ
thể. Chú trọng về không gian, thời gian, tên đất, tên
người để tái hiện lịch sử đúng như nó đã diễn ra.
Phương pháp lịch sử không có nghĩa là học thuộc lòng
sự kiện, diễn biến lịch sử mà phải hiểu tính chất, bản
chất của sự kiện, hiện tượng, do đó không tách rời
phương pháp logic.

26
Il) 1’lìiíơngpháp logic
Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu các
hlộii I thing lịch sử trong hình thức tổng quát, nhằm mục
■|| h vạch ra bản chất, quy luật, khuynh hướng chung
Hự vận động của chúng. Phương pháp logic đi sâu
ilm hiAu cái bản chất, cái phổ biến, cái lặp lại của các hiện
lươnr . các sự kiện, phân tích, so sánh, tổng hợp với tư duy
■ hili quát để tìm ra bản chất các sự kiện, hiện tượng. Xác
■lull ró cốc bước phát triển tất yếu của quá trình lịch sử,
||| Um ra quy luật vận động khách quan của lịch sử,
|liihiiq; pháp logic chú trọng những sự kiện, nhân vật, giai
IịIihiii mang tính điển hình, cần thiết phải nắm vững logic

■Mr vá rồn luyện tư duy logic, phương pháp logic có ý


HHhm quyết định đến sự nhận thức đúng đắn thế giới
MlAch quan, hiện thực lịch sử, thấy rõ được hưống phát
IrííHi lììa lịch sử. Từ nắm vững quy luật khách quan mà
till, dung vào thực tiễn cách mạng, góp phần chủ động cải
f||ĩ' cái biến thế giới.
Chỉ có nắm vững phương pháp lịch sử và phương
IthAp logic mới có thể hiểu rõ bản chất, nhận thức đúng
linn filing dạy và học tập lịch sử Đảng Cộng sản Việt
I ill III một cách có hiệu quả, với tư cách một môn khoa
hụ. Phương pháp lịch sử và phương pháp logic có quan
hl mill thiết vối nhau và đó là sự thống nhất của phương
■hip biện chứng mácxít trong nghiên cứu và nhận thức
11'1. mí Các phương pháp đó không tách rời mà luôn luôn

27
gắn với nguyên tắc tính khoa học và tính đảng trong
khoa học lịch sử và trong chuyên ngành Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam.

c) Các phương pháp khác

Cùng với hai phương pháp cơ bản là phương phểãp


lịch sử, phương pháp logic, nghiên cứu, học tập lịch sủí
Đảng Cộng sản Việt Nam cần coi trọng phương phẾíp
tổng kết thực tiễn lịch sử gắn với nghiên cứu lý luận dỗ
làm rõ kinh nghiệm, bài học, quy luật phát triển
những vấn đề về nhận thức lý luận của cách mạng Vi«,'l
Nam do Đảng lãnh đạo. Chú trọng phương pháp so sán h,
so sánh giữa các giai đoạn, thòi kỳ lịch sử, so sánh các &»ự
kiện, hiện tượng lịch sử, làm rõ các môi quan hệ, so sánh
trong nước và thế giới, V.V..
Phương pháp học tập của sinh viên, hết sức cói trọx Ig
nghe giảng trên lớp để nắm vững những nội dung cơ bản
của từng bài giảng và nội dung tổng thể của môn heir,
Thực hiện phương pháp làm việc nhóm, tiến hành tha io
luận, trao đổi các vấn để do giảng viên đặt ra để hiểu rọ
hơn nội dung chủ yếu của môn học. sử dụng công ngliộ
thông tin trong giảng dạy và học tập. Tổ chức các cuộc 1ỄL 111
việc tại bảo tàng lịch sử quốc gia, bảo tàng địa phương 'vA
các di tích lịch sử đặc biệt gắn với sự lãnh đạo của Đảr>H,
Thực hiện kiểm tra, thi cử theo đúng quy chê đào tạo C<I||
Bộ Giáo dục và Đào tạo và của các trường đại học.

28
Nghiên cứu, giảng dạy, học tập lịch sử Đảng Cộng sản
Vlộl Nilin cần chú trọng phương pháp vận dụng lý luận
Hu I hực tiễn. Điều đó đòi hỏi nắm vững lý luận cơ bản của
Mill nghĩa Mác - Lênin, bao gồm triết học, kinh tế chính
• »ì I lọc, chủ nghĩa xã hội khoa học, nắm vững tư tưởng Hồ
fill Minh, luôn luôn liên hệ lý luận vối thực tiễn Việt Nam
ilí nh.in thức đúng đắn bản chất của mỗi hiện tượng, sự
ậicn rùa lịch sử lãnh đạo, đấu tranh của Đảng.

IV- MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU


(H I A MÔN HỌC LỊCH sử ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

'l inh khoa học là sự phản ánh kết quả nghiên cứu sự
ệệl. Inẹn tượng, sự kiện lịch sử phải đạt đến chân lý
llhhi'h quan. Tính khoa học đòi hỏi phản ánh lịch sử
hliiu li quan, trung thực vối những đánh giá, kết hợp dựa
III II luận cứ khoa học, tôn trọng hiện thực lịch sử. Tính
IiIiiiii học yêu cầu phương pháp nghiên cứu phải sáng

lậu nghiêm túc và có trách nhiệm. Tính đảng cộng sản


Irung nghiên cứu lịch sử và lịch sử Đảng yêu cầu đứng
1(1 II lộp trường chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
dlinli (le nhận thức lịch sử một cách khoa học, đúng đắn;
||| mi phản ánh đúng đắn quan điểm, đường lối của Đảng
■I |||| ích của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và
£ie> (III II tộc; là thể hiện tính chiến đấu, biểu dương cái
do III? (lÁn, tốt đẹp, phê phán cái xấu, cái lạc hậu, hư

29
hỏng và những nhận thức lệch lạc, . sai trái, phản động
của các thế lực thù địch; luôn luôn thừa và phát trie II
sáng tạo. Tính khoa học và tính đẻuâng là thống nhất vù
đều hướng tới phục vụ nhiệm vụ chí lĩnh trị của Đảng, <11.1
cách mạng, vì lý tưởng, mục tiêu độSc lập dân tộc và chú
nghĩa xã hội.
Đối với bậc đại học hệ không c -huyên lý luận chính
trị, phân bổ 2 tín chỉ (30 tiết giảng lý thuyết), tập trung
nghiên cứu nội dung tương ứng vớỉ 3 thời kỳ nổi bật cím
lịch sử Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đòi và lanh
đạo đấu tranh giải phóng dân tộc (1930 - 1945); ĐíinH
lãnh đạo hai cuộc kháng chiến giànmh độc lập hoàn tort II, I
thống nhất đất nước và xây dựng c:hủ nghĩa xã hội trôn I
miền Bắc (1945 - 1975); Đảng lãntm đạo cả nưốc quá độ I
lên chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quL-ốic và thực hiện công
cuộc đổi mối (từ năm 1975 đến nay). Sinh viên cần nrtm
vững hệ thống những vấn đề cơ fc> ản của lịch sử Đíuiý
Cộng sản Việt Nam. Cụ thể là:
- Hiểu rõ đặc điểm, mâu thuẫ-tri chủ yếu của xã hại
thuộc địa, phong kiến ở Việt Nam cvw.ốì thế kỷ XIX đầu 1 lirt
kỷ XX; sự phát triển tất yếu của ctsSiu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc để giải phóng dân tộ<3 , giải phóng xã hội và
giải phóng con người; các phong trêtcn yêu nước chống 111 ự>'
dân Pháp xâm lược từ lập trưòn^gr' cần Vương đến lii|i
trường tư sản, tiểu tư sản, qua kh_ễão nghiệm lịch sử ilrtu
lần lượt thất bại. Tình hình đất nưâc đen tối như không ert

30
rtifiini'. ra. Trong hoàn cảnh đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc -
(In Chi Minh đã tìm ra con đường đấu tranh đúng đắn để
■Ặnh (lộc lập cho dân tộc và giải phóng nhân dân. Người
M huyền bá lý luận cách mạng là chủ nghĩa Mác - Lênin
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
■Hill, phát triển sáng tạo học thuyết lý luận đó phù hợp
»Ọ| ihực tiễn Việt Nam; chuẩn bị những điều kiện về tư
■(Hili’ lý luận, chính trị, tổ chức, cán bộ để thành lập
tlậnp Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
HIIIII Xuân năm 1930 với Cương lĩnh chính trị đúng đắn đã
ỆRii III thời kỳ phát triển mới của cách mạng và dân tộc
Viĩ’1 Nam.
Từ năm 1930 đến năm 1945, Đảng và lãnh tụ Hồ Chí
Ệhiili Is hông ngừng bổ sung, phát triển Cương lĩnh, đường
■I HI ương cao ngọn cờ độc lập dân tộc theo con đường cách
■ặHH vô sản, hoàn thiện đường lối giải phóng dân tộc,
hhili 'lnơ các phong trào cách mạng 1930 - 1931, 1936 - 1939
Ệịi rmi trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945 dẫn đến thắng lợi
phi ri lọc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. cần nắm
Ệiiiiịị linh chất, đặc điểm, ý nghĩa lịch sử của cuộc Cách
Ệhini' Tháng Tám và bản Tuyên ngôn độc lập (2/9/1945) -
•li hun mở ra thời đại mới trong lịch sử dân tộc và cách
HỊụnil Việt Nam.
E • Trong hoàn cảnh lịch sử vối nhiều khó khăn, thách
Hihi I un thời kỳ mới, Đảng có đường lối, chiến lược và
H li lưực phù hợp, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, xây

31
dựng chính quyền nhà nước và chê độ mới; đề ra (Sường lòì
và lãnh đạo kháng chiến làm thất bại các kế hoạ -Ch chiên
tranh của thực dần Pháp đưa đến chiến thắng lịch-* sử Đirn
Biên Phủ (7/5/1954) và ký kết Hiệp nghị Giơnevd
(21/7/1954). Đê quốc Mỹ áp đặt chủ nghĩa thực ẽlsân mới <1
miền Nam Việt Nam và tiến hành cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 với c=ác chiôn
lược chiến tranh tàn bạo chống lại dân tộc Việt Nam v|
phong trào cách mạng giải phóng trên thế giới. ĐẻSing đề rn
đường lối, kiên trì lãnh đạo đấu tranh, vượt qi_ia thách
thức hiểm nghèo dẫn đến toàn thắng của Chiến, dịch I ló
Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống aihất dai
nước (30/4/1975).
- Cần nhận thức rõ quá trình Đảng lãnh dạo each
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, vối đường lỡì do Dại
hội III của Đảng đề ra (9/1960); đưa cả nước qmá độ It'll
chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ísau nỉuii
1975. Hiểu được quá trình đổi mới tư duy lý Ixx-ận, khán
nghiệm thực tiễn trong những năm 1975 - 198€35 để hình
thành con đường đổi mối đất nước. Nắm vững <3ường lol
đổi mới được hoạch định tại Đại hội VI ci-ỉa Dáng
(12/1986); sự phát triển đường lối và tổ chức tZhực hiọii
hơn 30 năm qua đưa đất nước vững bưốc phát t^riển trôn
con đường xã hội chủ nghĩa. Đảng lãnh đạo cể»_ch mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, các cuộc kháng ch-ỉĩến, each
mạng xã hội chủ nghĩa phải vượt qua nhiều nguy Cíl,

32
I lilm khăn, thách thức, trong đó có cả khuyết điểm, yếu
I Min 'I mỗi thòi kỳ, song Đảng đã kiên cường cùng toàn
I ihĩn vượt qua, quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, thực
hiện t hành công sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng
Viẹi Nam. Nhận thức rõ hơn những truyền thống vẻ
Mniii' ' lia Đảng.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, như Chủ tịch
I lĩõ Chí Minh khẳng định, “7à cả một pho lịch sử bằng
■Đó chính là tính khoa học, cách mạng, giá trị thực
I IIỂh rtôu sắc trong Cương lĩnh, đường lối của Đảng; là sự
I Ị<ĩidi đạo đúng đắn, đáp ứng kịp thời những yêu cầu,
f ĩĩhíộm vụ do lịch sử đặt ra; những kinh nghiệm, bài học
lyuv báu có tính quy luật, lý luận của cách mạng Việt
Num và những truyền thống vẻ vang của Đảng. Nghiên
I film, học tập lịch sử Đảng không chỉ nắm vững những sự
I ham. cột mốc lịch sử mà cần thấu hiểu những vấn đề
phong phú đó trong quá trình lãnh đạo và đấu tranh, để
Riiii dụng, phát triển trong thời kỳ đổi mới toàn diện, đẩy
I Riiinli công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
I Iihiip quốc tế hiện nay.
Mục tiêu của nghiên cứu, học tập môn học Lịch sử
I |hui|' Cộng sản Việt Nam là nâng cao nhận thức, hiểu biết
ứ liiing Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong lãnh đạo
Mi'll mạng Việt Nam, đưa đến những thắng lợi, thành tựu

I I lỗ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.404.

33
có ý nghĩa lịch sử to lớn trong sự phát triển của lịch sử
dân tộc. Qua học tập, nghiên cứu lịch sử Đảng để giáo dục
lý tưởng, truyền thốhg đấu tranh cách mạng của Đảng và
dân tộc, củng cố, bồi đắp niềm tin đối vối sự lãnh đạo của
Đảng, tự hào về Đảng, nâng cao nhận thức cho thế hệ trẻ
khi gia nhập Đảng, tham gia xây dựng Đảng ngày càng
vững mạnh, tiếp tục thực hiện sứ mệnh vẻ vang của Đảng
là lãnh đạo bảo vệ vững chắc Tổ quôc và xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

34
Chương 1
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
VÀ LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH
GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930 -1945)

A. MỤC TIÊU

1. về kiến thức: Cung cấp cho sinh viên những tri


thức có tính hệ thốhg quá trình ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam (1920 - 1930), nội dung cơ bản, giá trị lịch sử
của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và quá trình
Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành
chính quyền (1930 - 1945).

2. về tư tưởng: Cung cấp cơ sở lịch sử, góp phần


củng cố niềm tin của thê hệ trẻ vào con đường cách
mạng giải phóng dân tộc và phát triển đất nước - sự lựa
chọn đúng đắn, tất yếu, khách quan của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam.

35
3. về kỹ năng: Trang bị cho sinh viên phương phấỊD
nhận thức biện chứng, khách quan về quá trình Đảng ra
đời và vai trò lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh giảã
phóng dân tộc, xác lập chính quyền cách mạng.

B. NỘI DUNG

I- ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐÒI 1


VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
(THÁNG 2/1930) I

1. Bối cảnh lịch sử

a) Tình hình thê giới

Từ nửa sau thế kỷ XIX, các nước tư bản Âu - Mỹ có


những chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống kinh tế - xã
hội. Chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển từ giai đoạn tự
do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (đê quốc claii
nghĩa), đẩy mạnh quá trình xâm chiếm và nô dịch các
nước nhỏ, yếu ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latin.11,
biến các quốc gia này thành thuộc địa của các nước đê
quốc. Trước bốĩ cảnh đó, nhân dân các dân tộc bị áp bức đã
đứng lên đấu tranh tự giải phóng khỏi ách thực dân, đê
quốc, tạo thành phong trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ,
rộng khắp, nhất là ỏ châu Á. Cùng vối phong trào đấư
tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản ở CẾLC

36
niídc tư bản chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc ở
lũh nưốc thuộc địa trở thành một bộ phận quan trọng
tiling cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa tư bản, thực
i1õn Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước châu Á đầu
thi' kỷ XX phát triển rộng khắp, tác động mạnh mẽ đến
phong trào yêu nưóc Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, thắng lợi của Cách mạng Tháng
Mười Nga năm 1917 đã làm biến đổi sâu sắc tình hình
thó giới. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga
không chỉ có ý nghĩa to lớn đốì với cuộc đấu tranh của
gí: li Cấp VÔ sản ở các nước tư bản, mà còn có tác động sâu
lầc đến phong trào giải phóng dân tộc ở cấc thuộc địa.
Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản, do V.I. Lênin đứng đầu,
dược thành lập, trở thành bộ tham mưu chiến đấu, tổ
I hức lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản thế giới.
Quốc tế Cộng sản không những vạch đường hưống chiến
II fi le cho cách mạng vô sản mà còn đề cập các vấn đề dân
tộc và thuộc địa; giúp đỡ, chỉ đạo phong trào giải phóng
ilnn tộc. Cùng với việc nghiên cứu và hoàn thiện chiến
lược và sách lược về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Quốc tế
Cọng sản đã tiến hành hoạt động truyền bá tư tưởng
1,11 11 mạng vô sản và thúc đẩy phong trào đấu tranh ở
khu vực này đi theo khuynh hướng vô sản. Đại hội II của
Quốc tế Cộng sản (1920) đã thông qua Sơ thảo lần thứ
nhíìt những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề

37
thuộc địa do V.I. Lênin khởi xướng. Cách mạng Tháng
Mười Nga và những hoạt động cách mạng của Quốc tế
Cộng sản đã ảnh hưởng mạnh mẽ và thức tỉnh phong
trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, trong đó có
Việt Nam và Đông Dương.

b) Tình hình Việt Nam và các phong trào yêu nước


trước khi có Đảng

- Tình hình Việt Nam:


Là quốc gia Đông Nam Á nằm ỏ vị trí địa chính trị
quan trọng của châu Á, Việt Nam trở thành đốĩ tượng
nằm trong mưu đồ xâm lược của thực dân Pháp. Sau một
quá trình điều tra thám sát lâu dài, thâm nhập kiên trì
của các giáo sĩ và thương nhân Pháp, ngày 1/9/1858, thực
dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, từng bước xâm lược
Việt Nam. Đó là thời điểm chế độ phong kiến Việt Nam
(dưới triều đại phong kiến nhà Nguyễn) đã lâm vào giai
đoạn khủng hoảng trầm trọng. Trước hành động xâm
lược của Pháp, triều đình nhà Nguyễn từng bước thỏa
hiệp (Hiệp ước 1862, 1874, 1883) và đến ngày 6/6/1884
với Hiệp ưốc Patơnốt đã đầu hàng hoàn toàn thực dân
Pháp, Việt Nam trở thành “một xứ thuộc địa, dân ta là
vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ
thù hung ác”1.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.401.

38
Tuy triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng thực dân
Pháp, nhưng nhân dân Việt Nam không chịu khuất phục,
phong trào đấu tranh nổ ra liên tục, khắp các địa phương.
Thực dân Pháp phải dùng vũ lực để bình định, đàn áp sự
nổi dậy của nhân dân. Thực dân Pháp tiến hành xây dựng
hệ thống chính quyền thuộc địa bên cạnh việc duy trì
chính quyền phong kiến bản xứ làm tay sai. Pháp thực
hiện chính sách “chia để trị” nhằm phá vỡ khối đoàn kết
cộng đồng quốc gia dân tộc: chia ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ,
Nam Kỳ) với các chế độ chính trị khác nhau nằm trong
Liên bang Đông Dương thuộc Pháp (Union Indochinoise)1,
được thành lập ngày 17/10/1887 theo sắc lệnh của Tổng
thống Pháp.
Từ năm 1897, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành các
cuộc khai thác thuộc địa lớn: Cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ nhất (1897 - 1914) và cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
hai (1919 - 1929). Mưu đồ của thực dân Pháp nhằm biến
Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung thành thị
trường tiêu thụ hàng hóa của “chính quốc”, đồng thời ra
sức vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động rẻ mạt của
người bản xứ, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề.
Chế độ cai trị, bóc lột hà khắc của thực dân Pháp đốì
vổi nhân dân Việt Nam là “chế độ độc tài chuyên chế nhất,
nó vô cùng khả ố và khủng khiếp hơn cả chế độ chuyên

1. Bao gồm: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Cao Miên, Ai Lao.

39
chế của nhà nưốc quân chủ châu Á đời xưa”1. Năm 1862,
Pháp đã lập nhà tù ở Côn Đảo để giam cầm những người
Việt Nam yêu nước chống Pháp.
Về văn hoá - xã hội, thực dân Pháp thực hiện chính
sách “ngu dân” để dễ cai trị, lập nhà tù nhiều hơn trường
học, đồng thời du nhập những giá trị phản văn hoá, duy
trì tệ nạn xã hội vốn có của chê độ phong kiến và tạo nên
nhiều tệ nạn xã hội mối, dùng rượu cồn và thuốc phiện để
đầu độc các thế hệ người Việt Nam, ra sức tuyên truyền tư
tưởng “khai hoá văn minh” của nước “Đại Pháp”...
Chế độ áp bức về chính trị, bóc lột về kinh tế, nô dịch
về văn hóa của thực dân Pháp đã làm biến đổi tình hình
chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam. Các giai cấp cũ phân
hóa, giai cấp, tầng lớp mới xuất hiện với địa vị kinh tế
khác nhau và do đó cũng có thái độ chính trị khác nhau
đối với vận mệnh của dân tộc.
Dưới chế độ phong kiến, giai cấp địa chủ và nông dân
là hai giai cấp cơ bản trong xã hội, khi Việt Nam trở thành
thuộc địa của Pháp, giai cấp địa chủ bị phân hóa.
Một bộ phận địa chủ câu kết với thực dân Pháp và
làm tay sai đắc lực cho Pháp trong việc ra sức đàn áp
phong trào yêu nưốc và bóc lột nông dân; một bộ phận
khác nêu cao tinh thần dân tộc, khởi xướng và lãnh đạo

1. Phan Văn Trường: Bài đăng trên tờ La Cloche Fêlée, số 36,


ngày 21/1/1926.

40
|pi> phong trào chống Pháp và bảo vệ chế độ phong kiến,
llihi lii(‘U là phong trào cần Vương; một số trỏ thành lãnh
riụo phong trào nông dân chống thực dân Pháp và phong
Ịtithi phán động; một bộ phận nhỏ chuyển sang kinh
Ểtìrtiih t heo lối tư bản.
Giai cấp nông dân chiếm số lượng đông đảo nhất
(khoáng hơn 90% dân số), đồng thời là một giai cấp bị bóc
lột nạng nề nhất. Do vậy, ngoài mâu thuẫn giai cấp vốh
•Ã với giai cấp địa chủ, nông dân còn có mâu thuẫn sâu
ĨMii' với thực dân xâm lược. “Tinh thẩn cách mạng của
l»fìng dân không chỉ gắn liền vối ruộng đất, vói đời sốhg
hrtui; ngày của họ, mà còn gắn bó một cách sâu sắc với
tinh cam quê hương đất nước, vối nền văn hóa hàng
nghm năm của dân tộc”1. Đây là lực lượng hùng hậu, có
tmli thần đấu tranh kiên cường bất khuất cho nền độc
lọp lự do của dân tộc và khao khát giành lại ruộng đất
•hơ (lân cày, khi có lực lượng tiên phong lãnh đạo, giai
irtp nông dân sẵn sàng vùng dậy làm cách mạng lật đổ
llníc dân, phong kiến.
Giai cấp công nhân Việt Nam được hình thành gắn
VƠI cốc cuộc khai thác thuộc địa, với việc thực dân Pháp
llnel lập các nhà máy, xí nghiệp, công xưởng, khu đồn
(ill'll... Ngoài những đặc điểm của giai cấp công nhân

I. Lê Duẩn: Giai cấp công nhân Việt Nam và liên minh công
11(1/)/;. Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.119.

41
quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam có nhữrrsig đặc diêm
riêng vì ra đòi trong hoàn cảnh một nước thì—lộc địa mill
phong kiến, chủ yếu xuất thân từ nông dân, cơ cấu chứ
yếu là công nhân khai thác mỏ, đồn điền, lự«c lượng CÒII
nhỏ bé1, nhưng sốm vươn lên tiếp nhận tư tưởng til'll
tiến của thòi đại, nhanh chóng phát triển tMỈ “tự phái"
đến “tự giác”, thể hiện là giai cấp có năng 11—Ịc lãnh dụọ I
cách mạng.
Giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện muộn Hiơn giai cAp
công nhân. Một bộ phận có lợi ích gắn liền với tư lain
Pháp, tham gia vào đời sống chính trị, kinh t-ê của childI
quyền thực dân Pháp, trở thành tầng lốp tư săn mại bail.
Một bộ phận là giai cấp tư sản dân tộc, họ ■bị thực dốiĩ
Pháp chèn ép, kìm hãm, bị lệ thuộc, yếu ớt về kinh to. I
Phần lớn tư sản dân tộc Việt Nam có tinh tt«*ần dân tộc, I
yêu nước nhưng không có khả năng tập hợp c^íc giai tfiri|!
để tiến hành cách mạng.
Tầng lốp tiểu tư sản (tiểu thương, tiểi_ia chủ, sinh
viên,...) bị đế quốc, tư bản chèn ép, khinh miệ'®, họ có tinh
thần dân tộc, yêu nước, rất nhạy cảm về chíntn trị và thơi
cuộc. Tuy nhiên, do địa vị kinh tế bấp bênh, biỄ^iy dao động,

1. Sô' lượng công nhân ồ Việt Nam đến trước Chiến trnnli
thế giới thứ nhất (năm 1913) có khoảng 10 vạn ng~ười; đến ctifii
năm 1929, công nhân Việt Nam có hơn 22 vạn. rmgười, chiêm
trên 1,2% dân số.

42
I ĩliHHi kiên định, do đó tầng lớp tiểu tư sản không thể lãnh
I^Kltiii ehch mạng.
Cóc sĩ phu phong kiến cũng có sự phân hóa: một bộ
pliẠn hướng sang tư tưởng dân chủ tư sản hoặc tư tưởng
■B min; một số người khởi xướng các phong trào yêu nước,
I pn linh hưởng lớn.
Như vậy, có thể nhận thấy, cuối thế kỷ XIX, đầu thế
Mý XX, Việt Nam đã có sự biến đổi rất quan trọng cả về
I lilnh trị, kinh tế, xã hội. Chính sách cai trị và khai thác,
lií» lột của thực dân Pháp đã làm phân hóa những giai cấp
I VAn lá của chế độ phong kiến (địa chủ, nông dân), đồng
IhiH hình thành những giai cấp, tầng lớp mới (công nhân,
By min dân tộc, tiểu tư sản) với thái độ chính trị khác
I nhiiii Những mâu thuẫn mới trong xã hội Việt Nam xuất
lilộn, trong đó, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam
V«|| thực dân Pháp và phong kiến phản động trở thành
I Htóii thuẫn chủ yếu nhất và ngày càng gay gắt.
Trong bối cảnh đó, những luồng tư tưởng ở bên ngoài
I hlní; tư tưởng Cách mạng tư sản Pháp 1789, phong trào
|hiy Tân Nhật Bản năm 1868, cuộc vận động Duy Tân tại
I rung Quốc năm 1898, Cách mạng Tân Hợi của Trung
QuAc năm 1911..., đặc biệt là Cách mạng Tháng Mười
■ Ngu nilm 1917 đã tác động mạnh mẽ, làm chuyển biến
phong trào yêu nưốc những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế
lý XX. Năm 1919, trên chiến hạm của Pháp ở Hắc Hải
llhón Đen), Tôn Đức Thắng tham gia đấu tranh chống

43
việc can thiệp vào nước Nga Xôviết. Năm 19^3, luật sư
Phan Van Trương từ Pháp về nước và công bô tác phẩm:
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (The Manifesto of the
Communist Party) của c. Mác và Ph. Àngghen đăng trên
báo La Cloche Fêlée, số' ra từ ngày 29/3 đến ngày
20/4/1926 tại Sài Gòn, góp phần tuyên truyền t-ư tưởng vô
sản ở Việt Nam.
Các phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam
trước khi có Đảng: I
Ngay từ khi Pháp xâm lược, các phong trào yêu nưốc
chông thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam đã diễn ra
hen tục, rộng khăp. Đến năm 1884, mặc dù "triều đình
phong kiên nhà Nguyễn đã đầu hàng, nhưrag một bộ
phận phong kiên yêu nước đã cùng với nhân dâ_n vẫn tiếp
tục đấu tranh vũ trang chống Pháp, như phong trào Cần
Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng
(1885 - 1896). Hưởng ứng lòi kêu gọi Cần Vương cứu
nước, các cuộc khởi nghĩa Ba Đình (Thanh Hoá), Bãi Sậy
(Hưng Yên), Hương Khê (Hà Tĩnh)... diễn ra sôi nổi, thể
hiẹn tinh thân quật cường chông ngoại xâm của các tầng
lớp nhân dân. Nhưng ngọn cò phong kiến 1Ú.C đó không
con la ngọn cờ tiêu biểu để tập hợp một cách rộng rãi
toan thê các tầng lớp nhân dân, không có khả năng liên
kết các trung tâm kháng Pháp trên toàn quốc nữa. Cuộc
khơi nghĩa của Phan Đình Phùng thất bại (1896) cũng là
dau moc châm dứt vai trò lãnh đạo của giai cấp phong

44
Ịõí’11 (loi vổi phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở
Viậi Nam.
Váo những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ở
Hàng miền núi và trung du phía Bắc, phong trào nông
ilílu Yên Thê (Bắc Giang) nổ ra dưối sự lãnh đạo của
Hilling Hoa Thám. Nghĩa quân đã xây dựng lực lượng
I’ll lí'11 dấu, lập căn cứ và đấu tranh kiên cường chống
iliựi' dân Pháp suốt gần 30 năm. Phong trào của Hoàng
Hull Thám vẫn mang nặng “cốt cách phong kiến”, không
III khả năng mở rộng hợp tác và thống nhất tạo thành
mọt cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, do vậy cũng bị
ĩhực dân Pháp đàn áp.
Từ những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước
Viộl Nam chịu ảnh hưởng, tác động của trào lưu dân chủ tư
Ktin, tiêu biểu là xu hướng bạo động của Phan Bội Châu, xu
hiking cải cách của Phan Châu Trinh và sau đó là phong
trao tiểu tư sản trí thức của tổ chức Việt Nam Quốc dân
thing (12/1927 - 2/1930) tiếp tục diễn ra rộng khắp các tỉnh
Biìc Kỳ, nhưng tất cả đều không thành công.
Xu hướng bạo động do Phan Bội Châu tổ chức, lãnh
dno: Chủ trương tập hợp lực lượng với phương pháp bạo
(long chống Pháp, xây dựng chế độ chính trị như ở Nhật
B;in. Phong trào theo xu hướng này tổ chức đưa thanh
mon yêu nước Việt Nam sang Nhật Bản học tập (gọi là
phong trào Đông Dù). Đến năm 1908, Chính phủ Nhật
Ban câu kết vối thực dân Pháp trục xuất lưu học sinh

45
Việt Nam và những người đứng đầu phong trào. Sau khi
phong trào Đông Du thất bại, với sự ảnh hưởng của Cách
mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc, năm 1912, Phan Bội
Châu lập tổ chức Việt Nam Quang phục Hội với tôn chỉ
là vũ trang đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục Việt Nam,
thành lập nưởc cộng hòa dân quốc Việt Nam. Tuy nhiên,
chương trình, kế hoạch hoạt động của Hội thiếu rõ ràng.
Cuối năm 1913, Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt
giam tại Trung Quốc cho tói đầu năm 1917 và sau này
bị quản chế tại Huế cho đến khi ông mất (1940). Ánh
hưởng xu hướng bạo động của tổ chức Việt Nam Quang
Phục Hội đối với phong trào yêu nước Việt Nam đến đây
chấm dứt.
Xu hướng cải cách của Phan Châu Trinh: Phan Châu
Trinh và những người cùng chí hướng muốn giành độc
lập cho dân tộc nhưng không đi theo con đường bạo động
như Phan Bội Châu, mà chủ trương cải cách đất nước.
Phan Châu Trinh cho rằng “bất bạo động, bạo động tắc
tử”; phải “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, phải
bãi bỏ chê độ quân chủ, thực hiện dân quyền, khai thông
dân trí, mở mang thực nghiệp. Để thực hiện được chủ
trương ấy, Phan Châu Trinh đã đề nghị nhà nưốc “bảo
hộ” Pháp tiến hành cải cách. Đó chính là sự hạn chế
trong xu hướng cải cách để cứu nước, vì Phan Châu Trinh
đã “đặt vào lòng độ lượng của Pháp cái hy vọng cải tử
hoàn sinh cho nước Nam,... Cụ không rõ bản chất của đế

46
quốc thực dân”1. Do vậy, khi phong trào Duy Tân lan
rộng khắp cả Trung Kỳ và Nam Kỳ, đỉnh cao là vụ chống
thuế ỏ Trung Kỳ (1908), thực dân Pháp đã đàn áp dã
man, giết hại nhiều sĩ phu và nhân dân tham gia biểu
tình. Nhiều sĩ phu bị bắt, bị đày đi Côn Đảo, trong đó có
Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Nguyên
Cẩn... Phong trào chống thuê ỏ Trung Kỳ bị thực dân
Pháp dập tắt, cùng với sự kiện tháng 12/1907 thực dân
Pháp ra lệnh đóng cửa Trường Đông Kinh Nghĩa Thục2
phản ánh sự kết thúc xu hướng cải cách trong phong trào
cứu nước của Việt Nam.
Phong trào của tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng:
Khi thực dân Pháp đẩy mạnh khai thác thuộc địa lần
thứ hai, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam vối
I hực dân Pháp càng trở nên gay gắt, các giai cấp, tầng
lớp mới trong xã hội Việt Nam đều bưốc lên vũ đài chính
trị. Trong đó, hoạt động có ảnh hưởng rộng và thu hút
nhiều học sinh, sinh viên yêu nước ở Bắc Kỳ là tổ chức

1. Trần Văn Giàu: Sự phát triển tư tưởng ở Việt Nam từ thế


k V XIX đến Cách mạng Tháng Tám - Hệ ý thức tư sản và sự thất
bụi của nó trước nhiệm vụ lịch sử, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
1975, tr.442.
2. Trường Đông Kinh Nghĩa Thục do Lương Văn Can, Nguyễn
Quyển, Hoàng Tăng Bí... thành lập ở Hà Nội, nhằm truyền bá tư
tướng dân chủ, tự do tư sản, nâng cao lòng tự tôn dân tộc cho thanh
1111'11 Việt Nam.

47
Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo.
Trên cơ sở các tổ chức yêu nước của tiểu tư sản trí thức,
Việt Nam Quốc dân Đảng được chính thức thành lập
tháng 12/1927 tại Bắc Kỳ.
Mục đích của Việt Nam Quốc dân Đảng là đánh đuổi
thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập dân tộc, xây dựng
chê độ cộng hòa tư sản, với phương pháp đấu tranh vũ
trang nhưng theo lôì manh động, ám sát cá nhân, lực
lượng chủ yếu là binh lính, sinh viên... Cuộc khởi nghĩa nổ
ra ở một số tỉnh, chủ yếu và mạnh nhất là ở Yên Bái
(2/1930), tuy oanh liệt nhưng nhanh chóng bị thất bại. Sự
thất bại của khởi nghĩa Yên Bái thể hiện là “... một cuộc
bạo động bất đắc dĩ, một cuộc bạo động non, để rồi chết
luôn không bao giò ngóc đầu lên nổi. Khẩu hiệu “không
thành công thì thành nhân” biểu lộ tính chất hấp tấp tiểu
tư sản, tính chất háng hái nhất thời và đồng thời cũng
biểu lộ tính chất không vững chắc, non yếu của phong trào
tư sản”1.
Vào những năm cuôì thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tiếp
tục truyền thống yêu nưốc, bất khuất kiên cường chống
ngoại xâm, các phong trào yêu nước theo ngọn cờ phong
kiến, ngọn cờ dân chủ tư sản của nhân dân Việt Nam đã
diễn ra quyết liệt, liên tục và rộng khắp. Dù vối nhiều
cách thức tiến hành khác nhau, song đều hưống tối mục

1. Lê Duẩn: Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam,
Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1959, tr.41.

48
tiêu giành độc lập cho dân tộc. Tuy nhiên, “các phong trào
cứu nước từ lập trường cần Vương đến lập trường tư sản,
tiểu tư sản, qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất
bại”1. Nguyên nhân thất bại của các phong trào đó là do
thiếu đường lối chính trị đúng đắn để giải quyết triệt để
những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội, chưa có một
tổ chức vững mạnh để tập hợp, giác ngộ và lãnh đạo toàn
dân tộc, chưa xác định được phương pháp đấu tranh thích
hợp để đánh đổ kẻ thù. Tuy thất bại song các phong trào
yêu nưốc đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước
của nhân dân, bồi đắp thêm cho chủ nghĩa yêu nưốc Việt
Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước,
nhất là lớp thanh niên trí thức tiên tiến chọn lựa một con
đường mới, một giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc
theo xu thế của thời đại. Nhiệm vụ lịch sử cấp thiết đặt ra
cho thế hệ yêu nước đương thời là cần phải có một tổ chức
cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nưốc đúng đắn để
giải phóng dân tộc.

2. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điểu kiện để


thành lập Đảng

Trước yêu cầu cấp thiết giải phóng dân tộc của nhân
dân Việt Nam, với nhiệt huyết cứu nước, với nhãn quan
chính trị sắc bén, vượt lên trên hạn chế của các bậc yêu

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đẳng toàn tập, Sđd,
t.51, tr.14.

49
nưốc đương thời, năm 1911, Nguyễn Tất Thành quyết
định ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Qua
trải nghiệm thực tế nhiều nưốc, Người đã nhận thức được
một cách rạch ròi: “dù màu da có khác nhau, trên đời này
chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người
bị bóc lột”1, từ đó xác định rõ kẻ thù và lực lượng đồng
minh của nhân dân các dân tộc bị áp bức.
Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga
đã tác động mạnh mẽ tói nhận thức của Nguyễn Tất
Thành - đây là cuộc “cách mạng đến nơi”. Người từ nước
Anh trở lại nước Pháp và tham gia các hoạt động chính trị
hướng về tìm hiểu con đường Cách mạng Tháng Mười
Nga, về V.I. Lênin.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng
Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ nhất lúc đó ở Pháp.
Tháng 6/1919, tại Hội nghị của các nưốc thắng trận trong
Chiến tranh thế giối thứ nhất họp ỏ Versailles (Vécxây,
Pháp), Tổng thống Mỹ Uynxơn (Woodrow Wilson) tuyên
bố bảo đảm về quyền dân tộc tự quyết cho các nước thuộc
địa. Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn Ái Quốc thay
mặt Hội những người An Nam yêu nước ở Pháp gửi tới
Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam (gồm tám
điểm đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam) ngày
18/6/1919. Những người Việt Nam tiêu biểu cho tinh thần
yêu nưốc ở Pháp, gồm: Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh,

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.l, tr.287.

50
Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Ái Quốc.
Những yêu sách đó dù không được Hội nghị đáp ứng,
nhưng đã tạo nên tiếng vang lớn trong dư luận quốc tế và
Nguyễn Ái Quốc càng hiểu rõ hơn bản chất của đế quốc,
thực dân.
Tháng 7/1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
của V.I. Lênin đăng trên báo L'Humanite (Nhân đạò), số
ra ngày 16 và 17/7/1920. Những luận điểm của V.I. Lênin
về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề
cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu
nước, giải phóng dân tộc. Lý luận của V.I. Lênin và lập
trường đúng đắn của Quốc tế Cộng sản về cách mạng giải
phóng các dân tộc thuộc địa là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc
xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản
tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (12/1920)
họp ở thành phô' Tua (Tours). Tại Đại hội này, Nguyễn Ái
Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản
do V.I. Lênin thành lập).
Ngay sau đó, Nguyễn Ái Quốc cùng vối những người
vừa bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản đã tuyên bô'
t hành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản - tức là
Dâng Cộng sản Pháp. Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc
trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng
san Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam,
đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng
va lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc. Trong

51
những năm 1919 - 1921, Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp
Anbe Xarô (Albert Sarraut) nhiều lần gặp Nguyễn Ái
Quốc mua chuộc và đe dọa. Ngày 30/6/1923, Nguyễn Ái
Quốc tới Liên Xô và làm việc tại Quốc tế Cộng sản ở
Mátxcơva, tham gia nhiều hoạt động, đặc biệt là dự và
đọc tham luận tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (17/6 -
8/7/1924), làm việc trực tiếp ở Ban Phương Đông của
Quốc tế Cộng sản.
Sau khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn,
Nguyễn Ái Quốc tiếp tục khảo sát, tìm hiểu để hoàn thiện
nhận thức về đường lốì cách mạng vô sản, đồng thời tích
cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam.
- Chuẩn bị về tư tưỏng, chính trị và tổ chức cho sự ra
đời của Đảng:
Về tư tưởng: Từ giữa năm 1921, tại Pháp, cùng một số
nhà cách mạng của các nước thuộc địa khác, Nguyễn Ái
Quốc tham gia thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa, sau đó
sáng lập tờ báo Le Paria (Người cùng khổ). Người viết
nhiều bài trên các báo: Nhân đạo, Đời sống công nhân,
Tạp chí Cộng sản, Tập san Thư tín quốc tế,...
Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng
sản Pháp được thành lập, Nguyễn Ái Quốc được cử làm
Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương. Vừa nghiên
cứu lý luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, dưới nhiều phương
thức phong phú, Nguyễn Ái Quốc tích cực tố cáo, lên án
bản chất áp bức, bóc lột, nô dịch của chủ nghĩa thực dân

52
I lo I với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh
nli.in dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người chỉ rõ
bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực
ilnn là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp
cong nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Đồng thòi,
Người tiến hành tuyên truyền tư tưởng về con đường cách
lining vô sản, con đường cách mạng theo lý luận Mác -
1,1 nin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người
cọng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc
<1|H và phụ thuộc.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh (năm 1927),
Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải
co chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai
cung phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa
cung giống như người không có trí khôn, tàu không có bàn
chi nam”1. Phải truyền bá tư tưởng vô sản, lý luận Mác -
1,1 nin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nưốc
Viẹt Nam.
Về chính trị: Xuất phát từ thực tiễn cách mạng thế
gnn và đặc điểm của phong trào giải phóng dân tộc ở
CIIC nước thuộc địa, kế thừa và phát triển quan điểm của
V I Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái
Qiiôc đưa ra những luận điểm quan trọng về cách mạng
gim phóng dân tộc. Người khẳng định: con đường cách

I. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.289.

53
mạng của các dân tộc bị áp bức là giải phóng giai cấp, pifii I
phóng dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thê la Hự I
nghiệp của chủ nghĩa cộng sản. Đường lôi chính trị curt I
Đảng cách mạng phải hướng tới giành, độc lập cho dân 1
tự do, hạnh phúc cho đồng bào, hướng tới xây dựng II hạ Ị
nưốc mang lại quyền và lợi ích cho nhân dân.
Nguyễn Ái Quốc xác định, cách mạng giải phóng dim 3
tộc ở các nước thuộc địa là một bộ phạn của cách mạng VÃ I
sản thế giới; giữa cách mạng giải phórxg dân tộc ở các nUih* I
thuộc địa vởi cách mạng vô sản ở “chính quốc” có môi qiinii
hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng cách mụng ị
giải phóng dân tộc ở nưốc thuộc địa kihông phụ thuộc vrtu u
cách mạng vô sản ở “chính quốc” mà có thể thành công
trước cách mạng vô sản ở “chính quốc”, góp phần tích Cực
thúc đẩy cách mạng vô sản ở “chính quốc”.
Đốĩ với các dân tộc thuộc địa, Nguyễn Ai Quốc chỉ rõ: <1 I
nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông diui
nhất, bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột nặng nể, vi Ị
vậy phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, phải xAy I
dựng khối liên minh công - nông làm động lực cách mạng
“công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nho, í
điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mệnh, của công nông”1. I )o
vậy, Người xác định rằng, cách mạng “là việc chung cúa I’ll 1
dân chúng chứ không phải là việc của một hai người”2.

1, 2. HỒ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.288, 283.

54
Vi' vấn đề Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc khẳng
Ịih liưốc hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận
Ệ|gf VII tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị
l»H< và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách
I|ih múi thành công, cũng như người cầm lái có vững
uvi'11 mói chạy”1.
I'limig trào “Vô sản hóa” do Kỳ bộ Bắc Kỳ Hội Việt
1111 ('nch mạng Thanh niên phát động từ ngày 29/9/1928
I grtp phần truyền bá tư tưỏng vô sản, rèn luyện cán bộ
dựng, phát triển tổ chức của công nhân.
v<l' tồ chức: Sau khi lựa chọn con đường cứu nước -
■m đường cách mạng vô sản - cho dân tộc Việt Nam,
■ỊIIV<'II Ái Quốc khẳng định phải “đi vào quần chúng,
ill II, linh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa
■ rr» dấu tranh giành tự do độc lập”2. Vì vậy, sau một
H»ưi r.uin hoạt động ở Liên Xô để tìm hiểu, khảo sát thực
■ ví' cíich mạng vô sản, tháng 11/1924, Người đến Quảng
Chilli (Trung Quốc), nơi có đông người Việt Nam yêu
Bựiii hoạt động, để xúc tiến các công việc tổ chức thành
|ộ|, I iiing Cộng sản. Tháng 2/1925, Người lựa chọn một số
>lmuh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm Cộng
|Áu doồn.
Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt
■Hill ('ach mạng Thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc),

I Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.289.


' I ló Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.l, tr.209.

55
nòng cốt là Cộng sản đoàn. Hội đã công bố" chương trình,
điều lệ của Hội, mục đích: để làm cách mệnh dân tộc (đập
tan bọn Pháp và giành độc lập cho xứ sở) rồi sau đó làm
cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện
chủ nghĩa cộng sản). Hệ thống tổ chức của Hội gồm 5 cấp:
trung ương bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ hay thành bộ, huyện bộ và
chi bộ. Tổng bộ là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ
đại hội. Trụ sở đặt tại Quảng Châu.
Hội đã xuất bản tò báo Thanh niên (do Nguyễn Ái
Quốc sáng lập và trực tiếp chỉ đạo), tuyên truyền tôn chỉ,
mục đích của Hội, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin và
phương hưống phát triển của cuộc vận động giải phóng
dần tộc Việt Nam. Báo in bằng tiếng Việt và ra hằng tuần,
mỗi sô' in khoảng 100 bản. Ngày 21/6/1925 ra sô' đầu tiên,
đêh tháng 4/1927, báo ra được 88 số. Sau khi Nguyễn Ái
Quốc rời Quảng Châu (4/1927) đi Liên Xô, những đồng chí
khác trong Tổng bộ vẫn tiếp tục việc xuất bản và hoạt
động cho đến tháng 2/1930 với 202 sô' (từ sô' 89 trỏ đi, trụ
sở báo chuyển về Thượng Hải). Một sô' lượng lớn báo
Thanh niên được bí mật đưa về nưốc và tới các trung tâm
phong trào yêu nước của người Việt Nam ở nước ngoài.
Báo Thanh niên đánh dấu sự ra đời của báo chí cách mạng
Việt Nam.
Sau khi thành lập, Hội tổ chức các lớp huấn luyện
chính trị do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ trách, phái
người về nước vận động, lựa chọn và đưa một sô' thanh
niên tích cực sang Quảng Châu để đào tạo, bồi dưỡng về lý

56
luận chính trị. Từ giữa năm 1925 đến tháng 4/1927, Hội
đã tổ chức được trên 10 lởp huấn luyện tại nhà số 13A và
13B đường Văn Minh, Quảng Châu. Sau khi được đào tạo,
các hội viên được cử về nưốc xây dựng và phát triển phong
trào cách mạng theo khuynh hướng vô sản. Trong số học
viên được đào tạo ở Quảng Châu, có nhiều đồng chí được
cử đi học trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường
Quân sự Hoàng Phô (Trung Quốc).
Sau sự biến chính trị ở Quảng Châu (4/1927), Nguyễn
Ái Quốc trở lại Mátxcơva và sau đó được Quốc tế Cộng sản
cử đi công tác ỏ nhiều nước châu Âu. Năm 1928, Người trở
về châu Á và hoạt động ở Xiêm (tức Thái Lan).
Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp đào
tạo, bồi dưỡng cho những người Việt Nam yêu nưóc tại
Quảng Châu, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở
Á Đông xuất bản thành cuốn Đường cách mệnh. Đây là
cuốn sách chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam,
trong đó tầm quan trọng của lý luận cách mạng được đặt
ở vị trí hàng đầu đối với cuộc vận động cách mạng và đối
với đảng cách mạng tiên phong. Đường cách mệnh xác
định rõ con đường, mục tiêu, lực lượng và phương pháp
đấu tranh của cách mạng. Tác phẩm thể hiện tư tưởng
nổi bật của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dựa trên cơ sở vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào đặc điểm của
Việt Nam. Những điều kiện về tư tưởng, lý luận chính trị
và tổ chức để thành lập Đảng đã được thể hiện rõ trong
tác phẩm.

57
Ớ trong nước, từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên đã bắt đầu phát triển cơ sở, đến năm
1927, các kỳ bộ được thành lập. Hội còn chú trọng xây
dựng cơ sở trong Việt kiều ở Xiêm (Thái Lan). Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên chưa phải là chính đảng
cộng sản, nhưng chương trình hành động đã thể hiện quan
điểm, lập trường của giai cấp công nhân, là tổ chức tiền
thân dẫn tối sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
Hội là tổ chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin
vào Việt Nam và cũng là sự chuẩn bị quan trọng về tổ
chức để tiến tối thành lập chính đảng của giai cấp công
nhân ở Việt Nam. Những hoạt động của Hội có ảnh hưởng
và thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công
nhân, phong trào yêu nước Việt Nam những năm 1928 -
1929 theo xu hướng cách mạng vô sản. Đó là tổ chức tiền
thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.

3. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương


lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

a) Các tổ chức cộng sản ra đời


Với sự nỗ lực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
phong trào công nhân và phong trào yêu nưốc Việt Nam
của Nguyễn Ái Quốc và những hoạt động tích cực của các
cấp bộ trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
trên cả nước đã có tác dụng thúc đẩy phong trào yêu nưốc
Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, nâng cao
ý thức giác ngộ và lập trường cách mạng của giai cấp công

58
nhím. Những cuộc đấu tranh của thợ thuyền khắp ba kỳ
VIII nhịp độ, quy mô ngày càng lốn, nội dung chính trị
I ngày càng sâu sắc. Số lượng các cuộc đấu tranh của công
nhan trong hai năm 1928 - 1929 tăng gấp 2,5 lần so với
tini nảm 1926 - 1927.
Đến năm 1929, trưốc sự phát triển mạnh mẽ của
phong trào cách mạng Việt Nam, tổ chức Hội Việt Nam
f (’iich mạng Thanh niên không còn thích hợp và đủ sức
lanh đạo phong trào. Trước tình hình đó, tháng 3/1929,
những người lãnh đạo Kỳ bộ Bắc Kỳ (Trần Văn Cung, Ngô
< ha Tự, Nguyễn Đức cảnh, Trịnh Đình Cửu...) họp tại số
nhà 5D, phố’ Hàm Long, Hà Nội, quyết định lập chi bộ
cộng sản đầu tiên ở Việt Nam. Ngày 17/6/1929, đại biểu
I lìa các tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ họp tại số nhà 312, phố
Khâm Thiên (Hà Nội), quyết định thành lập Đông Dương
(lộng sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ; lấy cờ đỏ
búa liềm là Đảng kỳ và quyết định xuất bản báo Búa liềm
lam cơ quan ngôn luận.
Trưốc ảnh hưởng của Đông Dương Cộng sản Đảng,
những thanh niên yêu nưổc ở Nam Kỳ theo xu hưống cộng
liiin lần lượt tổ chức những chi bộ cộng sản. Tháng
I 1/1929, trên cơ sở các chi bộ cộng sản ở Nam Kỳ, An Nam
(lộng sản Đảng được thành lập tại Khánh Hội, Sài Gòn,
rong bố Điều lệ, quyết định xuất bản Tạp chí Bônsơvích.
Tại Trung Kỳ, Tân Việt Cách mạng Đảng (là một tổ
chức thanh niên yêu nước có cả Trần Phú, Nguyễn Thị
Minh Khai...) chịu tác động mạnh mẽ của Hội Việt Nam

59
Cách mạng Thanh niên - đã đi theo khuynh hướng cách
mạng vô sản. Tháng 9/1929, những người tiên tiến trong
Tân Việt Cách mạng Đảng họp, ra Tuyên đạt khẳng định:
“những người giác ngộ cộng sản chân chính trong Tân Việt
Cách mệnh Đảng trịnh trọng tuyên ngôn cùng toàn thể
đảng viên Tân Việt Cách mệnh Đảng, toàn thể thợ thuyền
dân cày và lao khổ biết rằng chúng tôi đã chánh thức lập
ra Đông Dương Cộng sản Liên đoàn... Muốh làm được tròn
nhiệm vụ thì trước mắt của Đông Dương Cộng sản Liên
đoàn là một mặt phải xây dựng cơ sở chi bộ của Liên đoàn
tức là thực hành cải tổ Tân Việt Cách mệnh Đảng thành
đoàn thể cách mạng chân chính...”1.
Sự ra đời ba tổ chức cộng sản trên cả nước diễn ra
nửa cuối năm 1929 đã khẳng định bước phát triển về
chất của phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hưống
cách mạng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu bức thiết
của lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, sự ra đời ba tổ chức cộng
sản ở ba miền đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản, kêu
gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều tự
nhận là đảng cách mạng chân chính, không tránh khỏi phân
tán về lực lượng và thiếu thốhg nhất về tổ chức trên cả nước.
Sự chuyển biến mạnh mẽ các phong trào đấu tranh
của các tầng lớp nhân dân ngày càng lên cao, nhu cầu
thành lập một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.l,
tr.404.

60
hợp lực lượng toàn dân tộc và đảm nhiệm vai trò lãnh đạo
sự nghiệp giải phóng dân tộc ngày càng trở nên bức thiết
dối vối cách mạng Việt Nam lúc bấy giò.

b) Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam


Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng
trong nưốc, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản,
ngày 23/12/1929, Nguyễn Ái Quốc đến Hồng Kông (Trung
Quốc) triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng
và An Nam Cộng sản Đảng đến họp tại cửu Long (Hồng
Kông) để tiến hành hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản
thành một chính đảng duy nhất của Việt Nam.
Hội nghị diễn ra từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/19301.
Trong Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản, ngày 18/2/1930,
Nguyễn Ái Quốc viết: “Chúng tôi họp vào ngày mồng 6/1.
Vối tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ
quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào
cách mạng ở Đông Dương, tôi nói cho họ biết những sai
lầm và họ phải làm gì. Họ đồng ý thống nhất vào một
đảng. Chúng tôi cùng nhau xác định cương lĩnh và chiến
lược theo đường lối của Quốc tế Cộng sản... Các đại biểu
trở về An Nam ngày 8/2”2.

1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng
9/1960) quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch hằng năm làm
ngày kỷ niệm thành lập Đảng.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2,
tr.19-20.

61
Thành phần dự Hội nghị gồm: 2 đại biểu của Đông
Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình cửu và Nguyễn Đức
Cảnh), 2 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng (Châu Văn
Liêm và Nguyễn Thiệu), dưới sự chủ trì của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc - đại biểu của Quốc tế Cộng sản.
Chương trình nghị sự của Hội nghị:
1. Đại biểu của Quốc tế Cộng sản nói lý do cuộc
hội nghị;
2. Thảo luận ý kiến của đại biểu Quốc tế Cộng sản về:
a) Việc hợp nhất tất cả các nhóm cộng sản thành một tổ
chức chung, tổ chức này sẽ là một Đảng Cộng sản chân
chính; b) Kế hoạch thành lập tổ chức đó.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nêu ra năm điểm lổn cần
thảo luận và thống nhất:
“1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác
để thông nhất các nhóm cộng sản Đông Dương;
2. Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam;
3. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược của Đảng;
4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước;
5. Cử một Ban Trung ương lâm thời...”1.
Hội nghị thảo luận, tán thành ý kiến chỉ đạo của
Nguyễn Ái Quốc, thông qua các văn kiện quan trọng do
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo: Chánh cương vắn
tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2,
tr.2.

62
tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Hội nghị xác định rõ tôn chỉ mục đích của Đảng:
“Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần
chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản
đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”1.
Quy định điều kiện vào Đảng: là những người “tin theo
chủ nghĩa cộng sản, chương trình đảng và Quốc tế Cộng
sản, hăng hái tranh đấu và dám hy sinh phục tùng mệnh
lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ
phận đảng”2.
Hội nghị chủ trương: các đại biểu vê' nưóc phải tổ chức
inột Trung ương lâm thời để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
I lệ thống tổ chức Đảng từ chi bộ, huyện bộ, thị bộ hay khu
bộ, tỉnh bộ, thành bộ hoặc đặc biệt bộ và Trung ương.
Ngoài ra, Hội nghị còn quyết định chủ trương xây
dựng các tổ chức công hội, nông hội, cứu tế, tổ chức phản
đê và xuất bản một tạp chí lý luận và ba tờ báo tuyên
truyền của Đảng.
Đến ngày 24/2/1930, việc thống nhất các tổ chức cộng
sản thành một chính đảng duy nhất được hoàn thành với
Quyết nghị của Lâm thòi chấp ủy Đảng Cộng sản Việt Nam,
(•hấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập
Dảng Cộng sản Việt Nam.

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
1.2, tr.7, 8.

63
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự
chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc có giá trị như một Đại
hội Đảng. Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc ra Lời kêu gọi
nhân dịp thành lập Đảng. Mở đầu Lời kêu gọi, Người viết:
“Nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản giải quyết vấn đề cách
mạng nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ”1.

c) Nội dung bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Trong các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn
thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, có hai
văn kiện, đó là: Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách
lược vắn tắt của Đảng đã phản ánh về đường hưởng phát
triển và những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược
của cách mạng Việt Nam. Hai văn kiện trên là Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu
chiến lược của cách mạng Việt Nam: Từ việc phân tích
thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam - một xã
hội thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc
Việt Nam trong đó có công nhân, nông dân vối đế quốc
ngày càng gay gắt cần phải giải quyết, đi đến xác định
đường lốì chiến lược của cách mạng Việt Nam “chủ
trương làm tư sản dân quyền c.m và thổ địa c.m để đi tới
xã hội cộng sản”2. Như vậy, mục tiêu chiến lược được nêu

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.2O.


2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đẳng toàn tập, Sđd, t.2, tr.2.

64
ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội
(lung của cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của
cổch mạng vô sản.
Nhiệm vụ chủ yếu trưốc mắt của cách mạng Việt Nam
dược xác định là: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn
phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”1.
Cương lĩnh đã xác định: Chông đế quốc và chôhg phong
kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập cho dân tộc và
ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc, giành độc
lập cho dân tộc được đặt ở vị trí hàng đầu.
Về phương diện xã hội, Cương lĩnh xác định rõ: “a)
Dân chúng được tự do tổ chức; b) Nam nữ bình quyền, V.V.;
c) Phổ thông giáo dục theo công nông hoá”2. về phương
diện kinh tế, Cương lĩnh xác định: Thủ tiêu hết các thứ
quốc trái; thâu hết sản nghiệp lổn (như công nghiệp, vận
tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để
giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; thâu hết
ruộng đất của đê quốc chủ nghĩa làm của công chia cho
dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang
công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm tám
giờ... Những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam về
phương diện xã hội và phương diện kinh tế nêu trên vừa
phản ánh đúng tình hình kinh tế, xã hội cần được giải
quyết ở Việt Nam, vừa thể hiện tính cách mạng, toàn diện,

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Vân kiện Đẳng toàn tập, Sđd,
t.2, tr.2.

65
triệt để là xóa bỏ tận gốc ách thống trị, bóc lột hà khắc của
ngoại bang, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng xã hội, đặc biệt là giải phóng cho hai giai cấp
công nhân và nông dân.
Xác định lực lượng cách mạng: phải đoàn kết công
nhân, nông dân - đây là lực lượng cơ bản, trong đó giai cấp
công nhân lãnh đạo; đồng thời chủ trương đoàn kết tất cả
các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung
chống đê quốc và tay sai. Do vậy, Đảng “phải thu phục cho
được đại bộ phận giai cấp mình... phải thu phục cho được
đại bộ phận dân cày,... hết sức liên lạc vối tiểu tư sản, trí
thức, trung nông... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp.
Còn đối vối bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản
An Nam mà chưa rõ mặt phản c.m thì phải lợi dụng, ít lâu
mới làm cho họ đứng trung lập”1. Đây là cơ sở của tư tưởng
chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng khối đại
đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu
nưốc và các tô chức yêu nước, cách mạng, trên cơ sở đánh
giá đúng đắn thái độ các giai cấp phù hợp với đặc điểm xã
hội Việt Nam.
Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân
tộc, Cương lĩnh khẳng định phải bằng con đường bạo lực
cách mạng của quần chúng, trong bất cứ hoàn cảnh nào
cũng không được thỏa hiệp, “không khi nào nhượng một

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đẳng toàn tập, Sđd,
t.2, tr.4.

66
chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp”1.
Có sách lược đấu tranh cách mạng thích hợp để lôi kéo
tiểu tư sản, trí thức, trung nông về phía giai cấp vô sản,
nhưng kiên quyết: “bộ phận nào đã ra mặt phản cách
mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ”2.
Xác định tinh thần đoàn kết quốc tế, Cương lĩnh chỉ
rõ: trong khi thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
đồng thòi tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc
bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô
sản Pháp. Cương lĩnh nêu rõ cách mạng Việt Nam liên
lạc mật thiết và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế
giói: “trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam
độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với
bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới”3. Như vậy,
ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu
cao chủ nghĩa quốc tế và mang bản chất quốc tế của giai
cấp công nhân.
Xác định vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên
phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ
phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo
dược dân chúng”4. “Đảng là đội tiên phong của đạo quân
vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho
họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”5.

1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.3.


4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Vần kiện Đẳng toàn tập, Sđd,
1.2, tr.4, 6.

67
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh
một cách súc tích các luận điểm cơ bản của cách mạng
Việt Nam; thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng
tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội thuộc
địa nửa phong kiến Việt Nam trong những năm 20 của thế
kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân
tộc Việt Nam, đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát thực
thái độ các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng
dân tộc. Từ đó, các văn kiện đã xác định đường lối chiến
lược và sách lược của cách mạng Việt Nam, đồng thòi xác
định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực
lượng của cách mạng để thực hiện đường lốì chiến lược và
sách lược đã đề ra.
Như vậy, trưốc yêu cầu của lịch sử, cách mạng Việt
Nam cần phải thống nhất các tổ chức cộng sản trong nước,
chấm dứt sự chia rẽ bất lợi cho cách mạng, với uy tín
chính trị và phương thức hợp nhất phù hợp, Nguyễn Ái
Quốc đã kịp thời triệu tập và chủ trì hợp nhất các tổ chức
cộng sản. Những văn kiện được thông qua trong Hội nghị
hợp nhất dù “vắt tắt”, nhưng đã phản ánh những vấn đề
cơ bản trưốc mắt và lâu dài cho cách mạng Việt Nam, đưa
cách mạng Việt Nam sang một trang sử mới.

4. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng Cộng


sản Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt sự


khủng hoảng về đường lối cứu nước, đưa cách mạng

68
Việt Nam sang một bước ngoặt lịch sử vĩ đại: cách mạng
Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách
mạng vô sản thế giới. Đó là kết quả của sự vận động
phát triển và thông nhất của phong trào cách mạng
trong cả nước, sự chuẩn bị tích cực, sáng tạo, bản lĩnh
của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, sự đoàn kết, nhất trí của
những chiến sĩ cách mạng tiên phong vì lợi ích của giai
cấp và dân tộc.
Sự ra đòi của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm
của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin vối phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó cũng là kết
quả của sự phát triển cao và thống nhất của phong trào
công nhân và phong trào yêu nưốc Việt Nam được soi sáng
bởi chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc
thành lập Đảng, ‘Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt
vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta.
Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ
sức lãnh đạo cách mạng”1.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cùng với Cương lĩnh
chính trị đầu tiên được thông qua tại Hội nghị thành
lập Đảng đã khẳng định lần đầu tiên cách mạng Việt
Nam có một bản cương lĩnh chính trị phản ánh được quy

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.406.

69
luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng những
nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù
hợp với xu thế của thời đại, định hướng chiến lược đúng
đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
Đường lốì đó là kết quả của sự vận dụng chủ nghĩa
Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một
cách đúng đắn, sáng tạo và có phát triển trong điều kiện
lịch sử mối.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương
lĩnh chính trị đầu tiên đã khẳng định sự lựa chọn con
đường để giải phóng dân tộc Việt Nam là con đường
cách mạng vô sản. Đây là con đường duy nhất đúng
đắn giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người. Sự lựa chọn con đường cách mạng vô
sản phù hợp với nội dung và xu thế của thời đại mối
được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại: “Đối
vối nước ta, không còn con đường nào khác để có độc
lập dân tộc thực sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Cần nhấn mạnh rằng đây là sự lựa chọn của chính lịch
sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời
của Đảng ta”1.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bưốc ngoặt vĩ đại
trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, trở thành

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Vẵn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
t.51, tr.13-14.

70
nhân tố hàng đầu quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

II- LÃNH ĐẠO QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH


GIÀNH CHÍNH QUYỂN (1930 - 1945)

1. Phong trào cách mạng 1930 - 1931 và khôi


phục phong trào 1932 - 1935

a) Phong trào cách mạng năm 1930 - 1931 và Luận


cương chính trị tháng 10/1930
Trong thời gian 1929 - 1933, khi Liên Xô đang đạt
được những thành quả quan trọng trong công cuộc xây
dựng đất nước, thì ở các nước tư bản chủ nghĩa diễn ra
một cuộc khủng hoảng kinh tế trên quy mô lớn, để lại
những hậu quả nặng nề, làm cho những mâu thuẫn trong
lòng xã hội tư bản phát triển gay gắt. Phong trào cách
mạng thế giới dâng cao.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 ảnh hưởng lớn
đến các nước thuộc địa và phụ thuộc, làm cho mọi hoạt
động sản xuất đình đốn. ớ Đông Dương, thực dân Pháp
tăng cường bóc lột để bù đắp những hậu quả của cuộc
khủng hoảng ở chính quốc, đồng thòi tiến hành một chiến
dịch khủng bố trắng nhằm đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên
Bái (2/1930). Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế
quốc Pháp và tay sai càng trở nên gay gắt.

71
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đòi với hệ thống tổ chức
thống nhất và cương lĩnh chính trị đúng đắn, nắm
quyền lãnh đạo duy nhất đốì với cách mạng Việt Nam
đã “lãnh đạo ngay cuộc đấu tranh kịch liệt chống thực
dân Pháp”1.
Từ tháng 1 đến tháng 4/1930, bãi công của công nhân
nổ ra liên tiếp ở nhà máy ximăng Hải Phòng, hãng dầu
Nhà Bè (Sài Gòn), các đồn điền Phú Riềng, Dầu Tiếng,
nhà máy dệt Nam Định, nhà máy diêm và nhà máy cưa
Bến Thủy... Phong trào đấu tranh của nông dân cũng diễn
ra ở nhiều địa phương như Hà Nam, Thái Bình, Nghệ An,
Hà Tĩnh... Truyền đơn, cò đỏ búa liềm xuất hiện trên các
đường phô' Hà Nội và nhiều địa phương.
Từ tháng 5/1930, phong trào phát triển thành cao
trào. Ngày 1/5/1930, nhân dân Việt Nam kỷ niệm Ngày
Quốc tế Lao động với những hình thức đấu tranh phong
phú. Riêng trong tháng 5/1930 đã nổ ra 16 cuộc bãi công
của công nhân, 34 cuộc biểu tình của nông dân và 4 cuộc
đấu tranh của các tầng lớp nhân dân thành thị. Từ tháng 6
đến tháng 8/1930 đã nổ ra 121 cuộc đấu tranh, nổi bật
nhất là cuộc tổng bãi công của công nhân khu công nghiệp
Bến Thủy - Vinh (8/1930), đánh dấu “một thời kỳ mới, thời
kỳ đấu tranh kịch liệt đã đến”2.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.20.


2. Báo Người lao khổ - cơ quan ngôn luận của Xứ ủy Trung Kỳ,
số 13, ngày 18/9/1930.

72
ở vùng nông thôn hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh nổ
ra nhiều cuộc biểu tình lớn của nông dân. Tháng 9/1930,
phong trào cách mạng phát triển đến đỉnh cao với
những hình thức đấu tranh ngày càng quyết liệt. Cuộc
hiểu tình của nông dân Hưng Nguyên, ngày 12/9/1930 bị
dàn áp dữ dội, máy bay Pháp ném bom giết chết 171 người.
Như lửa đổ thêm dầu, phong trào cách mạng bùng lên
mạnh mẽ.
Trưởc sức mạnh của quần chúng, bộ máy chính quyền
của đế quốc và tay sai ở nhiều nơi tan rã. Các tổ chức đảng
lanh đạo ban chấp hành nông hội ở thôn, xã đứng ra quản
lý mọi mặt đời sống xã hội ỏ nông thôn, thực hiện chuyên
chính với kẻ thù, dân chủ với quần chúng nhân dân, làm
chức năng, nhiệm vụ một chính quyền cách mạng dưối
hình thức các ủy ban tự quản theo kiểu Xôviết.
Tháng 9/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng gửi
thông tri cho Xứ ủy Trung Kỳ vạch rõ chủ trương bạo động
riêng lẻ trong một số địa phương lúc đó là quá sớm vì chưa
đủ điều kiện. Trách nhiệm của Đảng là phải tổ chức quần
chúng chống khủng bôz, giữ vững lực lượng cách mạng,
"duy trì kiên cố ảnh hưởng của Đảng, của Xôviết trong
quần chúng để đến khi thất bại thì ý nghĩa Xôviết ăn sâu
vào trong óc quần chúng và lực lượng của Đảng và nông
hội vẫn duy trì”1.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Dẳng toàn tập, Sđd, t.2,
tr.83.

73
Chính quyền Xôviết ra đòi và là đỉnh cao của phong
trào cách mạng. Từ cuối năm 1930, thực dân Pháp tập
trung mọi lực lượng đàn áp khốc liệt, kết hợp thủ đoạn bạo
lực với những thủ đoạn chính trị như cưỡng bức dân cày ra
đầu thú, tổ chức rước cò vàng, nhận thẻ quy thuận... Đầu
năm 1931, hàng nghìn chiến sĩ cộng sản, hàng vạn người
yêu nưốc bị bắt, bị giết hoặc bị tù đày. Tháng 4/1931, toàn
bộ Ban Chấp hành Trung ương Đảng bị bắt, không còn lại
một ủy viên nào1. “Các tổ chức của Đảng và của quần
chúng tan rã hầu hết”2.
Mặc dù bị tổn thất nặng nề, nhưng phong trào cách
mạng 1930 - 1931 có ý nghĩa lịch sử quan trọng đối với
cách mạng Việt Nam, đã “khẳng định trong thực tế quyền
lãnh đạo và năng lực lãnh đạo cách mạng của giai cấp vô
sản mà đại biểu là Đảng ta; ở chỗ nó đem lại cho nông dân
niềm tin vững chắc vào giai cấp vô sản, đồng thời đem lại
cho đông đảo quần chúng công nông lòng tự tin ở sức lực
cách mạng vĩ đại của mình...”3.
Phong trào cách mạng đã rèn luyện đội ngũ cán bộ,
đảng viên và quần chúng yêu nưốc. Đặc biệt, “Xôviết Nghệ

1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,
Sđd, t.6, tr.332.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.20.
3. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đẳng, vì độc lập, tự do, vì
chủ nghĩa xã hội, tiên lên giành những thắng lợi mới, Nxb. Sự thật,
Hà Nội, 1975, tr.38-39.

74
A11 hi thất bại, nhưng đã có ảnh hưởng lớn. Tinh thần anh
thing của nó luôn luôn nồng nàn trong tâm hồn quần
chúng, và nó đã mở đường cho thắng lợi về sau”1.
Cao trào cũng để lại cho Đảng những kinh nghiệm quý
hâu “về kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản
phong kiến, kết hợp phong trào đấu tranh của công nhân
vói phong trào đấu tranh của nông dân, thực hiện liên
minh công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân;
k ết hợp phong trào cách mạng ở nông thôn với phong trào
(•Ách mạng ỏ thành thị, kết hợp đấu tranh chính trị với
11 Au tranh vũ trang v.v.”2.

b) Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông


Ihỉơng, tháng 10/1930
Từ ngày 14 đến ngày 31/10/1930, Ban Chấp hành
Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương cảng
lức Hồng Kông (Trung Quốc), quyết định đổi tên Đảng
Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương.
Dồng chí Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.
I lội nghị thông qua Luận cương chính trị của Đảng Cộng
san Đông Dương gồm các nội dung chính3:

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.20.


2. Trường Chinh: Đời đời nhớ ơn Các Mác và đi theo con đường
Cắc Mác đã vạch ra, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1968, tr.52.
3. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,
Sđd, t.2, tr.88-103.

75
- Xác định mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay
gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên là “một bên thì thợ
thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa
chủ, phong kiến, tư bổn và đế quốc chủ nghĩa”.
- Về phương hưởng chiến lược của cách mạng, Luận
cương nêu rõ tính chất của cách mạng Đông Dương lúc
đầu là một cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”, “có tánh
chất thổ địa và phản đế’. Sau đó sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ
qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã
hội chủ nghĩa”.
- Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền
là phải “tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến,
đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực
hành thổ địa cách mạng cho triệt để’ và “đánh đổ đê'quô'c
chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”.
Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khăng khít vởi
nhau: “... có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mói phá được cái
giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi;
mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đê
quô'c chủ nghĩa”. Luận cương nhấn mạnh: “Vâh đề thổ địa
là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền”, là cơ sở để
Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.
Giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính của
cách mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vô sản là
động lực chính và mạnh.
- Về lãnh đạo cách mạng, Luận cương khẳng định:
“điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng ở

76
Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một
(lường chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết
liên lạc vối quần chúng, và từng trải tranh đấu mà
trưởng thành”.
- Về phương pháp cách mạng, Luận cương nêu rõ phải
ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con đường “võ trang
bạo động”. Đến lúc có tình thế cách mạng, “Đảng phải lập
tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chánh phủ của địch
nhân và giành lấy chánh quyền cho công nông”. Võ trang
bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật, “phải
theo khuôn phép nhà binh”.
Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách
mạng vô sản thế giới, vì thế giai cấp vô sản Đông Dương
phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước
hết là giai cấp vô sản Pháp, và phải mật thiết liên hệ
với phong trào cách mạng ở các nưổc thuộc địa và nửa
thuộc địa.
Luận cương chính trị tháng 10/1930 đã xác định
nhiều vấn đề cơ bản về chiến lược cách mạng, về cơ bản
t hống nhất với nội dung của Chính cương, sách lược vắn
tát của Hội nghị thành lập Đảng tháng 2/1930. Tuy nhiên,
Luận cương đã không nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu của xã
hội Việt Nam thuộc địa, không nhấn mạnh nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, mà nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng
mộng đất; không đề ra được một chiến lược liên minh dân
lọc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chông đế
quốc xâm lược và tay sai. Nguyên nhân của những hạn

77
chế đó là do nhận thức chưa đầy đủ về thực tiễn cách
mạng thuộc địa và chịu ảnh hưỏng của tư tưởng tả
khuynh, nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp đang
tồn tại trong Quốc tế Cộng sản và một số đảng cộng sản
trong thời gian đó. Những hạn chê của Đảng trong việc
giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân
tộc, giữa hai nhiệm vụ giải phóng dân tộc và cách mạng
ruộng đất, cũng như trong việc tập hợp lực lượng cách
mạng còn tiếp tục kéo dài trong nhiều năm sau.
Sau Hội nghị Trung ương tháng 10/1930, Đảng đã có
chủ trương mối. Ngày 18/11/1930, Thường vụ Trung ương
Đảng ban hành Chỉ thị Ve' vấn đề thành lập “Hội Phản đế
đồng minh”, là tổ chức mặt trận đầu tiên để tập hợp, đoàn
kết các giai cấp, tầng lốp dân tộc, khẳng định vai trò của
nhân dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.

c) Cuộc đấu tranh khôi phục tổ chức và phong trào


cách mạng, Đại hội Đảng lần thứ I (tháng 3/1935)
Do bị tổn thất nặng nề, cách mạng Việt Nam bước vào
một giai đoạn đấu tranh cực kỳ gian khổ. Tháng 1/1931,
Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông cáo về việc đế
quô'c Pháp buộc dân cày ra đẩu thú, vạch rõ thủ đoạn của
kẻ thù và đề ra các biện pháp hưống dẫn quần chúng đấu
tranh. Hội nghị Trung ương (3/1931) quyết định nhiều vấn
đề thúc đẩy đấu tranh. Năm 1931, các đồng chí Trung
ương bị địch bắt. Đồng chí Trần Phú bị địch bắt ngày
18/4/1931 tại Sài Gòn.

78
Trong khi thực dân Pháp khủng bố" ngày càng dữ
(lọi, tư tưởng hoang mang, dao động xuất hiện trong
qnÀn chúng và cả một số đảng viên, nhưng chỉ là số ít,
"đa số đồng chí hết sức trung thành, hiến thân cho Đảng
đến giọt máu cuối cùng”1. Xứ ủy Trung Kỳ không nhận
rò điều đó, nên đã đề ra chủ trương “thanh trừ trí, phú,
địa, hào, đào tận gốc trốc tận rễ”. Tháng 5/1931, Thường
vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị nghiêm khắc phê phán
chủ trương sai lầm về thanh Đảng của Xứ ủy Trung Kỳ
và vạch ra phương hướng xây dựng Đảng, “làm cho
Đảng Bônsơvích hóa để cách mạng hóa quần chúng, qua
đó mà duy trì cơ sở, phát triển phong trào cách mạng,
đồng thời qua thử thách đấu tranh mà vận động phát
triển Đảng”2.
Ngày 11/4/1931, Quốc tế Cộng sản ra Nghị quyết công
nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là chi bộ độc lập. Đó là
sự khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng.
Trong nhà tù đế quốc, các đảng viên của Đảng nêu cao
khí tiết người cộng sản. Tổng Bí thư Trần Phú hy sinh
ngày 6/9/1931 tại Nhà thương Chợ Quán (Sài Gòn), trước
lúc hy sinh còn căn dặn các đồng chí của mình: “Hãy giữ
vững chí khí chiến đấu!”. Nằm trong xà lim án chém,
Nguyễn Đức cảnh vẫn viết tổng kết công tác vận động
công nhân. Người thanh niên cộng sản Lý Tự Trọng trước

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Vẫn kiện Đẵng toàn tập, Sđd,
t.3, tr.157, 157-158.

79
lúc hy sinh, khảng khái nói: “Con đường của thanh niên
chỉ có thể là con đường cách mạng”. Những đảng viên cộng
sản trong các nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội), Khám Lốn (Sài
Gòn), Vinh, Hải Phòng, Côn Đảo... bí mật thành lập nhiều
chi bộ để lãnh đạo đấu tranh chống khủng bô", chống chế
độ nhà tù hà khắc, đòi cải thiện sinh hoạt... Cuộc đấu
tranh phản đối án tử hình Lý Tự Trọng nổ ra ỏ Khám Lổn
(11/1931) gây náo động cả thành phô Sài Gòn. Anh chị em
tù ở Hỏa Lò tuyệt thực phản đối vụ án tử hình Nguyễn
Đức Cảnh. Cuộc đấu tranh chống chế độ nhà tù hà khắc ở
Kon Turn diễn ra đẫm máu...
Nhiều chi bộ nhà tù tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng cho
đảng viên về lý luận Mác - Lênin, đường lối chính trị của
Đảng, kinh nghiệm vận động cách mạng; tổ chức học văn
hóa, ngoại ngữ, V.V.. Nhiều tài liệu huấn luyện đảng viên
được biên soạn ngay trong tù như: Chủ nghĩa duy vật lịch
sử, Gia đình và Tổ quốc, Lịch sử tóm tắt ba tổ chức quô'c tế
(chủ yếu là Quốc tế Cộng sản), Những vấn đề cơ bản của
cách mạng Đông Dương. Một số tác phẩm của chủ nghĩa
Mác - Lênin như Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Tư bản,
Làm gì?, Bệnh ấu trĩ “tả” khuynh trong phong trào cộng
sản, Hai sách lược của Đảng xã hội dân chủ... được dịch
tóm tắt ra tiếng Việt.
Các chi bộ đảng trong nhà tù còn ra báo bí mật để phục
vụ việc học tập và đấu tranh tư tưởng, ở nhà tù Hỏa Lò có
các tờ báo Đuốc đưa đường và Con đường chính, ở Côn
Đảo có báo Người tù đỏ và tạp chí Ý kiến chung...

80
Ngày 6/6/1931, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bị chính
quyền Anh ở Hồng Kông bắt giam. Đầu năm 1934, sau khi
I'll tù, Người trở lại làm việc ở Quốc tế Cộng sản (Mátxcơva -
I ,iòn Xô).
Đầu năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê
Hồng Phong cùng một số" đồng chí công bô" Chương trình
hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương và các chương
Irình hành động của Công hội, Nông hội, Thanh niên
Cộng sản đoàn...
Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông
Dương (15/6/1932) vạch ra nhiệm vụ đấu tranh trước mắt
để khôi phục hệ thốhg tổ chức của Đảng và phong trào
cách mạng, đặc biệt cần phải “gây dựng một đoàn thể bí
mật, có kỷ luật nghiêm ngặt, cứng như sắt, vững như
đồng, tức Đảng Cộng sản để hướng đạo quần chúng trên
con đường giai cấp chiến đấu”1.
Khi Đảng và phong trào cách mạng còn gặp nhiều khó
khăn, tháng 3/1933, đồng chí Hà Huy Tập (Hồng Thế
Công) đã viết tác phẩm Sơ thảo lịch sử phong trào cộng
sản Đông Dương, bước đầu tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo
của Đảng, khẳng định công lao và sáng kiến của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc, người sáng lập Đảng.
Từ ngày 2 đến ngày 9/5/1933, Tòa án Đại hình Sài
Gòn mở phiên tòa xét xử 120 chiến sĩ cộng sản và đày ra

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đẳng toàn tập, Sđd, t.4,
tr.14.

81
Côn Đảo, trong đó có các đồng chí Ngô Gia Tự, Nguyễn
Chí Diếu, Lê Văn Lương, Phạm Hùng, Hà Huy Giáp,
Bùi Lâm.
Đầu năm 1934, theo sự chỉ đạo của Quốc tê Cộng sản,
Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương được
thành lập đế lãnh đạo, chỉ đạo phong trào trong nưốc như
chức năng, trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương.
Đến đầu năm 1935, hệ thống tổ chức của Đảng được
phục hồi. Đó là cơ sở để tiến tối Đại hội đại biểu lần thứ I
của Đảng.
Tháng 3/1935, Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng họp
ở Ma Cao (Trung Quốc), đề ra ba nhiệm vụ trước mắt: 1)
Củng cố và phát triển Đảng; 2) Đẩy mạnh cuộc vận động
tập hợp quần chúng; 3) Mở rộng tuyên truyền chống đế
quốc, chống chiến tranh, ủng hộ Liên Xô và ủng hộ cách
mạng Trung Quốc... Đại hội thông qua Nghị quyết chính
trị, Điều lệ Đảng và các nghị quyết về vận động quần
chúng. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương do đồng
chí Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư, bầu đoàn đại biểu đi
dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản. Đồng chí Nguyễn Ái
Quốc được cử làm đại diện của Đảng bên cạnh Quốc tế
Cộng sản. Đại hội lần thứ I của Đảng (3/1935) vẫn chưa đề
ra một chủ trương chiến lược phù hợp với thực tiễn cách
mạng Việt Nam, chưa đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu và tập hợp lực lượng toàn dân tộc. Đại hội Đảng
vẫn cho rằng: “Người ta không thể “làm cách mạng phản
đế, sau đó mới làm cách mạng điền địa”. Cách mạng sẽ chỉ

82
I hang lợi với điều kiện hai cuộc cách mạng ấy gắn bó chặt
d)é vối nhau và cùng đi với nhau”1. “Chính sách Đại hội
Ma Cao vạch ra không sát với phong trào cách mạng thế
giới và trong nước lúc bấy giờ”2.
Đại hội lần thứ I đánh dấu sự phục hồi hệ thống tổ
chức của Đảng và phong trào cách mạng quần chúng, tạo
(liều kiện để bước vào một cao trào cách mạng mới.

2. Phong trào dân chủ 1936 -1939


a) Điều kiện lịch sử và chủ trương của Đảng

Để giải quyết những hậu quả của cuộc khủng hoảng


kinh tế 1929 - 1933, giai cấp tư sản ở một số nước như
Đức, Italia, Tây Ban Nha... chủ trương dùng bạo lực đàn
áp phong trào đấu tranh trong nưốc và chuẩn bị phát động
chiến tranh thế giới để chia lại thị trường. Chủ nghĩa
phátxít xuất hiện và tạm thòi thắng thế ở một số nơi.
Nguy cơ chủ nghĩa phátxít và chiến tranh thế giới đe dọa
nghiêm trọng nền hòa bình và an ninh quốc tế.
Tháng 7/1935, Quốc tế Cộng sản họp Đại hội VII tại
Mátxcơva (Liên Xô), xác định kẻ thù nguy hiểm trước
mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phátxít. Nhiệm
vụ trưốc mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.5,
tr.419.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.21.

83
động thế giới là chống chủ nghĩa phátxít, chống chiến
tranh, bảo vệ dân chủ và hòa bình. Để thực hiện nhiệm vụ
đó, giai cấp công nhân các nước trên thế giới phải thống
nhất hàng ngũ, lập mặt trận nhân dân rộng rãi. Đoàn đại
biểu Đảng Cộng sản Đông Dương dự Đại hội VĨI Quốc tế
Cộng sản có các đồng chí: Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị
Minh Khai, Hoàng Văn Nõn1. Tổng Bí thư Lê Hồng
Phong được bầu làm ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế
Cộng sản.
Trong thòi gian này, các đảng cộng sản ra sức phấn
đấu lập mặt trận nhân dân chống chủ nghĩa phátxít. Đặc
biệt. Mặt trận nhân dân Pháp thành lập từ tháng 5/1935
do Đảng Cộng sản Pháp làm nòng cốt đã giành được thắng
lợi vang dội trong cuộc tổng tuyển cử năm 1936, dẫn đến
sự ra đời của Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp. Chính
phủ này ban bô' nhiều quyền tự do, dân chủ, trong đó có
những quyền được áp dụng ở thuộc địa, tạo không khí
chính trị thuận lợi cho cuộc đấu tranh đòi các quyền tự do,
dân chủ, cải thiện đời sống của nhân dân các nước trong
hệ thống thuộc địa Pháp. Nhiều tù chính trị cộng sản được
trả tự do. Các đồng chí đã tham gia ngay vào công việc
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, góp phần rất quan trọng thúc
đẩy phong trào cách mạng phát triển.

1. Trong quá trình hoạt động, đồng chí còn có tên gọi hoặc bí
danh là: Tú Hưu, Văn Tân, Hoàng Văn Non... (B.T).

84
Ó Việt Nam, mọi tầng lốp xã hội đều mong muốn có
những cải cách dân chủ nhằm thoát khỏi tình trạng ngột
ngạt do khủng hoảng kinh tế và chính sách khủng bố
I rắng do thực dân Pháp gây ra. Đảng Cộng sản Đông
I >ương đã phục hồi hệ thông tổ chức sau một thời gian đấu
tranh cực kỳ gian khổ và tranh thủ cơ hội thuận lợi để xây
dựng, phát triển tổ chức đảng và các tổ chức quần chúng
rộng rãi.
Ngày 26/7/1936, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
họp Hội nghị tại Thượng Hải (Trung Quốc), do đồng chí
Lê Hồng Phong chủ trì, có các đồng chí Hà Huy Tập,
Phùng Chí Kiên dự, "nhằm “sửa chữa những sai lầm”
trước đó và “định lại chính sách mối” dựa theo những
nghị quyết của Đại hội lần thứ VII Quôc tê Cộng sản12 . Hội
nghị xác định nhiệm vụ trước mắt là chống phátxít, chống
chiến tranh đế quốc, chống phản động thuộc địa và tay
sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình; “lập Mặt trận
nhân dân phản đế rộng rãi chính để bao gồm các giai cấp,
các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tôn
giáo khác nhau, các dân tộc ở xứ Đông Dương để cùng
nhau tranh đấu để đòi những điều dân chủ đơn sơ”1.
Hội nghị chủ trương chuyển hình thức tổ chức bí mật,
không hợp pháp sang các hình thức tổ chức và đấu tranh

1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.21.


2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.6,
tr.144.

85
công khai, nửa công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp, kết
hợp vối bí mật, bất hợp pháp. Đồng chí Hà Huy Tập là
Tổng Bí thư của Đảng từ tháng 8/1936 đến tháng 3/1938.
Các Hội nghị lần thứ ba (3/1937) và lần thứ tư
(9/1937) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng bàn sâu
hơn về công tác tổ chức của Đảng, quyết định chuyển
mạnh hơn nữa về phương pháp tổ chức và hoạt động để
tập hợp đông đảo quần chúng trong mặt trận chông phản
động thuộc địa, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 3/1938
nhấn mạnh: “lập Mặt trận dân chủ thống nhất là một
nhiệm vụ trung tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại”1.
Cùng vối việc đề ra chủ trương cụ thể, trước mắt để
lãnh đạo phong trào dân chủ 1936 - 1939, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đặt vấn đề nhận thức lại mối
quan hệ giữa hai nhiệm vụ phản đế và điền địa. Chỉ thị
của Ban Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương Gửi các
tổ chức của Đảng (26/7/1936) chỉ rõ, “ở một xứ thuộc địa
như Đông Dương, trong hoàn cảnh hiện tại, nếu chỉ quan
tâm đến sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp có thể
sẽ nảy sinh những khó khăn để mở rộng phong trào giải
phóng dân tộc”2.
Trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới
(10/1936), Đảng nêu quan điểm: “Cuộc dân tộc giải phóng

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đẳng toàn tập, Sđd,
t.6, tr.349-350, 74.

86
không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền
Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc
<'ốn phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết
Vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có
chỗ không xác đáng”1. “Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc
tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đê
thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải
quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm
nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho
được toàn thắng”2. Với văn kiện này, Trung ương Đảng đã
nêu cao tinh thần đấu tranh, thẳng thắn phê phán quan
điểm chưa đúng và bước đầu khắc phục hạn chế trong
Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương
tháng 10/1930. Đó cũng là nhận thức mới, phù hợp với
tinh thần trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
tại Hội nghị thành lập Đảng (2/1930) và lý luận cách
mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc.

b) Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo,
hòa bình
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc vận động dân chủ
diễn ra trên quy mô rộng lớn, lôi cuốn đông đảo quần chúng
tham gia với những hình thức đấu tranh phong phú.

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
t.6, tr.152.

87
Nắm cơ hội Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp quyết
định trả tự do một số tù chính trị, thi hành một số’ cải cách
xã hội cho lao động ở các thuộc địa Pháp và cử một ủy ban
điều tra thuộc địa đến Đông Dương, Đảng phát động
phong trào đấu tranh công khai của quần chúng, mở đầu
bằng cuộc vận động lập “úy ban trù bị Đông Dương đại
hội” nhằm thu thập nguyện vọng quần chúng, tiến tới
triệu tập Đại hội đại biểu nhân dân Đông Dương. Hưởng
ứng chủ trương của Đảng, quần chúng sôi nổi tổ chức các
cuộc míttinh, hội họp để tập hợp “dân nguyện”. Trong một
thời gian ngắn, ở khắp các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, từ
thành thị đến nông thôn đã lập ra các “ủy ban hành động”
để tập hợp quần chúng. Riêng ở Nam Kỳ có 600 “ủy ban
hành động”.
Đầu năm 1937, nhân dịp phái viên của Chính phủ
Pháp là Gôđa (Godart) đi kinh lý Đông Dương và Brêviê
(Brévié) sang nhận chức toàn quyền Đông Dương, Đảng
vận động hai cuộc biểu dương lực lượng quần chúng
dưới danh nghĩa “đón rước”, míttinh, biểu tình, đưa đơn
“dân nguyện”.
Ngày 5/5/1937, Tổng Bí thư Hà Huy Tập xuất bản
cuốn Tờrốixky và phản cách mạng, phê phán những luận
điệu “tả” khuynh của các phần tử tòrốtxkít ở Việt Nam
như Tạ Thu Thâu, Hồ Hữu Tường,... góp phần xây dựng
Đảng về tư tưởng, chính trị và tổ chức.
Các báo chí tiếng Việt và tiếng Pháp của Đảng, Mặt
trận Dân chủ Đông Dương ra đời. Nhiều sách chính trị

88
pho thông được xuất bản để giới thiệu chủ nghĩa Mác -
Lenin và chính sách mối của Đảng. Cuốn Vấn đề dân cày
(1938) của Qua Ninh (Trường Chinh) và Vân Đình (Võ
Nguyên Giáp) tố cáo tội ác của đế quốc và phong kiến đối
với nông dân và làm rõ vai trò quan trọng của nông dân
trong cách mạng. Cuốn Chủ nghĩa mảcxít phổ thông của
llải Triều được in và phát hành năm 1938. Ngoài ra còn
một số cuốn sách giới thiệu về Liên Xô, cách mạng Trung
Quốc, Mặt trận nhân dân Pháp và Mặt trận nhân dân Tây
I ỉan Nha. Theo sáng kiến của Đảng, Hội truyền bá quốc ngữ
ra đời. Từ cuối năm 1937, phong trào truyền bá quốc ngữ
phát triển mạnh.
Hội nghị Trung ương Đảng (29 - 30/3/1938) quyết định
lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương để tập hợp rộng rãi lực
lượng, phát triển phong trào. Hội nghị bầu đồng chí
Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư của Đảng.
Các hình thức tổ chức quần chúng phát triển rộng rãi,
bao gồm các hội tương tế, hội ái hữu. Trong những năm
1937 - 1938, Mặt trận Dân chủ còn tổ chức các cuộc vận
động tranh cử vào các Viện dân biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ,
Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, Hội đồng kinh tế lý tài
Đông Dương.
Năm 1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ xuất bản
cuốn sách Tự chỉ trích, thẳng thắn chỉ rõ những sai lầm,
khuyết điểm, nêu rõ những bài học cần thiết trong lãnh
đạo, chỉ đạo của Đảng. Đó là tác phẩm có ý nghĩa lý
luận, thực tiễn về xây dựng Đảng, tự phê bình và phê

89
bình để nâng cao năng lực lãnh đạo và bản chất cách
mạng của Đảng.
Tháng 10/1938, Nguyễn Ái Quốc ròi Mátxcơva (Liên Xô)
trỏ lại Trung Quốc. Năm 1939, từ Trung Quốc, Người đã
gửi nhiều thư cho Trung ương Đảng ở trong nước, truyền
đạt quan điểm của Quốc tế Cộng sản và góp nhiều ý kiến
quan trọng về sự lãnh đạo của Đảng.
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (9/1939),
thực dân Pháp đàn áp cách mạng, Đảng rút vào hoạt động
bí mật. Cuộc vận động dân chủ kết thúc. Đó thực sự là
một phong trào cách mạng sôi nổi, có tính quần chúng
rộng rãi, nhằm thực hiện mục tiêu trước mắt là chống
phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo
và hòa bình. Đảng nhận thức đầy đủ rằng, “những yêu
sách đó tự nó không phải là mục đích cuối cùng”, “bằng cải
cách không thể nào thay đổi một cách căn bản trật tự xã
hội cũ”1. Song, muốn đi đến mục đích cuốỉ cùng, cách
mạng phải vượt qua nhiều chặng đường quanh co, từ thấp
đến cao, giành thắng lợi từng bưốc, tiến lên giành thắng
lợi hoàn toàn.
Qua cuộc vận động dân chủ, đội quân chính trị quần
chúng gồm hàng triệu người được tập hợp, giác ngộ và rèn
luyện. Uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng. Tổ
chức Đảng được củng cố và phát triển. Đến tháng 4/1938,

1. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì


chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Sđd, tr.38.

90
háng có 1.597 đảng viên hoạt động bí mật và hơn 200
I đung viên hoạt động công khai. Số hội viên trong các tổ
chức quần chúng công nhân, nông dân, phụ nữ, học sinh,
cưu tế là 35.009 người1.
II Qua lãnh đạo phong trào giai đoạn 1936 - 1939, Đảng
I ích lũy thêm nhiều kinh nghiệm mới, đó là kinh nghiệm
I vổ chỉ đạo chiến lược: giải quyết mốỉ quan hệ giữa mục
l iồu chiến lược và mục tiêu trước mắt; về xây dựng một
inặt trận thống nhất rộng rãi phù hợp với yêu cầu của
nhiệm vụ chính trị, phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù nguy
hiểm nhất; về kết hợp các hình thức tổ chức bí mật và
công khai để tập hợp quần chúng và các hình thức,
phương pháp đấu tranh: tổ chức Đông Dương đại hội, đấu
tranh nghị trường, trên mặt trận báo chí, đòi các quyền
dân sinh, dân chủ, bãi công lốn của công nhân vùng mỏ
(12/11/1936), kỷ niệm Ngày Quốc tế lao động 1/5. Thực
tiễn phong trào chỉ ra rằng: “Việc gì đúng với nguyện vọng
nhân dân thì được quần chúng nhân dân ủng hộ và hăng
hái đấu tranh, và như vậy mới thật là một phong trào
quần chúng”2. Cuộc vận động dân chủ 1936 - 1939 đã làm
cho trận địa và lực lượng cách mạng được mồ rộng ở cả
nông thôn và thành thị, thực sự là một bước chuẩn bị cho
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám sau này.

1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,
Sđd, t.6, tr.375.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.21.

91
3. Phong trào giải phóng dân tộc 1939 -1945

a) Bối cảnh lịch sử và chủ trương chiến lược mới


của Đảng
Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
Chính phủ Đalađiê (Daladier) thi hành một loạt biện pháp
đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách
mạng ở thuộc địa. Tháng 6/1940, Đức tấn công Pháp,
Chính phủ của Thủ tưống Pêtanh (Pétain) đầu hàng Đức.
Sau khi chiếm một loạt nưốc châu Âu, tháng 6/1941, Đức
tiến công Liên Xô.
Ó Đông Dương, bộ máy đàn áp được tăng cường, lệnh
thiết quân luật được ban bố. Ngày 28/9/1939, Toàn quyền
Đông Dương ra nghị định cấm tuyên truyền cộng sản,
đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật,
giải tán các hội, đoàn, đóng cửa các tờ báo và nhà xuất
bản, cấm hội họp và tụ tập đông người... Thực dân Pháp
thi hành chính sách thời chiến, phátxít hóa bộ máy thống
trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng; thực hiện
chính sách tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục
vụ cuộc chiến tranh đế quốc. Tháng 9/1940, quân phiệt
Nhật vào Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng và câu
kết vối Nhật để thống trị và bóc lột nhân dân Đông
Dương. Nhân dân Đông Dương phải chịu cảnh “một cổ
hai tròng” Pháp - Nhật.
Từ giữa năm 1941, tình hình trong nước và thế giới
có nhiều biến chuyển. Tháng 12/1941, chiến tranh Thái

92
Illnh Dương bùng nổ. Quân phiệt Nhật lần lượt đánh
1'1)1 ếm nhiều thuộc địa của Mỹ và Anh ở trên biển và
I rong đất liền.
Ngay khi Chiến tranh thế giối thứ hai mới bùng nổ,
Diing kịp thời rút vào hoạt động bí mật, chuyển trọng tâm
công tác về nông thôn, đồng thời vẫn chú trọng các đô thị.
Ngày 29/9/1939, Trung ương Đảng gửi toàn Đảng một
thòng báo quan trọng chỉ rõ: “Hoàn cảnh Đông Dương sẽ
I lến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng”1.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (11/1939)
I ại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định) phân tích tình hình và
chỉ rõ: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương
không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh
đố đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da
trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập”2. Hội
nghị nhấn mạnh: “chiến lược cách mệnh tư sản dân
quyền bây giờ cũng phải thay đổi ít nhiều cho hợp với
tình thế mới”3. “Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc,
lấy quyển lợi dân tộc làm tốì cao, tất cả mọi vấn đề của
cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào
cái mục đích ấy mà giải quyết”4. Khẩu hiệu “cách mạng
ruộng đất” tạm gác lại và thay bằng các khẩu hiệu chống
địa tô cao, chống cho vay lãi nặng, tịch thu ruộng đất
của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc chia

1, 2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,
Sđd, t.6, tr.756, 536, 538, 539.

93
cho dân cày. Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận
dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, tập hợp tất cả
các dân tộc, các giai cấp, đảng phái và cá nhân yêu nước
ở Đông Dương nhằm đánh đổ đê quốc Pháp và tay sai,
giành lại độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng
11/1939 đã đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch
sử, đưa nhân dân bước vào thời kỳ trực tiếp vận động
giải phóng dân tộc.
Ngày 17/1/1940, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ bị
địch bắt. Nhiều đồng chí úy viên Trung ương cũng sa
vào tay giặc.
Tháng 11/1940, hơn một tháng sau khi Nhật vào Đông
Dương, Hội nghị cán bộ Trung ương họp, lập lại Ban Chấp
hành Trung ương và nhận định: “Cách mạng phản đế và
cách mạng thổ địa phải đồng thòi tiến, không thể cái làm
trưốc cái làm sau”1. “Mặc dầu lúc này khẩu hiệu cách
mạng phản đế - cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn và
thiết dụng hơn song nếu không làm được cách mạng thổ
địa thì cách mạng phản đế khó thành công. Tình thế hiện
tại không thay đổi gì tính chất cơ bản của cuộc cách mạng
tư sản dân quyền Đông Dương”2. Trung ương Đảng vẫn
chưa thật sự dứt khoát với chủ trương đặt nhiệm vụ giải

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Vân kiện Đảng toàn tập, Sđd,
t.7, tr.68, 74.

94
phóng dân tộc lên hàng đầu được đề ra tại Hội nghị tháng
11/1939.
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28/1/1941,
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nưốc và dừng chân ở Cao
Bằng. Tháng 5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần
thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Hội nghị
khẳng định: “Vấn đề chính là nhận định cuộc cách mạng
trước mắt của Việt Nam là một cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc; lập Mặt trận Việt Minh, khẩu hiệu chính là: Đoàn
kết toàn dân, chống Nhật, chống Pháp, tranh lại độc lập;
hoãn cách mạng ruộng đất”1. Trung ương bầu đồng chí
Trường Chinh làm Tổng Bí thư. Hội nghị Trung ương nêu
rõ những nội dung quan trọng:
Thứ nhất, hết sức nhấn mạnh mâu thuẫn chủ yếu đòi
hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân
tộc Việt Nam vối đế quốc Pháp và phátxít Nhật, bỏi vì
dưới hai tầng áp bức Nhật - Pháp, “quyền lợi tất cả các
giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong không
lúc nào bằng”2.
Thứ hai, khẳng định dứt khoát chủ trương “phải thay
đổi chiến lược” và giải thích: “Cuộc cách mạng Đông
Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân
quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.23.


2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7,
tr.112.

95
đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ phải giải
quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng””1. Trung
ương Đảng khẳng định: “Chưa chủ trương làm cách
mạng tư sản dân quyền mà chủ trương làm cách mạng
giải phóng dân tộc”2. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Hội nghị
quyết định tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ,
chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng các khẩu hiệu
tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân
cày nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm
tô, giảm tức. Hội nghị chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi
của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn
vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không
giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi
được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những
toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu,
mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng
không đòi lại được. Đó là nhiệm vụ của Đảng ta trong
vấn đề dân tộc”3.
Thứ ba, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ
từng nước ỏ Đông Dương, thi hành chính sách “dân tộc tự
quyết”. Sau khi đánh đuổi Pháp - Nhật, các dân tộc trên
cõi Đông Dương sẽ “tổ chức thành liên bang cộng hòa dân
chủ hay đứng riêng thành lập một quốc gia tùy ý”. “Sự tự
do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”4.

1, 2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,
Sđd, t.7, tr.118, 119, 113.

96
I'll' quan điểm đó, Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi
nước Đông Dương một mặt trận riêng, thực hiện đoàn
kết từng dân tộc, đồng thời đoàn kết ba dân tộc chống kẻ
thù chung.
Thứ tư, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, “không
phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản
bản xứ, ai có lòng yêu nưốc thương nòi sẽ cùng nhau thống
nhất mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền
độc lập, tự do cho dân tộc”1. Các tổ chức quần chúng trong
Mặt trận Việt Minh đều mang tên “cứu quốc”. Trong việc
xây dựng các đoàn thể cứu quốc, “điều cốt yếu là không
phải những hội viên phải hiểu chủ nghĩa cộng sản, mà
điều cốt yếu hơn hết là họ có tinh thần cứu quốc và muốn
tranh đấu cứu quốc”2.
Thứ năm, chủ trương sau khi cách mạng thành công
sẽ thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo tinh
thần tân dân chủ, một hình thức nhà nước “của chung cả
toàn thể dân tộc”3. Hội nghị chỉ rõ, “không nên nói công
nông liên hiệp và lập chính quyền Xôviết mà phải nói
toàn thể nhân dân liên hợp và lập chính phủ dân chủ
cộng hòa”4.
Thứ sáu, Hội nghị xác định chuẩn bị khởi nghĩa vũ
trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân;

1, 2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,
Sđd, t.7, tr.112, 125, 114, 127.

97
“phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm
vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù”1.
Trong những hoàn cảnh nhất định thì “vối lực lượng sẵn
có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khỏi nghĩa từng phần
trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà
mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lốn”2. Hội nghị
còn xác định những điều kiện chủ quan, khách quan và dự
đoán thời cơ tổng khởi nghĩa.
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã hoàn chỉnh chủ trương chiến lược được đề ra từ
Hội nghị tháng 11/1939, khắc phục triệt để những hạn chế
của Luận cương chính trị tháng 10/1930, khẳng định lại
đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn trong
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và lý luận cách
mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc. Đó là ngọn
cờ dẫn đường cho toàn dân Việt Nam đẩy mạnh công cuộc
chuẩn bị lực lượng, tiến lên trong sự nghiệp đánh Pháp,
đuổi Nhật, giành độc lập, tự do.

b) Phong trào chông Pháp - Nhật, đẩy mạnh chuẩn bị


lực lượng cho cuộc khởi nghĩa vũ trang
Ngày 27/9/1940, nhân việc quân Pháp ở Lạng Sơn bị
Nhật tiến đánh phải rút chạy qua đường Bắc Sơn -

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đẳng toàn tập, Sđd,
t.7, tr 131, 131-132.

98
Thái Nguyên, nhân dân Bắc Sơn dưới sự lãnh đạo của
đảng bộ địa phương nổi dậy khởi nghĩa, chiếm đồn Mỏ
Nhài, làm chủ châu lỵ Bắc Sơn. Đội du kích Bắc Sơn được
thành lập. Khỏi nghĩa Bắc Sơn là bước phát triển của
đấu tranh vũ trang vì mục tiêu giành độc lập.
Ớ Nam Kỳ, phong trào cách mạng của quần chúng lan
rộng ở nhiều nơi. Theo chủ trương của Xứ ủy Nam Kỳ, một
kế hoạch khởi nghĩa vũ trang được gấp rút chuẩn bị.
Tháng 11/1940, Hội nghị cán bộ Trung ương họp ở làng
Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) quyết định duy trì và củng
cố’ lực lượng vũ trang ỏ Bắc Sơn và đình chỉ chủ trương
phát động khỏi nghĩa ỏ Nam Kỳ. Tuy nhiên, chủ trương
hoãn cuộc khởi nghĩa ở Nam Kỳ chưa được triển khai thì
cuộc khởi nghĩa đã nổ ra vào đêm 23/11/1940. Quân khởi
nghĩa đánh chiếm nhiều đồn bốt và tiến công nhiều quận
lỵ. Chính quyền cách mạng được thành lập ỏ một sô’ địa
phương và ban bô’ các quyền tự do dân chủ, mở các phiên
tòa để xét xử phản cách mạng... Cuộc khởi nghĩa bị đê
quốc Pháp đàn áp khốc liệt, làm cho lực lượng cách mạng
bị tổn thất nặng nề, phong trào cách mạng Nam Kỳ gặp
khó khăn trong nhiều năm sau.
Ngày 13/1/1941, một cuộc binh biến nổ ra ỏ đồn Chợ
Rạng (Đô Lương, Nghệ An) do Đội Cung chỉ huy, nhưng
cũng bị thực dân Pháp dập tắt nhanh chóng.
Các cuộc khỗi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ và binh biến Đô
Lương là “những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa

99
toàn quốc, là bưốc đầu đấu tranh bằng võ lực của các dân
tộc ở một nước Đông Dương”1.
Sau Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (5/1941), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc gửi thư (6/6/1941),
kêu gọi đồng bào cả nước: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc
giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại
đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi
ra khỏi nước sôi lửa nóng”2.
Pháp - Nhật ngày càng táng cường đàn áp cách mạng
Việt Nam. Ngày 26/8/1941, thực dân Pháp xử bắn các
đồng chí: Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Hà Huy Tập,
Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai tại Hóc Môn, Gia Định.
Đồng chí Lê Hồng Phong hy sinh trong nhà tù Côn Đảo
(6/9/1942). Tháng 8/1942, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trên
đường đi công tác ở Trung Quốc cũng bị quân Trung Hoa
dân quốc bắt giữ hơn một năm (từ tháng 8/1942 đến tháng
9/1943). Trước quân thù tàn bạo, các chiến sĩ cộng sản đã
nêu cao ý chí kiên cường bất khuất và giữ vững niềm tin
vào thắng lợi tất yếu của cách mạng.
Ngày 25/10/1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn, nêu
rõ: “Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) ra đời”.
Chương trình Việt Minh đáp ứng nguyện vọng cứu nước
của mọi giới đồng bào, nên phong trào Việt Minh phát

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7,
tr.109.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.23O.

100
I riển rất mạnh, mặc dù bị kẻ thù khủng bố gắt gao. Việt
Minh là mặt trận đại đoàn kết dân tộc Việt Nam, là nơi
tập hợp, giác ngộ và rèn luyện lực lượng chính trị rộng lốn,
một lực lượng cơ bản và có ý nghĩa quyết định trong tổng
khởi nghĩa giành chính quyền sau này.
Đảng tích cực chăm lo xây dựng Đảng và củng cố tổ
chức, mở nhiều lốp huấn luyện ngắn ngày, đào tạo cán bộ
vê chính trị, quân sự, binh vận. Nhiều cán bộ, đảng viên
trong các nhà tù Sơn La, Chợ Chu, Buôn Ma Thuột... vượt
ngục về địa phương tham gia lãnh đạo phong trào.
Tháng 2/1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở
Võng La (Đông Anh, Phúc Yên, nay thuộc Hà Nội), đề ra
những biện pháp cụ thể nhằm phát triển phong trào quần
chúng rộng rãi và đều khắp nhằm chuẩn bị điều kiện cho
cuộc khởi nghĩa có thể nổ ra ở những trung tâm đầu não
của quân thù.
Đảng và Việt Minh cho xuất bản nhiều tò báo: Giải
phóng, Cờ giải phóng, Chặt xiềng, Cứu quốc, Việt Nam độc
lập, Bãi Sậy, Đuổi giặc nước, Tiền phong, Kèn gọi lính,
Quân giải phóng, Kháng địch, Độc lập, V.V.. Trong các nhà
tù đế quốc, những chiến sĩ cách mạng cũng sử dụng báo
chí làm vũ khí đấu tranh, ra các tờ báo Suôi reo (Sơn La),
Bình Minh (Hòa Bình), Thông reo (Chợ Chu), Dòng sông
Công (Bá Vân)... Năm 1943, Đảng công bô' bản Đề cương
về văn hóa Việt Nam, xác định văn hóa cũng là một trận
địa cách mạng, chủ trương xây dựng một nền văn hóa
mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng.

101
Cuối năm 1944, Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam ra đời,
thu hút trí thức và các nhà hoạt động văn hóa vào mặt
trận đấu tranh giành độc lập, tự do.
Đảng vận động và giúp đỡ một số sinh viên, trí thức
yêu nưóc thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam (6/1944).
Đảng này tham gia Mặt trận Việt Minh và tích cực hoạt
động, góp phần mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc.
Đảng cũng tăng cường công tác vận động binh lính
người Việt và người Pháp. Từ Trung ương đến các địa
phương đều có ban binh vận.
Cùng với việc đẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị,
Đảng chú trọng chuẩn bị lực lượng vũ trang và căn cứ địa
cách mạng.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Trung
ương Đảng, đội du kích Bắc Sơn được duy trì và phát triển
thành Cứu quốc quân. Sau 8 tháng hoạt động gian khổ,
một bộ phận Cứu quốc quân vượt khỏi vòng vây của quân
Pháp, rút lên biên giới phía Bắc, nhưng giữa đường đi bị
phục kích và tổn thất nặng. Bộ phận Cứu quốc quân còn
lại đã phân tán lực lượng hoạt động tại chỗ, phát triển cơ
sở chính trị.
Cuối nám 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định thành lập
một đội vũ trang ở Cao Bằng để thúc đẩy phát triển cơ sỏ
chính trị và chuẩn bị xây dựng lực lượng vũ trang. Tháng
12/1941, Trung ương ra thông cáo Cuộc chiến tranh Thái
Bình Dương và trách nhiệm cẩn kíp của Đảng, chỉ rõ các
đảng bộ địa phương cần phải vận động nhân dân đấu

102
I canh chống địch bắt lính, bắt phu, chống cưốp đoạt tài
sán của nhân dân, đòi tăng lương, giảm giờ làm cho công
nhân, củng cố và mở rộng các đội tự vệ cứu quốc, thành
lập các tiểu tổ du kích để tiến lên thành lập đội du kích
chính thức, mở rộng cơ sỏ quần chúng và lực lượng vũ
trang ỏ các khu du kích... tiến lên phát động khởi nghĩa
giành chính quyền khi có thời cơ.
ở Bắc Sơn - Võ Nhai, Cứu quốc quân tiến hành tuyên
truyền vũ trang, gây cơ sở chính trị, mở rộng khu căn cứ
ra nhiều huyện thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên
Quang, Vĩnh Yên... Từ Cao Bằng, khu căn cứ được mở
rộng sang các tỉnh Hà Giang, Bắc Kạn, Lạng Sơn. Các
đoàn xung phong Nam tiến đẩy mạnh hoạt động, mở một
hành lang chính trị nốĩ liền hai khu căn cứ Cao Bằng và
Bắc Sơn - Võ Nhai (cuối năm 1943). Tổng bộ Việt Minh ra
chỉ thị Sửa soạn khởi nghĩa. Không khí chuẩn bị cho khởi
nghĩa sôi nổi trong khu căn cứ.
Tháng 10/1944, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào
toàn quốc thông báo chủ trương của Đảng về việc triệu tập
Đại hội đại biểu quốc dân. Bức thư nêu rõ: “Phe xâm lược
gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh
được sự thắng lợi cuôì cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải
phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian
rất gấp. Ta phải làm nhanh!”1.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.538.

103
Cuối năm 1944, ở Cao - Bắc - Lạng, cấp ủy địa phương
gấp rút chuẩn bị phát động chiến tranh du kích trong
phạm vi ba tỉnh. Lúc đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh từ Trung
Quốc trở lại Cao Bằng, kịp thời quyết định đình chỉ phát,
động chiến tranh du kích trên quy mô rộng lớn vì chưa đủ
điều kiện. Tiếp đó, Người ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nanì
tuyên truyền giải phóng quân, xác định nguyên tắc tố
chức, phương thức hoạt động và phương châm tác chiến
của lực lượng vũ trang. Bản Chỉ thị này có giá trị như một
cương lĩnh quân sự tóm tắt của Đảng.
Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân ra đời ở Cao Bằng. Ba ngày sau, đội đánh
thắng liên tiếp hai trận ở Phai Khắt (25/12/1944) và Nà
Ngần (26/12/1944). Đội đẩy mạnh vũ trang tuyên
truyền, kết hợp chính trị và quân sự, xây dựng cơ sở
cách mạng, góp phần củng cố và mở rộng khu căn cứ
Cao - Bắc - Lạng.
Ngày 24/12/1944, Đoàn của Tổng bộ Việt Minh do
Hoàng Quốc Việt dẫn đầu sang Trung Quốc liên lạc với các
nước Đồng minh để phối hợp chống Nhật. Tháng 2/1945,
lãnh tụ Hồ Chí Minh sang Trung Quốc tranh thủ sự giúp
đỡ của Đồng minh chống phátxít Nhật.

c) Cao trào kháng Nhật cứu nước


Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bưởc vào
giai đoạn kết thúc. Hồng quân Liên Xô truy kích phátxít
Đức trên chiến trường châu Âu, giải phóng nhiều nước ở

104
hmm Âu và tiến về phía Béclin (Đức). Ớ Tây Âu, Anh -
Mv mở mặt trận thứ hai, đổ quân lên đất Pháp (2/1945)
nil I iến về phía tây nước Đức. Nước Pháp được giải phóng,
Chính phủ Đờ Gôn về Pari.
ở mặt trận Thái Bình Dương, quân Anh đánh vào
Miên Điện (nay là Mianma). Quân Mỹ đổ bộ lên Philíppin.
Hường biển đến các căn cứ ở Đông Nam Á bị quân Đồng
minh khống chế, nên Nhật phải giữ con đường duy nhất từ
Man Châu qua Đông Dương xuống Đông Nam Á. Thực
(lân Pháp theo phái Đờ Gôn ở Đông Dương ráo riết chuẩn
bị, chờ quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật thì sẽ
khôi phục lại quyền thống trị của Pháp. “Cả hai quân thù
Nhật - Pháp đều đang sửa soạn tiến tới chỗ tao sống mày
chết, quyết liệt cùng nhau”1.
Với sự chuẩn bị từ trước, ngày 9/3/1945, Nhật nổ súng
đảo chính lật đổ Pháp, độc chiếm Đông Dương. Pháp
chống cự yếu ổt rồi nhanh chóng đầu hàng. Sau khi đảo
chính thành công, Nhật thi hành một loạt chính sách
nhằm củng cố quyền thống trị. Chính phủ Bảo Đại - Trần
Trọng Kim được Nhật dựng ra vối cái bánh vẽ “độc lập” để
phục vụ cho nền thống trị của chủ nghĩa phátxít.
Dự đoán đúng tình hình, ngay trước lúc Nhật nổ súng
lật đổ Pháp, Tổng Bí thư Trường Chinh triệu tập Hội
nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng tại làng

1. Ngọn cờ giải phóng, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1955, tr.46.

105
Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) để phân tích tình hình va
đề ra chủ trương chiến lược mối. Ngày 12/3/1945, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Nhật - Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta, chỉ rõ bản chất hành
động của Nhật ngày 9/3/1945 là một cuộc đảo chính
tranh giành lợi ích giữa Nhật và Pháp; xác định kẻ thù
cụ thể, trước mắt và duy nhất của nhân dân Đông Dương
sau cuộc đảo chính là phátxít Nhật; thay khẩu hiệu
“Đánh đuổi phátxít Nhật - Pháp” bằng khẩu hiệu “Đánh
đuổi phátxít Nhật”, nêu khẩu hiệu “Thành lập chính
quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương” để chống
lại chính phủ thân Nhật.
Chỉ thị quyết định phát động một cao trào kháng
Nhật, cứu nưốc mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi
nghĩa, đồng thời sẵn sàng chuyển lên tổng khởi nghĩa khi
có đủ điều kiện. Bản chỉ thị ngày 12/3/1945 thể hiện sự
lãnh đạo kiên quyết, kịp thòi của Đảng. Đó là kim chỉ nam
cho mọi hành động của Đảng và Việt Minh trong cao trào
chống Nhật cứu nước và có ý nghĩa quyết định đối vối
thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám nám 1945.
Dưởi sự lãnh đạo của Đảng và Việt Minh, từ giữa tháng
3/1945 trở đi, cao trào kháng Nhật, cứu nưốc diễn ra sôi
nổi, mạnh mẽ.
Chiến tranh du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần
nổ ra ỏ vùng thượng du và trung du Bắc Kỳ. Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp
với lực lượng chính trị giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện

106
thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên,
Tuyên Quang, Hà Giang... Khởi nghĩa Ba Tơ (Quảng
Ngài) thắng lợi, đội du kích Ba Tơ được thành lập và xây
(lựng căn cứ Ba Tơ.
Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị về việc
tô’ chức ủy ban giải phóng Việt Nam.
Ngày 15/5/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp
Hòa (Bắc Giang). Hội nghị chủ trương thông nhất các lực
lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân, phát
t riển lực lượng bán vũ trang và xây dựng bảy chiến khu
trong cả nước.
Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào (Tuyên
Quang), chỉ thị gấp rút chuẩn bị Đại hội quốc dân, thành
lập Khu giải phóng. Ngày 4/6/1945, Khu giải phóng chính
thức được thành lập gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc
Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và
một sô' vùng lân cận thuộc Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái,
Vĩnh Yên. ủy ban lâm thời Khu giải phóng được thành lập
và thi hành các chính sách của Việt Minh. Khu giải phóng
Việt Bắc trở thành căn cứ địa chính của cách mạng cả
nước. Nhiều chiến khu mối được xây dựng như chiến khu
Vần - Hiền Lương ở vùng giáp giới hai tỉnh Phú Thọ
và Yên Bái, chiến khu Đông Triều (Quảng Yên), chiến
khu Hòa - Ninh - Thanh (ở phía tây ba tỉnh Hòa Bình,
Ninh Bình, Thanh Hóa), chiến khu Vĩnh Tuy và Đầu Rái
(Quảng Ngãi)...

107
Trong các đô thị, nhất là những thành phố lốn, các dọi
danh dự Việt Minh đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên
truyền, diệt ác trừ gian, tạo điều kiện phát triển các t.Á'
chức cứu quốc trong các tầng lớp nhân dân thành thị vù
xây dựng lực lượng tự vệ cứu quốc.
ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, khẩu hiệu “phá
kho thóc, giải quyết nạn đói” đã “thổi bùng ngọn lửa căm
thù trong đông đảo nhân dân và phát động quần chúng
vùng dậy với khí thế cách mạng hừng hực tiến tới tổng
khởi nghĩa giành chính quyền”1. Tại nhiều địa phương,
quần chúng tự vũ trang, xung đột với binh lính và chính
quyền Nhật, biến thành những cuộc khởi nghĩa từng
phần, giành quyền làm chủ.
Báo chí cách mạng của Đảng và Mặt trận Việt Minh
đều hoạt động công khai, gây ảnh hưởng chính trị vang dội.
Từ nhiều lao tù thực dân, những chiến sĩ cộng sản
vượt ngục ra ngoài hoạt động, bổ sung thêm đội ngũ cán
bộ lãnh đạo phong trào cách mạng.
Cao trào kháng Nhật, cứu nước không những động
viên được đông đảo quần chúng công nhân, nông dân, tiểu
thương, tiểu chủ, học sinh, viên chức... mà còn lôi kéo cả
tư sản dân tộc và một sô' địa chủ nhỏ tham gia hoạt động
cách mạng. Binh lính, cảnh sát của chính quyền thân

1. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì


chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Sđd, tr.47.

108
NliiH dao động, một số ngả theo cách mạng. Nhiều lý
trương, chánh, phó tổng, tri phủ, tri huyện và cả một số
lính trưởng cũng tìm cách liên lạc vối Việt Minh... Bộ máy
chính quyền Nhật nhiều nơi tê liệt. Không khí sửa soạn
khới nghĩa sục sôi trong cả nước.
Cao trào kháng Nhật, cứu nưốc là một cuộc khởi nghĩa
lưng phần và chiến tranh du kích cục bộ, giành chính
quyền ở những nơi có điều kiện. Đó là một cuộc chiến đấu vĩ
(lại, làm cho trận địa cách mạng được mở rộng, lực lượng
cách mạng được tăng cường, làm cho toàn Đảng, toàn dân
Hẳn sàng, chủ động, tiến lên chốp thời cơ tổng khởi nghĩa.

d) Tổng khởi nghĩa giành chính quyền


Giữa tháng 8/1945, Chiến tranh thế giới thứ hai kết
thúc. Sau khi phátxít Đức đầu hàng Liên Xô và Đồng
minh (9/5/1945), Liên Xô tuyên chiến với Nhật, đánh tan
đạo quân Quan Đông của Nhật tại Mãn Châu (Trung
Quốc). Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống các thành
phố Hirôsima (6/8/1945) và Nagasaki (9/8/1945), Chính
phủ Nhật tuyên bô' đầu hàng Đồng minh không điều kiện
ngày 15/8/1945. Quân Nhật ở Đông Dương mất hết tinh
thần. Chính quyền do Nhật dựng lên hoang mang cực độ.
Thòi cơ cách mạng xuất hiện.
Tuy nhiên, một nguy cơ mói đang dần đến. Theo quyết
định của Hội nghị Pốtxđam (7/1945), quân đội Trung Hoa
dân quốc vào Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở ra và quân
đội của Liên hiệp Anh từ vĩ tuyến 16 trở vào để giải giáp

109
quân đội Nhật. Pháp toan tính, với sự trợ giúp của Anh, se
trở lại xâm lược Việt Nam, trước mắt là phục hồi bộ máy
cai trị cũ ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Trong khi đó,
những thế lực chống cách mạng ở trong nưốc cũng tìm
cách đối phó. Một số người trong Chính phủ Bảo Đại -
Trần Trọng Kim quay sang tìm kiếm sự trợ giúp của một
số cường quốc, với hy vọng giữ chế độ quân chủ.
Từ chỗ hợp tác với Việt Minh chống quân phiệt Nhật
trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Chính phủ Mỹ không
ngần ngại quay lưng lại phong trào giải phóng dân tộc của
nhân dân Việt Nam. Tại Hội nghị lanta (2/1945), Tổng
thống Mỹ Roosevelt hoàn toàn nhất trí với đề nghị chỉ để
các thuộc địa dưối quyền ủy trị nếu “mẫu quốc” đồng ý.
“Mẫu quốc” của Đông Dương không ai khác là nưốc Pháp.
Từ đó, Mỹ ngày càng nghiêng về phía Pháp, ủng hộ Pháp
trở lại xâm lược Đông Dương, nhất là sau khi Roosevelt
qua đời (12/4/1945) và Harry s. Truman bước vào Nhà
Trắng. Mùa hè năm 1945, Mỹ cam kết với Đờ Gôn rằng sẽ
không cản trồ việc Pháp phục hồi chủ quyền ở Đông
Dương. Cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc của nhân dân
Việt Nam sẽ bị xếp vào “hoạt động phiến loạn do cộng sản
cầm đầu”. Trong tình hình ấy, “ai biết dòng chảy của lịch
sử sẽ đi về đâu, với tốc độ nào?”1.

1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Chiến đấu trong vòng vây,


Nxb. Quân đội nhân dân - Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1995, tr.18.

110
Thời cơ giành chính quyền chỉ tồn tại trong thời gian
I tí khi Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh đến trước khi
quân Đồng minh vào Đông Dương, vào khoảng nửa cuối
I hang 8/1945.
Trong tình hình trên, vấn đề giành chính quyền được
đột ra như một cuộc chạy đua nưốc rút với quân Đồng
minh mà Đảng và nhân dân Việt Nam không thể chậm
I rễ, không chỉ để tranh thủ thòi cơ, mà còn phải khắc phục
nguy cơ, đưa cách mạng đến thành công.
Ngày 12/8/1945, ủy ban lâm thời Khu giải phóng hạ
lệnh khởi nghĩa trong khu. Ngày 13/8/1945, Trung ương
Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập ủy ban Khởi nghĩa
toàn quốc; 23 giờ cùng ngày, ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc
ban bố “Quân lệnh số 1”, phát đi lệnh tổng khồi nghĩa
trong cả nước.
Ngày 14 và 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng
họp ở Tân Trào, do lãnh tụ Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư
Trường Chinh chủ trì, tập trung phân tích tình hình và
dự đoán: “Quân Đồng minh sắp vào nưốc ta và đê quốc
Pháp lăm le khôi phục lại địa vị cũ ở Đông Dương”1. Hội
nghị quyết định phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi
nghĩa giành chính quyền từ tay phátxít Nhật trước khi
quân Đồng minh vào Đông Dương. Khẩu hiệu đấu tranh
lúc này là: “Phản đối xâm lược! Hoàn toàn độc lập! Chính
quyền nhân dân!”. Hội nghị xác định ba nguyên tắc chỉ

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7,
tr.424.

111
đạo khởi nghĩa là tập trung, thông nhất và kịp thời.
Phương hướng hành động trong tổng khỏi nghĩa: phải
đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành
phố hay nông thôn; quân sự và chính trị phải phối hợp;
phải làm tan rã tinh thần quân địch và dụ chúng hàng
trước khi đánh. Phải chộp lấy những căn cứ chính (cả ở
các đô thị) trước khi quân Đồng minh vào, thành lập ủy
ban nhân dân ở những nơi đã giành được quyền làm
chủ... Hội nghị cũng quyết định những vấn đề quan trọng
về chính sách đối nội và đốì ngoại cần thi hành sau khi
giành được chính quyền.
Tiếp sau Hội nghị toàn quốc của Đảng, ngày 16/8/1945,
Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào, về dự Đại hội có
khoảng 60 đại biểu của các giới, các đảng phái chính trị,
các đoàn thể quần chúng cứu quốc, các dân tộc, tôn giáo
trong nưởc và đại biểu ở nước ngoài. Đại hội tán thành
quyết định tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính
sách lớn của Việt Minh, lập úy ban giải phóng dân tộc
Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Ngay sau Đại hội quốc dân, Hồ Chí Minh kêu gọi đồng
bào cả nưốc: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã
đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự
giải phóng cho ta... Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến
lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng
cảm tiến lên!”1.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.596.

112
Dưối sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước nhất tề
vùng dậy ở cả thành thị và nông thôn, với ý chí dù có hy
ninh đến đâu, “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng
phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Từ ngày 14 đến ngày 18/8/1945, tuy chưa nhận được
lẹnh tổng khởi nghĩa, nhưng do nắm vững tinh thần các
nghị quyết, chỉ thị trước đó của Đảng, căn cứ vào tình
hình thực tiễn, đảng bộ nhiều địa phương đã kịp thời, chủ
động lãnh đạo nhân dân nổi dậy khởi nghĩa. Bốn tỉnh
giành chính quyền sốm nhất là Hải Dương, Bắc Giang, Hà
Tĩnh, Quảng Nam.
Từ ngày 14/8/1945 trở đi, các đơn vị Giải phóng quân
lần lượt tiến công các đồn binh Nhật ở các tỉnh Cao Bằng,
Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái, v.v. hỗ trợ
quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở tĩnh lỵ. Ngày
16/8/1945, một đơn vị Giải phóng quân do đồng chí Võ
Nguyên Giáp chỉ huy từ Tân Trào tiến về giải phóng thị
xã Thái Nguyên. Ó hầu hết các tỉnh miền Bắc, một số tỉnh
miền Trung và miền Nam, quần chúng cách mạng nổi dậy
giành chính quyền ở cấp xã và huyện.
Tại Hà Nội, ngày 17/8, Tổng hội viên chức tổ chức
một cuộc míttinh ủng hộ Chính phủ Trần Trọng Kim.
Đảng bộ Hà Nội bí mật huy động quần chúng trong các
tổ chức cứu quốc ở nội và ngoại thành biến cuộc
míttinh đó thành cuộc míttinh ủng hộ Việt Minh. Các
đội viên tuyên truyền xung phong bất ngờ giương cao
cờ đỏ sao vàng, kêu gọi nhân dân tham gia khởi nghĩa.

113
Hàng vạn quần chúng dự míttinh nhiệt liệt hưởng ứng
lời kêu gọi của Việt Minh. Lính bảo an, cảnh sát của
chính quyền Nhật có nhiệm vụ bảo vệ cuộc míttinh
cũng ngả theo Việt Minh. Cuộc míttinh biến thành một
cuộc biểu tình tuần hành, có cờ đỏ sao vàng dẫn đầu,
rầm rộ diễu qua các phố đông người, tiến đến trước phủ
toàn quyền cũ, nơi tư lệnh quân Nhật đóng, rồi chia
thành từng toán, đi cổ động chương trình Việt Minh
khắp các phố.
Sau cuộc biểu dương lực lượng, Thành ủy Hà Nội nhận
định đã có đủ điều kiện để phát động tổng khởi nghĩa.
Sáng ngày 19/8, Thủ đô Hà Nội tràn ngập cờ đỏ sao
vàng. Quần chúng cách mạng xuống đường tập hợp
thành đội ngũ, rầm rộ kéo đến quảng trường Nhà hát
thành phố trong tiếng hát “Tiến quân ca” và cờ đỏ sao
vàng để dự cuộc míttinh lớn do Mặt trận Việt Minh tổ
chức. Úy ban quân sự cách mạng đọc lời hiệu triệu khởi
nghĩa của Việt Minh. Cuộc míttinh chuyển thành biểu
tình vũ trang. Quần chúng cách mạng chia thành nhiều
đoàn đi chiếm Phủ Khâm sai, Tòa Thị chính, Trại Bảo an
binh, Sở Cảnh sát và các công sở của chính quyền thân
Nhật. Trước khí thế và sức mạnh áp đảo của quần chúng,
hơn một vạn quân Nhật ở Hà Nội không dám chông cự.
Chính quyền về tay nhân dân. Thắng lợi của cuộc khởi
nghĩa ỏ Hà Nội ảnh hưỏng nhanh chóng đến nhiều tỉnh
và thành phô' khác, cổ vũ mạnh mẽ phong trào cả nước,
làm cho chính quyền tay sai của Nhật ồ nhiều nơi thêm

114
hoảng hốt, tạo điều kiện thuận lợi lớn cho quá trình tổng
khởi nghĩa.
Ngày 23/8, ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên Huế huy
động quần chúng từ các huyện đã giành được chính quyền
ó ngoại thành, kết hợp với nhân dân trong nội thành Huế
xuống đường biểu dương lực lượng. Bộ máy chính quyền
và quân đội Nhật hoàn toàn tê liệt. Quần chúng lần lượt
chiếm các công sở không vấp phải sức kháng cự nào.
ở Nam Kỳ, được tin Hà Nội và Tân An (tĩnh khởi
nghĩa thí điểm của Xứ ủy) đã giành được chính quyền, Xứ
ủy Nam Kỳ quyết định khởi nghĩa ỏ Sài Gòn và các tỉnh.
Đêm 24/8, các lực lượng khởi nghĩa vối gậy tầm vông, giáo
mác, từ các tỉnh xung quanh rầm rập kéo về Sài Gòn.
Sáng 25/8, hơn 1 triệu người biểu tình tuần hành thị uy.
Quân khởi nghĩa chiếm các công sỏ. Cuộc khởi nghĩa
thành công nhanh chóng.
Những cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các
đô thị đập tan các cơ quan đầu não của kẻ thù có ý nghĩa
quyết định thắng lợi trong cả nước.
Ngày 25/8/1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng với Trung
ương Đảng và ủy ban dân tộc giải phóng về đến Hà Nội.
Sáng ngày 26/8/1945, Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp của
Thường vụ Trung ương Đảng, thống nhất những chủ
trương đối nội và đốì ngoại trong tình hình mối; đề nghị
mở rộng hơn nữa thành phần của Chính phủ lâm thời,
chuẩn bị ra Tuyên ngôn độc lập, tổ chức míttinh lớn ỏ Hà
Nội để Chính phủ ra mắt nhân dân, cũng là ngày nước

115
Việt Nam chính thức công bô' quyền độc lập và thiết lập
chế độ dân chủ cộng hòa. Hồ Chí Minh nhấn mạnh những
việc cần làm trưốc khi quân Trung Hoa dân quốc vào
Đông Dương1.
Trong cuộc họp ngày 27/8/1945, ủy ban dân tộc giải
phóng cải tổ thành Chính phủ lâm thòi nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Danh
sách Chính phủ lâm thòi được chính thức công bố ngày
28/8/1945 tại Hà Nội. Một số thành viên là người của Mặt
trận Việt Minh tự nguyện rút khỏi Chính phủ, trong đó có
Tổng Bí thư Trường Chinh, để mời thêm nhân sĩ ngoài
Việt Minh tham gia. “Đó là một cử chỉ vô tư, tốt đẹp,
không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn
kết toàn dân lên trên lợi ích cá nhân”2.
Ngày 30/8/1945, tại cuộc míttinh gồm hàng vạn người
tham gia ở Ngọ Môn, Huế, Bảo Đại thoái vị và giao nộp
ấn, kiếm cho đại diện Chính phủ lâm thời nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa.
Trung ương Đảng và Chính phủ lâm thòi hoàn toàn
ý thức được phải khẩn trương làm tất cả mọi việc có thể
để xác lập vị thế người chủ đất nước của nhân dân Việt Nam
trưốc khi những người mang danh “Đồng minh” đặt
chân đến.

1. Xem Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử,


Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.229-231.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.160.

116
Trong tình hình hết sức khẩn trương, Ban Thường vụ
Trung ương Đảng, Tổng bộ Việt Minh và Chủ tịch Hồ Chí
M i nh quyết định sớm tổ chức lễ Tuyên bô' độc lập của nưốc
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại một căn phòng trên gác
II hà số 48, phô' Hàng Ngang, Hà Nội, Hồ Chí Minh đã soạn
thảo bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam mới. Để
phát huy trí tuệ tập thể, ngày 30/8/1945, Hồ Chí Minh mòi
một số cán bộ trong Ban Thường vụ Trung ương Đảng và
các vị bộ trưỏng trong Chính phủ lâm thời đến trao đổi,
góp ý kiến cho bản dự thảo Tuyên ngôn độc lập. “Bản
Tuyên ngôn độc lập là hoa là quả của bao nhiêu máu đã đổ
và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những người con
anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập
trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên
chiến trường. Bản Tuyên ngôn độc lập là kết quả của bao
nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi
triệu nhân dân Việt Nam”1.
Ngày 2/9/1945, Lễ độc lập được tổ chức trọng thể tại
Quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Chính phủ lâm thời ra
mắt quốc dân. Thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, trịnh trọng tuyên bố
trước quốc dân và thế giới sự ra đòi của nưốc Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Bản Tuyên ngôn nêu rõ:

1. Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ
Chủ tịch, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2017, tr.119.

117
“Tất cả các dân tộc trên thế giói đều sinh ra bình
đắng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sưống
và quyền tự do”1.
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và
sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”2.
Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị tư
tưởng lớn và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Đó là thiên anh hùng
ca chiến đấu và chiến thắng, chứa chan sức mạnh và niềm
tin, tràn đầy lòng tự hào và ý chí đấu tranh của nhân dân
Việt Nam trong sự nghiệp giành và giữ nền độc lập, tự do.
Như vậy, Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong hoàn
cảnh khách quan rất thuận lợi: kẻ thù trực tiếp của nhân
dân Việt Nam là phátxít Nhật đã đầu hàng Đồng minh,
quân đội Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần chiến đấu,
chính quyền thân Nhật rệu rã, tạo thời cơ thuận lợi để
nhân dân Việt Nam tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Đó là kết quả và đỉnh cao của 15 năm đấu tranh của toàn
dân tộc Việt Nam dưối sự lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp
là cao trào vận động giải phóng dân tộc 1939 - 1945.
Đảng Cộng sản Đông Dương đóng vai trò tổ chức và
lãnh đạo cách mạng. Đảng có đường lối chính trị đúng
đắn, phương pháp cách mạng sáng tạo, dày dạn kinh
nghiệm đấu tranh, bắt rễ sâu trong quần chúng, đoàn kết

1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.l, 3.

118
VIĨ t hống nhất, quyết tâm lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa
giành chính quyền.

4. Tính chất, ý nghĩa và bài học kinh nghiêm của


Cách mạng Tháng Tám năm 1945

a) Tính chất
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là “một cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc mang tính chất dân chủ mới. Nó
là một bộ phận khăng khít của cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân Việt Nam”1. “Cách mạng Tháng Tám Việt Nam
là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Mục đích của
nó là làm cho dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách đế quốc,
làm cho nưốc Việt Nam thành một nưốc độc lập, tự do”2.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc điển hình, thể hiện:
Tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng là giải phóng dân tộc, tập trung giải quyết mâu
thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa
toàn thể dân tộc với đế quốc xâm lược và tay sai; đáp ứng
đúng yêu cầu khách quan của lịch sử và ý chí, nguyện
vọng độc lập, tự do của quần chúng nhân dân.
Lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân tộc, đoàn kết
chặt chẽ trong Mặt trận Việt Minh vổi những tổ chức quần

1, 2. Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà


Nội, 2007, t.l, tr.172.

119
chúng mang tên “cứu quốc”, động viên đến mức cao nhât
mọi lực lượng dân tộc lên trận địa cách mạng. Cuộc Tổng
khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là sự vùng dậy của lực
lượng toàn dân tộc.
Thành lập chính quyền nhà nước “của chung toàn dân
tộc” theo chủ trương của Đảng, với hình thức cộng hòa dân
chủ, chỉ trừ tay sai của đế quốc và những kẻ phản quốc,
“còn ai là người dân sông trên dải đất Việt Nam thảy đều
được một phần tham gia giữ chính quyền, phải có một
phần nhiệm vụ giữ lấy và bảo vệ chính quyền ấy”1.
Cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là một bộ
phận của phe dân chủ chôhg phátxít. “Nó chống lại
phátxít Nhật và bọn phong kiến phản động, tay sai của
phátxít Nhật, và nó là một bộ phận của cuộc chiến đấu vĩ
đại của các lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế giới chống
phátxít xâm lược”2. Cách mạng đã giải quyết một số quyền
lợi cho nông dân, lực lượng đông đảo nhất trong dân tộc;
một phần ruộng đất của đê quôc và Việt gian đã bị tịch
thu, địa tô được tuyên bô" giảm 25%, một số' nợ lưu cữu
được xóa bỏ. Cuộc cách mạng thành công, chính quyền
nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Việt Nam đã được
thành lập, xóa bỏ chê độ quân chủ phong kiên. Các tầng
lốp nhân dân được hưởng quyền tự do, dân chủ.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đẳng toàn tập, Sđd, t.7,
tr.114.
2. Trường Chinh: Tuyển tập, Sđd, t.l, tr.321.

120
Cách mạng Tháng Tám chưa làm cách mạng ruộng
(lát, chưa thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng, chưa
xóa bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất, chưa xóa
bó những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến để cho
rông nghiệp có điều kiện phát triển mạnh... quan hệ giữa
(lịa chủ và nông dân nói chung vẫn như cũ. “Chính vì thế
mà Cách mạng Tháng Tám có tính chất dân chủ, nhưng
tính chất đó chưa được đầy đủ và sâu sắc”1.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo
của Đảng còn mang đậm tính nhân văn, hoàn thành một
bước cơ bản sự nghiệp giải phóng con người Việt Nam khỏi
mọi sự áp bức về mặt dân tộc, sự bóc lột về mặt giai cấp và
sự nô dịch về mặt tinh thần.

b) Y nghĩa
Khẳng định ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám năm
1945, Hồ Chí Minh viết: “Chẳng những giai cấp lao động
và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao
động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự
hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng
của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới
15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính
quyền toàn quốc?2.

1. Trường Chinh: Tuyển tập, Sđd, t.l, tr.322.


2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.25.

121
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đập tan xiềng
xích nô lệ của chủ nghĩa đê quốc trong gần một thế kỷ,
chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế hàng
nghìn năm, lập nên nưốc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
nhà nước của nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, giải
quyết thành công vấn đề cơ bản của một cuộc cách mạng
xã hội là vấn đề chính quyền. Với thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ
bước lên địa vị người chủ đất nước, có quyền quyết định
vận mệnh của mình.
Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa trở thành một
quốc gia độc lập có chủ quyền, vươn lên cùng các dân tộc
trên thế giói đấu tranh cho những mục tiêu cao cả của
thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội.
Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí
mật trở thành một đảng cầm quyền. Từ đây, Đảng và
nhân dân Việt Nam có chính quyền nhà nước cách mạng
làm công cụ sắc bén phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
đất nước. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám mở ra kỷ
nguyên mới trong tiến trình lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc
lập, tự do và hướng tới chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng Tám là một cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc lần đầu tiên giành thắng lợi ở một nước
thuộc địa, đã đột phá một khâu quan trọng trong hệ
thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thòi kỳ
suy sụp và tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ. Thắng lợi

122
<11.1 Cách mạng Tháng Tám không chỉ là chiến công của
dán tộc Việt Nam mà còn là chiến công chung của các
dân tộc thuộc địa đang đấu tranh vì độc lập tự do, vì
I hế, nó có sức cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân
I lie trên thế giới.
Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối
giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo của Đảng và tư
tưởng độc lập, tự do của Hồ Chí Minh. Nó chứng tỏ rằng:
một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng
sản lãnh đạo hoàn toàn có khả năng thắng lợi ở một nước
thuộc địa trưốc khi giai cấp công nhân ồ “chính quốc” lên
nắm chính quyền.
Cách mạng Tháng Tám đã góp phần làm phong phú
thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách
mạng giải phóng dân tộc.

c) Bài học kinh nghiệm


Cách mạng Tháng Tám thành công để lại cho Đảng
và nhân dân Việt Nam nhiều bài học kinh nghiệm
quý báu.
Thứ nhất, về chỉ đạo chiến lược: phải giương cao ngọn
cờ giải phóng dân tộc, giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng
đất. Trong cách mạng thuộc địa, phải đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu, còn nhiệm vụ cách mạng
ruộng đất cần tạm gác lại, thực hiện từng bưổc thích hợp
nhằm phục vụ cho nhiệm vụ chống đê quốc.

123
Thứ hai, về xây dựng lực lượng: trên cơ sở khôi liên
minh công nông, cần khơi dậy tinh thần dân tộc trong
mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng yêu nước
trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Việt Minh là
một điển hình thành công của Đảng về huy động lực
lượng toàn dân tộc lên trận địa cách mạng, đưa cả dân
tộc vùng dậy trong cao trào kháng Nhật, cứu nước, tiến
lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Theo cách dùng
từ của V.I. Lênin trong tác phẩm Tổng kết một cuộc
tranh luận về quyền tự quyết, thì đó chính là một “lò lửa
khởi nghĩa dân tộd’1.
Thứ ba, vê phương pháp cách mạng: nắm vững quan
điểm bạo lực cách mạng của quần chúng, ra sức xây dựng
lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp đấu
tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến hành chiến
tranh du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần, giành
chính quyền bộ phận ở những vùng nông thôn có điều
kiện, tiến lên chốp đúng thời cơ, phát động tổng khởi
nghĩa ở cả nông thôn và thành thị, giành chính quyền
toàn quốc.
Thứ tư, vê' xây dựng Đảng: phải xây dựng một Đảng
cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và toàn dân tộc Việt Nam, tuyệt đốĩ trung thành
với lợi ích giai cấp và dân tộc; vận dụng và phát triển lý

1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, t.30, tr.67.

124
Ilian Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đề ra đường
loi chính trị đúng đắn; xây dựng một đảng vững mạnh về
tư tưởng, chính trị và tổ chức, liên hệ chặt chẽ với quần
I húng và với đội ngũ cán bộ, đảng viên kiên cường được tôi
luyện trong đấu tranh cách mạng.
Chú trọng vai trò lãnh đạo ở cấp chiến lược của Trung
ương Đảng, đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo
của đảng bộ các địa phương.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám nám 1945,
Bảng đã lãnh đạo nhân dân đưa lịch sử dân tộc sang trang
mới, đánh dấu bước nhảy vọt vĩ đại trong quá trình tiến
hóa của dân tộc. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ khi
ra đòi, dù phải trải qua muôn vàn khó khăn, thử thách,
nhưng dưối sự lãnh đạo của Đảng, vối tinh thần đoàn kết
phấn đấu của toàn dân, luôn được xây dựng và củng cố,
vững bước tiến trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Suốt 15 năm đấu tranh cách mạng 1930 - 1945,
Đảng đã lãnh đạo giai cấp và dân tộc hoàn thành mục tiêu
giành độc lập, thiết lập nhà nước dân chủ nhân dân.

c. CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Phân tích những điều kiện cần thiết dẫn tới thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 2/1930.
2. Nội dung cơ bản và ý nghĩa lịch sử của Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng được Hội nghị thành lập Đảng
(2/1930) thông qua.

125
3. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc 1930 - 1945.
4. Tính chất, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của cuộc
Cánh mạng Tháng Tám năm 1945.

126
Chương 2
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI cuộc KHÁNG CHIẾN
CHỐNG NGOẠI XÂM,
HOÀN THÀNH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC,
THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
(1945 -1975)

A. MỤC TIÊU

1. về kiến thức: Cung cấp cho sinh viên những nội


dung lịch sử cơ bản, hệ thống, khách quan về sự lãnh đạo
của Đảng đốì với hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm
thòi kỳ 1945 - 1975.

2. về tư tưởng: Giúp sinh viên có nhận thức đúng


đắn thực tiễn lịch sử và những kinh nghiệm rút ra từ quá
trình Đảng lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm
thời kỳ 1945 - 1975, nâng cao niềm tin vào sự lãnh đạo của
Đảng và sức mạnh đoàn kết của toàn dân trong sự nghiệp
cách mạng của dân tộc.

127
3. vể kỹ năng: Trang bị năng lực phân tích sự kiện,
phương pháp đúc rút kinh nghiệm lịch sử về sự lãnh đọo
kháng chiến của Đảng; ý thức phê phán những nhận thức
sai trái về lịch sử của Đảng.

B. NỘI DUNG

I- LÃNH ĐẠO XÂY DựNG, BẢO VỆ


CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG, KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954)

1. Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng


1945 -1946

a) Tình hình Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám


năm 1945

Sau ngày tuyên bố- độc lập, lịch sử nước Việt Nam
bước sang một chặng đường mới với nhiều thuận lợi căn
bản và khó khăn chồng chất.
Về thuận lợi:
Thuận lợi về quốc tế là sau cuộc Chiến tranh thê giới
thứ hai, cục diện thế giới và khu vực có những sự thay đổi
lớn có lợi cho cách mạng Việt Nam. Liên Xô trở thành
thành trì của chủ nghĩa xã hội. Nhiều nưởc ở Đông, Trung
Âu, được sự ủng hộ và giúp đỡ của Liên Xô đã lựa chọn con
đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội. Phong trào giải

128
phóng dân tộc ở các nưốc thuộc địa châu Á, châu Phi và
u h 11 vực Mỹ Latinh dâng cao.
Thuận lợi ở trong nưốc là Việt Nam trở thành quốc
Kin độc lập, tự do; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô
lệ, bị áp bức trở thành chủ nhân của chế độ dân chủ mói.
D.'ing Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo cách
mạng trong cả nước. Đặc biệt, việc hình thành hệ thống
chính quyền cách mạng với bộ máy thống nhất từ cấp
Trung ương đến cơ sở, ra sức phục vụ lợi ích của Tổ quốc,
nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng của nền
độc lập, tự do, là trung tâm của khối đại đoàn kết toàn
(lân tộc Việt Nam. Quân đội quốc gia và lực lượng công an,
hệ thống luật pháp của chính quyền cách mạng được khẩn
trương xây dựng và phát huy vai trò đối vối cuộc đấu
tranh chốhg thù trong, giặc ngoài, xây dựng chế độ mới.
Về khó khăn:
Trên thế giói, phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm
mưu mới “chia lại hệ thống thuộc địa thế giới”, ra sức
tấn công, đàn áp phong trào cách mạng thế giói, trong
đó có cách mạng Việt Nam. Do lợi ích cục bộ của mình,
các nưóc lốn không có nưốc nào ủng hộ lập trường độc
lập và công nhận địa vị pháp lý của Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Việt Nam nằm trong vòng vây của
chủ nghĩa đế quốc, bị bao vây cách biệt hoàn toàn với
thế giới bên ngoài. Cách mạng ba nước Đông Dương nói
chung, cách mạng Việt Nam nói riêng phải đương đầu

129
với nhiều bất lợi, khó khăn, thử thách hết sức to lớn và
rất nghiêm trọng.
ở trong nước, hệ thống chính quyền cách mạng mới
được thiết lập, còn rất non trẻ, thiếu thốn, yếu kém về
nhiều mặt; hậu quả của chế độ cũ để lại hết sức nặng nề.
Nhà nưóc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản một nền
kinh tế xơ xác, tiêu điều, công nghiệp đình đốn, nông
nghiệp bị hoang hóa, 50% ruộng đất bị bỏ hoang; nền tài
chính, ngân khố kiệt quệ, kho bạc trống rỗng; các hủ tục
lạc hậu, thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội chưa được khắc
phục, 95% dân số thất học, mù chữ, nạn đói cuối năm 1944,
đầu năm 1945 làm 2 triệu người dân chết đói. Thách thức
lớn nhất, nghiêm trọng nhất lúc này là âm mưu quay trở
lại thống trị Việt Nam một lần nữa của thực dân Pháp.
Ngày 2/9/1945, quân Pháp đã trắng trợn gây hấn, cho nổ
súng vào những người tham gia cuộc míttinh mừng ngày
độc lập ở Sài Gòn - Chợ Lớn.
Từ tháng 9/1945, theo thỏa thuận của phe Đồng minh,
2 vạn quân đội Anh - Ân đổ bộ vào Sài Gòn để làm nhiệm
vụ giải giáp quân đội Nhật thua trận ở phía Nam Việt
Nam. Quân đội Anh đã trực tiếp bảo trợ, sử dụng đội quân
Nhật giúp sức quân Pháp ngang nhiên nổ súng gây hấn
đánh chiếm Sài Gòn - Chợ Lớn (Nam Bộ) vào rạng sáng
ngày 23/9/1945, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ
hai của thực dân Pháp ở Việt Nam.
ở Bắc vĩ tuyến 16, từ cuối tháng 8/1945, hơn 20 vạn
quân đội của Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa dân quốc) kéo

130
vào Việt Nam dưới sự bảo trợ và ủng hộ của Mỹ vối danh
nghĩa quân đội Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật,
kéo theo là lực lượng tay sai Việt Quốc, Việt Cách. Trong
khi đó, trên đất nước Việt Nam vẫn còn 6 vạn quân Nhật
chưa được giải giáp.
Tình hình đó đã đặt nền độc lập và chính quyền cách
mạng non trẻ của Việt Nam trước tình thế “ngàn cân treo
sợi tóc”, cùng một lúc phải đối phó với nạn đói, nạn dốt và
thù trong, giặc ngoài.

b) Xây dựng chế độ mới và chính quyền cách mạng


Ngày 3/9/1945, Chính phủ lâm thời họp phiên đầu tiên
dưối sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định
ngay nhiệm vụ lớn trưốc mắt là: diệt giặc đói, diệt giặc dốt
và diệt giặc ngoại xâm. Ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, nhận
định tình hình và định hướng con đường đi lên của cách
mạng Việt Nam sau khi giành được chính quyền. Chỉ thị
phân tích sâu sắc sự biến đổi của tình hình thế giới và
trong nước, nhất là tình hình Nam Bộ và xác định rõ: “kẻ
thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược phải
tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”1; nêu rõ mục
tiêu của cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là “dân
tộc giải phóng” và đề ra khẩu hiệu “Dân tộc trên hết,

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đẳng toàn tập, Sđd, t.8,
tr.26.

131
Tổ quốc trên hết”; mọi hành động phải tập trung vào
nhiệm vụ chủ yếu, trước mắt “là phải củng cố chính
quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản,
cải thiện đời sống cho nhân dân”1.
Chỉ thị cũng đề ra nhiều biện pháp cụ thể giải quyết
những khó khăn, phức tạp hiện thòi của cách mạng Việt
Nam, trong đó nêu rõ cần nhanh chóng xúc tiến bầu cử
Quốc hội để đi đến thành lập Chính phủ chính thức, lập ra
Hiến pháp, động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng
chiến và chuẩn bị kháng chiến lâu dài; kiên định nguyên
tắc độc lập về chính trị; về ngoại giao phải đặc biệt chú ý
“làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn
hết”; đốĩ vối Tàu Tưởng nêu chủ trương “Hoa - Việt thân
thiện”, đối vối Pháp “độc lập về chính trị, nhân nhượng về
kinh tế”. Về tuyên truyền, hết sức kêu gọi đoàn kết chống
chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lược; “đặc biệt chống mọi
mưu mô phá hoại chia rẽ của bọn Tờrốtxki, Đại Việt, Việt
Nam Quốc dân Đảng”2...
Những quan điểm và chủ trương, biện pháp lớn được
Đảng nêu ra trong bản Chỉ thị Khắng chiến kiến quốc đã
đáp ứng đúng yêu cầu cấp bách của cách mạng Việt Nam;
có tác dụng định hướng tư tưởng, trực tiếp chỉ đạo cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp ỏ Nam Bộ; xây dựng và

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
t.8, tr.26-27, 27.

132
bảo vệ chính quyền cách mạng trong giai đoạn đầy khó
khăn, phức tạp này.
Chông giặc đói, đẩy lùi nạn đói là một nhiệm vụ lân,
quan trọng, cấp bách lúc bấy giờ. Đảng, Chính phủ và Chủ
tịch Hồ Chí Minh tập trung chỉ đạo, động viên mọi tầng
lóp nhân dân tham gia các phong trào lớn, các cuộc vận
động, như: tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm với
khẩu hiệu “Tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất
nữa”; lập hũ gạo tiết kiệm, tổ chức “Tuần lễ vàng”, gây quỹ
“Độc lập”, quỹ “Đảm phụ quốc phòng”, quỹ “Nam Bộ kháng
chiến”, V.V.. Chính phủ bãi bỏ thuế thân và nhiều thứ thuế
vô lý của chế độ cũ, thực hiện chính sách giảm tô 25%.
Ngay năm đầu tiên, sản xuất nông nghiệp có bước khởi sắc
rõ rệt, việc sửa chữa đê điều được khuyến khích, tổ chức
khuyến nông, tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian,
đất hoang hóa chia cho nông dân nghèo, sản xuất lương
thực tăng lên rõ rệt cả về diện tích và sản lượng hoa màu.
Một số nhà máy, công xưởng, hầm mỏ được khuyến khích
đầu tư khôi phục hoạt động trở lại. Ngân khố quốc gia
được xây dựng lại, phát hành đồng giấy bạc Việt Nam.
Đầu năm 1946, nạn đói cơ bản được đẩy lùi, đời sống nhân
dân được ổn định, tinh thần dân tộc được phát huy cao độ,
góp phần động viên kháng chiến ở Nam Bộ.
Chông giặc dốt, xóa nạn mù chữ được Chủ tịch Hồ Chí
Minh đặc biệt coi trọng, thể hiện tính ưu việt của chế độ
mối, góp phần tích cực xây dựng hệ thông chính quyền
cách mạng, phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Đảng

133
và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương phát động phong
trào “Bình dân học vụ”, toàn dân học chữ quốc ngữ để
từng bước xóa bỏ nạn dốt; vận động toàn dân xây dựng
nếp sống mới, đời sông văn hóa mói để đẩy lùi các tệ nạn,
hủ tục, thói quen cũ, lạc hậu cản trở tiến bộ. Các trường
học từ cấp tiểu học trở lên lần lượt khai giảng năm học
mới; thành lập Trường Đại học Văn khoa Hà Nội. Đến cuối
năm 1946, cả nưốc đã có hơn 2,5 triệu người dân biết đọc,
biết viết chữ quốc ngữ. Đời sống tinh thần của một bộ
phận nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhân dân tin tưởng
vào chế độ mối, nêu cao quyết tâm bảo vệ chính quyền
cách mạng.
Khẩn trương xây dựng, củng cô' chính quyền cách
mạng. Để khẳng định địa vị pháp lý của Nhà nước Việt
Nam, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương sốm
tổ chức một cuộc bầu cử toàn quốc theo hình thức phổ
thông đầu phiếu để bầu ra Quốc hội và thành lập Chính
phủ chính thức. Ngày 6/1/1946, nhân dân cả nước tham
gia cuộc bầu cử; có hơn 89% số cử tri đi bỏ phiếu dân chủ
lần đầu tiên; đồng bào Nam Bộ và một số nơi đi bỏ phiếu
dưới làn đạn của giặc Pháp, nhưng tất cả đều thể hiện rõ
tinh thần “mỗi lá phiếu là một viên đạn bắn vào quân
thù”, làm thất bại âm mưu chia rẽ, lật đổ của các kẻ thù.
Bầu cử thành công đã bầu ra 333 đại biểu Quốc hội đầu
tiên của Nhà nưốc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày
2/3/1946, Quốc hội khóa I đã họp phiên đầu tiên tại Nhà
hát Lốn Hà Nội, lập ra Chính phủ chính thức, gồm 10 bộ

134
VII kiện toàn nhân sự bộ máy Chính phủ do Hồ Chí Minh
lìm Chủ tịch. Quốc hội đã nhất trí bầu Ban Thường trực
Quốc hội do cụ Nguyễn Văn Tố làm Chủ tịch.
Các địa phương cũng tiến hành bầu cử hội đồng nhân
(lân các cấp và kiện toàn ủy ban hành chính các cấp. Ban
soạn thảo bản Hiến pháp mổi được thành lập do Hồ Chí
Minh làm Trưởng ban. Tại kỳ họp thứ 2, ngày 9/11/1946,
Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Hiến pháp năm 1946).
Xây dựng đi đôi với bảo vệ và làm cho bộ máy chính quyền
thực sự dân chủ, trong sạch, trong thư gửi cho các ủy ban
nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “các cơ quan của Chính
phủ từ toàn quốc đến các làng, đểu là công bộc của dân,
nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để
đè đầu dân như trong thời kỳ dưối quyền thống trị của
Pháp, Nhật”1. Và yêu cầu chính quyền các cấp phải khắc
phục và bỏ ngay những thói hư, tật xấu, như: cậy thế, hủ
hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo2...
Mặt trận dân tộc thống nhất tiếp tục được mở rộng
nhằm tăng cường thực lực cách mạng, tập trung chống
Pháp ở Nam Bộ. Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên
Việt) được thành lập do Huỳnh Thúc Kháng làm Hội
trưởng, Tôn Đức Thắng làm Hội phó; thành lập Hội đồng
cố vấn Chính phủ do Vĩnh Thụy (tức cựu hoàng Bảo Đại)

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.64-65.


2. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.65-66.

135
đứng đầu; thành lập thêm một sô' đoàn thể xã hội mới, tiếp
tục củng cô' các tổ chức đoàn thể của Mặt trận Việt Minh;
tổ chức Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất tại Hà
Nội và Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu sô' Việt Nam ở
Tây Nguyên... Lực lượng vũ trang cách mạng được củng cố
và tổ chức lại; tích cực mua sắm vũ khí, tích trữ lương
thực, thuốc men, củng cô' các cơ sở và căn cứ địa cách mạng
cả ở miền Bắc, miền Nam. Cuối năm 1946, Việt Nam có hơn
8 vạn bộ đội chính quy, lực lượng công an được tổ chức đến
cấp huyện; hàng vạn dân quân, tự vệ được tổ chức ở cơ sở
từ Bắc chí Nam...

c) Tổ chức cuộc kháng chiến chông thực dân Pháp xâm


lược ở Nam Bộ, đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng
non trẻ
Sau vụ khiêu khích trắng trỢn ngày 2/9/1945 ở Sài
Gòn, thực dân Pháp ráo riết thực hiện mưu đồ xâm lược
Việt Nam. Đêm 22 rạng ngày 23/9/1945, quân đội Pháp đã
nổ súng gây hấn đánh chiếm Sài Gòn - Chợ Lốn (Nam Bộ).
Cuộc kháng chiến chông xâm lược của nhân dân Nam Bộ
bắt đầu. Sáng 23/9/1945, Hội nghị liên tịch giữa Xứ ủy,
ủy ban nhân dân, ủy ban kháng chiến và đại diện Tổng
bộ Việt Minh đã nhanh chóng thông nhất, đề ra chủ
trương hiệu triệu quân, dân Nam Bộ đứng lên kháng
chiến chông xâm lược Pháp. Trên địa bàn thành phô' Sài
Gòn - Chợ Lốn, các đơn vị bảo vệ Trụ sở úy ban nhân
dân, Sở tự vệ, nhà Bưu điện thành phô' đã kiên quyết

136
chiến đấu anh dũng. Ngày 25/10/1945, Hội nghị cán bộ
Oiìng bộ Nam Bộ đã họp tại Thiên Hộ, Cái Bè (Mỹ Tho)
quyết định những biện pháp cấp bách nhằm củng cố lực
lượng vũ trang, xây dựng cơ sở chính trị và vũ trang bí
mật trong nội đô; tổ chức và phát động toàn dân kháng
chiến, kiên quyết đẩy lùi cuộc tấn công của quân Pháp,
ngăn chặn bước tiến của chúng...
Nhân dân các tỉnh Nam Bộ đã nêu cao tinh thần “Thà
chết tự do còn hơn sống nô lệ” nhất loạt đứng lên dùng các
loại vũ khí thô sơ, tự tạo, gậy tầm vông, giáo mác chống
trả hành động xâm lược của thực dân Pháp, kiên quyết
bảo vệ nền độc lập, tự do và chính quyền cách mạng; tổ
chức công tác diệt ác, trừ gian, phát động chiến tranh
nhân dân trong lòng thành phô', đốt phá kho tàng, chặn
đánh các đoàn xe vận tải của địch, củng cố, xây dựng căn
cứ địa. Nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn đi tiên phong ngăn
cản bước tiến, kìm hãm, bao vây địch trong thành phố
bằng các chiến lũy chướng ngại vật, 0 chiến đấu trên
đường phố chính, phá hủy các cơ sở điện, nưóc; lùng bắt,
trừng trị bọn Việt gian tay sai của Pháp. Nhiều trận đánh
tiêu biểu diễn ra ở cầu Thị Nghè, Khánh Hội, Phú Lâm,
An Nhơn, cầu Tham Luông...
Nhân dân miền Bắc nhanh chóng hưởng ứng và kịp
thời chi viện, chia lửa với đồng bào Nam Bộ kháng chiến.
Ngày 26/9/1945, những chi đội đầu tiên ưu tú nhất của
quân đội, được trang bị vũ khí tốt nhất, đã lên đường Nam
tiến chi viện cho Nam Bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi

137
thư khích lệ, động viên đồng bào Nam Bộ kháng chiến,
tuyên dương và tặng nhân dân Nam Bộ danh hiệu “Thành
đồng Tổ quốc”, ở khu vực miền Trung, cuộc chiến đấu của
quân, dân Nha Trang đã mở đầu cho cuộc chiến đấu oanh
liệt, dũng cảm, kiên cường của quân, dân mặt trận Nam
Trung Bộ và Tây Nguyên.
Trong những ngày đầu kháng chiến, so sánh lực
lượng giữa ta và địch quá chênh lệch, nhưng với lòng
yêu nước sâu sắc, quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập,
tự do của Tổ quốc, có sự lãnh đạo kịp thời, đúng đắn của
Xứ ủy Nam Bộ, của Chính phủ Trung ương, quân và dân
Nam Bộ, các tỉnh Nam Trung Bộ, Tây Nguyên đã nhanh
chóng tổ chức lại lực lượng, củng cố các khu căn cứ và
lực lượng vũ trang, động viên nhân tài, vật lực của toàn
dân đứng lên ngăn chặn bưởc tiến của thực dân Pháp;
tích cực chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài
sau này.
Đổ làm thất bại âm mưu “diệt cộng, cầm Hồ”, phá Việt
Minh của quân Tưỏng và tay sai, Đảng, Chính phủ Hồ Chí
Minh chủ trương thực hiện sách lược “triệt để lợi dụng
mâu thuẫn kẻ thù, hòa hoãn, nhân nhượng có nguyên tắc”
vởi quân Tưởng; đề ra nhiều đôì sách khôn khéo đôì phó có
hiệu quả vối các hoạt động khiêu khích, gây xung đột vũ
trang của quân Tưởng; thực hiện giao thiệp thân thiện,
ứng xử mềm dẻo, linh hoạt vói các yêu sách của quân
Tưởng và các tổ chức đảng phái chính trị tay sai thân
Tưởng, nhất là số cầm đầu Việt Quốc, Việt Cách. Để tránh

138
PỂC mũi nhọn tấn công của kẻ thù, Đảng chủ trương rút
vào hoạt động bí mật bằng việc ra “Thông cáo Đảng Cộng
rum Đông Dương tự ý tự giải tán, ngày 11/11/1945”, chỉ để
lọi một bộ phận hoạt động công khai với danh nghĩa “Hội
Nr.hiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương”1; Chính phủ
Viột Nam đồng ý việc đảm bảo cung cấp lương thực, thực
phẩm cần thiết cho 20 vạn quân đội Tưởng khi ở Việt Nam
VII nhân nhượng cho quân Tưởng được sử dụng đồng tiền
Quan kim, Quốc tệ song hành cùng đồng bạc Đông Dương.
Sau khi bầu cử thành công, Hồ Chí Minh chấp nhận mở
rộng thành phần đại biểu Quốc hội, đồng ý bổ sung thêm
70 ghế Quốc hội không qua bầu cử cho một số đảng viên
cua Việt Quốc, Việt Cách; cải tổ, mở rộng thành phần
(’hình phủ liên hiệp vối sự tham gia của nhiều nhân sĩ, trí
thức, người không đảng phái và cả một số phần tử cầm
đầu tổ chức phản động tay sai của quân Tưởng, trong đó
có nhiều ghế bộ trưởng quan trọng,...
Đầu năm 1946, phe đế quốc đã dàn xếp, thỏa thuận để
Chính phủ Pháp và Chính phủ Trung Hoa dân quốc ký
kết bản Hiệp ước Trùng Khánh (còn gọi là Hiệp ước Hoa -
Pháp, ngày 28/2/1946), trong đó có nội dung thỏa thuận để
Pháp đưa quân đội ra Bắc vĩ tuyến 16 làm nhiệm vụ giải
giáp quân đội Nhật, thay thế cho 20 vạn quân Tưởng rút
về nước, hạn cuối cùng là ngày 31/3/1946. Đổi lại Pháp sẽ

1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,
Sđd, t.8, tr.20.

139
nhượng lại cho Tưởng nhiều quyền lợi quan trọng ở Trung
Quốc và Việt Nam. Đây thực chất là một bản hiệp ưởc bán
rẻ lợi ích dân tộc, chà đạp lên nền độc lập của Việt Nam,
hợp pháp hóa hành động xâm lược của thực dân Pháp ra
miền Bắc. Chính phủ và nhân dân Việt Nam đứng trước
một tình thế vô cùng nguy hiểm, phải cùng lúc đốì mặt
trực tiếp vối hai kẻ thù xâm lược to lốn là Pháp và Tưởng,
trong khi thực lực cách mạng vẫn còn non yếu.
Trưốc sự thay đổi nhanh chóng, phức tạp của tình
hình, Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhận định, đánh giá âm mưu, ý đồ chính trị của
Pháp, Tưởng và ra bản Chỉ thị Tình hình và chủ trương,
ngày 3/3/1946. Chỉ thị nêu rõ: “Vấn đề lúc này, không phải
là muốn hay không muốn đánh. Vấn đề là biết mình biết
người, nhận một cách khách quan những điều kiện lời lãi
trong nước và ngoài nước mà chủ trương cho đúng”1 và chủ
trương tạm thời “dàn hòa với Pháp”, nhân nhượng về lợi
ích kinh tế, nhưng đòi Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc
tự quyết của Việt Nam, “lợi dụng thời gian hòa hoãn với
Pháp mà diệt bọn phản động bên trong, tay sai của Tàu
trắng, trừ những hành động khiêu khích ly gián ta và
Pháp”2, thúc đẩy nhanh quân Tưởng về nước, bớt đi một
kẻ thù nguy hiểm. Ngày 6/3/1946, tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ
Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
t.8, tr.43-44, 46.

140
hon ký với đại diện Chính phủ Cộng hòa Pháp tại Hà Nội
In J. Xanhtơny (Jean Sainteny) bản Hiệp định sơ bộ. Hiệp
ilmh sơ bộ nêu rõ: Chính phủ Pháp công nhận Việt Nam là
một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, tài chính và
quân đội riêng nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc
khối Liên hiệp Pháp; Việt Nam đồng ý để 15.000 quân đội
Pháp ra miền Bắc thay thế 20 vạn quân đội Tưởng rút về
nước và sẽ rút dần trong thời hạn 5 năm; hai bên sẽ tiếp
tục tiến hành đàm phán chính thức để giải quyết mối
quan hệ Việt - Pháp...
Ngay sau khi ký Hiệp định sơ bộ, ngày 9/3/1946,
Thường vụ Trung ương Đảng đã ra bản Chỉ thị Hòa để
tiến, phân tích, đánh giá chủ trương hòa hoãn và khả
năng phát triển của tình hình. Chỉ thị nêu rõ: cần phải
tiếp tục nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không
ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến
bất cứ lúc nào và nhất định không để cho việc đàm phán
vổi Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta,
nhất là đối vối đồng bào Nam Bộ và các chiến sĩ ngoài mặt
trận; cần đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, đặc biệt chú
ý đào tạo cán bộ chính trị và quân sự, gây dựng cơ sở
đảng, củng cố phong trào quần chúng... Đến tháng
12/1946, Đảng đã có sự phát triển thêm về chất lượng, số
lượng đảng viên tăng lên tối hơn 20.000 người.
Để giữ vững nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ, Đảng, Chính phủ tiếp tục cuộc đấu tranh ngoại giao
kiên trì, kiên quyết, đầy khó khăn, phức tạp trong suốt

141
năm 1946 ở cả mặt trận trong nước và ngoài nưốc. Từ
ngày 19/4 đến ngày 10/5/1946, đại diện Chính phủ Việt.
Nam và Pháp gặp nhau tại Hội nghị trù bị ở Đà Lạt. Từ
ngày 31/5/1946, theo lời mời của Quốc hội và Chính phủ
Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng phái đoàn của Chính
phủ Việt Nam thăm chính thức nưốc Cộng hòa Pháp.
Chuyến thăm kéo dài hơn 4 tháng và đã thu được nhiều
thành công về mặt đối ngoại, làm cho dư luận Pháp, nhân
dân Pháp và giới chính trị Pháp tiến bộ hiểu thêm cuộc
đấu tranh chính nghĩa, nền độc lập thực sự của Việt Nam.
Cũng trong thời gian này, phái đoàn Quốc hội Việt Nam
do ông Phạm Văn Đồng dẫn đầu đi thăm thân thiện và
tham dự đàm phán chính thức giữa hai bên Việt - Pháp
tại Hội nghị Phôngtennơblô (Fontainebleau), từ ngày 6/7
đến ngày 10/9/1946, song không thành công vì vấp phải
lập trường hiếu chiến và dã tâm xâm lược của thực dân
Pháp. Với thiện chí hữu nghị, hòa bình, nhân nhượng và
để đảm bảo an toàn cho phái đoàn đại biểu Việt Nam rời
Pháp, ngày 14/9/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với
Marius Moutet (M. Mutê) - đại diện Chính phủ Pháp, bản
Tạm ưốc 14/9 tại Mácxây (Marseill), đồng ý nhân nhượng
thêm cho Pháp một số quyền lợi kinh tế, ván hóa ở Việt
Nam; hai bên cam kết đình chỉ chiến sự ở Nam Bộ và tiếp
tục đàm phán...
Trong khi đó ở Việt Nam, thời hạn quân đội Tưởng
phải rút về nước đã hết (trước ngày 31/3/1946), nhưng
quân Tưởng vẫn trì hoãn kéo dài; các thế lực thực dân

142
hiếu chiến Pháp ở Hà Nội móc nốĩ, câu kết vối tay sai
phản động Đại Việt, Quốc dân Đảng, ráo riết chuẩn bị âm
mưu đảo chính lật đổ Chính phủ Việt Nam, dự định vào
ngày 14/7/1946. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết,
sáng suốt của Đảng và Chính phủ do cụ Huỳnh Thúc
Kháng - quyền Chủ tịch Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ
lãnh đạo, rạng sáng ngày 12/7/1946, lực lượng công an đã
khôn khéo, mưu trí, sáng tạo, quyết đoán tổ chức một cuộc
đột nhập, tấn công bất ngờ vào trụ sở của bọn Đại Việt,
Quốc dân Đảng ở số nhà 132 Duvigneau (nay là phô' Bùi
Thị Xuân, Hà Nội), nhanh chóng khống chế bọn phản
động có vũ trang, tổ chức khám xét và tịch thu được nhiều
tài liệu phản động, trong đó có bản kế hoạch tổ chức đảo
chính lật đổ Chính phủ Hồ Chí Minh do Trương Tử Anh
soạn thảo, kịp thời kết thúc Vụ án ở số 7 phố Ôn Như Hầu
(nay là phố Nguyễn Gia Thiều, Hà Nội). Với thắng lợi
quan trọng này, ta đã đập tan hoàn toàn mưu đồ thâm
độc lật đổ chính quyền cách mạng của bọn tay sai phản
động câu kết vối thực dân Pháp, giữ vững chính quyền
cách mạng.
Ngày 20/10/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn
Việt Nam về đến cảng Hải Phòng an toàn trong không khí
đón chào nồng nhiệt của nhân dân, của đồng bào, đồng
chí. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài Công việc khẩn cấp
bây giờ, nêu rõ thêm những nhiệm vụ cụ thể và cấp thiết
phải làm về mặt quân sự, chính trị và khẳng định vai trò
lãnh đạo của Đảng đốì với cuộc kháng chiến kiến quốc và

143
dự đoán đúng về khả năng một cuộc đối đầu quân sự giữa
Việt Nam và Pháp. Kịp thời chỉ đạo từng bưốc chuyển
sang tình trạng chiến tranh và chuẩn bị kháng chiến lâu
dài; tiếp tục cuộc chiến đấu giam chân địch ở Nam Bộ và
trong các thành phố, thị xã ở miền Bắc, khẩn trương tiến
hành cuộc tổng di chuyển các cơ quan lãnh đạo của Đảng,
Chính phủ, Quốc hội và các ban, bộ, ngành, quân đội, công
an và các cơ quan lãnh đạo kháng chiến địa phương ra
khỏi thành phố, thị xã; củng cố, xây dựng căn cứ địa, các
chiến khu, các ATK (an toàn khu)... Hàng ngàn tấn máy
móc, nguyên, nhiên vật liệu đã được di chuyển, mua sắm,
cất giữ trên các chiến khu, căn cứ địa kháng chiến, nhất là
ở các ATK Thái Nguyên, Tuyên Quang, Chiến khu D,
Đồng Tháp Mười; hàng vạn nhân dân được động viên,
hướng dẫn tản cư khỏi vùng chiến sự. ở các nơi quân
Pháp có thể chiếm đóng, nhân dân thực hiện tiêu thổ
kháng chiến với khẩu hiệu ‘Vườn không, nhà trống”,
“Phá hoại để kháng chiến” nhằm ngán cản bước tiến của
địch, hạn chế tiềm năng kinh tế địch, phá kinh tế địch...
Những chủ trương, biện pháp, sách lược và đối sách
đúng đắn của Đảng, tinh thần quyết đoán, sáng tạo của
Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh
chống giặc ngoài, thù trong những năm đầu chính quyền
cách mạng non trẻ đã đem lại thắng lợi có ý nghĩa hết sức
quan trọng: ngăn chặn bước tiến của đội quân xâm lược
Pháp ở Nam Bộ, vạch trần và làm thất bại mọi âm mưu,
hoạt động chống phá của các kẻ thù; củng cố, giữ vững và

144
bảo vệ bộ máy chính quyền cách mạng từ Trung ương đến
cơ sở và những thành quả của cuộc Cách mạng Tháng
Tốm; tạo thêm thời gian hòa bình, hòa hoãn, tranh thủ
xây dựng thực lực, chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc kháng
chiến lâu dài.
Nêu cao ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm bảo vệ nền
tự do, độc lập. Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng
ngũ địch, thực hành nhân nhượng có nguyên tắc “Dĩ bất
biến, ứng vạn biến”. Tăng cường đại đoàn kết dân tộc, dựa
vào sự ủng hộ vật chất là chính trị, tinh thần của toàn
dân. Phát triển thực lực cách mạng. Đó là những thành
công và kinh nghiệm nổi bật của Đảng trong lãnh đạo
cách mạng hai năm 1945 - 1946.

2. Đường lối kháng chiến toàn quốc và quá trình


tổ chức thực hiện (1946 - 1950)

a) Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ và đường lô'i


kháng chiến của Đảng
Từ cuôì tháng 10/1946, tình hình chiến sự ở Việt Nam
ngày càng căng thẳng, nguy cơ một cuộc chiến tranh giữa
Việt Nam và Pháp tăng dần. Đảng, Chính phủ, quân đội
và nhân dân Việt Nam kiên trì thực hiện chủ trương hòa
hoãn và bày tỏ thiện chí hòa bình, nhân nhượng nhằm
tìm kiếm con đường hòa bình, bảo vệ, giữ gìn toàn vẹn
nền độc lập, tự do của Việt Nam, đồng thời cố gắng cứu
vãn môì quan hệ Việt - Pháp đang ngày càng xấu đi nhằm
ngăn chặn một cuộc chiến tranh nổ ra quá sớm và không

145
cân sức với Pháp. Nhiều lần, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay
mặt Chính phủ Việt Nam, đã gửi điện, thư cho Chính
phủ Pháp, cho Thủ tướng Pháp song đều không được hồi
đáp. Con đường ngoại giao với đại diện Pháp tại Hà Nội
cũng đều không đưa đến kết quả tích cực vì phía Pháp
chỉ muốn “dùng biện pháp quân sự để giải quyết mổì
quan hệ Việt - Pháp”1. Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Việt
Nam đã bộc lộ rõ thái độ bội ưốc, tiếp tục đẩy mạnh tăng
cường bình định ở các tỉnh Nam Bộ, xúc tiến tái lập Nam
Kỳ tự trị; gây hấn, khiêu khích, gây xung đột quân sự,
lấn chiếm nhiều vị trí đóng quân ở Bắc Bộ Việt Nam; đặt
lại nền thống trị ở Campuchia và Lào, chia rẽ ba nưốc
Đông Dương.
Cuối tháng 11/1946, thực dân Pháp mở cuộc tấn công
vũ trang đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn; chiếm đóng
trái phép ở Đà Nằng, Hải Dương; tấn công vào các vùng tự
do của ta ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ; hậu thuẫn cho lực
lượng phản động xúc tiến thành lập cái gọi là “Chính phủ
Cộng hòa Nam Kỳ” và triệu tập Hội nghị Liên bang Đông
Dương. Trong các ngày 16 và 17/12/1946, quân đội Pháp ở
Hà Nội ngang nhiên tấn công đánh chiếm trụ sở Bộ Tài
chính, Bộ Giao thông công chính của ta; bắn đại bác gây
ra vụ thảm sát đồng bào Hà Nội ở phô Yên Ninh và Hàng
Bún. Ngày 18/12, đại diện Pháp ở Hà Nội đơn phương

1. Nghị quyết của úy ban Liên bộ Đông Dương (Comindo),


ngày 23/11/1946.

146
tuyên bố cắt đứt mọi liên hệ với Chính phủ Việt Nam, đưa
liên tiếp ba tối hậu thư đòi phía Việt Nam phải giải giáp,
giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, đòi độc quyền thực thi
nhiệm vụ kiểm soát, gìn giữ an ninh, trật tự của thành
phố... Đến ngày 19/12/1946, thiện chí hòa bình của Chính
phủ và nhân dân Việt Nam đã bị thực dân Pháp thẳng
thừng cự tuyệt. Vì vậy, Đảng và nhân dân Việt Nam chỉ
còn một sự lựa chọn duy nhất là cầm súng đứng lên chông
lại thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc lập và chính
quyền cách mạng; bảo vệ những thành quả của cuộc Cách
mạng Tháng Tám vừa giành được.
Ngày 12/12/1946, Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn
dân kháng chiến. Ngày 18/12/1946, Hội nghị Ban Thường
vụ Trung ương Đảng (mở rộng) họp tại làng Vạn Phúc, Hà
Đông (nay thuộc quận Hà Đông, thành phố Hà Nội) đã
đánh giá mức độ nghiêm trọng của tình hình, kịp thời đề
ra chủ trương đốì phó và quyết định phát động toàn dân,
toàn quốc tiến hành cuộc kháng chiến chông xâm lược
Pháp vối tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nưốc, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiêh, khẳng định quyết tâm sắt đá của
nhân dân ta quyết kháng chiến đến cùng để bảo vệ nền
độc lập, tự do:
“Chúng ta muôn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng.
Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng
lấn tối, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!

147
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nưốc, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!”1.
Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và Lời kêu
gọi toàn quô'c kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
thực hiện mệnh lệnh của Chính phủ, bắt đầu từ 20 giò
ngày 19/12/1946, dưối sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng,
quân và dân Hà Nội và ở các đô thị từ bắc vĩ tuyến 16 trở
ra đã đồng loạt nổ súng, cuộc kháng chiến toàn quốc
bùng nổ.
Tại Hà Nội, vào lúc 20 giờ 3 phút, pháo đài Láng bắn
loạt đại bác đầu tiên vào thành Hà Nội, báo hiệu cuộc
kháng chiến toàn quốc bắt đầu. Đèn điện trong thành
phố vụt tắt, các lực lượng vũ trang Vệ quốc đoàn, Tự vệ
chiến đấu, Công an xung phong nhất loạt tấn công các vị
trí đóng quân của Pháp trong thành phố. Cuộc chiến đấu
diền ra trên từng góc phố’, căn nhà vô cùng ác liệt, không
cân sức giữa ta và địch. Cuộc chiến đấu ở mặt trận Hà
Nội là quyết liệt nhất, diễn ra liên tục trong suốt 60 ngày
đêm khói lửa. Nhiều trận đánh ác liệt, giằng co, quyết tử,
một mất một còn giữa ta và Pháp ở nhà Bắc Bộ phủ, nhà
Bưu điện Bờ Hồ, chợ Đồng Xuân, ga Hàng cỏ, sân bay
Bạch Mai, 0 cầu Dền... thể hiện tinh thần chiến đấu bất
khuất, kiên cường “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” của

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.534.

148
quần dân cả nước. Quân ta đã chống trả quyết liệt, đánh
I lôu hao nhiều sinh lực địch, bảo vệ an toàn các cơ quan
đầu não, lãnh đạo của Trung ương và nhân dân rút ra
ngoại thành; hoàn thành nhiệm vụ giam chân địch trong
thành phố, bước đầu làm thất bại kế hoạch đánh nhanh,
thắng nhanh của thực dân Pháp; bảo toàn lực lượng,
phát triển lực lượng chiến đấu thành một Trung đoàn
chính quy mang tên “Trung đoàn Thủ đô”. Đến ngày
17/2/1947, Trung đoàn Thủ đô và các lực lượng quân sự
đã chủ động rút lui ra ngoài thành phố, lên chiến khu an
toàn để củng cố, bảo toàn và phát triển lực lượng kháng
chiến lâu dài...
ở các địa phương khác như Đà Nẵng, Huế, Vinh, Nam
Định, Bắc Ninh, Bắc Giang, quân và dân ta cũng đồng
loạt nổ súng tấn công vào các vị trí đóng quân của địch
trong các đô thị, ngăn chặn địch trên các tuyến giao thông,
đánh phá các cơ sở chiến tranh của địch; kìm giữ chân
địch không cho chúng mở rộng địa bàn chiếm đóng xung
quanh thành phố, thị xã, thị trấn; tiếp tục di chuyển nhân
tài, vật lực lên các khu căn cứ địa và ATK...
Đường lô'i kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng
ta được hình thành, bổ sung, phát triển qua thực tiễn
cách mạng Việt Nam trong những năm từ 1945 đến 1947.
Nội dung cơ bản của đường lối là: dựa trên sức mạnh toàn
dân, tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài
và dựa vào sức mình là chính. Đường lối đó được thể hiện
trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, lời kêu gọi, bài

149
viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Tổng
Bí thư Trường Chinh, trong đó tập trung ỏ cắc văn bản:
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc (25/11/1945), Chỉ thị Tình
hình và chủ trương (3/3/1946), Chỉ thị Hòa để tiến
(9/3/1946), Chỉ thị Toàn dân kháng chiến (12/12/1946), Lời
kêu gọi toàn quốc khắng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh
(19/12/1946), tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi
của đồng chí Trường Chinh (8/1947),...
Mục tiêu của cuộc kháng chiến là đánh đổ thực dân
Pháp xâm lược, giành nền độc lập, tự do, thống nhất hoàn
toàn; vì nền tự do dân chủ và góp phần bảo vệ hòa bình
thế giối...
Kháng chiến toàn dân là đem toàn bộ sức dân, tài dân,
lực dân; động viên toàn dân tích cực tham gia kháng
chiến. Xây dựng sự đồng thuận, nhất trí của cả nưốc, đánh
địch ỏ mọi nơi, mọi lúc, “mỗi người dân là một chiến sĩ,
mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi đường phô' là một mặt
trận”. Trong đó Quân đội nhân dân làm nòng cốt cho toàn
dân đánh giặc.
Kháng chiến toàn diện là đánh địch trên mọi lĩnh
vực, mọi mặt trận không chỉ bằng quân sự mà cả về
chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, trong
đó mặt trận quân sự, đấu tranh vũ trang giữ vai trò mũi
nhọn, mang tính quyết định. Động viên và phát huy cho
được mọi tiềm năng, sức mạnh của dân tộc, mọi nguồn
lực vật chất, tinh thần trong nhân dân phục vụ kháng
chiến thắng lợi.

150
Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược
của Đảng. Trường kỳ kháng chiến là một quá trình vừa
đánh tiêu hao lực lượng địch, vừa xây dựng, phát triển
lực lượng ta, từng bưốc làm chuyển biến so sánh lực
lượng trên chiến trường có lợi cho ta; lấy thời gian là lực
lượng vật chất để chuyển hóa yếu thành mạnh. Kháng
chiến lâu dài nhưng không có nghĩa là kéo dài vô thời
hạn mà phải luôn tranh thủ, chốp thời cơ thúc đẩy cuộc
kháng chiến có bước nhảy vọt về chất, thắng từng bước
để đi đến thắng lợi cuối cùng.
Kháng chiến dựa vào sức mình là chính, là sự kế thừa
tư tưởng chiến lược trong chỉ đạo sự nghiệp cách mạng
giải phóng dân tộc, giành chính quyền của lãnh tụ Hồ Chí
Minh. Phải lấy nguồn nội lực của dân tộc, phát huy nguồn
sức mạnh vật chất, tinh thần trong nhân dân ta làm chỗ
dựa chủ yếu, nguồn lực chủ yếu của cuộc chiến tranh nhân
dân. Trên cơ sở đó, tìm kiếm, phát huy cao độ và có hiệu
quả sự ủng hộ, giúp đỡ tinh thần và vật chất của quốc tế
khi có điều kiện. Lấy độc lập, tự chủ về đường lốỉ là yếu tố
quan trọng hàng đầu.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và đường lối kháng chiến của Đảng trở thành
ngọn cờ dẫn đường, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân ta tiến lên. Đường lối đó được nhân dân ủng hộ, hưởng
ứng trong suốt quá trình kháng chiến và trở thành một
nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

151
b) Tổ chức, chỉ đạo cuộc kháng chiến (1947 - 1950)
Sau ngày toàn quốc kháng chiến, Trung ương Đảng
quyết định chia cả nước thành các khu và sau này thành
các chiến khu quân sự để phục vụ yêu cầu chỉ đạo cuộc
kháng chiến. Các ủy ban kháng chiến hành chính được
thành lập; các tổ chức chính trị, xã hội được củng cố nhằm
tăng cường đoàn kết, tập hợp đông đảo nhất mọi tầng lớp
nhân dân tham gia kháng chiến.
Ngày 6/4/1947, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
triệu tập Hội nghị cán bộ Trung ương, nhấn mạnh việc mở
rộng Mặt trận dân tộc thông nhất chông thực dân Pháp,
củng cố chính quyền nhân dân ở vùng địch tạm chiếm,
phát động chiến tranh du kích, đẩy mạnh công tác ngoại
giao và tăng cường công tác xây dựng Đảng với việc mở
đợt phát triển đảng viên mới “Lớp tháng Tám”. Nhiều
quần chúng ưu tú công, nông, trí đã gia nhập Đảng. Cuối
năm 1947, tổng số đảng viên toàn Đảng tăng lên đến hơn
70.000 người. Bộ đội chính quy phát triển lên hơn 12 vạn
quân, được biên chế thành 57 trung đoàn và 20 tiểu đoàn
độc lập, bên cạnh đó, lực lượng dân quân tự vệ đã phát
triển lên hơn 1 triệu người. Trang bị vũ khí được cải thiện,
có khoảng 3 vạn khẩu súng, toàn quân có hơn 20 công
xưởng sửa chữa, sản xuất vũ khí thô sơ. Lực lượng công an
được thống nhất tổ chức trong toàn quốc và hoạt động cả
trong vùng địch hậu và vùng tự do. Tổ chức của Nha Công
an Việt Nam được thiết lập theo hệ thống dọc đến cấp
khu, ty, quận, huyện, có sự phát triển mối cả về biên chế,

152
tổ chức bộ máy, lý luận nghiệp vụ. Công an nhân dân đã
lập nên nhiều chiến công lớn có tiếng vang trong cả nưốc,
điển hình là chiến công của Tổ điệp báo A13, đánh đắm
Thông báo hạm Amyot D’inville của Pháp ở ngoài khơi
vùng biển sầm Sơn, Thanh Hóa (9/1950), góp phần đập
tan âm mứu của thực dân Pháp hòng mua chuộc, lôi kéo
những người kháng chiến ly khai để xây dựng “chiến khu
quốc gia”, đánh chiếm vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh
của ta1...
Trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, Đảng tiếp tục
chủ trương đẩy mạnh phong trào tăng gia sản xuất, tự
cấp, tự túc lương thực, đảm bảo đời sống cho bộ đội và
nhân dân. Duy trì phong trào bình dân học vụ, dạy và học
của các trường phổ thông các cấp. Tranh thủ sự ủng hộ,
đồng tình của lực lượng tiến bộ và nhân dân thế giới đôi
với cuộc kháng chiến; đặt cơ quan đại diện ở Thái Lan,
Miến Điện (nay là Mianma), cử các đoàn đại biểu đi dự hội
nghị quốc tế,...
Về quân sự, trong thu đông 1947, Pháp đã huy động
khoảng 15.000 quân, gồm cả ba lực lượng chủ lực là lục
quân, hải quân và không quân, hình thành ba mũi tiến
công chính tiến lên vùng ATK Việt Bắc, trong đó có mũi thọc
sâu, đột kích nhảy dù xuống trung tâm thị xã Bắc Kạn,
Chợ Mới, Chợ Đồn, hòng bắt gọn Chính phủ Hồ Chí Minh.

1. Xem Bộ Nội vụ: Công an nhân dân Việt Nam - Lịch sử biên
niên (1945 - 1954), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.235.

153
Các mũi khác tiến theo đường số 4 từ Lạng Sơn lên Cao
Bằng; một mũi tiến theo đường sông Hồng lên sông Lô,
sông Gâm tiến công vào ATK Tuyên Quang, thọc sâu vào
vùng ATK hàng trám cây số, trải rộng trên địa bàn khắp
12 tỉnh Việt Bắc.
Để đối phó vởi cuộc tấn công của địch lên Việt Bắc,
ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra
Chỉ thị Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc
Pháp, trong đó nêu rõ quyết tâm của quân và dân ta, vạch
ra thế yếu của địch và đề ra các nhiệm vụ quân sự cho các
chiến trường là phải ra sức phát động mạnh mẽ cuộc chiến
tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ; chặt đứt
giao thông, bao vây không để địch tiếp tế, liên lạc tiếp ứng
cho nhau; tổ chức cuộc chiến tranh nhân dân, đồng loạt
tấn công đánh địch trên tất cả các hướng tiến công của
chúng cả đường bộ và đường sông. Sau 75 ngày đêm chiến
đấu liên tục, oanh liệt, đến ngày 21/12/1947, quân và dân
ta đã lần lượt bẻ gãy tất cả các mũi tiến công nguy hiểm
của giặc Pháp, loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên
địch, phá hủy hàng trăm xe cơ giới, bắn chìm nhiều tàu
xuồng và nhiều phương tiện chiến tranh khác. Ta đã bảo
toàn được cơ quan đầu não và căn cứ địa kháng chiến,
đánh bại âm mưu, kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh
của thực dân Pháp.
Phôi hợp với mặt trận chính, Đảng đã chỉ đạo quân
dân vùng tạm bị chiếm đẩy mạnh kháng chiến, ra sức
đánh phá chính quyền địch, diệt tề, trừ gian, trừng trị

154
nhiều tên Việt gian tay sai đầu sỏ ngay trong sào huyệt
của chúng1. Đầu năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc
lệnh phong quân hàm Đại tướng cho đồng chí Võ Nguyên
Giáp cùng Trung tưởng Nguyễn Bình và 9 thiếu tướng. Sự
kiện đó là bưốc phát triển mối của cuộc kháng chiến.
Từ năm 1948, tình hình quốc tế có những chuyển biến
có lợi cho các lực lượng cách mạng và tác động tích cực đối
với cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Đặc biệt, ngày
1/10/1949, Đảng Cộng sản Trung Quốc giành được chính
quyền, Nhà nưởc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời.
Nưốc Pháp liên tục phải đối mặt vối nhiều khó khăn, mâu
thuẫn phức tạp nảy sinh, thế chiến lược quân sự của Pháp
ở Đông Dương bị đảo lộn...
Phát huy thắng lợi, Đảng chủ trương tiếp tục đẩy mạnh
cuộc kháng chiến toàn diện để làm thất bại âm mưu kéo
dài, mở rộng chiến tranh “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh,
dùng người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp. Trên
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, việc xây dựng thực lực
kháng chiến được tăng cường. Các ngành, các giới, các đoàn
thể phát động rộng rãi, mạnh mẽ và tổ chức sâu rộng nhiều
cuộc vận động thi đua ái quốc theo Lời kêu gọi Thi đua ái
quô'c của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 11/6/1948. Nhiều loại
hàng hóa cần thiết cho đời sống của bộ đội và nhân dân
được sản xuất và tự cấp, tự túc kịp thời, như: vải vóc, giấy,

1. Xem Bộ Nội vụ: Công an nhân dân Việt Nam - Lịch sử biên
niên (1945 - 1954), Sđd, tr.134.

155
thuốc chữa bệnh, nông cụ... Hội nghị Vàn hóa toàn quốc
được tổ chức tháng 7/1948 đã nhất trí thông qua đường lối,
phương châm xây dựng nền văn hóa mới mang tính chất
dân tộc, khoa học, đại chúng. Tàn dư văn hóa thực dân,
phong kiến từng bước được xóa bỏ, hình thành các giá trị
văn hóa mới; công tác cải cách nền giáo dục quốc gia cũng
thu được những kết quả tích cực.
Trên mặt trận ngoại giao, Đảng và Chính phủ chủ
trương tích cực tranh thủ mở rộng quan hệ ngoại giao với
các nưóc trong phe xã hội chủ nghĩa. Đầu năm 1950, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đi thăm Trung Quốc, Liên Xô; sau đó
lần lượt Chính phủ Trung Quốc (18/1/1950), Liên Xô
(30/1/1950) và các nhà nưởc dân chủ nhân dân Đông Âu;
Triều Tiên (2/1950) công nhận và đặt quan hệ ngoại giao
với Nhà nưốc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ủng hộ, giúp
đỡ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Với Lào và
Campuchia, Đảng chủ trương “mở rộng mặt trận Lào -
Miên”, thắt chặt tình đoàn kết chiến đấu Việt - Miên -
Lào để giúp bạn và cùng bạn chiến đấu. Từ cuốỉ năm
1947, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã cử một số cán bộ,
chiến sĩ sang giúp lực lượng kháng chiến Lào, xây dựng
các khu căn cứ kháng chiến ở vùng Hạ, Trung và Thượng
Lào. Cán bộ Việt kiều ở Thái Lan đã giúp lực lượng yêu
nước Campuchia thành lập úy ban dân tộc giải phóng
Khmer; xây dựng vùng căn cứ ở Tây Bắc Campuchia.
Tháng 11/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành
Sắc lệnh về nghĩa vụ quân sự. Trong quân đội có cuộc vận

156
(lộng “luyện quân lập công” và tiếp theo là phong trào thi
dua “rèn cán, chỉnh quân”. Lực lượng ba thứ quân (bộ đội
chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) phát triển
nhanh chóng và trưởng thành về mọi mặt, số lượng bộ đội
tăng lên 23 vạn người, trong đó có 40.000 đảng viên; số
dân quân tự vệ và du kích lên đến 3 triệu người. Đầu năm
1950, lực lượng cơ động của ta đã hơn hẳn địch1. Viện trợ
quân sự của Trung Quốc cũng góp phần tăng cường, cải
thiện trang bị cho bộ đội ta. Lực lượng Công an Việt Nam
được Đảng quan tâm chỉ đạo xây dựng theo đường lối
Công an nhân dân. Công tác xây dựng Đảng được đẩy
mạnh và phát triển nhanh trong 2 năm 1948 - 1949, kết
nạp được hơn 50.000 đảng viên mới. Cuộc vận động “xây
dựng chi bộ tự động công tác” đã góp phần phát triển rộng
khắp và tôi luyện các cơ sở đảng. Tháng 2/1950, Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tổng động viên, ra sắc
lệnh huy động nhân lực, vật lực, tài lực của toàn dân để
phục vụ đẩy mạnh công cuộc kháng chiến tiến lên giành
thắng lợi lớn hơn. Từ cuối năm 1950, Đảng quyết định tạm
ngừng phát triển Đảng để củng cố vì phát hiện ỏ nhiều
nơi, việc phát triển Đảng “quá nóng”, mắc sai lầm về tiêu
chuẩn đảng viên. Trung ương Đảng đã ra chỉ thị uốn nắn,
sửa chữa khắc phục một số khuyết điểm, sai lầm chủ quan

1. Quân đội ta có 2 đại đoàn (304 và 308), 2 trung đoàn chủ lực
và 12 trung đoàn chủ lực của Liên khu. Quân đội Pháp ở Việt Nam
lúc này chỉ có 12 tiểu đoàn cơ động chiến lược.

157
nóng vội, muôn chuyển nhanh, chuyển mạnh sang tổng
phản công; nhận thức lệch lạc trong động viên sức người,
sức của vượt quá sức dân.
Trong vùng tạm bị chiếm, Đảng chỉ đạo tiếp tục phát
triển mạnh chiến tranh du kích để “biến hậu phương của
địch thành tiền phương của ta”. Nhân dân cùng lực lượng
vũ trang đã tiến hành chiến dịch tổng phá tề, trừ gian ở
vùng sau lưng địch, phá hệ thông kìm kẹp của địch, đánh
phá bộ máy chính quyền bù nhìn cơ sỏ của địch ở nhiều
vùng rộng lớn, lập chính quyền của ta; tổ chức chống càn
quét, chống đi phu, bắt lính, chống nộp thuế cho địch. Tại
nhiều địa phương, quân và dân đã phối hợp hiệp đồng
chiến đấu, tổ chức đánh phục kích tiêu hao, tiêu diệt sinh
lực địch và giành được thắng lợi giòn giã, điển hình như
trận La Ngà (3/1948), Nghĩa Lộ (3/1948), Tầm Vu (4/1948),
Đồng Dương (4/1948).
Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào chiến tranh ở Việt Nam
và Đông Dương để tìm cơ hội thay thế Pháp. Ngày 9/1/1950,
3.000 học sinh, sinh viên Sài Gòn - Chợ Lớn biểu tình, bị
thực dân Pháp đàn áp dã man, Trần Văn ơn hy sinh. Ngày
19/3/1950, hơn 500.000 người dân Sài Gòn biểu tình chống
Mỹ khi Mỹ đưa tàu chiến tối cảng Sài Gòn. Xứ ủy Nam Bộ
có vai trò quan trọng trong chỉ đạo phong trào đấu tranh
của nhân dân Nam Bộ; luật sư Nguyễn Hữu Thọ tham gia
lãnh đạo nhiều cuộc biểu tình chốhg thực dân Pháp.
Địa bàn Nam Bộ vốn là nơi địch thực hiện “chiến
thuật mạng nhện”, xây dựng hệ thống tháp canh dày đặc,

158
gây cho ta nhiều khó khăn. Nhận thức được điều đó, Xứ ủy
Nam Bộ đã kịp thời chỉ đạo khắc phục, đưa phong trào
chiến tranh du kích ngày càng phát triển. Tại mặt trận
Khu VIII, ta mở chiến dịch cầu Kè - Trà Vinh (4/1949),
dánh vây đồn, diệt viện và thu được thắng lợi to lớn. Ớ
Khu VII, bộ đội thử nghiệm cách đánh đặc biệt (sau gọi là
đặc công) dùng mìn đánh tháp canh và các mục tiêu cầu,
cống, kho tàng của địch với trận đánh đầu tiên ở cầu Bà
Kiên đêm 18/4/1950.
Từ cuối năm 1948, đầu năm 1949, Trung ương Đảng
chủ trương tăng cường phối hợp chiến đấu vối quân, dân
Lào, Campuchia và Trung Quốc. Trực tiếp đưa bộ đội
tham gia hỗ trợ quân giải phóng Trung Quốc trong chiến
dịch Thập Vạn Đại Sơn ở khu vực biên giới Việt - Trung...
Từ giữa năm 1949, tướng Rơve (Revers) - Tổng Tham
mưu trưởng quân đội Pháp đề ra kế hoạch mở rộng chiếm
đóng đồng bằng, trung du Bắc Bộ, phong tỏa, khóa chặt
biên giới Việt - Trung. Ngày 8/3/1949, Tổng thống Pháp
Vincent Auriol ký với Bảo Đại Hiệp định về quan hệ Pháp -
Việt. Ngày 13/6/1949, Bảo Đại được Pháp đưa về Sài Gòn
làm Quốc trưởng và ngày 1/7/1949, Bảo Đại tuyên bố thành
lập “Quốc gia Việt Nam”. Đó là chính quyền bất hợp pháp,
giả hiệu do Pháp dựng lên. Tháng 6/1950, Ban Thường vụ
Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Biên giới thu
đông 1950, tiến công địch dọc tuyến biên giới Việt - Trung
thuộc 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn, nhằm tiêu diệt một bộ
phận quan trọng sinh lực địch, mỏ rộng căn cứ địa Việt Bắc,

159
tạo hành lang rộng mở quan hệ thông thương với Trung
Quốc và các nưốc xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thúc đẩy
cuộc kháng chiến phát triển lên giai đoạn mới. Chiến dịch
Biên giới thu đông 1950 trải dọc theo tuyến biên giói Việt -
Trung từ thị xã Cao Bằng đến Đình Lập (giáp Móng Cái).
Đây là chiến dịch quân sự lốn, quan trọng đầu tiên do quân
ta chủ động tấn công; đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đi
thị sát và trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Cuộc chiến đấu anh
dũng và quyết liệt của quân và dân ta diễn ra liên tiếp
trong suốt 30 ngày đêm (từ ngày 16/9 đến ngày 17/10/1950)
đã giành được thắng lợi to lớn, “đạt được mục tiêu diệt địch,
kết thúc thời kỳ chiến đấu trong vòng vây”. Chiến thắng
này đã mở ra cục diện mới, đưa cuộc kháng chiến chuyển
sang giai đoạn phát triển cao hơn.

3. Đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi


(1951 - 1954)

a) Đại hội đại biểu lần thứ II và Chính cương của


Đảng (2/1951)
Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng họp từ ngày 11
đến ngày 19/2/1951, tại xã Vinh Quang (nay là Kim Bình),
huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Tham dự Đại hội có
158 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt
cho hơn 766.000 đảng viên toàn Đảng. Đại hội được tiến
hành trong bối cảnh Liên Xô lổn mạnh vượt bậc về mọi
mặt, các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu bước vào công
cuộc xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.

160
Nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời làm thay đổi
so sánh lực lượng có lợi cho hòa bình và phong trào cách
inạng. Mỹ tăng cường giúp đỡ Pháp can thiệp trực tiếp vào
cuộc chiến tranh Đông Dương, ở trong nước, cuộc kháng
chiến của nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi quan
trọng. Cách mạng Lào và Campuchia cũng có những
chuyển biến tích cực. Điều kiện lịch sử đó đặt ra cho Đảng
Cộng sản Đông Dương các yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh
dường lối cách mạng phù hợp vối mỗi nưổc ở Đông Dương
dể đưa kháng chiến đi đến thắng lợi.
Theo sáng kiến của những người cộng sản Việt Nam,
được những người cộng sản Lào và Campuchia nhất trí
tán thành, Đại hội quyết định: Do nhu cầu kháng chiến,
giai cấp công nhân và nhân dân mỗi nước Việt Nam, Lào,
Campuchia cần có một đảng riêng. Ớ Việt Nam, Đảng ra
hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam1.
Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày
t ại Đại hội đã tổng kết phong trào cách mạng thê giối và
cách mạng Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XX, dự báo
những triển vọng tốt đẹp của nửa thế kỷ sau; rút ra bài

1. Ngày 28/6/1951, Đảng bộ Campuchia đã họp Đại hội, quyết


(lịnh thành lập Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia và bầu Ban
Lãnh đạo của Đảng do Sơn Ngọc Minh đứng đầu. Đảng bộ Lào cũng
tích cực chuẩn bị và đến ngày 22/3/1955 đã họp Đại hội, quyết định
thành lập Đảng Nhân dân Lào (sau đổi là Đảng Nhân dân Cách
inạng Lào), do Cayxỏn Phômvihản làm Tổng Bí thư.

161
học trong 21 năm hoạt động của Đảng. Báo cáo vạch rõ
nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là tiêu diệt thực dân Pháp và
đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành thống nhất độc lập hoàn
toàn, bảo vệ hòa bình thế giới. Để hoàn thành nhiệm vụ
đó, Đảng phải đề ra những chính sách và biện pháp nhằm
tích cực tăng cường lực lượng vũ trang, củng cô' các đoàn
thể quần chúng, đẩy mạnh thi đua ái quốc, mở rộng khối
đại đoàn kết dân tộc, tăng cường đoàn kết quốc tế; đẩy
mạnh công tác xây dựng Đảng Lao động Việt Nam thành
“một Đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách
mạng triệt để” để lãnh đạo đưa kháng chiến đến thắng lợi
hoàn toàn.
Báo cáo của Tổng Bí thư Trường Chinh đã trình bày
toàn bộ đường lối cách mạng Việt Nam, đó là đường lối
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Chính cương Đảng Lao động Việt Nam được Đại
hội thông qua, gồm các nội dung quan trọng sau đây:
- Xác định tính chất của xã hội Việt Nam lúc này có
3 tính chất: “dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và
nửa phong kiến”. Cuộc kháng chiến để giải quyết mâu
thuẫn giữa chế độ dân chủ nhân dân với các thế lực
phản động chính là chủ nghĩa đế quô'c xâm lược. Đối
tượng đấu tranh chính của Việt Nam hiện nay là chủ
nghĩa đế quốc xâm lược Pháp, can thiệp Mỹ và phong
kiến phản động.
- Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là: “đánh đuổi
bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhâ't thật sự

162
cho dân tộc; xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong
kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ
nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội”1. Những nhiệm
vụ đó có mối quan hệ khăng khít vối nhau, nhưng nhiệm vụ
chính lúc này là tập trung đấu tranh chốhg xâm lược, hoàn
thành công cuộc giải phóng dân tộc.
- Động lực của cách mạng Việt Nam được xác định
gồm có bốn giai cấp là: công nhân, nông dân, tiểu tư sản
và tư sản dân tộc, ngoài ra còn có những thân sĩ (thân
hào, địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Trong đó, lấy nền tảng
là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và lao động trí
óc; giai cấp công nhân đóng vai trò là lực lượng lãnh đạo
cách mạng Việt Nam.
- Triển vọng phát triển của cách mạng Việt Nam nhất
định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Việt Nam là
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng của
giai cấp công nhân lãnh đạo nên nhất định sẽ tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Đây là quá trình lâu dài, có các giai đoạn
phát triển tương ứng với những nhiệm vụ trung tâm, đó
là: hoàn thành giải phóng dân tộc; xóa bỏ tàn tích phong
kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có
ruộng, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; tiến tới xây
dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực
hiện chủ nghĩa xã hội.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
t.12, tr.434.

163
Nội dung của Chính cương còn nêu ra 15 chính sách
lớn của Đảng trong giai đoạn hiện tại nhằm tiếp tục đẩy
mạnh kháng chiến đến thắng lợi và đặt cơ sở kiến thiết
quốc gia, thực hiện chế độ dân chủ nhân dân ở Việt Nam,
làm tiền đề tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Điều lệ mới của Đảng được Đại hội thông qua có 13
chương, 71 điều, trong đó xác định rõ mục đích, tôn chỉ
của Đảng là phấn đấu “phát triển chế độ dân chủ nhân
dân, tiến lên chế độ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để thực
hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số’ ở Việt Nam”1.
Điều lệ Đảng cũng nêu ra những quy định về đảng viên,
về nền tảng tư tưỏng của Đảng, nguyên tắc hoạt động của
Đảng Lao động Việt Nam. Báo cáo chính trị tại Đại hội
nhấn mạnh: “trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một.
Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng
của dân tộc Việt Nam”2.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 19 ủy
viên chính thức và 10 ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành
đã bầu Bộ Chính trị gồm 7 ủy viên chính thức, 1 ủy viên
dự khuyết và Ban Bí thư. Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đẳng toàn tập, Sđd,
t.12, tr.444, 38.

164
làm Chủ tịch Đảng, đồng chí Trường Chinh được bầu lại
làm Tổng Bí thư.
Đại hội II thành công là một bước tiến mới của Đảng
về mọi mặt, là “Đại hội kháng chiến kiến quốc”, “thúc đẩy
kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng
Lao động Việt Nam”.

b) Đẩy mạnh phát triển cuộc kháng chiến về mọi mặt


Từ đầu năm 1951, Đảng chủ trương mở các chiến
dịch tiến công quân sự có quy mô tương đối lớn đánh vào
các vùng chiếm đóng của địch ở địa bàn trung du và đồng
bằng Bắc Bộ, tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, tạo điều
kiện phát triển cuộc chiến tranh du kích vùng sau lưng
địch. Tiếp đó, ta mở Chiến dịch Hòa Bình (12/1951) và
Chiến dịch Tây Bắc thu đông 1952 nhằm tiêu diệt một bộ
phận sinh lực địch, giải phóng một phần vùng Tây Bắc,
phá âm mưu lập “xứ Thái tự trị” của thực dân Pháp.
Trên chiến trường Liên khu V, phong trào chiến tranh du
kích phát triển mạnh ở các tỉnh Tây Nguyên, Bắc Quảng
Nam, Khánh Hòa, Nam Bình Thuận... Trên địa bàn Nam
Bộ, theo chỉ đạo của Xứ ủy, lực lượng vũ trang được tổ
chức và sắp xếp lại cho phù hợp với nhiệm vụ phát triển
chiến tranh du kích. Quân và dân Nam Bộ tích cực tiến
công địch bằng các hình thức tập kích, phục kích, đánh
đặc công, tiêu biểu là trận đánh vào khu hậu cần của
Pháp ở Phú Thọ (Sài Gòn) ngày 8/5/1952, đốt cháy hơn
5 triệu lít xăng, phá hủy hơn 1.000 quả bom và diệt gọn

165
một đại đội quân Pháp... Phát huy thắng lợi của các
chiến dịch quân sự trong nưốc, Đảng quyết định phối hợp
vối cách mạng Lào mở chiến dịch Thượng Lào (gồm tỉnh
Hủa Phăn và Xiêng Khoảng), giúp Chính phủ kháng
chiến Lào giải phóng thêm đất đai và mở rộng khu căn cứ
địa, phá thế bố trí chiến lược của thực dân Pháp ở bắc
Đông Dương.
Trên các mặt trận chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
Đảng, Chính phủ chỉ đạo đẩy mạnh việc chăm lo phát
triển thực lực, củng cố và tăng cường sức mạnh hậu
phương kháng chiến. Tháng 4/1952, Hội nghị lần thứ ba
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề ra những quyết sách
lón về công tác “chỉnh Đảng, chỉnh quân”, xác định đó là
nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, xây
dựng quân đội giai đoạn này. Cuộc vận động tăng gia sản
xuất, thực hành tiết kiệm, khắc phục khó khăn, hăng hái
lao động đã tự túc một phần lương thực, thực phẩm; bảo
đảm đạn dược, thuốc men, quân trang, quân dụng cung
cấp đủ cho bộ đội. Chấn chỉnh lại chế độ thuế khóa, tài
chính, xây dựng ngành thương nghiệp, ngân hàng; thực
hiện từng bưốc chính sách ruộng đất, chính sách thuế
nông nghiệp, chính sách địa tô. Các mặt văn hóa, y tế,
giáo dục, xây dựng nếp sống mới, củng cố Mặt trận dân tộc
thống nhất cũng được phát triển và đạt được nhiều thành
tựu mới...
Từ đầu năm 1953, Đảng chủ trương đẩy mạnh thực
hiện các cải cách dân chủ, phát động quần chúng nông

166
dân triệt để giảm tô, giảm tức tiến tới cải cách ruộng đất
nhằm góp phần thúc đẩy kháng chiến mau thắng lợi,
thực hiện mục tiêu người cày có ruộng. Nông dân đã được
tạm cấp gần 180.000 ha ruộng đất vốn là của thực dân,
địa chủ Việt gian, ruộng công, ruộng hoang hóa, vắng chủ.
Tháng 1/1953, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã họp kiểm điểm về thực hiện chính sách
ruộng đất của Đảng và quyết định tiến tới cải cách ruộng
đất ở một số vùng nông thôn Việt Nam. Tháng 11/1953,
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
và Hội nghị toàn quốc của Đảng lần thứ nhất quyết nghị
thông qua Cương lĩnh ruộng đất của Đảng Lao động Việt
Nam với 23 điểu và nêu chủ trương: “phát động quần
chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức và tiến hành
cải cách ruộng đất”, thực hiện người cày có ruộng, nâng
cao quyền lợi kinh tế và chính trị của người nông dân. Chủ
trương, chính sách vê' ruộng đất và cải cách ruộng đất của
Đảng và Nhà nưốc ta được thực hiện dưối nhiều hình thức
khác nhau, như: hiến ruộng đất, tịch thu, trưng thu, trưng
mua và đem ruộng đất đó chia cho cố nông, bần nông và
trung nông lốp dưối là những người không có hoặc thiếu
ruộng cày cấy. Chủ trương đó đã tạo ra chuyển biến lớn về
kinh tế, chính trị ở nông thôn, thúc đẩy sức sản xuất phát
triển, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người
nông dân Việt Nam.
Ngày 4/12/1953, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa I đã
thông qua Luật cải cách ruộng đất và ngày 19/12/1953,

167
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Luật cải cách
ruộng đất. Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ,
hàng ngàn hécta ruộng đất và các loại nông cụ, trâu bò, tư
liệu sản xuất nông nghiệp đã được chia cho nông dân
nghèo, nhất là bần, cố nông. Thắng lợi này đã làm nức
lòng bộ đội nơi tiền tuyến, tăng thêm quyết tâm giết giặc,
lập công, góp phần tích cực động viên sức người, sức của
cho Chiến dịch Điện Biên Phủ... Song, do còn hạn chê
trong nhận thức, việc tiếp thu kinh nghiệm đấu tranh giai
cấp của nưởc ngoài đã mắc vào giáo điều chủ nghĩa, vi
phạm khuyết điểm nghiêm trọng là độc đoán, chuyên
quyền, định kiến chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, nhất là
ở phương pháp, cách làm, ở việc chỉ đạo xử lý không đúng
một số trường hợp oan sai trong cải cách ruộng đất, càng
về sau càng nặng hơn1...

c) Kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao, kết thúc


thắng lợi cuộc kháng chiến
Bưóc vào năm 1953, quân đội Pháp ở Đông Dương bị
mắc kẹt trong mâu thuẫn giữa tập trung binh lực và

1. Về vấn đề này, đến Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
lần thứ 10 (mở rộng) tháng 10/1956, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã phân tích sâu sắc, nhận thức đầy đủ, chỉ rõ khuyết
điểm, sai lầm, nguyên nhân sai lầm và đã tự phê bình rất
nghiêm khắc, có hình thức kỷ luật thích đáng những cá nhân
gây ra sai phạm; đề ra nhiều chủ trương, biện pháp khắc phục
hậu quả, lấy lại niềm tin của nhân dân.

168
chiếm giữ, giữa tiến công và phòng ngự, giữa bảo vệ
đồng bằng Bắc Bộ và bảo vệ vùng Tây Bắc, Thượng Lào.
Nước Pháp lệ thuộc ngày càng sâu vào viện trợ quân sự
Mỹ và đang dốc mọi cố gắng hòng tìm một lối thoát trong
danh dự.
Tháng 5/1953, Pháp cử Đại tướng Hăngri Nava
(H. Navarre) đang đảm nhiệm chức vụ Tổng Tham mưu
trưởng lục quân khối NATO sang làm Tổng chỉ huy quân
đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Tháng 7/1953, Nava
đã vạch ra kế hoạch chính trị - quân sự mới lấy tên là “Kế
hoạch Nava”. Kế hoạch Nava dự kiến thực hiện trong vòng
18 tháng nhằm “chuyển bại thành thắng”. Nava chủ
trương tăng cường tập trung binh lực, hình thành những
“quả đấm thép” để quyết chiến với chủ lực của Việt Minh.
Chi phí vật chất của kế hoạch Nava phần lớn do Mỹ thực
hiện. Trong quá trình triển khai kế hoạch, Nava đã từng
bước biến Điện Biên Phủ - một địa danh vùng Tây Bắc
Việt Nam trở thành một căn cứ quân sự khổng lồ và là
trung tâm của kế hoạch. Đến đầu năm 1954, Điện Biên
Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, một
“pháo đài khổng lồ không thể công phá”, được giới quân
sự, chính trị Pháp - Mỹ đánh giá là “một cỗ máy để nghiền
Việt Minh”.
Để đánh bại âm mưu và kế hoạch Nava, Đảng chủ
t,rương mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954.
Từ đầu tháng 9/1953, Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy chỉ
dạo Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam

169
nghiên cứu, đánh giá toàn diện tình hình quân sự trên
chiến trường và vạch ra kế hoạch tác chiến mới. Cuối
tháng 9/1953, Bộ Chính trị họp bàn và thông qua chủ
trương tác chiến chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954, nhằm
tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng của ta, giữ
vững thế chủ động, buộc địch phải phân tán lực lượng để
đốĩ phó. Nghị quyết quan trọng này của Bộ Chính trị đã
mở đường đi tới những thắng lợi lịch sử trong cuộc tiến
công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 mà đĩnh cao là
Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Tháng 12/1953, Bộ Tổng tham mưu đã xây dựng xong
các kế hoạch tác chiến cụ thể cho các chiến trường và
được Bộ Chính trị phê chuẩn. Trên cơ sở báo cáo quyết
tâm của Tổng Quân ủy, cuộc họp của Bộ Chính trị ngày
6/12/1953 đã quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và
giao Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng, Tổng Tư lệnh quân đội trực tiếp làm Tư lệnh kiêm
Bí thư Đảng ủy chiến dịch. Phối hợp với mặt trận Điện
Biên Phủ và tạo điều kiện cho trận quyết chiến chiến
lược ở Điện Biên Phủ, lực lượng quân sự tổ chức nghi
binh, kéo dãn lực lượng địch trên toàn chiến trường Đông
Dương, mở nhiều cuộc tấn công địch đồng loạt trên các
hướng chiến lược quan trọng, như: Lai Châu (12/1953);
Trung Lào (12/1953), Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia
(12/1953); mặt trận Tây Nguyên (1/1954); Thượng Lào
(1/1954). Tại mặt trận Bình Trị Thiên, Nam Trung Bộ,
Nam Bộ, ta tô chức đồng loạt tấn công địch, kết hợp phát

170
(lộng phá tề, trừ gian, mở các chiến dịch địch vận, ngụy
vận, phá hủy giao thông, đẩy mạnh hoạt động chiến
tranh du kích...
Nhằm phát huy sức mạnh của hậu phương, chi viện
tiền tuyến, nhất là lực lượng nông dân cho cuộc tiến công
chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 và Chiến dịch Điện
Biên Phủ, Trung ương Đảng, Quốc hội và Chủ tịch Hồ Chí
Minh quyết định phát động phong trào quần chúng đấu
tranh triệt để giảm tô, giảm tức và tiến hành cải cách
ruộng đất, Bộ Chính trị quyết định thành lập ủy ban chi
viện tiền tuyến; Hội đồng cung cấp mặt trận Trung ương
và các địa phương cũng được thành lập. Mọi nguồn nhân
tài, vật lực, dân công tiếp tế, chi viện cho mặt trận Điện
Biên Phủ được tăng cường với hàng vạn ngày công, hàng
vạn tấn lương thực, đạn dược, vũ khí, phương tiện trang
bị,... Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “chiến dịch này là một
chiến dịch rất quan trọng, không những về quân sự mà cả
vê' chính trị, không những đốì với trong nước mà đối vối
quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập
trung hoàn thành cho kỳ được”1.
Thực hiện quyết tâm chiến lược đó, ta đã tập trung
khoảng 5 vạn quân vối mọi nỗ lực và quyết tâm cao nhất
bao vây chặt quân địch ở Điện Biên Phủ. Với phương châm
“đánh chắc, tiến chắc”, “đánh chắc thắng”, ngày 13/3/1954,

1. Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp
(12/1953).

171
quân ta nổ súng tấn công địch ở phân khu phía bắc trung
tâm Mường Thanh, mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Trải qua 56 ngày đêm, vối 3 đợt tiến công lởn, đến 17 giờ 30
phút chiều 7/5/1954, Quân đội nhân dân Việt Nam đã đánh
chiếm hầm chỉ huy, bắt sông tướng Đờ Cátơri (Chiristian
de Castries), Chỉ huy trưởng và Bộ Chỉ huy tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ. Toàn bộ lực lượng địch ở Điện Biên
Phủ bị tiêu diệt và bị bắt sống. Chiến dịch Điện Biên Phủ
kết thúc đã đưa cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 -
1954 và cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực
dân Pháp xâm lược đến thắng lợi vẻ vang.
Chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ là thắng lợi của ý
chí và khát vọng độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam
mà nòng cốt là lực lượng Quân đội nhân dân anh hùng.
Với nước Pháp: “Điện Biên Phủ thất thủ gây nỗi kinh
hoàng khủng khiếp. Đó là một trong những thảm bại lớn
nhất của phương Tây...”1. Thắng lợi ở Điện Biên Phủ là
“thiên sử vàng của dân tộc Việt Nam”, được ghi nhận là
một chiến công vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX
và “đi vào lịch sử thế giới như một chiến công hiển hách,
báo hiệu sự thắng lợi của nhân dân các dân tộc bị áp bức,
sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân”2.

1. Jules Roy: Trận Điện Biên Phủ dưới con mắt của người
Pháp, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994, tr.579.
2. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì
chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Sđd, tr.90.

172
Cùng với thắng lợi quân sự to lớn, vang dội ở Điện
Biên Phủ, trên toàn chiến trường Đông Dương, quân và
dân ta cũng giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trên các
mặt trận kinh tế, chính trị, quân sự ở cả vùng đồng bằng,
trung du Bắc Bộ, mặt trận Bình Trị Thiên, Nam Trung Bộ
và Nam Bộ. Những thắng lợi này đã góp phần cổ vũ, tác
động tích cực đối với mặt trận Điện Biên Phủ.
Từ cuối năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố về
lập trường của Việt Nam: “Cơ sở của việc đình chiến ở Việt
Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập
thật sự của nưốc Việt Nam”1, phải đình chỉ cuộc chiến
tranh xâm lược và phải thương lượng trực tiếp và chủ yếu
với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa2. Tuyên bố
này mở đường cho đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị
Giơnevơ (Geneve, Thụy Sĩ).
Hội nghị Giơnevơ bàn về chấm dứt chiến tranh, lập lại
hòa bình ở Đông Dương khai mạc ngày 8/5/1954. Trong
75 ngày đàm phán căng thẳng, gay go, phức tạp, trải qua
8 phiên họp toàn thể, 23 phiên họp cấp trưởng đoàn và
nhiều cuộc gặp gỡ riêng với nhiều áp lực, tác động tiêu cực
của diễn biến tình hình quốc tế phức tạp và sức ép của các
nước lớn. Đoàn Mỹ do J. Đalét (John Foster Dules), Bộ
trưởng Ngoại giao dẫn đầu; đoàn Vương quốc Anh do Bộ
trưởng Ngoại giao Anthony Eden là Trưởng đoàn; đoàn

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.340.


2. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.340-341.

173
Pháp do Biđôn (Georges Bidault) dẫn đầu; đoàn Liên Xô
do Bộ trưởng Ngoại giao Viacheslav Molotov làm Trưởng
đoàn; đoàn Trung Quốc do Thủ tướng Chu Ân Lai làm
Trưởng đoàn. Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phó
Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Trưỏng đoàn. Các đoàn
Vương quốc Lào, Vương quốc Campuchia và Quốc gia Việt
Nam (chính quyền Bảo Đại) cũng tham gia Hội nghị. Phía
Việt Nam luôn kiên trì đấu tranh, giữ vững nguyên tắc,
nhân nhượng có điều kiện và cũng tích cực đấu tranh để
bảo vệ quyền lợi chính trị của lực lượng kháng chiến Lào
và Campuchia. Song, so sánh lực lượng không thuận lợi
cho cách mạng ba nước Đông Dương, nên ta đồng ý chấp
nhận ký kết vối Pháp bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở
Việt Nam vào ngày 21/7/1954. Trong quá trình diễn ra Hội
nghị, Mỹ đã gây sức ép buộc Pháp chấp nhận đưa Ngô
Đình Diệm về nưốc làm Thủ tướng trong chính quyền Bảo
Đại nhằm xây dựng một chính quyền thân Mỹ thay thê
chính quyền thân Pháp. Tổng thốhg Mỹ Aixenhao (Dwight
D. Eisenhower) quyết tâm thúc đẩy quá trình Mỹ thay thê
Pháp ở Việt Nam và Đông Dương.
Hội nghị đã thông qua bản Tuyên bố cuối cùng về vấn
đề lập lại hòa bình ở Đông Dương có chữ ký của các bên.
Đại biểu Mỹ không ký, nhưng tuyên bô' cam kết tôn trọng
Hiệp định. Bản Tuyên bố nêu rõ: Pháp và các nước tham
dự Hội nghị long trọng cam kết tôn trọng các quyền dân
tộc cơ bản của Việt Nam, Lào, Campuchia là độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp

174
vào công việc nội bộ của các nước đó; cam kết chấm dứt
cuộc chiến tranh và lập lại hòa bình trên bán đảo Đông
Dương... Kết quả Hội nghị phản ánh xu thế chung và cục
diện tình hình quốc tế lúc bấy giờ. Đây là văn bản pháp lý
quốc tế đầu tiên công nhận các quyền dân tộc cơ bản của
nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia; đánh dấu kết
thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chông thực dân Pháp xâm
lược; mở ra một trang sử mới cho dân tộc Việt Nam và mở
đường cho cuộc đấu tranh giành độc lập, thốhg nhất hoàn
toàn cho nhân dân ba nước Đông Dương sau này.

4. Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của Đảng


trong lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp
và can thiệp Mỹ

a) Ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến


Trong cuộc kháng chiến trường kỳ, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã bảo vệ thành quả của
cuộc Cách mạng Tháng Tám; củng cố', phát triển chế độ
dân chủ nhân dân trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội; mang đến niềm tin vào sức sốhg và
thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến. Thắng lợi của cuộc
kháng chiến đưa đến việc giải phóng hoàn toàn miền Bắc,
tạo tiền đề về chính trị - xã hội quan trọng để Đảng quyết
định đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng,
bảo vệ vũng chắc miền Bắc thành hậu phương lớn, chi
viện cho tiền tuyến lổn miền Nam.

175
Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã giành
được thắng lợi to lốn, có ý nghĩa lịch sử quan trọng đối với
sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam; có tính lan tỏa rộng
lốn trong khu vực và mang tầm vóc thời đại sâu sắc. Nhân
dân Việt Nam đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược có
quy mô lớn của quân đội nhà nghề có tiềm lực quân sự và
kinh tế hùng mạnh vdi các trang bị vũ khí, công nghệ,
khoa học, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại; được điều hành bởi
các nhà chính trị lão luyện, các tướng tá quân sự tài ba
của Pháp - Mỹ. Lần đầu tiên trong lịch sử phong trào giải
phóng dân tộc, một nước thuộc địa nhỏ bé đã đánh thắng
một cường quốc thực dân, đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào
đấu tranh vì hòa bình, dân chủ, tiến bộ ở các châu lục Á,
Phi và khu vực Mỹ Latinh.

b) Kinh nghiệm của Đảng về lãnh đạo kháng chiến


Thắng lợi của cuộc kháng chiến ghi nhận sự phát triển
và thành công trong lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh giải
phóng dân tộc của Đảng Lao động Việt Nam và để lại
nhiều bài học kinh nghiệm quý báu.
Một là, đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp
với thực tiễn lịch sử của cuộc kháng chiến ngay từ những
ngày đầu. Đường lối cơ bản là “kháng chiến và kiến quốc”;
kháng chiến toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh là
chính. Tinh thần, khí phách đó đã khơi dậy và phát huy
cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và mọi nguồn

176
lực sáng tạo của các tầng lốp nhân dân tập trung vào
nhiệm vụ chống thù trong, giặc ngoài, thực hiện mục tiêu
độc lập, dân chủ, tiến bộ trong suốt thòi kỳ kháng chiến.
Kết hợp sức mạnh nội lực của nhân dân Việt Nam vối việc
tranh thủ tối đa những điều kiện thuận lợi của quốc tế,
phát huy có hiệu quả cao nhất sự ủng hộ, giúp đỡ của các
lực lượng dân chủ, tiến bộ đối vối cuộc kháng chiến.
Hai là, kết hợp chặt chẽ và giải quyết đúng đắn mồĩ
quan hệ giữa hai nhiệm vụ cơ bản vừa kháng chiến vừa
kiến quô'c, chống đế quốc và chôhg phong kiến. Kháng
chiến toàn diện trên các mặt trận, các lĩnh vực cả kinh tế,
văn hóa, xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, đồng thời ưu
tiên đẩy mạnh hoạt động quân sự, đưa cuộc kháng chiến
đến thắng lợi quyết định. Kết hợp nhuần nhuyễn các hình
thức đấu tranh trên các mặt trận, lấy quân sự làm nòng
cốt, lấy xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân làm chỗ
dựa, nền tảng để củng cố, phát triển cơ sở hạ tầng chính
trị - xã hội vững chắc, phát huy hiệu lực, hiệu quả sự lãnh
đạo và tổ chức cuộc kháng chiến của Đảng, Chính phủ
trên thực tế. Kháng chiến đi đôi vối kiến quốc, chống đê
quốc và chống phong kiến, xây dựng hậu phương - căn cứ
địa vững chắc luôn là những nhiệm vụ cơ bản, cùng đồng
hành và là nội dung chủ yếu, xuyên suốt trong quá trình
lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến của Đảng Lao động
Việt Nam.
Ba là, ngày càng hoàn thiện phương thức lãnh đạo, tổ
chức điều hành cuộc kháng chiến phù hợp với đặc thù của

177
từng giai đoạn. Phát triển các loại hình chiến tranh đúng
đắn, sáng tạo phù hợp vổi đặc điểm của cuộc kháng chiên
và so sánh lực lượng ta - địch, đó là loại hình chiến tranh
nhân dân, toàn dân, toàn diện. Kết hợp chiến tranh chính
quy với chiến tranh du kích ở cả mặt trận chính diện và
vùng sau lưng địch, vùng tạm bị chiếm. Phát huy sở
trường của ta và cách đánh địch sáng tạo, linh hoạt kết
hợp với chỉ đạo chiến thuật tác chiến linh hoạt, cơ động,
“đánh chắc, tiến chắc, chắc thắng”, thắng từng bước tiến
lên giành thắng lợi quyết định.
Bốn là, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba
thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du
kích một cách thích hợp, đáp ứng kịp thời yêu cầu của
nhiệm vụ chính trị - quân sự của cuộc kháng chiến. Xây
dựng mô hình tổ chức bộ máy lực lượng vũ trang, nhất là
Quân đội nhân dân, Công an nhân dân một cách đúng
đắn, thích hợp. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
trước hết và quan trọng nhất là về tư tưởng - chính trị, trỏ
thành công cụ chuyên chính sắc bén, tin cậy, làm mũi
nhọn, nòng cốt cho kháng chiến, làm chỗ dựa cho toàn dân
đánh giặc. Đảng và quân đội đã xây dựng thành công hình
ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong kháng chiến; xây dựng Công an
nhân dân mang bản chất giai cấp và tính nhân dân
sâu sắc, công an là “bạn dân” theo tư tưởng thân dân của
Hồ Chí Minh.
Năm là, coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đôn Đảng;
nâng cao vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với cuộc

178
kháng chiến trên tất cả mọi lĩnh vực, mặt trận. Xây dựng,
bồi đắp hình ảnh, uy tín của Đảng và Chính phủ phải
bằng hành động thực tế, bằng sự nêu gương và vai trò tiên
phong của các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong quá trình tổ chức cuộc kháng chiến ở cả căn cứ địa -
hậu phương và vùng bị địch tạm chiếm. Hết sức chú trọng
công tác tuyên truyền, giáo dục, động viên cao nhất, nhiều
nhất mọi nguồn lực vật chất trong nhân dân, phát huy cao
độ tinh thần, nghị lực của nhân dân; củng cố lòng tin vững
chắc của nhân dân đối vối thắng lợi cuối cùng của cuộc
kháng chiến.
Trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phải luôn
nâng cao nhận thức chính trị - tư tưỏng, chú ý khắc phục
những khuynh hướng tư tưởng giáo điều, tả khuynh, hữu
khuynh, chủ quan, duy ý chí trong chỉ đạo, tổ chức cuộc
kháng chiến, nhất là tư tưởng chủ quan, nóng vội, coi
thường sức mạnh của địch; tập trung cao độ vào nhiệm vụ
quân sự, nhưng ít chú ý đúng mức đến nhiệm vụ xây dựng
và kiến quốc; giải quyết hài hòa, thỏa đáng mối quan hệ
giữa huy động sức dân với bồi dưỡng, nâng cao sức dân;
học hỏi, tiếp thu, vận dụng kinh nghiệm của nưốc ngoài
phải sáng tạo phù hợp vối đặc điểm của Việt Nam. Trong
công tác chỉnh đảng, chỉnh quân mắc vào chủ nghĩa thành
phần, đố kỵ trong công tác cán bộ... Những khuyết điểm
này đã gầy ra tác hại đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên,
làm giảm sút lòng tin trong nhân dân đối với Đảng và
Chính phủ.

179
II- LÃNH ĐẠO XÂY DựNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ở
MIỀN BẮC VÀ KHÁNG CHIÊN chống đế Quốc mỹ
XÂM LƯỢC, GIẢI PHÓNG MIEN NAM, THỐNG NHẤT
ĐẤT NƯỚC (1954 - 1975)

1. Sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng hai


miền Nam - Bắc (1954 -1965)

a) Khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng
sang thế tiến công (1954 - 1960)
ở miền Bắc, sau ngày Hiệp định Giơnevơ (7/1954)
được ký kết, cách mạng có những đặc điểm và thuận lợi,
khó khăn mối. Đất nưởc bị chia làm hai miền, có chế độ
chính trị, xã hội khác nhau: miền Bắc được hoàn toàn giải
phóng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, miền
Nam do chính quyền đối phương quản lý, trở thành thuộc
địa kiểu mới của đế quốc Mỹ.
Trên trường quốc tế, thuận lợi của cách mạng Việt
Nam là hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả
về kinh tế, quân sự, khoa học - kỹ thuật, nhất là sự lớn
mạnh của Liên Xô. Phong trào giải phóng dân tộc tiếp
tục phát triển. Phong trào hòa bình, dân chủ lên cao ở
các nưốc tư bản. Bất lợi là: xuất hiện đế quốc Mỹ hùng
mạnh có âm mưu làm bá chủ thê giới, với các chiến lược
toàn cầu phản cách mạng được các đời tổng thống nối
tiếp nhau xây dựng và thực hiện. Thế giối đi vào thời kỳ

180
chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang. Xuất hiện sự bất
đồng, chia rẽ trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là
giữa Liên Xô và Trung Quốc.
Ở trong nước, thuận lợi là đã có miền Bắc được
hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa hậu phương cho
cả nước. Thế và lực của cách mạng đã lốn mạnh hơn
trưốc sau chín năm kháng chiến; có ý chí độc lập thống
nhất của nhân dân cả nưốc. Khó khăn là đất nước chia
làm hai miền, có chế độ chính trị khác nhau, miền Nam
do đế quốc, tay sai kiểm soát, không chịu thực hiện hòa
bình thống nhất đất nưốc. Kinh tế miền Bắc nghèo
nàn, lạc hậu. Đế quốc Mỹ trở thành kẻ thù trực tiếp
của nhân dân Việt Nam.
Tình hình phức tạp nêu trên đã đặt Đảng ta trước một
yêu cầu bức thiết là phải vạch ra đường lối chiến lược
đúng đắn để đưa cách mạng Việt Nam tiến lên phù hợp
với tình hình mói của đất nước và phù hợp với xu thế phát
triển chung của thời đại. Trải qua nhiều hội nghị của Ban
Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, chủ trương chiến
lược cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới của Đảng
từng bưốc hình thành.
Về chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, sau khi miền Bắc được giải phóng, Trung ương Đảng
đã chủ trương chuyển miền Bắc sang giai đoạn mới với
nhận thức: sự kết thúc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân cũng là sự mở đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa
như các cương lĩnh của Đảng đã xác định.

181
Tháng 9/1954, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ chủ yếu
trưốc mắt của miền Bắc là hàn gắn vết thương chiến
tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, trước hết là phục hồi và
phát triển sản xuất nông nghiệp, ổn định xã hội, ổn định
đời sốhg nhân dân, tăng cường và mở rộng hoạt động quan
hệ quốc tế... để sớm đưa miền Bắc trở lại bình thường sau
chín năm chiến tranh.
Hội nghị lần thứ bảy (3/1955) và lần thứ tám (8/1955)
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) đã nhận định:
Mỹ và tay sai đã hất cẳng Pháp ở miền Nam, công khai
lập nhà nưốc riêng chống phá Hiệp định Giơnevơ, đàn áp
phong trào cách mạng. Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai,
củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập
và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc,
đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân
dân miền Nam.
Thực hiện Hiệp định Giơnevơ, ngay sau khi hoà bình
được lập lại, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc đấu
tranh đòi đốì phương phải rút quân khỏi miền Bắc theo
đúng thòi gian quy định. Cuộc đấu tranh này đã diễn ra hết
sức khó khăn, phức tạp bởi Pháp và tay sai đã dùng mọi âm
mưu, thủ đoạn để chống phá, làm rối loạn xã hội và mất
trật tự an ninh trước khi chúng rút quân; kích động, thúc
ép đồng bào theo đạo Thiên Chúa di cư vào Nam; phá hoại,
di chuyển máy móc, nguyên vật liệu trái phép...
Để chống lại âm mưu, thủ đoạn của địch và ổn định
tình hình, Đảng và Nhà nưốc đã ban hành kịp thời nhiều

182
chính sách chỉ đạo các địa phương thực hiện, như: chính
sách đối vối tôn giáo; chính sách đối với công chức, trí thức
trước đây làm việc cho địch; chính sách đốỉ vối ngụy quân.
Ngoài ra, Đảng và Nhà nước còn huy động hàng vạn cán
bộ, bộ đội đến giúp đỡ các địa phương, tuyên truyền, vận
động quần chúng đấu tranh chống địch cưỡng ép di cư
nhằm ổn định tình hình.
Trưốc tinh thần đấu tranh của nhân dân ta, địch đã
phải rút quân theo đúng Hiệp định. Ngày 10/10/1954,
những lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hà Nội. Ngày
16/5/1955, toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp và tay sai đã
phải rút khỏi miền Bắc.
Nhận rõ kinh tế miền Bắc cơ bản là nông nghiệp,
Đảng đã chỉ đạo lấy khôi phục và phát triển sản xuất
nông nghiệp làm trọng tâm. Việc khôi phục sản xuất nông
nghiệp được kết hợp vối cải cách ruộng đất và vận động
đổi công, giúp nhau sản xuất, đồng thời, chăm lo xây dựng
cơ sở vật chất cho nông nghiệp. Đến năm 1957, cơ bản
nông nghiệp miền Bắc đã đạt được năng suất và sản lượng
của năm 1939, năm cao nhất dưới thời Pháp thuộc, nhờ đó
nạn đói bị đẩy lùi, tạo điều kiện giải quyết những vấn đề
cơ bản trong nền kinh tế quốc dân, góp phần ổn định
chính trị, trật tự an ninh xã hội.
Cùng với khôi phục sản xuất nông nghiệp, việc khôi
phục công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và giao thông vận
tải cũng hoàn thành. Hầu hết các xí nghiệp quan trọng đã
được phục hồi sản xuất và tăng thêm thiết bị, một số nhà

183
máy mối được xây dựng. Các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y
tế được phát triển nhanh.
Công cuộc giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất
được tiếp tục đẩy mạnh. Để đảm bảo thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ cải cách ruộng đất, Đảng chủ trương dựa hẳn
vào bần cố nông, đoàn kết với trung nông, đánh đổ giai
cấp địa chủ, tịch thu ruộng đất của họ để chia đều cho
dân cày nghèo. Đến tháng 7/1956, cải cách ruộng đất đã
căn bản hoàn thành ở đồng bằng, trung du và miền núi.
Chế độ chiếm hữu ruộng đất phong kiến ỏ miền Bắc đến
đây bị xóa bỏ hoàn toàn. Hơn 9 triệu người trong hơn 2
triệu hộ nông dân lao động được chia hơn 810.000 ha
ruộng đất.
Trong quá trình cải cách ruộng đất, bên cạnh những
kết quả đạt được, ta đã phạm phải một sô' sai lầm nghiêm
trọng, phổ biến và kéo dài trong chỉ đạo thực hiện.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sai lầm là chủ quan, giáo
điều, không xuất phát từ tình hình thực tiễn, nhất là
những thay đổi quan trọng về quan hệ giai cấp, xã hội ở
nông thôn miền Bắc sau ngày được hoàn toàn giải phóng.
Do đó, trong chỉ đạo, thực hiện cải cách ruộng đất, đã
cường điệu hóa đấu tranh giai cấp ở nông thôn, dẫn đến
mở rộng quá mức đốì tượng đấu tranh; sử dụng hình thức,
phương pháp không phù hợp vối đối tượng là địa chủ ở
nông thôn Việt Nam; trong chỉnh đốn tổ chức, đã nhận
định sai về tình hình tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn, cho
rằng về cơ bản đã bị địch lũng đoạn, từ đó dẫn đến xử lý

184
oan nhiều cán bộ, đảng viên tốt. Sai lầm này đã gây ra
một số tổn thất đôì với Đảng và ảnh hưởng tới quan hệ
giữa Đảng với nhân dân.
Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa II (tháng 9/1956) đã nghiêm khắc kiểm điểm những
sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức,
công khai tự phê bình trước nhân dân, thi hành kỷ luật
đối vối một số ủy viên Bộ Chính trị và ủy viên Trung
ương Đảng. Công tác sửa sai trong năm 1956 đã được
Đảng chỉ đạo tiến hành một cách kiên quyết, khẩn trương,
thận trọng và có kế hoạch chặt chẽ nên từng bước khắc
phục được những sai lầm đã xảy ra.
Tháng 12/1957, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã đánh giá thắng lợi về khôi phục kinh
tế và đề ra nhiệm vụ soạn thảo đường lốì cách mạng trong
giai đoạn mởi. Tháng 11/1958, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 14 đề ra kê hoạch ba năm
phát triển kinh tế, văn hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa đốỉ
vối kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh (1958 - 1960).
Cũng như tư duy, nhận thức chung của các nưóc xã hội
chủ nghĩa anh em lúc đó, coi nền kinh tế của chủ nghĩa xã
hội là có hai thành phần (quốc doanh và tập thể), Hội nghị
đã xác định phải cải tạo kinh tế cá thể của nông dân, thợ
thủ công và buôn bán nhỏ, tư bản tư doanh, khuyến khích
chuyển sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất thành sở hữu tập
thể xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức toàn dân và tập
thể. Mục tiêu trước mắt là xây dựng, củng cố miền Bắc

185
thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất
nưốc nhà.
Tháng 4/1959, Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng thông qua Nghị quyết về vấn đề hợp tác
hóa nông nghiệp, xác định hình thức và bưốc đi của hợp
tác xã là: hợp tác hóa đi trước cơ giới hóa, do vậy hợp tác
hóa phải đi đôi vói thủy lợi hóa và tổ chức lại lao động, để
phát huy tính ưu việt và sức mạnh của tập thể. Hội nghị
chỉ rõ ba nguyên tắc cần được quán triệt trong suốt quá
trình xây dựng hợp tác xã là: tự nguyện, cùng có lợi và
quản lý dân chủ. về vấn đề cải tạo công thương nghiệp tư
bản tư doanh, Hội nghị chủ trương cải tạo hòa bình đốĩ vối
giai cấp tư sản. Về chính trị, vẫn coi giai cấp tư sản là
thành viên của Mặt trận Tổ quốc; về kinh tế, không tịch
thu tư liệu sản xuất của tư sản mà dùng chính sách chuộc
lại, thông qua hình thức công tư hợp doanh; sắp xếp công
việc cho người tư sản trong xí nghiệp, dần dần cải tạo họ
thành người lao động.
Kết quả của ba năm phát triển kinh tế - văn hóa và cải
tạo xã hội chủ nghĩa (1958 - 1960) đã tạo nên những
chuyển biến lớn ở miền Bắc nước ta. Miền Bắc được củng
cố, từng bưốc đi lên chủ nghĩa xã hội và trở thành hậu
phương ổn định, vững mạnh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
cách mạng Việt Nam.
ở miền Nam, từ năm 1954, đế quốc Mỹ đã nhảy vào
thay chân Pháp thống trị miền Nam Việt Nam, âm mưu
xâm lược và biến nơi đây thành thuộc địa kiểu mối,

186
xây dựng miền Nam thành một căn cứ quân sự để tiến
công miền Bắc và hệ thống xã hội chủ nghĩa; chia cắt lâu
dài và biến miền Nam thành một mắt xích trong hệ thống
căn cứ quân sự ở Đông Nam Á nhằm ngăn chặn ảnh
hưởng của chủ nghĩa xã hội xuống vùng này.
Để thực hiện những âm mưu đó, Mỹ đã sử dụng
nhiều thủ đoạn về chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự,
nhất là nhanh chóng thiết lập bộ máy chính quyền tay
sai Việt Nam Cộng hòa do Ngô Đình Diệm làm Tổng
thống1; xây dựng lực lượng quân đội (ngụy quân) gần nửa
triệu người cùng hàng vạn cảnh sát, công an, mật vụ
được trang bị vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại
của Mỹ. Bộ máy chính quyền, lực lượng quân đội, cảnh
sát đã trở thành công cụ đắc lực nhằm thi hành chính
sách thực dân mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Địch
vừa dụ dỗ, lừa bịp, vừa đàn áp, khủng bố với nhiều thủ
đoạn thâm độc, dã man, ráo riết thi hành quốc sách “tố
cộng, diệt cộng”, lập “khu trù mật”, “khu dinh điền”
nhằm mục đích bắt bớ, trả thù tất cả những người yêu

1. Trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, ngày 7/7/1954,


Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về Sài Gòn làm Thủ tướng Chính phủ
Quốc gia Việt Nam thay Bửu Lộc. Ngày 17/7/1955, theo chỉ đạo
của Mỹ, chính quyền Ngô Đình Diệm tuyên bô'không hiệp thương
tổng tuyển cử thống nhất đất nưốc và ngày 23/10/1955 đã tổ chức
cái gọi là “trưng cầu dân ý” để phế truất Bảo Đại, đưa Ngô Đình
Diệm lên làm Tổng thống Việt Nam Cộng hòa.

187
nước kháng chiến cũ, thẳng tay đàn áp phong trào đấu
tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ của các tầng lớp
nhân dân; gây ra nhiều vụ thảm sát đẫm máu ở Bến Tre,
Quảng Nam, Phú Yên. Trong vòng 10 tháng (từ tháng
7/1955 đến tháng 5/1956), địch đã bắt và giết 108.835
người. Ngày 13/5/1957, Ngô Đình Diệm thám Mỹ và
tuyên bố: “Biên giói Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17”, đó
là hành động bán nước trắng trỢn.
Xuất phát từ tương quan lực lượng giữa ta và địch, từ
tháng 7/1954, Đảng quyết định thay đổi phương thức đấu
tranh quân sự sang đấu tranh chính trị, lãnh đạo quần
chúng đấu tranh đòi đối phương phải thi hành Hiệp định,
tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam trong tình hình mới. Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 7/1954) đã chỉ rõ:
“Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế
giới, và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của
nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm
chốhg đế quốc Mỹ”1.
Ngày 22/7/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi
đồng bào và cán bộ, chiến sĩ cả nước, trong đó nhấn mạnh:
“Trung Nam Bắc đều là bờ cõi của ta, nưốc ta nhất định sẽ
thống nhất, đồng bào cả nưốc nhất định được giải phóng”2.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
t.15, tr.172.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.2.

188
Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9/1954 nêu rõ 3
nhiệm vụ cụ thể trưốc mắt của cách mạng miền Nam là:
đấu tranh đòi thi hành Hiệp định; chuyển hưống công tác
cho phù hợp điều kiện mới; tập hợp mọi lực lượng dân
tộc, dân chủ, hòa bình, thống nhất, độc lập, đấu tranh
nhằm lật đổ chính quyền bù nhìn thân Mỹ, hoàn thành
thống nhất Tổ quốc.
Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị về tình hình và
công tác của các đảng bộ miền Nam, tháng 10/1954, Xứ ủy
Nam Bộ được thành lập, do đồng chí Lê Duẩn, ủy viên Bộ
Chính trị làm Bí thư. Từ thực tiễn cuộc đấu tranh cách
mạng của nhân dân miền Nam, tháng 8/1956, đồng chí Lê
Duẩn đã dự thảo Đề cương đường lối cách mạng Việt Nam
ở miền Nam, nêu rõ chế độ thống trị của Mỹ - Diệm ở
miền Nam là một chế độ độc tài, phátxít, hiếu chiến. Để
chống đế quốc Mỹ và tay sai, “nhân dân miền Nam chỉ có
con đường cứu nước và tự cứu mình, là con đường cách
mạng. Ngoài con đường cách mạng không có một con
đường khác”1... Bản Đề cương là một trong những văn
kiện quan trọng, góp phần hình thành đường lối cách
mạng Việt Nam ở miền Nam của Đảng.
Theo chủ trương chuyển hướng của Đảng, hàng trăm
tổ chức quần chúng công khai, trong đó có các ủy ban đấu
tranh đòi hòa bình được thành lập ở miền Nam. Phong

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
t.17, tr.785.

189
trào đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử, chống bầu
cử lừa bịp, chống cướp đất, đuổi nhà, dồn dân, đòi công ăn
việc làm, chổng khủng bố, chống sa thải, chốhg bắt lính...
được phát triển mạnh ở cả nông thôn và thành thị vói
hàng triệu lượt người tham gia. Để giữ gìn lực lượng và
duy trì hoạt động trong điều kiện quân thù khủng bố” dã
man, các đảng bộ ở miền Nam đã sắp xếp lại tổ chức và
rút vào hoạt động bí mật. Nhiều địa phương đã chủ trương
“điều” và “lắng”1 cán bộ để bám dân, bám đất lãnh đạo
phong trào. Nhiều nơi quần chúng đã lấy vũ khí chôn giấu
khi có Hiệp định đình chiến, cướp súng địch, dùng vũ khí
tự tạo để tự vệ, chông lại khủng bô", tiêu diệt những tên
phản động chỉ điểm, ác ôn. Nhiều khu căn cứ được củng cố
lại, nhiều đội vũ trang được thành lập.
Từ năm 1958, địch đẩy mạnh khủng bố dã man, liên
tiếp mở các cuộc hành quân càn quét, dồn dân quy mô lớn
vào các trại tập trung. Tháng 3/1959, chính quyền Ngô
Đình Diệm tuyên bô' “đặt miền Nam trong tình trạng
chiến tranh”. Với Luật 10/59, địch dùng Tòa án quân sự
đặc biệt để đưa những người bị bắt ra xét xử và bắn giết
tại chỗ. Địch khủng bố những người yêu nưốc và cách
mạng bằng cả súng đạn và máy chém.
Chính sách khủng bố và chiến tranh đó đã làm cho
mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ và tay sai với nhân dân

1. Điều là đưa cán bộ đi hoạt động ở địa phương khác khi đã bị


lộ; “lắng” là tạm thời rút vào hoạt động bí mật để bảo toàn lực lượng.

190
miền Nam Việt Nam thêm gay gắt, dẫn đến bùng nổ các
cuộc khởi nghĩa của quần chúng. Tháng 1/1959, Hội nghị
Trung ương 15 (mở rộng) đã ra nghị quyết về tình hình
cách mạng miền Nam vối tinh thần cơ bản là tiếp tục cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sử dụng bạo lực
cách mạng với hai lực lượng chính trị và vũ trang, kết hợp
đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự, tiến tới khởi
nghĩa vũ tranh giành chính quyền về tay nhân dân... Nghị
quyết 15 đã vạch rõ phương hướng tiến lên cho cách mạng
miền Nam, tạo đà cho cuộc khởi nghĩa từng phần nổ ra
ngày càng rộng lớn.
Thực hiện Nghị quyết 15 của Đảng và sự chỉ đạo của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, miền Bắc đã mở đường chi viện
cách mạng miền Nam. Đường vận tải trên bộ mang tên
đường 559, trên biển mang tên đường 759. Đường vận tải
Hồ Chí Minh trên bộ hình thành từ ngày 19/5/1959; đường
Hồ Chí Minh trên biển từ ngày 23/10/1961, kéo dài hàng
ngàn kilômét từ Bắc vào Nam cả trên bộ và trên biển. Các
tỉnh miền Bắc đã chủ động kết nghĩa với các tỉnh miền
Nam để phối hợp đấu tranh cách mạng vì mục tiêu giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Từ giữa năm 1959, một số cuộc khởi nghĩa vũ trang và
đấu tranh vũ trang đã bùng nổ ở Tà Lốc, Tà Léc (Bình
Định), Bác Ái (Ninh Thuận), Trà Bồng (Quảng Ngãi), Gò
Quảng Cung (Đồng Tháp)... Ngày 17/1/1960, ỏ Bến Tre,
hình thức khởi nghĩa đồng loạt (đồng khởi) bùng nổ do
đồng chí Nguyễn Thị Định lãnh đạo ở huyện Mỏ Cày,

191
sau đó lan ra các huyện Minh Tân, Giồng Trôm, Châu
Thành, Ba Tri, Thạnh Phú, rồi nhanh chóng mở rộng ra
khắp các tỉnh đồng bằng sông cửu Long, Tây Nguyên và
một số nơi thuộc các tỉnh Trung Bộ. Hệ thống kìm kẹp của
địch ở xã, ấp bị tê liệt và vỡ từng mảng lổn.
Đến cuối năm 1960, phong trào Đồng khởi đã làm tan
rã cơ cấu chính quyền cơ sở địch ở nhiều vùng nông thôn,
có 1.383 xã/2.627 xã nhân dân lập chính quyền tự quản.
Vùng giải phóng ra đời trên phạm vi rộng lớn, nối liền từ
Tây Nguyên đến miền Tây Nam Bộ và đồng bằng Liên
khu V. Thắng lợi của phong trào Đồng khởi ở nông thôn đã
thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh ở đô thị và các
đồn điền, nhà máy.
Từ thắng lợi của phong trào Đồng khởi, ngày
20/12/1960, tại xã Tân Lập (Tây Ninh), Mặt trận Dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập do Luật
sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch, tập hợp rộng rãi quần
chúng nhân dân đoàn kết đấu tranh theo chương trình
hành động 10 điểm, hướng tới mục tiêu đánh đổ chế độ
thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài
Ngô Đình Diệm, xây dựng một miền Nam độc lập, dân
chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà.
Thắng lợi của phong trào Đồng khởi là bước nhảy vọt
có ý nghĩa lịch sử của cách mạng miền Nam, chuyển cách
mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến
công, từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách
mạng chống chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ.

192
b) Xây dựng chủ nghĩa xã hội ỗ miền Bắc, phát triển
thế tiến công của cách mạng miền Nam (1961 - 1965)
Tháng 9/1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III
của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội. Trong diễn văn khai
mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đại hội lần này là Đại
hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đâu tranh
hòa bình thôhg nhất nước nhà”1.
Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng; Nghị quyết về nhiệm vụ
và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, thông qua
Báo cáo vê xây dựng Đảng và Báo cáo về Kê hoạch nhà
nước 5 năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc2,...
Ve' đường lô'i chung của cách mạng Việt Nam, trên
cơ sở phân tích tình hình và đặc điểm nước ta, Đại hội
xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai
đoạn mối là phải thực hiện đồng thời hai chiến lược cách
mạng khác nhau ở hai miền: Một lả, đẩy mạnh cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miên Bắc; Hai là, tiến hành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực

1. HỒ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.673.


2. Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 47 ủy viên chính
thức, 31 ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm 11 ủy viên chính
thức, 2 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu lại
làm Chủ tịch Đảng, đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ
nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

193
hiện thông nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân
chủ trong cả nước.
Về mục tiêu chiến lược chung, Đại hội cho rằng, cách
mạng ở miền Bắc và cách mạng ở miền Nam thuộc hai
chiến lược khác nhau, có mục tiêu cụ thể riêng, song trước
mắt đều hướng vào mục tiêu chung là giải phóng miền
Nam, hòa bình, thốhg nhất đất nước.
Về vị trí, vai trò, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược
cách mạng ở mỗi miền, Đại hội nêu rõ: Cách mạng xã hội
chủ nghĩa ỏ miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và
bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng
miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về
sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đốì với sự phát triển
của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đốỉ vói sự nghiệp
thống nhất nước nhà. Còn cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đôì
vối sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thông trị của
đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình, thống
nhất nước nhà.
Về hòa bình, thống nhất Tổ quốc, Đại hội chủ trương
kiên quyết giữ vững đường lối hòa bình để thống nhất
nước nhà, vì chủ trương đó phù hợp với nguyện vọng và lợi
ích của nhân dân cả nưốc cũng như của nhân dân yêu
chuộng hòa bình thế giới. Song, ta phải luôn luôn đề cao
cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng đối phó vối mọi tình thế. Nếu
đế quốc Mỹ và bọn tay sai liều lĩnh gây ra chiến tranh
hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ

194
kiên quyết đứng lên đánh bại chúng, hoàn thành độc lập
và thống nhất Tổ quốc.
Về triển vọng của cách mạng, Đại hội nhận định, cuộc
đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nưốc nhà là nhiệm
vụ thiêng liêng của nhân dân cả nước. Đó là một quá trình
đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài
chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam.
Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta,
Nam - Bắc nhất định sum họp một nhà.
Về xây dựng chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ đặc điểm
của miền Bắc, trong đó, đặc điểm lởn nhất là từ một nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa,
Đại hội xác định rằng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt.
Đó là quá trình đấu tranh gay go giữa hai con đường, con
đường xã hội chủ nghĩa và con đưòng tư bản chủ nghĩa
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn
hóa và kỹ thuật nhằm đưa miền Bắc từ một nền kinh tế
chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và
sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lốn xã
hội chủ nghĩa.
Cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội
về kinh tế được xem là hai mặt của cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa về quan hệ sản xuất, có quan hệ mật thiết, tác
động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau. Công nghiệp hóa

195
xã hội chủ nghĩa được xem là nhiệm vụ trung tâm trong
suốt thời kỳ quá độ ở nưốc ta nhằm xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Cùng với cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa về kinh tế, phải tiến hành cuộc
cách mạng tư tưởng và văn hóa, nhằm thay đổi cơ bản đời
sống tư tưởng, tinh thần và văn hóa của toàn xã hội phù
hợp với chế độ xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Từ những luận điểm đó, Đại hội đã đề ra đường lối
chung trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc nước ta là: Đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống
yêu nưốc, lao động cần cù của nhân dân ta và đoàn kết với
các nưốc xã hội chủ nghĩa, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời
sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc
trở thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất
nước nhà.
Để thực hiện mục tiêu nói trên, phải sử dụng chính
quyển dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của
chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương
nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh;
phát triển thành phần kinh tế quốc doanh; thực hiện
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời
ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy
mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa
và kỹ thuật, biến nưóc ta thành một nưốc xã hội chủ nghĩa

196
có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa và
khoa học tiên tiến.
Tuy vẫn còn một số hạn chế trong đường lối cách
mạng xã hội chủ nghĩa như: nhận thức về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội còn giản đơn, chưa có dự kiến về chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội;
song thành công cơ bản, to lốn nhất của Đại hội lần thứ III
của Đảng là đã hoàn chỉnh đường lôỉ chiến lược chung của
cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, đó là tiến hành
đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng
khác nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam,
nhằm thực hiện mục tiêu chung trước mắt của cả nước là
giải phóng miền Nam, hòa bình, thông nhất Tô quốc.
Đó chính là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa phù hợp vối miền Bắc, vừa
phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả nưốc Việt Nam
cũng như phù hợp với tình hình quốc tế, nên đã phát huy
và kết hợp được sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến,
sức mạnh cả nưốc và sức mạnh của ba dòng thác cách
mạng trên thế giới, tranh thủ được sự đồng tình, giúp đỡ
của cả Liên Xô và Trung Quốc, do đó tạo ra được sức mạnh
tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm
lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nưóc. Đặt
trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế, đường lối chung của
Đảng còn là sự thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo
của Đảng trong việc giải quyết những vấn đề không có

197
tiền lệ lịch sử, vừa đúng vôi thực tiễn Việt Nam, vừa phù
hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế thời đại.
Trên cơ sở miền Bắc đã hoàn thành kê hoạch ba năm
cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958 - 1960), Đại hội lần thứ III
của Đảng đã đề ra và chỉ đạo thực hiện Kế hoạch nhà nước
5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) nhằm xây dựng bước
đầu cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực
hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và hoàn
thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa
miền Bắc tiến nhanh, tiên mạnh, tiến vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội. Mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của Kế hoạch nhà
nưốc 5 năm lần thứ nhất là tiếp tục hoàn thiện quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa; xây dựng một bước cơ sở vật
chất của chủ nghĩa xã hội; cải thiện đời sống nhân dân;
bảo đảm an ninh quốc phòng, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu
tranh thống nhất nước nhà. Để thực hiện các mục tiêu,
nhiệm vụ đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã mở
nhiều hội nghị chuyên đề nhằm cụ thể hóa đường lối, đưa
nghị quyết của Đảng vào cuộc sống1.
Trong quá trình thực hiện Kế hoạch nhà nưốc 5 năm
lần thứ nhất (1961 - 1965), nhiều cuộc vận động và phong

1. Như: về xây dựng Đảng (Hội nghị lần thứ tư, tháng
4/1961); về phát triển nông nghiệp (Hội nghị lần thứ năm, tháng
7/1961); về phát triển công nghiệp (Hội nghị lần thứ bảy, tháng
6/1962); về kế hoạch nhà nước (Hội nghị tháng 4/1963); về lưu
thông phân phối, giá cả (Hội nghị lần thứ tám, tháng 12/1964),...

198
trào thi đua được triển khai sôi nổi ở các ngành, các giới
và các địa phương. Trong nông nghiệp có phong trào thi
đua theo gương của Hợp tác xã Đại Phong (Quảng Bình),
trong công nghiệp có phong trào thi đua với Nhà máy cơ
khí Duyên Hải (Hải Phòng), trong tiểu thủ công nghiệp có
phong trào thi đua với Hợp tác xã thủ công nghiệp Thành
Công (Thanh Hóa), trong ngành giáo dục có phong trào
thi đua học tập Trường cấp II Bắc Lý (Hà Nam), trong
quân đội có phong trào thi đua “Ba nhất”. Đặc biệt, phong
trào “Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng
bào miền Nam ruột thịt” theo Lời kêu gọi của Chủ tịch
Hồ Chí Minh tại Hội nghị chính trị đặc biệt tháng 3/1964,
khi đế quốic Mỹ mở rộng chiến tranh ở miền Nam, đã làm
tăng thêm không khí phấn khởi, hăng hái vươn lên hoàn
thành Kế hoạch nhà nưốc 5 năm lần thứ nhất.
Kế hoạch này mới thực hiện được hơn bốn năm (đến
ngày 5/8/1964) thì được chuyển hướng do phải đối phó với
chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, song những
mục tiêu chủ yếu của kế hoạch đã cơ bản hoàn thành.
Trong những năm thực hiện Kế hoạch nhà nước 5 năm
lần thứ nhất, miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã không ngừng
tăng cường chi viện cho cách mạng miền Nam. Tuy đưòng
hành quân và vận tải theo dãy Trường Sơn còn nhiều khó
khăn do địch đánh phá và địa hình hiểm trồ, nhưng đã trở
thành tuyến đường chiến lược huyết mạch nối hậu phương
với chiến trường, liên tục có các đoàn cán bộ, chiến sĩ cùng
vũ khí đạn dược chi viện cho cách mạng miền Nam. Đường

199
vận tải trên biển mặc dù bị sự ngăn chặn của quân thù và
thòi tiết hiểm nguy, song đã có nhiều chuyến “tàu không
số” chở hàng chục tấn vũ khí từ miền Bắc vào các căn cứ
ven biển Phú Yên, Bà Rịa, Cà Mau,... cung cấp cho bộ đội,
du kích chiến đấu. Tính chung, năm 1965, sô' bộ đội từ
miền Bắc được đưa vào miền Nam tăng 9 lần, sô' vật chất
tăng 10 lần so với năm 1961. Đây là một thành công lớn,
có ý nghĩa chiến lược của hậu phương miền Bắc với nhiều
sự hy sinh anh dũng của cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân
dân Việt Nam trên Biển Đông và dãy Trường Sơn huyền
thoại, góp phần vào chiến thắng của quân dân miền Nam
đánh bại chiến tranh xâm lược thực dân mối của đê quốc
Mỹ và tay sai giai đoạn 1961 - 1965.
Trải qua 10 năm khôi phục, cải tạo và xây dựng chê' độ
mói, “miền Bắc nước ta đã tiến những bưốc dài chưa từng
thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người
đều đổi mới”1. Miền Bắc đã trở thành căn cứ địa vững chắc
cho cách mạng cả nưởc vối chế độ chính trị ưu việt, với lực
lượng kinh tê' và quốc phòng lớn mạnh.
ở miền Nam, từ năm 1961, do thất bại trong thực
hiện hình thức điển hình của chủ nghĩa thực dân mới, đê'
quốc Mỹ đã chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến
tranh đặc biệt” (Special War Strategy), một bộ phận trong
chiến lược toàn cầu “Phản ứng linh hoạt”, với vai trò của

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.275.

200
Tổng thống Mỹ J. Kennơđy (John F. Kennedy). Vối công
thức “cố vấn, vũ khí Mỹ và quân chủ lực Việt Nam Cộng
hòa”, Mỹ và ngụy quyền Ngô Đình Diệm triển khai thực
hiện kế hoạch bình định miền Nam trong vòng 18 tháng,
dự định lập 17.000 ấp chiêh lược là “quốc sách”. Chúng đã
có hai kê hoạch quân sự - chính trị để thực hiện mục tiêu
của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” là kế hoạch Stalây -
Taylo (1961 - 1963) và Giônxơn - Mắc Namara (1964 - 1965).
Chiến thuật quân sự được chúng áp dụng là “trực tháng
vận” và “thiết xa vận”. “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đã
gây cho cách mạng miền Nam rất nhiều khó khăn, nhất là
những năm 1961 - 1962. Từ ngày 10/8/1961, Mỹ bắt đầu
rải chất độc dioxin xuống miền Nam Việt Nam.
Tháng 1/1961 và tháng 2/1962, các cuộc hội nghị của
Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã phân
tích, đánh giá tình hình giữa ta và địch ở miền Nam kể từ
sau ngày Đồng khởi và ra Chỉ thị về “Phương hướng và
nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam”.
Tinh thần của Chỉ thị là giữ vững thế chiến lược tiến công
của cách mạng miền Nam đã giành được từ sau phong
trào Đồng khởi, đưa đấu tranh vũ trang phát triển lên
song song với đấu tranh chính trị, tiến công địch trên cả
ba vùng chiến lược: đô thị, nông thôn đồng bằng và nông
thôn rừng núi, bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị
và binh vận. Trên thực tế, đây là quyết định chuyển cuộc
đấu tranh của nhân dân miền Nam từ khởi nghĩa từng
phẩn sang chiến tranh cách mạng và chỉ rõ những nhiệm

201
vụ cụ thể cho cách mạng miền Nam là phải tiêu hao, tiêu
diệt lực lượng quân ngụy Sài Gòn và làm phá sản quốc
sách “ấp chiến lược” của địch.
Bộ Chính trị nhấn mạnh, do đặc điểm phát triển
không đều của cách mạng miền Nam, tương quan lực
lượng ở mỗi vùng khác nhau, địa hình hoạt động và tác
chiến khác nhau, nên phương châm đấu tranh của ta
phải linh hoạt, thích hợp với từng nơi, từng lúc cụ thể:
Vùng rừng núi: Lấy đấu tranh vũ trang là chủ yếu; vùng
nông thôn đồng bằng: Kết hợp hai hình thức đấu tranh
vũ trang và chính trị; vùng đô thị: Lấy đấu tranh chính
trị là chủ yếu.
Đe tăng cường sự chỉ đạo của Trung ương Đảng đốì vổi
cách mạng miền Nam, tháng 10/1961, Trung ương Cục
miền Nam được thành lập, do đồng chí Nguyễn Văn Linh
làm Bí thư. Đảng bộ miền Nam được kiện toàn với hệ thống
tổ chức thống nhất, tập trung từ Trung ương Cục đến các
chi bộ1. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam
còn làm chức năng của chính quyền cách mạng. Ngày
15/2/1961, các lực lượng vũ trang ở miền Nam được thống
nhất vói tên gọi Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.
Vượt qua khó khăn, cách mạng miền Nam tiếp tục có
bước phát triển mới. Chiêh thắng vang dội ở Ấp Bắc (Mỹ
Tho) ngày 2/1/1963 đã thể hiện sức mạnh và hiệu quả của

1. Đảng bộ miền Nam của Đảng có danh nghĩa công khai là


Đảng Nhân dân cách mạng miền Nam Việt Nam.

202
đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị và binh
vận, chông địch càn quét và nổi dậy giành quyền làm chủ.
Từ đầu năm 1963, sau chiến thắng Ấp Bắc, phong trào
đấu tranh phá “ấp chiến lược” phát triển mạnh mẽ, với
phương châm “bám đất, bám làng”, “một tấc không đi, một
ly không rời”. Phong trào đấu tranh quân sự và phong
trào phá “ấp chiến lược” phát triển đã thúc đẩy phong trào
đấu tranh chính trị ở các đô thị lên cao, lôi cuốh đông đảo
các tầng lớp nhân dân lao động, trí thức, học sinh, sinh
viên và các giáo phái tham gia, đặc biệt là phong trào đấu
tranh của đồng bào Phật giáo năm 1963.
Trước sự lốn mạnh của phong trào cách mạng, nội bộ
kẻ đỊch ngày càng khủng hoảng trầm trọng. Ngày 1/11/1963,
dưới sự chỉ đạo của Mỹ, lực lượng quân đảo chính đã giết
chết Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn Ngô Đình Diệm. Từ
tháng 11/1963 đến tháng 6/1965 đã diễn ra 10 cuộc đảo
chính quân sự nhằm lật đổ lẫn nhau trong nội bộ ngụy
quyền Sài Gòn.
Tháng 12/1963, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần
thứ chín, xác định những vấn đề quan trọng về đường lối
cách mạng miền Nam và đường lối đoàn kết quốc tế của
Đảng. Nghị quyết Trung ương 9 đã xác định “đấu tranh vũ
trang đóng vai trò quyết định trực tiếp” thắng lợi trên
chiến trường.
Được sự chi viện tích cực của miền Bắc, quân và dân
miền Nam đã mở nhiều chiến dịch vối hàng trăm trận
đánh lổn nhỏ trên khắp các chiến trường, như ở An Lão,

203
Đèo Nhông - Dương Liễu, Việt An, Ba Gia (Khu V và khu
vực Tây Nguyên, Trị Thiên), Bình Giã, Đồng Xoài (Nam
Bộ). Chiến thắng Bình Giã (12/1964), Ba Gia (5/1965),
Đồng Xoài (7/1965) đã sáng tạo một hình thức tiến công,
phương châm tác chiến độc đáo ở miền Nam là: 2 chân (quân
sự, chính trị), 3 mũi (quân sự, chính trị, binh vận), 3
vùng (đô thị, nông thôn đồng bằng, miền núi). Phong trào
đấu tranh chính trị ở các đô thị cũng phát triển sôi động,
mạnh mẽ từ giữa năm 1963 trở đi. Các chiến dịch quân sự
và phong trào đấu tranh chính trị dồn dập, có hiệu quả
của quân và dân miền Nam đã làm cho ba chỗ dựa chủ
yếu của Mỹ là quân đội chính quyền Sài Gòn, hệ thống “ấp
chiến lược” và các đô thị bị lung lay tận gốc.
Vối tinh thần chủ động, sáng tạo, sau hơn 4 năm (từ
đầu năm 1961 đến giữa năm 1965), lực lượng cách mạng ồ
miền Nam đã làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam. Ba trụ cột của chiến lược
này là xây dựng chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến cơ
sở mạnh, xây dựng quân đội mạnh và bình định nông thôn
miền Nam đều không thực hiện được. Chính quyền Ngô
Đình Diệm bị lật đổ (1/11/1963) đã gây nên tình hình rối
loạn kéo dài trên chính trường miền Nam thời gian sau đó.
Phong trào học sinh, sinh viên, trí thức ở đô thị, bãi
công của công nhân, lực lượng biệt động đã đóng góp xứng
đáng cho kháng chiến.
Tháng 9/1964, Bộ Chính trị họp và chủ trương giành
thắng lợi quyết định ở miền Nam trong một vài nám tới,

204
tăng cường sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam. Đại
tướng Nguyễn Chí Thanh, ủy viên Bộ Chính trị được cử
vào miền Nam trực tiếp phụ trách, chỉ đạo cuộc kháng
chiến vối cương vị Bí thư Trung ương Cục, Chính ủy Quân
giải phóng miền Nam Việt Nam.
Đến đầu năm 1965, các công cụ, chỗ dựa của chiến
lược “Chiến tranh đặc biệt” là ngụy quân, ngụy quyền, ấp
chiến lược, đô thị đều bị lung lay tận gốc. Chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ được triển khai đến
mức cao nhất đã hoàn toàn bị phá sản. Đánh bại chiến
lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ là một thắng
lợi to lớn, có ý nghĩa chiến lược của quân và dân ta ở miền
Nam. Thắng lợi này tạo cơ sở vững chắc để đưa cách mạng
miền Nam tiếp tục tiến lên.

2. Lãnh đạo cách mạng cả nước (1965 - 1975)


a) Đường lốì kháng chiến chông Mỹ, cứu nước của Đảng
Trưóc nguy cơ thất bại hoàn toàn của chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt”, để cứu vãn cơ đồ chủ nghĩa thực
dân mới, ngăn chặn sự sụp đổ của chính quyền và quân
đội Sài Gòn, chính quyền của Tổng thống Mỹ L. Giônxơn
quyết định tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ”
(Local War Strategy) ở miền Nam. “Chiến tranh cục bộ” là
một hình thức chiến tranh trong chiến lược toàn cầu
“Phản ứng linh hoạt” của đế quốc Mỹ, mục đích là đưa
quân chiến đấu Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ

205
vào trực tiếp tham chiến, đóng vai trò chủ yếu trên chiến
trường miền Nam; quân đội Sài Gòn đóng vai trò hỗ trợ
quân Mỹ và thực hiện bình định. Ngày 8/3/1965, quân Mỹ
đổ bộ vào Đà Nẵng trực tiếp tham chiến ồ miền Nam Việt
Nam. Đồng thòi, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại
bằng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc Việt
Nam nhằm làm suy yếu miền Bắc và ngăn chặn sự chi
viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam.
Chiến tranh lan rộng ra cả nước đã đặt vận mệnh của
dân tộc ta trước những thách thức nghiêm trọng. Trước
tình hình đó, Hội nghị lần thứ 11 (3/1965) và Hội nghị lần
thứ 12 (12/1965) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên
phạm vi toàn quốc và hạ quyết tâm chiến lược: “Động viên
lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến
tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cú tình huống
nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước,
tiến tới thực hiện hoà bình thông nhất nước nhà”1.
Nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nưốc
trong giai đoạn mối là sự kế thừa và phát triển sáng tạo
đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam đã
được Đảng đề ra tại Đại hội lần thứ III (1960), gồm các nội
dung lởn là:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
t.26, tr.634.

206
Quyết tâm chiến lược: Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào
miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, nhưng so
sánh lực lượng giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn,
cuộc chiến tranh trở nên gay go, ác liệt, nhưng nhân
dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững thế chủ động
trên chiến trường; cuộc “Chiến tranh cục bộ” mà Mỹ
đang tiến hành ở miền Nam vẫn là một cuộc chiến tranh
xâm lược thực dân mối. Cuộc chiến tranh đó được đề ra
trong thế thua, thế thất bại và bị động, cho nên nó chứa
đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược; Mỹ không thể nào
cứu vãn được tình thế nguy khốn, bế tắc của chúng ỏ
miền Nam. Từ sự phân tích và nhận định trên, Trung
ương khẳng định chúng ta có đủ điều kiện và sức mạnh
để đánh Mỹ và thắng Mỹ. Vối tinh thần “Quyết tâm
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, Đảng quyết định phát
động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nưốc trong toàn
quốc, coi chống Mỹ, cứu nưốc là nhiệm vụ thiêng liêng
của cả dân tộc từ Nam chí Bắc.
Mục tiêu chiến lược: Kiên quyết đánh bại cuộc chiến
tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống
nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước,
tiến tới thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà.
Phương châm chiến lược: Đánh lâu dài, dựa vào sức
mình là chính, càng đánh càng mạnh; cần phải cố gắng
đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở
những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thòi cơ giành thắng

207
lợi quyết định trong thời gian tương đốì ngắn trên chiên
trường miền Nam.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Nam: Giữ vững và phát
triển thế tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến
công. Tiếp tục kiên trì phương châm kết hợp đấu tranh
quân sự vởi đấu tranh chính trị, triệt để thực hiện ba min
giáp công, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược. Trong
giai đoạn này, đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định
trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan trọng.
Tư tưởng chỉ đạo đối vói miền Bắc: Chuyển hướng xây
dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững
mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến
tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền
Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức người, sức của ở mức
cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền
Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đề phòng để đánh bại
địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng “Chiến
tranh cục bộ” ra cả nước.
Về môỉ quan hệ và nhiệm vụ cách mạng của hai miền:
Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân cả nước,
miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lốn.
Phải nắm vững mốì quan hệ giữa nhiệm vụ bảo vệ miền
Bắc và giải phóng miền Nam. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm
vụ của cả nưổc, vì miền Bắc xã hội chủ nghĩa là thành quả
chung rất to lốn của nhân dân cả nước ta, là hậu phương
vững chắc trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Phải đánh

208
bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc
và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt, nhất
là về kinh tế và quốc phòng, nhằm đảm bảo chi viện đắc
lực cho miền Nam, đồng thời, vừa tiếp tục xây dựng chủ
nghĩa xã hội nhằm phát huy vai trò đắc lực của hậu
phương lổn đôì với tiền tuyến lớn. Hai nhiệm vụ trên đây
không tách ròi nhau mà gắn bó mật thiết với nhau. Đế
quốc Mỹ xâm lược Việt Nam, thì bất kỳ chúng đặt chân ở
(lâu trên đất nước Việt Nam, mọi người Việt Nam đều có
nghĩa vụ tiêu diệt chúng. Khẩu hiệu chung của nhân dân cả
nưóc lúc này là “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Nghị quyết Trung ương lần thứ 11 và lần thứ 12 năm
1965 với nội dung như trên thể hiện tư tưởng nắm vững,
giương cao hai ngọn cò độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, tiếp tục tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng
của Đảng và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải
phóng miền Nam, thôhg nhất Tổ quốc của dân tộc ta. Đó
là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện,
lâu dài, dựa vào sức mình là chính trong hoàn cảnh mới,
cơ sở để Đảng lãnh đạo đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước đi tới thắng lợi vẻ vang.

b) Xây dựng hậu phương, chông chiến tranh phá hoại


của đế quốc Mỹ ở miền Bắc; giữ vững thế chiến lược tiến
công, đánh bại chiến lược “Chiêh tranh cục bộ” của đế quốc
Mỹ (1965 - 1968)
Ở miền Bắc: Từ ngày 5/8/1964, Mỹ dựng lên “sự kiện

209
Vịnh Bắc Bộ” nhằm lấy cớ dùng không quân và hải quân
đánh phá miền Bắc Việt Nam. Cuộc chiến tranh phá hoại
của đế quốc Mỹ với ý đồ của Tổng thống Mỹ Giônxơn đưa
miền Bắc trồ về thòi kỳ đồ đá; phá hoại công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; ngăn chặn sự chi viện
của miền Bắc đôi với miền Nam; đè bẹp ý chí quyết tâm
chống Mỹ, cứu nước của cả dân tộc Việt Nam, buộc chúng
ta phải kết thúc chiến tranh theo điều kiện do Mỹ đặt ra.
Đê quốc Mỹ đã huy động lực lượng lớn không quân và hải
quân, trút hàng triệu tấn bom đạn, tàn phá, hủy hoại
nhiều thành phô', thị xã, thị trấn, xóm làng, nhiều công
trình công nghiệp, giao thông, thủy lợi, nhiều bệnh viện,
trường học, nhà ở, giết hại nhiều dân thường, gây nên
những tội ác tày trời với nhân dân ta.
Trước tình hình đó, theo tinh thần của Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 11 và lần thứ 12, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã kịp thòi xác định chủ trương,
nhiệm vụ cụ thể của miền Bắc cho phù hợp với yêu cầu,
nhiệm vụ mởi trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh:
Một là, kịp thời chuyển hướng xây dựng kinh tế cho phù
hợp với tình hình có chiến tranh phá hoại; Hai là, tăng
cường lực lượng quốc phòng cho kịp vối sự phát triển
tình hình cả nưốc có chiến tranh; Ba là, ra sức chi viện
cho miền Nam với mức cao nhất để đánh bại địch ở
chiến trường chính miền Nam; Bốn là, phải kịp thời
chuyển hưống tư tưởng và tổ chức cho phù hợp với tình
hình mối.

210
Chủ trương chuyển hưống và những nhiệm vụ của
miền Bắc phản ánh quyết tâm của Đảng và nhân dân ta
trong việc kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa, tiếp tục
tăng cường sức mạnh của miền Bắc, làm chỗ dựa vững
chắc cho sự nghiệp chống Mỹ xâm lược, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Quyết tâm đó đã được thể
hiện trong Lồi kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày
17/7/1966: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20
năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số
thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân
Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập,
tự do”1.
Thực hiện những nghị quyết của Đảng và theo Lời kêu
gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân miền Bắc đã
dấy lên cao trào chống Mỹ, cứu nước, vừa sản xuất, vừa
chiến đấu, vối niềm tin tưởng và quyết tâm cao độ. Thanh
niên có phong trào “Ba sẵn sàng”, phụ nữ có phong trào
“Ba đảm đang”, nông dân có phong trào “Tay cày, tay
súng”, công nhân có phong trào “Tay búa, tay súng”, trong
chiến đấu có “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”, trong chi
viện tiền tuyến có “Thóc không thiếu một cân, quân không
thiếu một người”, trong bảo đảm giao thông vận tải có “Xe
chưa qua, nhà không tiếc”,... Đó thực sự là một cuộc chiến
tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại hào hùng,

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.131.

211
sáng tạo với tinh thần “Quyết tâm đánh thắng giặc My
xâm lược”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”.
Do bị thất bại nặng nề ở cả hai miền Nam - Bắc, tháng
3/1968, đế quốc Mỹ tuyên bố hạn chê ném bom miền Bắc,
ngày 1/11/1968, Mỹ buộc phải chấm dứt không điều kiện
đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân.
Sau bốn năm thực hiện chuyển hướng xây dựng và
phát triển kinh tế, hậu phương lổn miền Bắc đã đạt
được những thành tích đáng tự hào trên các mặt chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, chi viện tiền tuyến lớn
miền Nam.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn tiếp tục,
miền Bắc ngày càng thêm vững mạnh. Chế độ xã hội chủ
nghĩa đang được xây dựng ở miền Bắc đã vượt qua được
nhiều thử thách nghiêm trọng và ngày càng phát huy tính
ưu việt trong chiến tranh. Chuyển hướng kinh tế, tiếp tục
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh có chiến tranh
là nét đặc biệt chưa có tiền lệ. Sản xuất nông nghiệp
không những không giảm sút mà còn có bước phát triển
tiến bộ. Cơ sở vật chất - kỹ thuật trong nông nghiệp được
tăng cường so vối trước chiến tranh; có 4.655 hợp tác xã
được trang bị cơ khí nhỏ. Phong trào thâm canh tăng vụ
được đẩy mạnh ở nhiều địa phương. Nhu cầu thiết yếu về
lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội vẫn bảo đảm. sản
xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp vẫn được duy trì
mặc dù gặp nhiều khó khăn gay gắt. Nhiều nhà máy và

212
xí nghiệp lớn phải sơ tán hoặc phân nhỏ để tiếp tục sản
xuất trong điều kiện có chiến tranh, Công nghiệp địa
phương phát triển mạnh.
Đời sống nhân dân căn bản được ổn định. Sự nghiệp
văn hóa, giáo dục, y tế chẳng những không ngừng trệ mà
còn phát triển mạnh mẽ trong thời chiến và đạt nhiều kết
quả tôt. Công tác nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản,
thăm dò tài nguyên được đẩy mạnh, vừa phục vụ sự
nghiệp xây dựng kinh tế trước mắt, vừa chuấn bị cho
nhiệm vụ lâu dài xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong chiến đấu, quân dân miền Bắc đã bắn rơi hơn
3.200 máy bay, bắn cháy 140 tàu chiến của địch. Nhiệm
vụ chi viện tiền tuyến được hoàn thành xuất sắc, góp phần
cùng quân dân miền Nam đánh bại chiêh lược “Chiến
tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Chỉ tính riêng trong năm
1967, đã có hơn 94.000 cán bộ, chiến sĩ (tăng 1,5 lần so với
năm 1966) được tổ chức biên chế thành từng trung đoàn,
sư đoàn bộ binh và binh chủng kỹ thuật bổ sung cho các
chiến trường Trị Thiên, Khu V, Tây Nguyên, Nam Bộ,
nâng tổng số' quân giải phóng miền Nam lên 220.000 quân
chủ lực và 57.000 quân địa phương, không kể lực lượng
dân quân, du kích, tự vệ. Năm 1968, hơn 14 vạn cán bộ,
chiến sĩ từ miền Bắc hành quân vào Nam nhanh chóng
tham gia cuộc Tổng tiên công và nổi dậy năm 1968.
ơ miền Nam: Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” mà Mỹ
tiên hành là cuộc chiến tranh có quy mô lớn nhất, mạnh nhất,

213
kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai với sự tham gia của
quân đội Mỹ và nhiều nước đồng minh của Mỹ.
Vào đầu mùa khô 1965 - 1966, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ
đã huy động 70 vạn quân, trong đó có gần 20 vạn quân Mỹ,
mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất vào ba hưống
chính: Tây Nguyên, đồng bằng Khu V và miền Đông Nam
Bộ, bao gồm cả vùng ngoại thành Sài Gòn. Mục tiêu của
cuộc phản công này là “tìm diệt” quân giải phóng, giành lại
quyền chủ động chiến trường, “bình định” các vùng nông
thôn đồng bằng quan trọng ở những địa bàn nói trên.
Theo đường lối kháng chiến của Đảng và được hậu
phương miền Bắc ra sức chi viện, quân dân miền Nam đã
anh dũng chiến đấu chống lại chiến lược “Chiến tranh cục
bộ” của Mỹ và tay sai. Quân và dân miền Nam đã đánh
thắng quân chiến đấu Mỹ ở Núi Thành (5/1965), Vạn
Tường (8/1965), Plâyme (11/1965)..., bẻ gẫy cuộc phản
công chiến lược mùa khô 1965 - 1966, làm thất bại kế
hoạch “tìm diệt” và “bình định” nhằm giành quyền chủ
động trên chiến trường của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn.
Miền Bắc bước đầu đánh thắng chiến tranh phá hoại, đảm
bảo giao thông thông suốt, chi viện cho chiến trường ngày
càng nhiều và hiệu quả.
Sau chiến thắng Vạn Tường, một cao trào đánh Mỹ,
diệt ngụy được dấy lên mạnh mẽ khắp chiến trường miền
Nam. Thế trận chiến tranh nhân dân được xây dựng và
phát triển trên ba vùng chiến lược; quân và dân miền Nam

214
đã giữ vững quyền chủ động trên khắp chiến trường, vừa
phản công tiêu diệt địch trong các cuộc hành quân của Mỹ,
vừa chủ động tiến công, thọc sâu vào các vùng quân địch
kiểm soát, các căn cứ đóng quân, các kho hậu cần và ngay
ở cả sào huyệt chính của chúng tại Sài Gòn. Cùng vối
thắng lợi về quân sự, quân và dân ta còn giành được nhiều
thắng lợi trên mặt trận chống phá “bình định” của Mỹ -
ngụy. Toàn bộ kế hoạch lập 900 “ấp chiến lược” mới và
củng cố’ hàng chục ngàn “ấp chiến lược” cũ của địch trong
năm 1966 bị thất bại.
Đến mùa khô 1966 - 1967, với lực lượng hùng hậu,
gồm 39 vạn quân Mỹ, hơn 5 vạn chư hầu và 54 vạn quân
ngụy cùng với 4.000 máy bay, 2.500 xe tăng và xe bọc
thép, Mỹ đã mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai
nhằm vào hưống từ Tây Nguyên đến Sài Gòn. Thế nhưng,
tất cả các cuộc hành quân quy mô lổn của địch đều bị bẻ
gãy và bị tổn thất nặng nề.
Trên mặt trận chống phá “bình định”, quân và dân các
vùng nông thôn kiên trì phương châm “bốn bám”1 và đẩy
mạnh “ba mũi giáp công” đã chặn đánh quyết liệt các cuộc
hành quân càn quét và bình định của Mỹ - ngụy. Kê
hoạch lấn chiếm lại 50% nông thôn trong năm 1967 của
chúng không thực hiện được, trái lại 80% đất đai miền
I

1. “Bốn bám”: Cấp trên bám cấp dưới; Đảng bám dân; dân bám
đất; bộ đội, du kích bám địch, đánh địch.

215
Il
Nam nằm dưới quyền kiểm soát của Mặt trận Dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam.
Phong trào đấu tranh chính trị vẫn tiếp tục phát triển
với mức độ ngày càng quyết liệt ở hầu khắp các thành thị
miền Nam, nhất là ở Huê và Đà Nẵng, với các khẩu hiệu
đòi lật đổ chính phủ bù nhìn tay sai Mỹ, đòi Mỹ rút khỏi
Việt Nam.
Đến cuôi năm 1967, cuộc Chiến tranh cục bộ của Mỹ
đã được đẩy đến đỉnh cao, số quân viễn chinh đổ vào miền
Nam đã lên 48 vạn, mọi thủ đoạn và biện pháp chiến
tranh đã được sử dụng, thế nhưng, đế quốc Mỹ vẫn không
sao thực hiện được các mục tiêu chính trị và quân sự đã đê'
ra. Mặt khác, thất bại ở Việt Nam làm cho tình hình nước
Mỹ ngày càng bất ổn, phong trào phản đối chiến tranh, đòi
rút quân Mỹ về nước ngày càng lan rộng trong các tầng
lóp nhân dân. Kết hợp vổi những thắng lợi về quân sự và
chính trị, ngày 28/1/1967, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa III đã quyết định mở mặt
trận ngoại giao nhằm tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, bè
bạn, mở ra cục diện vừa đánh, vừa đàm, phát huy sức
mạnh tổng hợp để đánh Mỹ.
Những thất bại và khó khăn của địch cùng với những
thắng lợi to lớn của ta vừa giành được đã mở ra cho cuộc
chiến tranh cách mạng miền Nam những triển vọng to
lớn. Tháng 7/1967, đồng chí Phạm Hùng, ủy viên Bộ Chính
trị được cử giữ chức Bí thư Trung ương cục miền Nam.

216
Đồng chí Trần Văn Trà làm Tư lệnh Quân giải phóng
miền Nam; đồng chí Nguyễn Thị Định làm Phó Tư lệnh.
Tháng 1/1968, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 14 đã
chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang thời
kỳ mối, tiến lên giành thắng lợi quyết định bằng phương
pháp tổng công kích - tổng khởi nghĩa vào tất cả các đô
thị, dinh lũy của Mỹ - ngụy trên toàn miền Nam.
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng, Quân giải
phóng mở chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh (từ ngày 24/1
đến ngày 15/7/1968) như là cuộc nghi binh chiến lược.
Đêm 30 rạng ngày 31/1/1968, đúng vào dịp giao thừa Tết
Mậu Thân, thừa lúc địch sơ hở, cuộc tổng tiến công và nổi
dậy đợt I đã được phát động trên toàn miền Nam. Quân và
dân ta đồng loạt tiến công địch ở 4/6 thành phố, 37/42 thị
xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ, chi khu quân sự, kho
tàng, hầu hết các cơ quan đầu não địch ở trung ương và
địa phương, căn cứ quân sự của Mỹ, từ Đường 9 - Khe
Sanh đến đồng bằng sông cửu Long, đặc biệt mạnh mẽ là
ở Sài Gòn - Gia Định, Huế. Trong cuộc tiến công và nổi
dậy xuân Mậu Thân, lực lượng biệt động, nhất là biệt
động Sài Gòn, có vai trò rất quan trọng. Cùng với cuộc tiến
công của chủ lực Quân giải phóng có lực lượng địa phương,
dân quân du kích và sự phốĩ hợp nổi dậy của quần chúng
nhân dân ở các đô thị. Ớ Sài Gòn có sự đóng góp của lực
lượng thanh niên xung phong dân quân hỏa tuyến ở xã
Vĩnh Lộc, huyện Bình Chánh. Trên tuyến đường vận

217
chuyển vào Nam có sự hy sinh anh dũng của lực lượng
thanh niên xung phong ở ngã ba Đồng Lộc ngày 24/7/1968,
ở Truông Bồn ngày 31/10/1968, V.V..
Trong các đợt tiến công tiếp theo vào tháng 5 và tháng
8/1968, quân và dân ta đã tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến
đấu hàng chục vạn tên địch, phá hủy nhiều phương tiện
chiến tranh, giải phóng thêm hàng triệu đồng bào. Hàng
triệu quần chúng đã nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền
làm chủ ở những mức độ khác nhau. Hầu hết các cơ quan
đầu não của địch từ trung ương đến địa phương đều bị
quân ta tiến công. Trong cuộc đấu tranh đã xuất hiện một
hình thức mặt trận mới đó là Liên minh các lực lượng dân
tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam do luật sư Trịnh Đình
Thảo đứng đầu.
Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một
chủ trương táo bạo và sáng tạo của Đảng, đánh thẳng vào
ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ; là một đòn tiến
công chiến lược đánh vào tận hang ổ kẻ thù. Đây là trận
chiến lược có tính chất bưốc ngoặt, khỏi đầu quá trình đi
đến thất bại hoàn toàn của Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn.
Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đê quốc Mỹ phá sản,
Mỹ buộc phải chấp nhận đàm phán với Việt Nam tại Hội
nghị Pari (Pháp) từ ngày 13/5/1968. Phái đoàn đàm phán
của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Bộ trưởng
Xuân Thủy làm Trưởng đoàn và đồng chí Lê Đức Thọ, ủy
viên Bộ Chính trị làm cố vấn. Tháng 1/1969, Mỹ phải

218
chấp nhận cuộc đàm phán với Chính phủ nưởc Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa tại Pari, có sự tham gia của đoàn đại
biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam được thành lập ngày 6/6/1969 do kiến trúc sư Huỳnh
Tấn Phát làm Chủ tịch và cử đoàn đại biểu tham gia đàm
phán ở Pari do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Thị Bình
làm Trưởng đoàn.
Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt
động quân sự năm 1968 đã có biểu hiện chủ quan trong
việc đánh giá tình hình, đề ra yêu cầu chưa sát vối thực tế.
Đặc biệt là sau đợt tấn công trong Tết Mậu Thân, ta đã
không kiểm điểm, rút kinh nghiệm kịp thời, không đánh
giá đúng tương quan lực lượng giữa ta và địch cũng như
âm mưu đối phó của chúng, chủ trương tiếp tục mở các đợt
tiến công vào đô thị khi không còn điều kiện và yếu tô' bất
ngò “là sai lầm về chỉ đạo chiến lược”1. Địch đã phản kích
quyết liệt, đẩy chủ lực ta ra xa các thành thị, các vùng
ven, vùng đồng bằng, tiến hành bình định trên quy mô
lốn, đồng thời triển khai hàng loạt biện pháp nhằm triệt
phá cơ sỏ cách mạng miền Nam. Cách mạng miền Nam
lâm vào thời kỳ khó khăn nghiêm trọng do bị tổn thất lổn
về lực lượng và thế trận.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Vắn kiện Đẳng toàn tập, Sđd,
t.47, tr.312.

219
c) Khôi phục kinh tế, bảo vệ miền Bắc, đẩy mạnh
cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, thông nhất Tổ quốc
(1969 - 1975)
Tranh thủ những thuận lợi mới do Mỹ chấm dứt
chiến tranh phá hoại miền Bắc, từ tháng 11/1968, Đảng
đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc thực hiện các kế hoạch
ngắn hạn nhằm khắc phục hậu quả chiến tranh, tiếp tục
công cuộc xây dựng miền Bắc và tăng cường lực lượng cho
miền Nam.
Ngày 2/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, đó là
tổn thất rất lớn đối với cách mạng Việt Nam. Ngày
23/9/1969, Quốc hội khóa III tại kỳ họp đặc biệt đã bầu
đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, đồng chí Nguyễn Lương Bằng làm Phó Chủ
tịch nước.
Nhân dân miền Bắc đã khẩn trương bắt tay khôi phục
kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và đẩy mạnh sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chấp hành các nghị
quyết của Đảng, sau ba năm phấn đấu gian khổ, từ năm
1969 đến năm 1972, tình hình khôi phục kinh tế và tiếp
tục xây dựng chủ nghĩa xã hội có nhiều chuyển biến tốt
đẹp trên nhiều mặt. Trong nông nghiệp, năm 1969, diện
tích các loại cây trồng đều vượt năm 1968, riêng diện tích
và sản lượng lúa tăng khá nhanh, lúa xuân tăng hai lần so
vối năm 1968, chăn nuôi cũng phát triển mạnh. Trong
công nghiệp, hầu hết các xí nghiệp bị địch đánh phá được

220
khôi phục, sửa chữa. Hệ thông giao thông, cầu phà, bến
bãi được khẩn trương khôi phục và xây dựng thêm. Trong
lĩnh vực giáo dục, y tế có bước phát triển tôt so với trước,
nhất là hệ thống giáo dục đại học, tăng lên 36 trường và
phân hiệu với hơn 8 vạn sinh viên.
Những kết quả đạt được đã làm cho tiềm lực mọi mặt
của hậu phương lớn miền Bắc được tăng cường, cải thiện
đời sống nhân dân, hồi sinh một bước cuộc sống bình
thường, cho phép miền Bắc chi viện sức người, sức của cho
tiền tuyến ngày càng cao, góp phần quyết định tạo nên
chiến thắng to lớn trên chiến trường miền Nam, nhát là
trong cuộc tập kích chiến lược xuân - hè 1972, với các
chiến thắng vang dội ỏ Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông
Nam Bộ. Đặc biệt là cuộc chiến đấu oanh liệt của Quân
giải phóng ở Thành cổ Quảng Trị trong suốt 81 ngày đêm,
từ ngày 28/6 đến ngày 16/9/1972.
Từ tháng 4/1972, để ngăn chặn cuộc tiến công chiến
lược của quân dân ta ở miền Nam, đê quốc Mỹ đã cho máy
bay, tàu chiến tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền
Bắc lần thứ hai hết sức ác liệt, nhất là cuộc rải thảm bom
bằng pháo đài bay B.52 trong 12 ngày đêm ở Hà Nội, Hải
Phòng và một số địa phương khác (Mỹ gọi là cuộc hành
quân Lainerbacker II). Trước hành động chiến tranh điên
cuồng của địch, Trung ương Đảng đã phát động cuộc chiến
tranh nhân dân chông chiến tranh phá hoại đên đỉnh cao,
kiên quyết bảo vệ miền Bắc, tiếp tục chi viện miền Nam,

221
giữ vững lập trường đàm phán. Trong 9 tháng chông chit'll
tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ, quân díìn
miền Bắc đã bình tĩnh, sáng tạo, vừa sản xuất vừa chiến
đấu, nhất là trong 12 ngày đêm cuối năm 1972, lập nôn
trận “Điện Biên Phủ trên không”, đánh bại hoàn toàn cuộc
chiến tranh phá hoại của Mỹ. Riêng trong 12 ngày đêm (từ
ngày 18 đến ngày 30/12/1972) đánh trả cuộc tập kích
chiến lược bằng máy bay B.52 của Mỹ vào Hà Nội và Hai
Phòng, quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 84 máy bay,
trong đó có 34 máy bay B.52 và 5 máy bay F.111A (cánh
cụp, cánh xòe), bắt 43 giặc lái. Ngày 15/1/1973, Chính phó
Mỹ phải tuyên bố ngừng mọi hoạt động phá hoại miền Bắc
và trở lại bàn đàm phán ở Pari.
Ngày 21/1/1973, Hiệp định Pari được ký kết, miền
Bắc lập lại hòa bình, Trung ương Đảng đã đề ra kế
hoạch hai năm khôi phục và phát triển kinh tế 1974 -
1975. Vói khí thế chiến thắng, nhân dân miền Bắc đã
lao động hăng hái, khẩn trương, thực hiện có hiệu quả
kê hoạch hai năm khôi phục và phát triển kinh tế. Đến
năm 1975, hầu hết các cơ sở kinh tế đã trở lại hoạt động
bình thường. Năng lực sản xuất nhiều ngành kinh tế
như công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản, giao
thông vận tải được tăng cường thêm một bưốc. Nhìn
chung, sản xuất nông nghiệp và công nghiệp trên một số
mặt quan trọng đã đạt và vượt mức năm 1965. Đời sống
nhân dân được ổn định và cải thiện. Sự nghiệp giáo dục,

222
vrm hóa, y tế tiếp tục phát triển. Hàng chục vạn thanh
liii’11 đã nô nức tòng quân, lên đường ra mặt trận. Hàng
VII11 thanh niên xung phong, cán bộ và nhân viên
• huyên môn kỹ thuật cũng hăng hái vào Nam làm
nhiệm vụ chông Mỹ.
Với tiềm lực kinh tế và quốc phòng đã xây dựng được,
fling với việc tiếp thu và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ
(■lìa quốc tế, miền Bắc chẳng những đứng vững trong chiến
I ranh, mà còn đánh thắng oanh liệt hai cuộc chiến tranh
phá hoại bằng kỹ thuật và phương tiện hiện đại nhất của
dế quốc Mỹ. Qua hai lần chống chiến tranh phá hoại, quân
(lân miền Bắc đã bắn rơi 4.181 máy bay, trong đó có nhiều
B.52, bắn cháy 271 tàu chiến của Mỹ, bắt và tiêu diệt
hàng ngàn giặc lái Mỹ.
Miền Bắc còn hoàn thành nhiệm vụ hậu phương lốn
đối với tiền tuyến lớn miền Nam và hoàn thành nghĩa
vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Campuchia. Tính
tổng thể, hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã bảo
đảm 80% bộ đội chủ lực, 70% vũ khí và lương thực, 65%
thực phẩm cho chiến trường miền Nam, nhất là ở giai
đoạn cuối.
Ở miền Nam, sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh
cục bộ”, từ đầu năm 1969, Tổng thống Mỹ R. Níchxơn đã
đề ra chiến lược toàn cầu mối mang tên “Học thuyết
Níchxơn” vối ba nguyên tắc trụ cột là: “cùng chia sẻ”, “sức
mạnh của Mỹ” và “sẵn sàng thương lượng”. R. Níchxơn

223
chủ trương thay chiến lược “Chiến tranh cục bộ” bằng
chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (The Strategy
Vietnamsation of the War), một chính sách rất thâm độc
nhằm “dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam” đế
tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mối của Mỹ
ở miền Nam.
Quá trình triển khai chiến lược mới, Mỹ đã áp dụng
một loạt biện pháp như: ra sức củng cố ngụy quyền, xây
dựng ngụy quân đông và hiện đại; ráo riết thực hiện
chương trình bình định; tiến hành chiến tranh phá hoại
miền Bắc nhằm chặn đứng sự chi viện cho miền Nam; tìm
mọi cách thỏa hiệp với Trung Quốc, hòa hoãn với Liên Xô
hòng cắt giảm nguồn viện trợ chủ yếu của Việt Nam.
Trong hai năm 1969 - 1970, sự phản kích ác liệt của Mỹ -
ngụy trong các chiến dịch bình định cấp tốc, xây dựng lại
cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa thực dân mới ở nông thôn đã
gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất.
Trước âm mưu, thủ đoạn chiến tranh xảo quyệt của
địch, Đảng ta đã đề ra quyết tâm và chủ trương chiến lược
hai bưốc, thể hiện trong Thư chúc mừng năm mới
(1/1/1969) của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì độc lập, vì tự do,
đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”1.
Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(1/1970) và Hội nghị Bộ Chính trị (6/1970) đã đề ra

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.532.

224
chủ trương mối nhằm chống lại chiến lược “Việt Nam hóa
chiến tranh”, lấy nông thôn làm hướng tiến công chính,
tập trung ngán chặn và đẩy lùi chương trình “bình định”
của địch. Về mặt tác chiến, trong khi đẩy mạnh tác chiến
chính quy của bộ đội chủ lực, phải kiên quyết thực hiện
cho kỳ được một chuyển biến mạnh mẽ trong phong trào
chiến tranh nhân dân địa phương, phát triển mạnh mẽ ba
thứ quân, tăng cường lực lượng vũ trang tại chỗ.
Trong những năm 1970 - 1971, cách mạng miền Nam
từng bước vượt qua khó khăn gian khổ, kiên trì xây dựng
và phát triển lực lượng, tiến công địch trên cả ba vùng
chiến lược, gây tổn thất to lớn cho dịch trong chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh” và Đông Dương hóa chiến tranh.
Tại chiến trường Lào, đầu năm 1970, Mỹ và quân
ngụy Lào (Vàng Pao) mở cuộc hành quân lấn chiếm khu
vực chiến lược Cánh đồng Chum (Xiêng Khoảng). Thực
hiện chủ trương của lãnh đạo Đảng hai nước, liên quân
Lào - Việt Nam đã phối hợp mở chiến dịch phản công quy
mô lốn, đánh bại cuộc hành quân của địch, bảo vệ căn cứ
địa chủ yếu của Lào, phá thế uy hiếp sườn phía tây miền
Bắc nước ta và tuyến vận tải tây Trường Sơn.
Tháng 3/1970, Mỹ tiến hành cuộc đảo chính ở
Campuchia, lật đổ Chính phủ Vương quốc trung lập do
Hoàng thân Nôrôđôm Xihanúc đứng đầu, dựng lên chính
quyền tay sai Lon Non. Đây là một nấc thang chiến tranh
nguy hiểm của Mỹ nhằm biến Campuchia thành thuộc địa

225
kiểu mới, xóa bỏ căn cứ và bàn đạp chiến lược của ta, en
đứt tuyến đường tiếp tế từ miền Bắc vào miền Nam qim
đất Campuchia. Cuộc hành quân xâm lược của Mỹ - ngụv
đã thúc đẩy phong trào cách mạng của nhân dân
Campuchia. Trong thời gian ngắn, các lực lượng vũ trang
của ta đã phốĩ hợp vối quân và dân nưốc bạn kịp thòi phản
công địch, đánh bại cuộc hành quân của chúng, giải phóng
được vùng Đông Bắc Campuchia và kiểm soát được nhiền
vùng nông thôn rộng lớn khác, buộc đế quốc Mỹ phải
tuyên ho' rút quân ra khỏi Campuchia (6/1970).
Năm 1971, quân và dân Việt Nam phối hợp vối quân
và dân Lào chủ động đánh bại cuộc hành quân quy mô lớn
“Lam Sơn 719” của Mỹ - ngụy đánh vào Đường 9 - Nam
Lào nhằm cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh, cắt đứt con
đường tiếp tế quan trọng của miền Bắc đối với miền Nam
và phong trào kháng chiến Campuchia. Cũng vào thời
gian này, quân và dân ta cùng vối quân dân Campuchia
đập tan cuộc hành quân “Toàn thắng 1/1971” của Mỹ -
ngụy đánh vào các hậu cứ kháng chiến tại Đông Bắc
Campuchia.
Những thắng lợi quân sự nói trên cùng với những
thắng lợi của nhân dân miền Nam trong việc đánh phá kế
hoạch “bình định” của địch đã mở ra khả năng thực tế
đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế
quốc Mỹ. Quân ngụy Sài Gòn - “xương sốhg” của chiến lược
‘Việt Nam hóa chiến tranh”, đã bị suy yếu nghiêm trọng.

226
Vào mùa xuân hè nám 1972, nhằm giành thắng lợi
quyết định trong năm bầu cử tổng thông Mỹ, buộc đế quốc
Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng ở thế
Ihua, quân ta đã mở cuộc tiến công chiến lược với quy mô
lơn, cường độ mạnh. Cuộc tiến công chiến lược được bắt
dầu từ hướng chủ yếu là Trị - Thiên, đánh thắng vào
tuyến phòng ngự của địch ở Đường 9, tiếp theo là các
hướng Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, rồi đến đồng
hằng Khu V và đồng bằng sông cửu Long.
Chỉ trong thời gian ngắn, quân và dân ta đã phá vỡ
ba tuyến phòng ngự mạnh nhất của địch tại các địa bàn
xung yếu Quảng Trị, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, tiêu
diệt nhiều sinh lực địch, hỗ trợ đắc lực cho nhân dân các
địa phương nổi dậy giành quyền làm chủ. Đế quốc Mỹ
điên cuồng đốì phó bằng cách vội vã “Mỹ hóa” trở lại
cuộc chiến tranh ở miền Nam, đánh phá trở lại miền
Bắc lần thứ hai từ đầu tháng 4/1972 bằng những thủ
đoạn chiến tranh hủy diệt tàn bạo, song không cứu vãn
được tình thế.
Cuộc đấu tranh ngoại giao trên bàn Hội nghị Pari đã
kéo dài 4 năm 8 tháng 14 ngày, vối 200 phiên họp công
khai, 45 cuộc gặp riêng cấp cao giữa cố vấn Lê Đức Thọ
với cố vấn Kítxinhgiơ (H. Kissingers), 500 cuộc họp báo,
1.000 cuộc phỏng vấn, đàm phán và kết thúc vào ngày
27/1/1973 vối việc ký kết “Hiệp định về chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”.

227
Vối việc ký kết Hiệp định Pari, cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nưốc của nhân dân Việt Nam đã giành
thêm thắng lợi hết sức to lốn và có tính chất quyết định.
Nhân dân ta đã đạt được mục tiêu quan trọng hàng đầu là
đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải chấm
dứt chiến tranh, rút hết quân viễn chinh và quân chư hầu
ra khỏi miền Nam Việt Nam. Đây là cơ hội lốn cho sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi tới thắng lợi hoàn
toàn, từ “đánh cho Mỹ cút” tiến lên “đánh cho ngụy nhào”.
Điều 1 của Hiệp định vể chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Việt Nam ghi rõ: “Hoa Kỳ và các nưốc khác tôn
trọng độc lập, chủ quyền, thốhg nhất, toàn vẹn lãnh thổ
của nưốc Việt Nam như Hiệp định Geneve năm một nghìn
chín trăm năm mươi tư đã công nhận”1.
Mặc dù phải ký Hiệp định Pari, chấp nhận rút quân
khỏi Việt Nam, nhưng đê quôc Mỹ vẫn ngoan cố, âm
mưu tiếp tục tiến hành chiến tranh để áp đặt chủ nghĩa
thực dân mới và chia cắt lâu dài đất nước ta. Một trong
những mục tiêu chiến tranh mà Mỹ - ngụy đề ra trong
kế hoạch 3 năm (1973 - 1976) là chiếm lại toàn bộ vùng
giải phóng của ta, xóa bỏ hình thái “da báo” ỏ miền Nam,
nhằm biến miền Nam thành một quốc gia riêng biệt, lệ
thuộc vào Mỹ.

1. Bộ Ngoại giao: Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris
về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr.481.

228
Ngay sau khi Hiệp định Pari được ký kết, dưới sự chỉ
đạo của Mỹ, chính quyển Nguyễn Văn Thiệu đã ngang
ngược phá hoại Hiệp định, liên tiếp mở các cuộc hành quân
lấn chiếm vùng giải phóng của ta. Riêng năm 1973, chúng
đã chiếm lại hầu hết các vùng giải phóng mới của ta, trong
đó có cảng Cửa Việt (Quảng Trị) bị chiếm ngay đêm
27/1/1973. Trong vùng chúng kiểm soát, cũng đã diễn ra
liên tiếp các cuộc hành quân càn quét và bình định nhằm
khủng bố đàn áp, bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ,
chống lại nguyện vọng hòa bình, hòa hợp dân tộc của nhân
dân miền Nam, gây thêm nhiều tội ác đôì với đồng bào ta.
Trước tình hình nghiêm trọng nói trên, tháng 7/1973,
Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa III đã nêu rõ con đường cách mạng của nhân dân
miền Nam là con đường bạo lực cách mạng và nhấn mạnh:
bất kế trong tình huống nào cũng phải nắm vững thời cơ,
giữ vững đường lối chiến lược tiến công. Nhiệm vụ giành
dân, giành quyền làm chủ, phát triển thực lực của cách
mạng là yêu cầu vừa bức thiết vừa cơ bản trong giai đoạn
mới. Tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng là tích cực
phản công, chuẩn bị tiến lên hoàn toàn giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, từ cuối năm 1973 và
cả năm 1974, quân và dân ta ở miền Nam đã liên tiếp
giành được thắng lợi to lốn trên khắp các chiến trường, từ
Trị - Thiên đến Tây Nam Bộ và vùng ven Sài Gòn, phá vỡ

229
từng mảng lốn kế hoạch “bình định” của địch, mở rộng
thêm nhiều vùng giải phóng, tiêu diệt nhiều cụm cứ điểm,
chi khu, quận lỵ, bức rút nhiều đồn bốt, dồn địch vào
thế đốì phó lúng túng, bị động. Đặc biệt, cuối năm 1974
đầu nám 1975, quân ta đánh chiếm thị xã Phước Long
(ngày 6/1/1975), giải phóng hoàn toàn tỉnh Phưóc Long,
địch không có khả năng đánh chiếm trở lại. Tình thế này
chứng tỏ quân chủ lực cơ động của ta đã mạnh hơn hẳn
quân chủ lực cơ động của địch, khả năng giải phóng hoàn
toàn miền Nam đã chín muồi.
Trưốc yêu cầu phát triển của cuộc chiến tranh cách
mạng vào giai đoạn cuối, từ tháng 10/1973 trở đi, Trung
ương Đảng đã chỉ đạo thành lập các quân đoàn chủ lực có
đủ các thành phần binh chủng kỹ thuật, hợp thành những
quả đấm mạnh, có khả năng cơ động cao, hoạt động trên
những hướng chủ yếu nhằm tiêu diệt quân chủ lực của
địch. Tuyến đường chiến lược phía Đông Trường Sơn nốĩ
liền từ Đường 9 (Quảng Trị) vào đến miền Đông Nam Bộ
đã được thông suốt. Một khối lượng lớn vũ khí, phương
tiện chiến tranh như xe tăng, xe bọc thép, tên lửa, pháo
tầm xa, pháo cao xạ cùng hàng chục vạn tấn vật chất các
loại đã được chuyển tổi các chiến trường. Hệ thống đường
Ống dẫn xăng dầu được nối liền từ miền Bắc vào đến chiến
trường Đông Nam Bộ.
Hội nghị Bộ Chính trị họp đợt 1 (từ ngày 30/9 đến
ngày 8/10/1974) và đợt 2 (từ ngày 8/12/1974 đến ngày

230
7/1/1975) đã bàn về chủ trương giải phóng hoàn toàn miền
Nam. Trong khi Bộ Chính trị đang họp thì quân ta giải
phóng Phước Long (6/1/1975), cách Sài Gòn chỉ hơn 100
cây số mà quân ngụy không chiếm lại được, quân Mỹ
không thể trở lại miền Nam. Những ngày cuối tháng
4/1975, Tổng thống Mỹ G. Pho (Gerald R. Ford) đã từ chối
việc viện trợ tiếp tục cho chính quyền Sài Gòn.
Chiến thắng Phước Long có ý nghĩa như một đòn
thăm dò chiến lược, tạo thêm cơ sở để Bộ Chính trị đi tới
nhận định: Chưa bao giò ta có điều kiện đầy đủ về quân
sự, chính trị, có thời cơ chiến lược to lớn như hiện nay để
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Bộ Chính trị đề ra quyết tâm chiến lược giải phóng
miền Nam trong hai năm 1975 - 1976 theo tinh thần là:
năm 1975 tranh thủ bất ngờ tấn công lớn và rộng khắp,
tạo điều kiện để năm 1976 tiến hành tổng công kích -
tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Bộ
Chính trị còn dự kiến, nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuốỉ
năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam ngay trong
năm 1975.
Chấp hành quyết định chiến lược nói trên, cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 đã diễn ra trên
toàn miền Nam, trong đó quyết định là các đòn tiến công
chiến lược lớn. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân
1975 bắt đầu bằng Chiến dịch Tây Nguyên, mở đầu tiến

231
công vào thị xã Buôn Ma Thuột ngày 10/3/1975 đã giành
được thắng lợi. Trưốc tình hình quân ta thắng lốn ỏ Tây
Nguyên, cuộc họp Bộ Chính trị ngày 18/3/1975 đã quyết
định: giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Sau khi làm chủ Buôn Ma Thuột và toàn bộ Tây
Nguyên, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng Quân
đoàn II và hệ thống chính quyền Việt Nam Cộng hòa ỏ
Quân khu II, quân ta nhanh chóng phát triển cuộc tiến
công xuống các tỉnh ven biển miền Trung. Ngày 26/3,
thành phô Huê được giải phóng. Ngày 29/3, Đà Nẵng được
giải phóng. Trên đà thắng lợi của mặt trận Tây Nguyên và
Huế, Đà Nẵng, ngày 25/3/1975, Bộ Chính trị bổ sung
quyết tâm chiến lược: giải phóng miền Nam trước mùa
mưa. Ngày 7/4/1975, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên
Giáp ra mệnh lệnh: ‘Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo,
táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt
trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”.
Trên cơ sở thế và lực đã có, ngày 26/4/1975, Chiến dịch
Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn - Gia Định bắt đầu. Bộ
Tư lệnh chiến dịch được thành lập do Đại tướng Văn Tiến
Dũng làm Tư lệnh, đồng chí Phạm Hùng làm Chính ủy,
đồng chí Trần Văn Trà làm Phó Tư lệnh. Sau 4 ngày đêm
tiến công dũng mãnh, vào 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lá
cờ chiến thắng đã được cắm trên Dinh Độc Lập. Toàn bộ lực
lượng quân sự và bộ máy chính quyền địch ở Quân khu III,
Quân đoàn III bị tiêu diệt. Sài Gòn được giải phóng.

232
Ngày 2/5/1975, cuộc chiến đấu giải phóng các địa phương
còn lại ở đồng bằng sông cửu Long và các đảo, quần đảo ở
Biển Đông đã kết thúc thắng lợi, giải phóng quần đảo
Trường Sa và các đảo khác. Riêng quần đảo Hoàng Sa bị
quân Trung Quốc đánh chiếm từ ngày 20/1/1974, khi đó
Hoàng Sa do chính quyền Sài Gòn quản lý. Cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy mùa xuân 1975 đã toàn thắng, đánh dấu
kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nưốc vĩ
đại của dân tộc Việt Nam.

3. Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo của


Đảng thời kỳ 1954 -1975

a) Y nghĩa
- Thắng lợi vĩ đại của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
mùa xuân 1975 đã kết thúc 21 năm chiến đấu chông đế
quốc Mỹ xâm lược, 30 năm chiến tranh cách mạng, 117 năm
chống đế quốc xâm lược, giành lại nền độc lập, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước.
- Thắng lợi này đã kết thúc cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nưốc, mở ra kỷ nguyên
mối cho dân tộc: kỷ nguyên cả nước hòa bình, thống nhất,
cùng chung một nhiệm vụ chiến lược, đi lên chủ nghĩa xã
hội; làm tăng thêm sức mạnh vật chất, tinh thần, thế và
lực cho cách mạng và dân tộc Việt Nam, nâng cao uy tín
của Đảng và dân tộc trên trường quốc tế; nâng cao khí

233
phách, niềm tự hào và để lại những kinh nghiệm quý cho
sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân Việt Nam đã làm thất bại âm mưu và thủ
đoạn của chủ nghĩa đế quốc tiến công vào chủ nghĩa xã hội
và cách mạng thế giới; đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược
quy mô lổn nhất, dài ngày nhất của chủ nghĩa đế quốc kể
từ sau Chiến tranh thê giới thứ hai, làm phá sản các chiến
lược chiến tranh thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ và tác
động đên nội tình nưốc Mỹ; làm suy yếu trận địa của chủ
nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của
chúng ở khu vực Đông Nam Á, mở ra sự sụp đổ của chủ
nghĩa thực dân mối, cổ vũ phong trào độc lập dân tộc, dân
chủ và hòa bình thế giới.
Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12/1976) đã
khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của
nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một
trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời
về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và
trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến
công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng
quốc tế to lớn và có tính thòi đại sâu sắc”1.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đẵng toàn tập, Sđd,
t.37, tr.471.

234
b) Kinh nghiệm
Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội nhằm huy động sức mạnh toàn dân đánh Mỹ,
cả nưốc đánh Mỹ.
Hai là, tìm ra phương pháp đấu tranh đúng đắn, sáng
tạo, thực hiện khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân
dân, sử dụng phương pháp cách mạng tổng hợp.
Ba là, phải có công tác tổ chức chiến đấu giỏi của các
cấp bộ đảng và các cấp chi ủy quân đội, thực hiện giành
thắng lợi từng bước đến thắng lợi hoàn toàn.
Bôn là, hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây
dựng lực lượng cách mạng ở miền Nam và tổ chức xây
dựng lực lượng chiến đấu trong cả nưốc, tranh thủ tối đa
sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế.
Hạn chế của Đảng trong chỉ đạo thực tiễn: Có thời
điểm đánh giá so sánh lực lượng giữa ta và địch chưa thật
đầy đủ và còn có những biểu hiện nóng vội, chủ quan, duy
ý chí trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ỏ miền Bắc.

c. CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Đường lối và sự chỉ đạo của Đảng trong cuộc kháng


chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ
1945 - 1954.
2. Ý nghĩa lịch sử và những kinh nghiệm lãnh đạo của
Đảng trong cuộc kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ
1945 - 1954.

235
3. Sự phát triển đường lối và khái quát quá trình chỉ
đạo thực hiện của Đảng trong kháng chiến chông Mỹ, cứu
nước 1954 - 1975.
4. Đặc điểm, ý nghĩa thắng lợi và những kinh nghiệm
lãnh đạo của Đảng trong kháng chiến chông Mỹ, cứu nưốc
1954 - 1975.
5. Cách mạng xã hội chủ nghĩa và những thành quả
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc 1954 - 1975.

236
Chương 3
đảng lãnh đạo cả nước
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ TIẾN HÀNH CÔNG cuộc Đổi MỚI
(TỪ NĂM 1975 ĐẾN NAY)

A. MỤC TIÊU

1. về kiến thức: Giúp sinh viên nắm được đường lối,


Cương lĩnh, những tri thức có hệ thống về quá trình phát
triển đường lối và lãnh đạo của Đảng đưa cả nước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội và tiến hành công cuộc đổi mói từ sau
ngày thống nhất đất nước năm 1975 đến nay.

2. về tư tưởng: Củng cố niềm tin của sinh viên về


những thắng lợi của Đảng trong lãnh đạo đưa cả nước quá
độ xây dựng chủ nghĩa xã hội và tiến hành công cuộc đổi
mói, củng cố niềm tin và lòng tự hào vào sự lãnh đạo của
Đảng đối vối sự nghiệp cách mạng hiện nay.

3. về kỹ năng: Rèn luyện cho học viên phong cách tư


duy lý luận gắn liền vối thực tiễn, phát huy tính năng

237
động, sáng tạo của người học; vận dụng những tri thức về
sự lãnh đạo của Đảng vào thực tiễn cuộc sông.

B. NỘI DUNG

I- LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC XÂY DựNG CHỦ NGHĨA


XÃ HỘI VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975 - 1986)

1. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc


1975 ■ 1981
Sau năm 1975, đất nưóc đã hòa bình, độc lập, thống
nhất, cả nưốc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đất nưốc có
nhiều thuận lợi với sức mạnh tổng hợp, đồng thòi cũng
phải khắc phục những hậu quả nặng nê' của chiến tranh.
Điểm xuất phát của Việt Nam về kinh tế - xã hội còn ỏ
trình độ thấp. Điều kiện quốc tế có thuận lợi đồng thời có
xuất hiện những khó khăn thách thức mới. Các nưốc xã
hội chủ nghĩa bộc lộ những khó khăn về kinh tế - xã hội
và sự phát triển; các thế lực thù địch bao vây cấm vận và
phá hoại sự phát triển của Việt Nam.

a) Hoàn thành thông nhất đất nước vê' mặt nhà nước
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta bước
vào một kỷ nguyên mới: Tổ quốc hoàn toàn độc lập, thống
nhất, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện bưốc
quá độ này, rất nhiều nhiệm vụ được Đảng đặt ra nhưng
nhiệm vụ đầu tiên, bức thiết nhất là lãnh đạo thông nhất

238
nước nhà về mặt nhà nước. Cụ thể là thống nhất hai chính
quyền khác nhau ỏ hai miền là Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Chính phủ Cách mạng lâm
thòi Cộng hòa miền Nam Việt Nam ở miền Nam.
Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa III (8/1975) chủ trương: Hoàn thành thống
nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến
vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; miền Bắc phải tiếp tục
đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn
thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam
phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Thông nhất đất nước vừa là
nguyện vọng thiết tha của nhân dân cả nước, vừa là quy
luật khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam,
của lịch sử dân tộc Việt Nam. cần xúc tiến việc thống
nhất nước nhà một cách tích cực và khẩn trương. Thông
nhất càng sớm thì càng mau chóng phát huy sức mạnh
mới của đất nước, kịp thời ngăn ngừa và phá tan âm
mưu chia rẽ của các thế lực phản động trong nước và
trên thế giới.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng, ngày 27/10/1975, ủy ban
Thường vụ Quổc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
đã họp phiên đặc biệt để bàn chủ trương, biện pháp
thốhg nhất nước nhà về mặt nhà nước. Hội nghị cử đoàn
đại biểu miền Bắc gồm 25 thành viên do đồng chí Trường
Chinh làm trưởng đoàn để hiệp thương với đoàn đại biểu
miền Nam.

239
Ngày 5 và 6/11/1975, tại Sài Gòn, ủy ban Trung ương
Mặt trận Dân tộc giải phóng miên Nam Việt Nam, ủy ban
Trung ương Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và
hòa bình Việt Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam, Hội đồng cố vấn Chính phủ và
đại biểu các nhân sĩ, trí thức đã họp hội nghị liên tịch và
cử đoàn đại biểu miền Nam gồm 25 thành viên do đồng
chí Phạm Hùng dẫn đầu để hiệp thương với đoàn đại biểu
miền Bắc.
Từ ngày 15 đến ngày 21/11/1975, Hội nghị Hiệp
thương chính trị của hai đoàn đại biểu Bắc - Nam đã họp
tại Sài Gòn. Hội nghị khẳng định: Nưốc Việt Nam, dân tộc
Việt Nam là một, nước nhà cần được sớm thống nhất về
mặt nhà nưốc; tổ chức tổng tuyển cử trên toàn lãnh thổ
Việt Nam bầu ra Quốc hội chung cho cả nước vào nửa đầu
năm 1976 theo nguyên tắc dân chủ, phổ thông, bình đẳng,
trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Ngày 3/1/1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ
thị số 228-CT/TW nêu rõ tầm quan trọng của cuộc tổng
tuyển cử và giao trách nhiệm cho các cấp ủy lãnh đạo cuộc
bầu cử.
Ngày 25/4/1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội
chung của nưốc Việt Nam thống nhất được tiến hành. Hơn
23 triệu cử tri, đạt tỷ lệ 98,77% tổng số’ cử tri đi bầu, đã
bầu ra 492 đại biểu gồm đủ các thành phần công nhân,
nông dân, trí thức, các lực lượng vũ trang, các đại biểu
tầng lốp thanh niên, phụ nữ, đại biểu các dân tộc thiểu số
và các tôn giáo... trên cả nưóc. Thắng lợi của công việc bầu

240
cử thể hiện ý chí đoàn kết toàn dân tộc quyết tâm thực
hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dù
khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ
hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi
nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào
Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”1.
Từ ngày 24/6 đến ngày 3/7/1976, kỳ họp thứ nhất
Quốc hội nước Việt Nam thốhg nhất đã họp tại Thủ đô Hà
Nội. Quốc hội quyết định đặt tên nước ta là nưốc Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc kỳ nền đỏ sao vàng 5
cánh, Thủ đô là Hà Nội, Quốc ca là bài Tiên quân ca, Quốc
huy mang dòng chữ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thành phố Sài Gòn đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh.
Quốc hội đã bầu đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch
nước; các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Hữu Thọ
làm Phó Chủ tịch nưóc; đồng chí Trường Chinh làm Chủ
tịch Úy ban Thường vụ Quốc hội và đồng chí Phạm Văn
Đồng làm Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Quốc hội đã thành lập ủy ban dự thảo
Hiến pháp mới.
Theo chủ trương của Đảng, các tổ chức chính trị - xã
hội đều được thông nhất cả nước với tên gọi mới: Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí
Minh, Tổng Công đoàn Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam,...

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.623.

241
Hoàn thành thống nhất nước nhà về mặt nhà nước là
một trong những thành tựu nổi bật, có ý nghĩa to lớn; là cơ
sở để thống nhất trên các lĩnh vực khác, nhanh chóng tạo
ra sức mạnh toàn diện của đất nưốc; là điều kiện tiên
quyết để đưa cả nưốc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều đó
còn thể hiện tư duy chính trị nhạy bén của Đảng trong
thực hiện bước chuyển giai đoạn cách mạng ở nước ta.

b) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng và
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tô quốc
Đại hội lần thứ IV của Đảng họp từ ngày 14 đến ngày
20/12/1976, tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.008 đại biểu, thay
mặt cho hơn 1,5 triệu đảng viên trên cả nước, có 29 đoàn
đại biểu của các đảng và tổ chức quốc tế tham dự.
Đại hội thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương
hướng, nhiệm vụ và mục tiêu Kế hoạch nhà nước 5 năm
(1976 - 1980), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng;
quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng
Cộng sản Việt Nam và sửa đổi Điều lệ Đảng, bầu Ban Chấp
hành Trung ương gồm 101 ủy viên chính thức, 32 ủy viên dự
khuyết, bầu đồng chí Lê Duẩn làm Tổng Bí thư của Đảng.
Đại hội đã tổng kết cuộc kháng chiến chông Mỹ, cứu
nước, khẳng định thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nưốc mãi mãi đi vào lịch sử
dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất và đi
vào lịch sử thế giói như một chiến công vĩ đại của thế kỷ
XX, một sự kiện có ý nghĩa quốc tế quan trọng, có tính thời
đại sâu sắc.

242
Đại hội đã phân tích tình hình thế giới, trong nước và
Ill'll lên ba đặc điểm lốn của cách mạng Việt Nam trong
giai đoạn mới: “Một là, nưổc ta đang ở trong quá trình từ
một xã hội mà nền kinh tê còn phổ biến là sản xuất nhỏ
tiền thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát
I l ion tư bản chủ nghĩa. Hai là, Tổ quốc ta đã hòa bình, độc
lộp, thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với
nhiều thuận lợi rất lớn, song cũng còn nhiều khó khăn do
hộu quả của chiến tranh và tàn dư của chủ nghĩa thực
(lân mới gây ra1. Ba là, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước
la tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc
dấu tranh “ai thắng ai” giữa thế lực cách mạng và thế lực
phản cách mạng trên thế giới còn gay go, quyết liệt”2.
Với ba đặc điểm chỉ ra, Việt Nam có đủ điều kiện đi lên
và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, nhưng đó là sự
nghiệp khó khăn, phức tạp, lâu dài, đòi hỏi Đảng và nhân
dân ta phải phát huy cao độ tính chủ động, tự giác, sáng
tạo trong quá trình cách mạng. Trong ba đặc điểm trên,

1. Mỹ thừa nhận lực lượng không quân Hoa Kỳ đã ném, thả


xuôhg chiến trường Đông Dương 7,5 triệu tấn bom, gấp 3 lần bom
Mỹ dùng trong Chiến tranh thế giới thứ hai (2,1 triệu tấn) gấp 47
lần sô' bom Mỹ ném xuống Nhật Bản (160.000 tấn) và hơn 10 lần số
bom Mỹ ném xuống Triều Tiên (698.000 tấn). (Ban Chỉ đạo tổng kết
chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Chiến tranh cách mạng Việt
Nam 1945 - 1975 - Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2000, tr.514).
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Ván kiện Đẳng toàn tập, Sđd,
t.37, tr.988.

243
đặc điểm đầu tiên là lớn nhất, quy định nội dung, hình
thức, bước đi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đại hội xác định đường lốì chung của cách mạng xã
hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới của nưốc ta là: “Nắm
vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập
thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc
cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng
khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá,
trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chối; đẩy
mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung
tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng
chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới,
xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ
người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không
ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng,
giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành
công Tổ quô'c Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và
xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội’1. Trong đường lối chung thể hiện
nhận thức mới của Đảng về chủ nghĩa xã hội ỏ nước ta
gồm 4 đặc trưng cơ bản là xây dựng chế độ làm chủ tập
thể xã hội chủ nghĩa, nền sản xuất lớn, nền văn hoá mới,
con người mối xã hội chủ nghĩa; coi chuyên chính vô sản,

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
t.37, tr.998.

244
phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động là
công cụ để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đại hội xác định đường lối xây dựng, phát triển kinh
tế, trong đó nổi bật là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa bằng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ, xây dựng cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp;
kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương, kết
hợp phát triển lực lượng sản xuất; tăng cường quan hệ
kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đồng thời
phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác.
Phương hưống, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh
tế và văn hoá (1976 - 1980) nhằm hai mục tiêu cơ bản và
cấp bách là bảo đảm nhu cầu của đòi sông nhân dân, tích
lũy để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội; đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hoá, xây dựng
và phát triển nền ván hoá mới; tăng cường nhà nước xã
hội chủ nghĩa, phát huy vai trò của các đoàn thể; coi trọng
nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự
xã hội; coi trọng nhiệm vụ quốc tế và chính sách đối ngoại
của Đảng, củng cố quan hệ đặc biệt vối Lào và Campuchia,
đẩy mạnh hợp tác với Liên Xô; nâng cao vai trò lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng.
Đại hội lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng
của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc,
khẳng định và xác định đường lối đưa cả nước tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã cổ vũ, động viên toàn Đảng,
toàn dân ra sức lao động sáng tạo để “xây dựng lại đất

245
nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” theo Di chúc của
Chủ tịch HỒ Chí Minh.
Đại hội lần thứ IV của Đảng còn bộc lộ một số’ hạn chế
như: Chưa tổng kết kinh nghiệm 21 năm xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc trong điều kiện thòi chiến, vừa là
hậu phương, vừa là tiền tuyến, vừa xây dựng chủ nghĩa xã
hội, vừa chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải
quân của đế quốc Mỹ, vừa làm nhiệm vụ chi viện cho
chiên trường miền Nam và làm nhiệm vụ quốc tế. Trong
điều kiện đó, không thể áp dụng đầy đủ các quy luật kinh
tế, không thể hạch toán kinh tế mà tất yếu phải thực hành
chính sách bao cấp để đáp ứng yêu cầu “tất cả để đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược”; chưa phát hiện những khuyết tật
của mô hình chủ nghĩa xã hội đã bộc lộ rõ sau chiến tranh.
Việc dự kiến thời gian hoàn thành về cơ bản quá trình đưa
nền kinh tế của đất nưôc từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lổn
xã hội chủ nghĩa trong khoảng 20 năm để kết thúc thời kỳ
quá độ; việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng với quy
mô lớn, việc đề ra các chỉ tiêu kinh tế nông nghiệp và công
nghiệp vượt quá khả năng thực tế... là những chủ trương
nóng vội, thực tế đã không thực hiện được.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã tập trung chủ yếu vào chỉ đạo
phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp và phân phối
lưu thông.
Hội nghị Trung ương 6 (8/1979) được cho là bước đột
phá đầu tiên đổi mối kinh tế của Đảng với chủ trương
khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh

246
tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, phá bỏ những rào cản
để cho “sản xuất bung ra”. Theo đó, tháng 10/1979, Hội
đồng Chính phủ ra quyết định về việc tận dụng đất đai
nông nghiệp để khai hoang, phục hoá, được miễn thuế, trả
thù lao và được sử dụng toàn bộ sản phẩm; quyết định xóa
bỏ những trạm kiểm soát để người sản xuất có quyền tự do
đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài thị trường.
Trước hiện tượng “khoán chui” trong hợp tác xã nông
nghiệp ở một số địa phương, sau khi tổ chức thí điểm, Ban
Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW (ngày 13/1/1981)
về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các
hợp tác xã nông nghiệp (gọi tắt là Khoán 100). Theo Chỉ
thị, mỗi xã viên nhận mức khoán theo diện tích và tự
mình làm các khâu cấy, chăm sóc và thu hoạch, còn những
khâu khác do hợp tác xã đảm nhiệm. Thu hoạch vượt mức
khoán sẽ được hưởng và tự do mua bán. Chủ trương đó
được nông dân cả nước ủng hộ, nhanh chóng thành phong
trào quần chúng sâu rộng, sản lượng lương thực bình
quân từ 13,4 triệu tấn/năm thòi kỳ 1976 - 1980 tăng lên
17 triệu tấn/năm thời kỳ 1981 - 1985; những hiện tượng
tiêu cực, lãng phí trong sản xuất nông nghiệp giảm đi
đáng kể.
Trong lĩnh vực công nghiệp, trưốc các hiện tượng “xé
rào” bù giá vào lương ở Thành phố' Hồ Chí Minh và tỉnh
Long An, Chính phủ ban hành Quyết định số 25/CP
(1/1981) về quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền
tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh và Quyết
định số 26/CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán,

247
luơng sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong
các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước. Những chủ
trương trên đã tạo nên động lực mới, góp phần thúc đẩy
sán xuất công nghiệp đạt kế hoạch, riêng công nghiệp địa
phương vượt kế hoạch 7,5%.
Tháng 9/1980, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
họp để cho ý kiến về bản Dự thảo Hiến pháp mói của nưởc
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quyết định những
biện pháp bảo đảm việc thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp
sau khi được Quốc hội thông qua ngày 18/12/1980.
Sau 30 năm chiến đấu liên tục để giành độc lập, tự do
cho Tổ quốc, nguyện vọng thiết tha của nhân dân Việt
Nam là hoà bình, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ để xây
dựng đất nước. Song, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù
địch đã cấu kết với nhau ra sức chống phá, buộc Việt Nam
phải tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam
và biên giới phía Bắc của Tổ quốc.
Việt Nam, Lào và Campuchia là ba nước láng giềng
cùng trên bán đảo Đông Dương, cùng dòng sông Mê Kông,
cùng kẻ thù chung là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược từ cuối thế kỷ XIX cho đến năm 1975. Đoàn kết ba
nước Đông Dương đã trở thành truyền thống tốt đẹp, là
qưy luật phát triển của từng nưởc và của cả ba nưốc.
Từ tháng 4/1975, tập đoàn Pôn Pốt đã thi hành chính
sách diệt chủng ở Campuchia và tăng cường chống Việt
Nam. Ngày 3/5/1975, chúng cho quân đổ bộ chiếm các đảo
Thổ Chu, Phú Quốc, sau đó tiến hành hàng ngàn vụ tấn
côỉig lấn chiếm đất đai, giết hại nhân dân Việt Nam trên

248
toàn tuyến biên giới Tây Nam. Đảng và Chính phủ Việt
Nam đã nhiều lần đề nghị đàm phán ở bất cứ cấp nào, thời
gian nào, ở mọi nơi để giải quyết xung đột nhưng tập đoàn
Pôn Pốt đều từ chối. Cuối tháng 12/1978, chính quyền Pôn
Pốt huy động tổng lực tiến công xâm lược quy mô lớn trên
toàn tuyến biên giói Tây Nam với mục tiêu nhanh chóng
tiến sâu vào nội địa Việt Nam.
Để bảo vệ độc lập và chủ quyền Tổ quốc, quân và dân
Việt Nam đã kiên quyết tiến công đánh đuổi bọn xâm lược
ra khỏi bờ cõi. Thể theo yêu cầu của Mặt trận đoàn kết
dân tộc cứu nưởc Campuchia, từ ngày 26/12/1978, quân
tình nguyện Việt Nam phôi hợp và giúp đỡ Campuchia
tổng tiến công, đến ngày 7/1/1979 giải phóng Phnôm Pênh,
đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt. Ngày 18/2/1979, Việt
Nam và Campuchia ký Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và
hợp tác. Theo Hiệp ước, quân đội Việt Nam có mặt ở
Campuchia để giúp bạn bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ và hồi sinh đất mtóc. Hành động đó của Việt
Nam là chính nghĩa và xuất phát từ nhu cầu tự vệ chính
đáng được ghi nhận trong Điều 51 Hiến chương Liên hợp
quốc, đã được nhân dân Campuchia và thế giới ghi nhận.
Việt Nam và Trung Quốc là hai nưốc láng giềng có nhiều
điểm tương đồng về chính trị, kinh tế, văn hóa, có quan hệ
hữu nghị truyền thông lâu đời. Trong lịch sử cách mạng, hai
Đảng và nhân dân hai nưốc đã đoàn kết, ủng hộ và giúp đỡ
lẫn nhau. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chống
Mỹ, cứu nưốc, nhân dân Trung Quốc và các míốc xã hội chủ
nghĩa khác đã dành cho nhân dân Việt Nam sự ủng hộ, giúp

249
đỡ toàn diện, to lốn và quý báu. Đảng, Nhà nước và nhân
dân Việt Nam luôn biết ơn về sự giúp đỡ quý báu đó.
Năm 1978, Trung Quốc tuyên bố rút chuyên gia, cắt
viện trỢ cho Việt Nam, liên tiếp lấn chiếm dẫn đến xung
đột trên tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam đã làm cho
quan hệ Trung Quốc - Việt Nam xấu đi rõ rệt. Ngày
17/2/1979, Trung Quốc huy động hơn 60 vạn quân đồng
loạt tấn công toàn tuyến biên giới nước ta từ Lai Châu đến
Quảng Ninh, gây ra những thiệt hại rất nặng nề. Quân
dân Việt Nam, nhất là quân dân các tỉnh biên giói phía
Bắc, được nhân dân thế giới ủng hộ đã kiên cường chiến
đấu bảo vệ đất nưốc. Ngày 5/3/1979, Trung Quốc tuyên bô'
rút quân, song, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc
của quân và dân ta vẫn diễn ra trong nhiều năm sau đó
(đặc biệt là trên mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang ngày
12/7/1984). Việt Nam và Trung Quốc đã tổ chức nhiều
cuộc đàm phán, từng bước giải quyết những tranh chấp về
biên giới lãnh thổ và các vấn đề khác, khôi phục hoà bình,
quan hệ hữu nghị truyền thông giữa nhân dân hai nước.
Đồng thời, quân dân cả nưốc cũng đấu tranh thắng lợi
làm thất bại âm mưu, hoạt động phá hoại của lực lượng
phản động FULRO vũ trang ở Tây Nguyên, lực lượng lưu
vong vũ trang xâm nhập về nưốc, bảo vệ vững chắc mọi
thành quả của cách mạng.
Sau 5 năm 1975 - 1981, quân dân cả nưốc đã giành
được thành tựu thống nhất nước nhà về mặt nhà nước,
chiến thắng trong hai cuộc chiến tranh biên giới và đã
khắc phục một phần hậu quả chiến tranh và thiên tai liên

250
tiếp gây ra. Các tỉnh phía Nam đã cơ bản hoàn thanh viẹc
xóa bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của đế quốc, phong
kiến, ở miền Bắc, bưốc đầu có sự cải tiến đưa nông nghiệp
từng bưóc lên sản xuất lớn. Tuy nhiên, kết qua nhìn
chung đã không đạt chỉ tiêu do Đại hội IV đê ra: lưu
thông, phân phối rối ren, giá cả tăng vọt, nhập khâu tang
gấp 4-5 lần xuất khẩu. Đời sống của nhân dân, cán bộ,
công nhân viên, lực lượng vũ trang rất khó khăn. Tư cuoi
năm 1979, ở một số địa phương miền Bắc đã xuât hiện
hiện tượng “xé rào”, “khoán chui”. Ở miền Nam, việc thí
điểm hợp tác xã diễn ra phức tạp, lúng túng..-
Những khó khăn trên có nguồn gốc sâu xa từ nên kinh
tế thấp kém, thiên tai nặng nề liên tiếp xảy ra, chiên
tranh biên giới và chính sách cấm vận, bao vây, cô lạp cua
Mỹ và các thế lực thù địch. Tuy nhiên, về chủ quan, do
những khuyết điểm, sai lầm của Đảng, Nhà nước vê lanh
đạo và quản lý kinh tế, xã hội làm trầm trọng thêm những
khó khăn trên. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tự
phê bình về những khuyết điểm và sai lầm đó trưốc Đại
hội V của Đảng.

2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V cua


Đảng và các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh tê
1982 - 1986
a) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đang và
quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đại hội V của Đảng họp từ ngày 27 đên ngày
31/3/1982 trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nưốc

251
có một số mặt thuận lợi, nhưng nhiều khó khán, thách
thức. Mỹ tiếp tục thực hiện chính sách bao vây cấm vận và
“kế hoạch hậu chiến”. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
phản động quốc tế ra sức tuyên truyền xuyên tạc việc
quân tình nguyện Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế ở
Campuchia, gây sức ép với Việt Nam, chia rẽ ba nưổc
Đông Dương. Trong nước, tình trạng khủng hoảng kinh tế -
xã hội ngày càng trầm trọng.
Dự Đại hội có 1.033 đại biểu thay mặt cho hơn 1,7
triệu đảng viên cả nưốc, có 47 đoàn đại biểu của các
đảng và tổ chức quốc tế. Đại hội đã thông qua các văn
kiện quan trọng, bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm
116 ủy viên chính thức, Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên
chính thức. Đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí
thư của Đảng.
Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá thành tựu, khuyết
điểm, sai lầm của Đảng, phân tích nguyên nhân thắng lợi
và khó khăn của đất nước, những biến động của tình hình
thế giới; khẳng định tiếp tục thực hiện đường lổì chung và
đưòng lốĩ kinh tế do Đại hội lần thứ IV đề ra. Cùng với
việc đề ra các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội, tăng cường nhà nước xã hội chủ nghĩa, chính sách đối
ngoại, xây dựng Đảng..., Đại hội V đã bổ sung đường lối
chung và đề ra những quan điểm mối, cụ thể là:
Khẳng định nước ta đang ỏ chặng đường đầu tiên của
thòi kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những khó khăn về
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội; đó là thời kỳ khó khăn,
phức tạp, lâu dài, phải trải qua nhiều chặng đường. Chặng

252
đường trước mắt bao gồm thòi kỳ 5 năm 1981 - 1985 và
kéo dài đến những năm 1990 là khoảng thời gian có tầm
quan trọng đặc biệt. Nhiệm vụ của chặng đường trước mắt
là giữ Ổn định, tiến lên cải thiện một bưốc đời sông vật
chất và tinh thần của nhân dân. Tiếp tục xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm
thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất
khẩu, đáp ứng nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nưốc,
củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, trật tự xã hội. Đại
hội chỉ rõ: “Kinh nghiệm của 5 năm 1976 - 1980 cho thấy
sự cần thiết phải cụ thể hoá đường lốì của Đảng - đường
lốì chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lốì xây
dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nưốc ta - vạch ra
chiên lược kinh tế - xã hội cho chặng đường đầu tiên của
quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa”1.
Cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược là:
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc TỔ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ
chiến lược có quan hệ mật thiết vối nhau: “Trong khi
không một phút lơi lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo
vệ Tổ quốc, Đảng ta và nhân dân ta phải đặt lên hàng đầu
nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hộỉ’2.
Nội dung, bước đi, cách làm để thực hiện công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên là: tập
trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đẳng toàn tập, Sđd,
tr.43, tr.63, 57.

253
là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản
xuất lổn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất
hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số' ngành công
nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công
nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong cơ cấu
công - nông nghiệp hợp lý. Nhận thức đó phù hợp với
thực tiễn nưốc ta, khai thác và phát huy thế mạnh, tiềm
năng của đất nước về lao động, đất đai, ngành nghề...,
làm cơ sở để thực hiện nhiệm vụ chủ yếu của chặng
đường đầu tiên, tạo ra những tiền đề cần thiết cho chặng
đường tiếp theo.
Đại hội V đã thông qua những nhiệm vụ kinh tế, văn
hóa và xã hội, tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa,
chính sách đối ngoại; tiếp tục nâng cao tính giai cấp công
nhân, tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng vững
mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho Đảng
luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, thực sự
trong sạch, có sức chiến đấu cao, gắn bó chặt chẽ với
quần chúng.
Đại hội V đã có những bưóc phát triển nhận thức mới,
tìm tòi đổi mới trong bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
trưởc hết là về mặt kinh tế. Đại hội chưa thấy hết sự cần
thiết duy trì nền kinh tế nhiều thành phần, chưa xác định
những quan điểm kết hợp kế hoạch với thị trường, về công
tác quản lý lưu thông, phân phôi; vẫn tiếp tục chủ trương
hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam
trong vòng 5 năm; vẫn tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, kỹ
thuật cho việc phát triển công nghiệp nặng một cách tràn

254
lan; không dứt khoát dành thêm vốn và vật tư cho phát
triển nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng...

b) Các bước đột phá tiếp tục đổi mới kinh tế


Thực hiện Nghị quyết Đại hội V, các hội nghị Trung
ương đã cụ thể hoá trên từng lĩnh vực. Hội nghị Trung
ương 6 (7/1984) chủ trương tập trung giải quyết một số
vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông, hai công việc cần
làm ngay là đẩy mạnh thu mua nắm nguồn hàng, quản lý
chặt chẽ thị trường tự do; thực hiện điều chỉnh giá cả, tiền
lương, tài chính cho phù hợp vối thực tế. Hội nghị Trung
ương 7 (12/1984) xác định kế hoạch năm 1985 phải tiếp
tục coi mặt trận sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng
đầu, trước hết là sản xuất lương thực, thực phẩm. Hội
nghị Trung ương 8 (6/1985) được coi là bước đột phá thứ
hai trong quá trình tìm tòi, đổi mới kinh tế của Đảng. Tại
Hội nghị này, Trung ương chủ trương xoá bỏ cơ chê tập
trung quan liêu hành chính bao cấp, lấy giá - lương - tiền
là khâu đột phá để chuyển sang cơ chế hạch toán, kinh
doanh xã hội chủ nghĩa.
Nội dung xoá bỏ cơ chế quan liêu, bao cấp trong giá và
lương là tính đủ chi phí hợp lý trong giá thành sản phẩm;
giá cả bảo đảm bù đắp chi phí thực tế hợp lý, người sản
xuất có lợi nhuận thoả đáng, Nhà nước từng bước có tích
lũy; xoá bỏ tình trạng Nhà nước mua thấp, bán thấp và bù
lỗ; thực hiện cơ chê một giá trong toàn bộ hệ thống, khắc
phục tình trạng thả nổi trong việc định giá và quản lý giá.
Thực hiện cơ chê một giá, xoá bỏ chế độ bao cấp bằng

255
hiện vật theo giá thấp, chuyển mọi hoạt động sản xuất,
kinh doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Giá, lương, tiền coi là khâu đột phá để chuyển đổi cơ chế.
Thực hiện trả lương bằng tiền có hàng hoá bảo đảm, xoá
bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp, thoát ly giá trị
hàng hoá. Xoá bỏ các khoản chi của ngân sách trung ương,
địa phương mang tính chất bao cấp tràn lan. Nhanh chóng
chuyển hẳn công tác ngân hàng sang hạch toán kinh tế và
kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Thực chất, các chủ trương của Hội nghị Trung ương 8
đã thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật sản
xuất hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên,
trong quá trình tổ chức thực hiện lại mắc những sai lầm
như vội vàng đổi tiền; tổng điều chỉnh giá, lương trong
tình hình chưa chuẩn bị đủ mọi mặt. Cuộc điều chỉnh giá,
lương, tiền đã làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội
trầm trọng sâu sắc hơn.
Hội nghị Bộ Chính trị khoá V (8/1986) đưa ra kết luận
đôì với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế. Đây là
bước đột phá thứ ba về đổi mới kinh tế, đồng thời cũng là
bưốc quyết định cho sự ra đời của đường lối đổi mối của
Đảng. Nội dung đổi mới có tính đột phá là:
Về cơ cấu sản xuất, Hội nghị cho rằng, chúng ta đã
chủ quan, nóng vội đề ra một số chủ trương quá lốn về quy
mô, quá cao về nhịp độ xây dựng cơ bản và phát triển sản
xuất. Đây là một nguyên nhân quan trọng khiến cho sản
xuất trong 5 năm gần đây như dẫm chân tại chỗ, năng
suất lao động giảm sút, chi phí sản xuất không ngừng

256
tăng lên, tình hình kinh tế - xã hội ngày càng không ổn
định. Đây cũng là nguyên nhân trực tiếp của tình trạng
chậm giải quyết căn bản các vấn đề về lương thực, thực
phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và tạo nguồn hàng cho
xuất khẩu. Cần tiến hành một cuộc điều chỉnh lớn về cơ
cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư theo hưống thật sự lấy nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công
nghiệp nhẹ, việc phát triển công nghiệp nặng phải có lựa
chọn cả về quy mô và nhịp độ, chú trọng quy mô vừa và
nhỏ, phát huy hiệu quả nhanh nhằm phục vụ đắc lực yêu
cầu phát triển nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và xuất
khẩu. Cần tập trung lực lượng, trước hết là vốn và vật tư,
thực hiện cho được ba chương trình quan trọng nhất về
lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và hàng
xuất khẩu.
Vê cải tạo xã hội chủ nghĩa, Hội nghị cho rằng, do
chưa nắm vững quy luật đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ
nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nên chúng ta đã phạm
nhiều khuyết điểm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy,
phải biết lựa chọn bưốc đi và hình thức thích hợp trên quy
mô cả nưốc cũng như từng vùng, từng lĩnh vực, phải đi
qua những bước trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ
quy mô nhỏ đến trung bình, rồi tiến lên quy mô lớn; phải
nhận thức đúng đắn đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là nền kinh tế có cơ cấu nhiều
thành phần, đó là sự cần thiết khách quan để phát triển
lực lượng sản xuất, tận dụng các tiềm năng, tạo thêm việc

257
làm cho người lao động, phải sử dụng đúng đắn các thành
phần kinh tế; cải tạo xã hội chủ nghĩa không chỉ là sự
thay đổi chế độ sở hữu, mà còn thay đổi cả chế độ quản lý,
chế độ phân phối, đó là một quá trình gắn liền vối mỗi
bước phát triển của lực lượng sản xuất, vì vậy không thể
làm một lần hay trong một thời gian ngắn là xong.
Ve cơ chế quản lý kinh tế, Hội nghị cho rằng, bố trí lại
cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế, làm cho hai mặt ăn khớp với nhau tạo ra động lực mới
thúc đẩy sản xuất phát triển. Nội dung chủ yếu của cơ chế
quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa là: Đổi mối kế hoạch
hoá theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của các quy
luật kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thòi sử dụng đúng đắn
các quy luật của quan hệ hàng hoá - tiền tệ; làm cho các
đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh;
phân biệt chức nàng quản lý hành chính của Nhà nưốc với
chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của các đơn vị
kinh tế; phân công, phân cấp bảo đảm các quyền tập trung
thống nhất của Trung ương trong những khâu then chốt,
quyền chủ động của địa phương trên địa bàn lãnh thổ,
quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của cơ sở.
Những kết luận trên đây là kết quả tổng hợp của cả
quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đấu tranh giữa quan điểm
mối và quan điểm cũ, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế.
Những quan điểm mới được trình bày trong bản kết luận
đã định hướng cho việc soạn thảo Báo cáo chính trị để
trình ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng,
thay cho bản Dự thảo Báo cáo chính trị được chuẩn bị

258
trưốc đó vẫn còn giữ lại nhiều quan điểm cũ không phù
hợp với yêu cầu trưốc mắt là khắc phục cho được khủng
hoảng kinh tế - xã hội.
Tổng kết 10 năm 1975 - 1986, Đảng đã khẳng định 3
thành tựu nổi bật là: Thực hiện thắng lợi chủ trương
thốhg nhất nưổc nhà về mặt nhà nưốc; đạt được những
thành tựu quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội;
giành thắng lợi to lón trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và
làm nghĩa vụ quốc tế. Những thành tựu trên đã tạo cho
cách mạng nước ta những nhân tố mới để tiếp tục tiến lên.
Song những sai lầm, khuyết điểm nổi bật là không hoàn
thành các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội IV và Đại
hội V của Đảng đề ra. Đất nước lâm vào khủng hoảng
kinh tế - xã hội kéo dài; sản xuất tăng chậm và không ổn
định; nền kinh tế luôn trong tình trạng thiếu hụt, không
có tích lũy; lạm phát tăng cao và kéo dài. Đất nước bị bao
vây, cô lập, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin
đối với Đảng, Nhà nước, chế độ giảm sút nghiêm trọng.
Nguyên nhân khách quan dẫn đến khủng hoảng kinh
tế - xã hội là do chúng ta xây dựng đất nước từ nền kinh
tế nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, bị bao
vây, cấm vận nhiều năm, nguồn viện trợ từ nước ngoài
giảm mạnh; hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh
chưa kịp hàn gắn thì chiến tranh biên giới ở hai đầu đất
nưốc làm nảy sinh những khó khăn mối. về chủ quan là
do những sai lầm của Đảng trong đánh giá tình hình, xác
định mục tiêu, bước đi, sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế;
sai lầm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong lĩnh vực phân

259
phối, lưu thông; duy trì quá lâu cơ chế tập trung, quan
liêu, bao cấp; buông lỏng chuyên chính vô sản trong quản
lý kinh tế, quản lý xã hội và trong đấu tranh chống âm
mưu, thủ đoạn phá hoại nhiều mặt của địch.
Ngày 10/7/1986, Tổng Bí thư Lê Duẩn qua đời. Ngày
14/7/1986, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị
bất thường bầu đồng chí Trường Chinh giữ chức Tổng Bí
thư của Đảng.
Các bước đột phá tháng 8/1979, tháng 6/1985 và
tháng 8/1986 phản ánh sự phát triển nhận thức từ quá
trình khảo nghiệm, tổng kết thực tiễn, từ sáng kiến và
nguyện vọng lợi ích của nhân dân để hình thành đường
lôi đôi mới.

II- LÃNH ĐẠO CÔNG cuộc Đổi MỚI,


ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ (TỪ NĂM 1986 ĐEN NAY)

1. Đổi mới toàn diện, đưa đất nước ra khỏi


khủng hoảng kinh tê - xã hội 1986 - 1996

a) Đại hội đại biểu toàn quô'c lẩn thứ VI của Đảng và
thực hiện đường lối đổi mới toàn diện
Đại hội VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội từ ngày 15
đến ngày 18/12/1986, trong bốì cảnh cuộc cách mạng
khoa học - kỹ thuật đang phát triển mạnh, xu thế đối
thoại trên thế giới đang dần thay thế xu thế đốì đầu. Đổi
mối đã trở thành xu thế của thòi đại. Liên Xô và các nước

260
xã hội chủ nghĩa đều tiến hành cải tổ sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Việt Nam đang bị các đế quốc và thế
lực thù địch bao vây, cấm vận và ỏ tình trạng khủng
hoảng kinh tế - xã hội. Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu
dùng đều khan hiếm; lạm phát tăng từ 300% năm 1985
lên hơn 774% năm 1986. Các hiện tượng tiêu cực, vi
phạm pháp luật, vượt biên trái phép diễn ra khá phổ
biến. Đổi mới đã trở thành đòi hỏi bức thiết của tình hình
đất nước.
Dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 2 triệu
đảng viên cả nưốc và có 32 đoàn đại biểu quốc tê đến dự.
Đại hội đã thông qua các văn kiện chính trị quan trọng,
khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, bầu Ban Chấp
hành Trung ương gồm 124 ủy viên chính thức, bầu Bộ
Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức; bầu đồng chí
Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí thư của Đảng.
Đường lối đổi mới toàn diện do Đại hội VI đề ra thế
hiện trên các lĩnh vực nổi bật như sau:
Đại hội đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự
thật, nói rõ sự thật, đánh giá thành tựu, nghiêm túc kiểm
điểm, chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong
thời kỳ 1975 - 1986. Đó là những sai lầm nghiêm trọng và
kéo dài về chủ trương, chính sách lốn, sai lầm về chỉ đạo
chiến lược và tổ chức thực hiện. Khuynh hưống tư tưởng
chủ yếu của những sai lầm, khuyết điểm đó, đặc biệt trên
lĩnh vực kinh tế, là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ
và hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng
chủ quan. Đó là tư tưởng tiểu tư sản, vừa tả khuynh vừa

261
hữu khuynh. Nguyên nhân của mọi nguyên nhân bắt
nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ
chức và công tác cán bộ của Đảng. Đại hội rút ra bốn bài
học quý báu: Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình,
Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”. Hai là,
Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan. Ba là, phải biết kết
hợp sức mạnh dân tộc vối sức mạnh thời đại trong điều
kiện mổi. Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với
một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều
thành phần kinh tế. Đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế
tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp, chuyển sang
hạch toán, kinh doanh, kết hợp kế hoạch với thị trường.
Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm
còn lại của chặng đường đầu tiên là: sản xuất đủ tiêu
dùng và có tích lũy; bưốc đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế
hợp lý, trong đó đặc biệt chú trọng ba chương trình kinh tế
lón là lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hóa nội dung công nghiệp
hoá trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Thực hiện
cải tạo xã hội chủ nghĩa thường xuyên với hình thức, bưốc
đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp và lực
lượng sản xuất phát triển. Đổi mối cơ chế quản lý kinh tế,
giải quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân phối,
lưu thông. Xây dựng và tổ chức thực hiện một cách thiết
thực, hiệu quả các chính sách xã hội. Bảo đảm nhu cầu

262
củng cố quốc phòng và an ninh. Năm phương hướng lớn
phát triển kinh tế là: Bố trí lại cơ cấu sản xuất; điều chỉnh
cơ cấu đầu tư xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa; sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành
phần kinh tế; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát huy
mạnh mẽ động lực khoa học - kỹ thuật; mở rộng và nâng
cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đại hội VI nhấn mạnh: “Tư
tưởng chỉ đạo của kê hoạch và các chính sách kinh tê là
giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi
khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả
sự giúp đd quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất đi đôi với xây dựng và củng cô' quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa”1.
Đại hội khẳng định, chính sách xã hội bao trùm mọi
mặt của cuộc sống con người, cần có chính sách cơ bản, lâu
dài, xác định được những nhiệm vụ phù hợp vối yêu cầu,
khả năng trong chặng đường đầu tiên. Bốn nhóm chính
sách xã hội là: Kế hoạch hóa dân số, giải quyết việc làm
cho người lao động; thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm
an toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỷ cương trong mọi lĩnh
vực xã hội; chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn
hóa, bảo vệ và tăng cường sức khỏe của nhân dân; xây
dựng chính sách bảo trợ xã hội.
Đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và
an ninh của đất nước, quyết đánh thắng các kiểu chiến

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
t.47, tr.380.

263
tranh phá hoại nhiều mặt của địch, bảo đảm chủ động
trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc.
Đốì ngoại góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác
toàn diện với Liên Xô và các nưóc xã hội chủ nghĩa; bình
thường hoá quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân
dân hai nước, vì hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.
Kết hợp sức mạnh của dân tộc vởi sức mạnh của thời đại,
phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á
và trên thế giới, táng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước
Đông Dương.
Đổi mối sự lãnh đạo của Đảng cần phải đổi mói tư
duy, trưốc hết là tư duy kinh tế, đổi mới công tác tư tưởng;
đổi mối công tác cán bộ và phong cách làm việc, giữ vững
các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng; tăng cường
đoàn kết nhất trí trong Đảng. Đảng cần phát huy quyền
làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực hiện “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; tăng cường hiệu lực
quản lý của Nhà nước là điều kiện tất yếu để huy động lực
lượng của quần chúng.
Đại hội VI của Đảng là Đại hội khởi xưống đường lối
đổi mới toàn diện, đánh dấu bước phát triển mới trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các văn kiện của Đại
hội mang tính chất khoa học và cách mạng, lãnh đạo cách
mạng Việt Nam tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, hạn chế
của Đại hội VI là chưa tìm ra những giải pháp hiệu quả
tháo gỡ tình trạng rối ren trong phân phối, lưu thông.

264
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, tình
hình thế giới biến chuyển nhanh chóng. Công cuộc cải tổ ở
Liên Xô, các nưốc xã hội chủ nghĩa Đông Âu ngày càng rơi
vào khủng hoảng toàn diện và sụp đổ hoàn toàn (12/1991).
Sự sụp đổ đó gây tác động bất lợi nhiều mặt đối với thế
giới và Việt Nam. Viện trợ và quan hệ kinh tế giữa Liên
Xô và các nước Đông Âu với nước ta bị thu hẹp nhanh.
Trên diễn đàn quốc tế, Mỹ và các thế lực thù địch lấy cớ
quân tình nguyện Việt Nam chưa rút khỏi Campuchia,
tiếp tục bao vây, cấm vận, cô lập, tuyên truyền chống Việt
Nam. Họ còn dung dưỡng các tổ chức phản động người
Việt từ nước ngoài trở về Việt Nam gây bạo loạn, lật đổ.
Trên một số vùng biên giới phía Bắc diễn biến phức tạp,
căng thẳng. Cao điểm nhất, tháng 3/1988, Trung Quốc cho
quân đội chiếm đảo Gạc Ma và các bãi cạn Châu Viên,
Chữ Thập, Tư Nghĩa,... ở quần đảo Trường Sa của Việt
Nam. Trên thực tế cuộc chiến tranh chống xâm lược bảo vệ
Tổ quốc ở biên giới phía Bắc kéo dài 10 năm, từ năm 1979
đến năm 1989.
ở trong nước, những năm 1987 - 1988, khủng hoảng
kinh tế - xã hội vẫn diễn ra nghiêm trọng. Lương thực,
thực phẩm thiếu, nạn đói xảy ra ở nhiều nơi, lạm phát
cao, đời sông nhân dân rất khó khăn. Sự dao động về tư
tưởng chính trị, giảm sút niềm tin vào con đường xã hội
chủ nghĩa ngày càng lan rộng. Thực hiện Nghị quyết
Đại hội VI của Đảng, Trung ương Đảng đã họp nhiều
lần, chỉ đạo đổi mối toàn diện, trong đó nổi bật trên các
lĩnh vực sau:

265
về kinh tế - xã hội, phân phối, lưu thông rối ren,
lạm phát ở mức cao, lại thêm thiên tai, mất mùa nên
kỳ giáp hạt năm 1988, nhiều nơi từ miền Trung trở ra
rất thiếu đói. Hội nghị Trung ương 2 (4/1987) đề ra một
số biện pháp cấp bách về phân phối, lưu thông, trọng
tâm là thực hiện bôn giảm: Giảm bội chi ngân sách,
giảm nhịp độ tăng giá, giảm lạm phát, giảm khó khăn
về đời sông của nhân dân; mở rộng giao lưu hàng hóa,
giải thể các trạm kiểm soát hàng hóa trên các đường
giao thông; thực hiện cơ chế một giá và chế độ lương
thống nhất cả nước; giảm tỷ lệ bội chi ngân sách và bội
chi tiền mặt, tiết kiệm chi tiêu, chống tiêu cực; chuyển
hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc doanh sang hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; đổi mới quản lý nhà
nước về kinh tế. Quyết định số 217/HĐBT của Hội đồng
Bộ trưởng (14/11/1987) trao quyền tự chủ cho các
doanh nghiệp.
Trong nông nghiệp, nổi bật là Nghị quyết số 10-
NQ/TW ngày 5/4/1988 của Bộ Chính trị về “Đổi mới quản
lý kinh tế nông nghiệp” (gọi tắt là Khoán 10). Theo đó,
người nông dân được nhận khoán và canh tác trên diện
tích Ổn định trong 15 năm; bảo đảm có thu nhập từ 40%
sản lượng khoán trở lên. Lần đầu tiên Luật đầu tư nưởc
ngoài được Quốc hội khóa VIII thông qua, có hiệu lực từ
ngày 1/1/1988.
Trong công nghiệp, xóa bỏ chế độ tập trung, bao cấp,
chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc doanh sang
kinh doanh xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ,

266
giải phóng mọi năng lực sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa
học - kỹ thuật, phát triển kinh tế hàng hóa theo hưóng đi
lên chủ nghĩa xã hội vối năng suất, chất lượng, hiệu quả
ngày càng cao. Nhà máy thủy điện Hòa Bình phát điện tổ
máy số 1. Liên doanh dầu khí Việt - Xô khai thác những
thùng dầu thô đầu tiên.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, Nhà nước công nhận sự
tồn tại lâu dài của nhiều thành phần kinh tế. Nâng cao
vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc doanh, phát huy
khả năng tích cực của các thành phần kinh tế khác. Các
thành phần kinh tế bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ
trước pháp luật.
Các chủ trương trên thể hiện tư duy đổi mới quan
trọng về kinh tế của Đảng và đã có kết quả nhanh chóng.
Đến năm 1991, lạm phát giảm từ trên 774% năm 1986 còn
67,1%. Cuối năm 1988, chế độ phân phối theo tem phiếu
đã được xóa bỏ. Lương thực, từ chỗ thiếu triền miên, năm
1988 phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo, đến năm 1989 đã đáp
ứng được nhu cầu, có dự trữ và xuất khẩu. Hàng tiêu dùng
đa dạng, lưu thông tương đối thuận lợi. Nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước bước đầu hình thành. Kinh tế đối
ngoại phát triển nhanh hơn trước.
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, công
cuộc cải tổ ở Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu
ngày càng rơi vào khủng hoảng toàn diện, gây tác động
bất lợi nhiều mặt đối với thế giới và Việt Nam. Hội nghị
Trung ương 6 (3/1989) chính thức dùng khái niệm hệ thống

267
chính trị, đề ra những chủ trương cụ thể và xác định sáu
nguyên tắc chĩ đạo công cuộc đổi mối1:
Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu ở nước ta,
là sự lựa chọn sáng suốt của Bác Hồ, là mục tiêu, là lý
tưởng của Đảng và nhân dân ta. Đổi mới không phải là
thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà làm cho mục tiêu
đó được thực hiện tốt hơn bằng quan niệm đúng đắn, hình
thức, biện pháp và bưởc đi thích hợp.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng của
Đảng, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân
ta. Đổi mối, vận dụng sáng tạo và phát triển chứ không
phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ
thống chính trị là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, có nghĩa là tăng cường sức mạnh và
hiệu lực của các tổ chức trong hệ thống chính trị2.
Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng
lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
của nhân dân ta.
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, là
động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Song,
dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo phải trên cơ sở dân

1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,
Sđd, t.49, tr.591.
2. Từ Hội nghị này, khái niệm hệ thông chính trị được sử dụng
thay cho khái niệm hệ thông chuyên chính vô sản.

268
chủ; dân chủ vối nhân dân, nhưng phải chuyên chính với
kẻ địch.
Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô
sản và quốc tế xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại.
Để chỉ đạo công tác tư tưởng trong bối cảnh tác động
xấu từ sự khủng hoảng ở Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu; kịp thời ngăn chặn các hoạt động chống
phá quyết liệt của các thế lực thù địch hòng xóa bỏ Đảng
Cộng sản Việt Nam, Hội nghị Trung ương 8 (3/1990) đã
kịp thời phân tích tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự
phá hoại của chủ nghĩa đê quốc, đề ra nhiệm vụ của Đảng
ta. Trung ương chỉ rõ cần nhận rõ nguyên nhân sâu xa
dẫn đến khủng hoảng ở Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu là do việc xây dựng mô hình chủ nghĩa xã
hội còn một số nhược điểm và khuyết điểm: cải tạo xã hội
chủ nghĩa nóng vội, hình thức sở hữu thiếu đa dạng; cơ
chế quản lý tập trung nặng về hành chính mệnh lệnh và
bao cấp; phủ nhận hoặc coi nhẹ kinh tế hàng hóa; hệ
thốhg chính trị tập trung quan liêu làm suy yếu nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa và mối liên hệ giữa Đảng vói nhân
dân...; những nhược điểm và khuyết điểm của mô hình nói
trên kéo dài quá lâu và ngày càng nặng nề, cộng vối nhiều
sai lầm khác ở nước này hay nưốc khác tích tụ dẫn đến
khủng hoảng nói trên. Hai nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
khủng hoảng: Một là, những quan điểm, khuynh hưống
sai lầm, hữu khuynh của một số người lãnh đạo Liên Xô
trong quá trình cải tổ. Hai là, các thế lực đế quốc và phản

269
động quốc tế triệt để khai thác những sai lầm, khó khăn
của các nước xã hội chủ nghĩa để tăng cường can thiệp,
phá hoại, thực hiện “diễn biến hoà bình”. Cuộc khủng
hoảng của các nước xã hội chủ nghĩa đã và đang tác động
tiêu cực đến cách mạng nước ta, làm một số người hoài
nghi đối với chủ nghĩa xã hội, giảm lòng tin đối vối Đảng
và Nhà nưóc. Một số ít phần tử cơ hội, bất mãn đẩy mạnh
hoạt động chống lại sự lãnh đạo của Đảng, đòi đa nguyên
chính trị, đa đảng, gây mất ổn định tình hình. Những
người cộng sản Việt Nam cần rút ra những bài học cần
thiết từ sự khủng hoảng đó, đổi mối nhận thức về mô hình
và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội; Đảng phải tích
cực đổi mới, nâng cao trình độ lãnh đạo và sức chiến đấu
của mình; cần cảnh giác và kiên quyết chốhg âm mưu, thủ
đoạn “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đê quốc và các
thế lực thù địch.
Từ năm 1990, Đảng và Nhà nưốc có những chủ
trương đổi mối về quan hệ đốì ngoại: “Tiếp tục mở rộng
quan hệ đối ngoại theo phương châm thêm bạn, bớt thù,
giữ vững hòa bình, để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”1.
Trước hết là bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung
Quốc, Việt Nam - Hoa Kỳ; từng bước xây dựng quan hệ
hữu nghị, hợp tác với các nưởc Đông Nam Á, thiết lập
quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và các nước châu Âu.
Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam là sốm tiến

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
t.50, tr.78.

270
hành những bước đầu tiên giải quyết bất đồng với các
nước nhưng luôn kiên trì giữ vững độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Để thực hiện chủ trương
đó, từ tháng 5/1988, Việt Nam tuyên bố rút 5 vạn quân
và Bộ Tư lệnh quân tình nguyện ở Campuchia về nưốc và
rút hết quân tình nguyện về nước vào tháng 9/1989, sớm
hơn một năm theo kế hoạch.
Nhằm thực hiện đổi mới tư duy của Đảng, Hội nghị
Trung ương 6 (3/1989) và Hội nghị Trung ương 8
(3/1990) tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách
trong công tác xây dựng Đảng1. Điểm nổi bật là đổi mới
tư duy, nhất là tư duy kinh tế; tăng cường công tác
nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đúc kết kinh nghiệm
nhằm phục vụ thiết thực việc đổi mối tư duy, cụ thể hóa
kịp thời, đúng đắn các nghị quyết của Đảng trên mọi
lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế - xã hội. Đổi mối
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; tăng cường công
tác tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu
của công cuộc đổi mới. Nâng cao chất lượng đảng viên và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Đổi mới và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quần
chúng, giữ vững mối liên hệ mật thiết giữa Đảng vối
nhân dân là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc
đổi mới và toàn bộ sự nghiệp cách mạng.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
t.49, tr.261.

271
b) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội
Đất nưốc sau hơn 4 năm thực hiện công cuộc đổi mối,
tình hình cơ bản ổn định nhưng chưa ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội. Công cuộc đổi mới còn nhiều hạn
chế, còn nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nóng bỏng chưa
được giải quyết.
Đại hội lần thứ VII của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày
24 đến ngày 27/6/1991. Dự Đại hội có 1.176 đại biểu, thay
mặt cho trên 2 triệu đảng viên cả nước. Ngoài các văn
kiện chính, điểm mối nổi bật của Đại hội VII là thông
qua hai văn kiện quan trọng: Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000.
Đại hội đã bầu 146 ủy viên Trung ương, Bộ Chính trị
gồm 13 ủy viên; đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí
thư của Đảng.
Đại hội VII khang định nền kinh tế bước đầu chuyển
biến tích cực, hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản
lý của Nhà nước, theo định hưống xã hội chủ nghĩa. Lạm
phát năm 1988 là 393,3%, đến năm 1990 giảm còn 67,4%.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII thông qua (gọi tắt là
Cương lĩnh năm 1991) đã tổng kết hơn 60 năm Đảng lãnh
đạo cách mạng Việt Nam; chỉ ra những thành công,
khuyết điểm, sai lầm và nêu ra năm bài học lớn: Một là,

272
nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Ba là, không ngừng củng cố’, tăng cường
đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn
kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Bôn là, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thòi đại. Năm là, sự lãnh đạo đúng
đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh đã khái quát xu thế phát triển của thế
giới, đặc điểm của thòi kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam; nêu rõ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
xây dựng là một xã hội có sáu đặc trưng cơ bản: “Do nhân
dân lao động làm chủ. Có một nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu
về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi
áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo
lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước
bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước
trên thế giới”1.
Cương lĩnh nêu ra bảy phương hướng lốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội là: 1) Xây dựng nhà nước xã hội chủ
nghĩa. 2) Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
t.51, tr.134.

273
đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một
nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm. 3)
Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
từ thấp đến cao vói sự đa dạng về hình thức sở hữu. 4)
Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. 5) Tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa
làm cho thế giói quan Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức
Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần
xã hội. 6) Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc.
7) Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Cương lĩnh chỉ rõ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường
với những định hướng lốn về chính sách kinh tế, xã hội,
quốc phòng - an ninh, đối ngoại. “Mục tiêu tổng quát
phải đạt tối khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong
về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với
kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa
phù hợp, làm cho nưốc ta trở thành một nước xã hội chủ
nghĩa phồn vinh”1.
Cương lĩnh nêu rõ quan điểm về xây dựng hệ thống
chính trị, xây dựng nhà nưốc xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Mặt trận Tổ

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Vẫn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
t.51, tr.136.

274
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Trong hệ thống
chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận và là
tổ chức lãnh đạo hệ thống đó. Đảng lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm
nguyên tắc tổ chức cơ bản. Xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Cương lĩnh năm 1991 đã giải đáp đúng đắn vấn đề cơ
bản nhất của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội; đặt nền tảng đoàn kết, thống nhất
giữa tư tưởng với hành động, tạo ra sức mạnh tổng hợp
đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục phát triển.
Đại hội VII lần đầu tiên thông qua Chiến lược ổn định
và phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000, trong đó xác
định mục tiêu tổng quát đến năm 2000 là ra khỏi khủng
hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt
qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển. GDP năm
2000 tăng gấp đôi so với nám 1990. Quan điểm chỉ đạo
của Chiến lược: Phát triển kinh tế - xã hội theo con đường
củng cố độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta là quá trình thực hiện dân giàu, nưốc mạnh, tiến
lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái,
có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức, bất công, tạo điều
kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
với nhiều dạng sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh,
vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước. Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì

275
con người, do con người, giải phóng sức sản xuất, khơi dậy
mọi tiểm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và
của cả cộng đồng dân tộc, động viên và tạo điều kiện cho
mọi người Việt Nam phát huy ý chí tự lực tự cường, cần
kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ra sức làm giàu cho
mình và cho đất nước. Mọi người được tự do kinh doanh
theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập
hợp pháp.
Tổng kết bài học bưốc đầu qua 5 năm đổi mới: Một
là, phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá
trình đổi mới, kêt hợp sự kiên định về nguyên tắc và
chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong sách lược,
nhạy cảm nắm bắt cái mối. Hai là, đổi mối toàn diện,
đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và
cách làm phù hợp. Ba là, phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần đi đôi vởi tăng cường vai trò quản lý
của Nhà nưởc về kinh tế, xã hội. Bôn là, tiếp tục phát
huy sâu rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng phải
được lãnh đạo tôt, có bước đi vững chắc phù hợp. Năm
là, trong quá trình đổi mới phải quan tâm dự báo tình
hình, kết hợp phát hiện và giải quyết đúng đắn những
vấn đề mối nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện
đường lối đổi mói.
Tại Đại hội VII, lần đầu tiên Đảng giương cao ngọn
cò tư tưởng Hồ Chí Minh và khẳng định: “Đảng Cộng
sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và của nhân

276
loại, nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn của
đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách
mạng đúng đắn, phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng của
nhân dân”1.
Đại hội VII tiếp tục thực hiện đường lối đối mới toàn
diện và bước đầu triển khai thực hiện Cương lĩnh và
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu tổng quát
của 5 năm 1991 - 1995 là vượt qua khó khăn thử thách, ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cưòng ổn định
chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nưốc ta
cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng.
Đại hội VII của Đảng là “Đại hội của trí tuệ - đổi mới,
dân chủ - kỷ cương - đoàn kết?, đã hoạch định con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm của Việt
Nam. Sau Đại hội, toàn Đảng, toàn dân đã sôi nổi thảo
luận và tại kỳ họp thứ 11 (4/1992), Quốc hội đã thông qua
Hiến pháp năm 1992.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, trong những năm
1991 - 1995, Ban Chấp hành Trung ương đã họp nhiều
lần, chỉ đạo tiếp tục đổi mối toàn diện, trong đó nổi bật
trên những lĩnh vực chủ yếu:
Coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu và có cách
nhìn toàn diện, trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng
nông nghiệp, nông thôn nước ta qua những năm đầu đổi
mới, Hội nghị Trung ương 5 khóa VII đã ban hành Nghị

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
t.51, tr.208-209.

277
quyết số 05-NQ/TW ngày 10/6/1993 tiếp tục đổi mới và
phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, đã đề ra các chính
sách đối vối nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Trung
ương xác định ba mục tiêu chủ yếu là: 1) Xây dựng nông
thôn mới có kinh tế phát triển, đòi sống văn hóa phong
phú, lành mạnh, có cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội đáp
ứng được những nhu cầu cơ bản của nông dân, có hệ
thôhg chính trị vững mạnh; 2) Phát huy dân chủ, bảo
đảm công bằng xã hội; 3) Tăng cường đoàn kết và ổn định
chính trị, giữ vững trật tự xã hội, củng cố vững chắc quốc
phòng, an ninh. Điểm mới trong chủ trương này của
Đảng là đề ra các quan điểm, nhiệm vụ xây dựng, phát
triển nông nghiệp, nông thôn toàn diện, khơi dậy mọi
tiềm năng, nội lực của nông dân. Trung ương đã đưa ra
quan điểm, phương hưống, nhiệm vụ và giải pháp tiếp
tục đổi mới, xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông
thôn toàn diện.
Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (7/1994) chủ trương
phát triển công nghiệp, công nghệ và xây dựng giai cấp
công nhân trong giai đoạn mới. Mục tiêu lâu dài của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nưốc ta thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, có cơ
cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với
trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và
tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, cần xây dựng
giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai

278
cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học vấn
và tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công
nghệ mối, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả
cao, vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình. Nâng
cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước,
phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân trong sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Trung ương đã chỉ ra các nhiệm vụ
và giải pháp tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới.
Kết quả, sau 5 năm 1991 - 1995, nhiều mục tiêu chủ
yếu của kế hoạch 5 năm đã hoàn thành vượt mức, GDP
đạt 8,2% (kế hoạch là 5,5 - 6,5%); đã bắt đầu có tích lũy từ
nội bộ nền kinh tế. Lạm phát từ mức 67,1% năm 1991
giảm xuông còn 12,7% năm 1995. Nền kinh tê hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước theo định hưống xã hội chủ nghĩa
tiếp tục được xây dựng.
Sau Đại hội VII, tình hình thế giới diễn biến phức tạp;
đất nưởc đứng trước những thuận lợi mối và những thách
thức mói. Hội nghị Trung ương 3 (6/1992) đã thảo luận và
đưa ra ba quyết sách quan trọng, đúng đắn về củng cố
quốc phòng, an ninh, mồ rộng quan hệ đối ngoại, đổi mới
và chỉnh đốn Đảng.
Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là
nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân,
trong đó các lực lượng vũ trang gồm Quân đội nhân dân và

279
Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt. Trong tình hình
mối, phải phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước, truyền
thống cách mạng, đề cao cảnh giác, kiên quyết chống lại
những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế
lực thù địch, xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng
toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, xây dựng các lực
lượng vũ trang trong sạch, vững mạnh, giữ vững ổn định
chính trị, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của đất nước.
Đảng, Nhà nước chủ trương mở rộng, đa dạng hóa và
đa phương hóa quan hệ đốì ngoại cả về chính trị, kinh tế,
văn hóa và khoa học - kỹ thuật, cả về Đảng, Nhà nưóc và
các đoàn thể nhân dân, các tô chức phi chính phủ, trên
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình
đẳng và cùng có lợi, bảo vệ và phát triển kinh tế, gìn giữ
và phát huy những truyền thống và bản sắc tốt đẹp của
nền văn hóa dân tộc.
Những chủ trương trên đã góp phần giữ vững ổn định
chính trị, độc lập chủ quyền và môi trường hòa bình của
đất nưởc, củng cố quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ
đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tạo điều kiện
thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới. Từ tháng 11/1991,
Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ, từng
bước khôi phục và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác
nhiều mặt; tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc
biệt với Lào; xây dựng quan hệ tốt với Campuchia; phát

280
triển quan hệ với các nưốc trong khu vực, trở thành
thành viên đầy đủ của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
ngày 28/7/1995 (ASEAN) và thiết lập quan hệ ngoại giao
Việt Nam - Hoa Kỳ ngày 11/7/1995. Đến cuối năm 1995,
Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 160 nước, quan hệ
thương mại quốc tế buôn bán với trên 100 nước... Các
công ty của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực
tiếp vào Việt Nam. Nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế
dành cho Việt Nam viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay
để phát triển. Ngày 28/7/1994, Việt Nam phê chuẩn tham
gia Công ước về Luật biển năm 1982 của Liên hợp quốc.
Hội nghị Trung ương 3 (6/1992) lần đầu tiên đưa ra
chủ trương tự đổi mối, tự chỉnh đốn Đảng1. Mục tiêu đổi
mói và chỉnh đốn Đảng là nhằm nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, phù hợp với yêu cầu
khách quan của cách mạng nước ta trong tình hình mối,
làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, bảo đảm thực
hiện có kết quả các nhiệm vụ chính trị do Đại hội VII đề
ra, trong đó trọng tâm là phát triển kinh tế, làm cho dân
giàu, nước mạnh, giữ vững ổn định chính trị. Nguyên tắc
đổi mới và chỉnh đốn Đảng là quán triệt và vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên
trì đường lối đổi mới theo định hưống xã hội chủ nghĩa,
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, thực hiện đúng các

1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,
Sđd, t.52, tr.188.

281
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, củng cố mối liên hệ
mật thiết giữa Đảng vối nhân dân. Yêu cầu và phương
châm đổi mối, chỉnh đốn Đảng: xây dựng Đảng về chính
trị và tư tưởng; chỉnh đôn Đảng về tổ chức, tạo bưóc
chuyển biến quan trọng về công tác cán bộ; đổi mới và
tăng cường công tác dân vận; tiếp tục đổi mối phương thức
lãnh đạo của Đảng.
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
tăng cường củng cố Mặt trận Dân tộc thống nhất, ngày
17/11/1993, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW
về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc
thông nhất, nhấn mạnh đại đoàn kết lấy mục tiêu chung làm
điểm tương đồng, vì lợi ích chung của dân tộc; cùng nhau xóa
bỏ định kiến, mặc cảm, hận thù, hướng về tương lai.

c) Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng
Trưốc sự biến đổi nhanh chóng của tình hình thế
giới và trong nước, lần đầu tiên Đảng tổ chức Hội nghị
giữa nhiệm kỳ (1/1994). Hội nghị khẳng định, đổi mới là
sự nghiệp khó khăn, chưa có tiền lệ, song Đảng đã
mạnh dạn tìm tòi và giành thắng lợi quan trọng. Điều cơ
bản có tính chất quyết định nhất là Đảng ta đã giữ vững
vai trò lãnh đạo duy nhất, nêu cao tinh thần độc lập tự
chủ và sáng tạo, có đường lối, chính sách phù hợp với
quy luật và thực tiễn Việt Nam, phát huy được sức
mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, mở rộng
hợp tác quốc tế.

282
Cùng với việc cụ thể hóa thực hiện Nghị quyết Đại
hội VII và bầu bổ sung 20 ủy viên Trung ương Đảng,
nhận thức mới của Hội nghị giữa nhiệm kỳ là chỉ rõ
những thách thức lốn và những cơ hội lớn. Hội nghị chỉ
rõ các nguy cơ: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất
phát thấp, nhịp độ tăng trưởng chưa cao và chưa vững
chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt;
nguy cơ chệch hưống xã hội chủ nghĩa nếu không khắc
phục được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách
và chỉ đạo thực hiện; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ
quan liêu; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực
thù địch. Các nguy cơ đó có liên quan mật thiết với nhau,
tác động lẫn nhau.
Song, Hội nghị cũng khẳng định: Đảng ta có đường
lối đúng đắn, đoàn kết nhất trí, nhân dân ta cần cù,
thông minh, giàu lòng yêu nưốc, có bản lĩnh và ý chí
cách mạng kiên cường, tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng,
các lực lượng vũ trang tuyệt đối trung thành vối sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân, những thành
tựu của công cuộc đổi mới đang tạo ra thế và lực mới, sự
phát triển của cách mạng khoa học - kỹ thuật, xu thế
mở rộng quan hệ hợp tác phát triển trên thế giới và
khu vực mang đến cho chúng ta thêm những nguồn lực
quan trọng.
Trong văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII của
Đảng lần đầu tiên khẳng định xây dựng Nhà nước pháp

283
quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Hội nghị Trung ương 8 (1/1995) đã cụ thể hóa một
bước chủ trương đó và chủ trương tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện Nhà nưốc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, cải cách một bước nền hành chính nhà nước1. Nhận
thức mới của Đảng là: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyên
lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tăng cường pháp chê xã
hội chủ nghĩa. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật,
đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội, kết
hợp biện pháp hành chính với giáo dục tư tưởng, nâng
cao dân trí, kết hợp sức mạnh của pháp luật vối sức
mạnh của quần chúng.
Với quan điểm coi con người là nhân tố quyết định, là
động lực to lốn nhất, là chủ thể sáng tạo mọi nguồn của cải
vật chất và tinh thần của xã hội; coi hạnh phúc của con
người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của Đảng, Hội nghị
Trưng ương 4 đã ban hành 5 nghị quyết: về tiếp tục đổi mới
sự nghiệp giáo dục và đào tạo; về một số nhiệm vụ văn hóa
văn nghệ những năm trước mắt; về những vấn đề cấp bách
của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân; vê
chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; về công tác

1- Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đẳng toàn tập,
Sđd’ t.54, tr.161.

284
t hanh niên trong thời kỳ mổi. Các nghị quyết trên cho thấy
quan điểm cách mạng và nhân văn của Đảng: Tất cả là do
con người, tất cả vì hạnh phúc con người.

2. Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công


nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế (từ
năm 1996 đến nay)

a) Đại hội đại biểu toàn quô'c lần thứ VIII và bước
đầu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng họp
tại Hà Nội từ ngày 28/6 đến ngày 1/7/1996, trong bôì
cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển
vối trình độ cao hơn, chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào
thoái trào. Sau 10 năm đổi mới, nhân dân Việt Nam đã
giành được những thắng lợi bước đầu về kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, phá được thế bị
bao vây, cô lập. Tuy vậy, nưốc ta vẫn là nước nghèo, kém
phát triển, xã hội còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề
phải giải quyết.
Dự Đại hội có 1.198 đại biểu, thay mặt cho hơn 2,1
triệu đảng viên trong cả nưốc. Đại hội đã thông qua các
văn kiện chính trị quan trọng, bầu đồng chí Đỗ Mười tiếp
tục làm Tổng Bí thư. Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương tại Đại hội VIII đã bổ sung đặc trưng
tổng quát về mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh, nêu bật những vấn đề trọng tâm sau:

285
Tổng kết 10 năm đổi mối (1986 - 1996), đất nước thu
được những thành tựu to lón, có ý nghĩa rất quan trọng.
Nưốc ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng
một số mặt còn chưa vững chắc. Con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ngày càng được xác định rõ hơn. Nhiệm vụ
đề ra cho chặng đường đầu của thòi kỳ quá độ là chuẩn
bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành, cho
phép chuyển sang thời kỳ mối: đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. “Xét trên tổng thể, việc
hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm
qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa, tuy trong quá trình thực hiện có một số’ khuyết
điểm, lệch lạc lớn và kéo dài dẫn đến chệch hướng ở lĩnh
vực này hay lĩnh vực khác, ở mức độ này hay mức độ
khác”1. Đại hội nêu ra sáu bài học chủ yếu qua 10 nám
đổi mối: Một là, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới; nắm vững hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai là,
kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời
từng bước đổi mới chính trị. Ba là, xây dựng nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà
nưốc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đẳng toàn tập, Sđd,
t.55, tr.356.

286
kinh tế gắn liền vối tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường
sinh thái. Bôn là, mở rộng và tăng cường khôi đại đoàn
kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc. Năm
là, mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng
hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết hợp sức mạnh
của dân tộc với sức mạnh thòi đại. Sáu là, tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ
then chốt.
Quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa trong thời kỳ
mới gồm các nội dung: 1) Giữ vững độc lập, tự chủ, đi đôi
vối mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính
đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. 2) Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của
mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nưốc giữ vai
trò chủ đạo. 3) Lấy việc phát huy nguồn lực con người là
yếu tô' cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. 4)
Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; kết hợp công nghệ truyền thống vối công
nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ỏ những
khâu quyết định. 5) Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu
chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn
dự án đầu tư và công nghệ. 6) Kết hợp kinh tế vởi quốc
phòng và an ninh.
Xây dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nưốc là vấn đề có
ý nghĩa quyết định hàng đầu. Đảng phải tiếp tục tự đổi

287
mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa sức chiến đấu và
năng lực lãnh đạo của mình, khắc phục cho được các biểu
hiện tiêu cực và yếu kém. cần phải giữ vững và tăng
cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; nâng cao
bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng
viên; củng cố Đảng về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên
tắc tập trung dân chủ; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ;
nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng; tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng và đổi mới công tác
kiểm tra và kỷ luật của Đảng.
Đại hội VIII đánh dấu bước ngoặt của Đảng, đưa đất
nước sang thòi kỳ mởi, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, xây dựng nưốc Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Sau Đại hội VIII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
họp nhiều lần, chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ trọng
tâm, nổi bật là:
Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm; phát
huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, ra
sức cần kiệm, nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh của nền
kinh tế. Cần kiệm để công nghiệp hóa, khắc phục xu
hướng chạy theo “xã hội tiêu dùng”. Tập trung xây dựng
cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời
quan tâm xây dựng quan hệ sản xuất, từng bưốc quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Hưống mạnh về xuất khẩu, nhưng
không được coi nhẹ sản xuất và thị trường trong nước.
Thực hiện cơ chế thị trường, nhưng Nhà nước phải quản lý

288
và điều tiết theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển
kinh tế phải đi đôi vởi thực hiện công bằng xã hội.
Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu là: Thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu đầu tư.
Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hợp tác hóa, dân chủ hóa.
Đẩy mạnh đổi mới, phát triển và quản lý có hiệu quả các
loại hình doanh nghiệp. Tiếp tục đổi mới và lành mạnh
hóa hệ thống tài chính - tiền tệ; thực hành triệt để tiết
kiệm. Tích cực giải quyết việc làm và xóa đói, giảm
nghèo. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân về kinh tế - xã hội.
Vối các chủ trương trên về kinh tế, nưốc ta đã vượt
qua khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực từ
tháng 7/1997. Đến năm 2000, kinh tế đất nước tăng
trưởng khá, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình
quân hằng năm 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc
biệt là sản xuất lương thực. Giá trị sản xuất công nghiệp
bình quân hằng năm tăng 13,5%. Các ngành dịch vụ, xuất
khẩu và nhập khẩu đều phát triển. Năm 2000, các chỉ tiêu
chủ yếu đều đạt hoặc vượt kế hoạch đề ra.
Công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có những tiến bộ
quan trọng, nhưng còn nhiều khuyết điểm, yếu kém.
Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII đã thông qua Nghị
quyết số 03-NQ/HNTW ngày 18/6/1997 về phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nưốc

289
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững
mạnh; trong đó, nhấn mạnh ba yêu cầu lớn: Một là, tiếp tục
phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân
dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực
tiếp để nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ nhà nước.
Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nưốc Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả; cán bộ, công chức nhà nước thật
sự là công bộc, tận tụy phục vụ nhân dân. Ba là, tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đốì với Nhà nước. Nhiệm vụ và giải
pháp lớn được Đảng đề ra trong Nghị quyết là: mở rộng dân
chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân trong xây dựng và quản lý nhà nưốc; nâng cao chất
lượng hoạt động và kiện toàn tổ chức Quốc hội; tiếp tục cải
cách nền hành chính nhà nưốc; cải cách tư pháp; tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đốỉ vởi Nhà nước.
Về công tác cán bộ, Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nưốc được thông
qua tại Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, trong đó, Đảng
chủ trương: xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất
và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ về số’
lượng, đồng bộ về cơ cấu. Tiêu chuẩn chủ yếu của cán bộ
là: Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân
dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nưốc. cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết
đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật.

290
Trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân,
được nhân dân tín nhiệm. Có trình độ hiểu biết về lý luận
chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn,
đủ năng lực và sức khỏe. Các tiêu chuẩn đó quan hệ mật
thiết vối nhau. Coi trọng cả đức và tài, lấy đức là gốc.
Hội nghị Trung ương 4 khóa VIII (12/1997) bầu đồng
chí Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí thư.
Thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng, Hội
nghị Trung ương 6 (lần 2) (2/1999) đã đề ra Nghị quyết sô’
10-NQ/TW ngày 2/2/1999 về một sô’ vấn đề cơ bản và cấp
bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Trong đó
yêu cầu: tăng cường sự thống nhất trong Đảng về nhận
thức, ý chí và hành động, kiên trì đấu tranh đẩy lùi bốn
nguy cơ; đảng viên phải nói và làm theo nghị quyết, thực
hiện đúng Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và pháp luật Nhà
nước; kiên định những quan điểm có tính nguyên tắc sau:
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; Đảng Cộng sản
Việt Nam là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam;
không chấp nhận “đa nguyên, đa đảng”. Nhà nước Việt
Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản
trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Kết hợp
chủ nghĩa yêu nưổc chân chính và chủ nghĩa quốc tế trong
sáng của giai cấp công nhân.
Nhằm tiếp tục xây dựng và củng cô’ tổ chức bộ máy
của hệ thông chính trị từ Trung ương đến cơ sở, Hội nghị

291
Trung ương 7 khóa VIII (8/1999) đã xác định rõ hơn chức
năng, nhiệm vụ và tổ chức các ban của Đảng ở các cấp; cải
tiến cách làm việc của các cơ quan của Quốc hội, của
Chính phủ và chính quyền địa phương; chỉ đạo và sắp xếp
tổ chức của hai ngành kiểm sát và toà án; xây dựng quy
chế làm việc, đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận
và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Trước tình hình mất dân chủ xảy ra nghiêm trọng ở
một số địa phương, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số
30-CT/TW ngày 18/2/1998 về xây dựng và thực hiện
Quy chê dân chủ ở cơ sở. Sau đó, Chính phủ, Mặt trận
Tô quôc Việt Nam và các tổ chức trong hệ thông chính
trị đã phối hợp ban hành Quy chế dân chủ ở các loại
hình tổ chức cơ sở, ở xã, phường, thị trấn, ở các cơ quan,
đơn vị và trên các lĩnh vực trên cả nước.
Để đáp ứng yêu cầu tạo nguồn nhân lực có chất lượng
trong thòi kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII (12/1996) đã ban hành
hai nghị quyết, đó là:
- Nghị quyết số 02-NQ/HNTW ngày 24/12/1996 về
định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến
năm 2000 đã xác định quan điểm: nhiệm vụ và mục tiêu
cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng con người là những
người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa
“chuyên”; giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong phát
triển giáo dục - đào tạo; coi giáo dục - đào tạo là sự nghiệp
của toàn Đảng, của Nhà nưốc và của toàn dân; mọi người

292
đi học, học thường xuyên, học suốt đời; kết hợp giáo dục
nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội, tạo nên
môi trường giáo dục lành mạnh ỏ mọi nơi, trong từng cộng
đồng, từng tập thể; phát triển giáo dục - đào tạo gắn với
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ khoa
học - công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh.
- Nghị quyết số 02-NQ/HNTW ngày 24/12/1996 về
định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ
đến năm 2000 với quan điểm chỉ đạo của Đảng là: Vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa những giá trị văn hóa truyền
thốhg của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại,
đi sâu điều tra, nghiên cứu thực tế, tổng kết sâu sắc quá
trình đổi mới đất nước. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng
các thành tựu khoa học và công nghệ trong tất cả các
ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý và quốc
phòng - an ninh. Nâng cao năng lực nội sinh, xây dựng,
phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ của nước nhà,
từng bước hình thành nền khoa học và công nghệ hiện đại
của Việt Nam.
Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao
động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ
nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao
lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới.
Văn hóa Việt Nam tiếp tục được phát huy, đã góp phần
quyết định vào những thắng lợi to lốn của nhân dân ta
trong sự nghiệp đổi mới. Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII

293
đã ban hành Nghị quyết số' 03-NQ/TW ngày 16/7/1998 về
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, với quan điểm: Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng và phát
triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công
bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện. Nền văn
hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội
dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm
mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển
phong phú, tự do, toàn diện của con người trong môì quan
hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự
nhiên. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả
trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển
tải nội dung. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền
vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam
được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nưốc nồng nàn, ý
chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng
gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quôc; lòng nhân
ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù,
sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản
dị trong lôì sống... Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với
mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc văn hóa các
dân tộc khác. Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chông
lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán, lề thói cũ.

294
Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất
trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. 54 dân
tộc sống trên đất nước ta đều có những giá trị và bản sắc
văn hóa riêng, bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn
hóa Việt Nam. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự
nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ
trí thức giữ vai trò quan trọng. Văn hóa là một mặt trận,
xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên
trì, thận trọng. Kiên trì cuộc đấu tranh bài trừ thói hư tật
xấu, nâng cao tính chiến đấu, chông mọi sự lợi dụng văn
hóa để thực hiện “diễn biến hòa bình”.
Mười nhiệm vụ cụ thể xây dựng và phát triển văn hóa
là: Xây dựng con người Việt Nam; xây dựng môi trường
văn hóa; phát triển sự nghiệp văn học - nghệ thuật; bảo
tồn và phát huy các di sản văn hóa; phát triển sự nghiệp
giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ; phát triển đi
đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng; bảo tồn,
phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số; chính
sách văn hóa đốì vởi tôn giáo; củng cố, xây dựng và hoàn
thiện thể chế văn hóa; mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII được coi như
tuyên ngôn văn hóa của Đảng trong thời kỳ thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ đó, phong trào thi đua
“Toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hóa” được
phát động rộng rãi trên cả nước, trên nhiều lĩnh vực góp
phần làm chuyển biến phong phú thêm đời sông tinh
thần toàn xã hội.

295
b) Đại hội đại biêu toàn quô'c lần thứ IX, tiếp tục thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nưóc
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp tại
Hà Nội, từ ngày 19 đên ngày 22/4/2001, là Đại hội mở đầu
thế kỷ XXI, cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri
thức, toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ. Sau sự kiện ngày
11/9/2001 ở Mỹ, một SỐ’ nước lớn đã lợi dụng cuộc chiến
chống khủng bô' để tăng cường can thiệp vào công việc nội
bộ của nhiều nưóc. Khu vực Đông Nam Á, châu Á - Thái
Bình Dương trở thành khu vực phát triển kinh tê năng
động nhưng tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Sau
15 năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, tạo thế và lực mới nhưng nền kinh tế phát triển
chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Chỉ tiêu
tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm mà Đại hội VIII
đề ra là 9 - 10% đã không đạt. Các nguy cơ mà Hội nghị
giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (1/1994) đã nêu ra vẫn
là những thách thức lổn của cách mạng nước ta.
Dự Đại hội IX có 1.168 đại biểu, thay mặt cho hơn 2,2
triệu đảng viên trong cả nước. Đại hội đã thông qua các
văn kiện chính trị quan trọng, trong đó có Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010; xác định rõ
những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại
hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa IX gồm 150
ủy viên. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung
ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 15 đồng chí và Ban Bí thư
gồm 9 đồng chí; đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm
Tổng Bí thư của Đảng.

296
Thế kỷ XX ghi đậm trong lịch sử loài người ba dấu ấn
cực kỳ sâu sắc: Khoa học và công nghệ tiến nhanh chưa
từng thấy; diễn ra hai cuộc chiến tranh thế giối đẫm máu;
đầu thế kỷ, phong trào cách mạng phát triển rộng trên
toàn thế giới, cuối thế kỷ, chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm
thời lâm vào thoái trào. Đối với nước ta, thế kỷ XX là thế
kỷ của những biến đổi to lớn, thế kỷ của những chiến công
và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại: Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời mở ra bưốc ngoặt của cách mạng Việt Nam;
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc
thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; thắng
lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân
tộc, bảo vệ Tổ quốc; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, từng
bước đưa đất nưóc quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Kết quả thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2000 đã đưa “tổng sản phẩm
trong nước năm 2000 tăng hơn gấp đôi so với năm 1990”1.
Đại hội đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10
năm 2001 - 2010 vối mục tiêu tổng quát là đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm
2020, nưốc ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hưống hiện đại; tiếp tục đưa GDP năm 2010 lên gấp đôi so
vối năm 2000.
Đại hội khẳng định những bài học đổi mởi do các Đại
hội VI, VII, VIII của Đảng nêu lên vẫn còn có giá trị lớn,

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
t.60, tr.175.

297
nhất là những bài học: Trong quá trình đổi mới phải kiên
trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi
mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù
hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Đổi mới phải kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đường lốĩ đúng
đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự
nghiệp đổi mới.
Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước
Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. “Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện
và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nưóc ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thông tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”1. Tư tưởng Hồ
Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta
giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và
dân tộc ta. Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận
thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
Con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
nưóc ta là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
t.60, tr.130.

298
việc xác lập vị trí thông trị của quan hệ sản xuất và kiên
trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiêp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chê
độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh
tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chê độ tư bản chủ
nghĩa là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải
trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng
đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất
quá độ. Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu
về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế.
Quan hệ các giai cấp, tầng lốp xã hội là quan hệ hợp
tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp
tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tô quốc.
Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp hiện nay là thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng
nưốc nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội,
chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc
phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá
của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng
nước ta thành một nưốc xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân
dân hạnh phúc.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn
kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông
dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi

299
ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và
nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Đảng, Nhà nưốc chủ trương thực hiện nhất quán và
lâu dài nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; coi đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta
trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hưống xã
hội chủ nghĩa; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, nhiều hình thức phân phối, chủ yếu phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời
phân phối theo mức đóng góp vốh và các nguồn lực khác
vào sản xuất, kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi
xã hội.
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của
nhân dân; góp phần xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể
chất, về năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân
ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống văn hóa,
quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lốĩ đối ngoại độc lập
tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ
quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đốì tác tin cậy của

300
các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình,
độc lập và phát triển.
Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục đẩy mạnh công
cuộc đổi mởi, đánh dấu bước trưởng thành trong nhận
thức về vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, phát triển và cụ thể hóa Cương lĩnh
chính trị năm 1991 của Đảng trong những năm đầu thế
kỷ XXI.
Các hội nghị Trung ương Đảng khóa IX đã chỉ đạo
đổi mới toàn diện, nổi bật nhất là những nhiệm vụ trọng
tâm sau:
Đảng và Nhà nưốc đã thực hiện nhiều chủ trương,
biện pháp tích cực đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nưốc, đã đạt nhiều kết quả tích cực. Tuy
nhiên, doanh nghiệp nhà nước cũng còn những mặt hạn
chế, yếu kém, có mặt rất nghiêm trọng. Hội nghị Trung
ương 3 khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TW
ngày 24/9/2001 về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
Qua 5 năm 1996 - 2001, kinh tế tập thể mà nòng cốt
là hợp tác xã kiểu mởi dưới nhiều hình thức, trình độ khác
nhau trong các ngành, lĩnh vực, nhất là trong nông
nghiệp, nông thôn đã có đổi mới, đóng góp quan trọng vào
phát triển kinh tế - xã hội của đất nưóc. Tuy nhiên, kinh
tế tập thể còn nhiều mặt yếu kém, năng lực nội tại hạn
chế; hiệu quả ít; kinh tế tập thể chiếm tỷ trọng thấp trong
GDP, chưa đủ sức đảm nhiệm tốt vai trò của mình. Hội
nghị Trung ương 5 khóa IX (3/2002) đã thống nhất nhận

301
thức về sự cần thiết phát triển kinh tế tập thể và chủ
trương xác lập môi trường thể chế và tâm lý xã hội thuận
lợi cho kinh tế tập thể phát triển, sửa đổi, bổ sung các cơ
chế, chính sách; nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước;
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của
Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân đối với phát triển kinh tế tập thể.
Qua 10 năm 1991 - 2001, kinh tế tư nhân - gồm kinh
tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, đã phát triển
rộng khắp trong cả nước, đóng góp quan trọng vào phát
triển kinh tế. Tuy vậy, kinh tế tư nhân nước ta còn nhiều
hạn chế, yếu kém như: quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ sản
xuất lạc hậu, trình độ quản lý kém, hiệu quả và sức cạnh
tranh yếu, gặp nhiều khó khăn, vướng mắc về cơ chế hoạt
động. Hội nghị Trung ương 5 (3/2002) đã thảo luận, thống
nhất nhận thức, coi kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế
tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần định hưởng xã hội chủ nghĩa.
Trung ương quyết định tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách,
khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân.
Sau khi Luật đất đai năm 1987 được ban hành, những
đổi mối trong chính sách, pháp luật về đất đai đã đưa đến
những kết quả tích cực, thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy
nhiên, công tác quản lý và sử dụng đất đai còn nhiều hạn
chế, yếu kém và nhiều vấn đề bức xúc: Đất đai chưa được
chuyển dịch hợp lý, hiệu quả sử dụng còn thấp. Tình trạng
người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai và tình

302
hình khiếu kiện về đất đai diễn ra nghiêm trọng và phổ
biến; việc thu hồi đất, đền bù giải toả mặt bằng thực hiện
hết sức khó khăn. Hội nghị Trung ương 7 khóa IX (3/2003)
đã thống nhất nhận thức coi đất đai là tài nguyên quốc gia
vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn nội
lực và nguồn vốn to lốn của đất nước; quyền sử dụng đất
là hàng hóa đặc biệt. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thông nhất quản lý.
Trung ương chủ trương tiếp tục đổi mói chính sách, pháp
luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nưốc. Nhà nước giao đất, cho thuê đất cho
các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu
dài hoặc có thời hạn theo pháp luật. Nhà nưốc không thừa
nhận việc đòi lại đất đã được Nhà nước giao cho cá nhân,
tổ chức sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách
đất đai.
Qua 15 năm đổi mới, tình hình tư tưởng trong Đảng
và trong nhân dân nhìn chung có nhiều mặt tích cực và
tiêu cực đan xen nhau, trong đó mặt tích cực là cơ bản.
Tuy vậy, mặt tiêu cực có lúc, có nơi cũng rất nghiêm
trọng, thực sự là nguy cơ tiềm ẩn, liên quan đến sự mất
còn của Đảng, của chế độ. Hội nghị Trung ương 5 khóa IX
(3/2002) đã đề ra những nhiệm vụ chủ yếu của công tác
tư tưởng, lý luận của Đảng trong tình hình mới. Hội nghị
nhấn mạnh, cần đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên
cứu lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ hơn lý luận về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền,

303
giáo dục lý luận chính trị; chủ động tiến công, làm thất
bại chiến lược “diễn biến hòa bình”, âm mưu bạo loạn lật
đổ của các thế lực thù địch.
Qua 10 năm 1991 - 2001, công tác nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả quan
trọng, tuy vậy, việc tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ
Chí Minh còn một số hạn chế, yếu kém. Ngày 27/3/2003,
Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 23-CT/TW về đẩy mạnh
nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
trong giai đoạn mới nhằm làm cho toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân nhận thức sâu sắc nguồn gốc, nội dung, giá trị,
vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định và làm cho
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng
giữ vai trò chủ đạo trong đời sốhg tinh thần của xã hội ta.
Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về
tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, về đại
đoàn kết toàn dân tộc, về dân tộc, tôn giáo, về Mặt trận
và các đoàn thể nhân dân. Nhìn chung, khối đại đoàn kết
toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được mở rộng
hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế -
xã hội, giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, khối đại đoàn kết toàn dân tộc chưa thật bền
chặt và đứng trước những thách thức mối. Lòng tin vào
Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ phận nhân dân
chưa vững chắc. Nguyên nhân là do đời sống nhân dân
còn khó khăn, mặt khác, những bất công xã hội và tình
trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí còn khá phổ biến

304
và nghiêm trọng, kỷ cương phép nước nhiều lúc, nhiều
nơi không nghiêm, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp, trật
tự an toàn xã hội còn phức tạp. Các vụ khiếu kiện đông
người vẫn còn nhiều, có lúc, có nơi diễn ra gay gắt. Việc
tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các đoàn thể, các tổ
chức xã hội còn nhiều hạn chế. Trước tình hình đó, Hội
nghị Trung ương 7 (3/2003) đã ban hành ba nghị quyết
quan trọng:
- Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 12/3/2003 về phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nghị
quyết khẳng định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh,
động lực chủ yếu và là nhân tô có ý nghĩa quyết định bảo
đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Đại đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu giữ vững
độc lập, thông nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nưốc mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương
đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá
khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin
cậy lẫn nhau, cùng hưống tới tương lai. Nghị quyết đề cập
toàn diện và tổng thể vấn đề dân tộc ở nước ta, tập trung
vào những nội dung chủ yếu và cấp bách của công tác dân
tộc trong thòi kỳ mói, bảo đảm công bằng và bình đẳng xã
hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của
các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; thực hiện dân chủ gắn
liền với giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng,
lãng phí; không ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu

305
nước, ý thức độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tinh
thần tự lực, tự cường xây dựng đất nước.
- Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 về công tác
dân tộc, khẳng định, trải qua các thời kỳ cách mạng, công
tác dân tộc đã đạt được những thành tựu to lởn, góp phần
quan trọng vào sự nghiệp cách mạng chung của đất nước.
Tuy nhiên, do tác động của tình hình thế giới và hoạt động
của các thế lực thù địch cả trong và ngoài nước, tình hình
dân tộc ở nước ta có những diễn biến phức tạp hơn. cần
nhận thức rõ vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề
chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời là vấn đề cấp bách
hiện nay của cách mạng Việt Nam. Các dân tộc trong đại
gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp
nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Trung ương đã đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp thực
hiện công tác dân tộc trong thòi kỳ mới.
- Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 về công tác
tôn giáo khẳng định, Đảng và Nhà nưốc ta luôn xác định
công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có ý nghĩa rất quan
trọng. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một
bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng, Nhà
nước thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo
đúng pháp luật. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích

306
cực của truyền thốhg thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những
người có công vối Tô quốc. Nghiêm cấm sự phân biệt đốì
xử vởi công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời,
nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê
tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của
Nhà nưốc.
Đến năm 2002, có khoảng 2,7 triệu người Việt Nam
đang sông ở gần 90 nước và vùng lãnh thổ, ngoài ra, còn
hàng trăm nghìn người Việt Nam ra nước ngoài lao động,
, học tập, tu nghiệp, đoàn tụ gia đình, hình thành các cộng
đồng người Việt Nam ở nưóc ngoài. Đa số họ có đòi sống
ổn định, có tiềm lực kinh tế nhất định, có vị trí và quan
hệ nhất định ở nước sở tại, luôn nuôi dưỡng tinh thần yêu
nước, tự tôn dân tộc, giữ gìn truyền thống văn hóa, hưống
về cội nguồn, gia đình, dòng tộc, quê hương; có những
đóng góp nhất định vể các mặt cho đất nước. Tuy nhiên,
người Việt Nam ở một số’ nưốc còn nhiều khó khăn trong
việc Ổn định cuộc sông, ở một số nơi còn bị kỳ thị. Một số
người chưa có dịp về thăm đất nước, chưa thấy những
thành tựu của công cuộc đổi mới, vẫn còn thành kiến,
mặc cảm, thậm chí chông phá đất nước. Trong bôì cảnh
đó, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 36-
NQ/TW ngày 26/3/2004 về công tác đốì vối người Việt
Nam ở nước ngoài, chủ trương coi người Việt Nam ở nước
ngoài là bộ phận không tách ròi, là nguồn lực của cộng
đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần
tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nưốc ta vối
các nước. Nhà nước có trách nhiệm thoả thuận vối các

307
nưốc hữu quan về khuôn khổ pháp lý để đồng bào ổn
định cuộc sống và bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng
đổng người Việt Nam ở nưởc ngoài theo luật pháp, công
ước và thông lệ quốc tế.
Sau Đại hội IX, tình hình thế giới diễn biến rất mau
lẹ, phức tạp; sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, hội nhập quốc tế và bảo vệ Tổ quốc ỏ nước ta đang
đặt ra những vấn đề mới rất cấp thiết. Hội nghị Trung
ương 8 khóa IX (7/2003) đã ban hành Chiến lược bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mói. Sau khi chỉ rõ những thành tựu, I
khuyết điểm, yếu kém của Đảng trong thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc, dự báo tình hình quốc tế, khu vực, tình
hình đất nước, Chiến lược xác định: Mục tiêu bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự
nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị
quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững
an ninh chính trị và môi trường hòa bình, phát triển đất
nưởc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm chỉ
đạo của Đảng là: Giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt của Đảng đốì với sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với công
nhân xã hội; lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn
định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của
Tố quốc. Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược là xây
dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam

308
xã hội chủ nghĩa. Xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính
trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại...; ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh
thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi ở bên ngoài; chủ
động phòng ngừa và triệt tiêu những nhân tố bên trong có
thể dẫn đến những đột biến bất lợi.
Nhiệm vụ cơ bản về bảo vệ Tổ quốc là: Giữ vững hòa
bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nưởc theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Xây dựng Đảng là nhiệm vụ theo chốt, kết hợp
chặt chẽ với bảo vệ Đảng, bảo vệ vững chắc an ninh chính
trị nội bộ. Nỗ lực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm
là phát triển kinh tế gắn vối giải quyết tốt các vấn đề xã
hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; không
ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm công bằng xã
hội, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đồng thời chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế. Phát huy sức mạnh khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, mở rộng dân chủ xã hội chủ
nghĩa đi đôi với việc tăng cường trật tự kỷ cương, chú
trọng giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nâng cao vai
trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường quốc phòng, giữ
vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ
trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nưốc và của toàn
dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là
lực lượng lòng cốt. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, mở rộng
hợp tác quốc tế, ưu tiên phát triển hợp tác với các nưốc
láng giềng, chú trọng thúc đẩy quan hệ vối các nước và

309
trung tâm lớn. Trên cơ sở đó, Trung ương đã đưa ra các
nhiệm vụ cơ bản và giải pháp chủ yếu bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới.

c) Đại hội đại biểu toàn quô'c lẩn thứ X của Đảng và
quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng họp tại
Hà Nội, từ ngày 18 đến ngày 25/4/2006, vào thời điểm đất
nưởc đã trải qua 20 nàm đổi mối, đạt những thành tựu to
lớn có ý nghĩa lịch sử. Đất nước có sự thay đổi cơ bản, toàn
diện, thế và lực, uy tín quốc tế tăng lên nhiều so vói trưốc.
Tình hình quốc tế diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó
lường. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta
có những thuận lợi và cơ hội lớn, nhưng cũng gặp nhiều
khó khăn, thách thức không thể xem thường.
Dự Đại hội có 1.176 đại biểu, thay mặt cho hơn 3,1
triệu đảng viên trong cả nước. Đại hội đã thông qua các
văn kiện chính trị và bầu Ban Chấp hành Trung ương
khóa X gồm 160 ủy viên chính thức, 21 ủy viên dự khuyết;
Bộ Chính trị gồm 14 đồng chí; đồng chí Nông Đức Mạnh
được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng.
Các văn kiện của Đại hội trình bày toàn diện những
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thòi kỳ mới,
nổi bật là nhiệm vụ trọng tâm, tổng quát thể hiện trong
chủ đề của Đại hội: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển”.

310
Đại hội X đã tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn
của 20 năm đổi mối. Sau khi đánh giá quá trình đổi mới,
chỉ rõ những thành tựu, khuyết điểm, yếu kém, Đại hội đã
chỉ ra những bài học cần thiết để tiếp tục hoàn thiện
đường lốì chỉ đạo đẩy mạnh sự nghiệp đổi mối trong
những năm tiếp theo, gồm: Một là, trong quá trình đổi mới
phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa,
có bưốc đi, hình thức và cách làm phù hợp. Ba là, đổi mới
phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy
vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ
thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Bốn là, phát huy cao độ
nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mối.
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, không ngừng đổi mối tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị, xây dựng và từng bưổc hoàn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về
nhân dân.
Đại hội X có sự tiếp thu, bổ sung hai đặc trưng mới
của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng so vối
Cương lĩnh năm 1991, đó là: Dân giàu, nước mạnh, công
bằng, dân chủ, văn minh; có Nhà nưôc pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, đồng thời diễn đạt lại các đặc trưng khác.
Cụ thể: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân

311
chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế
phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công,
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn
diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà
nưốc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các
nước trên thế giới.
Đại hội X xác định nhiệm vụ then chốt là xây dựng,
chỉnh đốn Đảng. Đây là thành tố đầu tiên của chủ đề Đại
hội. Chính vì Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm
quyền duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam; mọi thành
tựu và khuyết điểm của công cuộc đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc đều gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo và
hoạt động của Đảng. Trong tình hình cơ hội và thách thức
đan xen nhau, đòi hỏi xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải đáp
ứng bằng được yêu cầu vừa kiên định sự lãnh đạo của
Đảng, vừa nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng để Đảng ngang tầm với trọng trách của mình.
Muốn vậy, Đảng phải nâng cao năng lực hoạch định đưồng
lối, chính sách; năng lực tổ chức chỉ đạo thực hiện, tổng
kết lý luận thực tiễn, phải tạo thống nhất nhận thức và
hành động trong Đảng; lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể
quần chúng, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với

312
nhân dân. Nâng cao sức chiến đấu của Đảng là làm cho
từng cán bộ, đảng viên, từng tổ chức đảng, nói chung là
toàn Đảng phải có ý chí vươn lên, hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ được giao; thường xuyên rèn luyện phẩm chất
đạo đức, kiên quyết đấu tranh vối tiêu cực, tham nhũng,
suy thoái, đấu tranh chống các tư tưởng, quan điểm và
hành động sai trái, thù địch.
Phải xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị,
tư tưởng, tổ chức, từ đội ngũ cán bộ đến phương thức lãnh
đạo của Đảng. Điểm mối của Đại hội X là đã làm sáng tỏ
bản chất của Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong
của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân
lao động và của dân tộc.
Quan điểm mới nổi bật của Đại hội X là đã cho phép
đảng viên làm kinh tế tư nhân, kể cả tư bản tư nhân,
nhưng yêu cầu phải tuân thủ Điều lệ Đảng, nghị quyết
của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đồng thời nêu cao
tính tiền phong gương mẫu của người đảng viên. Đây là
chủ trương đúng đắn, vừa phù hợp với thực tế, vừa động
viên mọi nguồn lực vào thực hiện mục tiêu của Đảng là
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
Nội dung mối của thành tô' thứ hai trong chủ đề Đại
hội X là “phát huy sức mạnh toàn dân tộc”. Muôn đoàn kết
phải lấy mục tiêu chung của toàn dân tộc là giữ vững độc
lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã

313
hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để
gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lốp
nhân dân ỏ trong nước và người Việt Nam định cư ở nước
ngoài. Điểm mới ở đây là xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến,
phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp; tôn
trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của
dân tộc. Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây
dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định
chính trị và đồng thuận xã hội. Đại hội đã chỉ ra nhiều
biện pháp, hình thức, nhằm phát huy dân chủ, có chính
sách bảo vệ lợi ích của các giai cấp, các tầng lốp nhân dân,
bảo đảm công bằng xã hội.
Nội dung mới trong thành tô" thứ ba của chủ đề Đại
hội X là “đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới”. Đại hội
nhấn mạnh cần tập trung vào các lĩnh vực chủ yếu: Tiếp
tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn vối phát triển kinh tế tri thức. Mở rộng quan hệ đối
ngoại, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, Việt
Nam là bạn, đôi tác tin cậy của các nưổc trong cộng đồng
quốc tế.
Đại hội X của Đảng là dấu mốc quan trọng trong tiến
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nưốc.
Các văn kiện được thông qua tại Đại hội X là kết tinh trí
tuệ và ý chí của toàn Đảng, toàn dân quyết tâm đổi mối
toàn diện, phát triển vối tốc độ nhanh và bền vững hơn
trong thời kỳ mới.

314
Thực hiện Nghị quyết Đại hội X, các hội nghị Trung
ương Đảng đã họp, thảo luận và quyết định nhiều vấn đề
quan trọng, nổi bật là:
Lần đầu tiên, tại Hội nghị Trung ương 4 khóa X Đảng
ta ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/2/2007 về
Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Trung ương
nhận định, thế kỷ XXI được thế giới xem là thế kỷ của đại
dương. Các quốc gia có biển đều rất quan tâm đến biển và
xây dựng chiến lược biển. Khu vực Biển Đông, trong đó
bao gồm vùng biển Việt Nam, có vị trí địa kinh tế và địa
chính trị rất quan trọng. Với nguồn tài nguyên phong phú
và đa dạng, biển Việt Nam càng có vai trò to lớn hơn đối
với sự nghiệp phát triển đất nước. Từ những năm 90 của
thế kỷ XX, Đảng và Nhà nưốc ta đã có một số nghị quyết,
chính sách về các lĩnh vực liên quan đến biến. Trưốc tình
hình mới, phát triển kinh tế phải gắn với bảo vệ chủ
quyền, quyền chủ quyền quốc gia đối với biến, đảo và vùng
trời của Tổ quốc, đòi hỏi nước ta cần có chiến lược biển
toàn diện nhằm phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của
biển đối vối sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trung
ương đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, kinh tế biển
Việt Nam đóng góp khoảng 53 - 55% GDP, 55 - 60% kim
ngạch xuất khẩu cả nưốc.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng: Nước ta phải trở thành
quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, trên cơ sở phát
huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các
ngành, nghề biển vối cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra

315
tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao vối tầm
nhìn dài hạn. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế,
xã hội vối bảo đảm quốc phòng, an ninh, hợp tác quốc tế
và bảo vệ môi trường; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển
vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thu hút mọi
nguồn lực để phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi
trường biển trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa.
Phát huy đầy đủ, có hiệu quả các nguồn lực bên trong,
tranh thủ hợp tác quốc tế, thu hút mạnh các nguồn lực
bên ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
đất nước.
Đường lối đổi mới của Đảng đã được thể chế hóa thành
Hiến pháp, pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh
tế thị trường định hưóng xã hội chủ nghĩa hình thành và
phát triển. Tuy nhiên, quá trình xây dựng thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chậm, chưa
theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mối và hội nhập kinh tế
quốc tế của đất nưốc. Hệ thông luật pháp, cơ chế, chính
sách chưa đầy đủ, đồng bộ và thống nhất. Mặt trái của
kinh tế thị trường tác động dẫn đến nhiều tiêu cực trong
các lĩnh vực của đòi sốhg xã hội, làm nảy sinh các vấn đề
kinh tế - xã hội bức xúc. Hội nghị Trung ương 6 khóa X đã
ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30/1/2008 về tiếp
tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Quan điểm chỉ đạo của Trung ương là:

316
Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các
quy luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc
tế, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam, bảo
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế. Bảo
đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế
kinh tế; giữa các yếu tố thị trường và các loại thị trường;
giữa thể chế kinh tế vối thể chế chính trị, xã hội; giữa Nhà
nưốc, thị trường và xã hội. Gắn kết hài hòa giữa tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển
văn hóa và bảo vệ môi trường. Kế thừa có chọn lọc thành
tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh
nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nưốc ta; chủ động
và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo đảm
giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội. Nâng cao năng lực lãnh
đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước,
phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá
trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hưống xã
hội chủ nghĩa. Trên cơ sở quan điểm đó, Trung ương đã
nêu ra các nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau hơn 20 năm đổi mới, nông nghiệp, nông dân, nông
thôn đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn. Nông
nghiệp, nông thôn đứng trưóc nhiều thách thức mới, phát
triển còn kém bền vững, thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội yếu kém. Đời sống của nông dân còn nhiều
khó khăn. Hội nghị Trung ương 7 khóa X (8/2008) đã đánh

317
giá tình hình nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta
và lần đầu tiên đưa ra những quyết sách mạnh mẽ về chủ
trương, nhiệm vụ, giải pháp, giải quyết đồng thời ba vấn
đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Quan điểm chỉ đạo
của Trung ương là: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có
vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng
quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ
vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ
gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi
trường sinh thái của đất nước. Các vấn đề nông nghiệp,
nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với
quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nưốc. Phát triển nông
nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của
từng vùng, từng lĩnh vực; phát huy cao nội lực; đồng thời
tăng mạnh đầu tư của Nhà nưốc và xã hội, ứng dụng
nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho
nông nghiệp, nông thôn, phát triển nguồn nhân lực, nâng
cao dân trí nông dân. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông
dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và
toàn xã hội; trước hết, phải khơi dậy tinh thần yêu nưốc,
tự chủ, tự lực, tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng

318
xã hội nông thôn ổn định, hòa thuận, dân chủ, có đời sống
văn hóa phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực
cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới,
nâng cao đời sống nông dân.
Những chủ trương trên đã góp phần quan trọng vào
phát triển kinh tế 5 năm (2005 - 2010): tốc độ tăng GDP
bình quân đạt 7%. Tổng vốh đầu tư toàn xã hội gấp 2,5 lần
so vối giai đoạn 2001 - 2005, đạt 42,9% GDP. Mặc dù thời
gian này, khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu đang diễn ra, nhưng thu hút vốn đầu tư nưốc ngoài
vào nưốc ta đạt cao. GDP năm 2010 tính theo giá thực tế
đạt 101,6 tỉ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000; GDP bình
quân đầu người đạt 1.168 USD. Việt Nam năm 2008 đã ra
khỏi tình trạng nưốc nghèo, đứng vào nhóm các nước có
thu nhập trung bình.
Đảng và Nhà nước đã luôn chú trọng công tác đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và đã đạt được
một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí còn nhiều hạn chế,
khuyết điểm, hiệu quả thấp. Tham nhũng, lãng phí vẫn
diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều
lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả
xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, là
một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng
và chế độ ta. Trong tình hình mới, Hội nghị Trung ương 3
khóa X đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày
21/8/2006 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đổi với công

319
tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Điểm
nổi bật của chủ trương này là Đảng lãnh đạo chặt chẽ công
tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; phát huy sức
mạnh của cả hệ thống chính trị và của toàn dân; thực hiện
đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành
chính, kinh tế, hình sự; tích cực, chủ động phòng ngừa là
chính, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Gắn
phòng, chống tham nhũng, lãng phí vối xây dựng, chỉnh
đốn Đảng. Coi đây là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài,
phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục vởi những
bưởc đi vững chắc, tích cực và có trọng tâm, trọng điểm.
Kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chú trọng tổng
kết thực tiễn và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước
ngoài trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Công tác kiểm tra của Đảng có nhiều đổi mới và đạt
được những kết quả quan trọng, góp phần tích cực vào
thực hiện nhiệm vụ chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng. Tuy nhiên, chất lượng và hiệu
quả công tác kiểm tra chưa cao, chưa phát huy được sức
mạnh tổng hợp của các ngành, các lĩnh vực trong kiểm
tra; chưa coi trọng kiểm tra phòng ngừa; nhiều khuyết
điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được
phát hiện và khắc phục. Hội nghị Trung ương 5 khóa X
đã ban hành Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 30/7/2007 về
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, với
quan điểm chỉ đạo là: Kiểm tra, giám sát là nội dung rất
quan trọng trong lãnh đạo của Đảng, là nhiệm vụ thường
xuyên của toàn Đảng, trước hết là của cấp ủy và người

320
đứng đầu cấp ủy. Công tác kiểm tra, giám sát phải được
tiến hành công khai, dân chủ, khách quan, thận trọng và
chặt chẽ theo đúng nguyên tắc, phương pháp công tác
đảng. Tổ chức đảng, đảng viên chịu sự kiểm tra, giám sát
của Đảng và chịu sự giám sát của nhân dân. Tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát phải gắn chặt vối công tác tư
tưởng, công tác tổ chức và đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng; thực hiện toàn diện, đồng bộ, có hiệu lực, hiệu
quả; phải góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức; thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
chính trị của Đảng. Thực hiện đồng bộ giữa công tác kiểm
tra và công tác giám sát. Giám sát phải mở rộng, kiểm tra
phải có trọng tâm, trọng điểm. Chủ động phòng ngừa vi
phạm, kịp thời phát hiện những nhân tố mới để phát huy;
khắc phục thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm ngay từ lúc
mổi manh nha. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng
phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, lấy xây là chính.
Khi các vụ việc vi phạm được phát hiện, phải kiên quyết
xử lý nghiêm minh để răn đe và giáo dục. Đề cao trách
nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên; phát huy vai trò,
trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thông chính trị và
nhân dân trong kiểm tra, giám sát. Trên cơ sở quan
điểm đó, Trung ương đã nêu ra các nhiệm vụ và giải
pháp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
trong thời kỳ mối.
Nghị quyết Trung ương 4 khóa X (4/2007) đã chủ
trương sắp xếp bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước ở
Trung ương tinh gọn và hiệu lực, hiệu quả hơn. Còn 6 ban

321
tham mưu của Trung ương; Chính phủ có 22 bộ và cơ quan
ngang bộ.
Nhằm tập trung chỉ đạo xây dựng cơ sở đảng vững
mạnh, nhiều tổ chức cơ sở đảng đã phát huy được vai trò
hạt nhân chính trị ỏ cơ sỏ. Tuy nhiên, năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội
ngũ cán bộ, đảng viên còn khuyết điểm, yếu kém. Hội
nghị Trung ương 6 khóa X đã ban hành Nghị quyết số
22-NQ/TW ngày 2/2/2008 về nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ
cán bộ, đảng viên, trong đó khẳng định: tổ chức cơ sở đảng
có vị trí rất quan trọng, là nền tảng của Đảng, là hạt nhân
chính trị ở cơ sở, là cầu nốì giữa Đảng với dân. Toàn Đảng
phải tập trung chỉ đạo để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
trên tất cả lĩnh vực đời sống xã hội; táng cường mối quan
hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào dân để xây
dựng Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống
chính trị trong việc tham gia xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sỏ vững
mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Trên cơ sở quan điểm đó, Trung ương đã nêu ra các nhiệm
vụ và giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ,
đảng viên trong thời kỳ mởi.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm
quyền, vì vậy, phương thức lãnh đạo của Đảng tác động
trực tiếp, thúc đẩy hoặc kìm hãm hoạt động của tất cả
các tổ chức trong hệ thống chính trị. Sau hơn 20 nám đổi

322
mới, Đảng ta đã quan tâm nhiều hơn và có kết quả trong
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Tuy vậy, trong
thực tế, có nơi Đảng bao biện làm thay, có nơi buông lỏng
lãnh đạo đối với hoạt động của hệ thông chính trị. Hội
nghị Trung ương 5 khóa X đã ban hành Nghị quyết số
15-NQ/TW ngày 30/7/2007 về tiếp tục đổi mối phương
thức lãnh đạo của Đảng đốì vối hoạt động của hệ thống
chính trị. Quan điểm chỉ đạo của Trung ương là: Đổi mởi
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ
thông chính trị phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ
đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị
phải trên cơ sở kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Đảng, cụ thể là: Thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ; thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng
và trong xã hội; đẩy mạnh phân cấp, tăng chế độ trách
nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đốĩ vối hoạt động của hệ thống
chính trị là công việc hệ trọng. Phải chủ động, tích cực, có
quyết tâm cao, đồng thời cần thận trọng, có bưốc đi vững
chắc, vừa làm, vừa tổng kết, rút kinh nghiệm. Đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đôi với hoạt động của hệ
thống chính trị ở mỗi cấp, mỗi ngành vừa phải quán triệt
nguyên tắc chung, vừa phù hợp với đặc điểm từng cấp,
ngành. Trên cơ sở quan điểm đó, Trung ương đã nêu ra
các nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đôì vdi hoạt động của hệ thông chính
trị trong thời kỳ mới.

323
Trong bôì cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu và
toàn diện vào nền kinh tế thế giối, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường định
hưống xã hội chủ nghĩa, cải cách hành chính có vai trò rất
quan trọng để bảo đảm sự phát triển nhanh và bền vững
của đất nước. Từ sau Đại hội IX, việc cải cách hành chính
đã đạt những kết quả tích cực. Tuy nhiên, nền hành chính
nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Hệ thống thể
chế, luật pháp, nhất là thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn không ít bất cập, vướng
mắc. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức vẫn chưa đáp
ứng kịp yêu cầu; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng
phí vẫn còn nghiêm trọng. Những yếu kém, hạn chế của
cải cách hành chính đã làm cản trở tiến trình phát triển
nhanh và bền vững của đất nưốc. Hội nghị Trung ương 5
khóa X đã ban hành Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày
1/8/2007 về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước. Quan điểm chỉ
đạo của Trung ương là: cải cách hành chính phải được
tiến hành trên cơ sở các nghị quyết và nguyên tắc của
Đảng về xây dựng hệ thống chính trị, đổi mới phương thức
lãnh đạo và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng. Tiếp tục
hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và quy chế phối hợp để
nâng cao vai trò, trách nhiệm của từng cơ quan và cả bộ
máy nhà nước. Thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng,
đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phục vụ tốt nhất
cho nhân dân và chịu sự giám sát chặt chẽ của nhân dân.
Các chủ trương, giải pháp cải cách hành chính phải đáp

324
ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. cải
cách hành chính phải được tiến hành đồng bộ, vững chắc,
có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp vối điều kiện lịch sử cụ
thể và bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững của đất
nước. Trung ương đã đề ra yêu cầu, nhiệm vụ và giải pháp
đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý của bộ máy nhà nước.
Ngày 29/5/2008, với sự chỉ đạo của Trung ương Đảng,
Quốc hội khóa XII đã ra Nghị quyết số 15/2008/QH12 về
việc điều chỉnh địa giới hành chính thành phô Hà Nội và
một số tỉnh có liên quan, kể từ ngày 1/8/2008. Đây là một
quyết định đúng đắn, phù hợp với các điều kiện địa lý, lịch
sử, văn hóa truyền thông; phát huy đầy đủ các chức năng
và vị thế của một thủ đô hiện đại của đất nước đang đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quô'c tế.
Trong thời kỳ đổi mới, giai cấp công nhân Việt Nam là
một lực lượng xã hội to lớn, phát triển cả về số lượng và
chất lượng. Tuy nhiên, số lượng, cơ cấu, trình độ học vấn,
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, kỷ luật lao động, tác
phong công nghiệp của công nhân chưa đáp ứng được yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập
kinh tế quốc tế; việc làm, đời sống vật chất và tinh thần
của công nhân còn nhiều khó khăn, lợi ích của một bộ
phận công nhân chưa tương xứng với thành tựu của công
cuộc đổi mối và sự đóng góp của chính họ. Hội nghị Trung
ương 6 khóa X đã ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW
về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong

325
thòi kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nưốc.
Quan điểm chỉ đạo của Trung ương là: Kiên định quan
điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng
thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai
cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; tiên
phong, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nưởc. Trung ương đã nêu ra các quan điểm, nhiệm
vụ và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh
gắn kết hữu cơ với đại đoàn kết toàn dân tộc; đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân; coi đó là
trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội.
Trên cơ sở đó, Trung ương đã nêu ra nhiệm vụ và giải
pháp xây dựng giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nưốc.
Trước yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, sự biến đổi
nhanh chóng của tình hình thanh niên, Hội nghị Trung
ương 7 khóa X đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW
ngày 25/7/2008 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
vối công tác thanh niên thòi kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Quan điểm chỉ đạo của Trung ương là:
Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai
của đất nưốc, là lực lượng xung kích trong xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự
thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược
bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người.

326
Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là
động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển vững bền
của đất nước. Chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục thanh niên
thành lớp người “vừa hồng, vừa chuyên” theo tư tưởng Hồ
Chí Minh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưói sự
lãnh đạo của Đảng, vai trò quan trọng của Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, gia đình, nhà trường và xã
hội. Đảng lãnh đạo công tác thanh niên và trực tiếp lãnh
đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Xây dựng
Đoàn vững mạnh là nội dung quan trọng trong công tác
xây dựng Đảng, là xây dựng Đảng trưốc một bưốc. Đảng
đề ra đường lối, chủ trương định hướng cho thanh niên
hành động, xác định các chuẩn mực cho thanh niên phấn
đấu; xây dựng các tấm gương điển hình tiêu biểu cho
thanh niên học tập và noi theo. Nhà nước quản lý thanh
niên và công tác thanh niên; thể chế hóa đường lối, chủ
trương của Đảng về thanh niên và công tác thanh niên
thành pháp luật, chính sách, chiến lược, chương trình
hành động và cụ thể hóa trong các chương trình, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh
hằng năm của các cấp, các ngành. Sự nỗ lực học tập, rèn
luyện và phấn đấu không ngừng của thanh niên theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh là yếu tố quan trọng để xây
dựng thế hệ thanh niên thòi kỳ mới. Mở rộng mặt trận
đoàn kết, tập hợp thanh niên là nội dung quan trọng của
công tác đoàn để giáo dục, bồi dưỡng, động viên và phát
huy vai trò thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Trung ương đã nêu ra nhiệm vụ và giải pháp

327
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đốĩ với công tác thanh
niên thòi kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nhận thức sâu sắc “hiền tài là nguyên khí quốc gia”,
trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước luôn coi
trọng, quan tâm và có nhiều chủ trương, chính sách phát
triển đội ngũ trí thức, bước đầu tạo điều kiện thuận lợi để
đội ngũ trí thức phát triển. Tuy nhiên, đội ngũ trí thức
nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chê và yếu kém vê' số lượng,
chất lượng, cơ cấu, thiếu chuyên gia đầu ngành, chưa có
nhiều tập thể khoa học mạnh, có uy tín ở khu vực và quốc
tế. Hội nghị Trung ương 7 khóa X đã ban hành Nghị
quyết số 27-NQ/TW ngày 6/8/2008 về xây dựng đội ngũ
trí thức trong thòi kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Quan điểm của Trung ương là: Trí thức
Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan
trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nưốc và hội nhập quốc tế. Xây dựng đội ngũ
trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân
tộc, sức mạnh của đất nưởc, nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị.
Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển
bền vững. Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm
chung của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị, trong đó
trách nhiệm của Đảng và Nhà nước giữ vai trò quyết
định. Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư
tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Trung ương đã nêu ra nhiệm vụ và giải

328
pháp xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong bối cảnh các thế lực thù địch tiếp tục chống
phá, kích động bạo loạn, đẩy mạnh hoạt động “diễn biêh
hòa bình”, với các chủ trương của Đảng, đất nước vẫn
giữ được ổn định chính trị, đạt được những thành tựu
quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ
Đại hội X đề ra, tuy còn nhiều hạn chế, khuyết điểm cần
được khắc phục.
Qua 3 năm thực hiện Chỉ thị số' 23-CT/TW, ngày
27/3/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX về
đây mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng
Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới, toàn Đảng, toàn dân ta
đã thu được nhiều kết quả tốt trong học tập, quán triệt,
vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trước yêu cầu của tình hình mới, Hội nghị Trung ương 12
khóa IX (7/2005) đã chỉ đạo thí điểm Cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Tháng
11/2006, Bộ Chính trị khóa X quyết định tổ chức Cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
trong toàn Đảng, toàn dân. Mục đích của cuộc vận động là
làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về những
nội dung cơ bản, giá trị to lớn của tư tưởng và tấm gương
đạo đức Hô Chí Minh. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý
thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức
của Người sâu rộng trong toàn xã hội; đẩy lùi sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sông và các tệ nạn xã
hội. Nội dung cuộc vận động tập trung chủ yếu vào học tập

329
và làm theo tư tưởng đạo đức trong tác phẩm Nâng cao
đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Di chúc;
tập trung vào các phẩm chất “cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư”, ý thức tổ chức kỷ luật, có trách nhiệm, ý thức
phục vụ nhân dân, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân,
quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Qua học tập, mỗi người
liên hệ tự phê bình; quần chúng ở cơ sở góp ý xây dựng
thêm. Từng cơ quan, đơn vị xây dựng tiêu chuẩn đạo đức,
lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức. Từ năm 2008
đến năm 2010, với các chủ đề khác nhau hằng năm, cuộc
vận động đã trở thành phong trào sâu rộng trong toàn xã
hội, tạo sự chuyển biến rõ rệt về ý thức tu dưỡng, rèn
luyện của cán bộ, đảng viên.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất
nước qua 20 năm đổi mối làm cho đa số nhân dân phấn
khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước và triển vọng phát
triển của đất nưởc. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại biểu hiện
tiêu cực về tư tưỏng diễn biến phức tạp và nghiêm trọng,
tiềm ẩn các nguy cơ trực tiếp gây mất ổn định chính trị, đó
là tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sông trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và
nhân dân chưa được khắc phục, làm giảm sức chiến đấu
của Đảng và lòng tin của nhân dân với Đảng và chế độ.
Trong Đảng đã xuất hiện các ý kiến khác nhau về đường
lốì của Đảng, chính sách của Nhà nước. Trong xã hội đã
phát sinh tâm trạng bức xúc đáng lo ngại. Các phần tử cơ
hội, bất mãn trong nưốc kết hợp với thế lực thù địch, phản
động ở nước ngoài tăng cường xuyên tạc, vu cáo, chống

330
phá quyết liệt Đảng, Nhà nước. Trong bối cảnh đó, Hội
nghị Trung ương 5 khóa X đã ban hành Nghị quyết số 16-
NQ/TW ngày 1/8/2007 về công tác tư tưởng, lý luận và báo
chí trưốc yêu cầu mới. Trung ương nhấn mạnh: Công tác
tư tưởng, lý luận, báo chí là bộ phận cấu thành đặc biệt
quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng, là lĩnh vực
trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị của chế
độ. Công tác tư tưởng, lý luận, báo chí phải đóng vai trò
quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của
Đảng, làm cho hệ tư tưởng của Đảng, những giá trị truyền
thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa thế
giới chiếm vị trí chủ đạo trong đời sổhg tinh thần xã hội.
Công tác tư tưởng là nhiệm vụ của toàn Đảng, của tất cả
đảng viên, trước hết là cấp ủy các cấp và bí thư cấp ủy,
của cả hệ thống chính trị vối sự tham gia của nhân dân,
trong đó lực lượng nòng cốt là đội ngũ chuyên trách làm
công tác tư tưởng, lý luận, báo chí của Đảng.
Văn học, nghệ thuật cũng là một trong những lĩnh vực
được Đảng quan tâm, chỉ đạo. Nghị quyết số 23-NQ/TW,
ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và
phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mối xác định
quan điểm chỉ đạo của Đảng là: Văn học, nghệ thuật là
lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hóa; là
nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của
con người; là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp
phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát
triển toàn diện của con người Việt Nam. Văn học, nghệ

331
thuật Việt Nam thời kỳ mới phải phát triển toàn diện và
mạnh mẽ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân
chủ. Chăm lo phát hiện, bồi dưỡng, quý trọng và phát huy
các tài năng văn học, nghệ thuật là trách nhiệm của toàn
xã hội, trước hết là của Đảng, Nhà nước và của các tổ chức
trong hệ thống chính trị các cấp.
Hội nghị Trung ương 6 khóa X (1/2008), Đảng chủ
trương “Cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội
và trợ cấp ưu đãi người có công giai đoạn 2008 - 2012”.
Quan điểm chỉ đạo của Trung ương là: Coi việc trả lương
đúng cho người lao động là thực hiện đầu tư cho phát
triển, tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội, góp
phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của bộ máy nhà nưóc. Trung ương chỉ rõ, phải tiến
tới bảo đảm cho cán bộ, công chức, viên chức sống được
bằng tiền lương ở mức trung bình khá trong xã hội. Cải
cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu
đãi người có công phải gắn vối việc kiềm chế tốc độ tăng
giá, bảo đảm tốt hơn đời sông của người nghèo, đồng bào
dân tộc, đối tượng chính sách xã hội nhằm thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bưốc và từng
chính sách phát triển.
Tháng 11/2006, sau hơn 10 năm đàm phán, Việt Nam
chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại thế giới (WT0). Đây là một dấu mốc quan
trọng trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế, mỏ ra
nhiều thuận lợi cho đất nước. Để chỉ rõ những cơ hội lốn
và những thách thức lớn về nhiều mặt, Hội nghị Trung

332
ương 4 khóa X ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
5/2/2007 về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh
tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành
viên của Tổ chức Thương mại thế giới. Quan điểm chỉ đạo
của Trung ương khi nưốc ta gia nhập WT0 là: Giữ vững
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hội nhập vì lợi ích
đất nước, giữ vững định hưống xã hội chủ nghĩa, thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Coi hội nhập kinh tế quốc tế là công việc của
toàn dân. Nhân dân là chủ thể của hội nhập và được
hưởng thành quả từ hội nhập. Duy trì tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao đi liền với nâng cao chất lượng và hiệu quả của
tăng trưởng. Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội;
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ môi trường sinh
thái. Gắn khai thác với sử dụng có hiệu quả cao nội lực và
các nguồn lực bên ngoài. Đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể
chế, cơ chế, chính sách kinh tế. Giữ vững và tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò của Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn
trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng
cường sức mạnh của khôi đại đoàn kết toàn dân trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Về đối ngoại, thành tựu nổi bật sau 5 năm 2006 - 2010
là Việt Nam đã mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu các
quan hệ đối ngoại, góp phần tạo ra thế và lực môi, giữ
vững Ổn định chính trị và tạo được một môi trường quốc tế
thuận lợi chưa từng có để giữ vững hòa bình, an ninh và
mở rộng hợp tác, tranh thủ vốn, kỹ thuật, tri thức, kinh

333
nghiệm để phát triển đất nước. Việt Nam đã trở thành
thành viên 150 của tổ chức WTO; đăng cai và tổ chức
thành công tuần lễ cao cấp APEC (Diễn đàn kinh tế châu
Á - Thái Bình Dương) lần thứ 14 (11/2006). Đến năm
2010, Việt Nam có quan hệ thương mại đầu tư với 230
nước và vùng lãnh thổ, trong đó các đốỉ tác lớn nhất là
Trung Quốc và Mỹ.
Hoàn thành phân giới cắm mốc trên biên giói đất liền
với Trung Quốc1; bước đầu đàm phán phân định vùng biển
ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ vối Trung Quốc. Phát triển quan
hệ đặc biệt với Lào, tăng dày hệ thống mốc biên giới với
Lào; hợp tác toàn diện và hoàn thành một bưốc phân giới
cắm mốc trên đất liền với Campuchia. Ngoại giao văn hóa
có nhiều khởi sắc, nhiều công trình văn hóa được công
nhận là di sản văn hóa thế giới2. Công tác về người Việt
Nam ở nước ngoài đạt kết quả tích cực; lượng kiều hốì gửi
về nưốc tăng tới 8 tỉ USD năm 2010.

1. Hiệp ước về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung
Quốc được ký kết năm 1999. Sau 8 năm thực hiện, theo phương
châm “dễ trước, khó sau”, đến ngày 31/12/2008, đã hoàn thành.
Lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam - Trung Quốc hoạch định
đường biên giới trên đất liền rõ ràng và hiện đại, đặt nền tảng
vững chắc cho việc xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị,
ổn định lâu dài, hợp tác và phát triển giữa hai nước.
2. Kinh đô Huế, Thánh địa Mỹ Sơn, Hoàng thành Thăng Long,
Vịnh Hạ Long, không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, nhã
nhạc cung đình Huế, quan họ Bắc Ninh,...

334
d) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng bổ
sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991
Đại hội XI của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 12 đến
ngày 19/1/2011, trong bối cảnh tình hình thế giới tiếp tục
diễn biến phức tạp. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là
xu thế lón, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang,
khủng bố, tranh chấp lãnh thổ diễn biến phức tạp. Thiên
tai, dịch bệnh, khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu, ô
nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu xảy ra nghiêm trọng
trên toàn thế giới, cả nước vừa kỷ niệm 1.000 năm Thăng
Long - Hà Nội với những thành tựu quan trọng nhưng còn
nhiều yếu kém cần được khắc phục. Các thế lực thù địch
tiếp tục chống phá, kích động bạo loạn, đẩy mạnh hoạt
động “diễn biến hòa bình”.
Dự Đại hội có 1.377 đại biểu, thay mặt cho 3,6 triệu
đảng viên trong cả nước. Nội dung nổi bật của Đại hội XI
là thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011); Chiến lược, phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 175 ủy
viên chính thức và 25 ủy viên dự khuyết, Bộ Chính trị
gồm 14 đồng chí; đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu
làm Tổng Bí thư của Đảng.
Đại hội XI thể hiện trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của
toàn Đảng, toàn dân ta, tiếp tục khẳng định, hoàn thiện
và phát triển đường lốì đổi mới trên nền tảng chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

335
- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), gọi
tắt là Cương lĩnh năm 2011 có kết cấu bốh phần cơ bản
như Cương lĩnh năm 1991, được bổ sung, phát triển nhận
thức mói ở tiêu đề và nội dung từng phần, cụ thể là:
+ Quá trình cách mạng Việt Nam và những bài học
kinh nghiêm.
Cương lĩnh nám 2011 có diễn đạt mới về những thắng
lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đó là thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược,
mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm
1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ
quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới. Cách diễn đạt
mổi đảm bảo vừa trung thực vởi lịch sử, vừa cổ vũ niềm tự
hào dân tộc và phù hợp với quan hệ đốì ngoại trong tình
hình mới. Ngoài ra còn bổ sung ý nghĩa của những thành
quả do các thắng lợi trên mang lại và đánh giá tổng quát
sai lầm, khuyết điểm và nguyên nhân, thái độ của Đảng
trước những sai lầm đó.
Cương lĩnh khẳng định những bài học kinh nghiệm
lốn: Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Ba là, không ngừng
củng cố, tăng cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng, đoàn
kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Bôn là,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh
trong nước vối sức mạnh quốc tế. Năm là, sự lãnh đạo

336
đúng đắn của Đảng là nhân tô' hàng đầu quyết định thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh năm 2011 có sửa
đổi hai từ bảo đảm bằng từ quyết định ồ bài học thứ năm;
bổ sung vào nội dung phân tích ở bài học thứ hai: “Quan
liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân, sẽ dẫn đến những tổn
thất khôn lường đốỉ vối vận mệnh của đất nưốc, của chế độ
xã hội chủ nghĩa và của Đảng”1.
+ Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong bốì
cảnh mới diễn biến phức tạp.
Về đặc điểm, xu thế chung: Cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa
diễn ra mạnh mẽ. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu
hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn
tại và phát triển. Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp
tác và phát triển là xu thế lốn; nhưng đấu tranh dân tộc,
đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang,
xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động
can thiệp, lật đổ, khủng bô', tranh chấp lãnh thổ biển, đảo,
tài nguyên, cạnh tranh quyết liệt về kinh tê' tiếp tục diễn
ra phức tạp. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông
Nam Á phát triển năng động nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều
nhân tô' mất ổn định.
Đánh giá về chủ nghĩa xã hội: Liên Xô và các nưốc xã
hội chủ nghĩa đã đạt những thành tựu to lốn về nhiều
mặt, từng là chỗ dựa cho phong trào hòa bình và cách

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quô'c lẩn thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.65.

337
mạng thế giới, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. “Chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là tổn
thất lốn đối với phong trào cách mạng thế giới, nhưng một
số’ nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt
Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải
cách, đổi mối, giành được những thành tựu to lón, tiếp tục
phát triển; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có
những bưởc hồi phục”1.
Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển,
nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất
công. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục
xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại
đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định
vận mệnh của chủ nghĩa tư bản.
Các nước đang phát triển, kém phát triển phải tiến
hành cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức tạp chống nghèo
nàn, lạc hậu, chống mọi sự can thiệp, áp đặt và xâm lược
để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc.
Những vấn đề toàn cầu cấp bách liên quan đến vận
mệnh loài người. Đó là gìn giữ hòa bình, đẩy lùi nguy cơ
chiến tranh, bảo vệ môi trường sông, hạn chế sự bùng nổ
về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi bệnh tật hiểm nghèo. Ớ
đây, Cương lĩnh năm 2011 bổ sung hai vấn đề là chông
khủng bô’ và ứng phó vói biến đổi khí hậu toàn cầu.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Sđd, tr.68.

338
Đặc điểm nổi bật hiện nay của thòi đại là: các nưóc có
chế độ chính trị và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn
tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi
ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các
nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và
tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng
sẽ có những bước tiến mới. “Theo quy luật tiến hóa của
lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”1.
Về mô hình, mục tiêu, phương hướng cơ bản: Cương
lĩnh năm 2011 nêu rõ: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”2.
Trong các đặc trưng, ngoài đặc trưng “Có nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” không đổi, Cương lĩnh
năm 2011 có bổ sung hai đặc trưng bao trùm, tổng quát:
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, ván minh”, “có

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lẩn thứ XI, Sđd, tr.69, 70.

339
Nhà nưốc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Các
đặc trưng khác diễn đạt mới rõ hơn, không chỉ là thay đổi
từ ngữ mà chứa đựng những nội dung mới, với ý nghĩa
phù hợp hơn với mục tiêu khi nước ta đã xây dựng xong
chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh năm 2011 nhấn mạnh, quá trình xây dựng
xã hội xã hội chủ nghĩa là quá trình cách mạng sâu sắc,
triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mởi nhằm
tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đòi
sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thòi kỳ quá độ
lâu dài vởi nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế, xã hội đan xen.
Sau khi chỉ rõ những thuận lợi cơ bản, Cương lĩnh
năm 2011 xác định mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời
kỳ quá độ ỏ nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng
kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về
chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta
trỏ thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh,
hạnh phúc. Mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI là xây dựng
nước ta trở thành một nưốc công nghiệp hiện đại, theo
định hưống xã hội chủ nghĩa.
Cương lĩnh năm 2011 chỉ rõ tám phương hưống cơ bản
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nưốc ta: Một là, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nưóc gắn với phát triển
kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hai là,
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản

340
sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân
dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo
đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Cương lĩnh năm 2011 yêu cầu giải quyết tốt tám mốì
quan hệ lớn: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển;
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị
trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển
lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bưốc
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh
tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế;
giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nưốc quản lý, nhân dân làm chủ.
+ Những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, quô'c phòng, an ninh, đô'i ngoại.
“Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân
phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật
đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế,

341
bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp
tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nưốc giữ vai trò
chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và
phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân; kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền
kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyên
khích phát triển”1.
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nưốc gắn với phát triển
kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng
cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững,
gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi
trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp
chế tạo có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi
thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình
độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn vối công nghiệp chế
biến và xây dựng nông thôn mới. Bảo đảm phát triển hài
hòa giữa các vùng, miền. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm
nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, trở
thành nền tảng tinh thần vững chắc. Kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Vẫn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thú XI, Sđd, tr.73-74.

342
dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân
loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh,
vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ
tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao.
Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, là
chủ thể phát triển. Xây dựng con người Việt Nam giàu
lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có
tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa
tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng gia đình
no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh
của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục
nếp sống và hình thành nhân cách.
Coi phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển
khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho
giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mối căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của
xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện
đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục
vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy
mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho
mọi công dân học tập suốt đòi.
Nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu
khoa học và công nghệ hiện đại trên thế giới. Hình thành
đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng
dụng nhân tài, đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ.
Bảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa vụ của cả
hệ thống chính trị, toàn xã hội và của mọi công dân. Kết
hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô

343
nhiễm vối khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát
triển năng lượng sạch, sản xuất và tiêu dùng sạch. Coi
trọng nghiên cứu, dự báo, thực hiện các giải pháp ứng phó
với biến đổi khí hậu và thảm họa thiên nhiên.
Kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ; khuyến
khích tăng thu nhập và làm giàu dựa vào lao động; thiết
lập hệ thống đồng bộ, đa dạng về bảo hiểm và trợ cấp xã
hội; hạn chế, tiến tới đẩy lùi tội phạm và giảm tác hại của
tệ nạn xã hội. Bảo đảm quy mô hợp lý, cân bằng giới tính
và chất lượng dân số.
Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các
giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa
vụ và quyền lợi. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cả
về số lượng và chất lượng. Xây dựng, phát huy vai trò chủ
thể của giai cấp nông dân trong quá trình phát triển nông
nghiệp, nông thôn. Đào tạo, bồi dưỡng, phát huy mọi tiềm
năng và sức sáng tạo của đội ngũ trí thức để tạo nguồn trí
tuệ và nhân tài cho đất nước. Xây dựng đội ngũ những
nhà kinh doanh có tài, những nhà quản lý giỏi, có trách
nhiệm xã hội, tâm huyết với đất nước và dân tộc. Quan
tâm đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ kế tục xứng đáng sự
nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Thực hiện bình
đẳng giới và hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ. Quan
tâm thích đáng lợi ích và phát huy khả năng của các tầng
láp dân cư khác. Hỗ trợ đồng bào định cư ở nưốc ngoài ổn
định cuộc sốhg, giữ gìn bản sắc dân tộc, chấp hành tốt
pháp luật các nưốc sở tại, hưóng về quê hương, tích cực
góp phần xây dựng đất nưốc. Thực hiện chính sách bình

344
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân
tộc, gắn bó mật thiết vối sự phát triển chung của cộng
đồng dân tộc Việt Nam. Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân theo quy định của pháp luật.
Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thông nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chê độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định
chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn
xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu
và hành động chống phá của các thê lực thù địch đốì vối
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Phát triển đường
lối, nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân và lý
luận, khoa học an ninh nhân dân. Chủ động, tăng cường
hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh. Tăng cường sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự
quản lý tập trung thống nhất của Nhà nưóc đối vối
Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp
quốc phòng, an ninh.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì
một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn,
đốì tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giối.

345
Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tê
cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn
liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng
pháp luật, được pháp luật bảo đảm.
Nhà nưốc ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực
nhà nưốc thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân vói giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực
nhà nước là thông nhất; có sự phân công, phôi hợp và kiểm
soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật;
tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Mặt trận TỔ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có
vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn
dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp,
tầng lởp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam
định cư ở nưốc ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một
bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là
thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận hoạt
động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ,
phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên.

346
về Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh năm 2011 bổ
sung cách diễn đạt bản chất của Đảng: Đảng Cộng sản
Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân
tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc, đồng thời
khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức
cơ bản.
Cương lĩnh năm 2011 cũng bổ sung, làm rõ phương
thức lãnh đạo của Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam là
Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh
đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống
ấy. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định
hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác
tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra,
giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.
Đảng thông nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội
ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ. năng
lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh
đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ
chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ
thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân,
nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao
năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát
huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách
nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.

347
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để
xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Về xây dựng Đảng: Đảng phải vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh
đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo.
Cương lĩnh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về lý luận
và thực tiễn, là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam; thể hiện nhận thức mối về chủ nghĩa xã hội và con
đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cương lĩnh là cơ
sở đoàn kết, thống nhất giữa tư tưởng vói hành động của
toàn Đảng, toàn dân, là ngọn cò chiến đấu vì thắng lợi
của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam từng bước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi hoạt
động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong những
thập kỷ tới.
- Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011 - 2020:
Quan điểm phát triển: Phát triển nhanh gắn liền với
phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến
lược. Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì
mục tiêu xây dựng nưốc Việt Nam “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”. Mở rộng dân chủ, phát
huy tối đa nhân tố con người. Phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất với

348
nền kinh tế thị trường định hưống xã hội chỉ nghĩa. Xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao.
Ba đột phá chiến lược: 1) Hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo
lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cài cách hành
chính; 2) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn
bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ
phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng
khoa học, công nghệ; 3) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ
tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung vào
hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lốn.
Định hướng phát triển kinh tế - xã hội; Đổi mới mô
hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; thực hiện tốt
chức năng của Nhà nưốc, giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa Nhà nước với thị trường; hoàn thiện bộ máy nhà
nước, chuyển mạnh về cải cách hành chính; đầy mạnh đấu
tranh phòng, chông tham nhũng, lãng phí; tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong việc xây dựng bộ máy nhà nưóc.
Đại hội XI đã kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết
Đại hội X; nhìn lại 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2001 - 2010, 20 năm thực hiện Cương lĩnh
năm 1991 và nêu ra những kinh nghiệm mới: Một là,
trong bất kỳ điều kiện, tình huống nào, phải kiên trì thực
hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng
sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa

349
xã hội. Hai là, phải thực sự coi trọng chất lượng, hiệu quả
tăng trưởng và phát triển bền vững. Ba là, phải coi trọng
việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bôn là, chăm lo củng cố,
xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Năm
là, trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén,
kiên quyết, sáng tạo.
Đại hội XI cũng đã đề cập các nội dung: về đổi mới mô
hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế; về hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, kinh
tế tri thức, coi trọng bảo vệ môi trường, chủ động phòng,
chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu; củng cố và
tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong
phú, đa dạng; thực hiện có hiệu quả tiến bộ, công bằng xã
hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính
sách phát triển; tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; thực hiện
nhất quán là bạn, đốĩ tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế; phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; đẩy mạnh việc
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Trong 5 năm 2011 - 2016, Trung ương Đảng đã tập
trung chỉ đạo thực hiện những vấn đề quan trọng, đó là:
Để thực hiện một trong những đột phá của Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Hội nghị Trung

350
ương 4 khóa XI (1/2012) chủ trương xây dựng hệ thống kết
cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành
nưốc công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Nghị
quyết Hội nghị nhấn mạnh quan điểm: Quy hoạch phát
triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phải hiện
đại, đồng bộ trên phạm vi cả nước, từng ngành, từng vùng
và từng địa phương, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Huy động mạnh mẽ mọi nguồn lực
của xã hội, bảo đảm lợi ích hợp lý để thu hút các nhà đầu
tư, kể cả các nhà đầu tư nưóc ngoài vào phát triển kết cấu
hạ tầng kinh tế, xã hội. Phát triển kết cấu hạ tầng là sự
nghiệp chung, vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của toàn
xã hội, mọi người dân đều có trách nhiệm tham gia đóng
góp, trước hết là trong thực hiện chính sách đền bù, giải
phóng mặt bằng; bảo đảm lợi ích hài hòa giữa Nhà nưốc,
người dân và nhà đầu tư. Phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng phải kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng, an
ninh; thu hẹp khoảng cách vùng, miền; gắn với tiết kiệm
đất canh tác, bảo vệ môi trường, tăng trưởng xanh và ứng
phó vối biến đổi khí hậu.
Việc thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai đã thu
được nhiều kết quả tích cực. Tuy vậy, công tác quản lý nhà
nước về đất đai còn nhiều hạn chế, nhất là trong quy
hoạch sử dụng đất, định giá đất, bồi thường, giải phóng
mặt bằng, hỗ trợ và tái định cư, các thủ tục hành chính về
đất đai. Việc sử dụng đất nhiều nơi còn lãng phí, hiệu quả
thấp; tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực này còn lớn;
tình hình khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai còn diễn

351
biến phức tạp. Hội nghị Trung ương 5 khóa XI (5/2012) đã
khẳng định: Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý
giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt; là tài sản, nguồn lực to
lởn của đất nước, là nguồn sống của nhân dân ta; quyền sử
dụng đất là hàng hóa đặc biệt. Đất đai thuộc sở hữu toàn
dân do Nhà nưốc là đại diện chủ sở hữu và thống nhất
quản lý. Người sử dụng đất được Nhà nưóc giao đất, cho
thuê đất để sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn. Đất
đai được phân bổ hợp lý, sử dụng đúng mục đích, tiết kiệm
và có hiệu quả cao; bảo đảm lợi ích trước mắt và lâu dài,
bảo vệ môi trường sinh thái, đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững của đất nước, nâng cao chất lượng và bảo vệ đất
canh tác nông nghiệp, bảo đảm an ninh lương thực quốc
gia. Chính sách, pháp luật về đất đai phải bảo đảm sự
quản lý nhà nưốc chặt chẽ, thống nhất của Trung ương;
đồng thời phân cấp phù hợp cho địa phương, có chế tài xử
lý nghiêm minh các hành vi vi phạm chính sách, pháp
luật về đất đai góp phần bảo đảm ổn định chính trị - xã
hội, phát triển kinh tế - xã hội bền vững, củng cố quốc
phòng, an ninh và hội nhập quốc tế.
Các doanh nghiệp nhà nước đã được sắp xếp lại một
bước, góp phần để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ
đạo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ nhu
cầu quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, việc sắp xếp và cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn chậm, chưa chặt
chẽ; trình độ công nghệ lạc hậu, quản trị doanh nghiệp
còn nhiều yếu kém, hiệu quả thấp. Cơ cấu ngành, lĩnh vực
chưa hợp lý, dàn trải, đầu tư ra ngoài ngành kém hiệu

352
quả. Một số’ doanh nghiệp vi phạm pháp luật nghiêm
trọng, gây thất thoát, lãng phí lớn vốn và tài sản nhà
nước. Hội nghị Trung ương 6 khóa XI (10/2012) ban hành
Kết luận về Đề án tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao
hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Quan điểm của Trung
ương là: Doanh nghiệp nhà nưốc là lực lượng nòng cốt của
kinh tế nhà nưốc, là lực lượng vật chất quan trọng, là công
cụ hỗ trợ để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, ổn định kinh
tế vĩ mô. Doanh nghiệp nhà nước phải tiếp tục sắp xếp, đổi
mối và nâng cao hiệu quả. Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với việc sắp xếp, đổi mối, phát triển và nâng cao
hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, tập trung vào các
ngành, lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng. Chấm dứt
tình trạng đầu tư dàn trải ngoài ngành. Khẩn trương bổ
sung, hoàn thiện thể chế quản lý, mở rộng quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nưốc. Tăng
cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao phẩm chất chính
trị, đạo đức, năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt các doanh nghiệp.
Nhờ có những chủ trương đúng đắn, kịp thời của Đảng
như vậy, tiềm lực kinh tế của đất nước tăng lên, kinh tế vĩ
mô cơ bản ổn định, kiểm soát được lạm phát. GDP tăng
bình quân 5,9%, bình quân thu nhập 2.109 USD...
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Bộ
Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 03-CT/TW ngày
14/5/2011 về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Mục đích là phát huy
kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, tiếp tục

353
làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức sâu
sắc những nội dung cơ bản và giá trị to lốn của tư tưởng,
đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh; tạo chuyển biến
mạnh mẽ và sâu rộng hơn nữa về ý thức tu dưỡng, rèn
luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân, cơ hội thực dụng, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lôì sông và các tệ
nạn tham nhũng, tiêu cực; góp phần thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Liên tục từ năm 2011
đến năm 2015, Trung ương đã tổ chức học tập theo các
chủ đề về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tập trung
vào việc phấn đấu rèn luyện đạo đức cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, làm người công bộc tận tụy, trung
thành của nhân dân, đời tư trong sáng, cuộc sống riêng
giản dị; học tập và làm theo phong cách quần chúng, dân
chủ, nêu gương; nêu cao trách nhiệm gương mẫu của cán
bộ, đảng viên; nêu cao tinh thần trách nhiệm chông chủ
nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm, trung thực, trách
nhiệm; gắn bó vổi nhân dân; đoàn kết, xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh.
Đảng đã có nhiều chủ trương về xây dựng, chỉnh đốh
Đảng và đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên,
công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu
kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài
qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút
lòng tin của nhân dân đối vổi Đảng; nếu không được sửa
chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và
sự tồn vong của chế độ. Hội nghị Trung ương 4 khóa XI đã

354
ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/1/2012 Một số
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Nghị quyết
chỉ rõ: tập trung cao độ lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt ba
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng: Một là, kiên quyết đấu
tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái vê tư tưởng
chính trị, đạo đức, lôì sống của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiên đấu của
Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đốĩ
với Đảng. Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý các cấp, nhất là cấp trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Ba là, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng
đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp
ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng. Trong ba vấn đề trên, vấn đê' thứ nhất là trọng
tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất.
Đảng đã có nhiều chủ trương phòng, chông tham
nhũng, lãng phí. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm
trọng với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, xảy ra trên
nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, gây bức xúc trong
xã hội và là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý của Nhà nước. Hội nghị Trung ương 4 khóa XI
(1/2012) đã đưa ra kết luận: tiếp tục tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đốì với công tác phòng, chông tham nhũng,
lãng phí. Trung ương xác định, phòng, chống tham nhũng,
lãng phí là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, phải thực hiện
thường xuyên, có hiệu quả.

355
Trung ương quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Trung
ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính
trị, do Tổng Bí thư làm Trưởng ban; lập lại Ban Nội chính
Trung ương là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo
Trung ương về phòng, chống tham nhũng.
Sau một năm kiểm điểm, tự phê bình theo Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng, Hội nghị
Trung ương 6 khóa XI (10/2012) đã đánh giá kết quả
kiểm điểm tự phê bình, phê bình khẳng định những
thành tựu, ưu điểm, khuyết điểm của Bộ Chính trị, Ban
Bí thư. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã nghiêm túc tự phê
bình và thành thật nhận lỗi trước Ban Chấp hành Trung
ương vì đã không ngăn chặn, đẩy lùi được tình trạng
tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên, trong đó có những cán bộ cấp cao của Đảng. Kinh
nghiệm lịch sử Đảng ta cho thấy, một khi Đảng tự nhận
ra sai lầm, khuyết điểm và tự nghiêm khắc, quyết tâm
khắc phục, sửa chữa thì sức mạnh của Đảng càng được
nâng lên; nhân dân càng tin yêu và ủng hộ Đảng, càng
phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đảng
đã đề ra.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, và trong thòi
kỳ đổi mối, Đảng luôn quan tâm, đề ra nhiều chủ trương
lãnh đạo công tác dân vận. Hội nghị Trung ương 7 khóa
XI đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 3/6/2013
về tăng cường và đổi mối sự lãnh đạo của Đảng đối vối
công tác dân vận trong tình hình mởi. Nghị quyết đề ra
phương thức lãnh đạo công tác dân vận của Đảng trong

356
thời kỳ mối là công tác dân vận phải gắn liền với công tác
xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Mọi
quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà
nước phải phù hợp với lợi ích của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức
phải gương mẫu để nhân dân tin tưởng, noi theo. Công
tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội
viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ
trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức
thực hiện, Mặt trận, đoàn thể làm tham mưu và nòng
cốt. Nhà nước tiếp tục thể chế hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thành quy chế,
quy định để các tổ chức trong hệ thống chính trị; cán bộ,
đảng viên, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sĩ lực
lượng vũ trang thực hiện công tác dân vận; các hình thức
tập hợp nhân dân phải phong phú, đa dạng, khoa học,
hiệu quả.
Trung ương đã kết luận về việc tiếp thu ý kiến nhân
dân, hoàn thiện bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992
với tinh thần nghiêm túc, chân thành, tiếp thu tôì đa
những ý kiến hợp lý của nhân dân; kiên trì những vấn đề
có tính nguyên tắc về bản chất của chế độ chính trị và
Nhà nưốc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo, làm cơ sở để ban hành Hiến pháp nám 2013.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khóa
VIII (12/1996) và các chủ trương của Đảng, Nhà nước,

357
khoa học và công nghệ nước ta đã đạt nhiều thành tựu
quan trọng, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, hoạt động khoa học và
công nghệ nhìn chung còn nhiều yếu kém, bất cập, chưa
thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công
nghệ, toàn cầu hóa và kinh tế tri thức đã và đang đặt ra
những yêu cầu mới, Hội nghị Trung ương 6 khóa XI ra
Nghị quyết số’ 20-NQ/TW ngày 1/12/2012 về phát triển
khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Chỉ tiêu
phấn đấu: đến nám 2020, khoa học và công nghệ Việt
Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu
ASEAN; đến năm 2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ
tiên tiến thế giới; tiềm lực khoa học và công nghệ đáp
ứng các yêu cầu cơ bản của một nưốc công nghiệp theo
hưởng hiện đại. Quan điểm chỉ đạo của Đảng là: Phát
triển và ứng dụng khoa học và công nghệ là quốc sách
hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất
để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; là một
nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một
bước trong hoạt động của các ngành, các cấp. Sự lãnh đạo
của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước, tài năng, tâm
huyết của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đóng vai
trò quyết định thành công của sự nghiệp phát triển khoa
học và công nghệ.

358
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, cơ
chế quản lý, cơ chế hoạt động, công tác xây dựng chiến
lược, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ; phương
thức đầu tư, cơ chế tài chính, chính sách cán bộ, cơ chế tự
chủ của các tổ chức khoa học và công nghệ phù hợp với
kinh tế thị trường định hưống xã hội chủ nghĩa. Đầu tư
cho nhân lực khoa học và công nghệ là đầu tư cho phát
triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh
của dân tộc. Đảng và Nhà nước có chính sách phát triển,
phát huy và trọng dụng đội ngũ cán bộ khoa học và công
nghệ. Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho
phát triển khoa học và công nghệ. Nhà nước có trách
nhiệm đầu tư, khuyến khích các thành phần kinh tế tham
gia phát triển hạ tầng, nâng cao đồng bộ tiềm lực khoa học
xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công
nghệ. Chú trọng nghiên cứu ứng dụng và triển khai; coi
doanh nghiệp và các đơn vị dịch vụ công là trung tâm của
đổi mới ứng dụng và chuyển giao công nghệ, là nguồn cầu
quan trọng nhất của thị trường khoa học và công nghệ.
Quan tâm đúng mức đến nghiên cứu cơ bản, tiếp thu và
làm chủ công nghệ tiên tiến của thế giối phù hợp vối điều
kiện Việt Nam. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để cập
nhật tri thức khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới,
thu hút nguồn lực và chuyên gia, người Việt Nam định cư
ở nước ngoài và người nưốc ngoài tham gia các dự án khoa
học và công nghệ của Việt Nam. Khuyến khích và tạo điều
kiện thuận lợi để sinh viên, nghiên cứu sinh, thực tập sinh
sau khi được đào tạo ở nước ngoài về nước làm việc.

359
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khóa
VIII và các chủ trương của Đảng, Nhà nước về định hưóng
chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực giáo dục và đào tạo
nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp
phần to lốn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, giáo dục và đào tạo đã bộc lộ những hạn chế,
yếu kém, chất lượng, hiệu quả còn thấp so với yêu cầu, có
những vấn đề gây bức xúc xã hội kéo dài. Nhiều chính
sách, cơ chế, giải pháp về giáo dục có hiệu quả trong giai
đoạn vừa qua, nay đã không còn phù hợp, cần được điều
chỉnh. Hội nghị Trung ương 8 khóa XI đã ra Nghị quyết số
29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mối căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hưống xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Điểm mới của
Nghị quyết không chỉ ỏ nhận thức mà cả trong chỉ đạo
thực tiễn phải coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mổi
những vấn đề lốn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư
tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ
chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nưởc đến hoạt
động quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham
gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học;
đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trung ương đã
nêu ra các nhiệm vụ và giải pháp nhằm chuyển mạnh quá

360
trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát
triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; gắn với
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, vối
tiến bộ khoa học và công nghệ. Đổi mới hệ thống giáo dục
theo hưống mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học,
trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Thực
hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa giáo
dục và đào tạo. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để
phát triển giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu hội nhập
quốc tế, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc
dân tộc.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá VIII
về văn hóa, đất nước đã đạt những thành tựu nổi bật về
phát triển văn hóa. Nhưng kết quả đạt được trong xây dựng
và phát triển văn hóa vẫn chưa tương xứng vối yêu cầu và
chưa vững chắc; thiếu sự gắn bó chặt chẽ giữa văn hóa vối
kinh tế, chính trị; giữa các lĩnh vực của văn hoá; chưa tác
động mạnh mẽ đến phát triển kinh tế - xã hội, đến xây
dựng con người. Hội nghị Trung ương 9 khóa XI ban hành
Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 về xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước. Quan điểm chỉ đạo của Trung
ương: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu,
động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được
đặt ngang hàng vối kinh tế, chính trị, xã hội. Xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống
nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam,
với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.

361
Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và
xây dựng con người để phát triển ván hóa. Trong xây dựng
văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân
cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước,
nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, chú trọng vai trò của
gia đình, cộng đồng; phát triển hài hòa giữa kinh tế, văn
hóa và xây dựng con người mới. Xây dựng và phát triển văn
hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ
vai trò quan trọng.
Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm xây dựng và
tổ chức thực hiện các chính sách xã hội, coi đây vừa là
mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định
chính trị - xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
Kết quả là, các lĩnh vực xã hội đạt được nhiều thành tựu
quan trọng, nước ta được Liên hợp quốc công nhận là một
trong các quốc gia đi đầu trong việc thực hiện một số mục
tiêu thiên niên kỷ. Tuy nhiên, lĩnh vực xã hội vẫn còn
nhiều hạn chế, một số mặt yếu kém kéo dài, chậm được
khắc phục. Hội nghị Trung ương 5 khóa XI (5/2012) đã
chủ trương giải quyết một sô vấn đề vê chính sách xã hội
giai đoạn 2012 - 2020 với quan điểm chỉ đạo là: Không
ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của người có công và bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ
thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ
thống chính trị và toàn xã hội. Chính sách ưu đãi người
có công và an sinh xã hội phải phù hợp với trình độ phát

362
triển kinh tế - xã hội và khả năng huy động, cân đôì
nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ; ưu tiên người
có công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người
nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số. Hệ thống an sinh xã
hội phải đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà
nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong
một thế hệ và giữa các thế hệ; bảo đảm bền vững, công
bằng. Nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách ưu đãi
người có công và giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức
thực hiện chính sách an sinh xã hội; đẩy mạnh xã hội
hóa, khuyên khích các tổ chức, doanh nghiệp và người
dân tham gia; tạo điều kiện để người dân nâng cao khả
năng tự bảo đảm an sinh. Tăng cường hợp tác quốc tế để
có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc xây dựng và
thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, việc ứng phó với biến đổi khí hậu còn bị động, lúng
túng; thiên tai ngày càng bất thường, gây nhiều thiệt hại về
ngưòi và tài sản; tài nguyên chưa được quản lý, khai thác,
sử dụng có hiệu quả và bền vững, một số loại tài nguyên bị
khai thác quá mức dẫn tới suy thoái, cạn kiệt; ô nhiễm môi
trường vẫn tiếp tục gia tăng, có nơi nghiêm trọng. Hội nghị
Trung ương 7 khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 24-
NQ/TW ngày 6/3/2013 về chủ động ứng phó với biến đổi khí
hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Đây là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có
tầm ảnh hưởng lớn, quan hệ, tác động qua lại, cùng quyết
định sự phát triển bền vững của đất nước. Trung ương đã

363
nêu ra các quan điểm, mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể,
nhiệm vụ trọng tâm và các giải pháp để chủ động ứng phó
với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo
vệ môi trường đến năm 2000 trên cơ sở phương thức quản
lý tổng hợp và thống nhất liên ngành, liên vùng; được đặt
trong mối quan hệ toàn cầu; không chỉ là thách thức mà
còn tạo cơ hội thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng
theo hướng phát triển bền vững. Tài nguyên là tài sản
quốc gia, là nguồn lực, nguồn vốn tự nhiên đặc biệt quan
trọng để phát triển đất nước, phải được đánh giá đầy đủ
các giá trị, định giá, hạch toán trong nền kinh tế, được
quản lý, bảo vệ chặt chẽ; khai thác, sử dụng tiết kiệm, có
hiệu quả và bền vững, gắn với mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội.
Trên cơ sở phân tích và dự báo xu hướng phát triển
của tình hình quốc tế, khu vực và trong nưốc; chỉ rõ thành
tựu, hạn chế, nguyên nhân chủ quan của những hạn chế,
thiếu sót trong 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8
khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Hội nghị Trung
ương 8 khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW
ngày 25/10/2013 về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới vối quan điểm: Giữ vững vai trò lãnh đạo của
Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ
nghĩa xã hội; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược:
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng sức mạnh tổng hợp;
phát huy nội lực kết hợp vổi ngoại lực. Kết hợp chặt chẽ
giữa chiến lược và sách lược, tạo sự đồng thuận cao của
nhân dân ta ở trong nước và nước ngoài; tranh thủ sự

364
đồng tình, ủng hộ cao nhất của dư luận quốc tế. Đặc biệt
coi trọng mối quan hệ giữa yếu tố bên trong vối bên ngoài,
đoàn kết toàn dân tộc. Trên cơ sở mục tiêu, quan điểm đó,
Trung ương đã nêu ra phương châm chỉ đạo, mục tiêu
chung, mục tiêu cụ thể, nhiệm vụ trọng tâm và các giải
pháp để thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới.
Thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng,
hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam đã
đạt được nhiều kết quả quan trọng. Môi trường hòa bình
thuận lợi cho phát triển, độc lập, chủ quyền, thông nhất
và toàn vẹn lãnh thổ tiếp tục được giữ vững. Quan hệ đôi
ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu. Quan
hệ vối các nước láng giềng và các nước trong Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được củng cố. Đến năm
2015, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với
15 nưổc; đối tác toàn diện với 10 nưốc1; đối tác chiến lược
lĩnh vực vói Vương quốc Hà Lan.
Ngoại giao kinh tế đã góp phần tích cực thúc đẩy quan
hệ kinh tế - thương mại - đầu tư, thu hút các nguồn lực
bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế của đất nước. Đến
năm 2012, có 36 nước công nhận cơ chế kinh tế thị trường

1. Đối tác chiến lược vói 15 nước: Nga, Trung Quốc, Nhật Bản,
Ấn Độ, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Anh, Đức, Italia, Inđônêxia, Thái
Lan, Xingapo, Pháp, Malaixia, Philíppin. Đối tác toàn diện vói 10
nước: Nam Phi, Chilê, Braxin, Vênêxuêla, Ôxtrâylia, Niu Dilân,
Áchentina, Ucraina, Mỹ, Đan Mạch.

365
của Việt Nam. Nhóm các nhà tài trợ cho Việt Nam năm
2011 đã cam kết tài trợ 7,39 tỉ USD. Năm 2012, số lượng
đoàn lãnh đạo cấp cao Việt Nam đi thăm các nước, lãnh
đạo cấp cao của các nưổc vào thăm Việt Nam tăng mạnh,
với 31 đoàn, gấp 4-5 lần so với các năm. Hoạt động ngoại
giao của Việt Nam trên các diễn đàn đa phương như
APEC, ASEM, đặc biệt là trong ASEAN được triển khai
một cách tích cực, thể hiện vị thế, vai trò ngày càng tăng
của Việt Nam. Ngoại giao văn hóa của Việt Nam tiếp tục
được triển khai mạnh mẽ1.
Trong năm 2012, ASEAN và Trung Quốc đã xây dựng
được Tuyên bố- chung kỷ niệm 10 năm Tuyên bô” về ứng xử
của các bên ở Biển Đông (DOC) và ASEAN đã ra được
tuyên bô” 6 điểm về vấn đề Biển Đông. Đó là cơ sỗ pháp lý
duy trì môi trường hòa bình, ổn định ở Biển Đông và giải
quyết vấn đề Biển Đông trên cơ sỏ luật pháp quô”c tê”.
Đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đô”i ngoại
nhân dân được triển khai đồng bộ, hiệu quả, có bưốc phát
triển mới. Quan hệ đô”i ngoại, hội nhập quô”c tê” ngày càng
sâu rộng, có hiệu quả. Vị thê”, uy tín quốc tê” của Việt Nam
tiếp tục được nâng cao.

1. Năm 2011, UNESCO đã công nhận các di sản Thành Nhà


Hồ (Thanh Hoá), Khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai, hát xoan Phú
Thọ... Năm 2012, UNESCO công nhận tín ngưỡng thờ cúng Hùng
Vương, hát xoan (Phú Thọ) là Di sản văn hoá phi vật thể đại diện
của nhân loại và mộc bản kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm là Di sản tư
liệu thế giới.

366
d) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đẩy mạnh
toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, tích cực, chủ động
hội nhập quốc tế

Đại hội XII của Đảng họp từ ngày 20 đến ngày


28/1/2016, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn
biến nhanh, rất phức tạp, khó lường. Đất nước đã qua 30
năm đổi mới, thế và lực tăng lên rõ rệt, có cả những
thuận lợi, thời cơ đan xen với những khó khăn, thách
thức gay gắt.
Chủ đề của Đại hội là: “Tăng cường xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc,
dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Dự Đại hội có hơn 1.510 đại biểu, thay mặt cho 4,6
triệu đảng viên trong toàn Đảng. Đại hội đã tổng kết 30
năm đổi mới, bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII
gồm 180 ủy viên Trung ương chính thức, 20 ủy viên dự
khuyết; Bộ Chính trị có 19 đồng chí, đồng chí Nguyễn Phú
Trọng được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng.
Đại hội XII của Đảng là Đại hội “Đoàn kết - Dân chủ -
Kỷ cương - Đổi mới”, tăng cường xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân
chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công
cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi

367
trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sóm đưa nước ta cơ
bản trở thành nưốc công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đại hội XII đã kiểm điểm, đánh giá thành quả quan
trọng, những hạn chế, yếu kém trong 5 năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội XI (2011 - 2015); tổng kết 30 năm đổi
mới (1986 - 2016) và nêu mục tiêu, nhiệm vụ tổng quát
phát triển đất nưốc 5 năm 2016 - 2021. Sau 5 năm thực
hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Đại hội XII rút ra
một sô'kinh nghiệm: Một là, trước những khó khăn, thách
thức trên con đường đổi mối, phải hết sức chú trọng công
tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ
thống chính trị vững mạnh; phải phát huy dân chủ, tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hai là, nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, bám sát
thực tiễn của đất nước và thế giới; đồng thời nắm bắt, dự
báo những diễn biến mối để kịp thời xác định, điều chỉnh
một số chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp cho phù hợp. Ba
là, gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là
then chốt; phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã
hội; bảo đảm quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ trọng
yếu, thường xuyên. Bôn là, kiên trì thực hiện các mục tiêu
lâu dài, các nhiệm vụ cơ bản, đồng thời tập trung các
nguồn lực thực hiện hiệu quả những nhiệm vụ cấp bách,
trước mắt, giải quyết dứt điểm những yếu kém, ách tắc,
tạo đột phá để giữ vững và đẩy nhanh nhịp độ phát triển;

368
phát huy mọi nguồn lực trong và ngoài nước đáp ứng yêu
cầu phát triển đất nưốc. Năm la, chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, lấy lợi
ích quốc gia - dân tộc làm mục tiêu cao nhất, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới.
Đại hội nêu rõ mục tiêu, nhiệm vụ tổng quát phát
triển đất nưốc 5 năm 2016 - 2020, đó là: Đổi mới mô hình
tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nưốc. Hoàn thiện thể chế, phát triển
kinh tế thị trường định hưống xã hội chủ nghĩa. Đổi mới
căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực. Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
Xây dựng, phát triển văn hóa, con người. Quản lý phát
triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Quản lý
tài nguyên; bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống
thiên tai, ứng phó vổi biến đổi khí hậu. Tăng cường quốc
phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa trong tình hình mới. Nâng cao hiệu quả hoạt
động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền làm chủ của
nhân dân. Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đại hội XII nhấn mạnh, trong nhiệm kỳ, cần đẩy
mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát huy mọi
nguồn lực và động lực để phát triển đất nưốc nhanh, bền

369
vững; đặc biệt chú trọng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện có kết quả sáu nhiệm vụ trọng tâm:
(1) Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ
cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ.
(2) Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thông chính
trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
(3) Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất
lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh
của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá
chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hưống xã hội chủ nghĩa; đổi mởi căn bản và toàn diện giáo
dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ
tầng đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế
gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nưốc, chú trọng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn vổi xây
dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ
cấu lại doanh nghiệp nhà nưốc, cơ cấu lại ngân sách nhà
nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.
(4) Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát

370
triển đất nưốc; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật
tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các
quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách
thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều
kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước
trên trường quốc tế.
(5) Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức
sáng tạo của nhân dân. Chăm lo nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết;
tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã
hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao
phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc.
(6) Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức,
nhân cách, lốì sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng
môi trường văn hóa lành mạnh.
Sau Đại hội XII, Trung ương đã tiếp tục chỉ đạo đổi
mới những lĩnh vực trọng yếu, cụ thể là:
Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nưốc
về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế đã
thực hiện và đạt được kết quả bước đầu. Tuy vậy, mô
hình tăng trưởng về cơ bản vẫn theo mô hình cũ, chậm
được đổi mới; tăng trưởng vẫn chủ yếu dựa vào tăng vốn
đầu tư và số lượng lao động, chưa dựa nhiều vào tăng
năng suất lao động, ứng dụng khoa học - công nghệ. Hội
nghị Trung ương khóa XII đã ra Nghị quyết số’ 05-

371
NQ/TW ngày 1/11/2016 về một số chủ trương, chính sách
lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưỏng, nâng cao
chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh
tranh của nền kinh tế. Quan điểm chỉ đạo của Trung
ương là: Nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao
động và sức cạnh tranh của nền kinh tế, phát triển
nhanh và bền vững toàn diện về cả kinh tế, xã hội và môi
trường. Chú trọng và ngày càng dựa nhiều hơn vào các
nhân tố thúc đẩy tăng năng suất lao động, sử dụng hiệu
quả các nguồn lực, đặc biệt là phát huy tinh thần yêu
nưổc, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, trí sáng tạo của con
người Việt Nam và thành tựu khoa học - công nghệ của
nhân loại, mọi tiềm năng, lợi thế của các ngành, lĩnh vực,
các địa phương và cả nưốc. Gắn kết chặt chẽ với thực
hiện ba đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế vối
trọng tâm ưu tiên là: 1) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm ổn định
kinh tế vĩ mô và các cân đối lốn của nền kinh tế; cải thiện
môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn, thuận lợi cho
khởi nghiệp và đổi mới, sáng tạo, nghiên cứu và triển
khai ứng dụng khoa học - công nghệ, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài. 2) Cơ cấu lại nông
nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mối; cơ cấu lại đầu tư
công; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước; cơ cấu lại hệ
thông các tổ chức tín dụng; cơ cấu lại ngân sách nhà nước
và nợ công; cơ cấu lại các đơn vị sự nghiệp công. 3) Nâng
cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức
cạnh tranh của nền kinh tế là nhiệm vụ cơ bản, trọng

372
yếu, có ý nghĩa quyết định đôì với thực hiện mục tiêu
phát triển nhanh và bền vững đất nưốc. Trung ương đã
đưa ra những định hưống lớn, những nhiệm vụ và giải
pháp để tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng của nền
kinh tế trong thời kỳ mối.
Việc thực hiện đường lối của Đảng về hội nhập quốc
tế đã đem lại những thành tựu quan trọng trong tất cả
các lĩnh vực nhưng trong thực hiện các cam kết quốc tế
mối với quốc tế sẽ đặt ra nhiều khó khăn, thách thức cả
về kinh tế, cả về chính trị, xã hội; sức ép cạnh tranh ngày
càng gay gắt, nhiều ngành, doanh nghiệp và sản phẩm
của nước ta sẽ gặp khó khăn hơn. Hội nghị Trung ương 4
khóa XII (10/2016) đã chủ trương: “Thực hiện hiệu quả
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định
chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các
hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”. Quan điểm chỉ
đạo của Trung ương là: Kiên định đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế;
chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế vì lợi ích
quốc gia - dân tộc là định hướng chiến lược lớn để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hội nhập kinh tế quốc tế là
trọng tâm của hội nhập quốc tế; hội nhập trong các lĩnh
vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân;
doanh nhân, doanh nghiệp, đội ngũ trí thức là lực lượng
đi đầu. Bảo đảm đồng bộ giữa đổi mới và hội nhập kinh
tế quốc tế. Đẩy mạnh việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống
pháp luật, cơ chế, chính sách; chủ động xử lý các vấn đề

373
nảy sinh; giám sát chặt chẽ và quản lý hiệu quả quá
trình thực hiện cam kết trong các hiệp định thương mại
tự do thế hệ mối, nhất là trong những lĩnh vực, vấn đề
liên quan đến ổn định chính trị - xã hội. Bảo đảm sự lãnh
đạo tuyệt đối của Đảng đối với tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bôì
cảnh nưởc ta tham gia các hiệp định thương mại tự do
thế hệ mới. Nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước,
phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức chính trị - xã hội; tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Trung ương đã xác định mục tiêu, chủ trương, chính sách
chung, chính sách cụ thể để thực hiện hiệu quả tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
Sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mói, Đảng
luôn chú trọng công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận, rút ra các kinh nghiệm và bài học, tiếp tục xây dựng,
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, góp phần quan trọng đưa nưốc ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển, trở thành quốc gia có thu nhập
trung bình, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta thực hiện còn chậm. Một sô' quy định
pháp luật, cơ chế, chính sách còn chồng chéo, mâu thuẫn,
thiếu ổn định, thiếu nhất quán; còn có biểu hiện lợi ích cục
bộ. Bất bình đẳng xã hội, phân hóa giàu - nghèo có xu
hướng gia tăng.

374
Hội nghị Trung ương 5 khóa XII (5/2017) chủ trương
tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Quan điểm chỉ đạo của Trung ương là:
Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược, là
khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để phát triển
nhanh và bền vững; đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu
lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá;
xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế;
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Nhận thức đầy đủ,
tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan
của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, đồng thời bảo đảm
định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện phát
triển của đất nước trong từng giai đoạn. Bảo đảm tính
đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế.
Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ
môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Hoàn thiện thể chê kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là quá trình phát triển liên tục; kế thừa có
chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của
nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mối ở
nưốc ta; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
đồng thời bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia,
an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Hoàn thiện thể
chế kinh tế đi đôi với hoàn thiện thể chế chính trị mà
trọng tâm là đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của tổ chức bộ máy và cán bộ. Có bước đi phù hợp,

375
vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm để tiếp
tục hoàn thiện. Xác định rõ và thực hiện đúng vị trí, vai
trò, chức năng và mốì quan hệ của Nhà nước, thị trường
và xã hội phù hợp với kinh tế thị trường; bảo đảm định
hưống xã hội chủ nghĩa; tăng cường và giữ vững vai trò
lãnh đạo của Đảng. Hoàn thiện thể chê kinh tê thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ quan
trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cả hệ thống chính
trị. Đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nưốc, phát
huy sức mạnh của cả hệ thông chính trị và của toàn xã
hội trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hưống xã hội chủ nghĩa.
Trung ương đã đề ra mục tiêu tổng quát và mục tiêu
cụ thể đến năm 2020, các nhiệm vụ, giải pháp để tiếp tục
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa trong tình hình mới.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khoá IX
(8/2001), các doanh nghiệp nhà nước tiếp tục sắp xếp, đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động. Vai trò
của doanh nghiệp nhà nưốc đối với nền kinh tế còn hạn
chế; hiệu quả sản xuất, kinh doanh và đóng góp cho Nhà
nước còn thấp, chưa tương xứng vối nguồn lực Nhà nước
đầu tư; nợ nần, thua lỗ, thất thoát lớn. Trước tình hình
đó, Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã ban hành Nghị
quyết số 12-NQ/TW ngày 3/6/2017 về tiếp tục cơ cấu lại,
đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
Quan điểm chỉ đạo của Trung ương là: Doanh nghiệp nhà

376
nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp chi phối ở những lĩnh vực
then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc
phòng, an ninh; là lực lượng vật chất quan trọng của
kinh tế nhà nước; hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy
hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ,
tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng và có vai trò
nòng cốt, dẫn dắt phát triển các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác. Trung ương đã xác định mục
tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể đến năm 2020 và năm
2030, đồng thời đề ra những nhiệm vụ và giải pháp để
tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước.
Trong những năm qua, nhất là từ khi thực hiện Nghị
quyết Trung ương 5 khoá IX về tiếp tục đổi mới cơ chế,
chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển
kinh tế tư nhân, kinh tế tư nhân ở nước ta đã không
ngừng phát triển, đóng góp ngày càng lớn hơn vào sự
nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Nhưng việc triển khai thực hiện các chủ trương,
chính sách về khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân
còn hạn chế, yếu kém. Hệ thống pháp luật, các cơ chế,
chính sách khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển còn
nhiều bất cập, thiếu đồng bộ. Kinh tế tư nhân chưa đáp
ứng được vai trò là một động lực quan trọng của nền
kinh tế. Vi phạm pháp luật và cạnh tranh không lành
mạnh trong kinh tế tư nhân còn khá phổ biến. Hội nghị
Trung ương 5 khóa XII đã ra Nghị quyết số 10-NQ/TW

377
ngày 3/6/2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành
một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm chỉ đạo của Trung
ương là: Phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ
chế thị trường là một yêu cầu khách quan, vừa cấp thiết,
vừa lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát
triển nền kinh tế thị trường định hưống xã hội chủ nghĩa
ở nước ta; là một phương sách quan trọng để giải phóng
sức sản xuất; huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực phát triển. Kinh tế tư nhân là một động
lực quan trọng để phát triển kinh tế. Kinh tế nhà nưởc,
kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để
phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ. Khuyến khích,
tạo điều kiện thuận lợi đế kinh tế tư nhân phát triển
nhanh, bền vững, đa dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả
về số lượng, quy mô, chất lượng và tỷ trọng đóng góp
trong GDP. Xoá bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều
kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh
và đúng định hướng. Phát huy mặt tích cực có lợi cho đất
nước của kinh tế tư nhân, đồng thời tăng cường kiểm
tra, thanh tra, giám sát, kiểm soát, thực hiện công khai,
minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực. Kinh tế tư
nhân được phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà
pháp luật không cấm. Phát huy phong trào khởi nghiệp
và đổi mới sáng tạo; nâng cao hiệu quả hoạt động của
các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tạo môi trường và điều
kiện thuận lợi để các hộ kinh doanh tự nguyện liên kết
hình thành các hình thức tổ chức hợp tác hoặc hoạt động

378
theo mô hình doanh nghiệp. Khuyến khích hình thành
các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp
vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước, có đủ khả năng
tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực, toàn
cầu. Khuyến khích kinh tế tư nhân tham gia góp vốn,
mua cổ phần của các doanh nghiệp nhà nưốc khi cổ phần
hóa hoặc Nhà nưổc thoái vốn. Thúc đẩy phát triển mọi
hình thức liên kết sản xuất, kinh doanh, cung cấp hàng
hóa, dịch vụ theo mạng sản xuất, chuỗi giá trị thị trường
giữa kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm
tiếp nhận, chuyển giao, tạo sự lan toả rộng rãi về công
nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, nâng cao giá trị gia
tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, nâng cao nhận thức
chính trị, tinh thần tự lực, tự cường, lòng yêu nưốc, tự
hào, tự tôn dân tộc, gắn bó với lợi ích của đất nưởc và sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của các chủ doanh
nghiệp. Phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày
càng vững mạnh, có ý thức chấp hành pháp luật, trách
nhiệm vối xã hội và kỹ năng lãnh đạo, quản trị cao; chú
trọng xây dựng văn hóa doanh nghiệp, đạo đức doanh nhân.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá X
(6/2009) về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, đã
có nhiều chuyển biến mới cả về nhận thức và hoạt động
thực tiễn về thực hiện Chiến lược biển. Kinh tế biển, các
vùng biển, ven biển đang trở thành động lực phát triển
đất nưốc. Tuy nhiên, việc thực hiện Chiến lược biển còn

379
nhiều hạn chế, yếu kém và khó khăn, thách thức; chưa
gắn kết hài hòa với phát triển xã hội và bảo vệ môi
trường. Công tác bảo vệ an ninh, an toàn, phối hợp tìm
kiếm cứu hộ, cứu nạn, ứng phó với sự cố môi trường trên
biển còn nhiều bất cập... Hội nghị Trung ương 8 khóa XII
ra Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược
phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030,
tầm nhìn đến năm 2045. Quan điểm chỉ đạo của Đảng là:
Thống nhất tư tưởng, nhận thức về vị trí, vai trò và tầm
quan trọng đặc biệt của biển đối vối sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tố quốc. Biển là bộ phận cấu thành chủ quyền
thiêng liêng của Tổ quốc, là không gian sinh tồn, cửa ngõ
giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết vởi sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam phải trở thành quốc gia
mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh
vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế
biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tăng cường đối
ngoại, hợp tác quốc tế về biển, góp phần duy trì môi
trường hòa bình, ổn định cho phát triển. Phát triển bền
vững kinh tế biển Việt Nam là trách nhiệm của cả hệ
thông chính trị, là quyền và nghĩa vụ của mọi tổ chức,
doanh nghiệp và mọi người dân Việt Nam. Trung ương đã
xác định mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể đến năm
2030 và năm 2040, một số chủ trương lớn và khâu đột
phá, các giải pháp thực hiện Chiến lược biển để tiếp tục
phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam trong những
giai đoạn tiếp theo.

380
Thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ
Chính trị khoá XI về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã đạt được kết
quả bước đầu, góp phần quan trọng vào việc thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng và công tác xây dựng Đảng. Nhưng bên cạnh đó,
việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
còn có những hạn chế, chưa trở thành việc làm thường
xuyên, chưa thành ý thức tự giác của không ít tổ chức
đảng, cơ quan, đơn vị, địa phương và một bộ phận cán bộ,
đảng viên. Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị
số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 về đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi đây
là nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đôn
Đảng; góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng đội ngũ
cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực,
phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ.
Công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết
điểm về công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nghiên cứu,
tổng kết thực tiễn, về sinh hoạt đảng, về năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của Đảng... Hội nghị Trung ương 4
khóa XII ra Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30/10/2016 về
tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngán chặn, đẩy lùi
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sốhg,
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội
bộ. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật,

381
đánh giá đúng sự thật, Nghị quyết đã chỉ rõ 27 biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ và đưa ra mục
tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp thực hiện Nghị
quyết, trong đó nhấn mạnh tinh thần kiên quyết, kiên trì
thực hiện vối quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn; phát huy
sự chủ động, sáng tạo và sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị, của nhân dân, trong đó cán bộ lãnh đạo,
quản lý, người đứng đầu các cấp là nòng cốt. Tăng cường
sự lãnh đạo và đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trưốc hết
là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
cấp ủy và ban thường vụ cấp ủy các cấp.
Đảng đã ban hành và thường xuyên quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương, nghị quyết, kết
luận về xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thông chính trị.
Tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội từng bước được sắp xếp, kiện toàn;
chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ
chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh
hợp lý hơn; bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý
của Nhà nưốc, quyền làm chủ của nhân dân và đã đạt
được những kết quả quan trọng, góp phần vào thành tựu
to lốn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mởi. Tuy nhiên,
tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh,
nhiều tầng nấc, kém hiệu lực, hiệu quả; chức năng, nhiệm
vụ của một số tổ chức còn chồng chéo; cơ cấu bên trong
chưa hợp lý; tổ chức bộ máy của khối Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể, các đơn vị sự nghiệp công lập
chậm được đổi mới; tổ chức và biên chế ngày càng phình

382
to; cơ cấu, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
còn chưa hợp lý. số người hưởng lương, phụ cấp từ ngân
sách nhà nước ở các đơn vị sự nghiệp công và người hoạt
động không chuyên trách cấp xã ngày càng nhiều...
Đảng đã có nhiều quyết sách đúng đắn về cán bộ và
công tác cán bộ; kiên trì, kiên quyết lãnh đạo, chỉ đạo
triển khai thực hiện các chính sách, biện pháp, đạt được
những kết quả quan trọng. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ các cấp
đã có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất
lượng ngày càng được nâng lên; cơ cấu độ tuổi, giới tính,
dân tộc, ngành nghề, lĩnh vực công tác có sự cân đôì, hợp
lý hơn. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ còn
bộc lộ không ít những hạn chế, yếu kém. Đội ngũ cán bộ
trong hệ thống chính trị đông nhưng chưa mạnh, tình
trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ xảy ra ỏ nhiều nơi. Cơ
cấu giữa các ngành, nghề, lĩnh vực chưa thật sự hợp lý,
thiếu sự liên thông giữa các cấp, các ngành; thiếu những
cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia
đầu ngành. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả
cán bộ cấp chiến lược uy tín thấp, năng lực, phẩm chất
chưa ngang tầm nhiệm vụ; thiếu gương mẫu, chưa thật sự
gắn bó mật thiết với nhân dân; vướng vào tham nhũng,
lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Tình trạng chạy chức,
chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển,
chạy bằng cấp, chạy tội... chậm được ngăn chặn và đẩy lùi.
Hội nghị Trung ương 7 khoá XII đã ban hành Nghị quyết
số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 về tập trung xây dựng đội
ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất,

383
năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Trung ương đã
đưa ra mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp thực
hiện Nghị quyết, trong đó coi xây dựng đội ngũ cán bộ,
nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành
thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả.
Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển
lâu dài, bền vững. Thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên
tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác
cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị.
Xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị, trực tiếp là của các cấp ủy, tổ chức đảng, trước
hết là người đứng đầu và cơ quan tham mưu của Đảng, cơ
quan tổ chức, cán bộ là nòng cốt.
Tháng 10/2018, Hội nghị Trung ương 8 khóa XII của
Đảng đã ban hành Quy định về trách nhiệm nêu gương
của cán bộ, đảng viên, trước hết là ủy viên Bộ Chính trị,
Uy viên Ban Bí thư, Uy viên Ban Chấp hành Trung
ương Đảng.
Ngày 23/10/2018, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIV
đã bầu Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng giữ cương vị Chủ
tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ
2016-2021.
Đảng, Nhà nước xác định sức khỏe là vốn quý nhất
của mỗi người dân và của toàn xã hội; chăm sóc, bảo vệ và
nâng cao sức khỏe nhân dân là công tác đặc biệt quan
trọng, liên quan đến mọi người, mọi nhà và được cả xã hội
quan tâm, có ý nghĩa chính trị, xã hội và nhân văn sâu

384
sắc, thể hiện bản chất ưu việt, tốt đẹp của chế độ ta. Trước
yêu cầu đặt ra trong giai đoạn phát triển mới của đất
nước, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ
nhân dân cũng đã bộc lộ không ít yếu kém, khuyết điểm,
để xảy ra một số sự việc, sự cố gây bức xúc xã hội. Hội
nghị Trung ương 6 khoá XII đã ban hành Nghị quyết số
20-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tăng cường công tác bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình
mới và Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 về công
tác dân số trong tình hình mới. Trung ương đã đưa ra mục
tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp thực hiện hai nghị
quyết này, trong đó nhấn mạnh việc bảo vệ, chăm sóc và
nâng cao sức khoẻ là nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người
dân, cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó ngành
y tế là nòng cốt. Đầu tư cho bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khỏe nhân dân là đầu tư cho phát triển.
Chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội là một bộ
phận rất quan trọng, có quan hệ chặt chẽ với các chính
sách khác trong hệ thống chính sách kinh tế - xã hội.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều lần
cải cách và từng bước hoàn thiện vấn đề này, song vẫn còn
nhiều hạn chế, bất cập. Hội nghị Trung ương 7 khoá XII
đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 về
cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức,
viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong
doanh nghiệp và Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018
về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội. Trung ương đã
đưa ra mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp, trong

385
đó nhấn mạnh: cải cách chính sách tiền lương phải bảo
đảm tính tổng thể, hệ thống, đồng bộ, kế thừa và phát huy
những ưu điểm, khắc phục có hiệu quả những hạn chế;
tuân thủ nguyên tắc phân phôi theo lao động và quy luật
khách quan của kinh tế thị trường. Bảo hiểm xã hội là một
trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội trong nền kinh
tế thị trường định hưống xã hội chủ nghĩa. Thực hiện tốt
chính sách bảo hiểm xã hội là nhiệm vụ của cả hệ thống
chính trị, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị -
xã hội, doanh nghiệp và của mỗi người dân.

e) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng,
tiếp tục đẩy mạnh toan diện, đồng bộ công cuộc đổi mỏi,
phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Đại hội XIII của Đảng diễn ra từ ngày 25/1 đến ngày
1/2/2021 tại Thủ đô Hà Nội, trong bối cảnh đất nước đang
đứng trưốc nhiều thời cơ và thách thức đan xen, nhiều vấn
đề chiến lược mới đặt ra cần phải giải quyết, từ tình hình
quốc tế, khu vực dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó
lường đến các thách thức mang tính toàn cầu về biến đổi
khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và cả những thành tựu
ngoạn mục của tiến bộ khoa học và công nghệ đang tác
động, ảnh hưỏng mạnh mẽ tới đời sống kinh tế - xã hội của
đất nước ta cũng như toàn thế giới.
Dự Đại hội có 1.587 đại biểu, đại diện cho hơn 5
triệu đảng viên trong cả nước. Đại hội đã bầu Ban Chấp

386
hành Trung ương Đảng khóa XIII gồm 200 đồng chí,
trong đó có 180 đồng chí ủy viên Trung ương chính
thức, 20 đồng chí ủy viên Trung ương dự khuyết; Bộ
Chính trị gồm 18 đồng chí, đồng chí Nguyễn Phú Trọng
được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng.
Chủ đề của Đại hội là: Tăng cường xây dựng, chỉnh
đôn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh;
khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí,
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh
thòi đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc
đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quô'c, giữ vững
môi trưởng hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ
XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Đại hội XIII của Đảng đã tổng kết việc thực hiện
Nghị quyết Đại hội lần thứ XII gắn với việc đánh giá 35
năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện
Cương lĩnh năm 1991, 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ
sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 2011 - 2020; đề ra phương hướng, nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 (kỷ niệm 50
năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước); xác định mục tiêu, phương hướng đến năm 2030 (kỷ
niệm 100 năm thành lập Đảng) và tầm nhìn phát triển đất
nước đến năm 2045 (kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam). Đây sẽ là những dấu mốc quan trọng

387
trong quá trình phát triển của Đảng ta, dân tộc ta, đất
nước ta, có ý nghĩa định hưởng và tầm nhìn chiến lược phát
triển đất nước trong thòi kỳ mới.
Đại hội XIII đã xác định quan điểm chỉ đạo:
- Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định
đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây
dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
- Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở
các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và
luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục
phát triển nhanh và bền vững đất nưốc; gắn kết chặt chẽ
và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển
kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt;
phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc
phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.
- Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nưốc, ý chí tự
cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả
hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt
Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, ứng
dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những
thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,

388
thúc đẩy đổi mối sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển
nhanh và bền vững đất nưốc.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu
cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực,
tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là
nguồn lực con người là quan trọng nhất.
- Tăng cường xây dựng, chỉnh đốh Đảng, phát huy bản
chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh
đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây
dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả; gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất
lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức;
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ
cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang
tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là những
nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công sự nghiệp xây
dựng, phát triển đất nưốc và bảo vệ Tổ quốc.
Kế thừa và phát triển cách tiếp cận trong xác định
mục tiêu trong 35 năm đổi mói, tham khảo kinh nghiệm
và chuẩn mực chung của thế giới, Đại hội XIII đã xác
định mục tiêu tổng quát, đó là: Nâng cao năng lực lãnh
đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng;
xây dựng Đảng và hệ thông chính trị trong sạch, vững
mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân
dân đốì vởi Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa;

389
khơi dậy khát vọng phát triển đất nưốc phồn vinh, hạnh
phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện,
đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ
XXI, nưốc ta trở thành nước phát triển, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện thành công các mục tiêu cụ thể và các chỉ
tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 -
2025, Đại hội XIII đã nêu sáu nhiệm vụ trọng tâm trong
nhiệm kỳ Đại hội, đó là:
- Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây
dựng Nhà nưốc pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống
chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Đổi mới
phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Xây dựng tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng,
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích
nhóm”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ. Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các
cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ. củng cố niềm tin, sự gắn bó của
nhân dân với Đảng, Nhà nưốc, chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Tập trung kiểm soát đại dịch Covid-19, tiêm chủng
đại trà vắcxin Covid-19 cho cộng đồng; phục hồi, phát triển
kinh tế - xã hội, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng,

390
cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể
chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ,
hiện đại, hội nhập; phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên
kết giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế,
các loại hình sản xuất kinh doanh; có chính sách hỗ trợ
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, nhất là trong nông
nghiệp; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng
tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mối sáng tạo, nhất là
những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh
tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh
tranh của nền kinh tế; huy động, phân bổ, sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển kinh
tế nhanh và bền vững; hoàn thiện hệ thống pháp luật,
nhất là pháp luật về sở hữu trí tuệ và giải quyết các
tranh chấp dân sự; khắc phục những điểm nghẽn cản trở
sự phát triển của đất nước.
- Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế;
tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng Quân
đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh
chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững
chắc phấn đấu năm 2030, xây dựng Quân đội nhân dân,
Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện
đại; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyển, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo,

391
vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát
triển đất nước.
- Khơi dậy khát vọng phát triển đất nưốc phồn vinh,
hạnh phúc; giữ gìn và phát huy giá trị ván hóa, sức
mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; có chính sách cụ thể
phát triển văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số; thực
hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an
ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý
phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội,
nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của
con người Việt Nam.
- Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính
sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa,
quyền làm chủ của nhân dân; đồng thòi tăng cường pháp
chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là việc thực thi tinh
thần “thượng tôn pháp luật”, gương mẫu tuân theo pháp
luật, kỷ cương và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa của
cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và tổ
chức chính trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng
cường đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài
nguyên; bảo vệ, cải thiện môi trường; chủ động, tích cực
triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu.
Ba đột phá chiến lược cũng đã được Đại hội chỉ ra: Một
là, hoàn thiện đồng bộ thể chê phát triển, trước hết là thể
chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

392
chủ nghĩa. Đổi mối quản trị quốc gia theo hưống hiện đại,
hiệu quả. Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất
lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế,
chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận
lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế,
thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng
có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai,
tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu
quả, đồng thòi táng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát
quyền lực bằng hệ thông pháp luật. Hai là, phát triển
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao;
ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo,
quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo
bưốc chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất
lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chê tuyển dụng, sử
dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển
giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ,
đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước
phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh
con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ba là, xay
dựng hệ thông kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về
kinh tế và xã hội; ưu tiên phát triển một số công trình
trọng điểm quốc gia về giao thông, thích ứng vổi biến đổi
khí hậu; chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn
thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước
phát triển kinh tế số, xã hội số.

393
3. Thành tựu, kinh nghiệm của công cuộc đổi mới
Công cuộc đổi mối mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng,
là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để; là sự
nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử. Đồng thòi cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp,
nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc
phục để đưa đất nưốc phát triển nhanh và bền vững.

a) Thành tựu
Thành tựu nổi bật trước hết là về phát triển kinh tế.
Năm 1986, khi bắt đầu đổi mối, Đảng đã xác định nhiệm
vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then
chốt. Đổi mối tư duy lý luận, trước hết là tư duy kinh tế,
từ đó đổi mới cơ chế, chính sách về kinh tế để chuyển dần
từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, hành chính, bao
cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước,
theo định hưống xã hội chủ nghĩa. Nhờ vậy, kinh tế giảm
bớt khó khăn, từng bưốc phát triển. Năm 1996, chấm dứt
khủng hoảng kinh tế - xã hội. Năm 2008, ra khỏi tình
trạng nưốc nghèo, kém phát triển, trở thành quốc gia có
thu nhập trung bình. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mang lại hiệu
quả. Đại hội XIII nêu rõ: “Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô

394
ổn định, vững chắc hơn, các cân đốì lón của nền kinh tế cơ
bản được bảo đảm, tô'c độ tăng trưởng duy trì ở mức khá
cao; quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng
tăng trưởng được cải thiện.
Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thông pháp luật,
cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với
yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội
nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường
từng bưốc phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực
và thế giới. Nhiều rào cản tham gia thị trường được dỡ bỏ;
môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện rõ rệt, khởi
nghiệp sáng tạo và phát triển doanh nghiệp khá sôi động.
Doanh nghiệp nhà nước từng bước được sắp xếp, tổ chức
lại có hiệu quả hơn; kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định
là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế tập
thể từng bưốc đổi mới gắn vởi cơ chế thị trường; kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh, là bộ phận quan
trọng của nền kinh tế nưóc ta”1.
Trong nhiệm kỳ khóa XII, những năm 2016 - 2019,
phát triển kinh tế có những thuận lợi. “Mặc dù năm cuối
nhiệm kỳ, đại dịch Covid-19 và thiên tai, bão lũ nghiêm
trọng liên tiếp xảy ra ở cấc tỉnh miền Trung đã tác động

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,
t.I, tr.59-60.

395
nặng nề tới mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, nhưng
tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016 - 2020
vẫn đạt khoảng 6%/năm (riêng nám 2020 tăng trưởng
GDP vẫn đạt 2,91%, là mức tăng trưởng thuộc nhóm cao
nhất thế giới). Quy mô nền kinh tế và thu nhập bình quân
đầu người tăng lên (nám 2020, GDP đạt 271,2 tỉ USD và
thu nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD). Chất
lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động tăng
từ 4,3%/nám giai đoạn 2011 - 2015 lên khoảng 6%/năm
giai đoạn 2016 - 2020”1.
Một thành tựu rất quan trọng của công cuộc đổi mới là
“Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ tiếp tục được
đổi mối và có bước phát triển”2. Chiến lược phát triển khoa
học và công nghệ, giáo dục và đào tạo đã được đề ra từ
năm 1996 nhằm thúc đẩy mạnh mẽ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nưốc. Chiến lược đó không ngừng
được bổ sung và phát triển, thúc đẩy phát triển kinh tế tri
thức, đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao, tiếp cận và làm chủ khoa học - công nghệ tiên
tiến, trong quá trình hội nhập quốc tế.
“Chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo được tích cực triển khai, bước đầu có hiệu quả.
Mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng
về quy mô”3. Chú trọng đổi mối chương trình, sách giáo

1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quô'c lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.60-61, 62.

396
khoa giáo dục phổ thông, đổi mới phương pháp giảng dạy
và học tập. Quản lý, quản trị đại học có bưốc đổi mới, chất
lượng giáo dục đại học từng bước được nâng lên. Giáo dục
nghề nghiệp có nhiều chuyển biến. Coi trọng đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý. Chi đầu tư cho
giáo dục và xã hội hóa giáo dục được tăng cường. Cơ chê tự
chủ, cơ chế cung ứng dịch vụ công trong giáo dục và đào
tạo được thể chê hóa và đạt kết quả bước đầu. Hợp tác
quốc tế về giáo dục và đào tạo được mở rộng. Nhân lực
chất lượng cao tăng cả về số lượng và chất lượng.
“Khoa học và công nghệ từng bước khẳng định vai trò
động lực trong phát triển kinh tế - xã hội. Tiềm lực khoa
học và công nghệ của đất nước được tăng cường”1. Khoa
học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ đã đóng góp
tích cực hơn trong nâng cao năng suất lao động, chất
lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường, sử dụng có hiệu quả
tài nguyên thiên nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu,
bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo đảm quốc
phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội. Khoa học xã hội
và nhân văn, khoa học lý luận chính trị góp phần tích cực
cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối, chính sách,
bảo vệ, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng,
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, con người Việt Nam và
bảo vệ TỔ quốc.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quô'c lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.63.

397
Thành tựu về văn hóa, xã hội: “Phát triển văn hóa, xã
hội, con người đạt nhiều kết quả quan trọng’1. Xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được Đảng
chủ trương từ năm 1998; quan điểm đó không ngừng được
bổ sung, phát triển. Thực tiễn đổi mới cho thấy, nhận thức
về văn hóa, xã hội, con người ngày càng toàn diện, sâu sắc
hơn. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa
được kế thừa, bảo tồn và phát huy. Ván hóa trong chính
trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy
hiệu quả tích cực. Văn hóa gắn liền với xây dựng con
người. “Phát triển toàn diện con người Việt Nam đang
từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội”2, xây dựng cái tốt, cải thiện, đồng thời
phê phán, đấu tranh chống cái xấu, cái ác, cái lạc hậu.
Quá trình đổi mối đã từng bước hoàn thiện đồng bộ và
thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội, chính sách dân
tộc, tôn giáo; phát triển thị trường lao động, hướng tới xây
dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, tiệm cận
các tiêu chuẩn quốc tế. Bảo đảm cơ bản an sinh xã hội,
quan tâm nâng cao phúc lợi xã hội cho người dân thực
hiện ngày càng tốt hơn chính sách đốì vôi người có công,
tiếp tục cải thiện chính sách tiền lương, mở rộng bảo hiểm
xã hội, tỷ lệ bảo hiểm y tế đạt trên 90%. Đời sống nhân
dân được cải thiện rõ rệt; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lẩn thứ XIII, Sđd, t. I, tr.64, 65.

398
đa chiều còn dưới 3%, hoàn thành các mục tiêu phát triển
Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.
Một thành tựu đặc biệt quan trọng mà Đại hội cũng
chỉ ra, đó là: “Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an
ninh được giữ vững và tăng cường; quan hệ đôì ngoại,
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành
tựu nổi bật”1. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt
đôì, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập
trung, thông nhất của Nhà nước đối vói quốc phòng, an
ninh và lực lượng vũ trang. Xây dựng Quân đội nhân
dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bưởc hiện đại; một số quân chủng, binh
chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, đáp ứng ngày
càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi
ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nưốc, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh, trật tự, an
toàn xã hội. Kết hợp có hiệu quả quốc phòng, an ninh
với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. “Đã ban
hành và triển khai đồng bộ các chiến lược quan trọng,
như: Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược quốc phòng,
Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia,

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quô'c lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr.67.

399
Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia và Chiến lược bảo
vệ Tổ quốc trên không gian mạng, v.v.”1.
“Quan hệ đối ngoại và hội nhập quô'c tế tiếp tục mở
rộng và đi vào chiều sâu, tạo khung khổ quan hệ ổn định
và bền vững vổi các đối tác”2. Chủ động tham gia xây dựng
các nguyên tắc, chuẩn mực trong các thể chế đa phương
khu vực và toàn cầu; xử lý đúng đắn, hiệu quả quan hệ với
các nưốc láng giềng, các nước lón, các đối tác chiến lược,
đối tác toàn diện và đối tác khác.
Khi tiến hành công cuộc đổi mdi, Đảng đã kết hợp
ngay từ đầu đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị.
Hệ thông chính trị không ngừng được xây dựng củng cố
vững mạnh. “Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được
củng cố; dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát
huy”3. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đổi mối
nội dung và phương thức hoạt động. Tôn trọng, bảo đảm
quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân theo Hiến
pháp năm 2013, gắn quyền công dân với nghĩa vụ, trách
nhiệm công dân đối với xã hội. Chú trọng dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện, nhất là ở cơ sở. “Xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ
chức bộ máy nhà nưốc tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động
hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ, các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”4. “Công tác xây

1, 2, 3, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lẩn thứ XIII, Sđd, 1.1, tr.68-69, 69, 70, 71.

400
dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy
mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt”1.
Chú trọng xây dựng Đảng về chính trị, về tư tưởng, về đạo
đức, về tổ chức và cán bộ. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ
luật đảng được chỉ đạo tập trung, quyết liệt, toàn diện,
đồng bộ, có nhiều đổi mới, có hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng
lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng.
Có được những thành tựu to lởn về kinh tế, giáo dục,
đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hóa, xã hội, chính trị,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại là kết quả của quá trình
phấn đấu liên tục, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, qua nhiều nhiệm kỳ đại hội; là sự lãnh đạo, chỉ đạo
đúng đắn, có hiệu quả của Trung ương Đảng, sự quản lý,
điều hành quyết liệt của Chính phủ và chính quyền các
cấp; sự tham gia tích cực của Mặt trận và các tổ chức chính
trị - xã hội; sự phối hợp đồng bộ của cả hệ thống chính trị.
Cần nhấn mạnh, việc xử lý các mốì quan hệ lớn bảo
đảm cho đổi mới phát triển mang lại nhiều thành tựu to
lốn. Các quan hệ lốn mà Đại hội XIII chỉ ra, đó là: “Giữa
ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực
lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr.73.

401
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa nhà nước, thị trường và
xã hội; giữa tăng trưởng kinh tê' và phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường;
giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quô'c Việt Nam xã hội chủ
nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; và đặc
biệt, môi quan hệ mới được bô sung lần này là mô'i quan
hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường phấp chế, bảo
đảm kỷ cương xã hội”1. Những mốỉ quan hệ lớn phản ánh
những quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý
luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng.
“Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị
thế và uy tín quốc tế như ngày naỷ’2. Đó là sự khái quát
cao những thành tựu của đất nưốc qua 35 năm đổi mới
dưới sự lãnh đạo của Đảng.

b) Hạn chế
Hoàn thiện thể chế; đổi mối mô hình tăng trưởng, cơ
cấu lại nền kinh tế; công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn
chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản về mô hình tăng
trưởng; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh
của nền kinh tế chưa cao. Đổi mối giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động lực
then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Lĩnh vực

1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr.39, 25.

402
văn hóa, xã hội chưa có nhiều đột phá, hiệu quả chưa cao.
Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, khả năng thích
ứng với biến đổi khí hậu còn bất cập. Các lĩnh vực quốc
phòng, an ninh, đốì ngoại còn một số mặt hạn chế. Sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ
nghĩa có lúc, có nơi chưa được quan tâm phát huy đầy đủ.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có mặt
chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và
quản lý đất nước trong tình hình mới. Công tác xây dựng,
chỉnh đốh Đảng còn một số hạn chế.

c) Những hạn chế, khuyết điểm trên đây có cả nguyên


nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, trong đó
nguyên nhân chủ quan lầ chủ yếu
Về khách quan: Đổi mới là một sự nghiệp to lớn, toàn
diện, lâu dài, rất khó khăn, phức tạp, chưa có tiền lệ trong
lịch sử. Tình hình thế giới và khu vực có những mặt tác
động không thuận lợi; sự chống phá quyết liệt của các thế
lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị.
Về chủ quan: Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn chưa được quan tâm đúng mức, đổi mới tư duy lý
luận chưa kiên quyết, mạnh mẽ, có mặt còn lạc hậu, hạn
chế so vối chuyển biến nhanh của thực tiễn. Dự báo tình
hình chậm và thiếu chính xác làm ảnh hưởng đến chất
lượng các quyết sách, chủ trương, đường lối của Đảng.
Nhận thức và giải quyết tám môi quan hệ lớn còn hạn chế.
Đổi mổi thiếu đồng bộ, lúng túng trên một số lĩnh vực.

403
Nhận thức, phương pháp và cách thức chỉ đạo tổ
chức thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước còn nhiều
hạn chế. Quyền hạn và chế độ trách nhiệm, nhất là
quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu không
được quy định rõ ràng; thiếu cơ chế để kiểm soát quyền
lực. Nhiều chủ trương, nghị quyết đúng không được tích
cực triển khai thực hiện, kết quả đạt thấp. Một số chính
sách không phù hợp với thực tiễn, chậm được sửa đổi,
bổ sung.
Việc quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên,
nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp về tư
tưỏng chính trị, đạo đức, lốì sống chưa được coi trọng
thường xuyên, đúng mức, hiệu quả thấp, chưa đáp ứng
được yêu cầu, chưa tạo được sự thống nhất cao về nhận
thức tư tưởng, ý chí và hành động trong Đảng trưốc
những diễn biến phức tạp của tình hình. Đánh giá, sử
dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ; chưa quan tâm
đến việc xây dựng cơ chế, chính sách đế trọng dụng người
có đức, có tài.

d) Một sô'bài học kinh nghiệm

Một là, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được
triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên cả
về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Kiên
định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo,

404
cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng
cố, táng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị;
thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường
xuyên đổi mối phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng
Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
toàn diện; hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực;
kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; đẩy mạnh đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Công tác cán
bộ phải thực sự là “then chốt của then chốt”, tập trung xây
dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược
đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ;
cán bộ, đảng viên phải thực hiện trách nhiệm nêu gương
theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu,
nhất là ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Ban Bí thư, ủy viên
Ban Chấp hành Trung ương.
Hai là, trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước,
phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan
điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám
sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể
của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi
chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu,
nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết vói nhân dân,
dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm

405
no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng
cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nưốc, chế
độ xã hội chủ nghĩa.
Ba là, trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức
thực hiện phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lốn,
hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích cực, có
bước đi phù hợp, phát huy mọi nguồn lực, động lực và
tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; kịp thòi tháo gỡ
các điểm nghẽn; đề cao trách nhiệm người đứng đầu gắn
liền với phát huy sức mạnh đồng bộ của hệ thống chính
trị, phát huy dân chủ đi đôi vởi giữ vững kỷ cương; coi
trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; thực hiện
tốt sự phôi, kết hợp trong lãnh đạo, quản lý, điều hành;
coi trọng chất lượng và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để
phát triển.
Bốn là, tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế
phát triển, bảo đảm hài hòa giữa kiên định và đổi mới, kế
thừa và phát triển; giữa đổi mối kinh tế và đổi mói chính
trị, văn hóa, xã hội; giữa tuân theo các quy luật thị trường
và bảo đảm định hưống xã hội chủ nghĩa, giữa tăng trưởng
kinh tế với phát triển văn hóa, con người, giải quyết các
vấn đề xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường; giữa phát
triển kinh tế, xã hội vởi bảo đảm quốc phòng, an ninh;
giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế; thực sự coi
trọng, phát huy hiệu quả vai trò động lực của con người,
văn hóa, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong
phát triển đất nưóc.

406
Năm là, chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng
tình hình, không để bị động, bất ngờ; kiên quyết, kiên trì
đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của Tô quốc đi đôi với giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; chủ động, tích
cực hội nhập quốc tê toàn diện và sâu rộng trên cơ sở giữ
vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; xử lý đúng đắn, linh
hoạt, hiệu quả mối quan hệ với các nước lốn và các nước
láng giềng, đánh giá đúng xu thế, nắm bắt trúng thời cơ.
Phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước kết
hợp vối sức mạnh của thời đại; khai thác, sử dụng có hiệu
quả mọi nguồn lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Những bài học được tổng kết có rất nhiều điểm phát
triển mối về lý luận và thực tiễn đổi mới của Việt Nam.
Cần phải vận dụng và phát huy tốt nhất trong thời kỳ
phát triển mối của đất nưốc. Phấn đấu đến năm 2025,
Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp theo
hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp;
đến năm 2030, là nưốc đang phát triển, có công nghiệp
hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở
thành nước phát triển, thu nhập cao.

c. CẦU HỎI ÔN TẬP

1. Khái quát quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trên
cả nưóc và quá trình tìm con đường đổi mới đất nưốc?

407
2. Nội dung đường lối đổi mới toàn diện của Đại hội VI
của Đảng (12/1986) và quá trình thực hiện?
3. Nội dung Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991 và bổ sung,
phát triển năm 2011)?
4. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đổi
mới, công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và hội nhập
quốc tế?
5. Thành tựu, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo
của Đảng trong sự nghiệp đổi mới?

408
KẾT LUẬN

Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi Đảng ra đời


đến nay đã trải qua những thời kỳ, giai đoạn lịch sử quan
trọng, ghi những dấu mốc lịch sử của Đảng, của cách mạng
và dân tộc Việt Nam. Đó là thời kỳ lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc -
Hồ Chí Minh đi tìm con đường cứu nưóc (1911 - 1920) và
khẳng định con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội và con người. Thời kỳ
1920 - 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam, cùng với các chiến sĩ cách mạng tiền bốĩ
chuẩn bị những điều kiện về chính trị, tư tưỏng và tổ chức
để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 2/1930, công
bô' Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Từ năm 1930
đến năm 1945, Đảng lãnh đạo các phong trào cách mạng
rộng lốn (1930 - 1931); khôi phục tổ chức (1932 - 1935);
phong trào đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939); hoàn chỉnh
đường lối giải phóng dân tộc, lãnh đạo phong trào đấu
tranh giành độc lập, giành chính quyền (1939 - 1945), dẫn
tới thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

409
Sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm
1945, Đảng lãnh đạo Nhà nưốc và trở thành Đảng cầm
quyền. Đảng lãnh đạo xây dựng, củng cố, bảo vệ Nhà nưốc
dân chủ nhân dân và mọi thành quả của cách mạng, xây
dựng chê độ mới, cải thiện đời sống của nhân dân, xây
dựng đời sống mởi, đồng thời lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng
chiến ở Nam Bộ chống sự xâm lược của thực dân Pháp
(1945 - 1946). Đảng đề ra đường lối kháng chiến toàn dân,
toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính và chỉ đạo
cuộc kháng chiến toàn quốc từ tháng 12/1946, đánh bại
các kế hoạch chiến tranh lốn của thực dân Pháp và can
thiệp Mỹ, đưa đến chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
(7/5/1954), buộc Pháp ký Hiệp định Giơnevơ (21/7/1954),
các nưốc cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản, độc
lập, thốhg nhất, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt
Nam, Lào và Campuchia.
Thực dân Pháp rút hết quân về nưốc, đế quốc Mỹ thay
thế thực dân Pháp, chiếm miền Nam Việt Nam (từ vĩ
tuyến 17 về phía Nam), xây dựng chế độ thực dân kiểu
mới, thông qua chính quyền tay sai, hòng chia cắt lâu dài
nưóc Việt Nam, vi phạm và không thực hiện những điều
khoản của Hiệp định Giơnevơ về thống nhất nước Việt
Nam. Trong hoàn cảnh đó, Đảng đã lãnh đạo nhân dân
miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, quá độ
đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời Đảng
chủ động để ra đường lối lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng ở

410
miền Nam, tiến hành cuộc kháng chiến chốhg Mỹ, cứu
nước nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam thời kỳ 1954 - 1975
là Đảng lãnh đạo đồng thòi thực hiện hai chiến lược cách
mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân. Hai chiến lược cách mạng đó có mối
quan hệ mật thiết và quyết định lẫn nhau nhằm thực hiện
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Với sự toàn thắng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử (30/4/1975), đất nước Việt Nam hoàn toàn
độc lập và thống nhất. Đảng đề ra đường lôi cách mạng xã
hội chủ nghĩa và lãnh đạo cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, xây dựng lại đất nưốc sau 30 năm kháng chiến lâu
dài, gian khổ, đồng thời lại phải tiến hành chiến tranh bảo
vệ Tổ quốc ỏ biên giởi Tây Nam và biên giối phía Bắc, thực
hiện nghĩa vụ quốc tế, giúp nhân dân Campuchia thoát
khỏi chế độ diệt chủng, hồi sinh đất nưốc, tiếp tục giúp đỡ
cách mạng Lào. Những năm 1975 - 1986, Đảng từng bưốc
đổi mối tư duy, đổi mối cơ chế, chính sách, khảo nghiệm
thực tiễn để tìm con đường đổi mới đất nước.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng Cộng
sản Việt Nam (12/1986) đã hoạch định đường lối đổi mới
toàn diện cả về cơ chế, chính sách kinh tế, hệ thông chính
trị, các chính sách xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh,
đối ngoại. Đảng lãnh đạo nhân dân vượt qua khó khăn,

411
thách thức cả ở trong nước và tác động quốc tế, kiên định
con đường xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh xây dựng chủ
nghĩa xã hội bằng đường lốì đổi mới. Trên cơ sở đổi mới
tư duy, tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn, Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Đại hội VII
của Đảng (6/1991). Cương lĩnh được bổ sung, phát triển
năm 2011 tại Đại hội XI của Đảng. Thực hiện công cuộc
đổi mới, vừa bổ sung, phát triển đường lối đổi mới và
Cương lĩnh, vừa chú trọng những chủ trương, chính sách
lớn về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị và Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân; đề ra và thực hiện Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, các chính sách xã hội, xây dựng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng và thực
hiện Chiến lược bảo vệ Tố quốc, thế trận quốc phòng toàn
dân và an ninh nhân dân; thực hiện chính sách đối ngoại
độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác, phát triển, đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ, Việt Nam là bạn, đối tác
tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng thế
giới, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Thành công của
công cuộc đổi mới làm cho thê và lực của đất nước tăng
lên, khẳng định con đường phát triển đúng đắn của dân
tộc Việt Nam.

412
Đảng Cộng sản Việt Nam từ nám 1930 đến nay đã
lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn
thể dân tộc Việt Nam tiến hành sự nghiệp đấu tranh cách
mạng lâu dài đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác để có
được cơ đồ và vị thế như ngày nay. Thành tựu của cách
mạng vô cùng phong phú, toàn diện và vẻ vang phản ánh
quy luật vận động, phát triển của cách mạng Việt Nam do
Đảng lãnh đạo.
Những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam:
Một là, thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm
1945, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Thắng lợi đó đã đánh đổ chế độ thuộc địa của thực
dân Pháp và phátxít Nhật, xóa bỏ chế độ phong kiến
hàng nghìn năm, giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc,
xây dựng nền cộng hòa dân chủ, chế độ dân chủ nhân
dân đầu tiên ỏ Việt Nam, tạo tiền đề để phát triển đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Một kỷ nguyên
mới của lịch sử dân tộc được mở ra, kỷ nguyên dân tộc
được độc lập, nhân dân được tự do, được làm chủ đất
nước và xã hội, xây dựng cuộc sống mổi ấm no, hạnh
phúc, thực hiện các quyền cơ bản của con người. Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc đánh đổ ách cai trị của thực dân, phátxít,
giành độc lập, đồng thời cũng là cuộc cách mạng dân chủ
do nhân dân tiến hành, đánh đổ chế độ quân chủ phong
kiến chuyên chế. Cuộc Cách mạng Tháng Tám đã kết hợp

413
đúng đắn đấu tranh giai cấp với đấu tranh dân tộc, thống
nhất lợi ích của các giai cấp với lợi ích tốĩ cao của dân tộc,
kết hợp chặt chẽ mục tiêu giành độc lập cho dân tộc,
giành chính quyền về tay nhân dân. Đây là kết quả tổng
hợp của các phong trào cách mạng liên tục diễn ra trong
15 năm sau ngày thành lập Đảng, từ cao trào Xôviết
Nghệ - Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936 - 1939 đến
phong trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945.
Cách mạng Tháng Tám thể hiện sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, của khát vọng độc lập, tự do
và ý chí tự lực, tự cường, quyết “đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta”1 như Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Đó là thắng lợi của đường lối cứu nước,
sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời của Đảng và lãnh tụ Hồ
Chí Minh, vai trò to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên,
các tổ chức đảng trong cả mỉốc. Có được những cán bộ,
đảng viên trung kiên, hy sinh, chiến đấu vì giải phóng
dân tộc, vì cuộc sống của nhân dân là thành công lớn
trong xây dựng Đảng và thực hiện vai trò lãnh đạo của
Đảng. Cách mạng Tháng Tám thành công là kết quả của
quá trình Đảng chủ động nắm bắt thời cơ cách mạng,
phát động và lãnh đạo cao trào cách mạng cứu nước, phát
triển tổ chức đảng, Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể
cứu quốc tạo ra thực lực cách mạng, phát triển sức mạnh

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.596.

414
trong nưốc để khi nhân tố bên ngoài thuận lợi xuất hiện,
Nhật đầu hàng Đồng minh, Đảng đã chốp thời cơ phát
động Tổng khởi nghĩa. Triệt để tận dụng thời cơ, đồng
thời chủ động đẩy lùi nguy cơ: thực dân Pháp quay lại áp
đặt sự cai trị như trước ngày 9/3/1945 và quân Đồng
minh kéo vào giải giáp quân Nhật, có ý đồ phá hoại nền
độc lập của Việt Nam. Chốp đúng thời cơ và đẩy lùi nguy
cơ là thành công nổi bật của Đảng trong Cách mạng
Tháng Tám năm 1945. Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã
xử lý thành công các mối quan hệ quốc tế vối kẻ thù trực
tiếp, với các nưốc Đồng minh (Mỹ, Anh, Liên Xô, Trung
Quốc) với chiến lược rõ ràng và sách lược phù hợp bảo
đảm cho cách mạng nổ ra và giành thắng lợi. “Chẳng
những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thế
tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức
nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên
trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa
thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng
thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”1.
Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt đế
giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quô'c, đánh thắng chủ nghĩa
thực dân cũ và mối, hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, thực hiện thông nhất Tổ quốc, đưa cả nước
đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.25.

415
tranh của nhân dân thê giới vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thắng lợi của các cuộc kháng chiến trước hết là thắng
lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự
chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng. Với đường lối kháng
chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là
chính, vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến
tranh cách mạng, giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, kế thừa
truyền thống đánh giặc, giữ nước của dân tộc, Đảng đã
phát triển phong phú các hình thức chiến tranh nhân dân,
phát triển khoa học, nghệ thuật quân sự Việt Nam, kết
hợp kháng chiến với kiến quốc đã đưa kháng chiến đến
thắng lợi với chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử và ký kết
Hiệp định Giơnevơ.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng
lãnh đạo đồng thòi thực hiện hai chiến lược cách mạng:
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, giương cao hai ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Một đảng thống nhất
lãnh đạo một nước tạm chia làm hai miền với hai chiến
lược cách mạng khác nhau là đặc điểm nổi bật của cách
mạng Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975. Cùng với đường lối
cách mạng, Đảng phải phát triển sáng tạo về phương pháp
cách mạng; sử dụng bạo lực cách mạng vối hai lực lượng:
lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang
nhân dân; tiến hành khởi nghĩa từng phần ở nông thôn, từ

416
khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh cách mạng; kết
hợp đấu tranh quân sự vối đấu tranh chính trị và đấu
tranh ngoại giao; kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với
chiến tranh cách mạng, nổi dậy và tiến công, tiến công và
nổi dậy; đánh địch trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi,
nông thôn đồng bằng và thành thị; đánh địch bằng ba mũi
giáp công: quân sự, chính trị, binh vận; kết hợp ba thứ
quân, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính
quy, kết hợp đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ; thực hiện làm
chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ. Nắm vững
phương châm chiến lược đánh địch lâu dài, đồng thời biết
tạo thời cơ và nắm vững thời cơ mở những cuộc tiến công
chiến lược làm thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực
hiện tổng tiến công và nổi dậy đè bẹp quân địch để giành
thắng lợi cuối cùng.
Đường lối chính trị, quân sự và phương pháp cách
mạng do Đảng đề ra, được thể hiện phong phú trong chiến
tranh cách mạng “đã tạo nên sức mạnh tổng hợp cực kỳ to
lớn” để đánh thắng thế lực đế quốc giàu mạnh nhất, hung
bạo nhất trong thời đại ngày nay. Thực tiễn chiến tranh
cách mạng ở Việt Nam chứng minh: “một dân tộc nước
không rộng, người không đông, song đoàn kết chặt chẽ và
đấu tranh kiên quyết dưối sự lãnh đạo của một đảng Mác -
Lênin có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn,
giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, lại được sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của các nước

417
xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng và nhân dân
tiến bộ trên thế giới, thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế
lực đế quốc xâm lược”1.
Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước
đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Sự nghiệp đổi mối là kế thừa những thành tựu và
kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc khi
còn chiến tranh và trong những năm đầu sau khi đất
nước thông nhất, trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm
sáng kiến của nhân dân, Đảng đã đề ra và lãnh đạo
thực hiện đường lối đổi mối, xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với thực tiễn Việt Nam và bối
cảnh quốc tế.
Đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng (tháng
12/1986) đề ra là bước đổi mới quan trọng về tư duy lý
luận, nhận thức rõ hơn những luận điểm của c. Mác và
V.I. Lênin về những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, hiểu rõ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đường
lối đổi mổi cũng là kết quả của quá trình tổng kết, tìm tòi,
khảo nghiệm thực tiễn, từng bưởc khắc phục lối tư duy
chủ quan, duy ý chí, giáo điều, nóng vội và thấy rõ sự cần
thiết phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd,
t.37, tr.489.

418
quan. Đường lối đổi mới dựa trên cơ sở sáng kiến, nguyện
vọng và lợi ích của các tầng lốp nhân dân và do đó trở
thành yêu cầu khách quan, tất yếu của cuộc sống.
Từ thực tiễn sinh động và hiệu quả thiết thực của quá
trình đổi mới mà đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước được bổ sung, phát triển. Đường lối đổi
mổi gắn liền với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thòi
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội các chặng đường 10 năm được Đảng đề ra, gắn
với quá trình cụ thể hóa, thể chế hóa thành những chính
sách và hệ thông pháp luật.
Hơn 30 năm đổi mởi, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu to lốn, có ý nghĩa lịch sử. Đã chuyển đổi từ nền
kinh tế kế hoạch hóa, quản lý hành chính, tập trung, bao
cấp, nền kinh tế hiện vật sang nền kinh tế hàng hóa, nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nưóc, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đất nước
ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội (1996), đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ra khỏi tình trạng của nước
nghèo, kém phát triển, trở thành nưốc có mức thu nhập
trung bình (2008), phấn đấu sớm trở thành nưốc công
nghiệp theo hướng hiện đại. Đời sống nhân dân không
ngừng được cải thiện cả về vật chất và tinh thần. Chính trị,
xã hội ổn định và hệ thống chính trị vững mạnh vối vai trò
của Đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quốc

419
phòng, an ninh được củng cố vững chắc, giữ vững độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Quan hệ đối ngoại mở rộng, Việt Nam có quan hệ ngoại
giao với 188 nước trong tổng số 193 nước thành viên Liên
hợp quốc, quan hệ đối tác chiến lược vối 16 nưốc, tạo môi
trường hòa bình, hợp tác, phát triển, tích cực, chủ động hội
nhập quốc tế. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng
Cộng sản Việt Nam nêu rõ: “Những thành tựu đó tạo tiền
đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mối và phát
triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối
đổi mối của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của
Việt Nam và xu thếphát triển của lịch sử’1.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng
sản Việt Nam (1/2016) tổng kết 30 năm đổi mới, khẳng
định những thành tựu, đồng thời thẳng thắn chỉ ra
những hạn chế, khuyết điểm, nhất là công tác tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu lý luận; kinh tế phát triển chưa
bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và
thực tế nguồn nhân lực được huy động; đổi mới chính trị
chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế. Bốn nguy cơ mà Hội
nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng
1/1994) nêu ra vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Ván kiện Đại hội đại biểu toàn
quô'c lẩn thú XII, Sđd, tr.66.

420
Từ công cuộc đổi mới, qua nghiên cứu lý luận và tổng
kết thực tiễn mà nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng
tỏ hơn. Sáng tỏ hơn về mục tiêu, mô hình của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam với 8 đặc trưng mà Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thòi kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã đề ra. Sáng tỏ hơn về chế
độ kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Sáng tỏ hơn về những nội dung bỏ
qua chê độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí
thông trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng
tư bản chủ nghĩa. Kế thừa những thành tựu mà nhân loại
đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt vê khoa
học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất,
xây dựng nển kinh tế hiện đại. Việt Nam đã và đang kế
thừa thành tựu của các cuộc cách mạng công nghiệp, đặc
biệt là Cách mạng công nghiệp lần thứ hai, lần thứ ba và
nhất là Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Lãnh đạo công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã
hội, Đảng Cộng sản Việt Nam với tầm nhìn chiến lược,
vừa định ra những mục tiêu chiến lược lâu dài khi đất
nưốc kết thúc thời kỳ quá độ xây dựng được về cơ bản
nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc
thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp; vừa
chú trọng những vấn đề bức thiết đang đặt ra để tận
dụng thời cơ, vượt qua thách thức, đưa đất nước phát

421
triển nhanh và bền vững. Đó là đẩy mạnh hơn nữa công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nưốc gắn với phát triển
kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
vởi những quy luật và yêu cầu cao. Xây dựng nền văn
hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội. Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Thực hiện đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn
kết toàn dân tộc, tăng cường mở rộng Mặt trận dân tộc
thống nhất. Xây dựng Nhà nưốc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Từ thực tiễn đổi mới, Đảng đã nhận thức và giải quyết
tốt các mối quan hệ lớn phản ánh quy luật đổi mới và phát
triển ở Việt Nam: “Đó là quan hệ giữa đổi mối, ổn định và
phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa
tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và
xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; giữa
nhà nước và thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ

422
nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”1.
Những bài học lớn vể sự lãnh đạo của Đảng
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội.
Học thuyết cách mạng, khoa học Mác - Lênin soi sáng
sự nghiệp đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân, giải
phóng các dân tộc, giải phóng con người thoát khỏi áp bức,
bóc lột, bất công để xây dựng một xã hội tốt đẹp vì con
người, đó là chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan
niệm giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp là hai cuộc
giải phóng vĩ đại, quan hệ mật thiết với nhau. Độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung hàng đầu
trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt
Nam (2/1930) xác định rõ mục tiêu: “Làm cho nước Nam
được hoàn toàn độc lập”2 và “để đi tối xã hội cộng sản”3.
Suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn luôn nắm
vững và kiên định các mục tiêu chiến lược đó. Sau khi
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đất nước ta
lại phải tiếp tục tiến hành 30 năm chiến tranh cách mạng

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quô'c lần thứ XII, Sđd, tr.17-18.
2. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đẵng toàn tập, Sđd,
t.2, tr.2.

423
chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
với hai nhiệm vụ chiến lược ỏ hai miền. Nhiệm vụ xây
dựng chủ nghĩa xã hội được đặt ra trực tiếp ở miền Bắc từ
nám 1954 và trên cả nưốc từ năm 1975. Công cuộc đổi mới
từ năm 1986 đến nay đang hiện thực hóa những mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội mà Cương lĩnh của Đảng đã đề ra, vì
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm
vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ TỔ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến
lược có quan hệ mật thiết với nhau. Độc lập dân tộc gắn
liền vối chủ nghĩa xã hội là quy luật phát triển của cách
mạng Việt Nam, cũng là quy luật dựng nước gắn liền vối
giữ nước, là lý tưởng cao cả và hiện thực trong thời đại Hồ
Chí Minh. Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam
hiện nay là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc và xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân,
nhân dân là người làm nên lịch sử, là chủ thể của lịch sử,
đó là quan điểm cơ bản trong lý luận Mác - Lênin về chủ
nghĩa duy vật lịch sử, về cách mạng xã hội. Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh, cách mạng muốn thành

424
công thì phải lấy dân chúng làm gốc; có dân thì có tất cả,
nghĩa là phải dựa vào dân, tổ chức, vận động để nhân
dân hiểu rằng cách mạng là công việc của chính nhân
dân. Người mong muốn, cách mạng thành công thì
“quyền giao cho dân chúng số’ nhiều”1. “Bao nhiêu lợi ích
đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”2. Khi
Đảng nắm chính quyền, thì chính quyền đó là để gánh
việc chung cho dân chứ không phải để cai trị dân; “việc gì
có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì hại đến dân phải
hết sức tránh”3.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, chính nhân
dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử từ Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, hai cuộc kháng chiến và
công cuộc đổi mối, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Toàn bộ
hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện
vọng chính đáng của nhân dân. Ngoài lợi ích của dân tộc,
giai cấp và nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác. Từ
khi thành lập, Đảng đã xác định, luôn luôn gắn bó với
nhân dân, từng trải đấu tranh mà trưởng thành. Sức
mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân.
Nhân dân là người bảo vệ Đảng, giúp đỡ Đảng về mọi mặt
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và chính

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.292.


2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.232.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.51.

425
phong trào cách mạng của nhân dân đã hiện thực hóa mục
tiêu cách mạng do Đảng đề ra.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, phải phòng ngừa
nguy cơ sai lầm về đường lối, nguy cơ xa rời quần chúng
nhân dân và cả nguy cơ suy thoái của một bộ phận cán bộ,
đảng viên. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thòi kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển nám
2011) đã nêu rõ, quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân
sẽ dẫn đến tổn thất khôn lường đối vổi vận mệnh của đất
nưốc, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng. Ó mọi thời
kỳ cách mạng, nhất là trong điều kiện hiện nay, Đảng đặc
biệt chú trọng công tác vận động quần chúng nhân dân.
Thấm nhuần chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “dân vận
khéo thì việc gì cũng thành công’1, trong công cuộc đổi
mới, cùng với bài học lấy dân làm gốc, Đảng chú trọng
thực hiện phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dần
kiểm tra. Đảng và các cơ quan nhà nước các cấp phải thật
sự hiểu dân, tin dân, gần dân, bàn bạc với dân và thật sự
vì dân.
Ba là, không ngừng củng cô' tăng cường đoàn kết,
đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc,
đoàn kết quốc tế.
Đoàn kết là nguyên tắc của Đảng chân chính cách
mạng. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848),

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.234.

426
c. Mác và Ph. Ảngghen đã nêu rõ khẩu hiệu chiến lược:
Vô sản tất cả cắc nước đoàn kết lại. Đầu thế kỷ XX, V.I.
Lênin và Quốc tế Cộng sản bổ sung: Vô sản toàn thế giới
và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại. Đối với dân tộc Việt
Nam, đoàn kết là truyền thống quý báu, là cội nguồn sức
mạnh trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Hồ Chí
Minh đặc biệt chú trọng nêu cao ngọn cò dân tộc, lợi ích
quốc gia, dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc là điểm căn bản và
nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đoàn kết là sức
mạnh, đoàn kết là thành công. Người coi giữ gìn đoàn kết
trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Người
cũng là hiện thân của tinh thần đoàn kết quốc tế.
Nhờ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tập hợp trong
Mặt trận dân tộc thống nhất do Đảng lãnh đạo, toàn dân
Việt Nam đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, làm nên thành
công của Cách mạng Tháng Tám và các cuộc kháng chiến
cứu nước, tranh thủ được sự đoàn kết và ủng hộ của đồng
chí, bè bạn và nhân dân thế giới, thực hiện thành công sự
nghiệp đổi mổi, xây dựng, phát triển đất nưốc và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng nhấn mạnh chiến lược
đại đoàn kết dân tộc, lấy mục tiêu chung của lợi ích quốc
gia, dân tộc làm điểm tương đồng, tôn trọng lợi ích của các
tầng lớp, giai cấp không trái với lợi ích chung. Đại đoàn
kết dân tộc, luôn luôn gắn liền vói phát huy và hoàn thiện
dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của

427
nhân dân, tôn trọng quyền con người, quyền và trách
nhiệm công dân. Trong lịch sử, Đảng đã chú trọng xây
dựng các tổ chức Mặt trận, các đoàn thể để đoàn kết toàn
dân, tăng cường xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức chính trị - xã hội, thực hiện tốt nhất đoàn kết
mọi giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam
định cư ỏ nước ngoài, tạo sự đồng thuận xã hội.
Bôn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quô'c tế.
Chủ nghĩa Mác - Lênin mang bản chất quốc tế, cách
mạng của giai cấp vô sản, không chỉ giải phóng giai cấp
lao động trong một nước mà giải phóng toàn nhân loại.
Đoàn kết và ủng hộ lẫn nhau giữa các cuộc cách mạng và
nhân dân các nưóc là yêu cầu khách quan tất yếu. Trong
thế giới hiện đại, nhiều vấn đề không thể giải quyết trong
phạm vi một nưốc mà cần đến sự hợp tác quốc tế. Hồ Chí
Minh là lãnh tụ dân tộc, lãnh tụ của Đảng đồng thời là
chiến sĩ quốc tế. Người thấy rõ sự cần thiết phải kết hợp
sức mạnh dân tộc vối sức mạnh thòi đại; “Nhưng muốn
người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình
đã”1. Quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã kết hợp
đúng đắn sức mạnh dân tộc vối sức mạnh thời đại, sức
mạnh trong nưốc vối sức mạnh quốc tế, tạo nên nhân tố
quyết định thắng lợi.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.320.

428
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã phát huy cao
nhất sức mạnh dân tộc, vối ý chí đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta, đồng thời tận dụng cơ hội thuận lợi khi phe
Đồng minh chiến thắng phátxít Nhật. Trong hai cuộc
kháng chiến, sức mạnh của dân tộc được huy động cao
nhất vổi tĩnh thần tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là
chính, đồng thời tranh thủ cao nhất sự ủng hộ, giúp đỡ
của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa và
bạn bè quốc tế. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng
huy động cao nhất nguồn lực trong nưốc đồng thời tranh
thủ và sử dụng có hiệu quả nguồn lực từ bên ngoài bao
gồm cả viện trợ, cho vay và đầu tư trực tiếp. Tích cực, chủ
động hợp tác vối các nước, hội nhập quốc tế, tạo cả thế và
lực để phát triển đất nưốc. Vởi đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển, đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ, Việt Nam là bạn, là đôì tác tin
cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế,
đã tạo được sự hội nhập thành công, đồng thời vẫn giữ
vững độc lập, tự chủ và con đường phát triển của đất nưốc.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tô'
hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đặc biệt
chú trọng xây dựng Đảng Cộng sản - đội tiền phong của
giai cấp vô sản. Đảng Cộng sản phải được trang bị lý luận
tiền phong, khoa học, có cương lĩnh chính trị rõ ràng, được
tổ chức theo những nguyên tắc cơ bản và vối kỷ luật chặt

429
chẽ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, cách mạng trước
hết phải có đảng cách mạng để tổ chức phong trào cách
mạng của quần chúng, Đảng phải có chủ nghĩa làm cốt,
Đảng không có chủ nghĩa (lý luận) cũng giống như người
không có trí khôn. Đảng phải hoàn thành sứ mệnh giải
phóng dân tộc, xây dựng đất nước vì hạnh phúc của nhân
dân. Người nhấn mạnh, Đảng và từng cán bộ, đảng viên
phải thấm nhuần đạo đức cách mạng. Năm 1927, Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh đề ra 23 điều về tư cách người cách
mệnh. Năm 1947, Người đề ra 12 điều về tư cách của một
Đảng chân chính cách mạng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn luôn
chú trọng xây dựng Đảng, nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng. Không ngừng phát triển, bổ
sung Cương lĩnh chính trị, đường lối, nắm vững và kiên
định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.
Khẳng định tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ
bản của Đảng, đồng thời chú trọng các nguyên tắc đoàn
kết, thống nhất trong Đảng; tự phê bình và phê bình; gắn
bó mật thiết với nhân dân và nguyên tắc của chủ nghĩa
quốc tê vô sản. Chú trọng công tác cán bộ, coi cán bộ là cái
gốc của mọi công việc. Rèn luyện đạo đức cách mạng là nội
dung cơ bản trong xây dựng Đảng. Không ngừng đổi mới
phương thức lãnh đạo, nâng cao chất lượng và hiệu quả

430
lãnh đạo. Đảng lãnh đạo bằng đường lốĩ và những quyết
sách đúng đắn, thông qua hệ thống tổ chức đảng và các tổ
chức trong hệ thông chính trị; thông qua đội ngũ cán bộ,
đảng viên trên tất cả các lĩnh vực nhằm hiện thực hóa
đường lối của Đảng. Chú trọng nghiên cứu lý luận, tổng
kết thực tiễn và không ngừng làm rõ những vấn đề đặt ra
trong khoa học lãnh đạo quản lý.
Để hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo của Đảng cầm
quyền, Đảng không ngừng đổi mới, tự chỉnh đốn; phòng
ngừa, đẩy lùi nguy cơ sai lầm về đường lối, quan liêu, xa
dân và cả nguy cơ suy thoái, biến chất của một bộ phận
cán bộ, đảng viên. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII (10/2016) đã ban hành Nghị
quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ. Thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 khóa
XII gắn liền với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày
15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Nghị
quyết Trung ương 6 khóa XII (10/2017) về sắp xếp tổ chức
bộ máy của hệ thống chính trị; Nghị quyết Trung ương 7
khóa XII (5/2018) về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp nhất
là cấp chiến lược, thật sự làm cho Đảng vững mạnh, tiếp
tục hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo xã hội và Nhà nưốc, đưa
đất nước phát triển nhanh và bền vững trong thòi kỳ mởi.

431
Đảng không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ
sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm nổi bật
những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Đó là truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất
của Đảng vì lý tưỏng cách mạng cao cả, vì nước, vì dân, với
sự hy sinh anh dũng của nhiều thế hệ cán bộ lãnh đạo,
đảng viên kiên trung của Đảng. Truyền thống đoàn kết,
thống nhất trong Đảng, thốhg nhất nhận thức, ý chí và
hành động. Truyền thống tự phê bình, phê bình nghiêm
túc và quyết tâm sửa chữa những khuyết điểm, hạn chế,
yếu kém. Truyền thống gắn bó mật thiết với giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Truyền thống
rèn luyện phẩm chất, đạo đức, nâng cao bản lĩnh tự vượt
qua mọi khó khăn, thách thức. Truyền thống của chủ
nghĩa quốc tế trong sáng.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tôn vinh sự hy sinh
anh dũng của các thế hệ cán bộ, đảng viên trong toàn
Đảng, của đồng bào cả nước trong suốt chiều dài lịch sử
đấu tranh cách mạng do Đảng lãnh đạo. Các nhà lãnh đạo
tiêu biểu của Đảng đã anh dũng hy sinh như: Trần Phú,
Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Châu Văn
Liêm, Nguyễn Phong sắc, Nguyễn Đức cảnh, Ngô Gia Tự,
Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Thị Minh Khai,

432
Nguyễn Hữu Tiến, Phùng Chí Kiên, Tô Hiệu, Hoàng Văn
Thụ, Hoàng Đình Giong và nhiều đồng chí khác. Rất
nhiều tấm gương hy sinh của chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi
vì lý tưởng và con đường cách mạng của Đảng và dân tộc
như: Lý Tự Trọng, Nguyễn Hoàng Tôn, Kim Đồng (Nông
Văn Dền), Võ Thị Sáu, Trần Văn ơn, Lê Bình, Mạc Thị
Bưởi, Bùi Thị Cúc, Nguyễn Thị Lợi, Vừ A Dính, Cù Chính
Lan, Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diện, Nguyễn
Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân, Bùi Ngọc Dương, Lê Thị
Riêng, Lê Anh Xuân, Nguyễn Thị út (út Tịch), Quách Thị
Trang, Nguyễn Phan Vinh, Lê Thị Hồng Gấm, Kơ Pa Kơ
Lơng, Nguyễn Thái Bình, Phạm Ngọc Thảo, Vũ Xuân
Thiều, Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc, Lê Đình
Chinh, Hoàng Thị Hồng Chiêm và nhiều tấm gương kiên
cường khác.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng khẳng định: “Qua 35 nám tiến hành công cuộc đổi
mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về
đường lôì đổi mối, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và
từng bưốc được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển
mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trưốc đổi mới.
Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất
nước ta chưa bao giở có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy

433
tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản
phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá
trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng
định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là
đúng đắn, phù hợp vối quy luật khách quan, với thực tiễn
Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lốì đổi
mối của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của
Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam”1.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quô'c lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.25-26.

434
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHỦ YẾU

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, 15 tập, Nxb. Chính trị quốc


gia, Hà Nội, 2011.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,
69 tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995-2016.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quô'c lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2016.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, tập I, II, Nxb. Chính trị quốc
gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: 80 năm xây dựng và phát
triển, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung
ương, Ban Chỉ đạo tổng kết: Báo cáo tổng kết một số
vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015.

435
8. Archymedes L.A. Patti: Why Vietnam? (Tại sao Việt
Nam), Nxb. Đà Nẵng, 1995.
9. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị:
Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 - thắng lợi
và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
10. Bộ Ngoại giao: Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
11. Bộ Ngoại giao: Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán
Paris về Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002.
12. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006.
13. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Hồ Chí
Minh tiểu sủ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
14. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch
sử Đảng: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập I,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2018.
15. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình
quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh: Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam (tái bản có sửa chữa, bổ sung), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2018.
16. Robert s. McNamara: Nhìn lại quá khú - tấn thảm
kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2006.

436
MỤC LỤC

Trang
Lời giới thiệu 7
Chương nhập môn
ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM vụ,
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu,
HỌC TẬP LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 11
I- Đối tượng nghiên cứu của môn học Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam 13
II- Chức năng, nhiệm vụ của môn học Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam 17
III- Phương pháp nghiên cứu, học tập môn học Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam 24
IV- Mục đích, yêu cầu của môn học Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam 29
Chương 1
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ
LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYEN
(1930 -1945) 35
A. Mục tiêu 35
B. Nội dung 36

437
I- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng (tháng 2/1930) 36
II- Lãnh đạo quá trình đấu tranh giành chính quyền
(1930 - 1945) 72
c. Câu hỏi ôn tập 125
Chương 2
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI cuộc KHÁNG CHIÊN
CHỐNG NGOẠI XÂM, HOÀN THÀNH
GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, THONG NHAT DAT NƯỚC
(1945-1975) 127
A. Mục tiêu 127
B. Nội dung 128
I- Lãnh đạo xây dựng,bảovệ chính quyền cách
mạng, kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1945 - 1954) 128
II- Lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
và kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải
phóng miền Nam, thông nhất đất nước (1954 - 1975) 180
c. Câu hỏi ôn tập 235
Chương 3
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ TIẾN HÀNH CÔNG cuộc Đổi MỚI
(TỪ NĂM 1975 ĐẾN NAY) 237
A. Mục tiêu 237
B. Nội dung 238
I- Lãnh đạo cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc (1975 - 1986) 238

438
II- Lãnh đạo công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế (từ
năm 1986 đến nay) 260
c. Câu hỏi ôn tập 407
Kết luận 409
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHỦ YÊU 435

439
Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN

Chịu trách nhiệm nội dung


PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
ThS. PHẠM THỊ THINH

Biên tập nội dung: ThS. BÙI THỊ ÁNH HỒNG


ThS. TRẦN MINH NGỌC
PHẠM THỊ THU PHUƠNG
Trình bày bìa: ĐẶNG THU CHỈNH
Chế bản vi tính: NGUYEN THU THẢO
Sửa bản in: PHÒNG BIÊN TẬP KỸ THUẬT
Đọc sách mẫu: TRẦN minh ngọc
PHẠM THỊ THU PHUƠNG

In 15.000 cuốn, khổ 14,5 X 20,5 cm, tại Nhà in Sự thật.


Sô' 201 Đường Cầu Diễn, tổ dân phố 15, Phúc Diễn, Bắc Từ Liêm, Hà Nội.
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 673-2021/CXBIPH/24-02/CTQG.
Quyết định xuất bản: 372-QĐ/NXBCTQG ngày 09/6/2021.
Mã sốISBN: 978-604-57-6590-6.
In xong và nộp lưu chiểu tháng 6 năm 2021.
NHÃ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA sự THẬT, Sô 6/86 Duy Tân, cẩu Giấy, Hà Nội
ĐT: 686.49221, Fax: 680.49222, Email: suthat@nxbctqg.vn, Website: www.nxbclqg.vn
Sách điện tử: www.stbook.vn,www.thuviencoso.vn

TÌM ĐỌC SÁCH CÚA NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA sự THẬT

Bộ giáo trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo biên soạn


gồm 10 cuốn:

* GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN


(Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị)
* GIÁO TRÌNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
(Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị)
* GIÁO TRÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
(Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị)
* GIÁO TRÌNH Tư TƯỞNG Hổ CHÍ MINH
(Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị)
* GIÁO TRÌNH LỊCH sử ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị)
* GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
(Dành cho bậc đại học hệ chuyên lý luận chính trị)
* GIÁO TRÌNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
(Dành cho bậc đại học hệ chuyên lý luận chính trị)
* GIÁO TRÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
(Dành cho bậc đại học hệ chuyên lý luận chính trị)
* GIÁO TRÌNH Tư TƯỞNG HÔ CHÍ MINH
(Dành cho bậc đại học hệ chuyên lý luận chính trị)
* GIÁO TRÌNH LỊCH sử ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ISSN 978-604-57-6590-t
(Dành cho bậc đại học hệ chuyên lý luận chính trị)

9 786045 765906

8935279132546
MÃ ĐỊNH DANH
TỪNG CUÔN SÁCH Giá: ỠO.OOOđ

You might also like