« Home « Kết quả tìm kiếm

giải pháp tái cấu trúc ngân hàng


Tóm tắt Xem thử

- 1 Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam theo hướng nào ? Tác giả: Harry Hoan Tran CFA và Thuân Nguyễn FCCA, StoxPlus Corporation Các ngân hàng thương mại Việt nam đang và sẽ phải đối mặt với các vấn đề nghiêm trọng do chất lượng tài sản kém, khó khăn về thanh khoản, chất lượng lợi nhuận thấp, yếu kém về quản trị và về quản lý rủi ro.
- Do vậy, Chính phủ cần phải nhanh chóng đưa ra được chương trình tái cơ cấu ngành để giúp các ngân hàng không bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán do khánh kiệt về vốn và khôi phục năng lực của hệ thống ngân hàng giúp thúc đẩy nền kinh tế nhanh hồi phục.
- Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI đã ra chỉ thị “cấu trúc lại hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính theo hướng sáp nhập, hợp nhất các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính nhỏ”.
- Trong loạt bài viết về “tái cấu trúc hệ thống ngân hàng” tác giả sẽ phân tích các biện pháp mà các nước trên thế giới đã áp dụng thành công để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.
- Ngân hàng Nhà nước (“NHNN”) có thể cân nhắc áp các biện pháp này trong việc hoạch định chiến lược.
- Bối cảnh hiện tại Trong năm năm gần đây nhờ có chính sách cởi mở của Chính phủ, hệ thống ngân hàng Việt nam đã tăng trưởng mạnh kể cả về quy mô tài sản và số lượng các ngân hàng.
- Tính đến ngày theo NHNN, tổng tài sản trong hệ thống đã lên tới hơn 3,5 triệu tỷ VND (175 tỷ USD) và dự nợ cho vay ở mức 125 tỷ USD tương đương với 120% GDP của nền kinh tế (Thái lan: 100%, Hàn Quốc 80.
- Đây là một mức nợ cao báo động so với cung bậc hiện tại của kinh tế Việt Nam.
- Với tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh hơn rất nhiều so với GDP (30% năm trong ba năm từ 2008 đến 2010), các ngân hàng đã tạo ra một lượng cung tiền cực kỳ lớn ra nền kinh tế và hậu quả là lạm phát cao.
- Các doanh nghiệp được tiếp cận nguồn vốn rẻ trước đó đã đầu tư tràn lan kém hiệu quả và vấn đề nợ xấu đang là vấn đề thời sự nhất của ngành ngân hàng.
- Nới lỏng chính sách đã làm gia tăng cạnh tranh trong ngành và làm tăng giá trị sản phẩm dịch vụ cho khách hàng, nhưng không khuyến khích được các ngân hàng phát triển một cách thận trọng và bền vững.
- Các ngân hàng đã huy động một khối lượng vốn khổng lồ và tăng trưởng ồ ạt hoạt động tín dụng trong khi nhiều ngân hàng mới thành lập chưa có đủ chuyên môn, công nghệ và nhân sự tốt để quản lý hiệu quả nguồn vốn và quản lý tốt rủi ro.
- Ngành ngân hàng được coi là hấp dẫn và có lãi, nhưng theo tính toán tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (“ROE”) trung bình theo số liệu 2010 chỉ có 12.9%.
- Bên cạnh đó, Việt nam có mức hội nhập cao so với nền kinh tế toàn cầu và là một trong các nền kinh tế mở nhất thế giới với tổng kinh ngạch xuất nhập khẩu đạt 150% GDP.
- Số liệu hợp nhất của 43 ngân hàng thương mại .
- Để xác định rõ ảnh hưởng của khủng hoảng lên hệ thống ngân hàng thì cần phải có sự rà soát độc lập, kỹ lưỡng về tỷ lệ nợ xấu nợ, nợ không hiệu quả (“NPL.
- Chỉ khi thực hiện được công tác này thì mới xác định rõ được mức độ tổn thất vốn và NHNN mới có thể đưa ra được các biện pháp phù hợp giúp các ngân hàng thương mại tái cơ cấu lại vốn.
- Vì sao cần phải nhanh chóng tái cấu trúc hệ thống ngân hàng? Bất kỳ một cuộc khủng hoảng tài chính nào cũng liên quan đến bốn vốn đề chính trong ngành ngân hàng: (1) chất lượng tài sản kém.
- Theo chúng tôi, Chính Phủ đặt vấn đề tái cấu trúc hệ thống ngân hàng một cách mạnh mẽ và triệt để lúc này là kịp thời, với những lý do sau đây: Thứ nhất, nợ xấu và nợ dưới chuẩn (Non Performing Loan “NPL”) của các ngân hàng Việt Nam theo NHNN ở mức 3.1% tổng dư nợ tại ngày tương đương gần 4 tỷ USD.
- Theo công bố của NHNN, các ngân hàng Việt nam có 12% dư nợ tương đương với hơn 12 tỷ USD nằm trong lĩnh vực bất động sản và chứng khoán.
- Và mức công nợ này tương đương với tổng lợi nhuận sau thuế của cả hệ thống ngân hàng Việt nam trong ba năm gần đây và chiếm khoảng 4% của dư nợ của toàn hệ thống Ngân hàng Việt Nam.
- Biểu đồ 2: Lợi nhuận toàn ngành ngân hàng Việt Nam (tỷ VND) Nguồn: StoxPlus.
- Số liệu của 43 ngân hàng thương mại Việt Nam.
- Không tính Ngân hàng Phát triển Việt Nam và 5 ngân hàng 100% sở hữu nước ngoài.
- Theo chúng tôi nếu áp dụng đúng chuẩn mực quốc tế trong việc ghi nhận Nợ dưới chuẩn NPL, thì tỷ lệ thực của hệ thống ngân hàng Việt nam trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay là một ẩn số lớn.
- Nhìn sang sang Trung Quốc một nền kinh tế được coi là vững vàng nhất thế giới, Ngân hàng Credit Suisse vào ngày đã nâng dự báo tỷ lệ nợ dưới chuẩn và không hiệu quả (NPL) của hệ thống ngân hàng hơn gấp đôi từ 5% lên 12% trong “vài năm tới” và số nợ NPL sẽ chiếm khoảng 65-100% vốn chủ sở hữu của toàn hệ thống ngân hàng của Trung Quốc.
- Tức là nếu hệ thống ngân hàng Trung Quốc không được tái cấu trúc về vốn hay tăng vốn, thì các ngân hàng sẽ mất gần hết vốn tự có trong một vài năm tới.
- Tại Tây Ban Nha, các ngân hàng đã hạch toán lỗ từ nợ NPL lên đến tới 9% GDP.
- Lợi nhuận trước dự phòngLợi nhuận trước thuế Chúng ta phải đặt câu hỏi là nếu tỷ lệ nợ NPL chỉ có 3.1% thì làm gì có khủng hoảng và làm sao mà phải cơ cấu lại hệ thống ngân hàng.
- 3 Thứ hai, mặc dù nhiều ngân hàng của Việt Nam đã đạt mức tỷ lệ đảm bảo vốn tự có tối thiểu (Capital Adequacy Ratio “CAR”) trên 8% nhưng trên bình diện chung, tỷ lệ CAR này cũng rất khác nhau giữa các ngân hàng và nhóm ngân hàng.
- Để thử sức đề kháng (stress test) của các ngân hàng, giả sử nếu như NPL của hệ thống tăng thêm 10% (từ mức 3.1% theo số liệu của NHNN tại 30/6/2011 lên 13.1%) và giả sử phải lập dự phòng đầy đủ (100% cho tất cả nợ nhóm 2 đến nhóm 5) thì mức chi phí sẽ tăng thêm khoảng 10 tỷ USD.
- Khi đó, vốn chủ sở hữu của hệ thống ngân hàng Việt nam sẽ chỉ còn 4 tỷ USD.
- Và do đó, việc rà soát cụ thể và chính sác khả năng mất vốn của hệ thống ngân hàng theo chúng tôi là cấp thiết hơn bao giờ hết,.
- Chúng ta chỉ có thể biết được tình hình tài chính và vốn thực tế của các ngân hàng sau khi thực hiện xong công tác rà soát này.
- Thứ ba, liên quan đến vấn đề thanh khoản, các diễn biến về cuộc đua lãi suất gần đây của các ngân hàng đã cho thấy những khó khăn về thanh khoản của hệ thống và nó đã phản ánh vào mức lãi suất qua đêm lên đến hơn 20% trong đầu tháng 10/2011.
- Theo biểu đồ đường cong lãi suất dưới đây, các ngân hàng đã sẵn sàng trả lãi suất ngắn hạn cao hơn lãi suất dài dạn và các ngân hàng phải huy động vốn bằng mọi giá để giải tỏa tạm thời vấn đề căng thẳng về luồng tiền.
- Vấn đề thanh khoản của hệ thống còn thể hiện ở việc nhiều cán bộ tín dụng tại nhiều ngân hàng cũng được giao nhiệm vụ đi tiếp thị trực tiếp khách hàng để huy động vốn tiết kiệm.
- Rất hiếm như ở Việt Nam, người gửi tiết kiệm lại được “mặc cả” với ngân hàng về lãi suất.
- Trên thị trường quốc tế, khi Lehman Brothers phá sản vào thời điểm tháng 10/2008, thị trường tiền tệ hoảng loạn các ngân hàng không còn tin tưởng nhau nữa và dừng cho vay lẫn nhau hoặc đòi lãi cao, lãi suất LIBOR qua đêm đã tăng lên đến 8% trong khi đó lãi suất LIBOR kỳ hạn 6 tháng chỉ có 3%.
- Biểu đồ 3: Đường cong lãi suất huy động tại Việt Nam Nguồn: StoxPlus.
- Số liệu thống kê từ 4 ngân hàng lớn nhất, trước khi Thông tư 30 về trần lãi suất không kỳ hạn ra đời.
- Mar 2010 (Pre Regulation) Sep 2011 (Post Regulation) Rất hiếm như ở Việt nam, người gửi tiết kiệm lại được “mặc cả” với ngân hàng về lãi suất.
- 4 Tái cơ cấu không có nghĩa là chỉ hợp nhất các ngân hàng nhỏ Nhiều đánh giá trên các phương tiện thông tin đại chúng của chúng ta cho rằng số ngân hàng tại Việt Nam đã quá nhiều so với quy mô của nền kinh tế và một phần của tái cấu trúc là hợp nhất các ngân hàng nhỏ.
- Việc hợp nhất các ngân hàng nhỏ là cần thiết để tăng năng lực cạnh tranh và tăng hiệu quả hoạt động.
- Nhưng theo tác giả thì mục tiêu quan trọng nhất đối với hệ thống ngân hàng Việt nam hiện nay để tái cơ cấu thành công thì cần phải xử lý được ba vấn đề chính là 1) tình hình nợ xấu nổ chậm, 2) tỷ lệ vốn chủ sở hữu thấp và 3) thiếu thanh khoản trong hệ thống ngân hàng.
- Và như thế không phân biệt bất cứ ngân hàng lớn hay ngân hàng nhỏ, mà cái chính là phụ thuộc vào việc đánh giá kỹ lưỡng các vấn đề này ở từng ngân hàng.
- Việc xét đến số lượng ngân hàng nhiều hay ít là một đề tài khác về chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng phục vụ cộng đồng và phụ thuộc vào chiến lược của mỗi ngân hàng.
- Thực tế theo quan sát của chúng tôi có nhiều ngân hàng có quy mô nhỏ tại Việt Nam như Liên Việt Bank hoạt động vẫn tốt và hiệu quả.
- Nhìn rộng hơn, một số quốc gia duy trì hệ thống ngân hàng lớn như Đài Loan có gần 100 ngân hàng nhưng họ chỉ có 20 triệu dân, Indonesia có 121 ngân hàng, hoặc nước Mỹ có tới 6.413 ngân hàng nhưng phần lớn là ngân hàng địa phương phục vụ một cộng đồng, một bang nhất định.
- Còn lại các ngân hàng lớn tập trung và phân định rõ hoạt động cốt lõi là ngân hàng đầu tư hoặc ngân hàng bán lẻ.
- Tái cơ cấu không có nghĩa là chỉ hợp nhất các ngân hàng nhỏ.
- 5 Các giải pháp để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Kinh nghiệm giải quyết các cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới cho thấy việc xác định kịp thời nợ xấu nợ dưới chuẩn, nhanh chóng huy động vốn tự có để bù đắp các khoản nợ này và thực hiện các biện pháp mạnh trong việc cơ cấu lại ngành ngân hàng là yếu tố thúc đẩy nhanh kinh tế nhanh hồi phục và khôi phục lại năng lực cho vay của lĩnh vực ngân hàng.
- Trong cuộc Khủng hoảng Tài chính Thế giới và Nợ công đang diễn ra, nhiều nước đã thực hiện các biện pháp mạnh mẽ và nhanh chóng giải cứu hệ thống ngân hàng để làm bàn đạp cho việc khôi phục kinh tế.
- Chính phủ Anh bỏ ra 37 tỷ Bảng (US$63 tỷ) vốn để quốc hữu hóa một phần ngân hàng Royal Bank of Scotland và Lloyds.
- Tác giả phân tích dưới đây các biện pháp mà các nước trên thế giới đã áp dụng thành công để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.
- Nhóm giải pháp 1: Tái cấu trúc về vốn tự có của các ngân hàng Mục tiêu chính của nhóm biện pháp này là phải xác định được mức vốn chủ sở hữu thực tế (sau khi đã lập dự phòng đầy đủ cho nợ dưới chuẩn NPL và giảm giá các tài sản) của hệ thống ngân hàng.
- Từ đó Chính phủ mới đưa ra được các biện pháp cụ thể ví dụ như yêu cầu các ngân hàng phát hành thêm vốn, cho vay thêm hoặc phải yêu cầu các ngân hàng có mức an toàn vốn thực tế dưới mức tối thiểu phải sáp nhập hoặc giải thể.
- Nếu các ngân hàng không có đủ số vốn tối thiểu tự có sẽ khó tồn tại và khó huy động được vốn trên thị trường do được coi là có mức đội rủi ro mất khả năng thanh toán cao.
- Giải pháp 1.1 Mua lại ngân hàng hay quốc hữu hóa một phần để tăng vốn Chính phủ có thể đầu tư vào vốn cổ phần của các ngân hàng.
- Khởi đầu tại Anh, Chính phủ đã mua cổ phiếu Royal Bank of Scotland (RBS) với giá 50.5 xu/cổ phiếu và sở hữu 67% ngân hàng này.
- Chính phủ Anh hiện cũng sở hữu 43% ngân hàng Lloyds.
- Chính phủ Hà lan hiện sở hữu Ngân hàng ABN Amro.
- Tuy nhiên, việc đầu tư vào các ngân hàng thương mại chỉ là tạm thời, chính phủ có chiến lược bán lại cổ phiếu cho khối tư nhân khi hai ngân hàng này hồi phục.
- Một điểm cực kỳ quan trọng và có thể khác với ở Việt Nam là, khi RBS có hệ số CAR rất thấp thì các ngân hàng và định chế tài chính khác sẽ cắt đứt quan hệ tín dụng với RBS và RBS sẽ mất khả năng vay vốn trên thị trường liên ngân hàng do lo ngại là số vốn còn lại của RBS sẽ không đủ để bù đắp các khoản lỗ trong tương lai.
- Chính phủ ra tay bằng cách mua cổ phiếu của ngân hàng với giá rất rẻ (50 xu/cổ phiếu) và yêu cầu RBS thực hiện chương trình tái cấu trúc tài sản và nguồn vốn trong đó bao gồm bán đi hết các tài sản không thuộc phạm vi hoạt động cốt lõi.
- Tương tự, ngân hàng Lloyds đã phải đóng cửa nhiều chi nhánh ở nước ngoài và bán 300 tỷ bảng tài sản (25% tổng tài sản) không nằm trong hoạt động cốt lõi.
- 11 Liên hệ Tác giả Harry Hoàn Trần CFA [email protected] Anh Hoàn là Chủ tịch StoxPlus Corporation và hiện là cố vấn về quản lý rủi ro cho ngân hàng Lloyds Bank tại Luôn Đôn.
- Anh Hoàn có bề dầy 16 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng tại Anh, Thụy Sỹ, Úc và Nhật bản.
- Năm 2001 anh Hoàn tham thực hiện dự án tái cấu trúc Ngân hàng Công thương do WB tài trợ.
- Thuân Nguyễn FCCA, [email protected] Anh Thuân là sáng lập viên và Tổng Giám đốc StoxPlus Corporation với bề dầy 13 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực kiểm toán, tư vấn tài chính và quản lý đầu tư tại Úc và Việt nam.
- StoxPlus Corporation StoxPlus là công ty hàng đầu Việt nam về dữ liệu, thông tin tài chính thông minh và và các sản phẩm phân tích, tư vấn chuyên sâu.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt