NGHIÊN CỨU & ỨNG DỤNG
SỬ DỤNG HIỆU QUẢ TRÌNH CHIẾU POWERPOINT
VỚI PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC KHÁC
Nguyễn Xuân Trung*
SUMMARY
There have been the shortcomings for Powerpoint presentation in teaching. Therefore, first of all, we need
to clearly define its role in lectures’ process and then its styles to use them effectively. The Powerpoint
presentations which are pedagogically designed and controlled by teachers , play a role as a kind of teaching
means. It is essentially the means of audio-visual. With the ability of expressing color, text, effect, image,
attractive and lively films, it can be said that the Powerpoint presentation has made a big change for teaching
process compared with traditional blackboard-chalk. However, we can only get this effect when the Powerpoint
presentations are designed, concordantly displayed in the relation to other teaching facilities.
Keywords: Means, Powerpoint, teaching, presentation.
Ngày nhận bài: 19/12/2016 Ngày phản biện: 23/12/2016; Ngày duyệt đăng: 27/12/2016
1. Mở đầu
Hiện nay, trình chiếu Powerpoint đã được sử
dụng rộng rãi trong dạy học, tuy vậy hiệu quả của
nó vẫn là vấn đề cần phải xem xét. Các sai lầm, bất
cập khi sử dụng powerpoint slide trong dạy học trên
lớp được nói đến chủ yếu là:
- Nhiều khi chỉ thay cho viết bảng của giáo viên
[1] hay chuyển từ “giảng viên đọc - sinh viên chép”
sang “sinh viên tự nhìn vào màn hình và chép”;
- Chỉ đơn thuần chuyển nội dung (chữ viết) của
giáo án vào slide và tùy tiện chèn thêm vài hiệu ứng
hoặc nhập liệu thông tin từ giáo án có thêm hình
ảnh, đồ thị minh họa [1] hay dùng trình chiếu
Powerpoint như là cách nhắc bài cho giáo viên;
- Xem việc sử dụng trình chiếu Powerpoint
như là phương tiện hỗ trợ giải trí làm cho người học
bớt căng thẳng [3];
- Lạm dụng hiệu ứng, hình ảnh, âm thanh;
- Sai lầm khi soạn slide về cả kỹ thuật, mỹ
thuật, nội dung và cách trình bày [3];
- Coi bài giảng có trình chiếu Powerpoint là
đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng trình chiếu
Powerpoint cho toàn bộ bài giảng theo kiểu phong
trào [3];
Những vấn đề nêu trên cho thấy vai trò của trình
chiếu Powerpoint trong bài giảng chưa được hiểu
đúng, cách thiết kế, khai thác slide chưa hiệu quả và
chưa có sự phối hợp với phương tiện dạy học khác. Và
đương nhiên có sự ảnh hưởng tiêu cực đến đổi
* ThS. Trường Cao đẳng Giao thông Huế
64 • TẠP CHÍ THIẾT BỊ GIÁO DỤC - SỐ 137 - 1/2017
mới phương pháp dạy học, đến hiệu quả dạy học.
2. Vai trò của trình chiếu Powerpoint trong
dạy học
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, “bài trình chiếu
là các tệp được soạn từ các phần mềm Microsoft
Powerpoint, Open Office Impress để trình chiếu và
thuyết minh trong các hội thảo, lớp học” và “tránh
dùng thuật ngữ giáo án điện tử để chỉ các bài trình
chiếu”[2]. Như vậy, bài trình chiếu Powerpoint
không phải là “bài giảng điện tử” hay “giáo án điện
tử” như cách hiểu hiện nay của nhiều trang trang
mạng (baigiang.violet.vn, baigiang.co, elib. vn,
hotrodayhoc.com, khohoclieu.hanoiedu.vn) hay của
một số tác giả và nó giúp giáo viên thuyết minh ý
tưởng của mình. Với khả năng thể hiện màu sắc,
văn bản, hiệu ứng, hình ảnh và phim, lời giảng của
giáo viên sẽ được minh họa hấp dẫn và sinh động
hơn hẳn bảng - phấn truyền thống. Từ định nghĩa
này cũng có thể thấy rằng bài trình chiếu
Powerpoint chủ yếu đóng vai trò là một phương tiện
nghe nhìn, khai thác và sử dụng có hiệu quả hay
không là hoàn toàn do ý đồ sư phạm của giáo viên.
Mặc dù, trình chiếu Powerpoint là ứng dụng công
nghệ thông tin và đa phương tiện truyền thông,
nhưng tự thân nó hoàn toàn không có ý nghĩa quyết
định việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
tích cực. Thậm chí là ngược lại khi người học chỉ
tập trung vào nghe nhìn mà thiếu thảo luận, trao đổi.
Trong dạy học, mỗi loại phương tiện có những
ứng dụng và ưu nhược điểm khác nhau, gồm phương
tiện để hành động, phương tiện để nghe nhìn và
NGHIÊN CỨU & ỨNG DỤNG
phương tiện đọc. Cho nên, trình chiếu Powerpoint
cũng cần kết hợp với phương tiện dạy học khác để
nâng cao hiệu quả dạy học, ví dụ như bảng - phấn.
Bảng thể hiện và lưu lại đề cương, ý chính trong
suốt giờ để người học tiện theo dõi tiến trình của
bài. Bảng còn dùng để trình bày thêm những vấn đề
thảo luận, trao đổi,.. Trình chiếu thể hiện màu sắc,
văn bản, hiệu ứng, hình ảnh, phim một cách hấp dẫn
và sinh động theo lời giảng của giáo viên mà bảng
không thể hiện được và không cần phải lưu lại. Trong
giờ học, giáo viên có thể thiết kế một hoặc nhiều bài
trình chiếu tùy theo từng hoạt động. Đồng thời, các
loại dụng cụ, thiết bị, mô hình, vật thật,... (gọi chung
là thiết bị thao tác) là để người học trải nghiệm bằng
chính hành động của mình mà bảng và trình chiếu
không thể tạo ra được. Đặc biệt là với dạy học tích
hợp, kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, thì các loại
phương tiện dạy học hành động là không thể thiếu để
hình thành năng lực người học.
Nón trải nghiệm của Edgar Dale (1954) cho thấy
hoạt động học càng hiệu quả khi càng giàu tính trải
nghiệm. Do vậy, trình chiếu Powerpoint nói riêng và
phương tiện dạy học nói chung còn phải được thực
hiện với các hoạt động tích cực như thảo luận, tranh
luận, thực hành, nhập vai, mô phỏng, luyện tập, trò
chơi,...
3. Sử dụng trình chiếu Powerpoint với các
phương tiện dạy học khác
Một số tác giả đã trình bày về “cách soạn
powerpoint slide” cho hội nghị khoa học, hay “sử
dụng phần mềm Microsoft Powerpoint trong thiết kế
và thực hiện bài giảng”[3] hoặc “yêu cầu trong thiết
kế kế hoạch bài dạy với Powerpoint”. Tuy nhiên, các
tác giả này đều chỉ sử dụng trình chiếu Powerpoint
là duy nhất và liên tục trong suốt thời gian trình
bày, giảng dạy. Vì vậy, cần thiết kế bài trình chiếu
Powerpoint trong sự phối hợp hiệu quả với các
phương tiện dạy học khác, cụ thể là với bảng - phấn
và thiết bị thao tác trong một lớp học tiêu chuẩn, có
tối đa 45 người học.
3.1. Không trùng lặp nội dung
Hiện tượng thường thấy là giáo viên viết tên bài,
đề mục, ý chính lên bảng rồi sau đó trên slide cũng
xuất hiện và ngược lại. Như thế người học phải nhận
hai lần cùng một thông tin, là sự trùng lặp không cần
thiết. Hay vừa trình chiếu xong lại treo cùng một
bảng biểu, hình lên cũng vậy. Tương tự, khi giáo
viên đọc slide cũng là trùng lặp, người học vừa nghe
giáo viên đọc lại phải vừa tự đọc slide. Đọc slide còn
gây phân tán sự chú ý của người học, đồng thời cho
thấy giáo viên hoàn toàn thụ động và có thể không
am hiểu vấn đề đang trình bày. Khi đó giáo viên còn
quay lưng về phía người học và như chỉ giao tiếp với
slide, không quan tâm đến người học. Hoặc giáo viên
trình chiếu đoạn phim thao tác với thiết bị rồi lại làm
mẫu lại thao tác đó trên chính thiết bị vừa trình chiếu
để người học quan sát cũng là sự trùng lặp nội dung.
Chỉ nên chọn một trong hai và rõ ràng là quan sát
thực luôn hiệu quả hơn quan sát hình ảnh.
Như vậy, mỗi kênh thông tin, mỗi phương tiện
dạy học cần được sử dụng không trùng lặp và bổ
sung lẫn nhau. Dĩ nhiên, sự trùng lặp gây tốn thời
gian và nhàm chán cho người học.
3.2. Không gây phân tán sự chú ý
Do ánh sáng và màu sắc, các slide luôn tạo ra
sự thu hút một cách tự nhiên khi người học nhìn về
phía trước. Nếu đã chuyển sang sử dụng bảng, thiết
bị thao tác hay trao đổi, thảo luận mà vẫn để chiếu
slide của nội dung trước đó thì người học rất dễ bị
phân tán sự chú ý. Phải tắt hoặc chuyển thành slide
trống. Người học cần được tập trung chú ý vào đối
tượng, phương tiện đang chuyển tải thông tin.
Với các phương tiện dạy học khác cũng tương
tự. Khi chưa, không hoặc tạm thời không dùng đến
thiết bị thao tác thì cần cất đi hay che lại và chuyển
sang một góc. Với phòng học tại xưởng, không di
chuyển thiết bị được, thì bố trí bảng và màn chiếu
nhìn theo hướng khác. Nội dung trình bày, viết trên
bảng để trao đổi, thảo luận, diễn giải đã xong thì cần
dọn, xóa đi.
3.3. Mỗi slide chỉ trình bày một ý tưởng và phải
có điểm nhấn
Trong khi đề mục, ý chính được thể hiện trên
bảng thì nội dung slide là những ý tưởng để minh
họa, diễn giải. Không nên có tiêu đề trên mỗi slide
như trường hợp chỉ trình bày bằng Powerpoint. Mỗi
slide chỉ nên trình bày một ý tưởng, một đối tượng
hay một ý chính để người học dễ dàng tập trung theo
dõi. Nếu đưa vào nhiều ý tưởng, đặc biệt là bằng hình
ảnh thì sẽ sao nhãng vấn đề. Slide (a) ở Hình 1 nên
chuyển thành nhiều slide cho từng ý tưởng (b) và kết
thúc đề mục hay ý chính thì có một slide tóm tắt, hệ
thống hóa vấn đề.
Đồng thời, cũng là để người học dễ tập trung,
mỗi slide cần có một điểm nhấn của ý tưởng. Điểm
nhấn phải nằm ở trung tâm slide và được làm nổi
bật lên bằng màu sắc, kích thước phù hợp như dòng
chữ “Ô tô và máy kéo” ở Hình 1. Khi nhìn vào slide,
người học sẽ bị điểm nhấn thu hút và dễ dàng ghi nhớ
hơn là không có điểm nhấn. Nếu chỉ có hình thì nền
TẠP CHÍ THIẾT BỊ GIÁO DỤC - SỐ 137 - 1/2017
• 65
NGHIÊN CỨU & ỨNG DỤNG
biệt. Trước hết, các đối tượng thể hiện
trên slide phải có tỷ lệ phù hợp với
diện tích và những khoảng trống còn
lại.
Ở Hình 2a khoảng trống chiếm
tỷ lệ lớn so với các hình và chữ trên
slide, bố cục như vậy là không hợp lý,
bị “loãng”, nhìn không đẹp mắt, mặt
khác hình ảnh phức tạp mà nhỏ thì rất
a)
b)
khó quan sát. Ngược lại, Hình 2b lại
Hình 1. Slide nhiều ý tưởng (a) chuyển thành một ý tưởng với điểm
có bố cục như bị “đặc” lại, hình và
nhấn (b)
chữ san sát nhau gây khó phân biệt,
khó tập trung khi nhìn. Trong khi đó,
hoàn toàn có thể thu nhỏ hình một
chút mà vẫn rõ ràng. Hay lượng chữ
như Hình 3a cũng là “đặc”, cần giảm
bớt. Bố cục không hợp lý còn là sự lộn
xộn như Hình 1a, còn gọi là bố cục
“loạn”, các đối tượng sắp xếp không
theo trật tự hài hòa, rất khó quan sát
a)
b)
và theo dõi.
Ngoài ra, không nên chọn nền
Hình 2. Bố cục “loãng” (a) và “đặc” (b) đều không phù hợp
có họa tiết trang trí với slide có hình,
slide phải có màu sao cho nổi bật hình lên, nếu chỉ
vì như vậy vừa làm giảm bớt khoảng
có chữ thì tô màu nổi những từ quan trọng, từ khóa. trống và làm giảm sự chú ý tới hình nội dung. Chỉ
3.4. Không biến giờ học thành giờ xem
nên có trang trí ở slide toàn chữ. Khi chèn video clip,
Một hiện tượng cũng thường được nói tới là đoạn phim thì cần chú ý khung hình như đối với chèn
giáo viên lạm dụng việc trình chiếu, chuyển tải toàn hình.
bộ nội dung bài học vào các slide. Giờ học bị biến
3.5.2. Màu sắc và chữ
thành giờ xem, giáo viên chỉ đóng vai trò như người
Màu sắc giúp phân biệt, nhận biết các đối tượng
thuyết minh chứ không phải giảng dạy. Máy chiếu khác nhau. Với màu nền và màu chữ như Hình 3b
tạo sự hấp dẫn bằng màu sắc, hiệu ứng, hình ảnh thì thật không dễ dàng. Do vậy, màu sắc phải tương
động, phim, nhưng hứng thú của người học lại đến phản để làm nổi bật lẫn nhau, giữa nền và đối tượng
chủ yếu từ phong cách, thái độ và ngôn ngữ của giáo hay giữa các đối tượng với nhau, đặc biệt là điểm
viên. Xem loại bài giảng về công lý của GS Michael nhấn của slide (Hình 1b). Màu sắc còn gây cảm xúc
Sandel (ĐH Harvard, Mỹ) trên Youtube ta sẽ chỉ như thích thú hay khó chịu, thu hút hay lơ đãng. Màu
thấy có vài slide trong một giờ học, dù với một giảng nóng như đỏ, cam thường gây cảm xúc “kích động”,
đường hàng trăm sinh viên. Trình chiếu Powerpoint chói lóa và ngược lại là màu lạnh như đen, tím. Vì
chỉ là phương tiện dạy học, chỉ đóng vai trò hỗ trợ, vậy, nền slide nên là màu trung tính như trắng, vàng
minh họa cho hoạt động dạy chứ không phải là chủ đất nhạt hoặc hơi lạnh như xanh đậm, lục đậm. Còn
màu chữ phải tương phản rõ nét với màu nền, chữ
đạo hay thay thế được giáo viên trong lớp học.
Mặt khác, khi chuyển tải toàn bộ nội dung bài nhấn thì dùng màu nóng (Hình 3a). Trên một slide
học vào các slide thì bảng hoàn toàn bị bỏ không, lợi không nên dùng quá 4 màu, trừ khi là hình ảnh.
Đồng thời, màu nền cần đơn giản, không có họa
thế của nó không được khai thác. Vì vậy, trong một
tiết,
không
đậm nhạt, không phải là hình ảnh. Không
giờ học 45 phút chỉ nên thiết kế không quá 20 slide,
nên dùng một màu nền duy nhất trong suốt giờ học,
tức là trung bình 2 phút dùng 1 slide.
khi chuyển sang đề mục, nội dung khác cần thay đổi
3.5. Thiết kế đảm bảo tính thẩm mỹ
màu nền như là một tín hiệu.
3.5.1. Bố cục
Về chữ cần chú ý đến kiểu, cỡ, số chữ và khoảng
Một slide cần phải có bố cục rõ ràng và hợp lý,
cách
dòng. Các kiểu chữ không chân, đơn giản như
sao cho khi nhìn vào thì dễ dàng nhận thấy và phân
66 • TẠP CHÍ THIẾT BỊ GIÁO DỤC - SỐ 137 - 1/2017
NGHIÊN CỨU & ỨNG DỤNG
Hình trang trí dùng khi
slide chỉ có chữ để tránh đơn
điệu và tạo sự liên tưởng, do
vậy hình phải liên quan đến
nội dung của chữ, trừ khi để
tạo bố cục. Trong trường hợp
này thì không tạo hiệu ứng
cho hình, khi slide hiện chỉ
có chữ chạy, chữ là đối tượng
a)
b)
cần được chú ý nhiều hơn.
Hình 3. Quá nhiều chữ (a) và màu nền không phù hợp (b).
Không nên dùng hình động vì
Arial, Calibri, Tahoma,... thường được chọn do dễ
sẽ
hướng
sự
chú
ý
vào
đó và gây nhức mắt, khó chịu.
đọc hơn so với kiểu chữ có chân. Báo in và báo mạng
4.
Kết
luận
cũng đều chọn chữ như vậy. Chữ in hoa nên hạn chế
Phương tiện, thiết bị dạy học là một thành tố
vì cũng khó đọc hơn chữ thường và tạo cảm giác
không
thể thiếu của tiến trình dạy học. Ngày nay,
nặng nề. Với phòng 45 người, cỡ chữ phù hợp là từ
với
sự
phát
triển của công nghệ thông tin và truyền
18 trở lên, khoảng cách dòng nên ít nhất là 1,2. Một
số tác giả đề nghị số chữ trong dòng và số dòng tối thông đa phương tiện, thành tố này đã có sự thay đổi
đa trong một slide theo công thức n x n, trong đó n mạnh mẽ. Tuy nhiên, không có nghĩa là các phương
nhỏ hơn 7 hoặc 9 [3]. Rõ ràng, càng ít chữ thì đọc tiện dạy học truyền thống bị loại bỏ hay vai trò giáo
được càng dễ, càng nhanh. Nếu có quá nhiều chữ thì viên bị giảm đi. Mà ngược lại, hiệu quả của phương
người học sẽ chú tâm đọc chữ chứ không nghe hoặc tiện dạy học truyền thống càng được hỗ trợ phát huy
nghe chứ hoàn toàn không đọc. Do đó, phần chữ trên và giáo viên càng đóng vai trò quan trọng trong thiết
slide luôn viết dạng vắn tắt như một tựa đề, ví dụ kế và thực hiện dạy học. Với trình chiếu Powerpoint,
“10. Bỏ trốn sau tai nạn” thay cho “10. Bỏ trốn sau không nên và không thể chỉ sử dụng dạy nhất mà cần
khi gây tai nạn để trốn tránh trách nhiệm” (Hình 3a). phối hợp với bảng và thiết bị thao tác. Để sử dụng bài
Với nội dung chữ nhiều thì cần chia ý, mỗi ý một trình chiếu hiệu quả, cần có sự đầu tư công sức không
dòng. Đầu dòng phải có điểm đạn (bullet) hoặc biểu
ít từ phía giáo viên.
tượng (icon), không dùng gạch ngang như khi viết vì
rất khó phân biệt.
Tài liệu tham khảo
3.5.3. Hình ảnh, đồ thị và bảng biểu
Nón trải nghiệm của Edgar Dale (1954) cho biết
1. Nghiêm Thị Ngọc Bích (2011). Quy trình nhập
ta nhớ được khoảng 10 % những gì mình đọc, 20 % liệu thông tin từ giáo án vào phần mềm powerpoint để
nghe, 30 % thấy và 50 % khi vừa nghe vừa thấy. Vì xây dựng bài giảng điện tử trong dạy học sinh học.
vậy, hình ảnh, đồ thị và bảng biểu luôn là ưu tiên trên Tạp chí Giáo dục 253 (57-58, 60).
slide. Tuy nhiên, một bảng biểu có 10 cột 20 dòng
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011). Về việc
nếu đưa toàn bộ lên slide thì rất khó quan sát và nhận ban hành Thể lệ cuộc thi “Thiết kế bài giảng điện
biết. Cho nên cần đơn giản hóa, lược bỏ bớt cột, dòng
tử e-Learning” năm học 2011-2012. Quyết định số
và tạo hiệu ứng gây chú ý ở điểm nhấn. Hình ảnh và
6552/QĐ-BGDĐT (26/12/2011).
đồ thị cũng vậy.
3. Lê Thị Vân Hạnh (2012). Sử dụng phần mềm
3.5.4. Hiệu ứng và hình trang trí
Microsoft
powerpoint trong thiết kế và thực hiện bài
Không có hiệu ứng thì nhàm chán nhưng có thì
hiệu ứng phải phù hợp với đối tượng, không dùng giảng. Tạp chí Quản lý nhà nước 194 (76-79).
4. Đặng Anh Minh (2011). Thực trạng sử dụng
các hiệu ứng “múa” gây rối mắt. Chẳng hạn, với đồ
phần
mềm Microsoft Office powerpoint trong đổi
thị thì tạo hiệu ứng như đường biểu diễn chạy theo
giá trị biến thiên trên hai trục, với chữ thì tạo hiệu mới phương pháp dạy học ở bậc đại học. Tạp chí
ứng hiện theo dòng từ trái qua phải như khi đọc, với Thiết bị Giáo dục 68 (41-43).
5. Huỳnh Văn Sơn, Mai Mỹ Hạnh (2011).
hình hiện từ trong ra hay ngoài vào,... Để đỡ mất thời
Một
số yêu cầu trong thiết kế kế hoạch bài dạy
gian nên chọn chế độ hiệu ứng nhanh hoặc rất nhanh,
với Powerpoint. Tạp chí Thiết bị giáo dục 74 (31-33).
trừ trường hợp cần thiết.
TẠP CHÍ THIẾT BỊ GIÁO DỤC - SỐ 137 - 1/2017
• 67