« Home « Kết quả tìm kiếm

Kinh nghiệm thực tế trong xây dựng và phát triển kỹ thuật PCR


Tóm tắt Xem thử

- Việt Nam là một trong những quốc gia đứng hàng đầu về tần suất nhiễm HBV qua xét nghiệm phát hiện kháng nguyên bề mặt của virút (HBsAg) trong máu, với tỷ lệ người bình thường có HBsAg dương tính là 10-30%.
- Chỉ có một số ít do hệ thống miễn dịch của cơ thể của họ không thể nhận diện được kháng nguyên bề mặt của virút là kháng nguyên lạ để có thể tạo được đáp ứng miễn dịch do vậy mà các người này bị mang HBV trong cơ thể lâu dài và lúc nào xét nghiệm phát hiện HBsAg cũng dương tính.
- Do vậy, trước một người có xét nghiệm HBsAg dương tính thì các nhà lâm sàng nhất thiết phải cho chỉ định làm thử nghiệm xác định xem trong máu của người nhiễm có mang HBV hoàn chỉnh hay không bằng xét nghiệm PCR phát hiện HBV-DNA, và nếu dương tính thì phải biết số lượng HBV hoàn chỉnh có trên 10 5 copies/1ml hay không bằng xét nghiệm qPCR để định lượng HBV-DNA.
- Nhưng nếu lượng virút ≥10 5 thì cần phải xem xét gan có bị tổn thương chưa thông qua xét nghiệm men gan ALT.
- Nếu lượng ALT vẫn còn bình thường thì phải làm sinh thiết gan để làm xét nghiệm giải phẩu bệnh xem gan có bị thương tổn mô học không, hay nếu không muốn làm sinh thiết gan thì có thể làm fibroscan gan của bệnh nhân và giá trị fibroscan cũng có thể cho biết tình trạng tổn hại mô gan dù không chính xác bằng sinh thiết gan.
- Do vậy, sau khi đã bắt đầu điều trị bệnh nhân bị viêm gan virút B mạn tính, các nhà điều trị phải thường xuyên theo dõi hiệu quả điều trị đặc hiệu mà họ đã cho trên bệnh nhân bằng cách phải định kỳ mỗi 3 tháng cho bệnh nhân làm xét nghiệm qPCR định lượng HBV-DNA (nếu lượng HBV- DNA vẫn còn định lượng được) hay PCR định tính phát hiện HBV-DNA (nếu HBV-DNA dưới ngưỡng phát hiện định lượng) cho đến khi nào lượng HBV-DNA dưới ngưỡng phát hiện.
- Quan điểm của các nhà điều trị hiện nay là phải liên tục duy trì liệu pháp kháng virút để khống chế lượng virút dưới mức phát hiện do vậy mà phải luôn theo dõi sự tái xuất hiện virút bằng xét nghiệm PCR phát hiện HBV-DNA trong máu của bệnh nhân định kỳ mỗi 3 tháng.
- Nếu sau một thời gian điều trị đặc hiệu (thường là 3 tháng) mà lượng virút không giảm quá 2 log (100 lần), hay không đạt đến ngưỡng 10 3 /ml, hay trong quá trình điều trị xét nghiệm HBV-DNA dương tính trở lại, bác sĩ điều trị phải nghĩ đến khả năng virút kháng thuốc, đặc biệt là kháng lamivudine [9,10,11.
- Lúc này xét nghiệm sinh học phân tử mà bác sĩ nên chỉ định thực hiện trên bệnh nhân là xét nghiệm định genotype và phát hiện các đột biến kháng lamivudine, adefovir và entecavir trên virút HBV của bệnh nhân để tuỳ thuộc vào kiểu gene đột biến mà có thể điều chỉnh liệu pháp kháng virút thích hợp.
- Trước đây, các nhà lâm sàng thường đánh giá hiệu quả điều trị đặc hiệu qua xét nghiệm miễn dịch cho biết có dấu hiệu chuyển đảo huyết thanh trên bệnh nhân, nghĩa là HBeAg (kháng nguyên tiết của HBV - một thông số cho biết có tình trạng virút nhân bản) trở nên âm tính và xuất hiện kháng thể kháng HBe.
- Tuy nhiên vì HBV có thể có đột biến precore làm cho virút không thể tạo ra được kháng nguyên HBe mà vẫn có được kháng thể kháng HBe nên muốn xác định được chắc chắn có chuyển đảo huyết thanh thật sự hay không thì các nhà lâm sàng phải chỉ định xét nghiệm phát hiện đột biến precore trên các bệnh nhân HBeAg.
- Do vậy xét nghiệm sinh học phân tử phát hiện đột biến precore hiện nay cũng là một yêu cầu thực tiến từ các nhà điều trị..
- Tuy nhiên, để có thể cho được chỉ định điều trị đặc hiệu viêm gan C mạn tính bằng interferon α phối hợp với ribavirin là phát đồ chuẩn nhất hiện nay, bác sĩ cần phải xác định là bệnh nhân đang mang virút viêm gan C trong máu bằng xét nghiệm định tính HCV-RNA [14] vì xét nghiệm anti-HCV chỉ là xét nghiệm sàng lọc trong cho và truyền máu chứ không phải là xét nghiệm trong chẩn đoán lâm sàng, hơn nữa một người có kếtquả anti-HCV.
- hai xét nghiệm nữa là định lượng HCV-RNA [14] và định genotype của virút [14.
- Sau khi hoàn tất thời gian cần phải điều trị trên bệnh nhân, trước khi quyết định ngưng điều trị, bác sĩ cần phải xác định xem bệnh nhân đã sạch HCV- RNA chưa bằng xét nghiệm định tính HCV-RNA và chỉ ngưng điều trị khi HCV-RNA hoàn toàn âm tính.
- Sau khi đã ngưng điều trị vì bệnh nhân đã sạch virút, bác sĩ vẫn phải khuyến cáo bệnh nhân làm xét nghiệm định đính HCV-RNA mỗi 3 tháng một lần để theo dõi xem bệnh nhân có bị tái phát không.
- Bất cứ lúc nào HCV-RNA dương tính lại thì đó là dấu hiệu tái phát và khi ấy có thể bác sĩ phải xem xét điều trị lại cho bệnh nhân và cũng phải theo thực hiện lại qui trình xét nghiệm như trên..
- Cần xét nghiệm kịp thời và nhạy cảm hơn để chẩn đoán phát hiện các tác nhân vi sinh gây bệnh.
- Bên cạnh bệnh viêm gan mạn tính do virút B và virút C, y học Việt Nam cũng còn phải đối phó với các bệnh nhiễm trùng khác mà vấn đề phát hiện các tác nhân vi sinh gây bệnh rất cần thiết phải có phương tiện xét nghiệm nhạy cảm hơn, kịp thời hơn, và an toàn hơn..
- Do vậy mà vấn đề nâng cao năng lực của các phòng thí nghiệm lâm sàng trong xét nghiệm phát hiện lao là một vấn đề mà y học Việt Nam phải đặt ra vì với phương pháp nhuộm tìm trực khuẩn kháng acid (AFB), độ nhạy phát hiện chỉ đạt 64% trong lao phổi, 27% trong lao ngoài phổi, và chỉ 9% trong lao màng não.
- Chính vì vậy nên tại các bệnh viện hay phòng khám, có rất nhiều trường hợp bệnh nhân có dấu hiệu lâm sàng và X-quang rất nghi ngờ lao phổi, và hầu hết các trường hợp lâm sàng chẩn đoán nghi ngờ lao ngoài phổi hay lao màng não mà kết quả xét nghiệm bác sĩ nhận được vẫn thường là soi không thấy, cấy không ra.
- Thực tế này đã đòi hỏi các nhà lâm sàng phải yêu cầu xét nghiệm PCR phát hiện lao trong các bệnh phẩm khác nhau vì theo nhiều nghiên cứu trên thế giới, PCR đã cải thiện đáng kể độ nhạy phát hiện lao không chỉ trong lao phổi mà cả trong lao ngoài phổi và lao màng não.
- Hơn nữa kết quả PCR cũng cho phép xác định ngay là nhiễm lao mà không cần phải làm thêm các xét nghiệm vi sinh xác định như là đối với phương pháp nhuộm kháng acid hay nuôi cấy, vì với PCR người làm xét nghiệm phát hiện đoạn DNA đích là chỉ đặc hiệu cho vi khuẩn lao chứ không phải cho các mycobacteria khác không phải lao..
- Một bệnh nhiễm khác mà thực tế đòi hỏi phải triển khai xét nghiệm khuếch đại nucleic acid trên cơ sở của kỹ thuật PCR để phát hiện tác nhân gây bệnh, đó là bệnh sốt Dengue gây sốt xuất huyết..
- Thử nghiệm miễn dịch học phát hiện kháng thể đặc hiệu Dengue, thậm chí là kháng thể IgM, cũng chỉ có thể bắt đầu dương tính vào ngày thứ 4 hay 5 của bệnh và lúc này thì kết quả xét nghiệm không còn hữu dụng lâm sàng nữa vì các biểu hiện lâm sàng của sốt Dengue hay sốt xuất huyết Dengue đã khá rõ.
- Xét nghiệm như vậy không thể thực hiện được bằng các phương pháp tế bào học hay mô học mà phải được thực hiện bằng kỹ thuật sinh học phân tử khuếch đại một đoạn DNA đặc hiệu trên vùng gene L1 của virút và sau đó xác định trình tự đặc hiệu genotype của virút, đó chính là kỹ thuật PCR theo sau là lai phân tử..
- Do vậy xét nghiệm thích hợp và hữu dụng nhất để có thể thực hiện được tại các phòng thí nghiệm lâm sàng không có gì khác hơn là xét nghiệm RT-PCR phát hiện H5N1 vì xét nghiệm chỉ đòi hỏi phải thực hiện trong phòng thí nghiệm có trang bị an toàn sinh học cấp 2 và kết quả xét nghiệm không chỉ nhạy cảm mà còn có thể.
- Để có thể điều trị được một cách hiệu quả cho bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS, các nhà y học cần phải có phương tiện xét nghiệm định lượng được virút trong máu bệnh nhân để có thể thay đổi ngay phát đồ điều trị mới khi một khi lượng virút tăng lên hay xuất hiện trở lại trong quá trình điều trị.
- Do vậy xét nghiệm định lượng virút HIV là một xét nghiệm rất cần thiết phải triển khai và kỹ thuật dễ tiếp cận nhất hiện nay để thực hiện xét nghiệm này là kỹ thuật real-time PCR.
- Ngoài việc theo dõi hiệu quả điều trị đặc hiệu, xét nghiệm phát hiện và định lượng HIV còn có giá trị trong chẩn đoán cho các trẻ sơ sinh để phát hiện cháu có bị nhiễm bệnh từ mẹ truyền qua không, một yêu cầu mà phương pháp miễn dịch phát hiện kháng thể đặc hiệu HIV không thể đáp ứng được vì có thể trẻ có kết quả HIV.
- Với tiến bộ hiện nay về ghép tạng tại Việt Nam, xét nghiệm phát hiện CMV là một xét nghiệm rất cần thiết phải thực hiện trên người cho cơ quan để tránh nguy cơ người nhận bị nhiễm rồi bùng phát bệnh đang phải nhận liệu pháp ức chế miễn dịch sau ghép.
- Nếu chỉ dựa vào xét nghiệm phát hiện kháng thể đặc hiệu CMV trong huyết thanh của người cho tạng thì kết quả chắc chắn sẽ không đủ đặc hiệu để nói lên được người cho hãy còn mang CMV và sẽ truyền tác nhân gây bệnh sang người nhận vì kháng thể có thể tồn tại rất lâu sau khi bệnh nhên khỏi bệnh.
- Do vậy cần phải có một xét nghiệm phát hiện trực tiếp tác nhân CMV trong bạch cầu của máu người cho, và xét nghiệm đáp ứng được yêu cầu này chính là xét nghiệm PCR phát hiện CMV-DNA..
- Ngoài ra, thực tế của nền y học hiện đại mà chúng ta đang tiếp cận hiện nay cũng đòi hỏi các nhà lâm sàng được phục vụ các yêu cầu xét nghiệm phát hiện và/hay định lượng nhiều tác nhân gây bệnh khác bằng phương pháp khuếch đại nucleic acid trên cơ sở của kỹ thuật PCR và real- time PCR.
- Ví dụ để phát hiện nguyên do hiếm.
- muộn trên phụ nữ, nhà lâm sàng cần phải có xét nghiệm PCR phát hiện C.
- Để phát hiện tác nhân viêm não màng não do virus, xét nghiệm PCR phát hiện HSV hay RT-PCR phát hiện Enterovirus 71 trong dịch não tuỷ rất cần được triển khai.
- Để phát hiện H.
- pylori trong các mẫu sinh tiết vết loét dạ dày tá tràng thì xét nghiệm PCR phát hiện tác nhân này cũng là xét nghiệm không thể thiếu được.
- Hay ngay cả trong giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện, xét nghiệm PCR phát hiện S.
- aureus kháng methicillin (MRSA) từ tay và quệt mũi trước của nhân viên y tế và người chăm sóc bệnh nhân cũng là xét nghiệm rất cần thiết phải được thực hiện do độ nhạy cảm cao và qui trình thực hiện khá đơn giản cũng như kết quả có được nhanh hơn nhiều so với xét nghiệm vi sinh truyền thống..
- Tuy nhiên một câu hỏi được nhiều người đặt ra là liệu PCR và real- time PCR có đặc hiệu không một khi đạt được độ nhạy quá cao như vậy? Vì theo lý luận thống kê thông thường thì xét nghiệm một khi đạt độ nhạy cao thì độ đặc hiệu sẽ thấp xuống.
- Nuôi cấy là xét nghiệm đặc hiệu nhất để phát hiện tác nhân vi sinh vật gây bệnh vì chỉ có nuôi cấy chúng ta mới xác định được sự hiện diện tác nhân vi sinh vật gây bệnh có mặt trong mẫu thử.
- Xét nghiệm PCR và real-time PCR phát hiện tác nhân vi sinh vật gây bệnh cũng không khác gì nuôi cấy, nhưng không phải là nuôi cấy bộ gen mà chỉ là một đoạn gen đặc hiệu của vi sinh vật gây bệnh (không phải trong các môi trường phân lập và nuôi cấy vi sinh phức tạp và khác nhau mà chỉ đơn giản trong một ống phản ứng chứa PCR mix) thành hàng tỷ bản sao rồi sau đó định danh các bản sao này xem có đúng của vi sinh vật muốn tìm không dựa vào kích thước và/hay trình tự các nucleotide trên các bản sao này.
- Vậy thì tại sao chúng ta lại ngần ngại khi phát triển và ứng dụng xét nghiệm PCR và real-time tại các phòng thí nghiệm lâm sàng để phát hiện tác nhân vi sinh vật gây bệnh vì cho rằng khó có thể thực hiện được các xét nghiệm này một cách chuẩn mực? Trong khi xét nghiệm PCR và real- time PCR lại dễ thực hiện chuẩn mực hơn xét nghiệm vi sinh rất nhiều vì: (1) Khi không làm xét nghiệm ngay thì không cần phải được giữ trong môi trường chuyên chở trong thời gian có hạn như vi sinh, bệnh phẩm xét nghiệm PCR có thể giữ ở điều kiện lạnh 2-8 o C hay giữ đông trong thời gian chuyên chở đến phòng thí nghiệm, và nếu giữ dưới -70 o C thì mẫu thử vẫn còn nguyên giá trị để làm xét nghiệm PCR sau nhiều năm.
- (2) Nếu các thuốc thử đều được cung cấp hay được pha chế dưới dạng kit thì các bước làm xét nghiệm PCR rất đơn giản và dễ chuẩn hoá: Trước hết tách chiết nucleic acid từ mẫu thử bằng các kit tách chiết thích hợp.
- Trong khi đó, quá trình làm xét nghiệm vi sinh phức tạp và khó chuẩn hóa hơn nhiều vì đòi hỏi người làm xét nghiệm phải có đủ kiến thức để chuẩn bị, lựa chọn qui trình với thuốc thử và môi trường nuôi cấy thích hợp cho từng vi sinh vật đích, đặc biệt là phải có kiến thức và kinh nghiệm để có thể bắt được vi sinh vật đích hiện diện trong bệnh phẩm..
- PCR và real-time PCR còn có nhiều ưu điểm vượt trội khác so với xét nghiệm vi sinh như: (1) Kết quả chung cuộc sẽ đến tay bác sĩ lâm sàng nhanh hơn xét nghiệm vi sinh, không quá 5 giờ kể từ khi bắt đầu làm xét nghiệm.
- (2) Phát hiện được các tác nhân vi sinh vật gây bệnh mà phòng thí nghiệm lâm sàng không có khả năng phát hiện với các xét nghiệm vi sinh hay miễn dịch truyền thống như các tác nhân virút (HCV, HBV, HPV.
- Ngoài ra, một mối lo ngại nữa mà nhiều người quan tâm, đó là vấn đề ngoại nhiễm sản phẩm khuếch đại, rất dễ xãy ra trong phòng xét nghiệm.
- lâm sàng vì nguy cơ tích tụ và dễ dàng dẫn đến ngoại nhiễm vào các thuốc thử và bệnh phẩm qua dụng cụ và qua tay người làm xét nghiệm.
- Trang bị đắt tiền nhất cho một phòng thí nghiệm lâm sàng làm được xét nghiệm PCR và real-time PCR là máy PCR và máy real-time PCR..
- Nếu tính khấu hao các thiết bị này trong giá thành xét nghiệm thì mỗi tháng chỉ khoảng 800USD với thời gian sử dụng thiết bị là 5 năm..
- Vậy thì tại sao xét nghiệm PCR và real-time PCR hiện nay tại các quốc gia tiên tiến lại quá đắt, bệnh nhân phải trả tiền cho mỗi xét nghiệm không dưới 100USD? Lý do chủ yếu là vì các phòng thí nghiệm lâm sàng tại các nơi này thường phải mua các kit xét nghiệm PCR và real-time PCR từ các công ty sản xuất kit chẩn đoán (như Roche Diagnostic) với giá thành rất đắt để đảm bảo xét nghiệm được thực hiện một cách chuẩn mực.
- Tại các quốc gia thu nhập thấp như Việt Nam chúng ta, nếu làm như vậy thì chắc chắn xét nghiệm PCR và real-time PCR sẽ chẳng thể nào áp dụng được dù thực tế rất cần phải có các xét nghiệm này.
- Chúng ta cũng biết PCR và real-time PCR là một kỹ thuật hoàn toàn mở cho phép nhà nghiên cứu có thể tiếp cận để tự pha các thuốc thử thực hiện xét nghiệm và chịu trách nhiệm về kết quả xét nghiệm mà mình thực hiện (thường gọi là homebrew).
- Tuy nhiên nếu làm như vậy thì chắc chắn chúng ta sẽ đối phó với vấn đề chất lượng của xét nghiệm PCR và real-time PCR sẽ rất khác biệt giữa các phòng thí nghiệm lâm sàng với nhau.
- Các kit không chỉ đạt được độ nhạy và độ đặc hiệu cao, mà còn phải có đầy đủ các chuẩn mực để người làm xét nghiệm có thể.
- kiểm soát được các sơ sót xãy ra trong quá trình làm xét nghiệm.
- Nhờ vậy, chất lượng xét nghiệm PCR và real-time PCR được chuẩn mực, đạt mức cao một cách đồng đều trong các phòng thí nghiệm lâm sàng, và đồng thời giá thành xét nghiệm là hoàn toàn có thể chấp nhận..
- Như đã nói ở trên, để đảm bảo được chất lượng cao một các đồng đều của xét nghiệm PCR và real-time PCR thực hiện được tại phòng thí nghiệm lâm sàng áp dụng cho chẩn đoán, thử nghiệm cũng như các kit do chúng tôi cung cấp để làm thử nghiệm phải luôn luôn có đầy đủ các chuẩn mực sau: (1) Kit khuếch đại đạt được độ nhạy cao và có bằng chứng để xác định độ nhạy thông qua chứng.
- là mẫu thật và thật sự âm tính rồi thực hiện xét nghiệm cùng với các mẫu thử nhờ vậy mà kiểm tra được quá trình xét nghiệm có bị ngoại nhiễm không trong suốt quá trình thao tác xét nghiệm cũng như chứng minh được độ nhạy của kit tách chiết cũng như kit khuếch đại.
- (5) Trong PCR định lượng, ngoài các chuẩn trên, để đảm bảo xét nghiệm định lượng, các mẫu chuẩn biết rõ hàm lượng copies DNA đích cũng được cung cấp ở dạng bền vững..
- Cho đến hiện nay, chúng tôi đã triển khai thực hiện các xét nghiệm PCR và real-time PCR cũng như sản xuất được các kit tương ứng đạt được tất cả các chuẩn mực trên, đó là:.
- (1) Xét nghiệm và kit PCR phát hiện HBV- DNA dựa trên khuếch đại đích 259bp trên gen S, đạt độ nhạy 10 copies/ml huyết thanh [17.
- (2) Xét nghiệm và kit RT-PCR phát hiện HCV-.
- Chứng âm là mẫu huyết thanh thật sự âm tính cũng được cung cấp kiểm tra nguy cơ ngoại nhiễm khi thao tác xét nghiệm..
- Hình 1: Kết quả xét nghiệm PCR phát hiện HBV-DNA được thực hiện với NK HBV-PCR kit.
- Hình 2: Kết quả xét nghiệm RT-PCR phát hiện HCV-RNA được thực hiện với NK HCV-RTPCR kit.
- tuberculosis, nhờ vật độ nhạy của xét nghiệm có thể đạt đến mức phát hiện 1fg (1/10 genome vi khuẩn) trong thể tích mẫu thử cho vào ống phản ứng.
- Cũng như các xét nghiệm PCR khác, có chứng âm là huyết tương người bình thường, và có chứng dương chứa 100 copies/ml plasmid chèn đúng đoạn DNA đích nhờ vậy người làm xét nghiệm có thể kiểm chứng được được độ nhạy của PCR mix.
- Hình 3: Kết quả xét nghiệm PCR phát hiện MTB-DNA được thực hiện với NK MTB-PCR kit.
- (4) Xét nghiệm và kit RT-PCR phát hiện và định type virút Dengue hay sốt Dengue và sốt xuất huyết Dengue [20.
- Xét nghiệm và kit này cũng chứa đầy đủ các chứng dương, chứng nội tại đạt các chuẩn mực của xét nghiệm PCR dùng trong chẩn đoán như các xét nghiệm và kit mà chúng tôi phát triển.
- Đây là xét nghiệm và kit RT-PCR duy nhất hiện nay có khả năng vừa phát hiện vừa định được type virút Dengue chỉ qua một vòng PCR đa mồi mà kết quả đạt được luôn nhạy hơn các phương pháp dựa trên qui trình kinh điển của Lanciotti cần phải qua hai vòng PCR với vòng 2 làm tổ bên trong vòng 1 mới có thể định được type virút.
- Áp dụng trên thực tế lâm sàng, xét nghiệm và kít này đã chứng tỏ có khả năng phát hiện và định type Dengue rất sớm, ngay trong những ngày đầu của bệnh, trước khi có dấu hiệu giảm tiểu cầu..
- Hình 4: Kết quả xét nghiệm RT-PCR phát hiện và định type virút Dengue gây sốt Dengue và sốt xuất huyết Dengue..
- (5) Xét nghiệm và kit PCR-ELISA phát hiện và định type HPV trong các mãnh sinh thiết hay quệt cổ tử cung [21.
- Đây là xét nghiệm và kit do chúng tôi phát triển dựa trên nguyên tắc sử dụng mồi đặc hiệu gen L1 của virus để khuếch đại một đoạn DNA dài 450bp bị đánh dấu bởi digoxygenine nhờ sử dụng PCR mix có thêm dig-dUTP.
- Xét nghiệm và kit PCR-ELISA này của chúng tôi có khả năng phát hiện và sau đó định được genotype của 10 genotype thường gặp nhất của HPV là và 58.
- Hiện xét nghiệm và kit này được bệnh viện Phụ Sản Từ Dũ sử dụng thành xét nghiệm dùng tầm soát và sàng lọc ung thư sớm cổ tư cung trên phụ nữ..
- Hình 5: Nguyên tắc của xét nghiệm và kit NK HPV-PCR-ELISA phát hiện và định type HPV.
- (6) Các xét nghiệm và kit PCR để phát hiện các tác nhân vi sinh vật gây bệnh khác như PCR phát hiện HSV, CMV, multiplex PCR phát hiện đồng thời N.
- trachomatis, nonstop nested PCR phát hiện H5.
- Hình 6: Kết quả các xét nghiệm PCR với các kit NK HSV-PCR phát hiện Herpes simplex virút (trên), NK CMV-PCR phát hiện cytomegalo virút (giữa), và NK NGRCHL-multiplex PCR phát hiện N.
- (7) Xét nghiệm và kit real-time PCR phát hiện và định lượng HBV-DNA trong huyết thanh bệnh nhân nhiễm HBV dựa trên PCR khuếch đại một đoạn đặc hiệu dài khỏang 190bp từ gene polymerase của HBV-DNA.
- Xét nghiệm và kit này đạt độ nhạy 10 copies/ml huyết thanh.
- Hình 7: Kết quả xét nghiệm real-time PCR phát hiện và định lượng HBV-DNA với kit NK HBV real-time TQPCR: Các biểu đồ khuếch đại khi đọc kết quả chỉ bằng kênh màu FAM (A1) hay cả FAM và TexasRed (A2).
- (8) Xét nghiệm và kit RT real-time PCR phát hiện và định lượng HCV-RNA trong huyết thanh bệnh nhân nhiễm HCV dựa trên PCR khuếch đại một đoạn đặc hiệu ở vùng 5’-NC của genome của HCV.
- Xét nghiệm và kit này đạt độ nhạy 50 copies/ml huyết thanh.
- Hình 8: Kết quả xét nghiệm RT real-time PCR phát hiện và định lượng HCV-RNA với kit NK HCV RT real-time TQPCR: Các biểu đồ khuếch đại khi đọc kết quả chỉ bằng kênh màu FAM (A1) hay cả FAM và TexasRed (A2).
- (9) Xét nghiệm và kit RT real-time PCR định lượng HIV1-RNA trong huyết thanh bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS dùng trong theo dõi hiệu quả điều trị đặc hiệu.
- Xét nghiệm dựa trên PCR khuếch đại một đoạn đặc hiệu ở vùng gag gene của genome của HIV1.
- Xét nghiệm và kit này đạt độ nhạy 100 copies/ml huyết thanh.
- Hình 9: Kết quả xét nghiệm RT real-time PCR phát hiện và định lượng HIV1-RNA với kit NK HIV1 RT real-time TQPCR:.
- (10) Ngoài ra, để có thể cung cấp thêm giải pháp toàn diện về các xét nghiệm sinh học phân tử dùng trong chẩn đoán và theo dõi hiệu quả điều trị viêm gan virút B và viêm gan virút C mạn tính, chúng tôi cũng đã phát triển các xét nghiệm và kit như: Nested multiplex PCR định genotype HBV [22.
- Các xét nghiệm và kit này hoàn toàn có thể triển khai được tại các phòng thí nghiệm có trang bị phương tiện PCR..
- Hình 10: Kết quả xét nghiệm định genotype HBV với kit NK HBV genotype-PCR (A), xét nghiệm phát hiện đột biến YMDD kháng lamivudine của HBV với kit NK HBVlamiR-PCR (B), xét nghiệm định genotype HCV với kit.
- Với chức năng giải trình tự, chúng tôi đã thành công trong triển khai các xét nghiệm: (1) Định genotype HCV bằng kỹ thuật giải trình tự trực tiếp sản phẩm PCR thu nhận được từ xét nghiệm định lượng HCV-RNA bằng kit NK HCV RT realtime TQPCR [24.
- Ngoài ra, các chức năng khác của CEQ8000 như chức năng phân tích đoạn cũng đã được chúng tôi triển khai trong xét nghiệm xác định quan hệ huyết thống, chứng năng phát hiện SNP cũng đang được triển khai để phát hiện tính đa dạng loài và đột biến, chúng năng biểu hiện

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt