Professional Documents
Culture Documents
Quản Trị Học - GA01
Quản Trị Học - GA01
* Một cách tổng quát: quản trị là hoạt động cần thiết phải được thực hiện khi con
người kết hợp với nhau trong các tổ chức nhằm đạt được những mục tiêu chung.
* Theo nghĩa hẹp: Quản trị là sự tác động của chủ thể quản trị lên đối tượng quản
trị nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong điều kiện biến động của môi trường
b. Mục đích của quản trị.
* Hoạt động quản trị là để cùng làm việc vì mục đích chung. Mục đích đó có thể là
kỹ thuật, giáo dục, y tế hay xã hội và các tập thể đó có thể là một cơ sở sản xuất, một công
ty kinh doanh xuất nhập khẩu, hoặc một cơ quan Nhà nước làm công việc hành chính.
* Về căn bản mục tiêu của quản trị trong các cơ sở kinh doanh và phi kinh doanh là
như nhau. Cũng giống như ở mọi cấp: Chủ tịch công ty, Giám đốc sở công an, Trưởng
khoa ở các trường đại học, Giám mục xứ họ đạo… với tư cách là các nhà quản trị đều có
cùng một loại mục tiêu. Các mục tiêu của họ có thể khác nhau, và mục đích ấy khó xác
định và khó hoàn thành hơn với tình huống này so với tình huống khác, nhưng mục tiêu
quản trị là như nhau.
* Khác với công việc quản trị cụ thể, quản trị học lại là khoa học nghiên cứu, phân
tích về công việc quản trị trong tổ chức, tức là tìm ra và sử dụng các quy luật trong các hoạt
động quản trị để duy trì và tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức hoạt động có hiệu quả. Mặt
khác trong quá trình quản trị con người hoạt động trong những mối quan hệ nhất định với
nhau. Như vậy, nghiên cứu quản trị cũng có nghĩa là nghiên cứu quan hệ giữa con người
với con người trong quá trình đó, tìm ra tính quy luật hình thành quan hệ quản trị. Nói cách
khác quản trị học là khoa học nghiên cứu phân tích công việc quản trị trong tổ chức, tổng
kết hoá các kinh nghiệm tốt thành nguyên tắc và lý thuyết có thể áp dụng cho các tình
huống quản trị tương tự. Mục tiêu của quản trị học là nhằm giúp chúng ta có những kiến
thức và kỹ thuật cần thiết để gia tăng hiệu quả trong các hoạt động tập thể, kinh doanh
hoặc không kinh doanh.
c. Tầm quan trọng của quản trị.
Quản trị là hoạt động cần thiết phải được thực hiện khi con người kết hợp với nhau
trong các tổ chức nhằm đạt được những mục tiêu chung. Hoạt động quản trị là những hoạt
động chỉ phát sinh khi con người kết hợp với nhau thành tập thể, nếu mỗi cá nhân tự mình
làm việc và sống một mình không liên hệ với ai thì không cần đến hoạt động quản trị.
Quản trị là nhằm tạo lập và duy trì một môi trường nội bộ thuận lợi nhất, trong đó
các cá nhân làm việc theo nhóm có thể đạt được một hiệu suất cao nhất nhằm hoàn thành
mục tiêu chung của tổ chức. Khi con người hợp tác lại với nhau trong một tập thể cùng làm
việc, nếu biết quản trị thì triển vọng và kết quả sẽ cao, chi phí sẽ thấp. Trong hoạt động
kinh tế nhất là trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt, người ta phải hạn chế
chi phí và gia tăng kết quả. Các hoạt động quản trị là cần thiết vì sẽ giúp gia tăng hiệu quả.
Có thể nói rằng lý do tồn tại của các hoạt động quản trị chính là hiệu quả và chỉ khi nào
người ta quan tâm đến hiệu quả thì người ta mới thực sự quan tâm đến hoạt động quản trị.
Mục tiêu của hoạt động quản trị có thể là các mục tiêu kinh tế, giáo dục, y tế hay xã
hội, tuỳ thuộc vào tập thể mà trong đó hoạt động quản trị diễn ra, có thể đó là một cơ sở
sản xuất, cơ sở kinh doanh, cơ quan công quyền, một trường học.
1.1.2. Bản chất của quản trị
a. Quản trị là khoa học
Quản trị là một hiện tượng xã hội xuất hiện cùng một lúc với con người, nó biểu
hiện trong mối quan hệ giữa con người với con người. Từ rất xa xưa, đó là mối quan hệ
giữa chủ nô và kẻ nô lệ, giữa chủ và tớ, rồi tiến hoá dần dần qua nhiều thế kỷ với ít nhiều
thay đổi từ trong cách sử sự đầy làm quyền dưới các chế độ độc tài, phong kiến mang tính
chất độc đoán, gia trưởng đến ý tưởng quản trị dân chủ mới mở như hiện nay. Trên phương
diện khoa học và hoạt động thực tiễn nó thực sự phát triển mạnh từ thế kỷ 19 đến nay.
Sự tiến bộ và phát triển hoạt động quản trị tại Hoa Kỳ để hiểu rõ ý nghĩa của khoa
học quản trị hiện đại trong hoàn cảnh hiện nay.
Năm 1840, con người có thể trở thành quản trị viên khi người đó là chủ sở hữu một
cơ sở làm ăn dần dần việc sử dụng những quản trị viên không phải là sở hữu chủ trở nên
phổ biến. Họ là người đi tiên trước nhiều thế lực và tự dành cho mình quyền lực kiểm soát.
Khoảng năm 1980 nhiều liên hiệp Xí nghiệp xuất hiện kéo theo nhiều đạo luật được
ban hành để quy định quyền hạn và trách nhiệm của những liên hiệp xí nghiệp này Rất
nhiều luật gia tham gia vào các địa vị then chốt của công tác quản trị với trách nhiệm theo
luật định dành cho thế giới này.
Năm 1910 Tại Hoa Kỳ đạo luật quy định hoạt động của tờ Trust ra đời. Sự kiện này
ảnh hưởng tới chiều hướng phát triển của các hiệp hội doanh nghiệp. Đồng thời với sự hình
thành các tập đoàn tài chính , những ngân hàng xuất hiện với tư cách là những “giám đốc
hay tổng giám đốc” của những doanh nghiệp lớn.
Như vậy quản trị ra đời cùng với sự xuất hiện của sự hợp tác và phân công lao động.
Đó là yêu cầu tất yếu khách quan. Tuy nhiên, khoa học quản trị hay “ quản trị học” chỉ mới
xuất hiện những năm gần đây và người ta coi quản trị học là ngành khoa học mới mẻ của
nhân loại
Kể từ năm 1945 có nhiều cuốn sách lớn, nhỏ, sách giáo khoa và bài báo đã được
viết, nhiều diễn đàn, diễn văn, nhiều buổi báo cáo seminal, nhiều hội nghị, lớp học đã được
tổ chức để bàn về vấn đề quản trị hơn tất cả những gì đã đề cập từ trước đến nay trong lịch
sử nhân loại. Ngày nay rất khó cho những ai muốn đọc hết tất cả những gì được in ấn trong
lĩnh vực này.
Những tác phẩm xuất sắc này với những công trình nghiên cứu nổi tiếng khác đã đặt
cơ sở lý luận cho khoa học quản trị hiện đại.
- Quản trị học ngày nay đã phát triển mạnh mẽ và trở thành một môn khoa học độc
lập. Trong quá trình phát triển của mình, quản trị học đã kết hợp với nhiều môn khoa học
khác, sử dụng những luận điểm và thành tựu của chúng để giải quyết nhiều vấn đề của lý
luận thực tiễn quản trị.
- Tính khoa học của quản trị xuất phát từ tính quy luật của các quan hệ quản trị trong
quá trình hoạt động của tổ chức, những quy luật này được nhà quản trị nhận thức và vận
dụng trong quá trình quản trị tổ chức để giúp họ đạt được kết quả mong muốn đã định.
Tính khoa học của quản trị đòi hỏi các nhà quản trị phải nắm vững những quy luật liên
quan đến hoạt động của tổ chức – Nắm được quy luật thực chất là nắm được hệ thống lý
luận của về quản trị
- Đồng thời tính khoa học của quản trị còn đòi hỏi các nhà quản trị phải biết vận dụng
các phương pháp đo lường định lượng hiện đại, vận dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào hoạt động quản trị.
Quản trị học dựa trên cơ sở lý luận của triết học, kinh tế để phát triển gắn bó chặt
chẽ với nhiều môn học kinh tế cụ thể như kinh tế công nghiệp, kinh tế nông nghiệp, kinh
tế thương nghiệp, kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân, kinh tế và tổ chức sản xuất các xí
nghiệp, tổ chức lao động khoa học. Quản trị học cũng phát triển trong mối quan hệ gắn bó
chặt chẽ với khoa học thống kê, hạch toán kế toán, tài chính, phân tích hoạt động kinh
doanh, Marketing, kinh doanh quốc tế…
Quản trị học cũng có nhiều thành tựu của các ngành khoa học tự nhiên và khoa học
kỹ thuật như toán học, Điều khiển học, Tin học, Công nghiệp học…
Quản trị học còn áp dụng nhiều luận điểm và kết quả nghiên cứu của môn xã hội
học, Tâm lý học, giáo dục học, Luật học…
b. Quản trị là một nghệ thuật
- Người ta thường xem quản trị là một nghệ thuật còn người quản trị là người nghệ sĩ
tài năng. Muốn có nghệ thuật quản trị điêu luyện người ta phải rèn luyện được kỹ năng
biến lý luận thành thực tiễn.
- Nghệ thuật bao giờ cũng phải dựa trên sự hiểu biết khoa học làm nền tảng cho nó.
Khoa học và nghệ thuật quản trị không đối lập nhau, loại trừ nhau mà chúng bổ sung cho
nhau. Khoa học có phát triển thì nghệ thuật quản trị mới cải tiến theo.
- Tính nghệ thuật của quản trị xuất phát từ: Tính đa dạng, phong phú của sự vật và
hiện tượng trong kinh tế – xã hội và trong quản trị; Không phải loài người đã nhận thức
được đầy đủ các quy luật và ngay cả các hiện tượng, sự kiện cũng đều tuân theo các quy
luật do đó khi vận dụng các quy luật vào hoạt động quản trị thì người quản trị phải biết linh
hoạt, khéo léo vận dụng trong từng tình huống cụ thể.
- Trên phương diện lý thuyết cũng như trong thực tế người ta nghiên cứu nghệ thuật
quản trị từ những kinh nghiệm thành công và những kinh nghiệm thất bại trong quản trị.
Vai nhích - Một quản trị gia nổi tiếng nói: Việc nghiên cứu những thất bại còn quan trọng
hơn là việc nghiên cứu thành công, bởi vì thành công có thể sẽ được lặp lại hay không lặp
lại, còn thất bại, sai lầm thì nhất thiết không được để cho lặp lại.
Không nên quan niệm nghệ thuật quản trị là kinh nghiệm cha truyền con nối. Cũng
không phủ nhận khoa học quản trị, thổi phồng mặt nghệ thuật của quản trị. Sẽ là sai lầm
khi cho rằng người lãnh đạo là một loại nghệ sĩ tài năng bẩm sinh không ai có thể học được
cách lãnh đạo. Cũng không ai có thể dậy được nếu người học không có năng khiếu. Nghệ
thuật quản trị sinh ra từ trái tim và năng lực của bản thân cá nhân.
Liên hệ giữa khoa học và nghệ thuật quản trị, cái gì đối với người lãnh đạo là quan
trọng: Khoa học hay nghệ thuật quản trị?
- Chúng ta có thể hiểu như sau: Khoa học là sự hiểu biết kiến thức có hệ thống, có
nghệ thuật là sự tinh lọc kiến thức. Nghệ thuật quản trị trước hết là tài nghệ của nhà quản
trị trong việc quyết định những nhiệm vụ đề ra một cách khéo léo và có hiệu quả cao nhất.
Ở đây muốn nói đến tài năng của quản trị gia, năng lực tổ chức, kinh nghiệm giúp họ giải
quyết sáng tạo suất sắc nhiệm vụ được giao.
- Nghệ thuật quản trị liên quan mật thiết với khái niệm “điển hình quản trị”, “tình
huống cụ thể”. Những kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước là những
nguồn vô tận của các “điển hình”giải quyết sáng tạo khéo léo nhiều vấn đề quản trị khó
khăn, phức tạp.
Phân loại, nêu lên một số điển hình của nghệ thuật quản trị sau:
+ Nghệ thuật sử dụng con người (đặt đúng chỗ, sử dụng đúng khả năng)
+ Nghệ thuật mua hàng (làm sao mua được NVL rẻ, tốt, nhanh…)
+ Nghệ thuật lắng nghe.
+ Nghệ thuật tích luỹ và sử dụng vốn.
+ Nghệ thuật khai thác tiềm năng, giải quyết các khó khăn, ách tắc trong sản xuất, kinh
doanh;
+ Nghệ thuật bán hàng (câu khách)
+ Nghệ thuật ra quyết định (nhanh, đúng, kịp thời) và thực hiện quyết đinh (sáng tạo, linh
hoạt)
*Phân loại
- Vai trò quan hệ với con người: Sống và làm việc trong một tổ chức các cá nhân
thường có quan hệ chặt chẽ và mật thiết với nhau, nhưng với tư cách là nhà quản trị họ
thường có những vai trò sau:
+ Vai trò đại diện, tương trưng có tính chất nghi lễ trong tổ chức
+ Vai trò của người lãnh đạo, nó đài hỏi nhà quản trị phải phối hợp và kiểm tra công
việc của nhân viên dưới quyền.
+ Vai trò quan hệ với con người là vai trò liên hệ, quan hệ với người khác, ở trong hay
ngoài tổ chức, để góp phần hoàn thành công việc được giao cho đơn vị họ.
- Vai trò thông tin: Trong thời đại bùng nổ thông tin, thông tin được xem là nguồn
lực căn bản thứ tư ở mọi tổ chức , doanh nghiệp. Các hoạt động quản trị chỉ thực sự có cơ
sở khoa học và hiệu quả khi nó được sử lý, được thực thi trên cơ sở các thông tin chính
xác, đầy đủ, kịp thời. Thông tin không chỉ cần cho các nhà quản trị mà chính bản thân họ
cũng giữ những vai trò cực kỳ quan trọng trong lĩnh vực này. Nghiên cứu về vai trò thông
tin chúng ta thấy:
+ Vai trò thu thập tiếp nhận các thông tin liên quan đến tổ chức và hoạt động của đơn
vị
+ Vai trò phổ biến thông tin liên hệ đến người có liên quan, có thể là thuộc cấp, người
đồng cấp hay thượng cấp.
+ Vai trò nhà quản trị đảm nhiệm là vai trò thay mặt tổ chức để cung cấp thông tin cho
các bộ phận trong cùng một đơn vị, hay cho các cơ quan bên ngoài. Mục tiêu của sự thay
mặt phát biểu này có thể là để giải thích, bảo vệ hay tranh thủ thêm sự ủng hộ cho tổ chức
- Vai trò quyết định: gồm 4 vai trò: vai trò chủ trì, vai trò người giải quyết xáo trộn,
vai trò người phân phối tài nguyên, vai trò nhà thương thuyết.
+ Vai trò chủ trì xuất hiện khi nhà quản trị tìm cách cải tiến hoạt động của tổ chức. Việc
này có thể được thực hiện bằng cách áp dụng một số kỹ thuật mới vào tình huống cụ thể,
hoặc nâng cấp điều chỉnh một kỹ thuật đang áp dụng.
+ Vai trò giải quyết xáo trộn, nhà quản trị phải kịp thời đối phó với những biến cố bất
ngờ nhằm đưa tổ chức sớm trở lại sự ổn định. So với các vai trò khác thì vai trò này chiếm
vị trí ưu tiên hơn trong các quyết định mà nhà quản trị cần phải giải quyết.
+ Khi nhà quản trị ở trong tình huống phải quyết định nên phân phối tài nguyên cho
ai với số lượng như thế nào, thì lúc đó nhà quản trị đóng vai trò nhà phân phối tài nguyên.
Tài nguyên đó có thể là tiền bạc, thời gian, quyền hành, trang thiết bị, hay con người.
Thông thường khi tài nguyên dồi dào, mọi nhà quản trị có thể thực hiện vai trò này
một cách dễ dàng. Nhưng khi tài nguyên khan hiếm, quyết định của nhà quản trị trong vấn
đề này sẽ khó khăn hơn, nó có thể ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động của một đơn vị
thậm trí của toàn tổ chức.
+ Nhà quản trị đóng vai trò của một nhà thương thuyết, đàm phán thay mặt cho tổ
chức trong quá trình hoạt động.
Các cuộc thương lượng có thể là về công việc, về tiền bạc, thời gian hay bất cứ điều
gì có ảnh hưởng đến bộ phận của mình. Mục đích của thương lượng là tìm ra giải pháp
chấp nhận được của các bên có liên quan.và điều hiển nhiên là phải có lợi nhất cho đơn vị
mình.
Tóm lại: Với chức năng và vai trò của mình, nhà quản trị giữ phần quan trọng trong
sự thành công hay thất bại của một tổ chức. Và đó cũng là lý do chính của nhu cầu cấp
bách phải đào tạo các nhà quản trị, vì sự phát triển kỹ thuật xã hội của đất nước.
* Kỹ năng của nhà quản trị
- Kỹ năng kỹ thuật hoặc chuyên môn nghiệp vụ: Thảo chương trình điện toán, soạn
thảo hợp đồng pháp lý kinh doanh, thiết kế cơ khí,… Là những kỹ năng rất cần cho QTV
cấp cơ sở hơn là QTV cấp trung gian hoặc QTV cấp cao.
- Kỹ năng nhân sự: Liên quan đến khả năng cùng làm việc, động viên và điều khiển
nhân sự. Một vài kỹ năng cần thiết cho bất cứ QTV nào là có thái độ quan tâm đến người
khác, xây dựng không khí hợp tác trong lao động, biết cách tác động và hướng dẫn nhân
sự trong tổ chức để hoàn thành các kết quả kỳ vọng. Kỹ năng nhân sự đối với mọi cấp QTV
đều cần thiết như nhau trong bất cứ tổ chức nào dù là phạm vi kinh doanh hay phi kinh
doanh.
- Kỹ năng nhận thức hay tư duy: Là cái khó hình thành và là một trong những kỹ
năng khó nhất nhưng nó có vai trò đặc biệt quan trọng nhất là đối với các nhà QTV cao
cấp. Họ cần có tư duy chiến lược tốt để đề ra đúng đường lối chính sách đối phó có hiệu
quả đối với những bất trắc, đe dọa, kìm hãm sự phát triển đối với tổ chức.
Mức độ quan trọng của các kỹ năng quản trị đối với mỗi cấp quản trị được trình bầy ở hình
sau:
Kỹ năng kỹ thuật
Kỹ năng nhân sự
Kỹ năng tư duy
Nhìn vào sơ đồ trên ta thấy ngay rằng ở những cấp quản trị càng cao thì cần nhiều
những kỹ năng tư duy, ngược lại ở những cấp quản trị càng thấp thì càng cần nhiều những
kỹ năng về chuyên môn kỹ thuật. Kỹ năng về nhân sự thì ở cấp nào cũng cần và cũng đều
quan trọng.
Khi tiến hành hoạt động kinh doanh trong điều kiện bùng nổ thông tin như ngày
nay, cùng với sự quốc tế hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra hết sức nhanh chóng, nhưng
kỹ năng trên là rất cần thiết cho một nhà quản trị.
1.2. VĂN HOÁ TỔ CHỨC VÀ MÔI TRƯỜNG QUẢN TRỊ
1.2.1. Văn hoá tổ chức
a. Khái niệm và các yếu tố của văn hoá tổ chức
* Khái niệm
Có lẽ vì bản chất trừu tượng nên đã có nhiều khái niệm về văn hóa tổ chức được
đưa ra.
Văn hóa tổ chức là thói quen, cách nghĩ truyền thống và cách làm việc trong tổ chức
được chia sẻ bởi tất cả các thành viên trong tổ chức (Elliott Jaques, 1952).
Văn hóa tổ chức là hệ thống những ý nghĩa chung được chấp nhận rộng rãi bởi
những người lao động trong thời gian nhất định (Adrew Pettgrew, 1979)