Professional Documents
Culture Documents
Tiểu Luận Biển Đảo Việt Nam- Tham vọng của Trung Quốc độc chiếm Biển Đông
Tiểu Luận Biển Đảo Việt Nam- Tham vọng của Trung Quốc độc chiếm Biển Đông
PHẦN MỞ ĐẦU
Biển Đông Là một vùng biển nửa kín, có diện tích 3,5 triệu km 2 trải rộng
từ 30 vĩ Bắc đến 260 vĩ Bắc và từ 1000 kinh Đông đến 1210 kinh Đông; là một
trong những biển lớn nhất trên thế giới với 90% chu vi được bao bọc bởi đất
liền. Có 9 nước tiếp giáp với Biển Đông là Việt Nam, Philipine, Indonexia,
Brunay, Malaixia, Singapore, Thái Lan, Campuchia, Trung Quốc và một vùng
Biển Đông là một trong những khu vực có vị trí địa chiến lược, vị trí địa
chính trị và vị trí địa kinh tế khá quan trong đối với các nước, vùng lãnh thổ
trong khu vực ASEAN nói riêng và các quốc gia khác trên thế giới nói chung.
Biển Đông nằm trên con đường giao thông huyết mạch nối liền Thái Bình
Dương- Ấn Độ Dương, Châu Âu- Châu Á, Trung Đông- Châu Á. Nằm trên con
tuyến đường biển thông thương lớn nhất trên thế giới, là tuyến đường vận tải
quốc tế nhộn nhịp thứ hai trên thế giới. Biển Đông chứa đựng người tài nguyên
thiên nhiên biển quan trọng cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước
Chính vị trí chiến lược quan trọng của Biển Đông và tiền năng về tài
nguyên thiên nhiên nên Biển Đông là vùng biển đang có sự tranh chấp về chủ
quyền, nhất là tranh chấp về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa của Việt Nam, trong đó Trung Quốc là nước đã và đang có những
2 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc
hành động ngang ngược, bất chấp luật pháp quốc tế để đòi hỏi chủ quyền vô
căn cứ đối với các quần đảo, với phần lớn diện tích Biển Đông. Hành động của
Trung Quốc trên Biển Đông ngày càng gia tăng nhằm thực hiện tham vọng độc
chiếm Biển Đông của giới cầm quyền Trung Quốc. Vì vậy cuộc đấu tranh bảo
vệ chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, các quyền và lợi ích
chính đáng của quốc gia trên các vùng biển, hải đảo là một việc thiêng liêng,
NỘI DUNG
3 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc
I. VAI TRÒ CỦA BIỀN ĐÔNG ĐỐI VỚI KHU VỰC VÀ VIỆT NAM
1. Vai trò của Biển Đông đối với khu vực Đông Nam Á
Biển Đông nằm trên tuyến đường giao thông huyết mạch nối liền Thái
Bình Dương- Ấn Độ Dương, Châu Âu- Châu Á, Trung Đông- Châu Á, Nằm
trong số những tuyến đường biển thông thương lớn nhất thế giới. [2, tr.19]
Biển Đông là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai trên thế giới.
Mỗi ngày có khoảng 150-200 tàu các loại qua lại Biển Đông. Biển Đông có vai
trò hết sức quan trọng đối với tất cả các nước trong khu vực về vị trí địa chiến
lược, an ninh quốc phòng giao thông hàng hải và kinh tế.[2, tr.20]
Nơi tập trung mâu thuẫn giữa hệ tư tưởng của chủ nghĩa tư bản vả chủ
nghĩa xã hội và nhiều thể chế chính trị khác nhau. [2, tr.20]
Tiềm năng về nguồn tài nguyên sinh vật biển: Biển Đông chứa đựng
nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan trọng cho đời sống và sự phát triển kinh
tế của các nước xung quanh, đặc biệt là nguồn tài nguyên sinh vật, khoáng sản,
4 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc
du lịch, đồng thời đây là khu vực chịu nhiểu sức ép về bảo vệ môi trường sinh
Tiền năng về dầu khí: Biển Đông được coi là một trong năm bồn trũng
chứa dầu khí lớn nhất thế giới. Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự
trữ dầu đã được kiểm chứng ở Biển Đông là 07 tỷ thùng với khả năng sản xuất
2,5 triệu thùng/ngày. Ngoài ra, theo các chuyên gia, khu vực Biển Đông còn
chứa đựng lượng lớn tài nguyên khí đốt đóng băng (băng cháy). Trữ lượng loại
tài nguyên này trên thế giới ngang bằng với trữ lượng dầu khí và đang được coi
là nguồn năng lượng thay thế dầu khí trong tương lai.[2,tr.21]
Việt Nam giáp với Biển Đông ở ba phía Đông, Nam và Tây Nam. Các
vùng biển là thềm lục địa của Việt Nam là một phần Biển Đông trải dọc theo bờ
biển khoảng 3.260km. Theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển, Việt Nam
có quyền tự nhiên lớn nhất đối với Biển Đông. Biển Đông trở thành không gian
sinh tồn đối với Việt Nam. Biển Đông có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam cả trong lịch sử, hiện tại và tương lai về các
mặt kinh tế, chính trị…Ngoài ra, ven biển Việt Nam còn chứa đựng tiềm năng
to lớn về quặng sa khoáng như titan, Zircon, thiệc, vàng, đất hiếm…trong đó cát
nặng, cát đen là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước. Đặc biệt hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở trung tâm Biển Đông, rất thuận lợi cho việc đặt
5 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc
các trạm dừng chân và tiếp nhiên liệu cho tàu thuyền…phục vụ cho tuyến
II. THAM VỌNG CỦA TRUNG QUỐC ĐỘC CHIẾM BIỂN ĐÔNG.
Tháng 02-1947, Bộ Nội vụ Trung Hoa Dân quốc đã tiếp tục cho xuất bản tài
liệu tra cứu tên cũ của các đảo ở Biển Đông trong đó liệt kê 159 đảo, đá. Sau
đó, tháng 01-1948, Bộ nội vụ nước Cộng hòa Trung Hoa chính thức công bố
một bản đồ có tên Nam hải chư đảo vị trí đồ. Tháng 02-1948, bản đồ này được
xuất bản chính thức, trên bản đồ này xuất hiện một đường mà Trung Hoa gọi là
đường hình chữ U, một số học giả gọi là “ Đường lưỡi bò” bởi nó nhìn giống
cái lưỡi bò liếm xuống Biển Đông. Đường chữ U được thể hiện là một đường
đứt khúc gồm 11 đoạn bao trùm cả bốn nhóm quần đảo, bãi ngầm lớn trên Biển
Đông, đó là các quần đảo Paracels (Hoàng Sa), Spratlys (Trường Sa) và Pratas
(Trung quốc gọi là Đông Sa) và bãi cạn Macclesfield (Trung quốc gọi là Trung
Trung Quốc đưa ra yêu sách về “Đường lưỡi bò” dựa theo quan điểm của
bản đồ xuất hiện đường lưỡi bò đầu tiên của Trung Hoa Dân quốc năm 1948 mà
các học giả Trung Quốc cho là kế thừa lịch sử. Năm 1949, nước CHND Trung
6 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc
Hoar a đời, quốc gia này sau đó thay thế Cộng hòa Trung Hoa trở thành thành
viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Năm 1949, Trung Quốc
cũng cho ấn hành một bản đồ, trong đó “ đường lưỡi bò” được thể hiện giống
như trên bản đồ trước đó gồm 11 đoạn. Đến năm 1953, bản đồ vẽ “ đường lưỡi
bò” của Trung Quốc xuất bản chỉ còn 9 đoạn. Cả chính phủ Trung Hoa Dân
quốc trước đây và CHND Trung Hoa sau này chưa bao giờ đưa ra lời tuyên bố
hoặc giải thích chính thức gì về “ đường lưỡi bò” đó cả, Trung Quốc cũng chưa
chính thức đăng ký về ranh giới thềm lục địa. [1, tr.358]
1.2 Những lập luận áp đặt, thiếu căn cứ của Trung Quốc.
Với tham vọng độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc đã bất chấp luật pháp
quốc tế và công luận. Trung Quốc không có cơ sở pháp lý, không chứng minh
được chủ quyền của mình đối với hia quần đào Hoàng Sa và Trường Sa. Để
biện minh cho yêu sách vô căn cứ của mình Trung Quốc đã đưa ra những lập
luật áp đặt, xuyên tạc, thiếu căn cứ để đòi hỏi yêu sách của mình cụ thể như sau:
- Trung Quốc xuyên tạc nội dung Công ước Pháp- Thanh ngày 26-6-1887
để khẳng định chủ quyền của họ tại Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Công ước Pháp- Thanh năm 1887 chỉ quy định biên giới ở Vịnh Bắc Kỳ mà
Hoàng Sa nằm dưới vĩ tuyến 17 nên không thuộc vịnh Bắc Kỳ, vì thế viện dẫn
Công ước Pháp- Thanh năm 1887 đối với vấn đề Hoàng Sa là không đúng. [1,
tr.336]
7 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc
- Trung Quốc đã cố tình xuyên tạc lịch sử và diễn giải sai lịch sử khi viện
dẫn Công thư của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1959 để củng cố yêu sách
của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa. Thủ tướng Phạm Văn Đồng tuyên
bố sẽ tôn trọng lãnh hải của Trung Quốc, chứ không hề nói đến chủ quyền tại
Hoàng Sa và Trường Sa, vị vậy việc diễn giải sai lịch sử và viện dẫn Công thư
- Ngày 30-01-1980, Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
đã công bố tài liệu có tên Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc đối
với các đảo Tây Sa và Nam Sa đã khẳng định: “ Một số lớn sách lịch sử và các
tài liệu cũng như rất nhiều các di vật khảo cổ khai quật được đều chứng minh rõ
rằng các đảo Tây Sa và Nam Sa từ lâu đời là lãnh thổ của Trung Quốc”. Những
chứng cứ và sự viện dẫn mà Trung Quốc đưa ra để chứng minh cho chủ quyền
của Trung Quốc với hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa (Hoàng Sa và Trường Sa)
là sự áp đặt vì không có căn cứ lịch sử rõ ràng nên không có sức thuyết phục.[1,
tr.312]
- Công hàm ngày 07-5-2009 của Trung Quốc có kèm bản đồ đường chữ
U, Trung Quốc đòi hỏi cộng đồng quốc tế phải thừa nhận “ tính chất lịch sử của
“ đường lưỡi bò”, coi Biển Đông như một vịnh lịch sử”. Như vậy toàn bộ Biển
Đông sẽ trở thành ao hồ của Trung Quốc, điều đó là hoàn toàn phi lý, vô căn cứ,
- Ngày 14-4-2011, nhằm đáp trả công hàm phản đối đường lưỡi bò của
Philippines, Trung Quốc gửi Công hàm cáo buộc Philippines “ xâm lược”,
chiếm đóng trái phép một số đảo của Trung Quốc ở quần đảo Nam Sa (Trường
Sa). Tại Công hàm này Trung Quốc khẳng định: “ quần đảo Nam Sa của Trung
Quốc hoàn toàn có quyền hưởng vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa”.
2. Hành động, hình thức để thực hiện tham vọng độc chiếm Biển
2.1 Hành động xâm phạm chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa,
Năm 1909, chính quyền Quảng Đông (Trung Quốc) đã đặt tên Đông Sa
cho quần đảo Paratas, sau đó là Tây Sa cho quần đảo Paracels (Hoàng Sa) thuộc
chủ quyền của Việt Nam. Tiếp đó, phó vương Tổng đốc Lưỡng Quảng đòi sở
hữu tất cả các nhóm đảo nằm dọc theo bờ biển của triều Thanh và coi các đảo
đó như một bộ phận của Trung Quốc. Trong số nhóm đảo đó có Hoàng Sa.
Tháng 4-1909, một phái đoàn của Trung Quốc đã ra quần đảo Hoàng Sa để
thám sát. Họ phát hiện được nguồn Phosphate phong phú có thể khai thác được.
[1, tr.220]
9 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc
Ngày 06-6-1909, Phó vương tổng đốc Lưỡng Quảng đã phái hai tàu chiến
nhỏ do thủy sư Đô đốc Lý Chuẩn chỉ huy tới Hoàng Sa, rồi long trọng kéo cờ
Trung Quốc trên hai hòn đảo quan trọng nhất, đồng thời bắn 21 phát đại bác
chào mừng để khẳng định chủ quyền sở hữu đối với toàn bộ các đảo Hoàng Sa,
cuộc đổ bộ của phái đoàn Trung Quốc diễn ra chóng vánh (trong 24 giờ). Pháp
im lặng trước hành động Trung Quốc vi phạm chủ quyền trên quần đảo Hoàng
Ngày 30-01-1921, Ban đốc chính chính quyền quân sự miển Nam Trung
Quốc đã quyết định xác nhập về mặt hành chính quần đảo Hoàng Sa vào huyện
Nhai (đảo Hải Nam). Pháp vẫn im lặng trước sự vi phạm chủ quyền của Trung
Quốc.
Ngày 08-3-1925, Toàn quyền Đông Dương Varenne tuyên bố khẳng định
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ nước Pháp, sự kiện này chấm dứt
sự im lặng của Pháp đối với vấn đề chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa Để bảo vệ chủ quyền trên hai quần đảo này, một mặt người Pháp
tiến hành một số hoạt động khảo sát, nghiên cứu ở quần đảo Hoàng Sa. Tháng
7-1927, tàu De Lanessan đưa một số nhà nghiên cứu ra khảo sát quần đảo
Trường Sa. Mặt khác người Pháp tập trung nghiên cứu các tài liệu về các triều
đại phong kiến Việt Nam xưa, nhất là triều Nguyễn đã xác lập chủ quyền của
Năm 1931, Trung Quốc cho đấu thầu việc khai thác phân chim trên quần
đảo Hoàng Sa. Ngày 04-12-1931, chính phủ Pháp đã gửi một thông điệp cho
Công sứ quán Trung Quốc tại Paris về yêu sách các đảo. Ngày 29-4-1932,
Kháng nghị của Chính phủ Pháp đã nêu rõ bằng chứng về sự chiếm hữu của
Việt Nam, sau đó là của Pháp đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Chính phủ Pháp lần đầu tiên đề nghị đưa vụ tranh chấp giữa Trung Quốc và
Pháp ra các tòa án quốc tế. Trung Quốc đã phản đối đề nghị này của Pháp.[1,
tr.225]
Ngày 29-9-1932, Công sứ quán Trung Quốc tại Paris đã gửi Công hàm
tới Bộ Ngoại giao Pháp và cho rằng những bằng chứng lịch sử mà Chính phủ
Pháp đưa ra không có sức thuyết phục, đồng thời khẳng định các hiệp ước, tài
liệu và hồ sơ đều chứng tỏ quần đảo Hoàng Sa là một bộ phận lãnh thổ Trung
Quốc.
Ngày 13-4-1933, Trung tá Hải quân De Lattre chỉ huy một hạm đội nhỏ
thuộc các lực lượng Hải quân Pháp ở Viễn Đông rời Sài Gòn đến đảo Trường
Sa. Sự chiếm hữu được tiến hành theo nghi thức cổ xưa. Đó là một văn bản
được thảo ra và các thuyền trưởng ký thành 11 bản. Mỗi đảo nhận được một văn
bản, được đóng kín vào trong một cái chai rồi được gắn trong một trụ xi măng
xây trên mỗi đảo tại một điểm ấn định và cố định trên mặt đất. Các thành viên
trong hạm đội kéo cờ Pháp lên và thổi kèn trên từng hòn đảo. Ngày 19-7-1933,
11 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc
Bộ Ngoại giao Pháp ra thông báo về việc Hải quân Pháp chiếm hữu một số đảo
Năm 1938 Pháp bắt đầu phái các đơn vị bảo an tới các đảo và xây dựng
một hải đăng, một trạm khí tượng đặt ở đảo Hoàng Sa và số 48859 ở đảo Phú
Lâm, một trạm vô tuyến điện TSF trên đảo Hoàng Sa.[5, tr.24]
Ngày 15-6-1938, Toàn quyền Đông Dương Jules Brévíe ký Nghị định số
156-S-V thành lập đơn vị hành chính ở đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên.
Tháng 6-1938, một dơn vị bảo an Việt Nam được phái ra đồn trú tại quần đảo
Hoàng Sa. Một bia chủ quyền được dựng trên đảo Hoàng Sa, với dòng chữ “
Trong chiến tranh thế giới thứ 2, Nhật Bản đã ráp tâm biến các đảo trong
Biển Đông trở thành bàn đạp để mở rộng sự chiếm đóng của mình xuống khu
vực Đông Nam châu Á, ngày 31-3-1939, Nhật tuyên bố sáp nhập các quần đảo
trong Biển Đông và các vùng lãnh thổ mà Nhật đã chiếm đóng. Ngày 04-4-
1939, Chính phủ Pháp gửi công hàm phản đối các quyết định nói trên của Nhật
và bảo lưu các quyền của Pháp tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 26-
8-1945, ngay sau khi Nhật đầu hàng, quân Nhật đã rút khỏi quần đảo Hoàng Sa
2.2. Hành động chiếm đóng các đảo ở quần đảo Hoàng Sa và Trường
Năm 1946, lợi dụng việc giải giáp quân Nhật và nhân lúc quân đội viễn
chinh Pháp và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đang bận đối phó với
cuộc chiến tranh toàn diện sắp sảy ra, thì ngày 26-10-1946, hạm đội đặc biệt
của Trung Hoa Dân quốc gồm 4 chiến hạm, mỗi chiếc chở một số đại diện của
các Bộ và 59 binh sĩ cảnh vệ của Hải quân ra chiếm các đảo ở quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa. Ngày 29-11-1946, các tàu Vĩnh Hưng và Trung Kiên tới đảo
Hoàng Sa và đổ bộ lên đây. Tàu Thái Bình và Trung Nghiệp đến Trường Sa.
Trung Hoa Dân quốc chiếm đóng trái phép và yêu sách chủ quyền đối với nhóm
Ngày 13-1-1947, Chính phủ Pháp chính thức phản đối sự chiếm đóng bất
hợp pháp của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa; trong đó, Pháp đã nêu
lên những bảo lưu về hậu quả pháp lý từ việc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa
của quân đội Trung Hoa Dân quốc, đồng thời nhắc lại đề nghị tìm giải pháp giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài và ngày 17-10-1947 thông báo hạm Tonkinois
của Pháp được phái đến Hoàng Sa yêu cầu quân Trung Hoa Dân quốc rút khỏi
đảo Phú Lâm. Pháp gửi một phân đội lính, gồm 10 lính Pháp và 17 lính Việt
Nam đổ bộ đóng một đồn ở đảo Hoàng Sa và quyết định lập đài khí tượng trên
đảo này. Chính phủ Trung Hoa Dân quốc phản kháng và các cuộc thương lượng
13 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc
được tiến hành tại Paris. Tại đây, Chính phủ Trung Hoa Dân quốc đã từ chối
không chấp nhận việc nhờ trọng tài quốc tế giải quyết do Pháp đề nghị. [5,
tr.26]
Tại hội nghị San Francisco (Hoa Kỳ), từ ngày 04 đến nhầ 08-9-1951, với
sự tham dự của 51 quốc gia để bàn về việc ký Hòa ước hòa bình giữa các nước
Đồng minh với Nhật Bản. Trong dự thảo hòa ước, tại điểm f, Điều 2 (Chương
II) có ghi: Nhật Bản từ bỏ tất cả các quyền, danh nghĩa và đòi hỏi đối với quần
đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Đặc biệt cũng tại hội nghị này, ông Trần Văn Hữu,
Thủ tướng chính quyền Bảo Đại, đã tuyên bố: “…để dập tắt những mầm mống
các tranh chấp sau này, chúng tôi khẳng định chủ quyền của chúng tôi đối với
các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, những quần đảo luôn thuộc về Việt
Nam”, mà không gặp bất cứ sự phản đối hoặc bảo lưu quốc tế nào. Điều đó cho
thấy luận điểm: Việt Nam có đầy đủ chứng cứ pháp lý quốc tế và lịch sử về chủ
quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hoàn toàn có
4-1956, khi quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, quân đội
quốc gia Việt Nam, sau đó là quân đội Việt Nam Cộng hòa đã ra tiếp quản
nhóm đảo phía tây quần đảo Hoàng Sa. Còn nhóm đảo phía đông quần đảo
Hoàng Sa (Phú Lâm, Linh Côn) đã bị quân đội Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
bí mật chiếm đóng trước khi quân đội Việt Nam Cộng hòa ra tiếp quản. Trước
14 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc
hành động xâm chiếm một số đảo ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do Trung
Hoa tiến hành vào thời điểm giao thời này, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã
lên tiếng phản đối. Trong các ngày 24-5 và 08-6-1956, Chính phủ Việt Nam
Cộng hòa ra thông cáo nhấn mạnh, quần đảo Hoàng Sa cùng với quần đảo
Trường Sa “luôn luôn là một phần lãnh thổ của Việt Nam” và tuyên bố khẳng
định chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam [1, tr.236]
2.3. Hành động chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc
(1956-1975)
Năm 1956, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tiến hành chiếm đóng nhóm
đảo phía đông của quần đảo Hoàng Sa, thực hiện kế hoạch xâm chiếm trên Biển
Đông. Ngay lập tức, ngày 01-6-1956, Ngoại trưởng Việt Nam Cộng hòa Vũ
Văn Mẫu lên tiếng phản đối,, xác nhận lại chủ quyền của Việt Nam trên cả hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa . Tiếp đến, năm 1971, hai nước Philippines và
Trung Hoa (gồm cả Đài Loan) ngang nhiên tuyên bố chủ quyền trên quần đảo
Trường Sa thì phía Việt Nam Cộng hòa cũng đã lên tiếng phản đối kịch liệt.[1,
tr.238]
Ngày 19-01-1974, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm phần phía tây
quần đảo Hoàng Sa vả để hoàn tất âm mưu chiếm đóng hoàn toàn quần đảo này
trong suốt 18 năm họ quyết tâm theo đổi. Sau trận hải chiến này toàn bộ các đảo
phía tây quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm đóng. Ngay sau khi chiếm
15 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc
đóng, Trung Quốc cho đập phá các bia chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo
Hoàng Sa, đào các mộ của người Việt đã chon ở đó, xóa các di tích lịch sử của
người Việt để áp đặt “chủ quyền” của họ trên quần đảo này. Hành động đánh
chiếm các đảo trong quần đảo trên Biển Đông bằng vũ lực của Trung Quốc là
một sự vi phạm nghiêm trọng điều 2 khoản 4 của hiến chương Liên Hợp quốc,
trong đó cấm các quốc gia dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là cấm
sử dụng vũ lực để xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia
khác. Hành động Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm phần phía Đông của
quần đảo Hoàng Sa năm 1956 và chiếm phần phía Tây của quần đảo năm 1974
thực chất là một hành động xâm lược lãnh thổ Việt Nam. Theo luật pháp quốc
tế việc Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm các đảo ở quần đảo Hoàng Sa
không tạo ra được chứng cứ pháp lý để khẳng định chủ quyền của Trung Quốc
đối với các đảo, đá mà họ đã dùng vũ lực để chiếm đoạt. Hành động xâm lược
nói trên của Trung Quốc càng thể hiện rõ tham vọng bành trướng lãnh thổ của
Ngay trong ngày 19-01-1974, Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa đã ra
tuyên cáo về hành động xâm chiếm của Trung Hoa rằng: “ Các hành động
quân sự của Trung Cộng là hành vi xâm phạm trắng trợn vào lãnh thổ Việt
Nam Cộng hòa, và một lần nữa vạch trần chánh sách bành trướng đế quốc mà
2.4. Hành động và tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc
Ngày 5-4-1975, Bộ tư lệnh Hải quân đã triển khai kế hoạch chiến đấu
giải phóng quần đảo Trường Sa. Đoàn tàu vận tải quân sự 125, đoàn 126 đặc
công, tiểu đoàn 471, đặc công quân khu 5 và tiểu đoàn 407 cùng lực lượng đặc
công tỉnh Khánh Hòa nhận lệnh ra đảo Song Tử Tây, sau đó tiếp tục tiến xuống
Nam Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn, An Bang, Trường Sa. Từ ngày 13 đến ngày 28
tháng 4, Hải quân nhân dân Việt Nam đã giải phóng và tiếp quản các đảo, đồng
thời triển khai lực lượng tại các đảo và một số vị trí khác để bảo vệ quần đảo
Sau khi chiếm giữ trái phép các đảo Chữ Thập, Châu Viên, Huy Gơ, Ga
Ven và Subi, quân Trung Quốc tiếp tục chuẩn bị thực hiện ý đồ thôn tính 3 đảo
Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao. Ngày 14-3-1988 Trung Quốc nổ súng chiếm Gạc
Ma, trong cuộc chiến đấu không cân sức để bảo vệ Trường Sa, chúng ta đã chặn
đứng được bước chân bành trướng nguy hiểm của Trung Quốc về phía tây quần
đảo Trường Sa hòng cắt đứt tuyến đường liên lạc giữa đất liền với quần đảo,
tiến tới cô lập và thôn tính toàn bộ quần đảo Trường Sa và hiện thực hóa đường
Để tiếp tục khẳng định chủ quyền và yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý
của Trung Quốc đối với phần lớn Biển Đông, Trung Quốc tăng cường các hành
17 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc
động gây hấn, xâm chiếm ở Biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Hành động gây hấn, ngang ngược, bất chấp luật pháp quốc tế, nhằm hiện
thực hóa tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc, hoạt động khiêu
khích của Trung Quốc trên Biển Đông ngày càng trở lên hung hăng, trắng trợn.
Trung Quốc tăng cường sự hiện diện một cách toàn diện: Quân sự, bán quân sự
và dân sự.
- Năm 1993, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng tuyên bố: Vấn đề tại quần
đảo Trường Sa, nơi mà chủ quyền thuộc về Trung Quốc, chúng tôi đề nghị gác
- Năm 2007, Trung Quốc cho lưu hành bản đồ phân lô dầu khí trong khu
vực đường lưỡi bò và cho phép các công ty quốc doanh Trung Quốc đứng ra
mời thầu khai thác các lô đó. Tháng 6-2012 tập đoàn dầu khí hải dương Trung
Quốc công bố gói thầu dầu khí quốc tế nằm trong đường lưỡi bò, toàn bộ 9 lô
được mời thầu đều nằm hoàn toàn trong vùng 200 hải lý và thềm lục địa của
Việt Nam, chồng lên các lô từ 128 đến 132 và từ 145 đến 156 mà tập đoàn dầu
khí Việt Nam đã và đang tiến hành các hoạt động dầu khí từ lâu nay. Động thái
này cho thấy Trung Quốc sẵn sảng đơn phương khai thác năng lượng trong
đường lưỡi bò bất chấp sự phản đối của các nước.[2, tr.62]
- Ngày 26-5-2011, 3 tàu hải giám Trung Quốc số 84,72 và 17 cắt cáp
thăm dò tàu Bình Minh 02 của tập đoàn dầu khí Việt Nam. Ngày 9-6-2011,
18 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc
được sự yểm trợ của các tàu Ngư chính ( số hiệu 311 và 303), tàu đánh cá Trung
Quốc mang số hiệu 6226 đã phá cáp của tàu Viking II trong phạm vi 200 hải lý
trên thềm lục địa của Việt Nam. Ngày 30-11-2012, một cặp tàu kéo giã cào
mang số hiệu 16025 và 16028 của Trung Quốc đã chạy qua phía sau, gây đứt
cáp địa chấn của tàu Bình Minh 02 cách phao đuôi khoảng 25m. Vị trí cáp bị
cắt đứt cách đảo Cồn Cỏ 43 hải lý về phía Đông Nam. Đây là những hành động
phá hoại, ngăn cản hoạt động thăm dò và khai thác biển của Trung Quốc đối với
- Từ năm 1999, Trung Quốc hằng năm đều tự ban hành lệnh cấm đánh
bắt cá trên Biển Đông, nơi Trung Quốc tự cho là thuộc chủ quyền của mình.
Đến năm 2009, vùng cấm đánh bắt cá này được mở rộng sang phạm vi lãnh hải
Việt Nam, bất chấp sự phản đối của Việt Nam. [2, tr.63]
- Ngày 21-6-2012, quốc vụ viện Trung Quốc đã phê chuẩn việc thành lập
thành phố Tam Sa (cấp địa khu , trực thuộc tỉnh Hải Nam), để quản lý 3 quần
đảo Hoàng Sa, Bãi Macclesfied, Trường Sa và các vùng nước xung quanh các
đảo này. Ngày 19-7-2012, Quân ủy Trung ương Trung Quốc đã phê chuẩn thành
lập và triển khai Bộ chỉ huy quân đồn trú ở “thành phố Tam Sa”. Ngày 21-7-
2012, Trung Quốc tổ chức bầu cử đại biểu của “ Hội đồng Nhân dân Tam Sa”.
Sự kiện xây dựng và hợp thức hóa cái gọi là “ thành phố Tam Sa” là một trong
19 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc
những bược đi của Trung Quốc nhằm tiến tới thực hiện ý đồ kiểm soát, khống
- Từ năm 2013 đến năm 2015, Trung Quốc đã bồi đắp trái phép 7 bãi đá
trong quần đảo Trường Sa gồm: bãi đá Vành Khăn, Subi, Chữ Thập, Châu Viên,
Ga Ven, Gạc Ma, Tư Nghĩa , hành động tạo lập trái phép các đảo nhân tạo của
Trung Quốc tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam đã vi phạm Công ước Luật
Biển năm 1982. Tuyên bố và ứng xử của các bên ở Biển Đông và các điều ước
thành viên. Việc bồi đáp các bãi đá thành đảo nhân tạo và quân sự hóa trên các
đảo nhân tạo đã thể hiện rõ âm mưu bành trướng và độc chiếm Biển Đông của
Trung Quốc, đồng thời đe dọa nghiêm trọng đến an ninh của khu vực, huy hoại
- Đặc biệt nghiêm trọng, ngày 2-5-2014, Trung Quốc hạ đặt giàn khoan
Hải Dương 981 ở vị trí cách đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt
Nam 17 hải lý về phía Nam, cách đảo Lý Sơn khoảng 120 hải lý về phía Đông,
nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam theo công
ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển. Để bảo vệ giàn khoan này, Trung Quốc huy
động tàu thuyền các loại, trong đó có 7 tàu quân sự như tàu hộ vệ tên lửa 534,
tàu tuần tiễu tên lửa tấn công nhanh 753, 33 tàu hải cảnh cùng nhiều tàu vận tải,
tàu cá, máy bay hoạt động trong khu vực, số tàu hộ tống của Trung Quốc lên tới
20 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc
hơn 100 chiếc. Tàu Trung Quốc liên tục có những hành vi gây hấn, khiêu khích
như sử dụng vòi rồng tấn công tàu của Việt Nam, sẵn sang đâm huc gây hư
hỏng cho tàu Việt Nam và làm bị thương một số kiểm ngư viên làm nhiệm vụ
vảo vệ chủ quyền. Ngày 26-5-2014, tàu Trung Quốc đã bao vây và đâm chìm
tàu cá của ngư dân Đà Nẵng ở khu vực Nam Tây Nam cách giàn khoan 17 hải
lý, là ngư trường truyền thống, thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của Việt Nam. Ngày 15-7-2014, sau 75 ngày hạ đặt trái phép giàn khoan Hải
Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, dưới
sức ép của cộng đồng quốc tế, Trung Quốc đã phải rút giàn khoan Hải Dương
981 ra khỏi vùng biển Việt Nam. Sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 chứng
minh chiến lược, tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc ngày càng
- Trung Quốc còn gây hấn, gây căng thẳng với Philippines tại Biển Đông
chủ yếu và tập trung trong cuộc tranh chấp bãi cạn Scarborough mà Philippines
tuyên bố chủ quyền. Tháng 4-2012, Trung Quốc đã chiếm bãi ngầm
Scarborough. Ngày 26-3-2013, Hải quân Trung Quốc phô trương thanh thế
ngay tại một rạn san hộ ở vùng cực Nam Biển Đông, bãi san hô James shoal mà
Ma-lai-xia tuyên bố chủ quyền, nhưng bị Trung Quốc tranh chấp. Hành động
mới đây nhất của Trung Quốc là đưa vùng đảo Natuna của In-dô-nê-xia vào
KẾT LUẬN
Từ năm 1909, Đô đốc Lý Chuẩn theo lệnh của Tổng đốc Lưỡng Quảng
đưa ba tàu ra vùng quần đảo Hoàng Sa, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ Việt
Nam, đến tháng 5-2014, Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt giàn khoan Hải Dương
981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam và cho rằng đây là
điểm “bước ngoặt và là cấp độ quyết đoán mới” của Trung Quốc.Đây là mốc
đánh dấu quá trình 105 năm, Trung Quốc vi phạm chủ quyền Việt Nam. Đến
nay trong hơn 105 đó, để biện minh cho hành động vi phạm chủ quyền của Việt
Nam trên Biển Đông nói chung và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nói
riêng, Trung Quốc tập trung lực lượng tìm kiếm, kể cả việc ngụy tạo chứng cớ,
chuẩn bị dư luận và lựa chọn cơ hội để đi từ vi phạm của quyền đến xâm chiếm
lãnh thổ trên biển Đông nói chung và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nói
riêng.[1, tr.309]
Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền không thể bàn cãi
của Việt Nam, chúng ta có đầy đủ chứng cứ lịch sử, tư lieu để chứng minh quá
22 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc
trình lịch sử xác lập và thực thi chủ quyền lâu dài đối với hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa, bắt đầu thời thời nhà Nguyễn đã xác lập chủ quyền đối với hai
quần đảo. trong cuốn Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đông đã viết: “ Phủ Quảng
Ngãi huyện Bình Sơn có xã An Vĩnh gần biển.Ngoài biển về phía đông bắc, có
nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, rải rác trên biển, từ hòn này sang
hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước
ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng, dài ước khoảng hơn 30 đặm, bằng phẳng rộng
lớn, nước trong suốt đáy. Bên đảo có vô số yến sào… Các thuyền nước ngoài
phần nhiều bị giáo bão hủy hoại ở đảo này. Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa
70 suốt, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận
giấy sai đi, mang lương đủ 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3
Với tham vọng bành trướng, Trung Quốc đưa ra thuyết vô căn cứ về “
đường chữ U” còn gọi là “ đường 9 đoạn”, “đường lưỡi bò” hòng xâm chiếm
hầu hết Biển Đông, coi Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc quyần của họ. Sau khi
chiếm Hoàng Sa (1974), chiếm đảo Gạc Ma (1988), quân Trung Quốc thường
xuyên gây hấn trên biển trực tiếp xâm phạm chủ quyền của Việt Nam,
Philippines và nhiều nước Đông Nam Á khác. Từ đầu thế kỉ XXI, hoạt động
khiêu khích của Trung Quốc trên Biển Đông ngày càng trở lên hung hăng, trắng
23 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc
trợn, thể hiện rõ yêu sách và tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc.
[3, tr.205]
Cuộc đấu tranh chống lại sự xâm phạm chủ quyền biển, đảo của Trung
Quốc đối với Việt Nam đã để lại cho chúng ta những bài học:
Một: Huy động và phát huy được sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc,
khu vực và quốc tế, bằng cách phải thể hiện lập trường rã ràng.
Hai: Chủ động và kịp thời lên tiếng phẩn đối những hành vi vi phạm của
Trung Quốc đúng với tính chất, mức độ vi phạm ngay từ đầu, không để xảy ra
Ba:Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền, thông tin kịp thời, chính
Bốn: Các phương án đấu tranh, ứng xử trên thực tế phải đúng pháp lý,
thật sự mềm mỏng, bình tĩnh, khôn khéo, không để mắc mưu khiêu khích của
Trung Quốc.
Năm: Tăng cường lực lượng thực thi pháp luật của Việt Nam trên biển,
tăng cường sức mạnh của lực lượng vũ trang để bảo vệ vững chắc chủ quyền
Sáu: Tăng cường tinh thần đoàn kết trong khối ASEAN trong vấn đề
1. Hội khoa học lịch sử Thừa Thiên Huế, Chủ quyền Biển Đảo Việt Nam trong
lịch sử. Nxb Văn hóa- Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2017
2. Sự kiện giàn khaon Hải Dương 981 và tham vọng của Trung Quốc độc chiếm
3. GS. Vũ Dương Ninh, giáo trình quan hệ đối ngoại của Việt Nam từ năm
1940 đến nay. Nxb đại học quốc gia Hà Nội, 2015
5. Quý Lâm (tuyển chọn và hệ thống), Biển, Đảo Việt Nam nguồn cội từ bao
MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu……………………………………………………………..1
Nội dung
I. vai trò của Biển Đông đối với khu vực và Việt Nam…………………3
1. Vai trò của Biển Đông đối với khu vực Đông Nam Á……………..3
II. Tham vọng của Trung Quốc độc chiếm Biển Đông…………………..5
Kết luận…………………………………………………………………21
26 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc