Academia.eduAcademia.edu
1. Đặc trưng văn hoá và cội nguồn văn hoá a) Vấn đề xác định đặc trưng văn hoá Nếu hiểu văn hoá là những giá trị vật chất và tinh thần, có tính biểu trưng và tồn tại lâu đời do con người tạo ra, thì dân tộc nào cũng có văn hoá, cộng đồng nào cũng có văn hoá. Có những giá trị văn hoá mang tính hằng thể chung cho cả nhân loại, lại có những giá trị văn hoá mang tính đặc thù, chỉ có ở cộng đồng này mà không thấy rõ ở cộng đồng kia và ngược lại. Những giá trị văn hoá đặc thù ấy chính là đặc trưng văn hoá.  Khi xác định, đánh giá đặc trưng văn hoá của một cộng đồng hay một dân tộc nào đó, có người đưa ra thang độ cao thấp (chẳng hạn, E.B. Taylor), có người đưa ra tiêu chí khác biệt (F. Boas). Trong đó, ý kiến xác định văn hoá là sự khác biệt dễ tạo sự đồng thuận hơn. Nói chung, sự khác biệt tạo ra đặc trưng; nói riêng ở phạm trù văn hoá, đặc trưng văn hoá của mỗi dân tộc trước hết được minh định dựa trên sự khác biệt giữa văn hoá dân tộc này với văn hoá dân tộc khác. Chẳng hạn, đặc trưng văn hoá Mỹ là coi trọng nguyên tắc, văn hoá ấn Độ là tính khoan dung, văn hoá Trung Hoa là trọng tôn ty, văn hoá Việt Nam là trọng tình nghĩa… Có thể hiểu, đặc trưng văn hoá là những nét trội về một hay một số mặt nào đó của văn hoá một dân tộc hay một cộng đồng. Những nét trội này làm thành các giá trị văn hoá cơ bản, tiêu biểu, có tính bền vững; cùng với các giá trị khác, chúng làm thành nền văn hoá. Như vậy, đặc trưng văn hoá của một dân tộc chính là những giá trị tiêu biểu về tinh thần và vật chất mà dân tộc đã tích luỹ trong quá trình lịch sử, nó có tính bền vững, có ý nghĩa lâu dài, có giá trị khu biệt. Có như thế, đặc trưng văn hoá mới làm thành bản sắc văn hoá. Tìm hiểu văn hoá dân tộc chính là tìm hiểu cái bản sắc ấy, tức cũng là xác định nét khác biệt. Hành tinh của chúng ta hiện có hơn 220 quốc gia với hàng trăm dân tộc, có khoảng hơn 6 tỷ người đang sinh sống. Với tất cả sự phong phú và phức tạp ấy, con người - xét về mặt văn hoá- vừa có tính đa dạng trong sự thống nhất, vừa có tính thống nhất trong sự đa dạng. Thế giới hiện có 38 nền văn minh (11; tr.31), có 34 nền văn hoá, trong đó có 17 nền văn hoá có bản sắc (10; tr.12). Vậy, những nền văn hoá nào không có bản sắc, có những nền văn hoá nào bản sắc mờ nhạt? Và có những nền văn hoá mang bản sắc nổi trội? Những câu hỏi này, muốn trả lời cho thật đầy đủ, hẳn là phải có thời gian và nhiều nguồn tư liệu…Nhưng trước mắt ta hãy bằng lòng với kết quả phân loại trên đây. Và trong số các nền văn hoá bản sắc, có tên văn hoá Việt Nam chúng ta. Vậy, bản sắc văn hoá dân tộc có nguồn gốc từ đâu và thể hiện qua những dấu hiệu nào và như thế nào? b) Về cội nguồn của văn hoá dân tộc Về nguồn gốc hình thành văn hoá dân tộc, hiện đang còn có nhiều ý kiến khác nhau. Trong đó, nổi bật nhất khi xem xét cội nguồn của văn hoá, liên quan đến việc xác định đặc trưng văn hoá là các ý kiến nói về điều kiện tự nhiên. Con người là một bộ phận của tự nhiên, “là sản phẩm của tự nhiên” (F. Enghen), có khả năng chinh phục tự nhiên, nhưng đồng thời cũng bị chi phối bởi tự nhiên. Một xã hội tồn tại luôn hiện hữu nhiều mối quan hệ: quan hệ nội tại và quan hệ ngoại tại. Nhưng chúng ta không thể phủ nhận một thực tế rằng, ý thức xã hội, những sản phẩm mà con người tạo ra, trong đó có văn hoá, đều có mối liên hệ chặt chẽ với môi trường sinh tồn bao quanh xã hội. Nhà sử học Hà Văn Tấn cho rằng: “Tâm lý dân tộc biểu hiện trong phong cách tư duy, lối ứng xử (hay hành vi), đồng thời biểu hiện ra trong tình cảm dân tộc. Nó bị chế ước bởi các điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội và điều kiện lịch sử”. (14; tr.16). Nhận xét trên làm rõ: tâm lý dân tộc và rộng hơn là văn hoá dân tộc có liên quan mật thiết đến môi trường tự nhiên, và các điều kiện khác. Nhà dân tộc học Từ Chi cũng xác định: “Từng nền văn hoá, xét cho cùng, đều là hậu quả của việc từng cộng đồng để tồn tại, phải thích ứng với thiên nhiên bao quanh nó”. (Từ định nghĩa của văn hoá, tr.55). Nhà sử học Trần Quốc Vượng nêu rõ: “Mối quan hệ của con người với tự nhiên là mối quan hệ nhiều chiều, mối quan hệ thích nghi, không thích nghi và biến đổi (tự nhiên, xã hội và chính mình)… Phải xuất phát từ những điều kiện tự nhiên, rồi sau đó những điều kiện lịch sử để nhìn nhận về cội nguồn và bản sắc văn hoá”. (14; tr.30,33). Nhà nghiên cứu ngôn ngữ - văn hoá Trần Ngọc Thêm lý giải: “Bởi văn hoá là sản phẩm của con người và tự nhiên nên nguồn gốc sâu xa của mọi sự khác biệt về văn hoá chính là do những khác biệt về điều kiện tự nhiên (địa lý- khí hậu) và xã hội (lịch sử - kinh tế) quy định” (11; tr.36). Với cách nhìn như vậy, tác giả đã lần tìm ra mối quan hệ ảnh hưởng, chi phối giữa các mặt, theo thứ tự: điều kiện tự nhiên, môi trường sinh tồn - nghề nghiệp - đời sống - tâm lý, quan niệm…với văn hoá; trong đó, tự nhiên - môi trường là xuất phát điểm. Hai điều kiện môi trường tự nhiên của phương Tây và phương Đông khác nhau đã làm thành hai nền văn hoá với những đặc trưng khác nhau. - Phương Tây: khí hậu lạnh, khô - có vùng đồng cỏ - thích hợp chăn nuôi - tạo nên lối sống du cư - có tâm lý coi thường, có tham vọng chinh phục tự nhiên - lối tư duy thiên về phân tích - trọng sức mạnh, trọng tài, trọng võ, trọng nam; có tính nguyên tắc và quân chủ, trọng cá nhân - có tính độc tôn, cứng rắn, hiếu thắng… => Văn hoá trọng động (gốc du mục). - Phương Đông: khí hậu nóng, ẩm - có nhiều đồng bằng - thích hợp nghề trồng trọt - tạo nên lối sống định cư - có tâm lý tôn trọng, hoà hợp với tự nhiên - lối tư duy thiên về tổng hợp, biện chứng - trọng tình, trọng đức, trọng văn, trọng nữ; có tính dân chủ, trọng cộng đồng - có tính dung hợp, mềm dẻo, hiếu hoà… => Văn hoá trọng tĩnh (gốc nông nghiệp). Trong sự phân chia trên, điển hình của văn hoá mang đặc trưng gốc nông nghiệp phương Đông là Đông Nam á, tạo thành không gian văn hoá vùng Đông Nam á. Việt Nam là một đất nước có khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều; có nhiều vùng đồng bằng và sông nước, với nghề nghiệp trồng lúa nước là chủ yếu… Như thế, Việt Nam chính là nơi hội tụ ở mức đầy đủ nhất mọi đặc trưng của văn hoá khu vực. Việt Nam là một Đông Nam Á thu nhỏ. Cho nên, từ trong cội nguồn, không gian văn hoá Việt Nam được định hình trên nền không gian văn hoá khu vực Đông Nam á tiền sử (11; tr.60- 61). Đó là nhân tố đầu tiên và cũng là nhân tố làm nên đặc trưng gốc của văn hoá Việt Nam. Sau này, do nhiều điều kiện khác nhau, Việt Nam chúng ta tiếp xúc với các nước khác- tức cũng là các nền văn hoá khác, như Trung Hoa, ấn Độ (từ rất sớm), sau đó là tiếp xúc với văn hoá phương Tây…- Trong bối cảnh đó, dù sớm hay muộn, dù nhiều hay ít, văn hoá Việt Nam cũng đã có những ảnh hưởng nhất định và đã tiếp nhận các nền văn hoá này ở những mức độ khác nhau, đặc biệt là với văn hoá Trung Hoa. Đây là nhân tố thứ hai, góp phần làm nên đặc trưng văn hoá Việt Nam. Tuy vậy, với điều kiện môi trường tự nhiên khí hậu nóng ẩm, m ưa nhiều, với một không gian xã hội được định hình rất sớm, nên đặc trưng gốc văn hoá nông nghiệp lúa nước vẫn bảo lưu, làm thành mạch ngầm xuyên suốt chiều dài không gian và thời gian dân tộc Việt; và đây chính là đặc tính trội nhất khi nói về bản sắc văn hoá Việt Nam, về lịch sử dân tộc Việt Nam. Đặc trưng này có tác dụng chi phối các đặc trưng văn hoá khác. Vậy, đặc trưng gốc này thể hiện trong đời sống vật chất và tinh thần của con người Việt Nam, văn hoá Việt Nam như thế nào? c) Cội nguồn văn hoá và sự biểu thị văn hoá dân tộc Theo giới nghiên cứu ngoài nước và trong nước (10,11,14), khi tìm hiểu văn hoá Việt, người ta nhận thấy mối liên hệ rất rõ giữa sự phong phúvề điều kiện tự nhiên và tính đa dạng về văn hoá. Trước hết, đất nước ta ở trong một môi trường tự nhiên nước, sông nước bao quanh con người; yếu tố này chiếm vị trí đặc biệt, chi phối, ảnh hưởng đến nhiều mặt trong cuộc sống xã hội. Chẳng hạn:  Về nghề nghiệp, nghề trồng lúa nước là chủ đạo với kỹ thuật canh tác:cấy, gieo, vãi, tỉa, trồng; cày, bừa, gặt, đập… và một hệ thống thống thuỷ lợi thể hiện công sức của con người trong ứng biến với môi trường (nước) và nghề nghiệp (trồng lúa nước): đê, kênh, hồ, đập, mương máng…Về ăn ở, sinh hoạt, phong tục tập quán, những đặc tính văn hoá này cũng in đậm dấu ấn của môi trường sông nước. ăn chủ yếu là cơm(sản phẩm từ lúa nước), với các thức ăn là cá, tôm, cua, mực (các loài sinh vật dưới nước). Về ở, con người sinh sống cố kết với nhau, định cư thành làng xóm (cách sống điển hình của cư dân nông nghiệp); các vùng cư trú gần nước: làng chài, làng ven sông, bến chợ, bến sông, với các loại nhà: nhà đất, nhà gỗ, nhà sàn, nhà thuyền; các phương tiện vận chuyển, sinh hoạt cũng gắn liền với nước: thuyền, bè, nốc, ghe, mảng… Những phong tục sinh hoạt cộng đồng cũng liên quan đến nước: hội đua thuyền, bơi chải, kết đèn hoa đăng; tục thờ cá, rắn, thuỷ thần; nghệ thuật dân gian cũng dựa nhiều bối cảnh của nước: rối nước, chèo, tuồng, các điệu hò lý diễn ra trên sông hồ, bến bãi…  Thứ hai, điều kiện thiên nhiên bao quanh xã hội luôn gắn liền với môi trường thực vật, làm thành đặc trưng văn hoá thuần Việt. Lúa là cây lương thực chủ yếu, nhưng ngoài ra còn có nhiều cây khác được chăm sóc, thuần dưỡng nuôi sống con người, như: ngô, khoai, sắn, đậu, lạc, vừng… Trên mặt đất, bao quanh nơi ở con người là “xanh muôn ngàn cây lá khác nhau”, đặc biệt là tre, hóp, mây, nứa, cam chanh, bưởi, hồng, khế, bầu bí… “Dưới bóng tre xanh, người dân cày Việt Nam trồng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang” (Thép Mới). Và cũng dưới bóng tre xanh, nhân dân ta “gìn giữ một nền văn hoá lâu đời”, đó là: tục thờ cây, thờ cúng người chết bằng bát cơm, đôi đũa, quả trứng; trầu cau là vật phẩm không thể thiếu trong cưới hỏi, giao đãi; các lễ hội: đánh đu, cầu kiều, thả diều…đều có hình bóng của thế giới thực vật. Cho nên, có người gọi nền văn minh Việt Nam là “nền văn minh thực vật” (ý của học giả người Pháp P. Gourou, dẫn theo Trần Quốc Vượng, 14; tr.35).  Điều kiện tự nhiên ấy có nhiều thuận lợi cho con người sinh tồn và phát triển từ những buổi ban đầu sinh cơ lập nghiệp, khai mở thiên nhiên: dễ kiếm cái ăn, cái ở, cái mặc. Nhưng kèm theo đó, nó cũng gây cho cuộc sống con người biết bao tai ương: lụt lội, hạn hán, bão tố, ẩm thấp, dịch bệnh… Con người là sản phẩm của hoàn cảnh, vì thế, môi trường tự nhiên ấy cũng góp phần hình thành tâm lý, tình cảm, nhận thức (lý trí) của con người Việt Nam, với tư cách là chủ thể văn hoá. Điều kiện tự nhiên đã có ảnh hưởng những mặt này như thế nào?  Có nhiều cách để trả lời câu hỏi này, tuỳ thuộc vào điểm nhìn, nguồn tư liệu…Nhưng trước hết phải thấy rằng, con người dù ở đâu cũng mang trong mình hai đặc trưng: con người là một cá thể tự nhiên, mang đặc trưng nguyên gốc của giống loài; nhưng mặt khác, con người là sản phẩm của hoàn cảnh, chịu sự tác động của hoàn cảnh, bao gồm hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội. Có thể từ một cội nguồn ban đầu, xã hội loài người, với những điều kiện tự nhiên khác nhau, đã phân chia thành những “cành, nhánh” khác nhau như ngày nay. Vì vậy, con người không chỉ là chủ thể của văn hoá, đối tượng của văn hoá mà còn là hiện thân của sự phản chiếu văn hoá, của môi trường sống. Điều này có thể thấy, khi nghiên cứu con người Việt Nam, nhiều công trình (10,11,14) đã thống nhất nhận định những tính trội của người Việt Nam - những đức tính phẩm chất tốt đẹp này đều có liên quan đến những đặc trưng cội nguồn trên. Chẳng hạn: Con người Việt Nam có tinh thần yêu nhà, yêu làng, yêu nước (bởi lối sống định cư, quần tụ); sống trọng tình nghĩa (vì phải dựa vào nhau, tương trợ, chia sẻ nhau trong cuộc sống và trong lao động theo lối tự cung tự cấp); mềm dẻo trong ứng xử với cộng đồng (là nét đặc thù của cư dân nông nghiệp: lấy dung hợp, hiếu hoà làm trọng), dễ thích nghi với môi trường tự nhiên (chấp nhận mọi sự biến đổi, tuỳ thuộc, thích ứng mọi chi phối của tự nhiên); cần cù trong lao động (lấy cần cù để bù lại những khó khăn, cản trở của điều kiện tự nhiên, của phương thức sản xuất nông nghiệp cổ truyền); giỏi chịu đựng gian khổ (vì điều kiện tự nhiên không phải lúc nào cũng thuận lợi; hạn hán, lụt lội đễ xảy ra, con người dễ gặp bất trắc, hiện nay ta tâm lý “sống chung với lũ”)... Những đánh giá trên đây có thể xem như là những khái quát một phần cơ bản bản sắc con người - văn hoá dân tộc. Nhưng bên cạnh đó, con người Việt Nam cũng kèm theo những mặt tiêu cực. Đã có nhiều ý kiến đánh giá về phẩm chất cũng như những thói hư tật xấu của người Việt Nam. Trong đó có nhiều mặt nhược điểm lại bắt nguồn từ chính những nguyên nhân đã làm thành ưu điểm, những phẩm chất của con người Việt Nam. Chẳng hạn, nền nông nghiệp lúa nước là đặc trưng văn hoá của ta, nhưng cũng từ đó hình thành tâm lý tiểu nông (sản xuất nhỏ, manh mún, ít có tầm nhìn xa, bảo thủ); lối sống coi trọng tình nghĩa là mặt tốt, nhưng cũng từ đó nảy sinh mặt trái là tính tuỳ tiện, ít trọng lý, ít trọng nguyên tắc, xuề xoà, hoà cả làng… Những điểm này, không chỉ chúng ta, người trong cuộc nhìn thấy (xin tham khảo, chẳng hạn nhận xét của Đào Duy Anh, Việt nam văn hoá sử cương; tr. 24), mà người ngoài nhìn vào cũng thấy khá rõ. Đây là nhận xét của một viện nghiên cứu xã hội Mỹ. Mười đặc điểm của người Việt: 1-Cần cù trong lao động nhưng dễ thoả mãn nên tâm lí hưởng thụ còn nặng. 2- Thông minh, sáng tạo nhưng có tính đối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn, chủ động. 3- Khéo léo nhưng không duy trì đến cùng (ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng của sản phẩm). 4- Vừa thực tế , vừa mơ mộng nhưng không có ý thức nâng lên thành lí luận. 5-  Ham học hỏi và khả năng tiếp thu nhanh nhưng khi học không đến nơi đến chốn nên kiến thức không thành hệ thống, mất căn bản. Ngoài ra, học tập không còn mục tiêu tự thân của nhiều người Việt Nam (nhỏ học vì gia đình, lớn học vì sĩ diện, để kiếm công ăn việc làm, ít vì chí khí đam mê). 6-  Xởi lởi, chiều khách nhưng không bền. 7- Tiết kiệm nhưng nhiều khi hoang phí vì những mục tiêu vô bổ (sĩ diện, khoe khoang, thích hơn người). 8- Có tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, điều đó chỉ xảy ra trong những hoàn cảnh có khó khăn, bần hàn. Trong điều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn thì tinh thần này ít khi xuất hiện. 9- Yêu hoà bình và nhẫn nhịn nhưng nhiều khi hiếu thắng vì những lí do tự ái lặt vặt, đánh mất đại cục. 10- Thích tụ tập nhưng lại thiếu tính liên kết để tạo ra sức mạnh (cùng một việc ,một người làm thì tốt, ba người làm thì kém, bảy người làm thì hỏng).                                                                        (Dẫn theo Phạm Tấn Đắc,7; tr.293) Có thể nói, những đặc tính tốt xấu này đều có liên quan mật thiết đến đặc trưng gốc đã nói trên: điều kiện tự nhiên đã làm thành hệ giá trị văn hoá vàtính cách - tâm lý con người Việt Nam với những chế định đậm nét của nền văn hoá nông nghiệp lúa nước. Yếu tố nước trong việc trồng lúa nước là điều kiện bắt buộc để hình thành văn minh lúa nước. Có lẽ người nguyên thủy lúc đầu phát hiện ra sự khác nhau về năng suất của lúa nương, một loại lúa mọc trên các triền đất khô ẩm và lúa nước mọc ở khu vực ngập nước của lưu vực các con sông lớn là hoàn toàn khác nhau. Cây lúa nước chỉ có thể phát triển tốt khi sống ở những khu vực khí hậu phù hợp như các vùng nhiệt đới, và đặc biệt tốt, năng suất cao khi hàng năm các con sông lớn như sông Hồng, sông Mã... mang theo một lượng phù sa mới, bồi đắp hàng năm vào các mùa nước lũ. Nhưng nước để trồng lúa phải đủ và cũng vừa để cây lúa sinh trưởng. Việc đảm bảo đủ nước và không thừa, để làm ngập úng đã buộc các cư dân trồng lúa nước phải làm thủy lợi - cân bằng lượng nước cần thiết. Thủy lợi tự nhiên và đơn giản nhất là đắp bờ ruộng và dẫn nước theo các con kênh vào ruộng và khống chế lượng nước bằng độ cao của lối thoát nước. "Con kênh" lớn nhất của cư dân trồng lúa nước chính là hệ thống đê điều hai bên sông lớn để khống chế nước tràn vào ruộng và mùa lũ lụt hàng năm. 1.3. Sự giao thoa - tương tác văn hóa Việt - Hoa không thể quy giản thành “bên cho” (Hoa) - “bên nhận” (Việt). Sự đời bao giờ cũng “có đi có lại”. Người Hoa tiếp thu một số hoa văn Việt trên trống đồng Đông Sơn đưa vào gương đồng, kỹ thuật chế tác thủy tinh, một vài giống lúa chịu hạn, vải bông, đường mía (như đường phèn), kỹ thuật dùng kiến trừ sâu cam và một vài truyền thuyết như vợ chồng Ngâu... Người Việt - đất Việt tiếp thu - hội nhập ở văn hóa Hán trước hết là mô hình tổ chức hành chính (xã - hương - huyện - quận - đạo - trấn - tỉnh...),ở hệ thống quan chức (tuy có giản lược đi, vì Việt Nam là nước nhỏ so với Trung Hoa là nước lớn), ở chế độ khoa cử... thậm chí không khỏi có khuynh hướng vọng ngoại “Nam nhân Bắc hướng” (chữ của GS. Tsu - Đại học Princeton, Mỹ)[9]. Thậm chí nhân danh, nhiều địa danh (trừ tên Thăng Long là “tên chữ” (Hán - Việt, nhưng rất độc đáo Việt Nam) cũng chịu ảnh hưởng từ Trung Hoa (trước sau Công nguyên, người Việt Nam không có tên họ như bây giờ, chỉ có tên kiểu (đã được ghi âm bằng chữ Hán, là một loại Việt - Hán) như Ích Xương, Thi Sách, Trưng Trắc, Lý Bí (sau mới đọc là Lý Bôn, Lý Phần), Bầu (sau mới đọc là Lý Thiên Bảo). Ở thế kỷ VI, Hậu Lý Nam Đế chỉ xưng là Lý Phật Tử (Phật Tử họ Lý chứ không xưng là Thiên tử kiểu Trung Hoa). Với thời gian đắp đổi, tiếng Việt cổ cũng hấp thụ nhiều từ, nhiều khái niệm triết lý - xã hội - văn hóa của người Hoa (trong tiếng Việt có trên 60% từ gốc Hoa, đọc chệch đi, (ngữ âm khác, phần nhiều thành từ Hán - Việt) với một ngữ pháp, trật tự từ khác và nhiều khi cả ngữ nghĩa cũng khác đi (“khốn nạn”, “khoái trá”...). Nhà văn Tô Hoài đã nói đến “tiếng Hồ Gươm” tức tiếng Việt của riêng người Hà Nội, không giống hẳn với bất kỳ tiếng địa phương nào.  Thời thuộc Pháp nửa đầu thế kỷ XX, ảnh hưởng của văn hóa Pháp đã tràn vượt khỏi mục đích thực dụng - thực dân. Tiếng Pháp và văn hóa Pháp đã tác động (tích cực) đến mặt cú pháp tiếng Việt, đến thơ, văn (“thơ mới”, truyện ngắn, tiểu thuyết..), đến báo chí (Đại Việt thời Lê sơ chỉ có một “Đình Quảng Văn” ở cửa Nam Hà Nội để dán các lệnh chỉ của triều đình cho dân biết, chứ trước thời Pháp thuộc, nước ta không có báo chí, kể từ nhật báo, đến tuần san, bán nguyệt san, nguyệt san, tạp chí, tập san 3 tháng, 6 tháng, 1 năm một kỳ... đều chỉ có ở Hà Nội từ đầu thế kỷ XX trở đi). Cuối XIX đầu XX mới có “nhà Tây”, khu phố Tây ở Hà Nội. Những tác động vừa nêu là rất đáng kể, song nhìn chung văn hóa Pháp không gây ảnh hưởng lớn với xóm làng Việt Nam. Người nông dân, người “nhà quê” Việt Nam nhìn chung vẫn thờ ơ với văn hóa Pháp, vẫn giữ (dù nhà cầm quyền Pháp có ý định và đã thực thi “Cải lương hương chính” nhưng nhìn chung là thất bại ở cuối thập kỷ 20) cơ cấu tổ chức cổ truyền (nhà - làng - họ - vùng - miền), có chăng một vài nhà giàu, nhà quan trong làng mới có ngọn “đèn Hoa Kỳ”, hay là cái “nhà Tây” 2 tầng, lợp “ngói Tây”, xây “xi măng” (ciment)... Khái niệm giao lưu và tiếp biến văn hóa là hiện tượng xảy ra khi những nhóm người (cộng đồng, dân tộc) có văn hóa khác nhau giao lưu tiếp xúc với nhau tạo nên sự biến đổi về văn hóa của một hoặc cả hai nhóm. Giao lưu văn hóa tạo nên sự dung hợp, tổng hợp và tích hợp văn hóa ở các cộng đồng. Ở đó có sự kết hợp giữa các yếu tố "nội sinh" với yếu tố "ngoại sinh" tạo nên sự phát triển văn hóa phong phú, đa dạng và tiến bộ hơn. Giao lưu và tiếp biến văn hóa là sự tiếp nhận văn hóa nước ngoài bởi dân tộc chủ thể. Quá trình này luôn đặt mỗi dân tộc phải xử lý tốt mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố "nội sinh" và "ngoại sinh". Trong lĩnh vực văn hóa chỉ có khái niệm "giao lưu và tiếp biến văn hóa" chứ không có khái niệm "hội nhập văn hóa". Thuật ngữ hội nhập chỉ sử dụng cho các lĩnh vực ngoài văn hóa, chẳng hạn như kinh tế... Trước xu thế toàn cầu hóa, Đảng ta yêu cầu phải "Làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của loài người, tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân"(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 213) Như vậy GL&TBVH có vai trò hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển VH của một  dân tộc. Nhưng giao lưu như thế nào, tiếp biến như thế nào để vừa giữ gìn, bảo tồn, vừa phát triển VH dân tộc ? Đó là câu hỏi lớn đặt ra cho chúng ta nhất là trong thời đại ngày nay. Giao lưu văn hóa Giao lưu và tiếp biến cũng thuộc về văn hóa vì đều nhằm đáp ứng nhu cầu của các thành viên xã hội. Giao lưu văn hóa bao hàm trong đó sự chung sống của ít nhất hai nền văn hóa (của hai cộng đồng, hai dân tộc, hai đất nước) và giao lưu là hình thức quan hệ trao đổi văn hóa cùng có lợi, giúp đáp ứng một số nhu cầu không thể tự thỏa mãn của mỗi bên, giúp tăng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nền văn hóa để từ đó làm nẩy sinh nhiều nhu cầu mới thúc đẩy mỗi nền văn hóa phát triển. Do đó giao lưu văn hóa là dạng cộng sinh giữa các nền văn hóa. Chẳng hạn, những lễ hội, những phiên chợ quê ở đồng bằng hay miền núi Việt Nam là những dạng giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng dân cư, qua đó mỗi cộng đồng giới thiệu những hoạt động văn hóa và trao đổi những sản phẩm văn hóa của mình với các cộng đồng khác, giúp thỏa mãn rất nhiều nhu cầu của nhau và thúc đẩy lan tỏa văn minh từ vùng này sang vùng khác. Nếu các phiên chợ quê chủ yếu là để trao đổi các vật phẩm văn hóa, tuy cũng có một số chợ thêm chức năng tinh thần như chợ tình (Lào Cai), chợ âm phủ (Quảng Ninh), chợ mua lộc (chợ Viềng Nam Định), thì các lễ hội cổ truyền chủ yếu là để giao lưu các hoạt động văn hóa tinh thần (tình cảm, tâm linh, nghệ thuật, du lịch, giải trí…), thường được tiến hành ở những địa danh văn hóa - lịch sử, mỗi năm một lần, bắt đầu vào những ngày tháng nhất định theo âm lịch và có thể kéo dài nhiều ngày hoặc nhiều tuần, thu hút từ hàng ngàn đến hàng trăm ngàn người trẩy hội, và rất đa dạng như hội chiến thắng Đống Đa Hà Nội (ngày 5/1), hội chùa Hương Hà Tây (6/1) và hàng trăm hội chùa ở khắp cả nước, hội thành Cổ Loa Hà Nội (6/1), hội voi Buôn Ma Thuột (10/1), hội Lim-Quan họ Bắc Ninh (13/1), hội đền Bà Chúa Kho Bắc Ninh (14/1), hội núi Bà Đen Tây Ninh (15/1), hội Hoa ở Vị Khê Nam Định (20/1), hội chợ Kỳ Lừa Lạng Sơn (22/1), hội đền Bà Triệu Thanh Hóa (24/2), hội Phủ Giầy Nam Định (1/3), hội Giỗ Tổ vua Hùng ở Phú Thọ (10/3), hội tháp Bà của người Chăm Khánh Hòa (20/3),… Trong quan hệ giữa các quốc gia dân tộc, qua giao lưu tiếp xúc với những nền văn hóa bên ngoài người bản địa không những quảng bá được những nét đặc sắc riêng trong nền văn hóa của mình, phát huy được những lợi thế sẵn có của mình trong hợp tác kinh tế quốc tế, mà còn làm quen với những yếu tố văn hóa ngoại lai và nhận biết những yếu tố nào trong số đó có ích lợi có thể bổ sung những mặt còn chưa phát triển đầy đủ hoặc chưa có trong nền văn hóa bản địa để sử dụng và những yếu tố nào thì không. Sự liên kết các nước vào những liên minh như EU hay khối Asean chính là một dạng cộng sinh mạnh giữa một số nền văn hóa, vì nó tạo ra những ưu đãi và những lợi thế đặc biệt trong giao lưu văn hóa giữa các nước trong cùng khối, giúp cho toàn bộ văn hóa của mỗi nước phát triển thuận lợi hơn hẳn. Lợi ích to lớn trước mắt mà giao lưu văn hóa đem lại là mỗi nước thông qua xuất nhập khẩu vật chất, năng lượng và thông tin với bên ngoài có thể đáp ứng rất nhanh nhiều nhu cầu bức thiết của mình, giải quyết thuận lợi những khó khăn bức xúc mà nhiều nước đang gặp phải. Nền nông nghiệp Việt Nam từ khi mở cửa hội nhập đã phát triển nhảy vọt nhờ đẩy mạnh xuất khẩu được nhiều mặt hàng nông sản như gạo, tôm, cá da trơn, cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, hoa, trái cây, rau củ tươi…, đồng thời nhập khẩu được nhiều vật tư nông nghiệp chưa tự sản xuất được đủ như giống, phân bón, thuốc bảo vệ động thực vật…, từ đó giúp giải quyết rất nhiều việc làm và tăng thu nhập đáng kể cho nông dân, góp phần tạo sự ổn định và tiến bộ xã hội. Lợi ích căn bản và lâu dài mà giao lưu văn hóa đem lại là thúc đẩy sự phát triển của mỗi nền văn hóa. Lịch sử cho thấy, không một nền văn hóa nào có thể phát triển nhanh hoặc vượt bậc mà không có sự giao lưu với nền văn hóa khác. Giao lưu văn hóa làm cho những cộng đồng, những quốc gia dân tộc đóng kín trở thành những hệ thống mở, đã mở trở nên ngày càng mở hơn. Theo lý thuyết hệ thống, một hệ thống.vật chất nếu đóng kín sẽ nhanh chóng tiến đến hỗn loạn do không thể trao đổi vật chất, năng lượng và thông tin cần thiết với bên ngoài để duy trì cấu trúc hoặc những hoạt động chức năng bình thường, và vì vậy cũng khó thực hiện những hoạt động ứng phó cần thiết trước những tác động bất lợi từ phía thiên nhiên hoặc từ bên ngoài; tính mở của hệ thống vật chất là điều kiện cần để hệ thống đó giữ được ổn định và phát triển. Trong lịch sử Việt Nam ở thế kỷ 17 và 18, sự mở cửa buôn bán của Đàng Trong với Nhật bản, Trung Hoa và Đông Nam Á đã giúp họ Nguyễn sống còn trong cuộc chiến với họ Trịnh ở Đàng Ngoài mạnh hơn gấp bội về mọi mặt: “…Cơ sở nông nghiệp yếu kém ở Đàng Trong gần như không thể trợ giúp cho cuộc đấu tranh tuyệt vọng chống lại lực lượng mạnh hơn của họ Trịnh ở phía Bắc,… bắt buộc họ Nguyễn…trở nên nồng nhiệt đối với nền ngoại thương và người nước ngoài… Kết quả là Đàng Trong của thế kỷ 17 đã trở thành bạn hàng số một của Nhật Bản và là diễn viên lớn trong quan hệ thương mại rộng lớn của châu Á…, đã tìm thấy nguồn tài nguyên và khí lực để thực hiện một giai đoạn phát triển lớn mặc dù phài đánh nhau với phía Bắc cả trăm năm… ; họ Nguyễn đã có thể trang bị cho mình những khí giới tiên tiến giúp họ chống cự lại Đàng Ngoài”1. Như vậy giao lưu văn hóa là một nhu cầu bắt buộc cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia dân tộc. Qua giao lưu tiếp xúc với các nền văn hóa bên ngoài những con người của nền văn hóa bản địa thu nhận được nhiều thông tin mới, xử lý những thông tin này giúp họ có được những hiểu biết hoặc tri thức mới, từ đó ở họ nẩy sinh những nhu cầu mới. Những nhu cầu mới này đòi hỏi phải được đáp ứng và do đó làm nẩy sinh tại bản địa những hoạt động văn hóa mới cùng những sản phẩm văn hóa mới để thỏa mãn nhu cầu, nghĩa là làm cho văn hóa bản địa phát triển nhanh hơn hẳn. Chẳng hạn, kết quả tiếp xúc với khoa học kỹ thuật phương Tây và những sản phẩm của nền khoa học kỹ thuật này trong lĩnh vực nông nghiệp đã làm nẩy sinh ở các nước nông nghiệp phương Đông, trong đó có Việt Nam, nhu cầu sử dụng và sản xuất máy bơm nước, các máy nông nghiệp, phân hóa học, thuốc bảo vệ động-thực vật, nhu cầu ứng dụng công nghệ sinh học về chọn, lai, tạo và nhân giống tốt và ứng dụng các kỹ thuật hiện đại về trồng, nuôi và phòng chữa bệnh cho các cây, con, nhu cầu về công nghệ bảo quản và chế biến nông sản v.v... để từ đó một nền công nghiệp nội địa sản xuất những sản phẩm phục vụ nông nghiệp và chế biến nông sản và một ngành khoa học công nghệ nông nghiệp bản địa ra đời và ngày càng lớn mạnh hoàn thiện, làm cho nền nông nghiệp tiến bộ vượt bậc. Sự ổn định và phát triển nhanh chóng của Việt Nam từ khi mở cửa hội nhập là minh chứng rõ ràng cho những lợi ích mà giao lưu văn hóa mang lại. Bản thân giao lưu văn hóa không gây ra sự đồng hóa văn hóa, điều này lại càng chắc chắn trong trường hợp nền văn hóa bản địa giao lưu đồng thời với nhiều nền văn hóa bên ngoài. Một nền văn hóa bị đồng hóa với nền văn hóa khác nếu sức mạnh bên trong của nó không đủ để thực hiện tiếp biến văn hóa (acculturation), mà chỉ đơn thuần tiếp nhận trong quá trình giao lưu. Dân tộc Việt nhờ năng lực tiếp biến lạ kỳ mà trong một ngàn năm Bắc thuộc không hề bị đồng hóa, mặc dù chính quyền cai trị phương Bắc buộc người dân theo luật Hán, áp đặt chữ Hán, đem người Hán đến ở lẫn với người Việt, bắt người Việt theo phong tục tập quán của người Hán…Trong quá trình người Việt tiến vào phía Nam dưới thời chúa Nguyễn,họ ở lẫn với các tộc dân địa phương đứng đầu là người Chăm, tiếp nhận, vay mượn có chọn lọc và thích nghi một cách thoải mái với nhiều yếu tố văn hóa Chăm, chẳng hạn như tiếp thu kỹ thuật làm ghe và cả tên gọi ghe, bàu từ người Chăm, các tục lệ hoặc phương thức thờ cúng, các thần linh của người Chăm, tục ăn gỏi, cách đội khăn, chôn cất người chết trong huyệt theo kiểu người Chăm2… Những điều này giúp cho người Việt thích ứng tốt với điều kiện địa phương, nhưng không hề làm thay đổi bản sắc văn hóa của mình. Tiếp biến văn hóa Tiếp biến văn hóa - một hình thức biến nhiều lợi ích tiềm năng mà giao lưu văn hóa đem lại thành những lợi ích thực tế - là hiện tượng tiếp nhận có chọn lựa một số yếu tố văn hóa ngoại lai và biến đổi chúng cho phù hợp với điều kiện sử dụng bản địa, tức phù hợp với văn hóa bản địa, và sau một thời gian sử dụng và biến đổi tiếp thì chúng trở thành những yếu tố văn hóa bản địa ngoại sinh. Đến lúc này những người dân ở nơi xuất xứ của những yếu tố văn hóa đó cũng không còn nhận ra chúng vốn là của mình. Rõ nhất là trong ngôn ngữ. Chẳng hạn, thuật ngữ “le savon” trong tiếng Pháp được người Việt tiếp nhận và biến đổi thành “xà bông” hoặc “xà phòng”. Hai từ “xà phòng” đã trở thành từ Việt ngoại sinh, và người Pháp khi nghe hai tiếng “xà phòng” không thể hiểu đó là nói về savon. Tương tự, mấy từ Pháp “faire la grève” đã thành hai từ Việt ngoại sinh “làm reo”. Từ “chùa” trong tiếng Việt, theo nhà khảo cổ Hà Văn Tấn, cũng có thể đã được người Việt xưa biến đổi từ “thÛpa” (tiếng Pali) hay “stÛpa” (tiếng Sanskrit) của Ấn Độ mà thành,do chỗ chùa Việt ban đầu có dạng tháp; thÛpa hay stÛpa được người Việt rút ngắn theo thói quen khi tiếp nhận các từ du nhập đa âm tiết, chỉ còn lại thu hay stu, từ đó trở thành chùa5 . Hoặc như khi người Việt di cư vào phía nam sông Gianh họ gặp phải loại đất canh tác cứng và dầy cỏ. Loại cày vừa nhẹ, lưỡi nhỏ và không mạnh ở đế mà họ quen dùng tại miền đất mềm châu thổ sông Hồng, sông Mã không còn thích hợp, vì vậy họ đã sử dụng cây cày của người Chăm do nó khá cứng cáp nơi phần đế, nhưng chế thêm cái nang để điều chỉnh góc và cải tiến dần thành loại cày mới; các bộ phận của cây cày Chăm vẫn giữ nguyên tên Chăm, nhưng những phần gắn với cái nang thì mang tên Việt như to nang, tế nang6 . Như vậy, những yếu tố ngoại sinh trong một nền văn hóa là yếu tố tuy có gốc tích từ bên ngoài nhưng đã qua công đoạn tiếp biến văn hóa và do đó không còn thuộc về nền văn hóa bên ngoài - nền văn hóa đang cộng sinh với nền văn hóa bản địa, mà đã trở thành một bộ phận của nền văn hóa bản địa, góp phần làm giàu cho nền văn hóa này. Vì vậy, người bản địa sử dụng những yếu tố văn hóa bản địa ngoại sinh cũng thuần thục, tinh tế như các yếu tố văn hóa nội sinh, có thể phối kết hòa quyện chúng với nhau một cách tự nhiên, như hai câu thơ sau đây của bà Huyện Thanh Quan là một bằng chứng: Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt Nước còn cau mặt với tang thương. Từ đây có thể khẳng định rằng quá trình giao lưu văn hóa chỉ là điều kiện cần, phải có thêm quá trình tiếp biến văn hóa là điều kiện đủ để làm phong phú thêm, mạnh thêm nền văn hóa bản địa, nâng nó lên tầm cao phát triển chung của văn hóa thế giới. Trong thực tế sự cộng sinh giữa những yếu tố của hai nền văn hóa xẩy ra như là giai đoạn trung gian giữa giao lưu và tiếp biến văn hóa. Từ chỗ nhận biết qua giao lưu văn hóa các yếu tố văn hóa ngoại lai có ích lợi để sử dụng, và qua quá trình sử dụng theo điều kiện sống và lề thói văn hóa của mình, dân tộc bản địa đã dần dần cải biến chúng thành những yếu tố bản địa ngoại sinh thích hợp, tiện dụng. Chẳng hạn, người Việt chấp nhận dùng chữ Hán nhưng đọc theo âm Việt rồi dần dần theo đó sáng tạo ra chữ Nôm. Trong lịch sử, người Việt tuy căm ghét Pháp xâm lược nhưng chấp nhận kiểu tóc ngắn, trang phục tây, chữ quốc ngữ, nhạc, thơ, kịch, hội họa, kiến trúc kiểu phương Tây..., học tiếng Pháp để nghiên cứu tìm hiểu văn hóa phương Tây, nói, viết sách và thậm chí làm thơ bằng tiếng Pháp, và từ sự chấp nhận này đã đi đến sáng tạo ra một nền nhạc mới, văn thơ mới, kịch nghệ mới, hội họa mới... hiện đại mang bản sắc Việt Nam..Trong hai cuộc kháng chiến vừa rồi những du kích quân, chiến sĩ giải phóng quân Việt Nam đã tự mày mò học cách sử dụng vũ khí cướp được của địch, trong quá trình sử dụng lại mày mò cải tiến thành vũ khí mới thích dụng cho mình để đánh địch hiệu quả hơn, như anh hùng Tô Văn Đực đã mày mò tìm hiểu nguyên lý nổ của bom bi để sáng chế ra “mìn chạm”, rồi qua thực tế sử dụng thấy được nhược điểm của nó mà cải tiến thành “mìn gạt” bằng cách gắn thêm cần gạt trên kim hỏa giúp mìn nổ ngay khi bất cứ bộ phận nào của xe tăng địch đụng phải cần, dẫn đến hầu hết trong số gần 5000 xe tăng Mỹ bị phá hủy ở Củ Chi là do mìn gạt (SGGP, 6.8.2008). Như vậy, quy luật của quá trình là tiếp nhận thô ban đầu cái ngoại lai để sử dụng rồi chọn lọc và tinh chế về sau thành cái bản địa ngoại sinh cho mình. Vậy là để có được và duy trì tính hiện đại dân tộc trong văn hóa cần có sự giao lưu giữa văn hóa dân tộc và văn hóa quốc tế, từ đó quá trình cộng sinh (vi mô) và sau đó là quá trình tiếp biến văn hóa sẽ giúp nền văn hóa dân tộc phát triển, tạo và giữ được tính hiện đại dân tộc. Chính quá trình giao lưu văn hóa quốc tế làm nảy sinh nhanh và nhiều những hiểu biết mới ngang tầm quốc tế, để từ đó nhanh chóng xuất hiện những nhu cầu mới làm bệ phóng cho sự phát triển văn hóa của mỗi đất nước theo kịp trình độ tiên tiến của thế giới. Từ khi nhân loại bước vào thời đại văn minh, cách đây trên 5000 năm, đã có giao lưu văn hóa. Giao lưu văn hóa mở rộng dần như các vết dầu loang, từ giao lưu giữa các bộ lạc đến giữa các bộ tộc, các quốc gia, các châu lục. Giao lưu dẫn đến quốc tế hóa, đặc biệt được đẩy mạnh từ khi nền văn minh tư bản phương Tây bắt đầu từ thế kỷ 15-16 tìm ra châu Mỹ và vươn tới các nước châu Á, châu Phi, rồi đến sau cuộc Cách mạng Công nghiệp vào thế kỷ 18. Giao lưu văn hóa tạo ra hiện tượng tiếp biến (tiếp thụ và cải biến) văn hóa (acculturation). Tiếp biến văn hóa là gì?Đó là sự tiếp xúc giữa những nhóm người khác nhau về hóa, do đó sinh ra những sự thay đổi về văn hóa (ứng xử, giao tiếp, tư duy) ở trong mỗi nhóm. (Đây là định nghĩa ở cuộc họp UNESCO châu Á tại Téhéran 1978 mà tôi có dịp tham gia). Có thể nêu lên một định nghĩa khác:“Quá trình một nhóm người hay một cá nhân qua tiếp xúc trực tiếp và liên tục với một nhóm khác, tiếp thụ (tự nguyện hay bị bắt buộc, toàn bộ hay từng bộ phận) nền văn hóa của nhóm này" (DICTIONNAIRE UNIVERSEL FRANCOPHONE - 1997) (Có thể thêm vào ý: có hoặc không có ý thức). Như vậy là khi hai nền văn hóa A và B gặp nhau thì ảnh hưởng lẫn nhau, kết quả A thành A2, B thành B2.   “Tiếp biến văn hóa” thể hiện qua hai phương thức: a. Phương thức bạo lực (qua chiến tranh, xâm lược, đế quốc chủ nghĩa thực dân): đối đầu (xung đột) văn hóa. A mạnh hơn B, áp đặt văn hóa của mình; nếu bản sắc văn hóa B không đủ sức chống lại, nó sẽ bị phá hủy từng phần và có khi bị tiêu diệt (A thay hẳn B, không còn B nữa). Thí dụ một số bộ lạc thuộc địa cũ ở châu Phi - Thái Bình Dương mất hết bản sắc dân tộc. b. Phương thức hòa bình (qua buôn bán truyền bá tôn giáo tư tưởng, trao đổi văn hóa nghệ thuật), tức là đối thoại văn hóa (văn minh). Dĩ nhiên buổi đầu gặp nhau bao giờ cũng có “sốc” văn hóa. Cũng không thể tách bạch hẳn hai phương thức, vì trong một thời kỳ lịch sử có khi có cả một và hai, tuy phương thức 1 hay 2 ngự trị, trong 1 cũng có ít nhiều 2, mà trong 2 có thể có ít nhiều 1. Thí dụ trong thời kỳ thực dân, tuy phương thức áp đặt văn hóa (bạo lực) là chủ yếu, dân thuộc địa vẫn có trường hợp tự ý tìm đến những giá trị nhân văn của kẻ thống trị (phương thúc 2). Trong tiếp biến văn hóa vừa có thể chống lại vừa có thể tiếp thụ. Xin lấy một thí dụ thuộc bộ môn “xã hội - ngôn ngữ học” (socio - linguistique) do anh Hoàng Tuệ cung cấp (1). Khi hai ngôn ngữ (hiện tượng song ngữ bilinguisme) song song tồn tại trong một cộng đồng, thường thì quan hệ bất bình đẳng: ngữ mạnh át ngữ yếu. Mạnh vì lý do chính trị (ngữ của dân tộc xâm chiếm), kinh tế (ngữ của dân tộc chi phối kinh tế) hay tư tưởng tôn giáo. Vì vậy, dân tộc kém phải đấu tranh giữ cho tiếng mẹ đẻ của mình tồn tại và thuần khiết, nhằm bảo tồn bản sắc văn hóa của mình (đối đầu văn hóa). Đồng thời cần tiếp thụ tinh hoa một ngôn ngữ phát triển hơn về một số mặt để làm giàu bản sắc dân tộc (đối thoại văn hóa). Dân tộc Việt Nam đã từng có hai thể nghiệm lớn về vấn đề này (Hán tự và tiếng Pháp), vào hai thời kỳ (thế kỷ 15 và thế kỷ 20), với hai nhân vật điển hình (Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh). Nguyễn Trãi làm thơ tiếng Việt (Quốc âm thi tập) là mặt đối đầu (chống chữ Hán). Nhưng ông cũng lại làm thơ chữ Hán (mặt đối thoại, tiếp thụ) vì vào thế kỷ 15, văn thơ Nôm chưa nhuần nhuyễn bằng Hán. Trường hợp Hồ Chí Minh cũng vừa đối đầu vừa đối thoại. Bản Tuyên ngôn độc lập (1945) là một thí dụ về văn xuôi chính luận mới, vừa tiếp thụ được tu từ và lập luận (rhétorique) phương Tây (Pháp), vừa nắm bắt được phong cách văn xuôi mới trong nước, không ngây ngô lai căng như ngôn ngữ một số nhà chí sĩ đồng thời sống ở nước ngoài quá lâu. Hồ Chí Minh viết và làm thơ tiếng Việt và chữ Hán, viết văn xuôi tiếng Pháp, với ý thức vừa đối đầu vừa đối thoại văn hóa. Qua hơn nghìn năm Bắc thuộc, gần trăm năm Pháp thuộc, tiếng Việt không bị mất (đối đầu) mà còn phong phú thêm (đối thoại) do bản sắc văn hóa Việt đã tự khẳng định (qua vận động nội tại và đấu tranh chống thiên nhiên và ngoại xâm). Tóm lại, đối thoại văn hóa (văn minh) nằm trong khuôn khổ tiếp biến văn hóa, và vẫn theo những quy luật như trước trong thời đại toàn cầu hóa. Đối thoại văn hóa (văn minh) đã có từ xa xưa. Tại sao đến nay, UNESCO mới nêu thành vấn đề ưu tiên của nhân loại? Phải chăng do toàn cầu hóa đang khơi sâu hố giàu nghèo Nam - Bắc và trong từng quốc gia? Các dân tộc nghèo sợ mất bản sắc? Đặc biệt Hồi giáo cực đoan tuyên bố Thập tự chinh chống văn minh phương Tây, chủ trương khủng bố? Mỹ thì tự nhận đại diện văn minh phương Tây đơn phương gây chiến? Muốn có hòa bình thế giới, UNESCO chủ trương đa dạng văn hóa và đối thoại giữa các nền văn minh (văn hóa). 3. THỜI KỲ TRƯỚC CÁCH MẠNG 1945 Gốc văn hóa Việt Nam (Việt) ở Đông Nam á thuộc văn minh lúa nước. Ngoài vận động nội tại (các tộc người bản địa), gốc đã qua tiếp biến văn hóa, được ghép thêm những yếu tố Văn hóa ngoại lai (chủ yếu là Trung Quốc, Ấn Độ (ít hơn) và phương Tây: Pháp) a. Gốc Đông Nam Á Trong thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, vào thời đại đồ đồng, bản sắc dân tộc Việt đã hình thành ở lưu vực sông Hồng. Đó là kết quả của sự kết hợp nhiều yếu tố: địa lý, chủng tộc, kinh tế, ngôn ngữ, văn hóa trong một quá trình lịch sử gắn bó cộng đồng đấu tranh chống ngoại xâm phương Bắc và thiên tai (lụt sông Hồng). Mặc dù bị Trung Quốc và Pháp đô hộ trong những thời gian dài, gốc văn hóa Đông Nam Á vẫn tồn tại qua những thời kỳ lịch sử cho đến nay. Nó vẫn tàng ẩn nhiều hình thái như huyền thoại, ngôn ngữ, tín ngưỡng, phong tục tập quán... Nó vẫn nằm sâu lắng trong tiềm thức cộng đồng Việt. Nó là chất liệu của dòng văn hóa dân gian đi song song với văn hóa bác học và đóng góp hiệu quả vào việc bảo tồn bản sắc dân tộc vào những thời kỳ bị đô hộ. b. Tiếp biến văn hóa với Trung Quốc (179 trước CN - 1858) Ta tiếp biến văn hóa với Trung Quốc qua hai giai đoạn: giai đoạn Bắc thuộc và giai đoạn các vương triều Việt Nam độc lập Trong giai đoạn Bắc thuộc (179 tr CN - 838) “đối đầu văn hóa” là chủ yếu. Người Trung Quốc thống trị áp đặt văn hóa Hán, người Việt chống lại để bảo vệ văn hóa gốc. Chính trong cuộc đấu tranh ấy, bản sắc Việt được mài giũa sáng tỏ hơn và tự khẳng định mạnh mẽ (Xem Kênh Taylor - THE BIRTH OF VIETNAM) Người Việt đã tiếp biến một số khái niệm và tổ chức chính trị Trung Quốc để tạo ra một khối dân tộc gắn bó keo sơn, đặc biệt Khổng học trở thành một triết lý chính trị có hiệu quả (người Chàm sở dĩ thất bại một phần cũng do thiếu một triết lý chính trị thiết thực). Làng xã Việt Nam cũng là nơi bảo tồn nhiều yếu tố văn hóa gốc. Tuy đối đầu văn hóa là chủ yếu thời Bắc thuộc, đối thoại văn hóa cũng diễn ra do các tầng lớp trên tiếp thụ văn hóa Hán (do chủ trương các Thái thú tiến bộ như Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp...). Trong giai đoạn các vương triều độc lập (thế kỷ l0-19) với các nhà Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Hồ, Lê, Mạc, Nguyễn, đối thoại văn hóa với Trung Quốc là chủ yếu tuy đối đầu vẫn tiếp tục. Qua hai giai đoạn dài 2000 năm, tiếp biến văn hóa đã đem lại một số kết quả tích cực cho ta. Về mặt văn minh vật chất, ta đã tiếp thụ nhiều kỹ thuật (lưỡi cày sắt thay cho đồng, các nghề thủ công như dệt, in, giấy v v. ). Về mặt văn hóa phi vật thể, ta đã du nhập và cải biến nhiều thứ của Trung Quốc. Ta đã học chữ Hán nhưng cũng tạo ra chữ Nôm và các từ Hán - Việt. Khổng học và Phật học mang những nét Việt hóa, kể cả những thể chế, lễ nghi, tập quán gốc Trung Quốc. Làng xã là nơi chính quyền thực dân (Trung Quốc và sau này cả Pháp) không với tới, do đó là đồn lũy bảo tồn gốc dân tộc với những công trình tôn giáo (chùa, đền, đình...) dân gian. Trong thời kỳ tiếp biến văn hóa chủ yếu với Trung Quốc, ta không nên quên hiện tượng đối thoại với văn hóa Ấn Độ. Tiếp biến văn hóa với Trung Quốc mang tính liên tục, trực tiếp và thường qua đối đầu (chiến tranh, đô hộ), còn với Ấn Độ thì qua đối thoại (truyền giáo, buôn bán), thường gián tiếp và không liên tục. Ảnh hưởng lớn nhất của Ấn Độ là qua tôn giáo (Phật giáo Ấn Độ giáo). Ngoài ra, cũng cần nhắc đến đối thoại văn hóa giữa 54 dân tộc ở Việt Nam, không đặt ra trong phạm vi bài này. c. Tiếp biến văn hóa với Pháp: hiện đại hóa lần thứ nhất (1858-1945) Nói một cách cụ thể, đối với Việt Nam và các nước Khổng học châu Á nói chung, “hiện đại hóa” (MODERNIZATION) có nghĩa là “Tây phương hóa” (WESTERNIZATION) với nội dung chủ yếu là “công nghiệp hóa” (INDUSTRIALIZATION), thị thành hóa (URBANIZATION). Ở Việt Nam, thời kỳ “hiện đại hóa” lần thứ nhất là thời kỳ Pháp thuộc. Nhưng do chịu tác động phương Tây thời kỳ này chủ yếu là xã hội thị dân một số thành phố lớn, nên Việt Nam vẫn còn là một nước thuộc địa bán phong kiến. Do đó, tôi vẫn gọi là Việt Nam thời kỳ truyền thống (TRADITIONAL) chứ chưa gọi là Việt Nam hiện đại (Contemporary Vietnam) từ 1945. Thời Pháp thuộc, đối đầu văn hóa là chủ yếu, nhất là giai đoạn đầu: Trí thức Nho học phản ứng, không muốn đổi “bút lông” lấy “bút chì”, học Quốc Ngữ và tiếng Pháp. Từ những năm 20-30 thế kỷ 20, song song với đối đầu văn hóa, có hiện tượng đối thoại văn hóa. Các nhà nho hiện đại như Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, các trí thức mới như Dương Quảng Hàm, Hoàng Xuân Hãn, Nhất Linh... muốn đưa khoa học và dân chủ phương Tây vào. Khái niệm “cái tôi” của phương Tây và đặc biệt chủ nghĩa lãng mạn Pháp đã giúp tạo ra Thơ mới và cả một dòng văn học Việt Nam. Theo tôi, muốn đánh giá khách quan một hiện tượng, một vấn đề, một nhân vật thời thục dân (Pháp), phải xét về 3 mặt: ý đồ chủ nghĩa thực dân (đối đầu văn hóa), đối thoại văn hóa Đông Tây, vai trò của cá nhân trong 2 quá trình trên (nặng về hướng nào). Xin đơn cử hai thí dụ: chữ Quốc Ngữ và trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Vào thế kỷ 17, các giáo sĩ phương Tây, đặc biệt một giáo sĩ Pháp đặt ra chữ Quốc Ngữ để truyền đạo Thiên chúa ở ta. Khi thực dân Pháp chiếm nước ta, ý đồ của họ là dạy chữ Quốc Ngữ là để phục vụ mục đích cai trị của họ. Những người yêu nước Việt Nam sử dụng Quốc Ngữ để truyền bá lòng yêu nước, đấu tranh cho độc lập, xây dựng một nền khoa học Việt Nam. Đó là vai trò cá nhân khác nhau trong tiếp biến văn hóa. Chính phủ thuộc địa Pháp mở các trường đại học nhằm đào tạo người bản xứ phục vụ công cuộc cai trị. Việc thành lập trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương không thể nằm ngoài ý đồ ấy. Nhưng Tardieu và Nam Sơn đã hợp tác với nhau (đối thoại văn hóa Đông - Tây) để tạo ra một nền hội họa Việt Nam hiện đại. Nếu Gonchère làm Hiệu trưởng thì Trường từ đầu đã đi theo hướng khác. 4. VIỆT NAM THỜI KỲ HIỆN ĐẠI (Từ cách mạng 1945) Tôi Cho là Việt Nam hiện đại bắt đầu từ Cách mạng tháng Tám 1945. Vì thời kỳ ta hiện đại hóa (= Tây phương hóa) lần thứ nhất (Pháp thuộc: 1858-1945), văn hóa phương Tây chỉ tác động cơ bản đến xã hội thị dân một số tỉnh to; hơn 90% nhân dân ở nông thôn. Do đó, tư duy và phong tục tập quán in đậm dấu truyền thống, nặng ảnh hưởng Khổng học, phong kiến.   Chỉ từ sau 1945, xã hội mới thực sự hiện đại, qua hiện đại hóa lần thứ hai với những biến đổi cơ bản do cách mạng và chiến tranh, ảnh hưởng thế giới đa dạng và sâu sắc, những cố gắng công nghiệp hóa và đô thị hóa có hệ thống. Tiếp biến văn hóa ở Việt Nam hiện đại qua hai giai đoạn, trước và từ đổi mới (1986). a. Giai đoạn trước Đổi mới (1945-1986): Có thể gọi đây là giai đoạn quốc tế hóa vấn đề Việt Nam, được đánh dấu bởi hai cuộc chiến tranh Việt Nam mang tính quốc tế. Trong 80 năm Pháp thuộc, các phong trào đấu tranh cho độc lập đều thất bại. Hồ Chí Minh đã thành công do chiến lược gắn vấn đề Việt Nam với đại cục quốc tế, do đó được sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Độc lập dân tộc được thực hiện qua con đường xã hội chủ nghĩa; văn hóa Việt Nam hiện đại mang tính chất dân tộc, đại chúng và khoa học. Như một tác giả nức ngoài đã nhận xét, Hồ Chí Minh là “con người hiện đại tiêu biểu nhất cho nước Việt Nam)(2). Vì vậy, vượt qua chủ nghĩa thực dân, nếu muốn tìm hiểu đối thoại văn hóa (văn minh) Đông - Tây của Việt Nam, không gì hơn là nghiên cứu trường hợp điển hình Hố Chí Minh. Bôn ba hải ngoại tìm con đường cứu nước, ông luôn gìn giữ những giá trị vĩnh cửu của Việt Nam, kính già yêu trẻ, trọng nghĩa khinh tài (David Halberstam). Tâm hồn Việt tồn tại trong ông: ý thức cộng đồng, tình cảm gia tộc, quê hương, cần cù, tính hài hước, gần gũi thiên nhiên, năng khiếu thi ca. Ông không bài bác Khổng học mà áp dụng những cái hay của nó. Nho học đã đem lại cho ông một số yếu tố phù hợp với sự lựa chọn mác xít của ông: chủ nghĩa duy lý, lòng tin vào giáo dục cải tạo con người, đề cao đạo đúc xã hội và thực tiễn (praxis). Hồ Chí Minh nói: “Đức Phật tổ đại từ bi, tốt biết bao!”. Trong thơ ông cũng phảng phất cái siêu nhiên của Lão học. Paul Mus đã đưa ra lập luận bác học để nắm bắt qua Hồ Chí Minh “tâm linh của Việt Nam và châu Á”. Hồ Chí Minh, người Việt Nam và châu Á 100% như vậy đã đối thoại thành công với văn hóa phương Tây. Năm 1946, Bộ trưởng Pháp Edmond Michelet thuộc phái De Gaulle, cho là “ông Hồ Chí Minh rất Pháp”. Jean Lacouture nhận xét là Hồ Chí Minh “có những dấu hiệu rõ ràng về những mối liên hệ tri thức và chính trị với nhân dân Mỹ”. Tư tưởng phương Tây lấy lý tính và khoa học làm tiêu chuẩn chân lý. Từ thời trẻ, Hồ Chí Minh đã học ở đó phương pháp phân tích duy vật biện chứng mác xít. Sự phân tích lý tính kiểu Descartes không bóp nghẹt trong Hồ Chí Minh tư duy phương Đông hướng về tổng hợp và trực giác là một tiền đề của sự nhạy bén chính trị. Xuất phát từ một nước thuộc địa bán phong kiến, Hồ Chí Minh đã tiếp thụ những lý tưởng Cách mạng tiến bộ, tự do, dân chủ của phương Tây qua lăng kính chống thực dân, giải phóng dân tộc bằng con đường xã hội chủ nghĩa. Theo Bộ trưởng Pháp Edmond Michelet, “ông là người đã chọn Chủ nghĩa Cộng sản, đúng thế, nhưng có một chủ nghĩa nhân văn sâu sắc”. Ở Việt Nam, sau khi Pháp thua ở Điện Biên Phủ, các cường quốc dàn xếp chia đôi Việt Nam để phục vụ chiến tranh lạnh. Trong cuộc tiếp biến văn hóa, miền Nam chịu ảnh hưởng văn hóa phương Tây, còn miền Bắc chịu ảnh hưởng văn hóa xã hội chủ nghĩa nói chung và tiếp thụ được cả tinh hoa văn hóa cổ điển các nước xã hội chủ nghĩa (Nga, Trung Hoa, Cu ba, Đông âu...). Dưới sự kích thích của cách mạng và chiến tranh, các giá trị văn hóa tạo ra do tiếp biến thời Pháp thuộc đã đem lại nhiều thành tích trong khuôn khổ độc lập dân tộc (văn học, nghệ thuật, đặc biệt có hai thế hệ nhà khoa học Việt Nam hiện đại đầu tiên). b. Giai đoạn từ đổi mới 1986 Giai đoạn này được đánh dấu ở ta bởi toàn cầu hóa, khu vực hóa (gia nhập ASEAN, 1995) và gia nhập khối Pháp ngữ. Thời kỳ hậu chiến (sau 1975) có ba vấn đề nổi cộm: Khủng hoảng kinh tế xã hội 15 năm (đến 1995) do thiên tai, các vấn đề Khmer Đỏ và Trung Quốc, một số chính sách kinh tế gây ra “thuyền nhân”. Đuổi theo kinh tế các nước ASEAN, không tụt hậu. Cạnh tranh trong hoàn cảnh toàn cầu hóa. ? Chính sách đổi mới đã góp phần quyết định giải quyết các vấn đề trên với hai yếu tố: áp dụng kinh tế thị trường và mở cửa. “Đổi mới” ra đời khoảng lúc xuất hiện toàn cầu hóa. Theo Từ điển Pháp ngữ bao quát (1997), toàn cầu hóa là “sự biến đổi từ một nền kinh tế quốc tế sang một nền kinh tế toàn cầu được đặc trưng bởi sự cạnh tranh phổ biến, hòa nhập tất cả các quốc gia trên cơ sở tư nhân và không chính trị, trong một không gian kinh tế toàn cầu, phần nào vượt ra ngoài sự kiểm soát của các quốc gia". Toàn cầu hóa là kết quả một quá trình biến diễn kinh tế tư bản lâu dài, được khẳng định vào thập kỷ 90 thế kỷ 20 do hậu quả cuộc cách mạng viễn-thông tin (télématique). A.O.Altwaipi nhận định: “nó là một cản trở chủ yếu đối với lời kêu gọi toàn thế giới đối thoại giữa các nền văn minh. Nó áp đặt... một khái niệm phương Tây nhằm bắt phải theo những giá trị vật chất của nó và những khái niệm dựa trên cơ sở số lượng làm hại cho những giá trị nhân bản và những chuẩn mức chất lượng”. C.Muzaffar cho là toàn cầu hóa phát động ở phương Tây gốc từ chủ nghĩa thực dân. M.Bousnina nêu lên hai mặt của toàn cầu hóa: “Tri thức công nghiệp và máy tính hóa... tăng thêm rất nhiều cho phúc lợi loài người, đồng thời cũng đe dọa sự tồn tại của loài người". Tyler Cowen, người bênh vực toàn cầu hóa, cũng công nhận đó là một lực lượng phá hoại sáng tạo (creative destruction). Nói chung, toàn cầu hóa có lợi nhiều cho các nước giàu và hại nhiều hơn lợi đối với các nước nghèo. Toàn cầu hóa văn hóa có thể dẫn đến tương đồng văn hóa (homogenisation), làm mất bản sắc của các dân tộc nghèo. Nhưng vì không tránh được toàn cầu hóa, phải chấp nhận nó, đấu tranh cho nó có một bộ mặt nhân bản, khai thác các cạnh khía tích cực của nó để đảm bảo cho đa dạng văn hóa (UNESCO, Tuyên bố năm 2001) và đối thoại các nền văn minh (UNESCO, năm 2001). Đối diện toàn cầu hóa, trong cuộc đối thoại văn hóa, Việt Nam có thuận lợi lịch sử là đã tiếp biến văn hóa thành công khi đối đầu với văn hóa Trung Quốc và phương Tây (Pháp) mà vẫn giữ được và làm phong phú thêm bản sắc dân tộc. Một khó khăn lớn của ta là kinh tế còn phát triển thậm, việc kiểm soát những văn hóa phẩm vật thể và phi vật thể nước ngoài tràn ngập vào, không phải dễ dàng bảo vệ bản sắc dân tộc. Không thể quan niệm bản sắc dân tộc một cách tĩnh: qua thời gian có thể có những giá trị cổ truyền phải bỏ (thí dụ: răng đen), có những giá trị ngoại lai cần được tiếp thụ và cải biến làm giàu bản sắc văn hóa của mình (thí dụ: biến nghề sơn thủ công thành nghệ thuật sơn mài). Ta cần sử dụng những cơ hội do cách mạng thông tin và giao thông tạo ra để đóng góp với thế giới tiếng nói văn hóa của ta (thí dụ: múa rối nước, áo dài, nem, phở, hội họa, văn học...). Đồng thời, cũng phải hòa mình vào cuộc đấu tranh của xã hội dân sự thế giới (như ở Porto AllegTe, Bom bay...) để toàn cầu hóa mang lại hòa bình và ấm no cho nhân loại. SỰ TIẾP BIẾN VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG NHỮNG THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỈ XX Sự tiếp xúc, giao thoa giữa các nền văn hoá luôn luôn diễn ra trong quá trình phát triển của nhân loại. Đó là một nhu cầu tất yếu, một quy luật của phát triển. Trong quá trình giao thoa văn hóa, có thể xảy ra hiện tượng các yếu tố của nền văn hoá này thâm nhập vào nền văn hoá kia hoặc nền văn hóa này vay mượn các yếu tố của nền văn hoá kia rồi cải biến điều chỉnh cho phù hợp dẫn đến sự tiếp biến văn hóa. Việt Nam cũng không ngoại lệ. Sự tiếp xúc giao thoa giữa văn hóa Việt Nam với văn hóa nhân loại, đặc biệt là với văn hóa phương Tây đã diễn ra mạnh mẽ vào những thập niên đầu thế kỉ XX, trong điều kiện thực dân Pháp xâm lược thống trị và khai thác thuộc địa Việt Nam. Do đó, nhân dân ta tuỳ nơi tuỳ lúc có thể tiếp nhận hoặc chống đối. Nhưng cuối cùng là sự lựa chọn những tinh hoa văn hóa nhân loại rồi cải biến cho phù hợp với tâm thức và mỹ cảm văn hóa của người Việt Nam. Đó chính là quá trình hội nhập để bổ xung những yếu tố mới tiến bộ, hiện đại vào nền văn hóa truyền thống, làm giàu đẹp hơn, phong phú hơn, hiện đại hơn nền văn hóa dân tộc trong điều kiện lịch sử mới. Bài viết này đề cập đến sự tiếp biến văn hóa Việt Nam những thập niên đầu thế kỉ XX trên ba mặt: về chủ thể văn hóa, về văn hóa vật chất, v ề văn hóa tinh thần. 1. Sự tiếp biến về chủ thể văn hóa Trước khi tiếp xúc gặp gỡ văn hóa phương Tây, Việt Nam đã tồn tại và phát triển một nền văn hóa nông nghiệp với những nét đặc trưng của văn hóa phương Đông. Đó là nền văn hoá lấy gia tộc làm gốc; lấy tình cảm làm trọng; trông vào con cháu duy trì nòi giống và nối nghiệp tổ tiên; coi trọng tính trường tồn, đời xưa sao đời nay thế; ưa chuộng hoà bình, an cư lạc nghiệp. Những đặc trưng này toát lên tính chất “trọng tình” của văn hóa truyền thống, cốt giữ cho tình cảm nồng hậu, trọng đạo đức nhân nghĩa, thích yên lặng hoà bình cho cuộc song. Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX thực dân Pháp đã xác lập nền cai tri của chúng trên đất nước ta. Xã hội Việt Nam chuyển từ xã hội phong kiến độc lập sang xã hội tư bản thuộc địa. Điều đó đã tác động mạnh mẽ đến chủ thể văn hóa Việt Nam, chủ thể văn hóa truyền thống bị phân hóa, xuất hiện những lớp cư dân mới ngoài "tứ dân". Cùng với sự du nhập phương thức kinh tế tư bản chủ nghĩa một lực lượng lao động mới xuất hiện. Họ là những người nông dân, thợ thủ côn cá để thời phong kiến, bị chính sách bần cùng hoá làm phá sản và xô đẩy ra khỏi làng mạc đến sống tập trung ở các công trường xây dựng, các xí nghiệp, nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, bán sức lao động làm thuê cho tư sản (tư sản Pháp, Hoa, Việt Nam) và trở thành những người công nhân hiện đại. Đến năm 1906 công nhân Việt Nam có khoảng 55.000 người, đến trước chiến tranh thế gia thứ nhất tăng lên khoảng 10 vạn người và thành một giai cấp mới - giai cấp công nhân Việt Nam. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, tư sản Pháp đổ xô vào khai thác thuộc địa thì công nhân Việt Nam tăng lên nhanh chóng. Đến năm 1929 đã có trên 22 vạn người làm thuê cho Pháp, khoảng 10 vạn làm thuê cho sản Việt Nam… Đây là một lực lượng lao động mới trong dây chuyền sản xuất tư bản, họ sống, làm việc và quan hệ xã hội đã vượt ra ngoài khuôn khổ làng xã, nông dân và nông thôn. Họ trở thành một bộ phận mới trong chủ thể Việt Nam. Sự tiếp xúc với nền kinh tế tư bản đã sản sinh ra những nhà thầu khoán, những nhà làm đại lý cho giới tư sản Pháp, những nhà kinh doanh công thương nghiệp Việt Nam. Họ là những người vừa thoát ra từ nền kinh tế phong kiến đang học tư bản để kinh doanh, quản lý và sản xuất công nghiệp, làm chủ hiệu buôn, chủ nhà máy, xí nghiệp, đồn điền. Tầng lớp này ngày càng đông hơn và hợp thành giai cấp tư sản Việt Nam. Họ có địa vị kinh tế và xã hội nhất định, có nhu cầu văn hóa khác các giai tầng khác và thành một bộ phận mới trong chủ thể văn hóa Việt Nam. Các bác sĩ, kĩ sư, luật sư, kiến trúc sư, dược sĩ, nhạc sĩ, nhà văn, nhà báo, sinh viên - lớp trí thuc. Đây là bộ phận nhạy cảm và năng động nhất trong quá trình hội nhập văn hóa đầu thế kỉ XX. Họ nhanh chóng nhận ra những yếu tố mới và tiến bộ trong văn hóa nhân loại để học tập và ứng dụng có chọn lọc vào thực tiễn Việt Nam. 1 Đào Duy Anh: Việt Nam văn hóa sử hóa, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1992, tr.373. 2 Trung tâm KHXH & NVQG: Lịch sử Việt Nam 1897 – 1918, Nxb Khoa học xã hội, H.1999, tr.25 3 Trần Huy Liệu. Tài liệu tham khảo cách mạng cận đại Việt Nam. Nxb Văn sử địa, 1 956, tập 4, t4, tr.120 3 Phương thức kinh tế tư bản du nhập vào Việt Nam đã tác động mạnh vào quá trình đô thị hóa. Phố xá xuất hiện, các thành phố cận đại ra đời và lớp cư dân đô thị hình thành. Đặc biệt là trong cư dân thành thị Việt Nam những thập niên đầu thế kỉ XX tồn tại một bộ phận ngoại kiều: người Hoa, người Ấn Độ, đông đảo nhất là kiều dân Pháp. Họ không phải là chủ thể văn hóa Việt Nam. Song sự hiện diện của họ giữa lòng cộng đồng người Việt tạo ra sự giao thoa trực tiếp của chủ thể các nền văn hóa khác nhau. Điều đó dẫn đến sự xuất hiện ngày càng đông đảo những con người mới với cách tư duy mới và cách hành xử mới khác văn hóa truyền thống. Chẳng hạn như quan hệ giữa các quan cai trị người Pháp và người Việt trong bộ máy chính quyền thuộc địa (Hội đồng cơ mật, Hội đồng bảo hộ, Hội đồng thuộc địa, Hội đồng dân biểu…); quan hệ giữa tư sản nước ngoài với tư sản dân tộc, quan hệ giữa chủ và thợ, quan hệ giữa tư sản và vô sản, quan hệ giữa thầy và trò trong hệ thống trường học. Các mối quan hệ này tác động vào chủ thể văn hóa Việt Nam thúc đẩy quá trình biến đổi chủ thể văn hóa theo hướng văn minh phương Tây. 5 2.Về văn hóa vật chất công cuộc khai thác thuộc địa của tư bản Pháp đã tạo nên một hệ thống cơ sở vật chất mới, hiện đại ứng dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật Phương Tây vào đất nước ta. Những cơ sở vật chất của kinh tế tư bản mọc lên trên nền móng của nền nông nghiệp truyền thống đã tạo ra diện mạo mới của nền văn hóa vật chất Việt Nam những thập niên đầu thế kỉ XX. Trên lĩnh vực nông nghiệp đã xuất hiện những cơ sở vật chất mới, đó là hệ thống thuỷ nông mới ứng dụng khoa học kĩ thuật nông nghiệp phương Tây . Lần đầu tiên người nông dân Việt Nam được thấy dẫn thuỷ nhập điền bằng máy thay cho tát nước gầu dây, gầu sòng truyền thống. . Để khai thác triệt để giá trị thặng dư của đất, thực dân Pháp đã xây dựng nhiều công trình thuỷ lợi lớn phục vụ tưới tiêu đồng ruộng. 7 . Tiếp cận và học tập cách làm ăn của giới tư sản Pháp, tư sản Việt Nam tham gia hoạt động trong các ngành công nghiệp theo hướng độc lập. Nhiều nhà máy,xí nghiệp, nhà xưởng của tư sản Việt Nam được xây dựng trên khắp đất nước. Trần Văn Giàu. Tuyển tập, Nxb Giáo dục Hà Nội, 2001, tr. 627. 8 Nguyễn Văn Khánh. Cơ cấu kinh tế xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858 - 1945), Nxb Chính trị Quốc gia, 1999, tr.108. 7 nghệ lò đứng công suất thấp sang công nghệ lò quay công suất cao. Ngành khai mỏ trang bị máy móc hiện đại hơn, công nhân Việt Nam đã tiếp xúc với máy móc hiện đại như máy phá khoáng, máy khoan chạy bằng khí nén, búa khoan, cuốc máy, máy rạch đập bằng khí nén, máy chạy điện, đầu máy hơi nước… Đời sống vật chất của nhân dân xuất hiện nhiêu tiện nghi mới. Từ cái ăn, cái mặc đến nhà ở đều có đan xen những yếu tố mới. Bánh mì, pho mát, xúp, nước đá, bia, xôđa…những món ăn nước uống của người Âu đã xen vào khẩu vị ẩm thực của người Việt Nam. Các phương tiện giao thông bằng xe hơi, tàu hoả, tàu điện được người dân sử dụng. Tất cả các cơ sở vật chất trên đây đã bổ sung vào văn hóa truyền thống thuần nông những yếu tố mới của văn hóa công thương, tạo dựng lên một diện mạo mới cho văn hóa vật chất Việt Nam đầu thế kỷ XX. 3. Về văn hóa tinh thần Tiếp xúc văn hóa phương Tây, tư duy văn hóa truyền thống bị lay động. Người Việt Nam đã hình thành một cách tư duy mới - tư duy phân tích. Trên nền tảng tư duy tổng hợp của văn hóa Phương Đông, người Việt Nam tiếp nhận cách tư duy phân tích, bổ sung vào văn hóa nhận thức của mình để ứng xử với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội một cách khoa học hơn. Người ta nhìn nhận sự việc một cách biện chứng hơn, chứ không bất biến như nho gia xưa sao nay vậy. Với cách tư duy văn hóa mới, người Việt đã chọn lọc và học tập những giá trị tốt đẹp của chế độ dân chủ cộng hòa, để vừa bảo tồn được giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc vừa tiếp nhận được thành tựu văn hóa tiến bộ của nhân loại. Trong thư gửi toàn quyền Đông Dương Lương Trúc Đàm đã xác nhận: "những điều dân chủ, cộng hòa, bình đẳng, tự do... đã thấm vào trong óc người nước tôi”12. Với cách tư duy mới người Việt Nam đã tin "hoàn toàn có thể học hỏi để nắm bắt tư duy Tây Âu, một khi đã có ý mệnh về văn hóa và văn học, nghệ thuật Pháp và Tây Âu, người mình hoàn toàn có đủ năng lực để sáng tạo được một nền văn học và một nền văn hóa dân tộc hiện đại”13. Cách nhìn nhận phong tục tập quán đã khác trước. Một mặt tôn vinh bản sắc tinh tế riêng biệt của văn hóa dân tộc qua các lễ hội, sinh hoạt gia đình, tình làng, nghĩa xóm, đạo thầy trò, nghĩa cha con, vợ chồng, đề cao sự khoáng đạt bao dung, thủy chung nhân hậu của văn hóa truyền thống. Mặt khác đã phê phán nhẹ nhàng những hủ tục lạc hậu. Xuất hiện những hành vi ứng xử mới trong phong tục như thay đổi cách đặt tên cho con, dùng tên của những loài hoa đẹp hoặc ước vọng của cha mẹ đặt tên cho con, chứ không phải chỉ là thằng cu, con thẽm nữa. Đem hoa ra viếng mộ để tưởng nhớ người đã khuất. Ở thành thị đơn giản hóa ngày tết. Trong hôn nhân con cái được tự do yếu đương, không nhất thiết phải môn đăng hộ đối, không nên phân biệt giàu nghèo, cha mẹ không cưỡng ép duyên con cái nặng nề như trước. Nhìn nhận về Nho giáo có những điểm mới: Vừa thấy cái hay, cái mạnh của Nho giáo, làm cho nước nhà có kỷ cương, dân hưởng thái bình, “giúp con người tu dưỡng đạo đức cá nhân". Nhưng cũng thấy cái yếu là dễ nhu nhược, kỹ nghệ thô sơ, nên cạnh tranh không mạnh. Với cách nghĩ ấy người ta coi việc tiếp xúc với văn hóa Phương Tây là dịp tiến hóa của văn hóa dân tộc. Với những nhận thức mới ấy hoạt động văn hóa tinh thần đầu thế kỷ XX mang một tầm vóc mới. Thành tựu quan trọng bậc nhất là xây dựng được chữ viết của dân tộc: Chữ Quốc ngữ. Trong quá trình giao thoa với văn hóa Pháp, người Việt Nam đã nâng chữ quốc ngữ thành quốc tự - chữ viết phổ thông của dân tộc. Làm phong phú thêm ngôn ngữ dân tộc bằng cách du nhập hoặc phiên âm tiếng nước ngoài để dần dần du nhập vào tiếng Việt để diễn tả những khái niệm mới của thời đại. Kho tàng chữ quốc ngữ ngày càng phong phú hơn bởi các trước tác của lực lượng nghiên cứu và sáng tác mới những thập niên đầu thế kỷ XX Người việt coi: "Chữ quốc ngữ là hồn của nước Phải đem ra tính trước dân ta Sách Âu Mỹ, sách China Chữ kia chữ nọ dịch ra cho tường". Môn Quốc ngữ trở thành một môn thi trong các kỳ thi Hương. Nhờ chữ quốc ngữ, Việt Nam đã xây dựng được một nền văn chương đẹp đẽ, độc đáo bằng tiếng mẹ đẻ gồm các thể loại báo chí, văn học (thơ mới, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch nói). 17 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr.25 14 Có thể nói Nguyễn Ái Quốc là đại diện tiêu biểu cho thế hệ người Việt Nam đã chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại, bổ sung vào nền văn hóa tinh thần của dân tộc những yếu tố mới, đặt nền móng cho nền văn hóa dân tộc hiện đại ngày nay. Từ sự trình bày trên cho thấy ba thập niên đầu của thế kỷ XX văn hóa Việt Nam đã hội nhập vào văn hóa nhân loại nhất là văn hóa Phương Tây trên các phương diện vật chất và tinh thần. Người Việt nam đã chọn lọc những tinh hoa văn hóa tốt đẹp của nhân loại, bổ sung vào nền văn hóa truyền thống của dân tộc làm cho nó đẹp hơn, hiện đại hơn. Đến năm 1930 văn hóa Việt Nam đã lật sang trang mới với chủ thể văn hóa mới, nội dung hoạt động văn hóa mới đã bước đầu xây dựng được nền tảng của nền văn hóa dân tộc hiện đại, khoa học và đại chúng. Sự tiếp biến văn hóa Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XX để lại những bài học kinh nghiệm quý báu cho vấn đề hội nhập hôm nay để xây dựng một nền văn hóa hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc trong điều kiện mới.