A LA I N
C OU LON
PHƯƠNG PHÁP LUẬN
DÂN DÃ
Lê Minh Tiến dịch
NHÀ XUẤT BẢN TRI THỨC
Mục lục
Dẫn nhập
Chương I. NHỮNG NGƯỜI TIÊN PHONG
1. Parsons và lí thuyết về hành động
2. Schütz
3. Tương tác biểu tượng
Chương II. LỊCH SỬ CỦA PHONG TRÀO
PHƯƠNG PHÁP LUẬN DÂN DÃ
1. Năm 1949: Các loại tội phạm liên sắc tộc và việc
định nghĩa tình huống
2. Năm 1952: Luận án của Garfinkel
3. Cicourel và việc tạo dựng “mạng lưới”
4. Phổ biến tri thức
5. 1967: Cuốn sách nền tảng
6. Sự phát triển của phong trào
7. Phổ biến ra nước ngoài
7
11
12
14
20
27
27
29
31
33
35
36
40
Chương III. NHỮNG KHÁI NIỆM THEN CHỐT
CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN DÂN DÃ
1. Thực hành, hoàn thành
2. Tính trực chỉ
3. Tính phản tư
4. Tính có thể mô tả (accountability)
5. Khái niệm thành viên
6. Những kĩ thuật phân loại thành viên
43
44
48
56
63
70
73
Chương IV. XÃ HỘI HỌC BÌNH DÂN VÀ
XÃ HỘI HỌC CHUYÊN NGHIỆP
1. Tri thức thực tiễn và tri thức khoa học
75
80
2. Tác nhân xã hội không phải là kẻ ngu xuẩn văn hóa 81
3. Khách quan luận và chủ thể luận
82
4. Phương pháp giải thích bằng tư liệu
85
5. Một cuộc thí nghiệm
89
6. Thực hành chuyên nghiệp
104
7. Lí luận xã hội học thực hành và việc
phân tích hội thoại
108
Chương V. VẤN ĐỀ PHƯƠNG PHÁP
1. Tư thế về “sự thờ ơ của phương pháp luận dân dã”
2. Thách thức thực nghiệm
3. Đóng góp phương pháp luận của Cicourel
4. Phương pháp luận dân dã, dân tộc học mô tả
kiến tạo và xã hội học định tính
117
118
123
125
Chương VI. LÀM VIỆC TRÊN THỰC ĐỊA
1. Giáo dục
2. Tội phạm vị thành niên
3. Đời sống ở phòng thí nghiệm
4. Bộ máy hành chính
141
147
158
166
172
Chương VII. PHÊ BÌNH VÀ TÁN ĐỒNG
1. Bản luận tội
2. Hiểu sai nghĩa
3. Một giáo phái?
4. Một khảo luận tổng hợp
5. Chủ nghĩa Marx và phương pháp luận dân dã
6. Viễn cảnh và giao thoa
175
176
182
186
191
193
196
KẾT LUẬN
199
THƯ MỤC THAM KHẢO
203
128
DẪN NHẬP
Phương pháp luận dân dã (ethnométhodologie/
ethnomethodology) là một trường phái xã hội học Mĩ ra
đời trong những năm 1960, đầu tiên được thiết lập tại
trường Đại học California sau đó đã lan sang các trường
đại học khác của Mĩ và châu Âu, nhất là các trường đại
học của Anh và Đức. Tuy nhiên trên thực tế, phương
pháp luận dân dã không được công chúng Pháp biết đến
cho tới khi một số bài viết căn bản và các bình luận về
nó dần xuất hiện nhiều hơn. Nhưng hơn hai mươi lăm
năm sau khi ra đời, công trình Studies in Ethnomethodology
(Những nghiên cứu trong phương pháp luận dân dã)
của nhà tiên phong Harold Garfinkel vẫn chưa được dịch
sang tiếng Pháp. Chỉ có một số bài dịch hiếm hoi các văn
bản liên quan đến phương pháp luận dân dã được phổ
biến rải rác trên một số tạp chí khoa học.
Tầm quan trọng về mặt lí thuyết và nhận thức luận
của phương pháp luận này nằm ở việc nó thực hiện
một sự đoạn tuyệt triệt để với các lối tư duy xã hội học
truyền thống. Hơn cả một lí thuyết, nó là một góc nhìn
nghiên cứu, một vị thế tri thức mới.
8
Phương pháp luận dân dã
Sự xuất hiện của phương pháp luận dân dã trong
nền văn hóa của chúng ta báo hiệu một sự đảo ngược
thật sự trong truyền thống xã hội học. Sự đảo ngược này
có vị trí quan trọng trong việc mở rộng tư tưởng xã hội.
Ngày nay, người ta đặt tầm quan trọng nhiều hơn cho
phương pháp thông hiểu đối chọi với phương pháp giải
thích, lối tiếp cận định tính về xã hội đối chọi với hội
chứng định lượng (quantophrénie) của những nghiên
cứu xã hội học trước đây.
Nghiên cứu của phương pháp luận dân dã được
thực hiện xoay quanh ý tưởng, mà theo đó chúng ta đều
là “những nhà xã hội học ở trạng thái thực hành” theo
như công thức tuyệt diệu của Alfred Schütz. Hiện thực
được dân chúng mô tả. Ngôn ngữ đời thường nói lên
hiện thực xã hội, đồng thời mô tả và tạo dựng cái hiện
thực xã hội ấy.
Đối chọi với định nghĩa của Durkheim vốn xem xã
hội học được xây dựng trên sự đoạn tuyệt với lẽ thường
tình (sens commun), phương pháp luận dân dã chứng
minh rằng chúng ta có khả năng nhận biết một cách
tinh tế về điều chúng ta làm nhằm tổ chức sự hiện hữu
xã hội của chúng ta. Bằng cách phân tích những thực
hành tại đây và vào lúc này vốn luôn được định vị bởi
những mối tương tác, phương pháp luận dân dã gắn
với những trường phái khác cũng nằm bên lề của nền
xã hội học chính thống, đặc biệt là xã hội học can thiệp
(sociologie d’intervention) vốn cũng đề cao việc mọi
Dẫn nhập
9
nhóm xã hội có khả năng tự hiểu mình, tự bình luận và
tự phân tích.
Trường phái mà chúng tôi giới thiệu ở đây không
phải là một trường phái ngoài lề [của xã hội học]. Thậm
chí theo Richard Hilbert, nó có mối liên hệ rất mạnh
giữa phương pháp luận dân dã với nền xã hội học của
Durkheim và Weber1. Phương pháp luận dân dã không
tách rời với toàn bộ nghiên cứu trong các khoa học xã
hội. Trái lại, nó có mối liên hệ đa dạng với những trường
phái khác vốn đang nuôi dưỡng cho tư duy hiện nay
của chúng ta về xã hội như trường phái mác-xít, hiện
tượng luận, chủ nghĩa hiện sinh và tương tác luận2.
Richard A. Hilbert, The Classical Roots of Ethnomethodology. Durkheim,
Weber, and Garfinkel (Những nguồn gốc kinh điển của Phương pháp luận
dân dã. Durkheim, Weber và Garfinkel), Chapel Hill, University of North
Carolina Press, 1992.
2
Những phần dịch thuật là của chính tôi, trừ những trích dẫn gốc. Tôi
cảm ơn Harold Garfinkel cũng như Nhà xuất bản Basil Blackwell Ltd đã
cho phép tôi dịch một số đoạn trong công trình Những nghiên cứu trong
Phương pháp luận dân dã.
1
11
Chương I
NHỮNG NGƯỜI TIÊN PHONG
Nhìn chung, người ta đồng ý rằng có hai nguồn
gốc chính trong công trình của Garfinkel, nhưng
không phải là của mọi nhà phương pháp luận
dân dã, đó là các công trình của Talcott Parsons1 và
Talcott Parsons (1902-1979) là Chủ tịch thứ 39 của Hiệp hội Xã hội học
Mĩ (năm 1949). Sau khi tốt nghiệp Cử nhân tại trường Amherst (Mĩ), ông
sang học tại trường Kinh tế London và trường Đại học Heidelberg (Đức)
và lấy bằng Tiến sĩ kinh tế tại trường đại học này. Sau đó ông gia nhập Đại
học Harvard và dạy về Kinh tế tại đây. Đến năm 1931, ông chuyển sang
dạy Xã hội học tại trường đại học này cho đến khi về hưu năm 1973. Ông
chủ trương thống nhất Tâm lí học lâm sàng, Nhân học xã hội với Xã hội
học, lĩnh vực mà ông đã dành nhiều công sức để xây dựng nên “Lí thuyết
tổng quát về hành động” qua các công trình như Cấu trúc của hành động
xã hội (The Structure of Social Action, 1937), Khảo luận về lí thuyết Xã hội
học (Essays in Sociological Theory, 1949) và Hệ thống xã hội (The Social
System, 1951)… Ông được xem là một trong những đại diện tiêu biểu
của trường phái Cấu trúc chức năng (Structural functionalism) trong Xã
hội học và là một trong những gương mặt ảnh hưởng nhất của Xã hội
học trong thế kỉ XX (nguồn: https://www.britannica.com/biography/
Talcott-Parsons) - ND.
1
12
Phương pháp luận dân dã
Alfred Schütz1. Hai tác giả này gần như là những nhà
xã hội học đương đại nhưng hành trình của họ lại khác
nhau. Parsons sinh ra tại Mĩ và ông phát triển một sự
nghiệp đồ sộ vốn áp đặt rất nhanh lên tư tưởng xã hội ở
Mĩ; ngược lại, Schütz di dân đến Mĩ vào năm 1939 khi ở
tuổi bốn mươi và có một ảnh hưởng âm thầm hơn nhiều
trong hai mươi năm cho đến khi ông qua đời vào năm
1959. Ông không phải là người trong giới đại học, trừ lúc
cuối đời. Nhưng ông tham gia các hội thảo và công bố
nhiều bài báo. Người ta ngày càng đánh giá cao vai trò
của ông trong nền xã hội học đương đại, cùng với đó là
ảnh hưởng của trường phái tương tác biểu tượng.
1. Parsons và lí thuyết về hành động
Parsons là một gương mặt thống lĩnh của nền xã
hội học Mĩ trong thế kỉ XX2. Đối lập với dòng tư tưởng
Alfred Schütz (1899-1959) là nhà khoa học xã hội người Mĩ gốc Áo. Lĩnh
vực nghiên cứu của ông nằm giữa Triết học và Xã hội học và ông được xem
là một trong những người đặt nền móng cho Xã hội học hiện tượng luận với
công trình nổi tiếng Hiện tượng luận về thế giới xã hội (The phenomenology
of the Social World, 1932). Tư tưởng của ông được xem là chịu ảnh hưởng
từ hiện tượng luận của Husserl và xã hội học thấu hiểu của Weber. (nguồn:
https://fr.wikipedia.org/wiki/Alfred_Sch%C3%BCtz) - ND.
2
Để biết tư tưởng của ông, tham khảo T. Parson và tgk., 1951, Towards
a General Theory of Action (Hướng đến một lí thuyết tổng quát về hành
động), Cambridge, Mass., Harvard University Press; T. Parsons, 1963: The
Structure of Social Action (Cấu trúc của hành động xã hội), New York,
1
Những người tiên phong
13
chung của nền xã hội học ở thời kì đó, ông đã khôi phục
nền xã hội học lí thuyết của châu Âu bằng cách đưa các
công trình của Durkheim, Weber, Pareto, v.v. vào trong
lí thuyết về hành động của mình. Đồng thời ông là một
gương mặt lớn trong môi trường đại học và khoa xã hội
học ở Harvard đã chứng minh một cách đặc biệt lợi ích
của việc kết hợp xã hội học thuần túy với tâm lí học xã
hội và nhân học. Từ đó đã tạo ra một thế hệ các nhà xã
hội học Mĩ, trong số đó có H. Garfinkel.
Theo Parsons, những động cơ của các tác nhân
được gắn trong những mô hình chuẩn tắc vốn điều tiết
những ứng xử và những đánh giá qua lại [của các tác
nhân]. Đây là điều giải thích cho sự ổn định của trật tự
xã hội và việc tái tạo trật tự này trong mỗi cuộc gặp gỡ
giữa các cá nhân. Chúng ta chia sẻ những giá trị vượt
trên chúng ta và chi phối chúng ta. Để tránh khỏi sự lo
lắng và những trừng phạt, chúng ta có xu hướng tự quy
vào các quy tắc của đời sống chung.
Nhưng làm thế nào mà, nói chung, chúng ta phải
tôn trọng các quy tắc ấy của đời sống chung mà không
suy nghĩ về chúng? Parsons dựa vào Freud để làm sáng
tỏ quy luật này của đời sống xã hội. Freud đã chứng
minh rằng, trong quá trình giáo dục, các quy tắc của đời
sống xã hội được các cá nhân nội tâm hóa và tạo thành
Free Press; bằng tiếng Pháp: Éléments pour une sociologie de l’action
(Những cơ sở của xã hội học về hành động), Paris, Plon, 1955.
14
Phương pháp luận dân dã
cái mà ông gọi “cái siêu tôi” (sur-moi), tức là một dạng
tòa án bên trong [cá nhân]. Theo Freud và Parsons, hệ
thống này được nội tâm hóa chi phối các ứng xử, thậm
chí là những suy nghĩ của chúng ta.
Khi giao tiếp với nhau, chúng ta luôn luôn dựa
vào những biểu tượng vốn có ý nghĩa trong những cái
tổng thể (totalité)1 như ngôn ngữ chẳng hạn, vốn tồn tại
trước các cuộc gặp gỡ của chúng ta, như một hệ thống
quy chiếu và như một nguồn bất tử, không thể cạn kiệt
và ổn định. Phương pháp luận dân dã đặt vấn đề theo
cách khác: mối quan hệ giữa tác nhân và tình huống
không phụ thuộc vào những nội dung văn hóa hay của
các quy tắc, mối quan hệ này sẽ được hình thành bởi các
quá trình kiến giải. Ở đây, có một sự thay đổi về hệ hình
xã hội học: với phương pháp luận dân dã, người ta đi từ
hệ hình chuẩn tắc (paradigme normatif) sang hệ hình
kiến giải (paradigme interprétatif).
2. Schütz
Alfred Schütz đã nghiên cứu khoa học xã hội tại
trường Đại học Vienna vào đầu thế kỉ [XX]. Ông xuất
phát từ tư tưởng của Max Weber để viết công trình đầu
Theo nhà xã hội học Pháp Marcel Mauss (1872-1950) thì một sự kiện xã
hội (fait social) luôn nằm trong một tổng thể (totalité), tức nó mang tính
đa chiều kích - ND.
1
Những người tiên phong
15
tiên được công bố vào năm 19321. Ông gửi công trình
này cho Husserl, người đề nghị ông trở thành trợ lí của
mình. Schütz từ chối lời đề nghị này, nhưng vẫn giữ
những mối quan hệ trong công việc với Husserl, cho
đến khi ông dứt khoát ra đi vào năm 1938 để trốn khỏi
chế độ phát xít. Sau một năm ở Paris, ông định cư hẳn
ở Mĩ và qua đời tại đây vào năm 1959. Chỉ sau khi qua
đời, ông mới trở thành một tác gia kinh điển của xã hội
học. Nhưng ngay từ những năm 1940, ông đã tham gia
những cuộc hội thảo tại New York, mà ở đó có những
người như Peter Berger và Thomas Luckmann.
Trở lại với công trình năm 1932 vốn là nền tảng của
hiện tượng luận xã hội của Schütz.
Max Weber mặc dù nhấn mạnh tầm quan trọng
nhưng lại không làm sáng tỏ khái niệm sự thông hiểu
(Verstehen) đối lập với sự giải thích (Erklären) vốn đôi lúc
được quy chiếu vào tri thức thường tình (sens commun)2
hay một phương pháp đặc thù của các khoa học xã hội.
Schütz đã phát triển ý nghĩa đầu tiên của sự thông hiểu
và đề xuất việc nghiên cứu các phương thức kiến giải mà
chúng ta áp dụng trong cuộc sống đời thường để mang
A. Schütz, 1932: Der sinnhafte Aufbau der sozialen Welt. Vienna, Springer
(xuất bản lần 2, 1960); được dịch sang tiếng Anh: The Phenomenology of
the Social World (Hiện tượng luận về thế giới xã hội), Evanston, Illinois,
Northwestern University Press, 1967, và London, Heinemann, 1972.
2
Sens commun tức là cái có ý nghĩa chung đối với mọi người hay khả
năng hiểu thông thường của con người, ai cũng hiểu được - ND.
1
16
Phương pháp luận dân dã
lại ý nghĩa cho những hành động của chính mình, cũng
như những hành động của người khác. Đây có thể là ý
tưởng chủ chốt, là đóng góp chủ yếu của Schütz. Patrick
Pharo chỉ ra, đây là “ý niệm đơn giản mà ta tìm thấy nơi
Schütz, và một cách nào đó là ở Wiigenstein”, mà theo
đó, “sự thông hiểu luôn luôn được hoàn thành trong các
hoạt động thông thường nhất ở cuộc sống bình thường”
(tr. 160)1. Schütz đã nhận xét, “ngôn ngữ đời thường ẩn
chứa một kho tàng các kiểu loại và những đặc trưng
được xác lập từ trước và bản chất xã hội. Cái kho tàng ấy
che giấu những nội dung chưa được khai phá”. Thế giới
xã hội của Schütz là thế giới của đời sống thường nhật,
được trải nghiệm bởi các cá nhân, mà những cá nhân
ấy xét về mặt tiên nghiệm, không có lợi ích mang tính
lí thuyết để tạo lập thế giới. Thế giới xã hội này là thế
giới liên chủ quan, một thế giới của những thói quen,
trong đó những hành động trong đời sống thường nhật,
phần lớn, được hoàn thành một cách máy móc. Dường
như thực là bình thường và không có vấn đề gì. Đối với
Schütz, thực tại xã hội là:
“Tổng thể những đối tượng (objet) và những sự kiện của
thế giới văn hóa và xã hội, được trải nghiệm bởi suy nghĩ
mang tính thường tình của những con người sống trong
1
P. Pharo, 1985: “La description des structures formelles de l’activité sociale”
(Việc mô tả các cấu trúc chính thức của hoạt động xã hội), trong Décrire:
un impératif? (Mô tả: một mệnh lệnh?), Paris. EHESS, tập 2, tr. 159-174.
Những người tiên phong
17
một tổng thể các mối quan hệ tương tác. Đó là thế giới của
những đối tượng văn hóa và của những định chế xã hội mà
trong đó tất cả chúng ta được sinh ra, nơi mà chúng ta đều
nhận biết… Kể từ lúc khởi đầu, chúng ta, những tác nhân
trên sân khấu xã hội, đã trải nghiệm một thế giới vừa mang
tính văn hóa, vừa mang tính tự nhiên, không phải như một
thế giới riêng tư mà là một thế giới liên chủ thể. Tức là cái
chúng ta là chung, cái được trao cho chúng ta hoặc cái mà
mỗi người chúng ta có tiềm năng tiếp cận được; và điều
đó hàm chứa trong sự truyền thông liên cá nhân và trong
ngôn ngữ”1.
Dù là gì đi nữa, con người không bao giờ có những
kinh nghiệm giống nhau, nhưng họ cho rằng chúng
giống nhau, làm như chúng là giống nhau vì những
mục tiêu mang tính thực hành. Kinh nghiệm chủ quan
của một cá nhân là không thể tiếp cận được bởi một cá
nhân khác. Với bản thân các tác nhân bình thường, tuy
họ không phải là những triết gia, nhưng họ không bao
giờ nhìn những đối tượng giống nhau theo cùng một
cách chung: họ không có cùng những vị trí quan sát,
những động cơ, hay cùng những mục tiêu, cùng những
1
A. Schütz, 1962: “Concept and Theory Formation in the Social Sciences”
(Khái niệm và và việc tạo lập lí thuyết trong khoa học xã hội), trong
Collected Papers (Tuyển tập), tr. 48-66, La Haye, Martinus Nijhoff. Những
bản văn trích từ công trình của Schütz được tập hợp và dịch sang tiếng
Pháp: A. Schütz, 1987: Le chercheur et le quotidien (Nhà nghiên cứu và cái
thường nhật), Paris, Méridiens Klincksieck.
18
Phương pháp luận dân dã
ý hướng để nhìn các đối tượng ấy. Ví dụ khi theo dõi
một trận đấu bóng đá, người ta không nhìn thấy cùng
một sự vật, mà tùy theo vị trí họ ngồi trên khán đài (ở
khán đài trung tâm hay ở hai bên cầu môn). Hay mọi
người đều biết rõ rằng, để xem một trận đấu, giá vé là
khác nhau bởi vì chất lượng của buổi trình diễn, hay
chính xác hơn là chất lượng của góc nhìn, giá vé khác
nhau tùy theo góc nhìn. Tuy nhiên, mọi người cũng sẽ
đồng ý rằng tất cả các khán giả đều đã theo dõi cùng
một trận đấu. Về nguyên tắc, việc các tác nhân không
nhìn cùng một sự vật giống như nhau sẽ ngăn cản mọi
khả năng cho sự hiểu biết liên chủ quan thực sự. Tuy
nhiên, đây không phải là trường hợp đó, nhờ hai “quá
trình lí tưởng hóa” (idéalisation) được các tác nhân sử
dụng: một mặt đó là quá trình lí tưởng hóa về tính có
thể trao đổi qua lại các góc nhìn (người ta có thể đổi vị
trí và đổi góc nhìn), và mặt khác, quá trình lí tưởng hóa
về tính tương hợp của hệ thống liên quan (mọi khán
giả đều nghĩ rằng những người khác đến xem trận đấu
này vì cùng những lí do như mình, rằng họ có cùng lợi
ích khi ở đó hay ít ra là cùng một lợi ích thực nghiệm
giống nhau, mặc cho những khác biệt về mặt tiểu sử
cá nhân). Được nhìn nhận như một tổng thể, hai quá
trình lí tưởng hóa này tạo nên “luận đề chung về tính
hỗ tương của những góc nhìn”, vốn làm nổi lên đặc
tính xã hội nơi cấu trúc của thế giới - cuộc sống của
mỗi người.
Những người tiên phong
19
Mô tả trên đây của Schütz cho phép hiểu được cách
thức mà thế giới kinh nghiệm “được riêng tư”, cá biệt,
có thể được vượt lên thành thế giới chung: chính qua
hai quá trình lí tưởng hóa mà chúng ta nhìn cùng một
sự vật với những người bên cạnh khi xem một trận đấu,
kể cả những người không di chuyển đến sân, xem trận
đấu qua truyền hình. Chúng ta cùng xem chung một
trận đấu mặc dù vị trí, giới tính, tuổi tác, điều kiện xã
hội… của chúng ta khác khau. Cũng vậy “cả hai chúng
ta đều nhìn thấy cùng một chú chim đang bay, mặc dù
vị trí trong không gian, giới tính, tuổi tác của chúng ta là
khác nhau và dù bạn có khuynh hướng nhận ra điều đó
trong khi tôi chỉ muốn đề cao điều đó”.
Qua quá trình điều chỉnh liên tục, được thể hiện
trong hai quá trình lí tưởng hóa, các tác nhân làm tiêu
tan những khác biệt về thế giới quan của họ. Cái “thái
độ tự nhiên”1 chứa đựng một khả năng tuyệt vời để xem
xét các đối tượng và, tổng quát hơn, những hành động
và những sự kiện của đời sống xã hội nhằm duy trì một
thế giới chung. Cái thái độ tự nhiên ấy cũng hàm chứa
1
Theo Husserl, thái độ tự nhiên (attitude naturelle) là thái độ bình thường
của con người trong đời sống thường nhật, trước khi có bất cứ câu hỏi
hoài nghi nào. Thái độ này coi thế giới như đã “có sẵn đó”, và hồn nhiên
chấp nhận thế giới ấy như cái gì đương nhiên phải như vậy. Dẫn lại từ
Trần Hữu Quang, 2015: “Xã hội học theo hướng hiện tượng học: từ Alfred
Schütz đến Peter Berger và Thomas Luckmann”, Tạp chí Xã hội học, số 4, tr.
140-151. ND.
20
Phương pháp luận dân dã
khả năng kiến giải thế giới như đã được các thành viên
mô tả.
3. Tương tác biểu tượng
Một nguồn khác của phương pháp luận dân
dã là trường phái lí thuyết tương tác biểu tượng
(interactionnisme symbolique). Ta có thể thấy nguồn gốc
đầu tiên của lí thuyết này nơi “Trường phái Chicago”1 mà
những đại diện chủ yếu là Robert Park, Ernest Burgess
và William Thomas2. Dòng tư tưởng này đã đại chúng
hóa việc sử dụng các phương pháp định tính trên thực
địa, thích hợp để nghiên cứu thực tại xã hội, đặc biệt là
những biến đổi xã hội nhanh chóng do sự phát triển
đô thị ở Chicago gây ra. Lí thuyết tương tác biểu tượng
chọn thế đối lập với quan niệm của Durkheim về tác
nhân. Durkheim thừa nhận khả năng của tác nhân trong
Xem Alain Coulon, L’École de Chicago (Trường phái Chicago), Paris, PUF,
[1992], xuất bản lần 2. 1993 (“Que sais - je?”, no 2639).
2
R. E. Park và E. W. Burgess, 1921: Introduction to the Science of Sociology
(Nhập môn Xã hội học), Chicago, University of Chicago Press; W. I. Thomas
và F. Znaniecki, 1918-1920: The Polish Peasant in Europe and America
(Người nông dân Ba Lan ở Châu Âu và Mĩ), Chicago, University of Chicago
Press (New York, Knopf, 1927). W. Thomas là một trong những người đầu
tiên sử dụng dữ liệu tiểu sử và tự thuật trong xã hội học, trong nghiên
cứu đồ sộ của ông (hơn 2.200 trang), được thực hiện với sự hợp tác của F.
Znaniecki, về những nông dân Ba Lan di cư sang châu Âu và Mĩ.
1
Những người tiên phong
21
việc mô tả các sự kiện xã hội xung quanh mình, nhưng
cho rằng những mô tả ấy là quá rộng, quá mơ hồ để
nhà nghiên cứu có thể sử dụng cho mục đích khoa học,
mặt khác, những biểu lộ liên chủ thể ấy không thuộc
lĩnh vực của xã hội học. Trái lại, lí thuyết tương tác biểu
tượng ủng hộ quan niệm cho rằng các tác nhân tự tạo ra
thế giới xã hội, mà suy cho cùng, là đối tượng chính yếu
của nghiên cứu xã hội học.
Nhưng phê bình về phương pháp luận của những
nhà tương tác luận là triệt để. Họ bác bỏ mô hình điều
tra định lượng và những hệ quả của mô hình này đối
với quan niệm về tính chính xác và tính nhân quả trong
các khoa học xã hội. Tri thức xã hội học thích đáng có
lẽ không được hình thành bởi việc quan sát bằng các
nguyên lí phương pháp luận tìm cách rút những dữ liệu
ra khỏi bối cảnh của chúng để làm cho chúng mang tính
khách quan. Việc sử dụng bản câu hỏi, những cuộc phỏng
vấn, các thước đo thái độ, các phương pháp tính toán, các
bảng thống kê, v.v. tất cả những thứ đó tạo ra một khoảng
cách, tách nhà nghiên cứu - nhân danh tính khách quan ra khỏi thế giới xã hội mà ông ta muốn nghiên cứu. Quan
niệm duy khoa học này rõ ràng tạo ra một mô hình lạ
lùng về tác nhân, không có mối liên hệ gì với thực tại xã
hội tự nhiên mà tác nhân đang sống trong đó.
Tri thức xã hội học chân chính được cung cấp cho
chúng ta từ kinh nghiệm trực tiếp, từ các mối quan hệ
tương tác thường ngày. Trước hết, cần phải chọn góc
22
Phương pháp luận dân dã
nhìn của các tác nhân, dù đối tượng nghiên cứu là gì, bởi
vì chính qua cái ý nghĩa mà họ gán cho các đối tượng,
các tình huống, các biểu tượng xung quanh họ, các tác
nhân tạo ra thế giới xã hội của họ.
Xét về tổng thể, xã hội học đã bỏ qua tầm quan
trọng của những đóng góp về phương pháp luận và về
lí thuyết của trường phái tương tác biểu tượng, thường
được nhìn nhận - với một sự khinh thường nào đó xem như một dạng của báo chí1 không có địa vị khoa
học thật sự. Người ta thừa nhận tính hữu ích của nó [lối
nghiên cứu tương tác biểu tượng - ND] trong giai đoạn
nghiên cứu sơ bộ. Tuy nhiên, tương tác luận lại ăn sâu
trong truyền thống nghiên cứu anglô-sắcxông, và vẫn
tiếp tục còn ảnh hưởng đặc biệt là trong các nghiên cứu
về hiện tượng lệch lạc xã hội (déviance).
Lợi ích của lối tiếp cận tương tác biểu tượng là
đáng kể không chỉ vì nó nhấn mạnh đến vai trò sáng
Robert Park, một trong những nhà sáng lập đầu tiên của Trường phái
Chicago vốn là một cựu nhà báo. Ban đầu, ông là học trò của Simmel
ở Berlin. Ông bắt đầu giảng dạy Xã hội học tại trường đại học vào năm
1913 ở tuổi bốn mươi chín. Ông không chối bỏ quá khứ nhà báo của
mình. Theo ông, nhà xã hội học “là một dạng siêu phóng viên, cung cấp
thông tin một cách sáng rõ hơn và với sự bình tĩnh hơn bình thường”.
Với ông, những cuộc điều tra xã hội, xét về nội dung lẫn kĩ thuật, chỉ là
những dạng thức cao cấp của nghề làm báo: “Khoa học đơn giản là có sự
kiên trì nhiều hơn với sự tò mò của mình, một sự chính xác và đòi hỏi cao
hơn lẽ thường đối với những quan sát của mình” (Park và Burgess, 1921:
sđd, tr. 188).
1
Những người tiên phong
23
tạo của các tác nhân trong việc tạo lập đời sống thường
nhật của họ, mà nó còn chú ý đến các chi tiết của quá
trình tạo lập ấy. Đừng nghĩ rằng tương tác luận, cuối
cùng, chỉ là một “nền xã hội học hoang dã” (sociologie
sauvage), không có những giả thuyết lí thuyết. Nó dựa
trên một truyền thống lí thuyết đầy sống động mà theo
đó, các đối tượng được kiến tạo. Ý nghĩa xã hội của
các đối tượng đến từ cái ý nghĩa mà chúng ta gán cho
chúng trong các mối quan hệ tương tác của chúng ta.
Và, nếu như có một số ý nghĩa đó là ổn định theo thời
gian, các ý nghĩa đó cần được tái thương lượng ở mỗi
tương tác mới. Sự tương tác được xác định như là một
trật tự được thương lượng, tạm thời, mỏng manh vốn
cần được thương lượng trường kì nhằm giải thích thế
giới. Quan điểm kiến tạo luận này, gần với tư tưởng của
Marx, cũng sẽ được tìm thấy nơi hiện tượng luận xã hội
cũng như dưới một hình thức khác trong phương pháp
luận dân dã.
Lí thuyết gán nhãn (labeling theory), vốn thuộc
về trường phái tương tác biểu tượng, thể hiện sự cực
đoan của khuynh hướng này mà theo đó, thế giới xã hội
không phải là cái đạt ngay (donné) mà là cái được kiến tạo
nên (construit) “tại đây và vào lúc này”.
Chẳng hạn các cá nhân “bị gán nhãn” là những kẻ
lệch lạc. Sự lệch lạc không còn được nhìn nhận như là
một “tính chất”, một đặc trưng riêng của con người, hay
như một cái gì đó do kẻ lệch lạc tạo ra. Trái lại, người ta
24
Phương pháp luận dân dã
cho rằng sự lệch lạc được tạo ra bởi toàn bộ những quan
niệm được định chế hóa, bởi sự phản ứng của xã hội
đối với những hành vi ít nhiều mang tính ngoài lề, tóm
lại, nó là kết quả của sự phán xét của xã hội, như được
Howard Becker nhận định:
“Sự lệch lạc không phải là tính chất của hành vi do một ai
đó thực hiện, mà là kết quả của việc áp dụng các quy tắc và
những trừng phạt của người khác đối với “người vi phạm”.
Kẻ lệch lạc là người mà cái nhãn [lệch lạc - ND] ấy được
gán cho một cách thành công. Hành vi lệch lạc là hành vi
bị cho là như thế”1.
Nói cách khác, cá nhân không trở thành kẻ lệch lạc
chỉ bằng việc thực hiện hành vi. Sự lệch lạc không gắn
liền với hành vi.
Kẻ lệch lạc là người bị chiếm đoạt, bị cách li, bị gán
vết nhơ. Đây là một trong những ý tưởng mạnh nhất
của lí thuyết gán nhãn khi cho rằng các lực lượng của
sự kiểm soát xã hội, bằng cách gán cho một số người là
những kẻ lệch lạc, khẳng định họ là những kẻ lệch lạc
vì quá trình gán vết nhơ gắn với sự gán nhãn ấy. Đến
mức có thể nói rằng, sự kiểm soát xã hội tạo ra và củng
Howard Becker, 1963: Outsiders: Studies in the Sociology of Deviance
(Những kẻ ngoài lề: Những nghiên cứu trong Xã hội học về Lệch lạc),
New York, The Free Press, tr. 9; bản dịch tiếng Pháp, Outsiders. Études
de sociologie de la déviance, lời giới thiệu của J-M. Chapoulie, Paris,
A-M. Métaillié, 1985.
1
Những người tiên phong
25
cố những hành vi lệch lạc, trong khi nó được tạo ra là
nhằm chống lại, cô lập và loại trừ những hành vi ấy:
người ta trở thành điều mà chúng ta mô tả1.
Đối với các nhà phương pháp luận dân dã, đôi khi
như điều mà lí thuyết gán nhãn kì vọng, sự lệch lạc sẽ
không được định nghĩa một cách đơn phương như là sự
bất tuân các chuẩn mực. Ta nhìn thấy ở đó hiệu ứng của
sự kiến tạo xã hội, một sự sản sinh vừa từ những người
lệch lạc vừa từ những người gán nhãn họ, những người
lệch lạc tự gán nhãn mình là những kẻ lệch lạc, đồng
thời khẳng định [cái nhãn ấy - ND] bằng những hành vi
tiếp sau sự gán nhãn xã hội trước đó.
Hiện tượng này cũng gần giống với hiện tượng gia đình tiên đoán thành
tích học tập và trình độ học vấn mà trẻ em có thể đạt được. Đó thường là
một sự định trước thật sự, những đứa trẻ chỉ hiện thực hóa sự dự báo-ban
lệnh của cha mẹ: “Nó không thể học hơn chứng chỉ tiểu học…”. Dĩ nhiên,
điều này cũng giống như việc ta nói, chẳng hạn, với một đứa trẻ rằng “nó
không giỏi toán”. Đứa trẻ tin vào điều đó nhanh chóng, và những thành
tích của nó nhanh chóng đạt đến mức đã được định trước, hiện thực hóa
lời tiên đoán của gia đình.
1