« Home « Kết quả tìm kiếm

Những giới hạn tiếp nhận tiểu thuyết "BÀ BOVARY" ở Việt Nam


Tóm tắt Xem thử

- NHỮNG GIỚI HẠN TIẾP NHẬN BÀ BOVARY Ở VIỆT NAM QUA TRƯỜNG HỢP CÁC BẢN DỊCH Phùng Kiên (1) Nàng đã đọc truyện Pôn và Viêcgini.
- Chúng ta có trước mặt hai bản dịch một đoạn văn của nhà văn Pháp thế kỷ XIX Gustave Flaubert trong tác phẩm Bà Bôvary (1856).
- Thế mà sau đó tác phẩm lại được coi là một trong những kinh điển của văn học Pháp thế kỷ XIX, tới mức R.
- Cho đến giờ dù Flaubert không được đọc một cách rộng rãi như Balzac hay Hugo, nhưng ông vẫn luôn được coi là một trong những tác giả kinh điển của văn học Pháp.
- Flaubert được công chúng Việt Nam - chủ yếu là các nhà văn - biết đến từ những năm hai mươi, nhưng phải đợi cho đến tận những năm bảy mươi mới có được bản dịch đầy đủ đầu tiên do hai dịch giả Trọng Đức và Bạch Năng Thi 4 thực hiện.
- Hai bản dịch này đều được thực hiện, in và phát hành độc lập tại cùng một nhà xuất bản (Văn học) trong cùng một năm 1978.
- Có thể có nhiều lý do về mặt xã hội học để giải thích mà chúng tôi sẽ tìm hiểu về sau, nhưng chắc chắn nó cho phép chúng ta khảo sát một cách cặn kẽ và khách quan sự khác biệt hai bản dịch với tư cách hai chứng cớ về cách đọc và hiểu một tác phẩm văn học nước ngoài trong cùng một thời điểm ở cùng một không gian văn hóa – địa lý.
- Thoạt nhìn, hai đoạn bản dịch này không khác nhau nhiều, ngoại trừ một số tiểu tiết nằm ở cách dùng từ, đó là việc sử dụng đại từ nhân xưng.
- Bản dịch của Trọng Đức dùng chữ ta, còn của Bạch Năng Thi dùng anh để dịch vous (ngôi thứ hai số nhiều) của Flaubert.
- 1 Thế mà nếu đọc kỹ, không khó để nhận ra rằng bản dịch của Bạch Năng Thi gặp một lỗi liên quan đến ngữ nghĩa văn bản : xuất hiện trong lời kể chuyện một nhân vật anh nào đó.
- Nhưng như thế, dường như trong văn bản này có sự xung đột về nghĩa.
- Ông có lẽ là một trong những người đầu tiên có cả một chuyên luận công phu về một tác giả văn học phương Tây 5.
- Vấn đề về dịch được đặt ra ở đây với tư cách tiếp nhận văn bản chứ không chỉ dừng lại ở việc dịch sai hay đúng.
- Jauss 8 nhân nói đến những giới hạn tiếp nhận của người đọc, ông chánh án Pinard – người đã đọc bản luận tội tiểu thuyết của Flaubert năm 1857 - đã bị “ lừa” khi đọc tiểu thuyết của Flaubert.
- Cho nên câu chuyện đáng phải ra tòa vì đã xâm hại đến phong hóa khi chính người kể chuyện đứng ra ca ngợi cái chuyện đáng ra chỉ nên thuộc về một thế giới khác với người đọc đương thời.
- Người kể chuyện khi đó trò chuyện, kể lại “câu chuyện” với một người đọc giả định (destinataire/narrataire).
- Ngay Flaubert cũng vẫn sử dụng kiểu điểm nhìn bao quát này trong văn bản của mình.
- Ví như trong chương một miêu tả cảnh thị trấn Yonville của phần hai tiểu thuyết Bà Bôvary, Flaubert dùng chữ vous (ngôi thứ hai số nhiều) dành cho một người đọc giả định thông thường: “Au bas de la côte, après le pont, commence une chaussée plantée de jeunes trembles, qui vous mène en droite ligne jusqu'aux premières maisons du pays”.
- Trong các tiểu thuyết truyền thống đó, người kể chuyện đối thoại với một người đọc quy ước đại diện bằng đại từ vous (ngôi 3 thứ hai số nhiều không phân biệt giống), và tất nhiên là động từ ở thời hiện tại (présent).
- Hai đại từ được dùng ở hai bản dịch tuy khác nhau nhưng đều thỏa mãn cái mà các nhà nghiên cứu tự sự học ở Pháp gọi là quy ước đọc10 và tất nhiên chấp nhận được trong tiếng Việt.
- Bạch Năng Thi dịch là: “Dưới chân dốc, sau cái cầu là bắt đầu một con đường cao trồng liễu hòan diệp non dẫn khách thẳng tới những ngôi nhà đầu tiên của địa phương” 11 Trọng Đức khác một chút : “Dưới chân dốc, sau một cái cầu, bắt đầu một con đường cao trồng liễu hoàn điệp non dẫn anh thẳng tới những ngôi nhà đầu tiên của địa phương”12 Vài nét nói qua về cách sử dụng ngôn từ để thấy rằng sự xuất hiện của động từ ở tương lai gần trong văn bản kể của Flaubert là một ngoại lệ của truyện kể Pháp thế kỷ XIX.
- Những ngoại lệ ấy - vốn tạo thành những đứt gãy ngầm trong văn bản kể - không đơn thuần xuất phát từ sự nhầm lẫn của nhà văn mà từ một nguyên tắc mới nhìn nhận cuộc sống của ông.
- Nguyên tắc ấy dường như nằm ngoài “giới hạn tiếp nhận” của các dịch giả Việt Nam những năm bảy mươi.
- Nói cách khác, trong văn bản của Flaubert bên cạnh những chi tiết rất quen thuộc, rất truyền thống, người dịch phải đối mặt với hai “văn phong” khác hẳn nhau cùng tồn tại trong một văn bản: sự xuất hiện của một cách viết (écriture) mới, không giống như của Balzac hay Hugo.
- Chữ này trong văn bản có thể chỉ định tới nhân vật Paul trong tác phẩm lãng mạn nổi tiếng Paul và Virginie của Bernardin de Saint-Pierre mà người kể chuyện vừa mới nhắc ở trên cùng với chú chó Fidèle và người da đen Domingo.
- Tất cả những điều được nêu ra rõ ràng này thực ra đều chỉ tồn tại một cách mơ hồ trong văn bản của chính Flaubert.
- Có điều về mặt thông tin ngữ nghĩa, bất cứ người đọc tiếng Pháp (francophone) nào khi đọc lướt qua văn bản cũng có thể hiểu rằng chữ “vous” là chỉ Emma.
- Cả hai dịch giả - với tư cách người đọc tiếng Pháp thông thường - hẳn cũng là như vậy nếu như họ lựa chọn cách dịch “thoáng” hay đón ý.
- Khi đó, văn bản dịch sẽ “xuôi” và không còn dấu vết “đứt gãy ngầm” nữa.
- Nhưng vì đều là những người cẩn thận, nhất là khi dịch một nhà giả kim ngôn từ như Flaubert, nên họ đều bám sát từng chữ trong văn bản gốc 16.
- Đứng ở vị trí của người “đọc kỹ” văn bản để tái tạo lại một văn bản khác bằng một thứ mã khác, cả Trọng Đức lẫn Bạch Năng Thi đều buộc phải đối diện với sự xuất hiện rất “vô lý” này khi dịch sang tiếng Việt.
- Người đọc thông thường sẽ lướt qua đoạn này, bỏ qua những mâu thuẫn.
- Những khoảng trống ngầm ẩn của văn bản mà Flaubert cố tình tạo nên bất ngờ hiện rõ trong bản dịch.
- Sự xuất hiện này đưa lời kể chuyện tích hợp yếu tố khẩu ngữ vào trong văn bản.
- Công việc dịch đã buộc người dịch với tư cách người đọc kiêm tác giả phải nói một cách tường minh cái điều mà chính tác giả trong bản gốc muốn nói một cách mơ hồ.
- Dĩ nhiên khẩu ngữ không phải là loại ngôn ngữ mà các dịch giả chờ đợi từ Flaubert.
- Trọng Đức trong lời dẫn cho bản dịch (cũng được dùng lại trong các bản dịch của Bạch Năng Thi khi tái bản) từng nhấn đi nhấn lại về mối quan tâm của nhà văn này tới ngôn ngữ trong truyện kể.
- Hẳn là dịch giả cảm thấy không ổn khi dịch sát nghĩa thành anh như của Bạch Năng Thi.
- Có điều càng về cuối văn bản tiểu thuyết, như chúng tôi đã nói, cả hai dịch giả càng tiến tới xu hướng bỏ trống đại từ này không dịch trong các đoạn kể (narration).
- Như vậy, việc dịch văn bản nghệ thuật buộc người tham gia (người dịch hay người nghiên cứu) phải bộc lộ cách tiếp nhận/cách đọc của mình thông qua việc tường minh hóa cách hiểu cá nhân và của văn hóa cộng đồng bằng một thứ mã khác.
- Lỗi văn bản của Bạch Năng Thi và cả Trọng Đức do thế không đơn thuần là một sự sai sót, hay nhầm lẫn của quá trình dịch mà liên quan đến “giới hạn tiếp nhận” của dịch giả trong tư cách người đọc mẫu văn bản đầu tiên của khối công chúng thuộc một nền văn hóa khác.
- Đó là việc hiểu và dùng khái niệm “lời gián tiếp tự do” trong giới hạn tiếp nhận của các dịch giả Việt Nam đương thời.
- với một độ giãn tự do dành cho người đọc tự quyết định - không hề mới với truyện kể trong văn học Việt Nam, tức là đối với chính các nhà nghiên cứu.
- Thực tế, lời kể gián tiếp tự do không xa lạ với các nhà nghiên cứu Việt Nam, nhưng rõ ràng cho tới những năm bảy mươi thì nó vẫn chưa được đặt vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ với tư cách một thành phần văn bản nghệ thuật.
- Khoảng cách khác biệt ở đây liên quan tới giới hạn tiếp nhận trong quá trình đọc của các dịch giả như là đối tượng của nghiên cứu văn học so sánh hay tiếp nhận văn học.
- Giới hạn tiếp nhận nên được hiểu không đơn giản theo nghĩa tiêu cực, có tính phê phán mà như một khoảng cách đọc tất yếu mà người đọc (bất kỳ ai) cũng có khi tiếp cận một văn bản.
- Không một người nào - kể cả tác giả - có thể cả quyết rằng mình nắm được trọn vẹn những điều trình bày trong văn bản nghệ thuật vốn tồn tại với tư cách một chỉnh 7 thể sống.
- Vì thế người đọc của từng khung cảnh văn hóa có “ý hướng” riêng của mình trong việc đọc một văn bản, không lệ thuộc vào tác giả.
- Cho nên câu nói nổi tiếng “Bà Bôvary, đó là tôi” không hề mang đến cho người đọc một kết luận có tính đánh giá cuối cùng về Flaubert hay tiểu thuyết đầu tay này của ông21.
- Vậy so sánh văn học hay tiếp nhận văn chương không chỉ là nói về “ảnh hưởng” mà còn nói đến “sự khác biệt” trong cách đọc và cảm nhận.
- Nói cách khác, người đọc bản dịch có sự “tự do” của chính mình nhờ vào sự khác biệt nền văn hóa để tiếp nhận tác phẩm 22.
- với tư cách vấn đề về kinh nghiệm mỹ học vào thời điểm xây dựng lại giới hạn tiếp nhận mà việc đọc một tác phẩm văn chương làm nó xuất hiện ở người đọc hiện tại cũng như ở người đọc hậu thế .
- với tư cách vấn đề liên văn bản đối diện với mối quan tâm tới chức năng các văn bản khác, những văn bản này cũng hiện diện trong giới hạn của một tác phẩm văn chương và nhận được một ý nghĩa mới nhờ sự chuyển tiếp này .
- Giới hạn tiếp nhận theo H.
- Jauss vậy là gắn với cách hiểu khác (về nội dung, về thẩm mỹ) của người đọc trong một môi trường văn hóa khác, với những tiêu chí khác.
- Eco về người đọc mẫu (lecteur modèle) bổ sung rất tốt cho quan điểm này25 từ góc nhìn của vấn đề diễn giải văn bản.
- Mỗi văn bản đều có một người đọc mẫu.
- Người đọc mẫu này có thể hiện diện trực tiếp hay gián tiếp, nhưng chắc chắn sẽ chi phối đến người tạo ra văn bản.
- Để xem xét một cách “ thực chứng” ảnh hưởng văn học hay dấu vết của người đọc mẫu lên văn bản - loại hình vốn được coi từ xưa như là “ vô bằng cớ”, chúng ta phải cần đến những nghiên cứu xã hội học26.
- Trước khi có được những thông tin như vậy, một nghiên cứu trên chính bản thân văn bản dịch sẽ cho chúng ta thấy được giới hạn tiếp nhận của người đọc đương thời.
- Bản dịch một 8 tác phẩm văn học trong một thời điểm lịch sử nào đó chính là dấu vết “thực chứng” của sự tiếp nhận này.
- Nó nằm trong hành vi chọn lựa của dịch giả với tư cách người đọc mẫu của một nền văn hóa khác.
- Việc chọn văn bản này chứ không phải văn bản kia, lựa đoạn này chứ không phải đoạn kia để giới thiệu, đi theo cách dịch này chứ không phải cách dịch kia, dùng loại từ này chứ không phải loại từ kia trong tổng thể văn bản và văn cảnh có thể lý giải được giới hạn tiếp nhận.
- Người dịch không phải là người hiểu toàn bộ văn bản, nhưng ít nhất cách hiểu của ông ta qua bản dịch thể hiện khoảng cách đọc của độc giả đương thời trước một nền văn hóa mới, khác biệt.
- Người dịch với tư cách người đọc mẫu đầu tiên của một nền văn hóa khác đã đọc và lựa chọn những yếu tố nào, xử lý chúng ra làm sao, vì sao lại xử lý như vậy… Mỗi văn bản văn học tồn tại không phải với tư cách lượng thông tin được truyền tải (byte), mà là một sinh thể.
- Vậy có thể hiểu được một nhu cầu dịch lại không phải là một quá trình “phủ định” bản dịch đã có mà thực ra là một công việc diễn giải lại văn bản trong một thời điểm và một không gian văn hóa mới 27.
- Mỗi người đọc-dịch có cách đọc khác nhau và khả năng diễn đạt khác nhau.
- Việc diễn đạt của dịch giả cũng bộc lộ sự quy định của ngôn ngữ đương thời đối với dịch giả - người đọc mẫu.
- Điều này làm cho một bản dịch - đặc biệt với bản dịch văn học - rõ ràng không đơn thuần chỉ là một bức tranh chép như trong hội họa.
- Vậy, quá trình chuyển ngữ văn bản văn học làm bộc lộ giới hạn tiếp nhận của dịch giả với tư cách trước hết là của một người đọc.
- Robert-Jauss trong Vì một công việc nghiên cứu giải thích văn học nhắc lại ý kiến của Gadamer cho rằng “việc hiểu luôn bao gồm việc bắt đầu một cách diễn giải và diễn giải do vậy là hình thức dễ thấy của việc hiểu cũng như ý kiến cho rằng tiến trình hiểu luôn hiện thực hóa cái gì đó giống như việc áp dụng của văn bản vào tình huống hiện tại của việc diễn giải” 28.
- Jakobson, việc dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác không phải là việc thay thế các văn bản bằng các đơn vị riêng lẻ mà bằng trọn vẹn thông báo của ngôn ngữ đó.
- Người dịch - với tư cách người đọc mẫu - sẽ phải là người tiếp nhận được tối đa những ý tưởng của người viết để truyền đạt lại.
- Nói cách khác, đó chính là người đọc mẫu của văn bản gốc trong khung cảnh văn hóa dịch.
- Hơn nữa quá trình dịch cũng buộc ngôn ngữ và văn hóa tiếp nhận bộc lộ khả năng và giới hạn.
- Trong việc so sánh hai văn bản tiếng Việt và tiếng Pháp mà chúng tôi vừa lấy làm ví dụ cho việc so sánh văn chương, hệ thống đại từ trong tiếng Việt và những cách chia động từ rắc rối trong tiếng Pháp là trường hợp dễ thấy.
- Tuy nhiên, nếu coi dịch như một hoạt động diễn giải và giải thích của quá trình đọc và dịch giả là người đọc mẫu, thì đây lại là một hàng rào rất hiệu quả buộc người kể chuyện trong bản tiếng Việt hay bản tiếng Pháp thể hiện cách đọc, hiểu và diễn giải của mình.
- Việc xuất hiện cùng lúc của hai văn bản dịch của tiểu thuyết Bà Bovary trong những năm bảy mươi vì thế có thể là một cơ hội rất tốt để xem xét một khía cạnh trong vấn đề tiếp xúc hai nền văn hóa, hai nền văn học Việt Nam và Pháp.
- Những quan sát đối chiếu hai văn bản khác nhau về mã (bản dịch và bản gốc) như vừa phân tích làm ví dụ ở trên không phải là một lời biện minh cho những bản dịch tồi đã và vẫn đang xuất hiện.
- Và thêm vào việc phê phán (mang tính phủ định) đơn thuần, nếu những nghiên cứu so sánh tiếp nhận văn hóa/văn học coi chúng như một hiện tượng xã hội tất yếu và để mắt tới chúng một cách khách quan, có thể ta còn thu hoạch được nhiều thứ hơn nữa.
- 10 1 Flaubert, Bà Bôvary, Bản dịch của Bạch Năng Thi, NXB Văn học 2000, tr.
- 2 Flaubert, Bà Bôvary, Bản dịch của Trọng Đức, NXB Văn học 1978, tr.
- Tuy nhiên vì bản phóng tác này hoàn toàn khác với văn bản gốc của Flaubert và xét theo hoàn cảnh cụ thể việc loại bỏ thông tin về nó không ảnh hưởng đến nghiên cứu về tiếp nhận được giới hạn trong bài viết về dịch thuật nên chúng tôi xin phép bàn đến văn bản kia trong một trường hợp khác.
- 5 Xem thêm Đỗ Đức Dục Hành trình văn học (Lê Phong Tuyết và Lê Thu Thủy bsoạn) NXB KHXH 2004.
- Weirich Thời gian (Le Temps - bản dịch tiếng Pháp), NXB Seuil (tủ sách Poétique) -1973 10 Contrat de lecture 11 Bản dịch của Bạch Năng Thi, sđd, tr.
- 114 12 Bản dịch của Trọng Đức, sđd, tr.108 13 Xem thêm E.
- Auerbach, Trong phòng khách nhà De la Mole cuốn Mimésis, bản dịch tiếng Pháp, Gallimard 1996.
- Auerbach về Emma khi phân tích lời gián tiếp tự do trong Trong phòng khách nhà De la Mole cuốn Mimésis, Gallimard 1996 (bản dịch tiếng Pháp của C.
- 16 Chẳng hạn Trọng Đức còn cố giữ nguyên cấu trúc câu đảo mệnh đề như ở văn bản gốc trong đoạn miêu tả nổi tiếng về chiếc mũ của Charles.
- Cũng vì thế nên người ta thường coi bản dịch của ông khô khan hơn, khó đọc hơn của Bạch Năng Thi.
- Có thể đây là gợi ý thú vị của những người có vốn văn hóa phương Tây trước hiện tượng sử dụng ngôn ngữ (langage) trong tiếng Việt.
- Bởi vì cách dịch nguyên văn này sang tiếng Việt dường như là thể hiện “chủ ý ban đầu” của tác giả đối với người đọc thông qua văn bản, còn H.
- Jaus và các nhà phê bình tiếp nhận muốn coi việc cắt nghĩa văn bản như là quyền cá nhân người đọc đứng trước văn bản.
- Xem thêm bản dịch tiếng Việt Bản mệnh của lý thuyết của Lê Hồng Sâm và Đặng Anh Đào, NXB ĐHSP 2006, tr.
- Jauss Vì một công việc chú giải văn học (Pour une herméneutique littéraire) (bản dịch tiếng Pháp của Maurice Jacob) Gallimard nrf.
- Tương tự như vậy, có rất nhiều cách “phiên âm”, cách chấm câu khác nhau, hay vấn đề chữ nào viết hoa trong các văn bản Hán Nôm mà chúng ta gặp ở Việt Nam.
- Những cách “diễn giải” sang chữ quốc ngữ thể hiện những “cách hiểu” khác nhau của từng dịch giả với các văn bản xưa.
- Về ảnh hưởng của môi trường và tính chất văn hóa / ngôn ngữ tới cả hai bản dịch này, nhà nghiên cứu - dịch giả Lê Hồng Sâm cũng nêu ra những nhận xét xác đáng trong bài viết Một chi tiết nhỏ hàm chứa vấn đề lớn tại Hội thảo quốc tế “Văn học Việt nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế”: Xem tại http://vienvanhoc.org.vn/reader/?id=107&menu=108.
- Berman, Bản dịch và bản văn (La Traduction et la Lettre), Paris, Seuil, 1999 tr.
- Xem thêm Nhiệm vụ của dịch giả trong Tác phẩm 1 (bản tiếng Pháp), W