You are on page 1of 117

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRƯƠNG THỊ HẠNH

THỂ TÀI KÝ SỰ CHIẾN TRANH


TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1945 - 1975

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Nghệ An, 2015

0
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRƯƠNG THỊ HẠNH

THỂ TÀI KÝ SỰ CHIẾN TRANH


TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1945 - 1975

Chuyên ngành: Lí luận văn học


Mã số: 60.22.01.20

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:


PGS.TS. BIỆN MINH ĐIỀN

Nghệ An, 2015


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU......................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu........................................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu và giới hạn của đề tài...........................................11
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................12
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................12
6. Đóng góp và cấu trúc của luận văn.........................................................13
Chương 1: VAI TRÒ VÀ VỊ THẾ CỦA THỂ TÀI KÝ SỰ CHIẾN
TRANH TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945 – 1975.14
1.1. Bối cảnh chiến tranh và sự vận động, phát triển của văn học Việt Nam
1945 - 1975..................................................................................................14
1.1.1. Bối cảnh chiến tranh của văn học Việt Nam 1945 - 1975.................14
1.1.2. Sự chi phối của chiến tranh đến mọi phương diện của đời sống văn
học...............................................................................................................23
1.2. Bức tranh chung về thể loại văn học Việt Nam 1945 – 1975 và sự hình
thành dòng Ký sự chiến tranh.....................................................................27
1.2.1. Sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của các thể loại văn học.................27
1.2.2. Sự hình thành dòng ký sự chiến tranh...............................................31
1.3. Thể tài ký sự chiến tranh trong văn xuôi 1945 – 1975.........................33
1.3.1. Ưu thế và sức mạnh của thể loại ký trong phản ánh hiện thực và con
người thời đại..............................................................................................33
1.3.2. Vai trò và vị thế đặc biệt của thể tài ký sự chiến tranh......................35
Chương 2: KÝ SỰ CHIẾN TRANH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM 1945 -
1975 NHÌN TRÊN PHƯƠNG DIỆN CHỨC NĂNG VÀ NỘI DUNG
CỦA THỂ LOẠI..........................................................................................38
1

2.1. Một số vấn đề lý thuyết về chức năng và nội dung của thể loại văn học
.....................................................................................................................38
2.1.1. Về chức năng của các thể loại văn học.............................................38
2.1.2. Về nội dung của các thể loại văn học................................................40
2.2. Chức năng và nội dung của ký sự chiến tranh trong văn học Việt Nam
giai đoạn 1945 – 1975.................................................................................42
2.2.1. “Tái hiện”, “ghi lại” kịp thời hiện thực chiến tranh..........................42
2.2.2. Phản ánh chân thực con người trong chiến tranh..............................56
Chương 3: KÝ SỰ CHIẾN TRANH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
1945 – 1975 NHÌN TRÊN PHƯƠNG DIỆN THI PHÁP THỂ LOẠI....68
3.1. Một số vấn đề về thi pháp thể loại của ký và ký sự.............................68
3.1.1. Về thi pháp thể loại ký......................................................................68
3.1.2. Về thi pháp thể loại của ký sự và ký sự chiến tranh..........................73
3.2. Ký sự chiến tranh trong văn học Việt Nam 1945 - 1975 với nghệ thuật
lựa chọn sự kiện, nghệ thuật trần thuật và kết cấu......................................76
3.2.1. Nghệ thuật lựa chọn sự kiện, chi tiết.................................................76
3.2.2. Nghệ thuật trần thuật.........................................................................81
3.2.3. Nghệ thuật kết cấu.............................................................................85
3.3. Ký sự chiến tranh trong văn học Việt Nam 1945 – 1975 với nghệ thuật
tổ chức giọng điệu và ngôn ngữ..................................................................90
3.3.1. Nghệ thuật tổ chức giọng điệu..........................................................90
3.3.2. Nghệ thuật tổ chức ngôn ngữ............................................................97
KẾT LUẬN..............................................................................................106
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................108
1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trên hành trình của văn học Việt Nam, giai đoạn văn học 1945 –
1975 có một vị trí đặc biệt – giai đoạn văn học ba mươi năm chiến tranh.
Trong bối cảnh chiến tranh (chống hai “Đế quốc to” là Pháp và Mỹ), toàn
quân và dân ta đoàn kết, ra sức đánh giặc cứu nước, thực hiện lý tưởng
độc lập tự do, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây
cũng là giai đoạn nền văn học cách mạng đạt được nhiều thành tựu to
lớn. Cùng với nhiều thể loại văn học khác (thơ, truyện ngắn, tiểu
thuyết), ký đã tỏ rõ ưu thế và sức mạnh của mình trong việc phản ánh
hiện thực và con người thời chiến. Sự phát triển của thể loại ký (với
nhiều thể: ký sự, phóng sự, bút ký, tùy bút…) góp phần làm phong phú
diện mạo văn học 1945 – 1975.
1.2. Trong thành tựu kí văn học giai đoạn 1945 – 1975, ký sự là thể tài
tiêu biểu, gặt hái được nhiều thành công đáng kể, có đóng góp quan trọng
vào sự phát triển của văn học cách mạng giai đoạn này. Đặc biệt là bộ phận
ký sự chiến tranh đã góp một tiếng nói trong việc phản ánh chân thật hiện
thực chiến tranh lúc bấy giờ. Dòng ký sự chiến tranh với các tác phẩm tiêu
biểu như Trận Phố Ràng, Trong rừng Yên Thế (Trần Đăng), Ký sự Cao
Lạng (Nguyễn Huy Tưởng), Trận Thanh Hương (Nguyễn Khắc Thứ),
Chúng tôi ở Cồn Cỏ (Hồ Phương), Ký sự miền đất lửa (Nguyễn Sinh và Vũ
Kỳ Lân), Tháng ba ở Tây Nguyên (Nguyễn Khải), Bắc Hải Vân xuân 1975
(Xuân Thiều),… luôn luôn cập nhật những diễn biến phức tạp, gay go của
các trận đánh, các chiến dịch của quân và dân ta trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mĩ. Ký sự phản ánh nhiều mặt của hiện thực đời sống
gian khổ nhưng hào hùng của dân tộc ta trong công cuộc chống giặc ngoại
xâm giành lại độc lập và thống nhất đất nước. Bên cạnh những kỳ tích,
chiến công, ký sự đồng thời cũng thể hiện những hy sinh, mất mát, đau
2

thương của những người lính, sự tàn bạo của kẻ thù,… Dòng ký sự chiến
tranh ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt ấy mang đậm cảm hứng lịch sử dân
tộc với âm điệu hùng tráng, lãng mạn đã thực sự khẳng định vị trí của
mình, xứng đáng là “đội quân xung kích” của văn học thời kỳ chiến tranh.
Thực hiện đề tài này chúng tôi sẽ có điều kiện tìm hiểu sâu hơn những đặc
điểm của ký sự chiến tranh cũng như những thành tựu và quy luật vận động
của thể loại kí trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975.
1.3. Từ trước đến nay (thời điểm người làm luận văn), hầu hết các bài
viết, bài nghiên cứu chỉ nêu lên những đánh giá chung về thể loại kí hoặc
một số bút kí, tùy bút của một số tác giả tiêu biểu như Nguyễn Tuân,
Hoàng Phủ Ngọc Tường,… Chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về
thể tài ký sự chiến tranh trong văn học Việt Nam 1945 – 1975. Mặt khác,
công tác giáo dục truyền thống cách mạng, truyền thống yêu nước cho thế
hệ trẻ hôm nay và mai sau, đặc biệt qua con đường văn học nghệ thuật
(trong đó có sự tham gia của các tác phẩm ký sự chiến tranh) có vai trò
quan trọng đặc biệt.
Việc thực hiện đề tài này không chỉ có ý nghĩa góp thêm tiếng nói
khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của ký sự chiến tranh giai đoạn
1945 – 1975, mà còn có ý nghĩa thực tiễn, trước hết là giúp cho người viết
luận văn trong công tác chuyên môn, giảng dạy văn học trong nhà trường
phổ thông.
Chính vì những lý do trên, chúng tôi chọn Thể tài ký sự chiến tranh
trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 làm đề tài nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Về thể loại ký trong văn học Việt Nam hiện
2.1.1. Quan niệm ký và các thể ký
Trong lịch sử văn học, sự phát triển của thể loại ký gắn liền với những
giai đoạn có những thay đổi lớn lao, với sự hình thành những hiện tượng
của cuộc sống chưa được nghiên cứu. Thể loại ký cho phép nhanh chóng
3

tái tạo những hiện tượng mới, khắc họa những nét cơ bản nhất của những
hiện tượng đó. Ký là một thể loại văn học mang tính thời sự, nhạy bén và
kịp thời. Nó có khả năng ghi nhận và chuyển tải những sự kiện của đời
sống và con người mới một cách nhanh nhạy và nóng hổi nhất. Bên cạnh
các thể loại khác, ký là một thể loại thu hút được sự quan tâm của một bộ
phận lớn độc giả và giới nghiên cứu. Trên diễn đàn văn học Việt Nam vào
những năm 60, 70 của thế kỷ XX đã xuất hiện một loạt vấn đề về thể ký:
Ký có phải là văn học không? Đặc trưng của ký? Vấn đề giữa ký văn học
và ký báo chí… Trên phương diện lý luận có nhiều ý kiến khác nhau về
khái niệm ký.
Trong lịch sử văn học trung, cận đại, nội hàm khái niệm ký rất gần gũi
với các thuật ngữ: chí, biên, lục, kỷ… Lịch sử văn học Trung Quốc ghi
nhận sự có mặt và vai trò quan trọng đặc biệt của thể loại ký, một thể loại
đã có cả một bề dày phát triển từ rất sớm ở Trung Quốc. Sử ký của Tư Mã
Thiên xuất hiện trước khi có sự thống nhất Trung Quốc cách đây mấy ngàn
năm. Thực chất các loại tiểu thuyết chí nhân, chí quái, thoại bản, tiểu thuyết
lịch sử, tiểu thuyết dã sử... trong văn học cổ trung đại Trung Quốc ít nhiều
đều có tính chất ký.
Ở Việt Nam, những tác phẩm ký nổi tiếng cũng đã xuất hiện từ sớm
như Thượng kinh ký sự, Vũ trung tùy bút,… Sang thời hiện đại, thể loại này
càng phát triển mạnh mẽ và gặt hái được nhiều thành công. Thể loại ký
ngày càng được độc giả quan tâm cả trên hai phương diện lý thuyết và thực
tiễn sáng tác.
Theo Từ điển văn học (bộ mới), ký là “Thể văn tự sự viết về người thật,
việc thật, có ý nghĩa thời sự, trung thành với hiện thực ở mức cao”[17, 47].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: Ký là “một loại hình văn học trung
gian, nằm giữa báo chí và văn học gồm nhiều thể, chủ yếu là văn xuôi tự sự
như bút ký, hồi ký, du ký, phóng sự, ký sự, nhật kí, tùy bút…”[12, 162].
Trong cuốn này các tác giả nhấn mạnh vai trò tôn trọng sự thật của thể loại
4

ký. “Nhà văn viết ký luôn chú ý đảm bảo cho tính xác thực của hiện thực
đời sống được phản ánh trong tác phẩm”[12].
Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học xác định: “Ký là tên gọi
chung của một nhóm thể tài nằm ở phần giao nhau giữa văn học và ngoài
văn học (báo chí, ghi chép…), chủ yếu là văn xuôi tự sự” [3, 179].
Theo Hà Minh Đức trong cuốn giáo trình Lý luận văn học, “Ký không
phải là một thể loại đồng nhất mà bao gồm nhiều hình thức ghi chép, miêu
tả và biểu hiện về cuộc sống trong văn xuôi từ ký sự, phóng sự, bút ký, du
ký đến nhật ký, tùy bút, tiểu phẩm văn học, bút ký chính luận”[9, 190].
Căn cứ vào những cơ sở khác nhau, giới nghiên cứu đã đưa ra những
ý kiến đánh giá khác nhau về các thể ký. Có người căn cứ vào phương thức
biểu hiện và chất liệu kết cấu để chia ký thành ba loại: ký tự sự, ký trữ tình
và ký chính luận. Lại có người căn cứ vào bút pháp và đối tượng được phản
ánh để chia ký thành hàng chục tiểu loại như: phóng sự, ký sự, tùy bút, bút
ký, hồi ký, nhật ký, du ký, chính luận, tản văn…
Như vậy, có thể thấy có rất nhiều quan niệm khác nhau về ký và các
thể ký. Dù đứng ở góc độ nào các nhà nghiên cứu cũng khẳng định những
biểu hiện của đời sống có thật. Ký phản ánh những vấn đề, sự kiện, con
người thật điển hình, luôn cố gắng đảm bảo tính chân thực, chính xác của
nội dung. Ký có hình thức co giãn thể loại linh hoạt. Chính những điều đó
đã tạo cho ký một diện mạo riêng, tiếng nói riêng trong việc phản ánh hiện
thực. Cũng chính điều này đã giúp ký tạo ra một kênh giao tiếp riêng đối
với công chúng bạn đọc.
Về cơ bản ký khác với truyện (truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết).
Truyện thừa nhận vai trò của kết cấu và tưởng tượng, còn ký là một loại
hình văn học bên cạnh thơ, tiểu thuyết và kịch, ký phản ánh sự việc và con
người có thật trong cuộc sống. Tính chính xác tối đa là đặc trưng cơ bản
của ký, do đó sức hấp dẫn, sức thuyết phục của ký một phần lớn chính ở sự
việc được phản ánh trong tác phẩm.
5

Ký đa dạng về tiểu loại, chính điều này tạo ra đặc trưng riêng của ký -
tính nhanh nhạy, kịp thời, chính xác. Sự phân loại của ký cũng có những phức
tạp về cấu trúc cũng như việc xác định ranh giới thể loại. Đối tượng phản ánh
của ký đa dạng và phong phú, mỗi thể ký ứng với một đối tượng cụ thể.
Với những đặc trưng riêng của mình, ký là một trong những thể loại
năng động của loại hình văn xuôi nghệ thuật. Trong suốt cả thế kỷ XX, ký
đã có sự vận động và đổi mới. Ký đã phát huy được sở trường ở các tiểu
loại ký, đáp ứng được yêu cầu của công chúng và thời đại, gặt hái được
nhiều thành tựu đáng kể. Cùng với các loại hình văn xuôi khác, ký đã
chiếm một vị trí xứng đáng trong đời sống văn học, trở thành một bộ phận
không thể tách rời trong tiến trình vận động và phát triển của văn học Việt
Nam thế kỷ XX.
2.1.2. Về thực tiễn sáng tác thuộc thể loại ký, ký sự trong văn học
Việt Nam hiện đại
Ký ra đời rất sớm trong lịch sử văn học nhân loại nhưng phải đến thế
kỷ XIX ký mới thực sự phát triển mạnh mẽ. Ở Việt Nam, những tác phẩm
ký nổi tiếng đã xuất hiện từ sớm. Nhiều nhà văn Việt Nam đã thử sức mình
ở thể loại ký. Những tác phẩm ký đầu tiên manh nha từ thế kỷ X dưới dạng
văn bản viết bằng dao, đúc trên bia và chuông khánh. Đến thể kỷ XV, ký
bắt đầu thể hiện dưới dạng các văn bản bằng chữ Hán. Từ thế kỷ XVIII,
đặc biệt là thế kỷ XIX ký mới thực sự ra đời như Thượng kinh ký sự, Vũ
trung tùy bút…
Đặc biệt từ sau Cách mạng tháng Tám, ký giữ một vai trò quan trọng.
Nhiều tác phẩm ký lần lượt xuất hiện góp phần tạo nên bộ mặt đa dạng của
đời sống văn học: Việc làng, Tập án cái đình - Ngô Tất Tố, Ngõ hẻm ngoại
ô - Đình Lạp, Tôi kéo xe, Tam Lang - Vũ Trọng Phụng… Trong văn học
cách mạng, thể loại ký bắt đầu từ sáng tác của Nguyễn Ái Quốc những năm
20 của thế kỷ XX. Sau Cách mạng tháng Tám đến nay có nhiều tác phẩm
ký có giá trị: ký sự của Trần Đăng, Ký sự Cao Lạng của Nguyễn Huy
6

Tưởng, Trận Thanh Hương của Nguyễn Khắc Thứ, các tác phẩm ký sự của
Nguyễn Khải, Xuân Thiều, Hoàng Phủ Ngọc Tường..., những tác phẩm ấy
đã phản ánh kịp thời, nhiều mặt của hiện thực bộn bề nhưng phong phú.
Bước vào công cuộc chống Mĩ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, ký luôn có mặt hàng đầu, trở thành vũ khí xung kích: Họ sống và chiến
đấu (Nguyễn Khải), Người mẹ cầm súng (Nguyễn Thi), Chúng tôi ở Cồn
Cỏ (Hồ Phương), Sống như Anh (Trần Đình Vân), Ký sự miền đất lửa
(Nguyễn Sinh và Vũ Kỳ Lân), Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (Nguyễn Tuân)…
Đặc biệt là hàng loạt ký sự về mùa xuân đại thắng 1975, ghi lại thời điểm
hào hùng của dân tộc ta trong công cuộc đánh Mĩ cứu nước: Tháng ba ở
Tây Nguyên của Nguyễn Khải, Bắc Hải Vân xuân 1975 của Xuân Thiều,
Nhật ký chiến dịch của Nguyễn Thành Vân – Nguyễn Trọng Oánh…
Sau năm 1975 đến nay, thể ký tiếp tục thể hiện vai trò của mình trong
việc tiếp cận đời sống thời hậu chiến. Hàng loạt bài ký, phóng sự ra đời thu
hút sự quan tâm của công chúng bạn đọc: Cái đêm hôm ấy đêm gì (Phùng
Gia Lộc), Chuyện ông vua lốp (Nhật Linh), Chuyện làng ngày ấy (Võ Văn
Trực), ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường, của Phan Quang… “Ký đã đáp ứng
được yêu cầu nào đó của nghệ thuật và tự khẳng định ký không phải thừa
so với truyện ngắn cũng không phải là thiếu so với tiểu thuyết” (Hoàng Phủ
Ngọc Tường).
Ký là một thể loại văn học mang tính thời sự, nhạy bén và kịp thời nhất.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ cũng như trong công
cuộc đổi mới đất nước, ký đã xuất hiện kịp thời, mang hơi thở của đời sống,
ghi lại khá đầy đủ diện mạo và tiến trình cách mạng, các thời đoạn, các sự
kiện lịch sử chủ yếu của đời sống đất nước và con người Việt Nam.
Ký sự là một thể của ký thiên về tự sự. Ký sự ghi chép một câu
chuyện, một sự kiện tương đối hoàn chỉnh. Ký sự thiên về tái hiện sự việc
có thật, người viết tôn trọng tiếng nói khách quan của sự kiện. Trong văn
học Việt Nam, ở thế kỷ XVIII, Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác là tác
7

phẩm tiêu biểu cho thể loại này. Tác phẩm đã tái hiện chân thực, sinh động
bức tranh xã hội phong kiến lúc bấy giờ. “Thượng kinh ký sự là tác phẩm
ký nghệ thuật đích thực đầu tiên của văn học Việt Nam, là đỉnh cao và là sự
hoàn thiện thời trung đại”[7, 374].
Sau Cách mạng tháng Tám, hiện thực kháng chiến và công cuộc bảo
vệ tổ quốc là mảnh đất màu mỡ cho ký sự phát triển mạnh mẽ. Những trang
ký sự của Trần Đăng, Nguyễn Khắc Thứ, Nguyễn Huy Tưởng, Hoàng Phủ
Ngọc Tường, Xuân Thiều, Nguyễn Khải… đã ghi lại một cách trung thực,
đầy xúc động những diễn biến của sự kiện vĩ đại trong lịch sử chống xâm
lược của dân tộc. Khẳng định vị trí của ký sự viết về chiến tranh trong thời
kỳ lịch sử đầy kỳ tích và bi tráng của dân tộc.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, các tác phẩm ký sự của Trần
Đăng, Nguyễn Khắc Thứ, Nguyễn Huy Tưởng… là sự thể hiện nhanh nhạy,
kịp thời về con người và các sự kiện lịch sử như chiến dịch Biên giới năm
1950, chiến dịch Cao - Bắc - Lạng. Những trận đánh quyết liệt giữa ta và
địch diễn ra trên những địa danh như Đông Khê, Thất Khê được tái hiện
chân thực và đầy cảm xúc.
Bước sang giai đoạn chống Mĩ cứu nước, một số ký sự đã khẳng định
được vị trí xứng đáng của mình trong đời sống văn học lúc bấy giờ: Họ sống
và chiến đấu, Tháng ba ở Tây Nguyên (Nguyễn Khải), Chúng tôi ở Cồn Cỏ
(Hồ Phương), Ký sự miền đất lửa (Nguyễn Sinh – Vũ Kỳ Lân)… Tháng ba
ở Tây Nguyên đã làm sống dậy những sự kiện lịch sử diễn ra trong thời điểm
cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ở một phương diện
khác, Ký sự miền đất lửa đã ghi lại không khí của một thời kỳ chiến đấu kiên
cường, oanh liệt trên mảnh đất Vĩnh Linh anh hùng trong cuộc đọ sức trường
kỳ với đế quốc Mĩ.
Các tác phẩm ký sự đã ghi lại một cách trung thực, đầy xúc động
những diễn biến của những sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Thực tế của
đời sống cách mạng và kháng chiến, của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
8

quốc đã tạo điều kiện cho thể tài ký sự phát triển, đáp ứng được yêu cầu đặt
ra của thời đại.
Do thực tiễn sáng tác theo thể loại ký ngày càng phát triển mạnh nên
lịch sử nghiên cứu về ký cũng có một bề dày đáng kể. Tuy nhiên các công
trình nghiên cứu về ký cũng chủ yếu là từ những tác phẩm cụ thể. Thành
tựu nghiên cứu về nó, trên phương diện lý thuyết còn hạn chế, chủ yếu
được nêu ở các bộ từ điển văn học, các công trình lịch sử văn học. Có thể thấy
Hoàng Ngọc Hiến là người quan tâm nhiều đến thể loại này, thể hiện ở các
công trình của ông: Văn học - học văn (tiểu luận và phê bình, 1992), Văn học
và học văn (tiểu luận và phê bình, 1997), Văn học gần và xa (tiểu luận,
2000),... Các công trình nghiên cứu về văn học Việt Nam hiện đại, tiêu biểu
như: Văn học trên hành trình của thế kỷ XX (Phong Lê, 1997), Văn học Việt
Nam hiện đại - lịch sử và lý luận (Phong Lê, 2003), Lí luận và phê bình văn
học (Trần Đình Sử, 1996), Những vấn đề thi pháp học hiện đại (Trần Đình
Sử, 1993), Văn học Việt Nam thế kỷ XX (Phan Cự Đệ chủ biên, 2004), Nhà
văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ
XX cho tới 1945 (Vương Trí Nhàn, 2005), v.v... cũng có bàn đến thể loại ký ở
một số tác phẩm và giai đoạn văn học cụ thể,...
2.2. Lịch sử nghiên cứu ký sự chiến tranh trong văn học Việt
Nam 1945 – 1975
2.2.1. Về ký sự chiến tranh trong sáng tác của các tác giả tiêu biểu
Trong lịch sử văn học Việt Nam, kí là một thể loại ra đời tương đối
sớm. Có nhiều tác phẩm kí ra đời trong thời trung đại như: Thượng kinh kí
sự (Lê Hữu Trác), Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ), Tây hành nhật kí
(Phạm Phú Thứ),… Bước sang thế kỷ XX, thời kỳ 1935 - 1940 có các kí sự
như: Việc làng, Tập án cái Đình của Ngô Tất Tố, các phóng sự khác của Vũ
Trọng Phụng…
Trong văn học cách mạng, thể loại kí bắt đầu từ sáng tác của Nguyễn
Ái Quốc những năm 1920. Đặc biệt là từ sau giai đoạn cách mạng tháng
9

Tám, cùng với sự phát triển của nền văn học, đã có nhiều tác phẩm kí có
giá trị như Truyện và kí sự của Trần Đăng, Kí sự Cao Lạng của Nguyễn
Huy Tưởng, Họ sống và chiến đấu của Nguyễn Khải… Trong văn học giai
đoạn này thể loại kí nói chung, thể tài kí sự, hồi kí, bút kí nói riêng phát
triển mạnh mẽ, tạo nên một mảng văn học có vị trí đặc biệt trong nền văn
học hiện đại.
Cho đến nay (thời điểm người viết luận văn) chưa có công trình nào
đi sâu tìm hiểu Thể tài kí sự chiến tranh trong văn học Việt Nam giai đoạn
1945 - 1975, mà chỉ xuất hiện những ý kiến, những bài viết ngắn và thường
nói chung về thể loại kí.
Cuốn Văn học Việt Nam 1945-1975 (tập II) có đề cập đến ký của
Nguyễn Khải: “Nguyễn Khải tập trung viết về cuộc chiến đấu chống Mỹ
cứu nước. Ông theo dõi, khảo sát con người xã hội chủ nghĩa, ca ngợi nó
trên đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng”[33, 258].
Hà Minh Đức trong cuốn Ký viết về chiến tranh cách mạng và xây
dựng chủ nghĩa xã hội, trong mục nói về ký sự có đề cập đến ký sự của
Trần Đăng, Nguyễn Huy Tưởng… và khẳng định có nhiều đóng góp.
Năm 2007, tác giả Hà Công Tài và Phan Diễm Hương tuyển chọn và
giới thiệu cuốn Nguyễn Khải về tác giả và tác phẩm, trong đó đã có những
trang đánh giá về tác phẩm kí sự Tháng ba ở Tây Nguyên của Nguyễn
Khải: “Ghi lại một cách trung thực đầy xúc động những diễn biến của sự
kiện lớn vào bậc nhất trong lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc ta… kí sự
Tháng ba ở Tây Nguyên của Nguyễn Khải cũng như thiên hồi kí Đại thắng
mùa xuân của Đại tướng Văn Tiến Dũng là một trong những thể nghiệm
của thể loại này trong việc ghi lại những ngày, tháng, năm 1975 đầy biến cố
dân tộc”[50, 320].
Cuốn Từ điển văn học bộ mới của nhóm tác giả Đỗ Đức Hiểu,
Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá đồng chủ biên đề cập đến
các tác phẩm kí sự chống Mỹ giai đoạn 1954 - 1975 như Chúng tôi ở Cồn
10

Cỏ, Sóng Hòn Mê… Ngoài ra các tác giả còn khẳng định những thành tựu
về thể kí sự mà Nguyễn Khải đã gặt hái được: “Bám sát cuộc sống hiện tại,
hướng ngòi bút về những vấn đề thời sự của đời sống, tác phẩm của
Nguyễn Khải có sức mạnh của lí trí tỉnh táo, nhạy bén, năng lực phân tích
tâm lý và diễn biến tư tưởng cùng với những nhận xét thông minh sắc sảo”
[17, 1156].
Trong Văn học 1975 - 1985 tác phẩm và dư luận, nhóm tác giả Ngô
Trang, Vân Trang, Bảo Hưng sưu tầm và chủ biên, khi bàn về các tác phẩm
ký sự giai đoạn 1954 - 1975 có đánh giá về tác phẩm Ký sự miền đất lửa:
“Phản ánh hiện thực nóng bỏng và đầy tinh oanh liệt trên mảnh đất Vĩnh
Linh kỳ thú, anh hùng, ký sự Miền đất lửa có một sức hấp dẫn kỳ lạ. Trước
hết là sự chân thật, sinh động, là điển hình của các sự kiện, nhân vật, sự
phong phú của hiện thực đất nước”...
2.2.2. Về ký sự chiến tranh với tư cách là một thể tài trong sáng tác
của cả một giai đoạn hay một thời kỳ văn học
Từ năm 1966 đến 1968, khi tạp chí văn học mở đợt trao đổi ý kiến về
thể kí và vấn đề viết về người thật, việc thật đã có nhiều bài gửi đến. Trong
các bài viết, các tác giả chủ yếu đề cập đến bút kí, tùy bút giai đoạn này
như bài viết của Phan Nhân – Suy nghĩ về khả năng của thể kí (Qua một số
bút kí ghi chép, hồi kí của miền Nam).
Trong công trình nghiên cứu Lý luận văn học (1998), Hà Minh Đức
cho rằng: “Các thể kí văn học chủ yếu là những hình thức ghi chép linh hoạt
trong văn xuôi với nhiều dạng tường thuật, miêu tả, biểu hiện bình luận về
những sự kiện và con người có thật trong cuộc sống với nguyên tắc phải tôn
trọng tính xác thực và chú ý tính thời sự của đối tượng miêu tả” [9, 217].
Trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỉ XX Phan Cự Đệ chủ biên, nói
đến những thành tựu của kí sự Việt Nam sau cách mạng tháng Tám năm
1945: “Kết thúc giai đoạn chống Mỹ cứu nước là một loạt kí sự về mùa xuân
đại thắng năm 1975, ghi lại thời điểm hào hùng của một thời đánh Mỹ và
11

thắng Mỹ: Tháng ba ở Tây Nguyên (Nguyễn Khải), Bắc Hải Vân Xuân 1975
(Xuân Thiều), Xuân Lộc - Sài Gòn (Nam Hà)…”[7, 410 - 411).
Trong cuốn Giáo trình lí luận văn học (tập II) – tác phẩm và thể loại
văn học, nhóm tác giả Trần Đình Sử, Phan Huy Dũng, La Khắc Hòa, Phùng
Ngọc Kiếm, Lê Lưu Oanh, ngoài việc đưa ra những nhận định mang tính
khái quát về thể loại, các tác giả còn đánh giá cao sự đóng góp của thể kí,
đặc biệt là kí cách mạng trong nền văn học Việt Nam.
Trong cuốn Văn học Việt Nam 1945 – 1975 (tập I) do Nguyễn Đăng
Mạnh chủ biên, các tác giả đã nêu lên những thành tựu của kí, kí sự chiến
tranh: “Đặc biệt là có sự bùng nổ của thể kí, ghi lấy bao nhiêu là sự tích
anh hùng, chia vui với quân dân cả nước và giữ lại tư liệu cho sáng tác dài
hơi” [32, 146]...
2.2.3. Vấn đề Thể tài ký sự chiến tranh trong văn học Việt Nam
giai đoạn 1945-1975
Thể tài ký sự chiến tranh trong văn học Việt Nam 1945-1975 còn là
vấn đề mới trong nghiên cứu, tìm hiểu. Đề tài không trùng với công trình
hay luận án, luận văn, bài báo nào đã công bố.
Tuy nhiên, một số công trình nghiên cứu (đã nêu trên đây) mặc dù
chưa chuyên sâu về thể tài ký sự chiến tranh giai đoạn 1945 – 1975 nhưng
ít nhiều cũng đã đề cập đến một số tác phẩm cụ thể. Đây là những đóng
góp đáng quý. Tiếp thu thành tựu của những người đi trước, luận văn này đi
sâu tìm hiểu thể tài ký sự chiến tranh trong văn học Việt Nam giai đoạn
1945 – 1975 với một cái nhìn toàn diện, hệ thống.
3. Đối tượng nghiên cứu và giới hạn của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Thể tài ký sự chiến tranh trong
văn học Việt Nam 1945 – 1975.
12

3.2. Giới hạn của đề tài


Đề tài bao quát tất cả các tác phẩm ký sự giai đoạn 1945 – 1975 viết
về chiến tranh.
Văn bản tác phẩm dùng để khảo sát, luận văn dựa vào bộ sách Ký sự
chiến tranh (2 tập), Nxb Văn học, Hà Nội, 2006.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1.1. Mục đích nghiên cứu
Qua khảo sát các tác phẩm ký sự giai đoạn 1945 – 1975 viết về chiến
tranh, luận văn nhằm tìm và xác định đặc điểm của dòng ký sự này, từ đây
đề xuất một số vấn đề về nghiên cứu thể tài ký sự chiến tranh trong văn học
Việt Nam hiện đại…
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.2.1. Đưa ra một cái nhìn chung về thể loại ký và ký sự chiến tranh
trong văn học Việt Nam thời hiện đại.
4.2.2. Khảo sát, phân tích, đánh giá nội dung, giá trị của ký sự chiến
tranh trong văn học Việt Nam hiện đại (giai đoạn 1945 – 1975).
4.2.3. Khảo sát, phân tích, đánh giá những thành công (và cả hạn chế)
về nghệ thuật thể hiện của ký sự chiến tranh trong văn học Việt Nam hiện
đại (giai đoạn 1945 – 1975).
Cuối cùng rút ra một số kết luận về ký sự chiến tranh trong văn học
Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975, đề xuất một số vấn đề về tiếp nhận và
nghiên cứu thể tài ký sự trong văn học Việt Nam hiện đại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau,
trong đó có các phương pháp chủ yếu: Phương pháp thống kê – phân
loại, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp so sánh – đối
chiếu, phương pháp cấu trúc – hệ thống …
13

6. Đóng góp và cấu trúc của luận văn


6.1. Đóng góp
Luận văn là công trình đầu tiên tìm hiểu thể tài ký sự chiến tranh
trong văn học Việt Nam 1945 – 1975 với cái nhìn tập trung và hệ thống.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
việc tìm hiểu, nghiên cứu ký sự chiến tranh trong văn học Việt Nam 1945 –
1975 nói riêng, ký sự Việt Nam hiện đại nói chung.
6.2. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận văn được triển
khai trong ba chương:
Chương 1. Vai trò và vị thế của thể tài ký sự chiến tranh trong văn học
Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975.
Chương 2. Ký sự chiến tranh trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 –
1975 nhìn trên phương diện chức năng và nội dung của thể loại.
Chương 3. Ký sự chiến tranh trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 –
1975 nhìn trên phương diện thi pháp thể loại.
Cuối cùng là tài liệu tham khảo.
14

Chương 1
VAI TRÒ VÀ VỊ THẾ CỦA THỂ TÀI KÝ SỰ CHIẾN TRANH
TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945 – 1975

1.1. Bối cảnh chiến tranh và sự vận động, phát triển của văn học
Việt Nam 1945 - 1975
1.1.1. Bối cảnh chiến tranh của văn học Việt Nam 1945 - 1975
Trong tiến trình của văn học Việt Nam, giai đoạn 1945 - 1975 có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây là quá trình ba mươi năm phát triển của văn
học cách mạng gắn liền với giai đoạn lịch sử có nhiều biến đổi quan trọng,
nhiều sự kiện liên tiếp nổ ra đã tác động đến vận mệnh dân tộc cũng như mọi
mặt của đời sống xã hội lúc bấy giờ. Những sự kiện lịch sử nổi bật có thể
chia làm hai giai đoạn nhỏ: giai đoạn 1945 – 1954, và giai đoạn 1955 –
1975.
Cách mạng tháng Tám (1945) thành công mở ra một kỷ nguyên mới
cho đất nước. Kỷ nguyên độc lập tự chủ. Ngày 2-9-1945 tại quảng trường
Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập, nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Nhưng chính quyền cách mạng non trẻ ngay
lúc đó đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, vừa phải đối mặt với
giặc đói và giặc giốt, vừa phải đối mặt với giặc ngoại xâm và bọn phản
động. Nền kinh tế kiệt quệ, ngân sách nhà nước hầu như trống rỗng, chính
quyền cách mạng chưa quản lý được ngân hàng Đông Dương. Trong lúc đó
quân Trung Hoa Dân Quốc tung ra thị trường các loại tiền của Trung Quốc
đã mất giá càng làm cho nền tài chính thêm rối loạn. Nông nghiệp lạc hậu,
nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 chưa được khắc phục, nạn lụt lớn
làm vỡ đê chín tỉnh Bắc Bộ, tiếp theo là hạn hán kéo dài làm cho hơn nửa
diện tích ruộng đất không thể cày cấy. Ngành công, thương nghiệp bị đình
đốn hoặc phá sản. Trình độ dân trí thấp, tàn dư văn hóa lạc hậu do chế độ
15

thực dân phong kiến để lại hết sức nặng nề, hơn 90% dân số mù chữ. Các tệ
nạn cũ như mê tín dị đoan, cờ bạc… ngày đêm hoành hành.
Trong lúc đó các thế lực thù trong giặc ngoài lăm le chờ thời cơ để
gây rối, hòng làm suy yếu và lật đổ nhà nước cách mạng. Quân đội các
nước đế quốc dưới danh nghĩa quân đồng minh giải giáp quân đội Nhật
Bản lũ lượt kéo vào Việt Nam. Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc có gần 20 vạn
quân Trung Hoa dân quốc. Theo sau quân Trung Hoa dân quốc là Việt Nam
quốc dân đảng, Việt Nam cách mạng đồng minh hội với âm mưu xúc tiến
thành lập một chính phủ bù nhìn. Dã tâm của chúng là tiêu diệt Đảng Cộng
sản, phá tan Việt Minh, lật đổ chính quyền cách mạng non trẻ của nhân dân
Việt Nam.
Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam có hơn một vạn quân Anh kéo vào tạo
điều kiện cho thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam.
Ngoài ra quân Nhật đang chờ để giải giáp, một bộ phận theo lệnh đế
quốc Anh đánh lại lực lượng vũ trang cách mạng tạo điều kiện cho quân
Pháp mở rộng chiếm đóng Nam Bộ.
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đứng trước tình thế hiểm nghèo
“ngàn cân treo sợi tóc”. Trong hoàn cảnh đó ngày 25-11-1945, Trung ương
Đảng ra bản chỉ thị Kháng chiến kiến quốc. Vượt qua mọi khó khăn Đảng
và nhân dân ta bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết “giặc
đói”, “giặc giốt” và khó khăn về tài chính. Ngày 6-1-1946, chính phủ nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa tổ chức cuộc tổng tuyển cử bầu quốc hội trong
cả nước. Thắng lợi của tổng tuyển cử bầu quốc hội đã giáng một đòn mạnh
mẽ vào âm mưu chia rẽ, lật đổ và xâm lược của đế quốc và tay sai, tạo cơ
sở pháp lý vững chắc cho Nhà nước cách mạng để thực hiện nhiệm vụ đối
nội, đối ngoại. Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
được quốc hội thông qua góp phần củng cố xây dựng chính quyền cách
mạng.
16

Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước
tổ chức hũ gạo cứu đói. Nhà nước tổ chức “ngày đồng tâm” để lấy gạo cứu
đói, không dùng lương thực để nấu rượu. Toàn dân hăng hái thi đua lao
động sản xuất, nạn đói được đẩy lùi, đời sống nhân dân được cải thiện, sản
xuất nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi. Chính phủ phát động quyên
góp, thực hiện “Tuần lễ vàng”, xây dựng “Quỹ độc lập”, từng bước giải
quyết những khó khăn về tài chính. Ngày 8-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
kí sắc lệnh thành lập “Nha bình dân học vụ”, kêu gọi mọi người đi học. Sau
một thời gian ngắn có trên 2,5 triệu người thoát nạn mù chữ. Việc bài trừ
mê tín dị đoan được quần chúng nhân dân hưởng ứng sôi nổi, kết hợp xây
dựng nếp sống văn hóa mới.
Những thế lực thù địch lần lượt bị khuất phục bằng chính sách ngoại
giao kiên quyết nhưng uyển chuyển của ta. Khi mọi biện pháp ngoại giao
không còn hiệu quả, trước dã tâm của Pháp nhằm áp đặt chế độ thuộc địa
lên nước ta một lần nữa, cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu. Ngay sau khi
thực dân Pháp trở lại xâm lược, nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn cùng nhân
dân Nam Bộ đứng lên kháng chiến. Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh cùng nhân dân cả nước hướng về ‘Thành đồng tổ quốc”, đồng thời
tích cực chuẩn bị đối phó với âm mưu mở rộng chiến tranh ra Bắc của
thực dân Pháp. Mặc dù đã ký hiệp định sơ bộ 6 – 3 và tạm ước 14 – 9,
thực dân Pháp vẫn đẩy mạnh việc chuẩn bị chiến tranh xâm lược. Hạ
tuần tháng 11 – 1946, quân Pháp tiến công ở Hải Phòng, Lạng Sơn, cho
quân đổ bộ lên Đà Nẵng, chiếm đóng Hải Phòng. Tháng 12 – 1946, Pháp
gây hấn ở Hà Nội, chiếm trụ sở Bộ tài chính, gây ra vụ thảm sát ở phố
Hàng Bún. Ngày 18-12-1946, Pháp gửi tối hậu thư đòi giải tán lực lượng
tự vệ chiến đấu, để cho Pháp giữ gìn trật tự ở Hà Nội nếu không chúng
sẽ dành toàn quyền hoạt động vào sáng ngày 20-12-1946. Tình thế khẩn
cấp đã buộc Đảng và Chính phủ phải có quyết định kịp thời. Ngày 18-
17

12-1946, Ban thường vụ Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương quyết
định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc.
Đáp lời kêu gọi ngày 19-12-1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả nước
đứng lên đoàn kết, vừa đánh giặc vừa củng cố lực lượng, huy động sức
mạnh dân tộc chống giặc cứu nước.
Từ năm 1947 liên tiếp những chiến thắng quan trọng đã làm thay đổi
cục diện tương quan lực lượng giữa ta và địch. Với chiến dịch Việt Bắc
năm 1947, chúng ta đã làm thất bại hoàn toàn chiến lược đánh nhanh thắng
nhanh của thực dân Pháp, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài với ta.
Tiếp theo, chiến dịch Biên giới Thu – Đông năm 1950, tiêu hao một bộ
phận sinh lực địch; khai thông đường sang Trung Quốc và thế giới, củng cố
căn cứ địa Việt Bắc, đồng thời tạo những thuận lợi mới thúc đẩy cuộc
kháng chiến tiến lên. Sau chiến dịch Biên giới dành thắng lợi là chiến thắng
Hòa Bình đã tạo bàn đạp cho cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953
– 1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954) chấn động địa
cầu, buộc Pháp phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Đông Dương, rút hết
quân đội về nước, chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp trong gần một
thế kỷ trên đất nước Việt Nam.
Cuộc kháng chiến chín năm kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải
phóng, chuyển sang giai đoạn Cách mạng xã hội chủ nghĩa… chính quyền
kiểu mới ở các cấp từng bước được củng cố, tổ chức Đảng vững mạnh hơn.
Nhà nước tiến hành những biện pháp khắc phục khó khăn, văn hóa giáo
dục không ngừng được nâng cao, nạn mù chữ cơ bản được thanh toán,
tiếng Việt trở thành ngôn ngữ chính thức giảng dạy trong tất cả các cấp học.
Một số trường đại học được mở ra để đào tạo nhân tài cho đất nước.
Sau năm 1954, với việc kí kết và thực hiện hiệp định Giơnevơ, nước
Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị khác
nhau. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, tiến hành xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Ở miền Nam, sau khi Pháp rút khỏi khi chưa thực hiện cuộc hiệp thương
18

tổng tuyển cử thống nhất hai miền Nam – Bắc, (tháng 5 – 1956) Mỹ vào
thay chân Pháp, đưa Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền, âm mưu chia
cắt lâu dài nước Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn
cứ quân sự của Mỹ.
Từ năm 1954 – 1965, Đảng và nhân dân ta tiến hành xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mỹ và chính quyền Sài
Gòn ở miền Nam.
Đối với miền Bắc, nhiệm vụ cách mạng đặt ra là hoàn thành cải cách
ruộng đất (1954 – 1957). Cuộc cải cách ruộng đất từ cuối năm 1953 đến
năm 1956 đã thực hiện năm đợt cải cách, khẩu hiệu “người cày có ruộng”
đã hoàn thành. Mặc dù còn nhiều hạn chế song sau cải cách bộ mặt nông
thôn miền Bắc có nhiều thay đổi, nền kinh tế dần được khôi phục và bước
đầu cải tạo xã hội chủ nghĩa. Song song với cải cách ruộng đất là ổn định
trật tự xã hội, ổn định thị trường, từng bước phục hồi và nâng cao sản xuất,
phục hồi kinh tế quốc dân mà then chốt là sản xuất nông nghiệp. Cuối năm
1957, kế hoạch khôi phục kinh tế căn bản đã hoàn thành. Nông nghiệp,
công nghiệp, giao thông vận tải đã có những thay đổi. Lĩnh vực văn hóa,
giáo dục, y tế cũng phát triển nhanh chóng.
Với những thành quả đạt được trong giai đoạn khôi phục kinh tế,
miền Bắc bước vào giai đoạn cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế.
Đây là nhiệm vụ quyết định nhất trong sự nghiệp cách mạng của cả nước.
Kế hoạch Nhà nước 5 năm (1961 – 1965) được đề ra và thực hiện với mục
tiêu là bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Nhiều phong trào thi đua yêu nước sôi nổi đã diễn ra trên miền Bắc như:
Duyên hải, Đại phong, Thành công. Đặc biệt là phong trào làm việc mỗi
người bằng hai vì miền Nam ruột thịt đã huy động được mọi nguồn lực từ
nhân dân yêu nước để phát triển kinh tế. Không khí thi đua diễn ra trên
toàn miền Bắc, ở tất cả các ngành từ nông nghiệp, công nghiệp, thương
nghiệp, giáo dục và y tế. Công nghiệp được ưu tiên xây dựng, giá trị sản
19

lượng ngành công nghiệp nặng năm 1965 tăng 3 lần so với năm 1960. Các
ngành công nghiệp như điện cơ, cơ khí, luyện kim, hóa chất, vật liệu xây
dựng đã được hình thành và phát triển. Nông nghiệp, thực hiện chủ trương
xây dựng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc cao và nông trường quốc
doanh để làm cơ sở cho sự phát triển. Hệ thống giao thông đường bộ,
đường sắt, đường sông, đường hàng không được củng cố, việc đi lại trong
nước và giao thông quốc tế thuận lợi hơn. Hệ thống giáo dục từ phổ thông
đến đại học phát triển nhanh. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất tạo bước chuyển
biến mạnh cho nền kinh tế miền Bắc, góp phần thực hiện nhiệm vụ cách
mạng dân tộc ở miền Nam: “Thắng lợi đó đã tạo cho miền Bắc cơ sở chính
trị, tinh thần và vật chất để bảo vệ, liên tiếp đánh thắng các cuộc chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ sau này, đồng thời làm tròn nhiệm vụ cơ sở
của cách mạng giải phóng miền Nam, làm hậu phương lớn của tiền tuyến
miền Nam và là hậu phương lớn của cách mạng ba nước Đông
Dương”[14,179].
Ở miền Nam, sau khi hiệp định Giơnevơ được kí kết, Mỹ đã đưa Ngô
Đình Diệm lên làm thủ tướng bù nhìn, đưa lối sống Mỹ vào Việt Nam để
đồng hóa về mặt văn hóa đối vối từng lớp thanh - thiếu niên Việt Nam.
Chúng vừa dụ dỗ, mua chuộc, vừa mị dân, vừa đàn áp trắng trợn, cưỡng
bức dân ta trong các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, vu khống, tố cáo cộng
sản… Với những thủ đoạn tàn ác và dã man chúng đã khiến cho cách mạng
Việt Nam gặp không ít những khó khăn, tổn thất nặng nề. Nhiều phong trào
đấu tranh chống Mỹ - Diệm đã diễn ra, nhân dân miền Nam từ đấu tranh
chính trị đòi thi hành hiệp định rồi phát triển lên đấu tranh chính trị có vũ
trang tự vệ chống những chính sách khủng bố của kẻ thù. Từ năm 1957 đến
năm 1959, Mỹ và tay sai tăng cường dùng bạo lực khủng bố phong trào đấu
tranh của quần chúng cách mạng. Tháng 5 – 1959, chính quyền Sài Gòn ra
luật 10 – 59, lê máy chém đi khắp nơi để tiêu diệt cộng sản làm cho lực
lượng cách mạng bị tổn thất nặng nề. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta
20

từ chỗ nhỏ lẻ ở từng địa phương sau đó lan nhanh, phá vỡ từng mảng lớn
chính quyền của địch. Tiêu biểu là ngày 17-1-1960, phong trào Đồng Khởi
nổ ra ở Mỏ Cày - Bến Tre sau đó lan nhanh khắp Nam Bộ, Tây Nguyên và
một số nơi ở Trung Bộ. Phong trào Đồng Khởi thắng lợi, nhân dân miền
Nam làm chủ được nhiều thôn xã. Thắng lợi của “Đồng Khởi” dẫn đến sự
ra đời của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam (20-12-1960), đánh dấu
bước ngoặt của cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tấn
công, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên làm chiến tranh cách mạng. Từ cuối
năm 1960, Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”
(1961 – 1965). Chúng ra sức lập “ấp chiến lược” nhằm kìm kẹp và bóc lột
quần chúng, tách rời nhân dân với cách mạng. Nhân dân miền Nam lại tiếp
tục đấu tranh đẩy lùi âm mưu của địch, nhiều phong trào nổi dậy chống và
phá “ấp chiến lược” diễn ra gay go và quyết liệt. Nhất là các phong trào
đấu tranh của học sinh, sinh viên, tiểu thương, phật tử. Kết quả, nhân dân
miền Nam đã đẩy lùi nhiều cuộc tấn công, tiêu diệt nhiều đồn bốt của địch,
đến cuối năm 1962, cách mạng kiểm soát trên nửa tổng số ấp với gần 70%
số dân. Nội bộ Mỹ và tay sai lục đục, dẫn tới cuộc đảo chính, giết chết Ngô
Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. Cuối năm 1964, Mỹ thực hiện kế hoạch
Giôn Xơn - Mac Na Ma Ra. Kết hợp đấu tranh chính trị và binh vận các lực
lượng vũ trang giải phóng đẩy mạnh tấn công địch. Các Phong trào đô thị
và phong trào phá “ấp chiến lược” tiếp tục phát triển. Đến tháng 6 – 1965
xương sống của “Chiến tranh đặc biệt” bị bẻ gãy. Bước sang giai đoạn
(1965 – 1968), nhân dân miền Nam tiếp tục chiến đấu chống chiến lược
“chiến tranh cục bộ” của Mỹ. Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh, các nước thân
Mỹ và phương tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam. Chúng tiến hành
hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965 – 1966 và 1966 – 1967)
bằng hàng loạt cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” vào “đất thánh
Việt Cộng”. Kết hợp với việc tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc
nhằm phá hủy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và ngăn
21

chặn sự chi viện vào miền Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân
miền Nam phát động cao trào “tìm Mỹ mà đánh, tìm Mỹ Ngụy mà diệt”,
đập tan hai cuộc phản công chiến lược mùa khô của Mỹ. Cuộc tiến công và
nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 diễn ra đồng loạt trên toàn miền Nam
đã làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải tuyên bố “Phi Mỹ
hóa chiến tranh”, ngừng ném bom miền Bắc và ngồi vào bàn đàm phán.
Kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, nhân dân miền Nam đã
đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ tiếp tục tiến lên.
Ở miền Bắc, quân và dân ta vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại
lần thứ nhất của Mỹ vừa làm nghĩa vụ hậu phương (1965 – 1968). Mỹ dựng
lên “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” (tháng 8 – 1964), sau đó lấy cớ “trả đũa”quân
giải phóng tấn công Mỹ ở Plâyku (tháng 2 – 1965), chính thức tiến hành
chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất. Chúng nhằm vào tất cả các
mục tiêu quan trọng như quân sự, giao thông, nhà máy, trường học, bệnh
viện… để đánh phá. Trong hơn bốn năm quân dân miền Bắc đoàn kết, triển
khai cuộc chiến tranh nhân dân bắn rơi hàng nghìn máy bay, đánh chìm
hàng trăm tàu chiến và bắt sống nhiều giặc lái Mỹ, buộc Mỹ phải tuyên bố
ngừng ném bom phá hoại miền Bắc. Song song với chiến đấu chống chiến
tranh phá hoại, miền Bắc vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ chi viện cho miền
Nam. Từ năm 1959 tuyến đường chiến lược Hồ Chí Minh trên bộ và trên
biển bắt đầu được khai thông. Trong 4 năm (1965 – 1968), miền Bắc đã
đưa hơn ba mươi vạn cán bộ, bộ đội, hàng chục tấn vũ khí, lương thực,
thuốc men… vào chiến trường miền Nam.
Bước sang giai đoạn 1969 – 1973, miền Nam chiến đấu chống chiến
lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh”. Với âm
mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam, Mỹ tăng cường xây dựng quân đội Sài
Gòn làm lực lượng chiến đấu chủ yếu trên chiến trường thay cho quân Mỹ
rút dần về nước. Chúng tìm cách thỏa hiệp với Trung Quốc, hòa hoãn với
Liên Xô nhằm hạn chế sự giúp đỡ của các nước này đối với nhân dân Việt
22

Nam và sẵn sàng Mỹ hóa chiến tranh trở lại. Trước tình hình đó quân và dân
ta phối hợp với quân dân các nước bạn như Campuchia, Lào lần lượt đập tan
các cuộc hành quân xâm lược Campuchia, Lào của quân Mỹ và quân đội Sài
Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục nghìn quân địch, giải phóng nhiều
vùng đất đai rộng lớn, giữ vững đường hành lang chiến lược của cách mạng
Đông Dương. Thừa thắng tấn công, ngày 30-3-1972 quân ta mở cuộc tấn
công chọc thủng ba phòng tuyến mạnh nhất của địch là Quảng Trị, Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn và đông
dân. Cuộc tiến công đã giáng một đòn nặng vào chiến lược “Việt Nam hóa
chiến tranh”, buộc Mỹ phải thừa nhận thất bại.
Thất bại ở chiến trường miền Nam, Mỹ phát động trở lại cuộc chiến
tranh phá hoại miền Bắc, đặc biệt là cuộc tập kích bằng máy bay B52 vào
Hà Nội và Hải Phòng. Quân và dân miền Bắc đã làm nên trận “Điện Biên
Phủ trên không”. Cùng với cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của
Mỹ, miền Bắc làm tròn nghĩa vụ hậu phương đối với tiền tuyến lớn miền
Nam. Hàng chục vạn thanh niên nhập ngũ vào chiến trường. Khối lượng
vật chất đưa vào các chiến trường tăng lên 1,6 lần.
Thắng lợi trên các mặt trận quân sự tạo tiền đề cho các thắng lợi về
chính trị và ngoại giao. Ngày 6-6-1969, Chính phủ cách mạng lâm thời
cộng hòa miền Nam Việt Nam thành lập, được 23 nước công nhận và 21
nước đặt quan hệ ngoại giao. Ngày 27-1-1973, Hiệp định Pari về chấm dứt
chiến tranh lặp lại hòa bình ở Việt Nam được kí kết. Đó là thắng lợi của sự
kết hợp giữa đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao, mở ra bước ngoặt mới
cho cách mạng dân tộc. Ngày 29-3-1973, toán lính cuối cùng của Mỹ rút
khỏi miền Nam nhưng Mỹ vẫn để lại miền Nam “những người lính không
mặc quân phục” cùng các nhân viên dân sự, duy trì một lực lượng hải quân
và không quân ở Vịnh Bắc Bộ và Thái Lan nhằm theo đuổi mục tiêu Việt
Nam hóa chiến tranh. Mỹ cùng với chính quyền Sài Gòn phá hoại hiệp định
Pari. Thực hiện nghị quyết 21 của Ban chấp hành Trung ương Đảng, cuối
23

năm 1973, quân và dân miền Nam đã chủ động mở các cuộc tấn công tiến
tới kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam. Cuối năm 1974 đầu năm
1975 tình hình có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị đã bàn kế hạch giải
phóng miền Nam. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 mà
tiêu biểu là chiến dịch Hồ Chí Minh đã kết thúc sự nghiệp chống Mỹ cứu
nước của dân tộc ta. Cuộc chiến tranh kéo dài hơn 20 năm, dài hơn bất cứ
cuộc chiến tranh nào trong lịch sử và phải chống lại một đế quốc lớn mạnh
nhất đó là đế quốc Mỹ. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi đã
chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, hoàn thành cuộc
cách mạng dân chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất tổ quốc, mở ra kỷ
nguyên mới của lịch sử dân tộc – kỷ nguyên đất nước độc lập, thống nhất,
đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hiện thực đất nước chiến tranh trong suốt thời gian dài đã được văn
học tái hiện một cách chân thực và sinh động. Văn học 1945 – 1975 đã theo
sát quá trình lịch sử hết sức hào hùng của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là thể
loại ký với các thể như ký sự, bút ký, tùy bút,…
1.1.2. Sự chi phối của chiến tranh đến mọi phương diện của đời
sống văn học
Văn học bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống nên hiện thực khách quan
được phản ánh chân thực, sinh động qua các tác phẩm văn học. Lịch sử
Việt Nam với những biến động lớn lao đã chi phối mạnh mẽ đến mọi
phương diện của đời sống văn học. Đặc biệt hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mĩ trường kỳ suốt ba mươi năm đã tác động sâu
sắc, toàn diện tới đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc, trong đó có
văn nghệ, tạo nên những đặc điểm riêng biệt của một nền văn học hình
thành và phát triển trong hoàn cảnh chiến tranh gian khổ, ác liệt.
Nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu và chậm phát triển, điều kiện giao lưu
văn hóa bị hạn chế (chủ yếu tiếp xúc và chịu ảnh hưởng văn hóa các nước
xã hội chủ nghĩa, cụ thể là Liên Xô và Trung Quốc). Ba mươi năm chiến
24

tranh đã tàn phá bao nhiêu ruộng vườn, làng mạc, phố thị trên đất nước ta,
hàng triệu người Việt Nam đã bị giết hại, để lại những bi kịch sâu sắc trong
lòng dân tộc, gây mất mát đau thương cho người dân Việt Nam. Trong hoàn
cảnh chiến tranh ác liệt, chỗ rung động nhất của văn chương vẫn là tiếng
kêu, tiếng khóc về thân phận con người trong chiến tranh. Chiến tranh là đề
tài xuyên suốt trong văn học Việt Nam ở chặng đường này (1945-1975).
Chiến tranh đã tác động trực tiếp đến mọi phương diện đời sống văn học.
Từ sau năm 1945, với chế độ mới, nước ta có một nền văn nghệ mới,
tuy nhiên nền văn nghệ mới ấy ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh nên chịu
sự chi phối của chiến tranh. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ là hoàn cảnh trực tiếp để văn học phát triển và có những biến đổi
tiến bộ. Trong bối cảnh chiến tranh khốc liệt kéo dài từ năm 1945 đến năm
1975, văn học đặc biệt quan tâm viết về chiến tranh và chịu sự chi phối của
chiến tranh về mọi mặt từ nội dung, đề tài, cảm hứng… đến phương tiện
sáng tác.
Trong bối cảnh chung thời chiến tranh, văn học chín năm kháng chiến
chống Pháp gặp không ít khó khăn, thiếu thốn về nhiều mặt: điều kiện in
ấn, phát hành rất hạn chế, thời gian và công sức của các nhà văn dành cho
sáng tác không nhiều, bên cạnh đó còn chịu sự khủng bố của kẻ thù, nhiều
cây bút đã ngã xuống đương độ sung sức gây mất mát lớn cho nến văn học
nước nhà (Nam Cao, Thôi Hữu, Trần Đăng,…). Mặt khác về chủ quan hầu
hết các văn nghệ sĩ đã tán thành quan niệm sáng tác mới nhưng bên cạnh
đó không ít các cây bút sáng tác có biểu hiện hoang mang, dao động trước
những khúc quanh của lịch sử.
Hoàn cảnh chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp đã tác động
đến đời sống văn học làm cho văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1954 có
những biến đổi sâu sắc về mọi mặt như nội dung, đề tài, quan niệm sáng
tác, lực lượng sáng tác…Sau Cách mạng tháng Tám, đất nước được độc
lập, Đảng đã đề ra chủ trương chính sách tích cực giúp chấn chỉnh kịp thời
25

những lệch lạc, phát động những cuộc thi kích thích phong trào sáng tác,
động viên văn nghệ sĩ thâm nhập thực tế (Hội văn nghệ Việt Nam được
thành lập, ra tạp chí văn nghệ, tổ chức giải thưởng văn nghệ…).
Cách mạng tháng Tám giải phóng dân tộc đồng thời giải phóng cho
văn học khỏi những trói buộc của quan niệm cũ, tính dân chủ được nâng
cao, văn học là của mọi người. Quan niệm nghệ thuật tiến bộ được khẳng
định, đưa văn học trở về với nhân dân: “Văn học nghệ thuật là một mặt
trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Khuynh hướng tư tưởng chủ
đạo của nền văn học mới là tư tưởng cách mạng, văn học phục vụ cách
mạng. Ý thức trách nhiệm công dân của người nghệ sĩ được nâng cao. Văn
học gắn bó với dân tộc, nhân dân và đất nước, dùng ngòi bút để phục vụ
kháng chiến, cổ vũ chiến đấu và chính hiện thực đời sống cách mạng và
kháng chiến đã đem đến nguồn cảm hứng lớn, những phẩm chất mới cho
văn học: “văn nghệ phụng sự kháng chiến, nhưng chính kháng chiến đem
đến cho văn nghệ một sức sống mới”(Nguyễn Đình Thi, Nhận đường).
Bước sang giai đoạn kháng chiến chống đế quốc Mĩ, thống nhất đất
nước ngày càng ác liệt làm cho đời sống văn học có những chuyển bước rõ
rệt. Văn học ở miền Nam Việt Nam thời kỳ này chịu sự kiểm soát gắt gao
của kẻ thù và bọn tay sai, tuy nhiên báo chí và nhà xuất bản vẫn phát triển
đột biến về số lượng làm cho đời sống văn học thêm phong phú và đa dạng.
Văn học chặng đường này tập trung viết về cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Chủ đề bao trùm là ca ngợi tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách
mạng. Từ tiền tuyến lớn, các tác phẩm truyện, ký viết về máu lửa của chiến
tranh đã phản ánh cuộc chiến đấu của quân và dân miền Nam anh dũng như
Người mẹ cầm súng, Rừng xà nu, Chiến sĩ, Bão biển,…
Gắn bó với vận mệnh chung của đất nước nên quá trình vận động,
phát triển của nền văn học 1945 – 1975 ăn nhịp với từng chặng đường lịch
sử của dân tộc, bám sát từng nhân vật chính trị của đất nước. Văn học Việt
Nam giai đoạn 1945 – 1975 tập trung về đề tài tổ quốc: Bảo vệ đất nước,
26

đấu tranh chống giặc và thống nhất đất nước. Toàn bộ nền văn học Việt
Nam lúc bấy giờ từ thơ ca đến truyện, kí, kịch… đều tập trung khai thác
mâu thuẫn giữa ta và địch. Nhân vật trung tâm là người chiến sĩ trên mặt
trận và các lực lượng cách mạng như du kích, thanh niên xung phong… Tổ
quốc trở thành nguồn cảm hứng lớn, một đề tài xuyên suốt trong sáng tác
của các nhà thơ, nhà văn như Tố Hữu, Giang Nam, Thu Bồn, Phạm Tiến
Duật, Nguyên Ngọc, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức, Nguyễn Minh
Châu,...
Trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt kéo dài suốt ba mươi năm, văn
học Viêt Nam tất yếu đề cập tối số phận chung của cả cộng đồng, của toàn
dân tộc. Văn học mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Đây là văn học của những vấn đề, những sự kiện có ý nghĩa lịch sử của chủ
nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhân vật chính thường
tiêu biểu cho lý tưởng chung của dân tộc, gắn bó với số phận của đất nước,
kết tinh những phẩm chất cao đẹp của cả cộng đồng như chị Út Tịch trong
sáng tác của Nguyễn Thi; chị Trần Thị Lý trong thơ Tố Hữu; Núp, Tnú
trong tác phẩm của Nguyên Ngọc,…
Chiến tranh nhưng con người vẫn luôn lạc quan, yêu đời, hướng tới
tương lai tươi sáng. Đó chính là cảm hứng lãng mạn trong văn học Việt
Nam giai đoạn 1945 – 1975. Cảm hứng lãng mạn trở thành cảm hứng chủ
đạo trong thơ và nhiều thể loại văn học khác như truyện ngắn, bút ký…
Cảm hứng lãng mạn đã nâng đỡ con người Việt Nam vượt lên thử thách
trong máu lửa chiến tranh để hướng tới ngày chiến thắng cho nên những
cuộc chia ly cũng “chói ngời sắc đỏ”.
Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong văn học Việt Nam
giai đoạn này xuất phát từ yêu cầu phản ánh hiện thực đời sống trong quá
trình vận động và phát triển của cách mạng. Hầu hết các thể loại đều thống
nhất với nhau trong phương hướng miêu tả đời sống. Hướng vận động của
cốt truyện, xung đột nghệ thuật, số phận, tính cách nhân vật… nói chung
27

đều từ hiện tại vươn tới tương lai, từ bóng tối ra ánh sáng, từ gian khổ hy
sinh đến niềm tin chiến thắng.
Như vậy, có thể coi văn học như một tấm gương phản chiếu những vấn đề
lớn lao, trọng đại nhất của đất nước và cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 –
1975 Chính điều này đã làm nên diện mạo riêng của văn học giai đoạn này.
1.2. Bức tranh chung về thể loại văn học Việt Nam 1945 – 1975 và
sự hình thành dòng Ký sự chiến tranh
1.2.1. Sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của các thể loại văn học
Văn học Việt Nam 1945 – 1975 rất đa dạng và phong phú về thể loại.
Có thể nói, ở giai đoạn này văn học Việt Nam không thiếu một thể loại nào:
truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài. Các loại ký bao gồm bút ký, tùy bút,
truyện ký, ký sự. Các thể thơ, có thơ trữ tình, thơ trào phúng, trường ca...
ngoài ra còn có lý luận phê bình xuất hiện và có nhiều công trình nghiên
cứu có giá trị.
Ngay từ đầu thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, thơ đã phát
triển mạnh mẽ với những cây bút tiêu biểu như Tố Hữu, Hoàng Cầm,
Nguyễn Đình Thi, Hữu Loan… Thơ cách mạng đã mang một diện mạo mới
khác xa với thơ trữ tình ở giai đoạn trước đó. Thơ ca phát triển thành cao
trào mạnh hơn cả với nhiều thành tựu nổi bật. Từ sau Cách mạng tháng
Tám, thơ không còn là của riêng của các nhà thơ chuyên nghiệp, giờ đây
“anh cán bộ chính trị, anh cán bộ quân sự, anh công an, anh bình dân học
vụ, anh thông tin, anh hỏa lực, các chị phụ nữ, các em thiếu nhi, hết thảy
đều làm thơ” (Hoài Thanh – Nói chuyện thơ kháng chiến). Cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc đã tạo điều kiện khách quan cho sự xuất hiện hình mẫu
người nghệ sỹ kiểu mới. Ở những năm đầu cách mạng, thơ tập trung thể
hiện niềm vui lớn của dân tộc, ca ngợi Đảng và Bác Hồ, ca ngợi chế độ mới
tiêu biểu như thơ Tố Hữu, thơ Hồ Chí Minh, thơ Xuân Diệu… Kháng chiến
toàn quốc bùng nổ, các nhà thơ cũng hăng hái ra mặt trận. Chính thực tế
cách mạng đã tác động đến lập trường tư tưởng của các nhà thơ, đã xuất
28

hiện các tác phẩm có giá trị: Việt Bắc – Tố Hữu; Nhớ, Đất nước – Nguyễn
Đình Thi; Đồng chí – Chính Hữu; Nhớ máu – Trần Mai Ninh… Các thi sĩ
đã đưa không khí mới mẻ, khỏe khoắn vào thơ tạo nên diện mạo mới trong
thơ. Khuynh hướng sử thi là khuynh hướng chính của thơ giai đoạn này.
Thơ chủ yếu tập trung thể hiện tâm tình phơi phới, niềm tin, sự lạc quan
của người dân Việt Nam lúc bấy giờ. Đó là những ước mơ, khát vọng cháy
bỏng, những tình cảm lớn lao, cao cả trong cuộc chiến đấu chống giặc
ngoại xâm.
Hiện thực cách mạng là mảnh đất màu mỡ, mẫu người lý tưởng cửa
thời đại mới dần được khẳng định trên khắp các lĩnh vực đời sống. Văn
xuôi phát triển mạnh mẽ tạo nên một nền văn xuôi kiểu mới như những
trang bút ký, ký sự, truyện ngắn của Trần Đăng, Nguyễn Huy Tưởng, Nam
Cao, Kim Lân. Từ năm 1946 đến năm 1948 sáng tác chủ yếu là ký: Nhật ký
– Nguyễn Huy Tưởng; Ở rừng, Đôi mắt – Nam Cao… Bước sang giai đoạn
1949 – 1954, thời kỳ được mùa, đánh dấu bằng nhiều tác phẩm đặc sắc ở
nhiều thể loại. Ký: Trận Phố Ràng – Trần Đăng, Đường vui, Tình chiến
dịch – Nguyễn Tuân, Ký sự Cao Lạng – Nguyễn Huy Tưởng. Truyện ngắn:
Thư nhà – Hồ Phương, Truyện Tây Bắc – Tô Hoài, Xây dựng – Nguyễn
Khải… Tiểu thuyết Xung kích – Nguyễn Đình Thi, Vùng mỏ - Võ Huy
Tâm… Truyện, ký thời kỳ này thể hiện một khuynh hướng tiếp cận, khám
phá đời sống mới mẻ cả bề rộng lẫn bề sâu. Những năm đầu cách mạng
nhiều vấn đề thời sự được đặt ra như sự thay đổi về quan niệm sống và
sáng tác (Lột xác – Nguyễn Tuân); Cuộc đấu tranh giằng co giữa hai
khuynh hướng cũ mới trong việc nhận đường (Đôi mắt – Nam Cao); một số
tác phẩm trở lại với đề tài trước năm 1945 như Vợ Nhặt – Kim Lân, Truyện
Tây Bắc – Tô Hoài … Càng về sau đề tài văn xuôi càng phong phú hơn
nhưng nổi cộm là cuộc chiến đấu và sản xuất, tiền tuyến và hậu phương,
nổi mất mát và niềm vui chiến thắng. Trong đó nổi bật lên là hình tượng
người lính Cụ Hồ. Vẻ đẹp chân chính toát ra từ hình tượng là chủ nghĩa yêu
29

nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng (Một lần tới thủ đô, Trận Phố Ràng,
Một cuộc chuẩn bị - Trần Đăng; Ký sự Cao Lạng – Nguyễn Huy Tưởng;
Xung kích – Nguyễn Đình Thi…). Hình tượng con người mới trong văn
xuôi có những đặc điểm khá nổi bật. Hình ảnh những con người bình
thường, chân chất, xuất thân từ nhiều tầng lớp khác nhau (trí thức, nông
dân, công nhân) được xây dựng thành nhân vật trung tâm. Hình tượng đám
đông cũng được khai thác, thông qua hình tượng đám đông, văn học làm rõ
những nét tính cách, tâm lý chung rất dân tộc và cách mạng. Mối quan hệ
giữa con người với hoàn cảnh đã khác trước. Con người không còn là nạn
nhân đáng thương mà đã xuất hiện trong tư thế chủ nhân chân chính (Xung
kích, Vùng mỏ, Truyện Tây Bắc). Các thể loại văn xuôi cũng có những phát
triển đáng ghi nhận. Nếu trong những năm đầu kháng chiến ký và truyện
ngắn chiếm ưu thế thì dần về sau xuất hiện những thể loại dài hơi hơn như
truyện vừa, tiểu thuyết.
Nhưng phải sau năm 1954 các thể loại văn học mới phát triển rực rỡ,
nó được góp sức từ nhiều thế hệ cầm bút. Giai đoạn từ năm 1958 – 1964
được gọi là thời kỳ hồi sinh của hàng loạt nhà thờ tiền chiến như Huy Cận,
Chế Lan Viên, Xuân Diệu… Nhiều tác phẩm thơ xuất sắc đã kết hợp hài
hòa giữa yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn. Thơ đã có một mùa gặt bội
thu với các tác phẩm của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận.
Ngay trên tuyến đầu chống Mỹ đã xuất hiện những bài thơ hay và xúc động
như Quê hương của Giang Nam, Mồ anh hoa nở của Thanh Hải.
Văn xuôi phát triển mạnh mẽ với nhiều thế hệ nhà văn khác nhau:
Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyễn Thế Phương, Vũ Tú Nam, Nguyễn Khải,
Lê Khâm, Hữu Mai… Văn xuôi mở rộng đề tài, bao quát được nhiều vấn
đề của hiện thực. Các tác phẩm viết về sự đổi đời của con người, sự biến
đổi tính cách của con người trong hoàn cảnh mới như Mùa lạc của Nguyễn
Khải, Anh Keng của Nguyễn Kiên… Một số tác phẩm khai thác những hy
sinh gian khổ, những tổn thất và số phận con người trong chiến tranh như
30

tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Trước giờ nổ
súng của Lê Khâm.
Công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc đã thu hút sự quan
tâm của nhiều nhà văn. Nhiều chuyến đi thực tế đã tạo điều kiện cho các
nhà văn thâm nhập cuộc sống mới: Sông Đà của Nguyễn Tuân, Bốn năm
sau của Nguyễn Huy Tưởng, Mùa lạc của Nguyễn Khải,…
Văn học được coi như một tấm gương phản chiếu những vấn đề lớn
lao, trọng đại nhất của đất nước. Văn học Việt Nam từ năm 1965 – 1975 tập
trung viết về cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, chủ đề bao trùm là ca
ngợi tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Từ sau năm
1965 một cao trào sáng tác phục vụ kháng chiến chống Mỹ được phát
động. Đây là thời kỳ xuất hiện hàng loạt các nhà thơ trẻ có giọng điệu riêng
của một thế hệ mới: Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, Hữu
Thỉnh, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ,… Về văn xuôi, bên cạnh
các nhà văn như Nguyên Ngọc, Phan Tứ… còn nổi lên Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức,... Đặc biệt từ tiền tuyến lớn, những tác
phẩm truyện, ký viết trong máu lửa của chiến tranh đã phản ánh nhanh
nhạy và kịp thời cuộc chiến đấu của quân và dân miền Nam: Người mẹ
cầm súng của Nguyễn Thi, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Hòn đất
của Anh Đức, Mẫn và tôi của Phan Tứ. Ở miền Bắc, truyện, ký cũng phát
triển mạnh như truyện, ký chống Mỹ của Nguyễn Tuân, truyện ngắn của
Nguyễn Thành Long, Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu. Có thể
nói ký, ký sự chiến tranh đã lên ngôi và khẳng định được ưu thế của mình:
Ghi lấy biết bao sự tích anh hùng chia vui với quân dân cả nước và giữ lại
làm tư liệu cho những sáng tác về sau.
Thơ những năm chống Mỹ thể hiện rất rõ khuynh hướng mở rộng và
đào sâu chất liệu hiện thực đồng thời tăng cường sức khái quát, chất suy
tưởng, chính luận. Nhiều tập thơ lớn tạo ra được tiếng vang: Ra trận, Máu
và hoa của Tố Hữu, Hoa ngày thường – Chim báo bão của Chế Lan Viên,
31

Vầng trăng quầng lửa của Phạm Tiến Duật, Mặt đường khát vọng của
Nguyễn Khoa Điềm,… Những đóng góp của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kỳ
chống Mỹ đã tạo cho thơ ca giai đoạn này một sinh khí mới mẻ: trẻ trung,
sôi nổi mà vẫn thấm đượm chất triết luận, suy tư. Phần lớn họ là những
người vừa trực tiếp cầm súng đánh giặc vừa làm thơ. Thơ của họ giàu chi
tiết chân thực của hiện thực cuộc sống kháng chiến chống Mỹ. Đó là Phạm
Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Lưu Quang Vũ, Thanh Thảo, Xuân Quỳnh,
Lâm Thị Mỹ Dạ,…
Thể loại kịch cũng phát triển mạnh với những tác phẩm như Quê
hương Việt Nam và Thời tiết ngày mai của Xuân Trình, Đôi mắt của Vũ
Dũng Minh, Nổi gió của Đào Hồng Cẩm,...
Thể loại lý luận phê bình xuất hiện với những công trình của Đặng
Thai Mai, Hoài Thanh, Lê Đình Kỵ. Phong Lê, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ,
… cũng có những bước tiến mới trong phương pháp tiếp cận, bao quát đối
tượng nghiên cứu phê bình.
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 gắn với hoàn cảnh chiến
tranh khốc liệt, song thành tựu của văn học giai đoạn này là cơ bản và to
lớn. Hướng vào đời sống hiện thực chiến tranh rộng lớn với nhiều biến cố,
sự kiện trọng đại, văn học đã phản ánh được hiện thực của đất nước trong
một thời kì lịch sử đầy gian khổ, hi sinh nhưng cũng hết sức vẻ vang. Với
hai cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại, văn học là tấm gương phản chiếu những
phương diện cơ bản nhất của tâm hồn dân tộc. Văn học đã góp phần quan
trọng trong việc động viên, cổ vũ chiến đấu, có tác dụng to lớn trong việc
xây dựng tư tưởng, bồi đắp tâm hồn, phát triển nhân cách con người Việt
Nam. Văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 “xứng đáng đứng vào
hàng ngũ tiên phong của những nền văn học nghệ thuật chống đế quốc
trong thời đại ngày nay”.
1.2.2. Sự hình thành dòng ký sự chiến tranh
32

Trong dòng chảy của văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 với sự
phát triển mạnh mẽ, đa dạng của các thể loại văn học, thể loại ký đã phản
ánh hiện thực chiến tranh một cách chân thực và rõ nét nhất. Các tiểu loại
như tùy bút, bút ký,… phát triển rầm rộ với nhiều tác phẩm, tác giả tên tuổi
như tùy bút của Nguyễn Tuân, các tác phẩm kí và bút kí của Tô Hoài,
Hoàng Phủ Ngọc Tường…
Khác với các tiểu loại khác trong thể loại ký, ký sự ghi chép lại câu
chuyện, sự kiện tương đối hoàn chỉnh khi nó mới xảy ra. Ký sự thiên về tự
sự, cũng là loại thể có yếu tố trữ tình và chính luận, nhưng khuynh hướng
của tác giả toát ra từ tình thế và hành động, yếu tố phi cốt truyện không
nhiều. Tác phẩm ký sự cũng cấu tạo theo phương thức kết cấu thông
thường của một tác phẩm nghệ thuật. Tác giả cuốn Lí luận văn học cho
rằng: “Ký sự là bức tranh toàn cảnh, trong đó sự việc và con người đan
chéo với nhau, nhưng gương mặt của nhân vật không thật rõ nét”[29, 436].
Ở Việt Nam, thể tài ký sự xuất hiện từ rất sớm ở thế kỷ XVIII với tác
phẩm Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Bắc hành tùng ký của Lê
Quýnh,… Ký sự Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ. Trong thành tựu văn học giai đoạn 1945 – 1975,
ký sự là thể tiêu biểu của thể loại ký, có đóng góp quan trọng vào sự phát
triển của văn học cách mạng giai đoạn này. Hoàn cảnh chiến tranh đòi hỏi
luôn cập nhật những diễn biến phức tạp, gay go của các trận đánh, các
chiến dịch và ký sự ra đời đã đáp ứng yêu cầu của thời đại. Dòng ký sự
chiến tranh với các tác phẩm tiêu biểu như Trận Phố Ràng, Trong rừng Yên
Thế, Một lần thới thủ đô (Trần Đăng), Ký sự Cao Lạng (Nguyễn Huy
Tưởng), Trận Thanh Hương (Nguyễn Khắc Thứ), Tháng ba ở Tây Nguyên
(Nguyễn Khải), Bắc Hải Vân Xuân 1975 (Xuân Thiều)… đã khẳng định
được vị thế của tiểu loại này trong sự phát triển mạnh mẽ của các thể loại
văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975. Các tác phẩm ký sự của Trần
Đăng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Khắc Thứ, Xuân Thiều, Nguyễn
33

Khải… đã ghi lại một cách chân thực, xúc động những diễn biến, sự kiện
lịch sử trọng đại trong công cuộc chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Các tác phẩm ký sự đã tạo nên dấu ấn và có nhiều đóng góp cho thể
loại ký nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Ký sự đã khẳng định
được vị trí của mình khi viết về chiến tranh trong thời kì lịch sử đầy kì tích
và bi tráng của dân tộc.
1.3. Thể tài ký sự chiến tranh trong văn xuôi 1945 – 1975
1.3.1. Ưu thế và sức mạnh của thể loại ký trong phản ánh hiện thực
và con người thời đại
Trong lịch sử văn học Việt Nam, thể loại ký có ưu thế và sức mạnh
riêng trong việc phản ánh hiện thực cách mạng. Tùy theo từng giai đoạn
lịch sử cụ thể mà ưu thế và sức mạnh thể hiện ở những mức độ khác nhau.
Sự phát triển của thể loại ký đã làm phong phú, đa dạng của diện mạo văn
học Việt Nam 1930 – 1945. Bước sang giai đoạn kháng chiến chống thực
dân Pháp, thể ký phát triển mạnh mẽ và đến giai đoạn 1954 – 1975, ký thực
sự phát triển nở rộ, ngày càng tỏ rõ ưu thế và sức mạnh phản ánh hiện thực
và con người thời đại. Ký bám sát và phản ánh hiện thực một cách chân
thực, rõ nét. Cùng với các thể loại khác, ký đã góp phần tạo nên diện mạo
mới cho đời sống văn học lúc bấy giờ.
Trong loại hình văn xuôi nghệ thuật, ký là một thể loại văn học năng
động, nhạy bén trong việc phản ánh hiện thực cuộc sống. Tác phẩm ký vừa
đáp ứng được yêu cầu của thời đại vừa thể hiện được tính nghệ thuật. Thể
loại ký thu hút được rất nhiều sự quan tâm của độc giả và giới nghiên cứu.
“Ký là tên gọi chung của một nhóm thể tài nằm ở phần giao nhau giữa văn
học và ngoài văn học (báo chí, ghi chép…), chủ yếu là văn xuôi tự sự. Ký
khác với truyện ở chỗ trong tác phẩm ký không có một xung đột thống
nhất, phần khai triển của tác phẩm chủ yếu mang tính miêu thuật” [3,179].
Ký mang tính thời sự, phản ánh hiện thực cuộc sống một cách chân thực,
phơi bày hiện thực xã hội. Quan điểm thể loại là tôn trọng sự thật khách
34

quan của đời sống, không hư cấu. Sự việc con người trong thể loại ký phải
thật cụ thể, đạt tính chính xác cao. Người viết ký cần tôn trọng sự thật
khách quan của đời sống. Đề tài chủ đề của ký thường không phản ánh vấn
đề sự hình thành tính cách của cá nhân trong tương quan với hoàn cảnh. Ký
cho phép tái hiện những giai đoạn lịch sử đã qua trong tiến trình phát triển
xã hội qua những bình diện mà nó đã đề cập. Nhiều tác phẩm ký mang đậm
tính chất tư liệu, hướng vào tái hiện chính xác thực tại với những chi tiết,
sự kiện có thật, thường kèm theo sự lý giải, đánh giá của từng nhà văn.
Với đặc tính linh hoạt, năng động, dễ luồn lách, ký đã tỏ rõ được tính
xung kích, tiên phong trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh và con
người thời đại lúc bấy giờ. Với tính nhanh nhạy, kịp thời, các thể ký, đặc
biệt là ký sự, phóng sự, bút ký, đã phản ánh những thực tế đời sống đang
nóng hổi, mang tính thời sự, xã hội, chính trị, đồng thời ghi lại những cảm
xúc và nhận thức tức thời của nhà văn về thực tế mới mẻ. Hầu hết các nhà
văn đều có thể viết ký, đặc biệt là thế hệ nhà văn đã trải nghiệm qua hai
cuộc kháng chiến của dân tộc. Họ trưởng thành về cả tuổi đời và tuổi nghề
và đặc biệt là những người nếm trải hiện thực chiến tranh nên việc tái hiện
lại sự thật lịch sử hào hùng của dân tộc có phần sinh động và sắc sảo. Mỗi
khi bước vào giai đoạn mới, có những biến động mới của cách mạng thì số
lượng tác phẩm ký và ký sự xuất hiện nhiều lên rõ rệt. Bước vào giai đoạn
kháng chiến chống Mỹ, thể loại ký luôn có mặt hàng đầu, trở thành vũ khí
xung kích. Một số lượng tác phẩm ký ra đời đã phản ánh kịp thời những sự
kiện quan trọng của lịch sử: Họ sống và chiến đấu, Hòa vang của Nguyễn
Khải; Chúng tôi ở Cồn Cỏ của Hồ Phương; Người mẹ cầm súng của
Nguyễn Thi; Sống như anh của Trần Đình Vân; Ký sự miền đất lửa của
Nguyễn Sinh – Vũ Kỳ Lân; Tháng ba ở Tây Nguyên của Nguyễn Khải; Bắc
Hải Vân Xuân 1975 của Xuân Thiều.
Ký là thể văn nhạy bén, có khả năng to lớn ghi chép kịp thời để tác
động trở lại quần chúng cách mạng, làm cho họ thấm nhuần chủ nghĩa anh
35

hùng cách mạng, hoàn thành sự nghiệp mà thời đại đặt trên vai. Sức mạnh
của thể ký là sức thuyết phục đanh thép của nhân chứng, vật chứng, của chân
lý cuộc sống, đó là sức mạnh lôi cuốn, cổ vũ của những tấm gương sống,
“Khả năng của nó về mặt giáo dục, về mặt tư liệu, về mặt nghệ thuật còn rất
bao la”. Ký có khả năng giáo dục trở lại bản thân người viết ký: tính tự giác
và trách nhiệm, tạo đức tính chăm chỉ, tháo vát. Ký góp phần nâng cao tính
tư tưởng, tính hiện thực và tính nghệ thuật của các tác phẩm văn học. Thế hệ
sau sẽ tìm thấy ở những tác phẩm ký những tư liệu lịch sử về quá khứ anh
hùng của dân tộc.
Như vậy có thể thấy những sáng tác thuộc thể loại ký là một bộ phận
không thể tách rời của nền văn học Việt Nam. Nó đã góp phần tạo nên diện
mạo của văn học giai đoạn chiến tranh. Ký có đóng góp không nhỏ đối với
nền văn học cách mạng nói riêng, nền văn học nước nhà nói chung.
1.3.2. Vai trò và vị thế đặc biệt của thể tài ký sự chiến tranh
Trong tiến trình lịch sử văn học Việt Nam 1945 – 1975, ký nói chung
và ký sự nói riêng đã thể hiện tốt vai trò và vị thế đặc biệt của mình. Ký sự
chiến tranh đã bám sát hiện thực và kịp thời nói lên tiếng nói nóng hổi của
quần chúng cách mạng, làm tròn vai trò tuyên truyền cổ vũ chiến đấu của
nhân dân. Các nhà văn viết ký sự đã “thâm nhập sâu vào cuộc đời, đã cảm
xúc và suy nghĩ đến tận cùng xương thịt với nhân dân và đã bắt gặp được
những vấn đề chung của thời đại”. Các nhà văn - chiến sĩ, vừa cầm bút vừa
cầm súng, những tác phẩm của họ viết ra là những tiếng kèn xung trận, là
tiếng trống giục quân, có sức cổ vũ lớn lao, mạnh mẽ, tác động đến mọi
người, đặc biệt là quần chúng cách mạng.
Có thể nói các tác phẩm ký sự chiến tranh trong văn học Việt Nam
giai đoạn 1945 – 1975 là nguồn cổ vũ mạnh mẽ quân và dân ta trong suốt
hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đọc ký sự chiến
tranh, người đọc có thể thấy được không khí cách mạng sục sôi, tinh thần
bất khuất, anh dũng của dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ. Thấy được điều đó
36

chính là đóng góp to lớn của ký sự chiến tranh trong việc thể hiện những
con người thật, việc thật. Đó là niềm tự hào, là sức mạnh để quân và dân ta
có những chiến công nối tiếp chiến công.
Đọc ký sự Miền đất lửa của Nguyễn Sinh và Vũ Kỳ Lân, người đọc
như chứng kiến những trận đánh long trời lở đất trên mảnh đất Vĩnh Linh,
sự hy sinh mất mát của quân và dân Vĩnh Linh trong cuộc chiến đấu chống
đế quốc Mỹ. Không khí cách mạng trong tác phẩm đã khẳng định hơn nữa
lòng yêu nước, căm thù giặc của nhân dân ta.
Ký sự chiến tranh có vai trò to lớn trong việc tái hiện, ghi lại kịp thời
những sự kiện trọng đại trong lịch sử chống “hai đế quốc to” của nhân dân
ta. Tất cả các trận đánh như: chiếm đồn Phố Ràng năm 1949, chiến dịch
Biên giới năm 1950, cuộc kháng chiến của nhân dân Bình Trị Thiên, chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử... đều được tái hiện trong các tác phẩm ký sự
chiến tranh.
Ký sự có vị thế đặc biệt trong việc miêu tả, tái hiện những người thật,
việc thật. Người thật việc thật vốn tồn tại trong hiện thực cuộc sống. Văn
học nói chung vốn phản ánh hiện thực khách quan tất yếu không thể bỏ qua
người thật, việc thật nhất là người thật, việc thật anh hùng. Ký sự phản ánh
hiện thực đến mức tối đa, người viết không thêm thắt bịa đặt. Hay nói cách
khác ký sự chiến tranh đề cập đến những phạm vi hiện thực cuộc sống
chiến tranh có thật, “có địa chỉ hẳn hoi” với những quy mô xác thực đến
từng chi tiết. Trong Ký sự Cao Lạng, Nguyễn Huy Tưởng đã tái hiện lại,
ghi lại hình ảnh liệt sĩ Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai, hình
ảnh La Văn Cầu dũng cảm nhờ đồng đội chặt cánh tay bị thương để khỏi
vướng khi làm nhiệm vụ,...
Về mặt thể loại, trong văn học Việt Nam ký sự ngày càng phát triển,
người viết khá đông, ký sự xâm nhập cả vào một số thể loại khác, ký sự có
thể đáp ứng nhiều yêu cầu đặt ra của thời đại. Ký sự là thể văn thích hợp
với những người đi nhiều, xông xáo, thích quan sát, hiểu biết. Ký sự có khả
37

năng phát triển được những cái mới trong đời sống để thỏa mãn những
mong mỏi của người đọc về mặt nhận thức tư liệu như đã nói ở trên, nhất là
ở vào thời kỳ chiến tranh, tiếng súng các mặt trận thu hút sự chú ý hàng
vạn, hàng triệu người ở hậu phương. Có thể nói những cuốn ký sự chiến
tranh là nguồn động viên, cổ vũ tinh thần cho các chiến sĩ ngoài mặt trận, là
niềm tự hào lớn lao cho những người ở hậu phương.
Nói tóm lại, ký sự là một thể tài mũi nhọn của văn học cách mạng
Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975. Với vai trò và vị thế đặc biệt của mình,
ký sự đã góp phần quan trọng trong việc cụ thể hóa đường lối văn nghệ của
Đảng lúc bấy giờ.
38

Chương 2
KÝ SỰ CHIẾN TRANH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM 1945 - 1975
NHÌN TRÊN PHƯƠNG DIỆN CHỨC NĂNG VÀ NỘI DUNG
CỦA THỂ LOẠI

2.1. Một số vấn đề lý thuyết về chức năng và nội dung của thể loại
văn học
2.1.1. Về chức năng của các thể loại văn học
Văn học là một hình thái xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng. Cũng
như mọi hình thái ý thức khác, văn học nghệ thuật có tác dụng tích cực đối
với toàn bộ đời sống xã hội. Nhưng mỗi thể loại văn học khác nhau lại có
những phương thức, chức năng phản ánh hiện thực khác nhau phụ thuộc
vào tính loại hình của thể loại.
Tác phẩm văn học là sự thống nhất trọn vẹn của nhiều yếu tố khác
nhau như đề tài, kết cấu, chủ đề, tư tưởng, nhân vật… Nhưng sự thống nhất
ấy được thể hiện theo những quy luật nhất định. “Thể loại tác phẩm văn
học là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm, trong đó ứng với một
loại nội dung nhất định có một loại hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm
một hình thức tồn tại chỉnh thể’’[29, 339]. Các thể loại văn học khác nhau
chỉ thể hiện những phương thức chiếm lĩnh đời sống khác nhau, thể hiện
những quan hệ thẩm mĩ khác nhau đối với hiện thực và mang những khả
năng khác nhau trong việc tái hiện đời sống hiện thực. Dựa vào hình thức
thể loại văn học, người ta phân loại tác phẩm văn học. Sự hình thành của
các thể loại văn học gắn liền với sự hình thành và phát triển của văn học.
Khái niệm chức năng của các thể loại là khái niệm dùng để xác định ý
nghĩa và giá trị của các thể loại văn học đối với đời sống xã hội. Nói chức
39

năng của thể loại văn học là nói đến khả năng, vai trò, nhiệm vụ của nó đối
với việc nhận thức và phản ánh hiện thực. Muốn thấu hiểu chức năng của
các thể loại văn học thì chỉ có đặt nó trong mối liên hệ mật thiết với toàn bộ
cơ cấu đời sống xã hội, với đối tượng phản ánh, với đời sống tinh thần
phong phú của con người. Cho nên mỗi thể loại văn học tạo cho mình một
kênh giao tiếp riêng với người đọc. Mỗi thể loại có những chức năng riêng
trong phản ánh hiện thực. Chức năng của truyện khác chức năng của thơ….
Các thể loại văn học có chức năng và nội dung riêng của nó, điều này
không phải bàn cãi, nhưng không phải ai cũng thấy rõ nó. Song với một
loại nội dung nhất định có một loại hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm
một hình thức tồn tại chỉnh thể. Nói cách khác, thể loại văn học là một cấu
trúc, một cách thức tổ chức ngôn ngữ theo một dạng thái nào đó nhằm thể
hiện những tình cảm, nhận thức và suy nghĩ của con người trước các hiện
tượng của đời sống. Có thể nói, thể loại nào cũng bình đẳng, cũng đều có
quyền trong việc nhận thức và phản ánh hiện thực. Tuy nhiên mỗi thể loại
thường có những chức năng riêng phù hợp với khả năng phản ánh của nó
đối với đối tượng được nhận thức, phản ánh. Chẳng hạn như các thể loại tự
sự (truyện, tiểu thuyết) có chức năng trước hết là thuật, kể, miêu tả. Các thể
loại kịch có chức năng trước hết là trình bày các mâu thuẫn, xung đột ở đối
tượng được nhận thức. Các thể loại thơ lại có chức năng trước hết là bộc lộ
cảm xúc hay các trạng thái tư tưởng, tình cảm của chủ thể trữ tình.
Mỗi thể loại văn học có những chức năng riêng trong phản ánh hiện
thực. Nhưng điều đó không có nghĩa mỗi một thể loại văn học lại độc
chiếm một chức năng riêng nào đó mà giữa các thể loại có sự dung hòa các
chức năng khác nhau. Mặc dù đảm nhận những chức năng khác nhau
nhưng nhìn chung các thể loại văn học đều có hai chức năng cơ bản là chức
năng phản ánh hiện thực và chức năng bộc lộ cảm xúc. Nhìn chung các thể
loại văn học đều phản ánh hiện thực cuộc sống. Các nhà văn bằng cảm
quan nghệ thuật của mình đã tái hiện hiện thực cuộc sống theo những
40

phương thức khác nhau. Nếu như ở thể loại trữ tình thông qua việc bộc lộ
tư tưởng, tình cảm của nhân vật trữ tình để tái hiện hiện thực khách quan
thì thể loại tự sự xây dựng bức tranh về cuộc sống thông qua số phận, tính
cách, hành động của nhân vật. Không chỉ riêng tác phẩm trữ tình mới bộc
lộ cảm xúc. Các tác phẩm tự sự đều thông qua nhân vật để thể hiện thái độ,
tình cảm, tâm trạng của tác giả trước hiện thực cuộc sống.
Mỗi thể loại thể hiện một giới hạn tiếp xúc với đời sống, một cách
tiếp cận, một góc nhìn, một trường quan sát, một quan niệm đối với đời
sống, đồng thời cũng là một nguyên tắc xây dựng thế giới nghệ thuật. Từ
chỗ đó, tác giả hướng người đọc vận dụng những kinh nghiệm nhất định
vào việc thưởng thức tác phẩm. Đọc ký không giống đọc tiểu thuyết và thơ
hoặc văn chính luận. Nói như vậy chức năng của mỗi thể loại là vai trò,
nhiệm vụ phải chuyển tải nội dung nào đó của thể loại đó.
2.1.2. Về nội dung của các thể loại văn học
Mọi tác phẩm văn học đều tồn tại trong các hình thức thể loại nhất
định. Một cuốn tiểu thuyết, một truyện ngắn, một bài thơ, một vở kịch, một
ký sự… không có tác phẩm văn học nào được xây dựng ngoài hình thức
quen thuộc đó. Đến lượt mình, các thể loại có vai trò, nhiệm vụ phải
chuyển tải nội dung nào đó. Mỗi thể loại văn học dung chứa một nội dung
nhất định. Nội dung của các thể loại văn học có vai trò rất quan trọng đối
với việc hình thành phong cách của nhà văn và việc định hướng tiếp cận tác
phẩm văn học.
Tác phẩm văn học là một chỉnh thể thống nhất trọn vẹn giữa các yếu
tố hợp thành như đề tài, chủ đề, tư tưởng, nhân vật, kết cấu, cốt truyện, lời
văn. Trong đó thể loại là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm.
Ứng với một loại hình thức nhất định phản ánh một nội dung tương ứng.
Sự thống nhất này là do các phương thức chiếm lĩnh đời sống của các thể
loại văn học. Các hình thức phản ánh hiện thực của các thể loại cũng tương
thích với hoạt động nhận thức của con người: hoặc trầm tư suy nghĩ, chiêm
41

nghiệm, hoặc lần theo diễn biến của các sự kiện, biến cố liên tục, sinh động,
hoặc cảm nhận đối tượng trong các trạng thái xung đột, mâu thuẫn. Ứng với
mỗi nhu cầu khám phá, phản ánh hiện thực sẽ có những hình thức thể loại
phù hợp nhất với tính chất của hiện thực và có khả năng phản ánh đắc địa
các phạm vi hiện thực đó. Ví dụ như thơ phù hợp với sự ngẫm ngợi, suy tư;
truyện hợp với sự tái tạo sinh động của các biến cố, sự kiện khách quan.
Tùy thuộc đặc trưng của mình, mỗi thể loại có những cách thức, quy luật
tổ chức tác phẩm riêng, tương ứng với nó sẽ có nội dung hiện thực phù hợp
được phản ánh. Nội dung của các thể loại là “các thuộc tính chung của một
vùng tiếp xúc có ranh giới loại hình trong việc miêu tả, phản ánh hiện
thực”[29, 354]. Nội dung của các thể loại có tính loại hình. Nội dung thể
loại truyện khác thơ, nội dung thể loại thơ khác ký, ký khác với kịch.
Không có kiểu tổ chức tác phẩm chung nhất cho các thể loại vốn có những
đặc trưng khác nhau. Và không có nội dung chung nhất cho các thể loại văn
học khác nhau. Nội dung của tác phẩm trữ tình khác nội dung của thể loại
tự sự. Trong tác phẩm trữ tình thế giới chủ quan của con người, cảm xúc,
tâm trạng, ý nghĩ được trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu.
Và dấu hiệu chung của tác phẩm trữ tình là biểu hiện trực tiếp thế giới chủ
quan của con người. Tác phẩm trữ tình làm sống dậy thế giới chủ thể của
hiện thực khách quan, giúp người đọc đi sâu vào những suy tư, tâm trạng,
nỗi niềm - một phương diện rất hấp dẫn của hiện thực. Khác với trữ tình, ở
thể loại tự sự, các tác giả xây dựng bức tranh về cuộc sống trong đó các
nhân vật có đường đi, số phận riêng,...
Dựa vào nội dung thể loại người ta phân biệt các thể loại khác nhau.
Ví dụ, loại thế sự tập trung thể hiện phương thức sinh hoạt dân sự, công
cộng trong xã hội hay của các tầng lớp người trong xã hội, đề xuất các
nguyên tắc sinh hoạt cộng đồng, các quan niệm xã hội. Thuộc thể loại đời
tư, các tác phẩm “tập trung khắc họa đời sống và số phận của những cá
42

nhân riêng biệt, tái hiện sự hình thành, phát triển nhân cách và cá tính của
chúng qua xung đột với môi trường xung quanh”[29, 355].
Việc xác định nội dung thể loại không chỉ để nhận ra một tác phẩm
thuộc thể loại văn học nào, mà hơn nữa, nhận ra được hình thức thể loại tạo
thành chỉnh thể của tác phẩm.
2.2. Chức năng và nội dung của ký sự chiến tranh trong văn học
Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975
2.2.1. “Tái hiện”, “ghi lại” kịp thời hiện thực chiến tranh
2.2.1.1. Những sự kiện lịch sử và các kỳ tích chiến công
Trong hai cuộc chiến tranh ác liệt chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, các tác giả văn học hầu hết dùng ngòi bút của mình viết về hiện thực
chiến tranh, và đó được xem là nhiệm vụ hàng đầu của văn học. Sáng tác
văn học dùng để cổ vũ, động viên tinh thần chiến đấu của quân và dân ta
trong hai cuộc kháng chiến. Các tác phẩm văn học ca ngợi tinh thần quả
cảm, kiên cường của các chiến sĩ trên mặt trận, sự đảm đang, tháo vát,
nghĩa tình của những con người ở hậu phương. Đó là tinh thần yêu thương,
sự sẻ chia của đồng bào với cách mạng, với Cụ Hồ, với Đảng. Các thể loại
văn học đều tỏ rõ được ưu thế của mình trong mảng đề tài này. Mỗi sự kiện
lịch sử xảy ra đều có những tác phẩm văn học ra đời để phản ánh hiện thực
chiến tranh. Tố Hữu có Hoan hô chiến sỹ Điện Biên, Hồ Chí Minh có Tin
thắng trận,…
Thể loại phản ánh kịp thời, chính xác những sự kiện lịch sử và các kỳ
tích chiến công của quân và dân ta một cách rõ nét nhất phải nói đến ký sự
chiến tranh. Ký sự chiến tranh có sức xâm nhập, phản ánh hiện thực hết sức
mạnh mẽ, ghi lấy cận cảnh các trận đánh, các cuộc đụng độ giữa ta và địch.
Bản thân người viết ký sự được trải nghiệm thực tế trên chiến trường, quan
sát đến từng chi tiết, nếm trải những khó khăn. Các tác phẩm ký sự chiến
tranh mang tính thời sự nóng hổi, nhiều sự kiện mang tính thông tấn, đầy
sức hấp dẫn được các nhà văn tái hiện chân thực, rõ nét. Những sự kiện lịch
43

sử và các kỳ tích chiến công của quân và dân ta trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã được các nhà viết ký sự thể hiện
hấp dẫn và sinh động. Mỗi một trận đánh, mỗi một sự kiện lịch sử xảy ra
trên chiến trường đều được các tác giả tái hiện trong những trang ký sự.
Với trận đánh chiếm tiểu khu địch ở đồn Phố Ràng trong chiến dịch Sông
Thao vào năm 1949 được Trần Đăng tái hiện lại trong ký sự Trận Phố
Ràng. Trận Phố Ràng ghi lại chi tiết ngày tháng xảy ra trận đánh chiếm đồn
Phố Ràng vào các ngày 24, 25 – 6 – 1949 với thắng lợi vẻ vang. Quân ta
chiếm được đồn, giết và bắt toàn bộ quân Pháp đóng chiếm đồn: “Nhưng
trước cửa cái hầm đầy ăm ắp đạn, xác giặc trắng phếu, đen sì, tái xanh đè
lên nhau, gục lên nhau mà chết. Một thằng chống úp mặt xuống đất thoi
thóp. Một thằng tây trắng, mồ hôi nhơm nhớp trên mình béo trục, lưỡi lè ra
đầy mồm mặc một cái quần chật quá”[56, 13-14].
Các sự kiện lịch sử trong kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ được
thể hiện rõ nét, chi tiết trong ký sự chiến tranh đó là các kỳ tích chiến công
oanh liệt của quân ta trong kháng chiến chống Pháp như Trận Thanh Hương
– Thừa Thiên Huế vào năm 1950, tác giả Nguyễn Khắc Thứ đã miêu tả chi
tiết, tỉ mỉ chiến công của quân và dân ta: “Hỏa lực ta dần dần áp đảo hỏa lực
địch. Rồi một phút, ta ào xuống xung phong, chộp sống mấy tên.
Tiếng reo vang lừng:
- Ta bắt sống được mấy thằng to bụng anh em ơi ! Đánh rát đi ! Đánh
rát đi !
- Ta bắt sống được mấy thằ……ằ…....ng…
- Hoan hô….ô….ô.
Tin vui truyền qua các rú. Tiếng hoan hô như thác nước lướt trên đợt
cây, suốt qua các đơn vị chạy mãi ra xa tít. Đồng bào tản cư phía sau ngọn
đồi nghe tiếng cũng bốc lên một loạt. Đồng bào nhảy cỡn lên, xô đẩy nhau,
đấm nhau, hò reo, đắc thắng:
- Ta thắng rồi eng em ơi !” [56, 31].
44

Từng sự kiện lịch sử, kỳ tích, chiến công của quân và dân ta trong
cuộc kháng chiến chống Pháp, ngay từ những ngày đầu đều được ký sự
phản ánh, thể hiện một cách sinh động. Các nhà văn tham gia thực tế trên
chiến trường đã kịp thời ghi lại những khoảnh khắc, những phút giây lịch
sử đó. Đây cũng là một phần do yêu cầu của lịch sử đòi hỏi phải nhạy bén
nhanh, chính xác, kịp thời tái hiện lại những thắng lợi vẻ vang để cổ vũ,
động viên khích lệ tinh thần chiến đấu của quân và dân ta. Mặt khác đó
cũng là ưu điểm của ký sự trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh.
Các tác phẩm ký sự chiến tranh đều tái hiện lại những trận đánh oanh
liệt hào hùng nhưng cũng đầy cam go của quân và dân ta. Trong thế đối đầu
với địch, các chiến sĩ trên chiến trường phải dành nhau từng tấc đất với kẻ
thù, phải trải qua những khó khăn thử thách và những hy sinh để làm nên
những chiến thắng vang dội. Trong Ký sự Cao Lạng, Nguyễn Huy Tưởng
đã ghi lại những chiến công của quân và dân ta trong chiến dịch Cao Lạng
với những trận đánh chiếm lô cốt ác liệt ở Đông Khê, Thất Khê. Đó là
những sự kiện lịch sử với những chiến công oanh liệt của bộ đội, dân công:
“xe chạy, tiếng reo hò, tiếng xe vẳng lại.
- Đông Khê đây này ! Hoan hô dân công, Đông Khê đây này !
Trên đống gạch ngói của Đông Khê, xác giặc ngổn ngang” [56, 65].
Những chiến công của quân và dân ta trong sự kiện giải phóng Cao
Bằng được tác giả tái hiện chân thực và đầy xúc động: “Giặc chạy Thất-
Khê. Giặc bị chặn đánh. Giặc về Na-sầm. B.C.C. P. quỳ xuống hàng. Bộ
đội vào Đồng-Đăng. Công-tăng bỏ Lạng-Sơn, chạy lấy người, bỏ hàng kho
võ khí, hàng kho quân trang, bỏ cả xe cộ, bỏ cả giấy má, bỏ cả việt gian, bỏ
cả âm mưu nặn xứ Nùng tự trị, bỏ cả chó béc-giê. Giặc rút về Cao-Lộc.
Giặc bỏ Lộc-Bình. Giặc chạy về Đình-Lập. Giặc rút về Móng-Cái. Hải-
Phòng xôn xao. Hà-Nội nhớn nhác” [56, 91]. Trong những năm tháng
kháng chiến, từng sự kiện lịch sử với những chiến công là nguồn sức mạnh
45

lớn lao, cổ vũ, động viên, khích lệ tinh thần chiến đấu của quân và dân cả
nước: “Tin giải phóng Cao Bằng, lời của Đại tướng. Chiến sĩ nhảy nhót.
- Bắt sống thằng quan năm LơPa-giơ. Và nếu nó chết, phải đem xác
nó về!
- Bắt sống bọn Ta-bo để nó gánh gạo cho bộ đội” [56, 77].
Những thắng lợi của quân dân miền Nam trong những năm kháng
chiến chống Mĩ, thống nhất đất nước được tái hiện sinh động trong các tác
phẩm ký sự chiến tranh giai đoạn 1954 – 1975 như Tháng ba ở Tây
Nguyên, Bắc Hải Vân xuân 1975, Ký sự miền đất lửa… Đặc biệt trong Ký
sự miền đất lửa, Nguyễn Sinh và Vũ Kỳ Lân đã ghi lại những chiến công
lẫy lừng của những chiến sĩ bắn tên lửa trên bầu trời Vĩnh Linh – Quảng
Trị: “Ngày Sáu tháng Bảy, ngày dữ dội nhưng cũng là ngày vui ở Vĩnh
Linh. Lần đầu tiên ta đánh trận pháo bộ hiệp đồng lớn ở Gio An. Tên lửa
vẫn kiên trì chờ B52. Nhưng anh Trung ra lệnh : khi cần có thể đánh các
loại F để chi viện trực tiếp cho bộ binh. "Đèn xanh" đã bật rồi. Ngồi ở sở
chỉ huy, chúng tôi nghe rất rõ các làn pháo ta bắn, nhìn lên góc trời phía
nam thấy pháo cao xạ nổ dày đặc, các cụm khói trắng nổ tung như cánh
ruộng bông buổi trưa, chốc chốc lại nhận được tin chiến thắng từ bộ Tư
lệnh Mặt trận truyền xuống. Tôi cảm thấy náo nức lạ. Còn gì hạnh phúc
hơn khi những quả đạn chúng tôi sắp phóng lên sẽ hòa chung vào bản nhạc
chiến thắng đang gầm lên dữ dội xung quanh”[57, 210]. Đó là chiến công
diệt pháo đài bay B52, sự kiện vượt sông Bến Hải, cuộc chiến đấu trên bờ
sông cửa Việt…
Ký sự Tháng ba ở Tây Nguyên của Nguyễn Khải đã ghi lại một cách
trung thực, đầy xúc động diễn biến của sự kiện vĩ đại vào bậc nhất trong
lịch sử chống xâm lược của dân tộc - chiến dịch Hồ Chí Minh. Những trận
đánh, những cuộc chuẩn bị trọng đại cho “một sự kiện phi thường” được
tác giả tái hiện chân thực và sinh động. Gắn liền với những sự kiện trọng
đại ấy là những chiến công vang dội của quân và dân ta trong đó có chiến
46

thắng mang tính lịch sử của dân tộc – giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất đất nước.
Các tác phẩm ký sự chiến tranh đã ghi lấy kịp thời những sự kiện lịch
sử trọng đại của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến với những kì tích chiến
công vang dội. Đó là nguồn cổ vũ, động viên, khích lệ tinh thần chiến đấu
của quân và dân ta trong công cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc. Và điều này
góp phần khẳng định vai trò và vị thế đặc biệt của thể tài ký sự chiến tranh
trong văn học Việt Nam 1945 – 1975.
2.2.1.2. Những hy sinh, mất mát, đau thương
Hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ kéo dài
suốt ba mươi năm đã tàn phá bao làng mạc, ruộng vườn, phố thị trên đất
nước Việt Nam, giết hại hàng triệu người dân vô tội trên khắp hai miền
Nam Bắc nước ta, để lại những bi kịch sâu sắc trong lòng dân tộc, những
mất mát, đau thương trong lòng người. Hai cuộc chiến tranh đã tao loạn xã
hội Việt Nam, kéo theo những giằng xé trong tâm hồn con người và văn
chương lúc bấy giờ là tiếng kêu, tiếng khóc về thân phận con người trong
chiến tranh. Đằng sau những sự kiện lịch sử, những kỳ tích, chiến công
vang dội là những hy sinh anh dũng, những mất mát, đau thương chồng
chất của dân tộc và những vết thương rỉ máu trong trái tim hàng triệu người
dân đất Việt.
Chiến tranh là chủ đề tập trung và xuyên suốt trong văn học Việt Nam
thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Trong hai cuộc
chiến tranh, con người bị đưa đẩy, trôi dạt trong lò lửa bạo lực, khói đạn
dẫn đến những hy sinh, mất mát, chia lìa,... những nổi đau hằn cứa tâm can
biết bao người dân Việt Nam có thể ai cũng cảm nhận được vào thời kỳ đó.
Song một tác phẩm văn học để tái hiện thật chân thật, chính xác, sâu sắc
những hy sinh, mất mát, đau thương thì không dễ chút nào. Viết về chiến
tranh thời kỳ đó, hầu hết các thể loại như thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết đều
thúc dục, động viên, ca ngợi hình ảnh những con người, những chiến sĩ trên
47

chiến trường, viết về những chiến công vang dội là điều tất yếu bởi nhiệm vụ
của văn học là cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiếu đấu của quân và dân ta. Còn
những gì là hy sinh, mất mát, đau thương trong chiến tranh hiếm khi được đề
cập tới bởi nó ít nhiều làm giảm đi khí thế chiến đấu của nhân dân ta.
Các tác phẩm văn chương cách mạng Việt Nam ở giai đoạn 1945 – 1975
viết về đề tài chiến tranh đã khắc họa hình ảnh những người dân, người lính
luôn hiện lên với những vẻ đẹp cao cả, mang âm hưởng anh hùng ca, đó
là những con người với vẻ đẹp tâm hồn hết sức phi thường. Tác phẩm
Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc đã miêu tả người dân Tây Nguyên
sống và đánh Pháp hết sức ngoan cường. Truyện Làng của Kim Lân ca
ngợi vẻ đẹp tâm hồn, tinh thần yêu cách mạng, hướng về Đảng của
nhân vật ông Hai. Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài thể hiện sức sống tiềm
tàng, sự trỗi dậy mạnh mẽ của nhân vật Mị và A Phủ. Mảnh trăng cuối
rừng của Nguyễn Minh Châu khắc họa vẻ đẹp của nhân vật Nguyệt,
một sự hy sinh cao cả, nghĩa tình, biết nhận phần khó khăn về mình để
bảo vệ anh lái xe, bảo vệ xe. Sẵn sàng hy sinh vì Lãm để bảo vệ xe, tất
cả xuất phát từ một lý do đơn giản từ tâm hồn chân thành, từ ước
nguyện hết mình vì Tổ quốc: “Thật kỳ lạ! qua bấy nhiêu năm sống giữa
bom đạn và thời gian cái sợi chỉ xanh nhỏ và óng ánh không hề phai
nhạt, không hề đứt ư”.
Truyện ngắn Rừng Xà nu của Nguyễn Trung Thành đã thể hiện nỗi
đau, sự hy sinh, mất mát của người dân làng Xô Man, Như Tnú, Mai, Cụ
Mết... Hình ảnh cây Xà nu kiêu hãnh, ngoan cường của người Tây Nguyên
trước bom đạn tàn phá của kẻ thù.
Nhưng đến các tác phẩm ký sự chiến tranh 1945 – 1975, những hy
sinh, mất mát, đau thương đã được tái hiện một cách chân thực và xúc
động. Ký sự với đặc trưng thể loại ghi chép và tái hiện những sự kiện, câu
chuyện, người thật, việc thật đã thể hiện rõ nét nhất những sự hy sinh, mất
mát, đau thương của người dân và người lính Việt Nam qua hai cuộc chiến
48

tranh, có cả niềm vui, hạnh phúc và mất mát đau thương, có chiến thắng –
hy sinh. Vì thế ký sự đã tỏ rõ ưu thế, sức mạnh của mình trong việc phản
ánh những hy sinh mất mát, đau thương của chiến tranh gây ra trên đất
nước Việt Nam. Bản thân các tác giả của các tác phẩm ký sự được trải
nghiệm thực tế nên các tác phẩm của họ đã cho thấy hình ảnh một Việt
Nam oằn mình trong khói đạn. Đằng sau những kỳ tích, chiến công tưởng
chừng như oanh liệt là cả một nổi đau, sự hy sinh mất mát mà người dân
trên tất cả mọi miền Việt Nam phải gánh chịu. Sự tàn ác, thâm độc dã man
của kẻ thù hiện lên bao nhiêu thì máu và nước mắt của nhân dân rơi bấy
nhiêu.
Những trang ký sự của các tác giả như Trần Đăng, Nguyễn Khắc Thứ,
Nguyễn Huy Tưởng đã tái hiện lại những hy sinh, mất mát, đau thương của
quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Các tác phẩm
ký sự như Trận Phố Ràng của Trần Đăng, Trận Thanh Hương của Nguyễn
Khắc Thứ, Ký sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng không chỉ miêu tả
những trận đánh ác liệt, những chiến thắng vẻ vang mà còn có cả những
trang viết về sự hy sinh, mất mát.
Ký sự Trận Phố Ràng của Trần Đăng tái hiện cuộc đụng đầu lịch sử
giữa ta và địch trong trận đánh chiếm sở chỉ huy tiểu khu địch ở đồn Phố
Ràng. Quân ta đã chiếm được đồn, phá vỡ thế phòng thủ của địch. Tuy
nhiên đằng sau chiến thắng là sự ngã xuống anh dũng của các chiến sỹ cách
mạng chiếm đồn:
“Đại đội phó N. vừa hô trung đội chuẩn bị xung phong thì... rầm...
một quả moóc-chi-ê rơi. Lặng đi mấy giây, rồi tiếng trên đồn hô xuống,
ngân dài :
- Báo cá...o...o! Trung đội trưởng xung kích... chết! Trung đội phó... bị
thương!
49

- . . Trung đội trưởng xung kích chết, trung đội phó bị thương! Tiếng
hô ngân dài qua những chặng liên lạc dây chuyền, lên tới tiểu đoàn, vẳng
xa trong đêm, vang lên tận các ngọn núi của pháo binh, trợ chiến” [56, 13].
Nhà văn Nguyễn Khắc Thứ đã không ít lần tái hiện cảnh hy sinh, mất
mát của những người đồng đội trong Trận Thanh Hương:
- “Coi chừng mooc ... Tiếng thét ngặt lại, người đội viên bị bắn tung
lên. Đạn nổ ngay bên khẩu súng.
Trung đội trưởng Dần bị thương quỵ xuống! tiểu đội trưởng ngả sấp”[56, 33].
Ngòi bút của nhà văn trẻ quân đội đã ghi lại toàn bộ những đau
thương, mất mát của người lính và nhân dân Thừa Thiên vào đầu năm
1951: “Phi cơ vẫn vo vo kinh rợn, trút mưa đạn xuống bụi bờ, làng mạc.
Sóng người xô nhau, tản ra, chụm lại, mải miết chạy về hướng Nam. Mặt
trời đã đứng đầu, nắng táp lửa vào mặt. Mồ hôi ướt đẫm mấy lớp áo. Đồng
bào chạy băng qua đồi Thanh Hương dừng lại thở... Đồng bào ré lên chạy
tiến vào các hang hốc ôm mặt đất sát sạt.
Giữa lúc đó, một tốp người phía nam chạy lên, mặt tái mét:
Tây nó ở đồn Sia ra, đang lùng lên cổ tháp, ca nô chạy dọc sông bắn
dữ dội lắm. Có lẽ bắn tràn sang cả phía này.
Mọi người giật bắn lên như va chạm dây điện. Họ vùng dậy, nhao
nhao:
- Giặc lên cả phía dưới à?
- Giặc lên. Nghe đồng bào dưới lên nói đông, đông lắm, có đến bảy,
tám trăm thằng. Vẻ bình tĩnh đã biến cả rồi. Hãi hùng, lo âu hiện trên nét
mặt. Miệng xệch lại, thở không ra hơi nữa.
Giặc đã vây ba mặt. Hàng ngàn con người chụm lại, sớn sác.
- E chết mất con ơi!
Một thiếu phụ vừa thốt ra vừa ôm chặp con vào lòng nấc lên. Đứa bé
ngơ ngác nhả vú mẹ, cười toét miệng, giơ tay với với bắt một bóng nắng
trên áo.
50

Bên lùm cây, một bà già lẳng lặng cởi chiếc thánh giá, kính cẩn tròng
vào cổ một thiếu nhi. Vầng trán nhăn càng nhăn thêm. Cặp mắt kèm nhèm
long lanh ướt” [56, 21].
Những trang ký sự đã không ngần ngại ghi lại tất cả diễn biến cuộc
chạy loạn của nhân dân Thừa Thiên khi giặc Pháp bao vây mà không chút
tô hồng phóng đại. Những gian khổ, đau thương, mất mát do chiến tranh
gây ra đã đè lên biết bao đồng bào ta. Sống trong cảnh chiến tranh, sự sống
và cái chết liền kề trong gang tấc, con người ta luôn chuẩn bị cho mọi tình
thế có thể xảy ra.
“Ở bên, một chị phụ nữ đang đào đất chôn một bị lác. Chị nghẹn ngào
nói với anh đứng cạnh:
- Nếu tôi chẳng may có việc gì, đồng chí nhớ ra đây đào lấy các xắc
này về giao lại cho Đoàn thể. Những giấy tờ quan trọng tôi đã mang theo
trong người cho đến lúc chết. Đây chỉ là những sổ sách vụn vặt không cần
thiết cho lắm” [56, 26].
Đọc ký sự Trận Thanh Hương chúng ta thấy được sự tang thương,
gian khó, mất mát của nhân dân ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
Đó là những nỗi sợ hãi, uất nghẹn, quặn đau: “Giặc vây tám mặt, trên phi
cơ, dưới đại bác, tàu thủy ngoài khơi. Bọn khát máu điên cuồng bắn giết:
Một ngàn hai trăm người hy sinh một ngày trên bãi cát trắng...”[56, 26].
Hiện thực chiến tranh với những mất mát, đau thương hiện ra tươi nguyên
trong những trang ký sự. Đây là điểm khác biệt và cũng là ưu thế của ký sự
chiến tranh so với các thể loại văn học khác. Ký sự chiến tranh có sức xâm
nhập, phản ánh hiện thực hết sức mạnh mẽ. Ngoài những hy sinh, mất mát
là những thiếu thốn, gian khổ của người lính trên chiến trường: “Bỗng súng
máy tắc. Rồi lát sau đạn hết. Anh tiểu đội trưởng nấc lên khóc… Khói um
lên, sặc sụa, cổ cháy khô khan. Nước mắt xung kích cứ trào ra, cay rát
trong khói như phải ớt”[56, 32-33].
51

Ngoài việc đối mặt với bom đạn, kẻ thù, những người lính còn đối
mặt với những thiếu thốn, bệnh tật: “- Đói quá! Một đội viên lắp bắp nói
một mình. Mà làm gì chẳng đói. Lúc sáng chỉ mấy lưng cơm hấp. Gạo
mượn 8 lon mà đã ăn bốn ngày rồi. Hôm nay ngày thứ năm”[56, 36].
Chiến tranh cướp đi nhiều sinh mạng, đôi khi tính mạng con người bị
cướp đi trong gang tấc. Đằng sau những thắng lợi vẻ vang, những con số
khô khan là những trang đau thương mất mát.
Bước sang giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, những trang ký sự viết
về đất Vĩnh Linh máu lửa của Nguyễn Sinh và Vũ Kỳ Lân tái hiện chân
thực những hy sinh đau thương mất mát của quân và dân ta. Hình ảnh
những người lính bắn tên lửa diệt máy bay địch trong cuộc đụng đầu giữa
tên lửa của ta và địch đã được các nhà văn miêu tả rõ nét trong Ký sự miền
đất lửa: “Một tiếng nổ, khói đen trùm kín trận địa. Xe chỉ huy vỡ tung. Khi
các đồng chí xung quanh nhào đến, Thịnh đã tắt thở, trắc thủ Lê Xuân Mai
bị thương nằm ngất lịm bên cạnh. Tiểu đoàn trưởng Sơn bị một mảnh đạn
xuyên cánh tay. Đại đội trưởng Huynh bị thương” [57, 213]. Đọc những
trang ký sự chiến tranh, người đọc như thấy được sự tàn khốc của chiến
tranh, sự hãi hùng lo sợ của nhân dân và cả sự hy sinh, mất mát của quân
và dân ta. Những người lính hy sinh trên chiến trường, người ở hậu phương
chịu cảnh chia ly, vợ mất chồng, con mất cha, chiến tranh chia cắt tình yêu
đôi lứa, làm cho tất cả bị chia lìa: “Mười một giờ trưa địch bị đẩy lùi ra
khỏi làng. Đồng chí Thà nghe tiếng Hồ Thừa gọi phía sau… nhưng một lát
sau, một quả pháo địch nổ bên cạnh. Hồ Thừa bị thương năng, anh trao
máy ảnh, tài liệu cho Ngọc Nhu và nói với Trần Thà:
- Chúc anh và tiểu đoàn chiến thắng!
Ba tiếng đồng hồ sau Ngọc Nhu cũng hy sinh” [57, 237].
Những trang ký sự của Xuân Thiều, Nguyễn Khải, Nguyễn Sinh, Vũ
Kỳ Lân đã tái hiện những đau thương, mất mát của quân và dân ta trong
những ngày đánh Mỹ. Tuy khó khăn thiếu thốn về vật chất, hoàn cảnh khắc
52

nhiệt nhưng những người lính trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ vẫn lạc quan, yêu đời, vượt qua khó khăn hoàn thành
nhiệm vụ chiến đấu. Và họ vẫn sáng lên trong những trang ký sự chiến tranh.
2.2.1.3. Sự tàn bạo của kẻ thù
Chiến tranh để lại hậu quả nặng nề về vật chất và tinh thần cho nhân
dân ta. Những mất mát, đau thương, những hy sinh gian khổ đã được các
tác giả tái hiện rõ nét, sinh động qua những trang ký sự chiến tranh càng tố
cáo tội ác tày trời, sự dã man, tàn bạo của kẻ thù.
Trong ký sự chiến tranh, các tác giả đã lột tả bộ mặt tàn bạo, độc ác
của kẻ thù với thái độ căm hờn, uất hận, khinh bỉ đến tột cùng. Hầu hết các
tác phẩm ký sự chiến tranh đều trực tiếp tố cáo tội ác của thực dân Pháp, đế
quốc Mỹ và bọn tay sai. Với cách gọi khinh bỉ, căm hờn như “hắn”,
“thằng”, “Tây trắng, “Tây đen”, “chúng nó”, các tác giả muốn nhấn
mạnh đến tội ác của kẻ thù, đồng thời thể hiện niềm căm phẫn của nhân
dân ta. Không chỉ riêng các tác giả mà tất cả người dân Việt Nam đều căm
hờn lũ cướp nước và bọn bán nước cầu vinh. Nói đến thực dân Pháp, đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai, những người con yêu nước lại dấy lên sự căm
hờn tột cùng “Lòng căm thù giặc của người dân Cao - Lạng, âm ỉ sáu năm
nay đã đến lúc phải bùng nổ. Ý chí giải phóng quê hương Đông Bắc của
binh đoàn Cao - Bắc - Lạng đã đến lúc phải thử thách trong lửa lớn. Nỗi
giận của người lính miền xuôi trước cảnh làng mạc, cửa nhà bị phá trụi, bố
mẹ, vợ con bị đầy đọa, chém giết tại các vùng giặc đóng đã đến lúc không
thể kìm được nữa” [56, 43]. Lòng căm thù giặc lớn như thế là xuất phát từ
tinh thần yêu nước, ghét chiến tranh của nhân dân ta, cũng là bởi tội ác tày
trời của bọn thực dân, đế quốc đã gây ra cho nhân dân Việt Nam.
Ký sự chiến tranh 1945 – 1975 đã miêu tả những hành động giả man
của kẻ thù: “Tổ cha hắn. Hắn giết của tui mất hai đứa con. Hắn đốt nhà tui
năm lần rồi”. Không những tàn bạo, bọn chúng còn ngoan cố, lì lợm: “Xác
lính Mỹ và lính nguy đã xếp đống trên trận địa nhưng địch vẫn không chịu
53

bỏ cuộc. Chúng lao vào tới tấp. Cuộc hỗn chiến kéo dài cho đến lúc mặt
trời lặn”[57, 237].
Các tác phẩm ký sự chiến tranh đã ghi lại bộ mặt tàn ác của kẻ thù với
những trang viết khác nhau. Dã tâm của chúng là biến Việt Nam thành biển
máu, chúng chiếm đóng, đàn áp, giết người, cướp của, hãm hiếp dân lành,
chúng đánh phá, dội bom liên tục xuống làng xóm, đô thị của ta: “Hai giờ
chiều hôm đó, Vĩnh Linh được tin máy bay Mỹ dội bom xuống Đồng Hới.
Hai mươi hai tiếng đồng hồ sau đến lượt Hồ Xá. Cuộc chiến tranh phá hoại
bằng không quân lớn nhất, tàn bạo nhất trong lịch sử nhân loại bắt
đầu”[57].
Dã tâm xâm lược, muốn biến Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới,
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã dội xuống Việt Nam không biết bao nhiêu
những trận mưa bom, chúng thay nhau dày xéo hai miền Bắc – Nam chúng
ta. Trong Trận Thanh Hương, tác giả lên án, tố cáo tội ác của kẻ thù: “Giặc
vây tám mặt trên phi cơ, dưới đại bác, tàu thủy ngoài khơi. Bọn khát máu
điên cuồng bắn giết”[56, 26]. Hay “Súng giặc nổ rát tai, từng đụm khói ùn
ùn lên không nghi ngút… Súng giặc liên miên nổ rát hơn bên này. Ca nô
rót ầm ầm, trào trề như trống cổ động.
Mặt đất rùng mình chuyển. Ánh nắng lung linh xao xuyến. Chắc chắn
là bên kia Mỹ Chánh, Ưu Điềm cũng có địch tiến xuống… Phi cơ vẫn vo
vo kinh rợn, trút mưa đạn xuống bụi bờ, làng mạc”[56, 25].
Những trang ký sự chiến tranh giai đoạn 1945 – 1975 không chỉ tập
trung miêu tả những hành động của chúng, mà còn ghi lại những tổn thất
nặng nề mà quân và dân ta phải gánh chịu. Qua các trận đánh như trận Phố
Ràng và trận Thanh Hương, chiến dịch Cao – Bắc – Lạng hay những cuộc
đụng đầu với đế quốc Mỹ, mặc dù chúng ta đã dành chiến thắng, dành lại
thế chủ động trên chiến trường, tiêu diệt hàng trăm sinh lực địch song tổn
thất của quân và dân ta không hề nhỏ. Hầu hết các tác phẩm ký sự chiến
tranh đều kể đến sự tổn thất của quân ta, các chiến sĩ bị thương, các chiến sĩ
54

hy sinh… “Hơn năm mươi đồng chí hy sinh và bị thương … số quân của
tiểu đoàn hụt mất một phần tư”[56]. Kẻ thù đã cướp đi tính mạng của
không biết bao người chiến sỹ cách mạng yêu nước và hàng trăm nghìn
người dân vô tội. Chiến tranh, chia rẽ hạnh phúc gia đình, gieo rắc đau
thương cho mọi người, mọi nhà và được các tác giả ký sự chiến tranh miêu
tả hết sức xúc động: “Cao Bằng, giang sơn của phụ nữ, của những người
mẹ vắng con, của những người vợ góa còn trẻ, chồng bị giặc giết, khăn
vuông và thắt lưng trắng, của những người vợ lặng lẽ mong tin chồng đánh
giặc ở xa. Cao Bằng đã ba năm kiệt quệ vì giặc phá hoại, ba năm gánh vác
những chiến dịch mở liên miên. Cao Bằng bị giặc dồn vào các hang, các
hốc. Cao Bằng đã phải ăn ngô, ăn sắn, ăn cháo, lại một lần nữa, Cao Bằng
tự vắt mình để dốc hết người và của vào trận đánh mới”[56, 43].
Kẻ thù đã phá vỡ sự bình yên của làng xóm, phá vỡ mọi sinh hoạt của
nhân dân, Nguyễn Khắc Thứ trong Trận Thanh Hương viết: “Mấy chị phụ nữ
vừa đặt gánh lên vai định đi chợ Thanh Hương cũng đặt gánh xuống. Mấy bác
nông dân vác cuốc ra cửa ngõ cũng lại vào nhà. Tất cả mọi việc chợ búa, đồng
áng, ngay cả đến việc xem lễ cũng ngừng lại. Ngừng lại đã. Lỡ Tây lùng thì
sao?”. “Dòng người tản cư, tản ra núp vào các bụi, các lùm cây, mắt thao láo
nhìn hai chiếc tàu bay gầm gừ nhào lên, lộn xuống [56, 24-25].
Khi viết về kẻ thù, các tác giả ký sự chiến tranh đã không tiếc lời khi
dành cho chúng những trang viết đầy mỉa mai, khinh bỉ: “Địch như rắn bị
chặt hai khúc, quằn quại trong khói, trong đạn. Chúng nhào ra ruộng, trong
làng, trên đường lố nha lố nhố, hốt hoảng”[56, 34].
Hình ảnh kẻ thù ham sống sợ chết được tái hiện sinh động. Chúng tàn
bạo dã man bao nhiêu thì cũng đớn hèn, nhục nhã bấy nhiêu: “Chúng tán
loạn như một lũ điên giữa ruộng. Thằng đen thằng trắng cao lênh nghênh,
béo ụt ịt, lạch đà lạch đạch đến quáng mắt.
Chúng quăng ba lô, chúng vứt đạn, từng cát tút se, từng băng từng
thùng, chúng ném cả súng trung liên, đại liên, súng trường, mooc ta, mooc-
55

chi-ê, chúng rụi xuống đất, xuống bùn, vất trên bờ ruộng, đường cỏ. Máu
bê bết, máu loang loang”[56, 39].
Ký sự chiến tranh 1945 – 1975 đã trực tiếp nói về nhưng tên tay sai,
bọn bán nước cầu vinh: “ - Có phải thằng hai Nạng đây kia không?
Mọi người nhìn về phía một tên ngụy binh ngồi khoanh tay trong một
xó, đầu gục xuống. Bà con chạy lại lôi nó ra. Nó lùi lại.

- Đích nó rồi.
- Đánh bỏ mẹ thằng Việt gian đi.
Họ ngửa mặt nó lên. Một ông ké lấy trong bếp ra một thanh củi, xông
lại, mắt căm hờn.
- Mày chết với ông. Mày dẫn Tây vào để nó chặt đầu con ông. Cả
những thằng giặc kia nữa, để chúng nó làm gì?”[56, 89].
Các tác giả ký sự chiến tranh đã nêu đích danh từng tên một: Thằng
hai Nạng, Nguyễn Văn Thiệu, Ngô Quang Trưởng… tất cả bọn chúng đều
được các tác giả dành cho những trang viết đầy mỉa mai, khinh bỉ: “Bên
gốc đa, thấy tên ngụy binh ngồi co ro tay ôm mặt. Có đứa mặt băng đi một
miếng má. Có đứa cả mặt nát bét, mắt mù tịt, máu còn chảy đỏ ngòm. Cụt
tay hay cụt chân nhiều. Hắn lết đến tập họp một chỗ.
Một bà mẹ bước qua, chợt thấy một cây thánh giá lủng lẳng trong cổ
một tên ngụy binh áo rách bươm. Bà bước tới thong thả mở sợi dây, giọng
tức tối :
Anh đeo cây thánh giá này phải tội với Chúa. Đưa cho tôi”[56, 42].
Trong Bắc Hải Vân xuân 1975, tác giả đã khắc họa hình ảnh tên tướng
bại trận Lâm Quang Thi đầy mỉa mai, châm biếm: “Đối với tên tư lệnh tiền
phương quân đoàn 1 Lâm Quang Thi thì cấp trên điều lính dù vào Đà
Nẵng, hắn vẫn tỏ ra yên tâm hoặc là cố tạo cho mình sứ yên tĩnh trong tâm
tư - nhưng nay, đến lượt thủy quân lục chiến bị điều đi nữa (dù chỉ mới
điều hẳn lữ đoàn 369 vào Đà Nẵng, còn lữ 258 vào đèo Phú Gia, bắc Hải
56

Vân) thì chắc hắn sẽ phải bối rối. Bị điều đi hơn 5.000 thủy quân lục chiến
để đổi lấy 700 lính biệt động trong lúc phải phòng giữ một khu vực đầu
sóng ngọn gió này, Lâm Quang Thi hẳn không thể tiền hô hậu ủng nhênh
nhang đi đánh tơ- nít như tuần trước, nhất là bấy giờ, giờ G. đã điểm, tiếng
súng chiến dịch của ta đã bắt đầu”[57, 192].
Với giọng mỉa mai, khinh bỉ, coi thường, các tác giả ký sự chiến tranh
đã lột tả bộ mặt kẻ thù vừa tàn bạo, dã man vừa đớn hèn, nhục nhã. Nhưng
dù có hung hăng, độc ác đến đâu thì chúng cũng thất bại nặng nề trên một
đất nước anh hùng.
2.2.2. Phản ánh chân thực con người trong chiến tranh
2.2.2.1. Người chiến sĩ ở các mặt trận
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 gắn bó sâu sắc với đời sống
cách mạng và kháng chiến, chủ yếu tập trung viết về đề tài chiến tranh. Mỗi
tác phẩm văn học đều thể hiện tinh thần cách mạng của quân và dân ta. Văn
học hướng tới đại chúng, phản ánh sức mạnh của quần chúng nhân dân, thể
hiện niềm tự hào của dân tộc và niềm tin tất thắng. Ca ngợi cuộc kháng
chiến và con người kháng chiến là những cảm hứng chính của văn học giai
đoạn này. Văn xuôi thời kỳ này chủ yếu là truyện ngắn và ký viết về đề tài
người nông dân và người lính. Đặc biệt, hình ảnh người lính vệ quốc quân,
các chiến sĩ trên các mặt trận với những phẩm chất như lòng yêu nước,
thương nhà, tình đồng đội, tinh thần dũng cảm trong chiến đấu được các
nhà văn khai thác và thể hiện một cách hết sức chân thực và sinh động.
Người lính là hình tượng trung tâm tạo nên nguồn cảm hứng chính
trong văn học giai đoạn này. Đã không ít cây bút viết về người lính - anh bộ
đội Cụ Hồ trên các mặt trận như người lính trong thơ của Tố Hữu, Quang
Dũng, Chính Hữu, Phạm Tiến Duật,… Hầu hết hình ảnh người lính trong thơ
văn giai đoạn này hiện lên với những phẩm chất cao đẹp, đại diện cho cái
chung, tên của họ có thể là tên chung của đồng đội: Đồng chí – Chính Hữu,
Tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật,… Họ có thể là những nhân vật
57

được hư cấu, có thể là những con người có thực trong đời thường. Nhưng
hình ảnh người chiến sĩ trong ký sự chiến tranh 1945 – 1975 thường gắn với
con người có thật, họ có tên thật có địa chỉ rõ ràng. Họ xuất thân từ những
vùng miền khác nhau, các tầng lớp khác nhau nhưng họ đều bước ra từ lịch
sử chiến tranh của dân tộc, ở họ tràn đầy niềm lạc quan, tinh thần yêu nước,
sẵn sàng chiến đấu vì độc lập thống nhất của tổ quốc.
Ký sự chiến tranh 1945 – 1975 đi sâu khắc họa hình ảnh những người
chiến sĩ trên các mặt trận mà thời ấy gọi là bộ đội Cụ Hồ. Tác phẩm ký sự
viết về người lính đầu tiên được chú ý là Một lần tới thủ đô của Trần Đăng
viết vào tháng 01-1946. Bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp đến kháng
chiến chống Mĩ, nhiều nhà văn tiền chiến tham gia quân đội hoặc đi theo
các đơn vị bộ đội trên các trận đánh đã tập trung tái hiện hình ảnh những
người chiến sĩ trên các mặt trận từ núi rừng Việt Bắc, Tây Bắc đến Bình Trị
Thiên, Đông và Tây Nam Bộ, từ đồng bằng Bắc Bộ đến Tây Nguyên… Đó là
hình ảnh người lính trong các tác phẩm Trận Phố Ràng – Trần Đăng, Ký sự
Cao Lạng – Nguyễn Huy Tưởng, Tháng ba ở Tây Nguyên – Nguyễn Khải,
Bắc Hải Vân xuân 1975 – Xuân Thiều, Ký sự miền đất lửa – Nguyễn Sinh và
Vũ Kỳ Lân,...
Trong những năm khói lửa chiến tranh, cả dân tộc đồng lòng chung
sức, tập trung mọi sức mạnh vật chất và tinh thần phục vụ cho cách mạng.
Nhưng vai trò của người lính trong hai cuộc kháng chiến là hết sức to lớn.
Họ là những người đã góp phần làm nên lịch sử. Dân chúng yêu người lính,
ca ngợi người lính, coi người lính như người thân ruột thịt. Nam Cao trong
Nhật ký ở rừng đã viết: “Tôi biết các anh nhiều khi phải nhịn cơm, ăn cháo.
Đứng dưới mưa suốt ngày, suốt đêm mà đánh giặc. Lòng các anh cũng là
lòng súng thép… các anh đã dạy tôi biết hi sinh, biết chiến đấu”. Hình ảnh
những người chiến sĩ trên các mặt trận mỗi người một vẻ, họ khác nhau về
tuổi đời, nghề nghiệp, xuất thân từ những vùng quê khác nhau nhưng họ có
điểm chung là tinh thần chiến đấu kiên cường, dũng cảm, hy sinh hết mình
58

về Tổ quốc, nhân dân. Các tác giả ký sự chiến tranh đã dành những tình
cảm sâu sắc khi viết về hình ảnh người lính trên các mặt trận trong hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Trong Ký sự Cao Lạng, Nguyễn Huy Tưởng đã miêu tả hình ảnh những
người lính Pháo binh trong cuộc hành quân chuẩn bị cho trận đánh lịch sử:
“Chiều tà, pháo binh tới bản Viện cách địch sáu cây số. Người chạy qua suối
với gậy gạc, nhảy như cào cào trước một cái khung đại bác nghễu nghện”
[56, 55]. Đó là hình ảnh người lính hết sức bình dị nhưng cũng rất đỗi phi
thường. Viết về hình ảnh người lính trên các chiến trường các tác giả ký sự
chiến tranh không tô hồng, cường điệu hóa mà khắc họa với vẻ đẹp chất
phác, đời thường vốn sẵn có của họ. Ký sự Tháng ba ở Tây Nguyên của
Nguyễn Khải viết về người thật, việc thật trên mặt trận Tây Nguyên. Đó là
anh Bình, anh Khoát, anh Vũ Lăng… những con người đời thường, có tên
tuổi, địa chỉ cụ thể. Ký sự Cao Lạng miêu tả hình ảnh những người chiến sĩ
rất đời thường, trong những phút giây lịch sử họ vẫn chia vội điếu thuốc lá
cuối cùng: “Người chạy, người xuống hầm, người đứng vào vị trí mình.
Dưới hầm, sau biệt súng, một cán bộ tiểu đội đứng bên ba cái hòm đã mở
sẵn, bày các ngòi đạn như hàng xén. Đại đội trưởng chạy lại một khẩu đội
mũ rách, chân đất, mắt sâu thẳm sau kính cận thị. Hàm chia vội điếu thuốc
lá cuối cùng cho Thào, lạch bạch đến đứng nghiêm sau súng. Trung đội
trưởng, mặt nổi gân, nhảy lên một cây tre xùm xòa, đánh đu vít nó xuống
để ngụy trang thêm biệt súng” [56, 58].
Vẻ đẹp của người chiến sĩ trong ký sự chiến tranh là luôn kiên cường
bất khuất, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Họ luôn phải đối đầu với khói đạn,
chết chóc, song vẫn toát lên tinh thần lạc quan: “Khi tôi đến thì anh em
thanh niên xung phong đang kéo xe. Hai sợi dây cáp dài buộc hai bên xe,
mỗi bên 40 người kéo. Xe lên khỏi ngầm mới thấy xe 214 xình xịch đến.
59

Xe chạy trước, tám chục cô cậu thanh niên xung phong chạy sau, hò
reo ầm ĩ. Tuổi trẻ là thế đấy, họ coi bom đạn và cái chết chẳng nghĩa lý gì”
[57, 198].
Khi phải đối đầu với sự hi sinh ở họ vẫn toát lên vẻ đẹp của lý tưởng
cộng sản, một lòng hướng về Đảng, về cách mạng: “- Các đồng chí nhớ
đêm nay giải quyết xong Đông Khê nhé.
Trần Cừ băng băng lên trước. Một chú liên lạc đang cố rúm người lên
để ném lựu đạn vào một lỗ châu mai là là mặt đất. Cừ nói :
- Chú đưa anh một quả. Phải triệt lỗ châu mai này mới tiến được.
- Anh mở nút lựu đạn xông lên. Những tràng đạn liên thanh, những
chai thuốc nổ từ trong ném ra. Trần Cừ lảo đảo. Anh hô to:
- Giải phóng Đông Khê! Hồ Chủ tịch muôn năm! Đảng cộng sản
Đông-Dương muôn năm!
- Trần Cừ cố nhoai lên rồi gục xuống, xác bịt lỗ châu mai. Các bạn
anh xông lên” [56, 64].
Những người lính không tên và những người lính với tên tuổi cụ thể
như La Văn Cầu, Trần Văn Cừ… mãi mãi được ghi danh trong lịch sử dân
tộc. Chính họ là những người trực tiếp làm nên lịch sử trong công cuộc giải
phóng dân tộc.
Hình ảnh các chiến sĩ ở các mặt trận trong những trang ký sự chiến
tranh 1945 - 1975 là những con người cần cù, chịu khó vượt qua mọi khó
khăn, thiếu thốn và bệnh tật. Điều này có thể thấy rất rõ trong Ký sự
miền đất lửa của Nguyễn Sinh và Vũ Kỳ Lân: “Nhưng nói chung là kham
khổ, càng về sau càng khổ. Gạo không thiếu, chỉ thiếu thức ăn, nhất là rau.
Có bao nhiêu rau tàu bay, môn thục, rau má trong vùng bộ đội tên lửa vặt
trụi hết. Cứ đi công tác qua mạn Khe Lương, thấy bộ đội ngồi xổm nhổ rau
má bên đường, không cần hỏi cũng biết là quân 238. Gặp khó khăn mới
nghĩ ra được lắm điều hay. Có ai ngờ rau tàu bay cũng chế biến được dăm
ba món : xào, luộc, canh, ghém, muối dưa nộm. Cả rau má cũng muối dưa.
60

Hết rau má, rau tàu bay ở các bãi trống, anh em lần vào rừng sâu tìm chuối
hoang. Lúc đầu chưa biết cách, ăn món canh này xong, nhựa bám đen kịt
quanh mép trông cứ như quệt nhọ vào, cười đến chảy nước mắt”[57, 203].
Khổ cực, bom đạn không thể khuất phục được ý chí, lòng quyết tâm
đánh giặc cứu nước của những con người áo vải, chân đất.
Tình đồng chí, đồng đội là nét đẹp cao cả của ngững người lính trong
các tác phẩm ký sự chiến tranh. Họ nhường nhau từng miếng ăn, cùng chia
nhau chiến lợi phẩm và có thể khóc khi đồng chí hi sinh. Trong Ký sự Cao
Lạng có đoạn viết: “Pháo binh lại hành quân. Chị Thiếp đau chân. Một
hôm trời tối, chị vào rừng lấy củi cho bộ đôi, bị nứa nhọn đâm gần suốt bàn
chân. Nhưng chị không chịu nghỉ, vẫn tập tễnh đi theo bộ đội. Đồng chí
Thào hơi buồn. Hôm bốn người dân công trong toán hy sinh ở Đông Khê,
đồng chí Thào đã rửa ráy họ sạch sẽ, và khóc rưng rức khi đem táng họ ở
gần vị trị pháo binh. Đồng chí Thào chỉ vui khi gặp Hàm. Mỗi khi anh em
dân công ốm đau, Hàm hay đến hỏi thăm. Đồng chí Thào thích Hàm ở chỗ
không bao giờ Hàm đùn việc nặng cho dân công như một hai đội viên khác,
không nặng tiếng với dân công bao giờ. Hôm đơn vị được chia chiến lợi
phẩm. Hàm biếu đồng chí Thào miếng phó mát, phần của anh. Nể quá,
đồng chí Thào phải ăn, nhưng rồi nôn tháo cả ra. Hai người cùng ngượng.
Hàm lại cố đi tìm cho đồng chí Thào một cái vỏ đồ hộp. Đồng chí Thào
cảm động lắm” [56, 66].
Hình ảnh người lính trên các mặt trận được các tác giả ký sự chiến
tranh như Nguyễn Khải, Xuân Thiều, Nguyễn Sinh, Vũ Kỳ Lân… tái hiện
hết sức sinh động. Họ nổi bật lên với những phẩm chất anh hùng, kiên
trung, hi sinh vì tổ quốc: “Vào mùa xuân này những con người khôn ngoan
kia đều đã tự nguyện nhập vào hàng ngũ cách mạng, tung hô cách mạng
theo cái cách của họ, vui vẻ chịu đựng mọi sự thử thách đang tới và còn sẽ
tới. Nhà hùng biện nào, nhà văn, nhà thơ nào đã có được cái bản lĩnh thuyết
phục cao siêu nhường ấy? Quả là vẫn có, luôn luôn có những con người có
61

sức thuyết phục phi thường. Họ là cảm hứng của văn thơ, là căn cứ để kiểm
nghiệm nhiều tiêu chuẩn. Nhưng họ lại không có thì giờ để nghĩ đến những
cảnh ngộ xa lạ, những tâm sự kỳ quặc. Khi tôi được nói chuyện với những
chiến sĩ đã thắp sáng ngọn đuốc chân lý trong nhiều năm ở miền Nam này,
rằng ngọn lửa của các anh đã từng chiếu rọi vào nhiều cảnh ngộ và số phận,
thì các anh hết sức ngạc nhiên : "Lại thế nữa! Họ là những ai? Họ sống như
thế nào? Họ lại nghĩ như thế ư ?" Rồi các anh nhìn tôi cười ầm lên : "Nhà
văn là hay bịa lắm, làm gì có những chuyện kỳ quặc đến thế!". Làm sao các
anh có thể biết được! Vì các anh đâu có nghĩ cái nguyên nhân và cái kết
quả lại có thể quanh co đến thế, xa lạ nhau đến thế, khó lường đoán đến
thế” [57, 24].
Trong Ký sự miền đất lửa, Nguyễn Sinh và Vũ Kỳ Lân đã tái hiện lại
hình ảnh những người lính bắn tên lửa nhanh nhạy và thông minh, gan dạ:
“Nói đến bộ đội tên lửa ai cũng nghĩ là nhàn. Một bước lên xe mà lỵ. Vào
một chiến trường như Vĩnh Linh, càng lắm xe càng khổ. Đến nơi, bộ đội
nhảy từ trên xe xuống là cầm lấy xẻng đào hầm ngay. Một tiểu đoàn có 32
xe các loại thứ nào cũng to lớn, kềnh càng. Xe đạn dài 17 mét, cao bốn
mét, ca bin chỉ huy dài 11 mét, rộng ba mét rưỡi, cao cũng bốn mét... Tất cả
đều phải cho xuống hầm. Mà phải hầm ra hầm: có nắp dày để tránh pháo,
tránh bom bi, rốckét, mảnh bom. Mỗi xe có một hầm chính rồi còn phải
đào thêm ba hầm dự trữ ở ba chỗ khác nhau. Đấy là chưa kể đến chuyện
đào hầm cho người” [57, 202].
Ký sự chiến tranh 1945 - 1975 đã tái hiện hình ảnh bộ đội Cụ Hồ với
đầy đủ những phẩm chất cách mạng. Họ có thể là những chiến sĩ công
binh, lính pháo binh, lính bộ binh, những người lính bắn tên lửa… với
những nhiệm vụ khác nhau, trên những chiến trường khác nhau, trong
những trận đánh khác nhau nhưng đều vì một mục đích chung là giải phóng
dân tộc. Khắc họa vẻ đẹp người lính trong chiến tranh, ký sự chiến tranh
1945 – 1975 đã tuân thủ theo nguyên tắc của ký – người thật,việc thật.
62

2.2.2.2. Nhân dân trong hai cuộc kháng chiến


Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 mà tiêu biểu nhất là ký sự
chiến tranh bám sát hai cuộc cuộc kháng chiến của dân tộc, hướng đến đối
tượng phản ánh là quần chúng nhân dân. Hình tượng văn học tập thể,
nhiệm vụ tập thể xuất hiện nhiều. Đó là hình ảnh nhân dân trong hai cuộc
kháng chiến trường kỳ, những con người đã góp phần làm nên những kỳ
tích lớn trong lịch sử dân tộc. Văn học tập trung miêu tả những giá trị cao
đẹp về nhân dân anh hùng. Nhân dân là con người mới, khỏe khoắn, trẻ
trung, có khát vọng, có tầm vóc lớn lao, luôn chủ động đấu tranh chứ
không còn bị động, cô độc như trong văn học trước năm 1945.
Không tách rời với cảm hứng chung của văn học giai đoạn này, thể
loại ký nói chung và ký sự nói riêng đã hướng ngòi bút viết về hình ảnh
nhân dân trong hai cuộc kháng chiến. Nhân dân trong kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ được tái hiện trong các tác phẩm ký sự chiến tranh là
những con người có thật trong đời thường lúc bấy giờ, là những con người
có thể có tên, có thể không, song ở họ luôn toát lên tinh thần bất khuất, quật
cường trong lao động sản xuất cũng như trong chiến đấu. Đó là những con
người bình thường, cần cù, chịu khó, và chính điều đó thể hiện chất anh
hùng của họ. Các tác giả ký sự chiến tranh 1945 – 1975 đã tái hiện, xây
dựng hình ảnh nhân dân trong hai cuộc kháng chiến với những phẩm
chất tốt đẹp đó. Họ là những con người đời thường, hết sức bình dị, chấc
phác, nhưng anh hùng, dũng cảm trong chiến đấu: “Đấy là bốn đồng chí
Thổ cởi trần, thân hình gầy gò, gối ngập bùn. Họ bắt đầu chuyển những
phiến gỗ lớn và nặng quá sức họ lên ôtô, hò nhau bằng tiếng bản địa,
thỉnh thoảng kêu đau ai ái xuýt xoa, rồi cãi nhau, rồi cười hiền lành rồi
lại khiêng, rồi lại đẩy gỗ. Trong bóng tối, họ đánh vật với hơn năm chục
phiến gỗ, tiếng thở kiệt sức mỗi lúc một to, một hổn hển. Gỗ sát vào
nhau xè xè, lục cục. Đã có lúc hai người đứng ở sau xe, không còn đủ
sức đẩy nữa, đầu gục vào đầu phiến gỗ, lịm đi một lúc lâu” [56, 44].
63

Họ có thể là những con người có tên tuổi như Chị Hồng, O Dậu, O
Em, Anh Đ, Cụ H, hay những con người với cái tên chung như chị Thổ, chị
Nùng, chị Tày, chị Mán, chị Mèo… và cả những người dân không có tên
nhưng tất cả đều thể hiện lòng dũng cảm gan dạ, hết lòng vì kháng chiến.
Trong hoàn cảnh chiến tranh, họ là những con người đại diện cho quần
chúng nhân dân luôn hướng về cách mạng, sẵn sàng phục vụ vật chất và
tinh thần cho bộ đội đánh thắng giặc Pháp và giặc Mỹ. Trong Ký sự Cao
Lạng, tác giả đã miêu tả hình ảnh những con người làm việc âm thầm,
không quản khó khăn, ngày đêm thông đường, tiếp tế, vận chuyển cho bộ
đội hành quân: “Lại các chị Thổ, chị Nùng, chị Mán, chị Mèo. Họ đập đá.
Đá bốc lên mùi thum thủm. Một vài em gánh đá. Mấy người đàn ông có
tuổi cuốc đất xuống đường”[56, 52].
Hình ảnh chị phụ nữ với tà áo dài lướt thướt, gánh cơm tiếp tế cho bộ
đội trong Trận Thanh Hương đã thể hiện tình yêu thương, cưu mang, đùm
bọc của nhân dân đối với bộ đội và cách mạng:
“Chị phụ nữ mừng rỡ :
- Bộ đội à! Rứa em bới cơm cho các eng đây.
Tất cả chồm dậy. Trừ mấy anh thương binh.
- Răng chị biết chúng tôi ở đây mà bới cơm ra.
- Không biết nhưng cứ đi bừa là gặp cả. Chỗ mô chẳng có bộ đội miềng!
Chị thoăn thoắt phát mỗi anh một vắt cơm cười vui vẻ :
- Các eng ăn tạm. Gấp quá không kịp mần thức ăn, chỉ có muối.
Tiếng rên khe khẽ bật lên. Chị giật mình chạy lại :
- Eng bị thương à?
Anh thương binh trả lời mệt nhọc :
- Khát lắm, chị cho xin miếng nước.
Chị vội vàng xách chiếc nồi cơm đã ráo ngoẻn chạy đi. Chỉ lát sau,
một nồi nước đã bắc lên hai khúc cây, và một đống củi chất đầy phía dưới.
Anh đội viên chạy tới giúp, hí hoáy mãi chưa tìm ra đóm nhen lửa.
64

Một tiếng xoạt như lụa xé. Chị đã xé ngay nửa vạt áo dài, đánh máy
lửa, châm, đun vào bếp. Ngọn lửa bén dần, bốc rừng rực. Má chị hồng hồng
núng hai nụ đồng tiền rất xinh. Mắt anh đội viên long lanh ướt” [56, 37].
Hình ảnh o Em, o Dậu trong Ký sự miền đất lửa của Nguyễn Sinh –
Vũ Kỳ Lân là hình ảnh đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam, bất
khuất, kiên trung, giàu đức hy sinh và sẵn sàng hy sinh tính mạng cho sự
nghiệp cách mạng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào họ vẫn thể hiện được vai
trò và vị trí của mình: “Cô dân quân đứng đằng mũi như nằm rạp xuồng,
đẩy chèo hối hả. Tôi quay nhìn lại. Hình ảnh cô Dậu, cô dân quân cầm lái
con đò mới đẹp và hùng dũng làm sao! Cao lớn, dáng dấp như người anh
ruột đã hy sinh, cô đứng thẳng, tay đẩy chèo nhanh nhưng không vội vã,
hấp tấp, ngước nhìn bầu trời lóe sáng với đôi mắt to, lấp lánh. Cặp môi cô
gái mím lại, vẻ cương quyết”[57, 230].
Vẻ đẹp của người phụ nữ trong chiến tranh không phải chỉ có trong
những trang ký sự chiến tranh. Những hình ảnh như mẹ Suốt, chị Út Tịch,
chị Lý… đã được văn học tái hiện. Chính trong những năm bom đạn chiến
tranh sức mạnh và vẻ đẹp của người phụ nữ mới bật phá ra. Họ là biểu
tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: “Nếu mai đây ta dựng tượng đài
trên bến đò để kỷ niệm những con người bất khuất đã chiến đấu bền bỉ và
hy sinh ở đây tôi sẽ đề nghị các nhà điêu khắc lấy cô gái và con thuyền của
cô làm mẫu”.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, qua những
trang ký sự chiến tranh, hội tụ đầy đủ các tầng lớp người từ già đến trẻ, từ
dân tộc kinh đến dân tộc thiểu số… nhưng họ luôn đoàn kết, đùm bọc lẫn
nhau. Tình quân dân như tình ruột thịt, có lẽ vì thế mà các bà mẹ Việt Nam
đều được gọi với cái tên chung “Mẹ Việt Nam anh hùng”. Tất mọi người
đều dấy lên lòng căm thù giặc sâu sắc: “Một ông cụ không biết võ trang
một cái gậy tre từ bao giờ, xồng xộc xô đến, xô dạt mọi người. Anh đội
viên ôm ngay cụ lại. Cụ vùng vằng, quát tháo:
65

- Đồng chới thả tui ra. Đồng chới thả tui ra. Để tui đập bể sọ hắn ra. Tổ cha
hắn. Hắn giết của tui mất hai đứa con. Hắn đút nhà tui năm lần rồi...”[56, 35].
Hình ảnh nhân dân luôn sẵn sàng đối mặt với khó khăn, thích nghi với
hoàn cảnh, hướng về ngày mai được thể hiện cụ thể trong Trận Thanh
Hương: “Đồng bào đã quen những cuộc chạy lùng lắm rồi. Bao lá kè nè
bên nách. Vài chiếc áo quần, dăm lon gạo. Giặc đến họ đi. Giặc đi họ về.
Nhà cửa có đốt thì làm lại. Ruộng vườn có bị phá, thì cày cấy lại. Sống cái
đã. Thoát cái đã. Lọt vào tay giặc, khổ lắm, nhục lắm”[56, 25].
Hình ảnh nhân dân trong ký sự chiến tranh 1945 – 1975 là những con
người có thật gắn với những sự kiện có thật, những địa chỉ có thật. Điều
đáng nói là hình ảnh nhân dân trong hai cuộc kháng chiến hiện lên trong
những trang ký sự chiến tranh như những người anh hùng bất khuất, quật
cường trong chiến đấu. Họ không phải là kiểu anh hùng vĩ đại như kiểu sử
thi mà họ là những người bình thường, anh hùng trong đời thường. Hầu hết
các tác giả ký sự chiến tranh đã xây dựng hình ảnh nhân dân dựa trên
nguyên tắc chung đó là con người với tư cách là một công dân tích cực, con
người kết tinh những gì đẹp nhất. Các nhà văn “đã tìm ra giữa cái biển
mênh mông của cuộc chiến tranh nhân dân những hạt muối mặn kết tinh
những điển hình anh dũng thoạt mới đầu tưởng như không có gì đáng
kể”[12, 52].
Khi hai cuộc kháng chiến thành công, đất nước thống nhất, non sông
thu về một mối, niềm hạnh phúc, vinh quang thuộc về nhân dân Việt Nam –
những con người anh hùng đã chịu biết bao hy sinh, vượt lên tất cả mọi thử
thách để dành chiến thắng. Chính họ đã làm nên kỳ tích lớn trong hai cuộc
kháng chiến bảo vệ tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2.2.2.3. Ký sự chiến tranh khắc họa sắc nét vẻ đẹp của con qua hai
cuộc chiến tranh vệ quốc
Hiện thực cách mạng 1945 – 1975 tạo nguồn cảm hứng vô tận cho
văn học. Mẫu người lý tưởng của thời đại mới dần khẳng định trên khắp
66

các lĩnh vực đời sống. Các thể loại văn học đã thể hiện tốt vai trò của
mình trong việc xây dựng những mẫu hình con người tiêu biểu của thời
đại. Trong ký sự chiến tranh 1945 – 1975, qua hình ảnh nhân dân và
những người lính, các tác giả đã xây dựng nên những mẫu hình con
người tiêu biểu trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc.
Nhìn chung văn học cách mạng giai đoạn này tập trung khắc họa vẻ
đẹp con người Việt Nam với những phẩm chất yêu nước, dũng cảm, sẵn
sàng hi sinh vì tổ quốc. Đó chính là bản lĩnh của người Việt Nam. Hầu hết
các thể loại văn học 1945 – 1975 đã ít nhiều xây dựng những hình mẫu con
người tiêu biểu, thể hiện lý tưởng của thời đại cách mạng. Đó là những con
người mang vẻ đẹp của thời đại, của dân tộc. Những con người đại diện
cho cái chung, cho cộng đồng. Những mẫu hình con người tiêu biểu là
những con người mang vẻ đẹp lý tưởng, quan điểm tư tưởng đạo đức được
khẳng định, đề cao như một tấm gương về phẩm chất cao đẹp của con
người một thời.
Ký sự chiến tranh tập trung tái hiện những sự kiện lịch sử trọng đại
của dân tộc và những con người làm nên những sự kiện lịch sử ấy. Đó là
hình ảnh nhân dân và những người lính trong hoàn cảnh chiến tranh. Thông
qua hình ảnh nhân dân và người lính, ký sự chiến tranh đã xây dựng thành
công những mẫu hình con người tiêu biểu qua hai cuộc kháng chiến vĩ đại.
Dù viết về hình ảnh người lính hay hình ảnh nhân dân, ký sự chiến tranh
đều tập trung thể hiện những phẩm chất bản lĩnh của người Việt Nam. Hình
ảnh những con người chất phác, bình dị và rất đời thường nhưng ở họ toát
lên lòng yêu nước, căm thù giặc, không ngại hi sinh, gian khổ, chiến đấu
dũng cảm để giữ vững độc lập, thống nhất cho tổ quốc, luôn lạc quan, yêu
đời trong chiến đấu và trong đời thường.
Những mẫu hình con người tiêu biểu hiện lên trong các tác phẩm ký
sự chiến tranh là những con người mang vẻ đẹp của thời đại: “dâng tất cả
để tôn thờ chủ nghĩa”. Họ sẵn sàng khắc phục mọi khó khăn vì sự nghiệp
67

bảo vệ tổ quốc: “Gió quật mưa tới tấp vào mặt mũi anh. Trên đèo nước
chảy ầm ầm xuống như đổ. Hàm tháo ba thồ, để cho lừa nghỉ dưới chân
đèo vì chúng không vượt được đèo đá còn anh và các bạn bắt đầu chuyển
những bộ phận đại bác sang bên kia chân đèo : dài ba cây số. Dốc trơn cao
ngất. Dốc đá tai mèo, đá sắc như dao lổm chổm như chông. Những hòn đá
chắn lối đi, dựng đứng, cao hơn người xếp thành ba bốn bực phải vượt qua.
Mắt các anh không mở được vì mưa. Hàm phải làm gấp ba công việc :
mang được một bộ phận sang chân kia đèo, rồi lại trở lại chỗ cũ để khiêng
nốt những bộ phận còn sót” [56, 71].
Đó là những con người dám đối đầu với cái chết, sẵn sàng hi sinh tính
mạng nếu cần thiết: “Anh mở nút lựu đạn xông lên. Những tràng đạn liên
thanh, những chai thuốc nổ từ trong ném ra. Trần Cừ lảo đảo. Anh hô to :
- Giải phóng Đông Khê! Hồ Chủ tịch muôn năm! Đảng cộng sản
Đông-Dương muôn năm!
- Trần Cừ cố nhoai lên rồi gục xuống, xác bịt lỗ châu mai. Các bạn
anh xông lên”[56, 64].
Mẫu hình con người tiêu biểu trong ký sự chiến tranh 1945 – 1975
không chỉ yêu nước, anh dũng mà họ còn là những con người lạc quan
yêu đời, luôn tin vào thắng lợi tất yếu của quân và dân ta: “đinh ninh
một lời hứa sắt son, một lời thề nhất định có ngày sẽ trở về Huế. Chao
ôi, niềm tin của chúng ta thật là mãnh liệt”[57]. Và “ Trong đêm ấy tôi
biết một cách chắc chắn là chúng ta sẽ giải phóng toàn miền Nam trong
mùa Xuân này, là cuộc khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng kéo
dài đã ba chục năm đang tiến dần tới những giây phút sau chót”[57, 146].
Cái đích hướng tới cuối cùng của văn học là giáo dục, cảm hóa con
người, hướng con người tới lý tưởng sống cao đẹp. Ký sự chiến tranh 1945 –
1975 đã xây dựng thành công mẫu hình con người tiêu biểu mang lý tưởng
của thời đại là hết lòng phụng sự vì tổ quốc.
68

Chương 3
KÝ SỰ CHIẾN TRANH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM 1945 – 1975
NHÌN TRÊN PHƯƠNG DIỆN THI PHÁP THỂ LOẠI

3.1. Một số vấn đề về thi pháp thể loại của ký và ký sự


3.1.1. Về thi pháp thể loại ký
3.1.1.1. Hình thức thể loại của ký
Ký là một loại hình văn học đặc thù nằm giữa văn học và cận văn học
(báo chí, chính luận, ghi chép tư liệu các loại), chủ yếu là văn xuôi tự sự.
Loại hình ký vốn phản ánh những vấn đề, sự kiện, con người có thật, điển
hình, luôn cố gắng đảm bảo tính chân thực, chính xác. Thể ký thường thịnh
hành ở các giai đoạn văn học sử.
Ở Việt Nam, ký đã xuất hiện từ sớm với các tác phẩm như Thượng
kinh ký sự, Vũ trung tùy bút… Ký bắt đầu khẳng định được vị trí của mình
vào thời kỳ 1930 – 1945 với những tên tuổi lớn như Ngô Tất Tố, Nguyễn
Đình Lạp, Vũ Trọng Phụng… Bước sang giai đoạn kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mĩ, ký phát triển bùng nổ nhờ sự đóng góp của Nam
Cao, Trần Đăng, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Nguyễn Khải, Nguyễn
Sinh, Vũ Kỳ Lân,…
Thể loại ký chủ yếu phản ánh hiện thực cuộc sống trong trạng thái tồn
tại tự nhiên vốn có. Đó là những hiện thực cuộc sống có thật với quy mô
xác thực đến từng chi tiết. Ký đặc biệt chủ yếu thực hiện chức năng thông
69

tin sự thật. Tính chất đặc thù của ký được thể hiện ở chỗ ký không chỉ được
sử dụng trong văn học mà còn được sử dụng rộng rãi trên nhiều phạm vi
khác nhau của cuộc sống như lịch sử, địa lý, văn hóa xã hội. Ngay cả khi
ký được sử dụng trong văn học cũng khác với văn học đích thực – văn
chương thẩm mĩ. Nhiều thể loại của ký đã được báo chí khai thác như
những thể loại giàu uy lực (phóng sự, ký sự). Ký có hình thức co giãn thể
loại linh hoạt, giọng điệu phong phú. Với những đặc điểm trên tạo cho ký
một diện mạo riêng, tiếng nói riêng trong văn học, ký thực sự đã tạo ra
được một kênh giao tiếp đối với công chúng. Ký là một lĩnh vực văn học
đặc thù bởi ký tái hiện đời sống và nhân vật như là các sự thật xã hội,
không tô vẽ. Nó như là một hình thức văn học chiếm lĩnh các các sự thực
ngoài văn học. Người ta tìm đến ký “là tìm đến các sự thật của đời sống
không được đưa vào lịch sử, cũng chưa hóa thân vào các hình tượng nghệ
thuật bay bỗng của trí tưởng tượng”[32, 352]. Về cơ bản ký khác với truyện
dài, truyện ngắn, tiểu thuyết ở chỗ trong tác phẩm ký không có xung đột
thống nhất, phần khai triển của tác phẩm chủ yếu mang tính miêu tả, tường
thuật. Đề tài, chủ đề của tác phẩm cũng khác với truyện. Ký không nhằm
vào việc miêu tả quá trình hình thành tính cách của cá nhân trong tương
quan với hoàn cảnh cũng không quan tâm tới những câu chuyện đời tư mà
đối tượng nhận thức thẩm mĩ của ký thường là một trạng thái đạo đức,
“một trạng thái tồn tại của con người hoặc những vấn đề xã hội nóng
bỏng”[32, 163].
Ký vừa giàu chất văn học vừa gần với báo chí. Người viết ký thường
có ý thức khai thác các hình thức ngôn từ giàu hình tượng, hình ảnh thông
qua các thủ pháp tu từ, chuyển nghĩa từ vựng nhằm tạo dựng những câu
văn có hồn, gây ấn tượng ám ảnh đối với người đọc. Người đọc có thể bắt
gặp thường xuyên trong các tác phẩm ký - kể cả ký báo chí những chất liệu
văn học hiện hữu dưới dạng thành ngữ, tục ngữ, ca dao dân ca, điển cổ điển
tích văn học... Ký qua tay những chủ thể sáng tạo tài hoa còn có thể tạo ra
70

được giọng điệu, chạm khắc được những nhân vật sống động, điển hình,
khai thác các thủ pháp sáng tạo và hư cấu tài tình, khéo léo và hợp lý, kết
cấu linh hoạt... đem đến cho người đọc những thụ hưởng mỹ cảm đặc biệt.
Mặt khác, ký bao giờ cũng viết về những con người, những cảnh đời hoặc
các hiện tượng có thật trong cuộc sống. Ký tiếp cận các đối tượng phản ánh
trong tư thế thời sự - cập nhật, chân xác, trung thực, tôn trọng quy mô sự
kiện tối đa. Ký không chỉ thực hiện chức năng thông tin, phơi bày, điều trần
thực tại mà còn trực tiếp góp phần giải đáp, giáo dục và định hướng công
luận.
Căn cứ vào bút pháp và đối tượng phản ánh người ta chia ký thành
các tiểu loại như phóng sự, ký sự, tùy bút, bút ký, hồi ký, truyện ký…
3.1.1.2. Cách thức tổ chức tác phẩm theo thể loại ký
Ký có một phạm vi biểu hiện rất lớn trong việc phản ánh hiện thực
cũng như phát huy vai trò sáng tạo của người cầm bút. Ký là loại hình văn
học đặc thù. Nó cho phép tái hiện những thời đoạn lịch sử đã qua trong tiến
trình phát triển xã hội thông qua những bình diện mà nó đề cập. Có những tác
phẩm chú ý đến việc miêu tả các phong tục qua những nét tính cách tiêu biểu;
có tác phẩm chú ý miêu tả tính cách xã hội hoặc dân tộc trong cuộc sống của
cư dân các vùng miền qua các thời đại; có tác phẩm mang âm hưởng trữ tình,
triết lý, có nhiều tác phẩm ký nghiêng về tính báo chí, tính chính luận, mang
tính thời sự… Bên cạnh đó là những tác phẩm đậm tính chất tư liệu, hướng
vào việc tái hiện chính xác thực tại với những sự kiện có thực, thường kèm
theo sự lý giải, đánh giá tùy theo sự nhạy cảm và cách hiểu của tác giả.
Về cơ bản cách thức tổ chức tác phẩm ký có cốt truyện theo lối kết cấu –
cốt truyện với các bước khai đoạn, phát triển, thắt nút, đỉnh điểm, mở nút.
Với các tác phẩm ký không có cốt truyện được tổ chức theo kết cấu – liên
tưởng xen kẽ giữa sự kiện, con người với những đoạn nghị luận, trữ tình của
nhân vật trần thuật. Ký thường không có xung đột đồng nhất, phần khai triển
của tác phẩm chủ yếu mang tính miêu tả, tường thuật. Ở ký có thể có mô hình
71

người kể chuyện để tạo ra sự thống nhất cho các thành phần vốn dị biệt nhau,
có thể tạo thành thể loại từ những phần vốn chỉ gắn với nhau bằng một trật tự
bề ngoài, lấy đề tài các đoạn mô tả hoặc các ý bình luận về các sự việc được
miêu tả làm ráp nối sự kiện.
Kết cấu của ký rất đa dạng: có thể có mô hình người kể chuyện để tạo
sự thống nhất cho các thành phần vốn dị biệt nhau; có thể tạo thành thể loại
từ những phần vốn chỉ gắn với nhau bằng một trật tự bề ngoài, lấy đề tài
các đoạn mô tả, hoặc các ý bình luận về các sự việc được miêu tả làm ráp
nối sự kiện. Các tác phẩm ký thường "lạ hoá" nghệ thuật kết cấu nhằm tăng
cường tiềm năng thẩm mỹ cho tác phẩm. Nhiều tác phẩm ký đặc sắc của
Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố… kết cấu theo lối "truyện hoá" rất ấn tượng
mà trong những điều kiện thông tin cập nhật, hướng tới đại chúng. Ký có
xu hướng nhằm vào khai thác những phẩm chất có ý nghĩa xã hội hoá ở các
đối tượng phản ánh. Những nét phẩm chất cá nhân con người có giá trị
khuyến dương phổ quát đối với cộng đồng sẽ được người viết ký quan tâm
khai thác. Đến với con người với tư cách là đối tượng miêu tả, ký đến với
các mối quan hệ xã hội có thật và giàu ý nghĩa nhân sinh phổ quát của họ.
Mọi biểu hiện mang tính cá biệt, nhất là khoảng đời tư bí ẩn của con người
đều có xu hướng giảm thiểu tối đa ở trong ký. Người viết ký thường ít để
các thông tin chi tiết về đời tư con người xuất hiện với tần số quá lớn như
trong văn học vì chính nó sẽ khiến cho các hành vi và sự kiện xã hội liên
quan đến nhân vật bị chìm mờ đi hoặc thiếu điều kiện được nhấn mạnh. Về
cơ bản, trong ký (nhất là các loại ký tự sự đòi hỏi phản ánh chân sác các sự
kiện khách quan) người đọc hiếm khi bắt gặp những chi tiết tâm lý mơ mồ,
những ảo giác chập chờn, những độc thoại nội tâm day dứt, những mộng
mị hoang tưởng của nhân vật. Các loại ký trữ tình hoặc các thể loại ký sự,
truyện ký có dung lượng lớn có điều kiện thâm nhập sâu hơn vào cõi riêng
của thế giới nội cảm con người nhưng cũng có những giới hạn nhất định. Ở
đó mọi rung động nội tâm cá nhân con người đều đặt trong sự quy định của
72

các sự kiện có thật ở ngoài đời với tư cách là các tác nhân trực tiếp, vì thế
nhân vật vẫn phải đặt mình trong sự quy chiếu của sự thật khách quan.
Trong ký, con người xuất hiện với tư cách là hiện thân của những vấn đề xã
hội, gắn bó với các sự kiện khách quan mà công luận quan tâm, chứ không
phải là hiện thân của các số phận mang ý nghĩa cá thể - điển hình như trong
truyện và tiểu thuyết. Ý thức hướng tới các phẩm chất có ý nghĩa xã hội
phổ quát của các đối tượng phản ánh ở trong ký càng cho thấy bản chất
chức năng và đặc trưng thông tin cá biệt của ký ở chỗ: ký gắn với sự thật ở
cả yêu cầu phản ánh chân xác sự thật khách quan lẫn yêu cầu định hướng
công luận thông qua những sự thật khách quan có giá trị xã hội phổ quát.
Các tác phẩm ký lấy ngôn từ với tất cả những phẩm chất vốn có của
nó về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, phong cách... làm phương tiện biểu đạt.
Tác giả viết ký có ý thức đan xen ở mức độ phù hợp giữa văn phong thông
tấn và các phương tiện biểu cảm. Ký có khả năng khai thác rộng rãi mọi
sắc thái biểu cảm khác nhau của ngôn ngữ. Vì thế ngôn ngữ trong các tác
phẩm ký lưu đọng sắc nét những dấu ấn cá nhân chủ quan của người viết.
Người viết ký cũng sử dụng thường xuyên hơn các thủ pháp tu từ, chuyển
nghĩa nhằm tạo dựng những câu văn có hồn, giàu hình tượng hình ảnh để
lại cho người đọc những tác động mỹ cảm sâu sắc. Chi tiết trong ký thường
gắn với tính quan niệm của chủ thể phản ánh nên giàu sức biểu hiện và tạo
hình khách thể, chúng có thể trở thành những chi tiết "biết nói", "biết cảm"
thực sự hấp dẫn đối với người đọc.
Người ta vẫn thường nói đến điều kiện cần thiết cho việc sáng tạo một
tác phẩm ký trung thực là chủ thể sáng tạo phải có dịp được chứng kiến sự
kiện bằng trạng thái "tai nghe mắt thấy". Đó là một điều kiện lý tưởng song
không phải lúc nào người viết cũng có thể có được dễ dàng. Người viết ký
cũng có thể viết về sự kiện nhờ nghe kể lại, thậm chí nhờ đọc nguồn "tư
liệu tĩnh" mà khai thác chất liệu cho bài viết. Dù ở tư thế nào trong tương
quan với đối tượng miêu tả, kể cả trong trường hợp có dịp chứng kiến sự
73

kiện trực tiếp thì người viết vẫn khó có thể bao quát được hết sự việc trong
mọi chiều kích, góc cạnh của nó. Nói như Nguyễn Khải, trong một lúc
người ta "không thể vừa là người này lại vừa là người kia, không thể vừa ở
công việc này lại vừa ở công việc khác được". Quả vậy, người viết đâu phải
kẻ trăm tay nghìn mắt có thể bao quát toàn vẹn sự kiện. Còn khi sự kiện đã
có độ lùi qua thời gian, trí nhớ của người viết cũng khó có thể khôi phục lại
sự kiện như nó vốn có trong điều kiện không được ghi chép dưới dạng tư
liệu thô từ trước. Trong trường hợp người viết được nghe kể lại sự kiện từ
nhiều nguồn, qua nhiều người thì tình trạng thất thiệt càng có nguy cơ xảy
ra. Đó chính là nguồn gốc của sự sáng tạo và hư cấu. Vậy nên hư cấu và
sáng tạo là những yếu tố có thể xuất hiện tự nhiên trong quá trình sáng tạo
tác phẩm ký. Hư cấu và sáng tạo là một khả năng có thể trong quá trình
sáng tạo tác phẩm ký song mức độ và cách thức hư cấu rất ít so với truyện
và tiểu thuyết. Nhìn trên đại thể, ký ít có cơ hội khai thác các thủ pháp sáng
tạo, hư cấu thường xuyên hơn so truyện và tiểu thuyết. Nghĩa là mức độ hư
cấu và sáng tạo ở đây có sự phụ thuộc trực tiếp vào đặc trưng của thể loại.
Tóm lại, tác phẩm kí bên cạnh cách thức tổ chức gần giống với các tác
phẩm tự sự còn có những nét riêng mang tính thể loại. Điều này xuất phát
từ đặc trưng ký là một loại hình văn học đặc thù, phản ánh những vấn đề,
sự kiện, con người có thật.
3.1.2. Về thi pháp thể loại của ký sự và ký sự chiến tranh
3.1.2.1. Hình thức thể loại của ký sự và ký sự chiến tranh
Ký sự là một thể của thể loại ký, ghi chép lại một câu chuyện, một sự
kiện tương đối hoàn chỉnh. Ký sự thường xuất hiện trong những thời kỳ
lịch sử có những diễn biến quan trọng. Đây là thể ký có nhiệm vụ ghi lại
những sự kiện phát triển trong một thời gian khá dài, ngoài trục chính còn
có những tuyến ngang dọc đan chéo nhau làm nổi bật hướng vận động của
thời cuộc.
74

Ký sự nặng về tái hiện sự việc có thật, phản ánh trung thực đến mức tối
đa, người viết không thêm thắt, bịa đặt, từ những sự việc cụ thể và sinh động
toát lên chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Ký sự có quy mô tương ứng với truyện
ngắn hoặc truyện vừa. “Ký sự là bức tranh toàn cảnh, trong đó sự việc và con
người đan chéo với nhau, nhưng gương mặt của nhân vật không thật rõ nét”[29,
436]. Ký sự không đột phá vào đặc điểm của sự kiện như phóng sự mà quan
tâm mô tả sự kiện trên diện rộng trong quá trình phát triển của nó. Lấy việc
tái hiện sự kiện khách quan làm chính, ký sự cũng ít khai thác các yếu tố
trữ tình, nghị bình, liên tưởng của người viết. Nhìn chung cá tính nhân vật
trong ký sự thường được khái quát theo lối điểm xuyết. Nhân vật trong ký
sự có thể là những con người cá nhân hoặc cả một tập thể nhân vật có quan
hệ đẳng lập hoặc chính phụ trong hệ thống sự kiện. Tác phẩm ký sự cũng
cấu tạo theo phương thức kết cấu thông thường của một tác phẩm văn học:
mở đầu và phát triển sự kiện, diễn biến phát triển đến cao độ hoặc căng
thẳng nhất và kết thúc.
Ký sự chiến tranh hướng tới ghi chép khá hoàn chỉnh một sự kiện,
một phong trào, một chiến dịch trong lịch sử đấu tranh của dân tộc, cụ thể
là kháng chiến chống Pháp và chống đế quốc Mĩ. Ký sự chiến tranh về cơ
bản có hình thức thể loại của ký sự, chỉ khác là ký sự chiến tranh tập trung
tái hiện lại những sự kiện, chiến dịch xảy ra trong hai cuộc kháng chiến
chống “ đế quốc to” của nhân dân ta. Nhân vật trong ký sự chiến tranh
thường là những con người trong hoàn cảnh chiến tranh, họ có thể là một
cá nhân, cũng có thể là cả một tập thể nhân vật. Cá tính nhân vật thường
được điểm xuyết mà không được khắc sâu qua quá trình giao tiếp sinh động
của họ. Nhưng qua những nhân vật, con người cá nhân đó mà người viết
làm nổi bật lên hình ảnh của cả một tập thể nhân dân anh hùng, dũng cảm,
hết lòng vì cách mạng và kháng chiến.
Ký sự chiến tranh 1945 – 1975 tái hiện, ghi lại một cách sinh động,
chân thực những sự kiện lịch sử hào hùng của dân tộc ta trong suốt ba mươi
75

năm đấu tranh bảo vệ tổ quốc và toàn vẹn lãnh thổ. Về cơ bản con người và
sự kiện trong ký sự chiến tranh là có thật, “có địa chỉ chính xác của nó”.
3.1.2.2. Cách thức tổ chức tác phẩm ký sự và ký sự chiến tranh
Do hướng đến những phạm vi thông tin và nhận thức đa dạng, ký rất
phong phú, bao gồm nhiều tiểu loại. Khác với các tiểu loại khác trong ký,
ký sự có nhiệm vụ ghi lại những sự kiện lịch sử quan trọng phát triển trong
một thời gian khá dài, ngoài trục chính còn có các trục ngang dọc đan chéo
nhau làm nổi rõ hướng vận động, phát triển của thời cuộc. Bởi vậy ký sự
cũng có những nét riêng trong cách thức tổ chức tác phẩm.
Ký sự viết về người thật, việc thật mà tác giả trực tiếp chứng kiến
hoặc được kể lại, cốt truyện không chặt chẽ và thường sử dụng nhiều biện
pháp và phương tiện biểu đạt nghệ thuật. Ký sự được tổ chức theo phương
thức tôn trọng sự thật khách quan tối đa. Trần Cư viết: “Trong ký sự, hình
như hai bên người đọc và người viết đều giao hẹn với nhau rằng: Đây
không phải là tiểu thuyết, đây là người thật, việc thật”. Ký sự quan tâm mô
tả sự kiện trên diện rộng trong quá trình phát triển của nó. Người viết ký sự
luôn có ý thức đẩy người và việc lên phía trước, đưa những xung đột tính
cách và hoàn cảnh lùi lại phía sau, đảm bảo tính xác thực của sự thật được
phản ánh trong tác phẩm.
Đây là thể loại có xu hướng dung nạp nhiều hình thức và phong cách
sáng tạo. Ở ký sự giọng điệu trần thuật khách quan; kết hợp giữa kể, tả với
bình luận trữ tình. Sự kiện trong ký sự thường được tổ chức, tái hiện theo
dòng chảy tuyến tính tự nhiên trong quy luật khách quan của nó nên ít được
người viết tổ chức thành những cốt truyện rõ rệt như trong truyện hoặc
truyện ký. Lấy việc tái hiện sự kiện khách quan làm chính, ký sự cũng ít
khai thác các yếu tố trữ tình, nghị bình, liên tưởng... của cá nhân người
viết. Tính khuynh hướng, chính kiến, thái độ của tác giả được ký thác vào
trong hệ thống sự kiện, sự kiện tự nó nói lên ý tưởng và chính kiến của
người viết.
76

Nhân vật trong ký sự thường chỉ được tổ chức, khái quát theo lối điểm
xuyết mà không có điều kiện được khắc sâu qua quá trình giao tiếp sinh
động của họ. Những tác phẩm ký sự đặc sắc thường có sự kết hợp hài hoà
giữa thuật diện và tả điểm khá ấn tượng để tạo nên những nét nhấn hấp dẫn
cho tác phẩm.
Ký sự chiến tranh ghi chép khá hoàn chỉnh một sự kiện, một phong
trào, một chiến dịch, một giai đoạn lịch sử của dân tộc. Ký sự chiến tranh
có cách thức tổ chức tương đối gần với ký sự, nhưng có quan điểm của thể
tài: ghi chép, tái hiện con người và sự việc có thật trong chiến tranh. Ký sự
chiến tranh tập trung tái hiện lại những con người, sự kiện, chiến dịch, giai
đoạn lịch sử xảy ra trong hai cuộc kháng chiến chống “đế quốc to” của dân
tộc ta.
Hầu hết các tác phẩm ký sự chiến tranh được tổ chức theo phương
thức tôn trọng sự thật chiến tranh khá tuyệt đối. Những gì nhà văn ghi
chép, tái hiện lại phải là những điều tai nghe, mắt thấy, thậm chí là trải
nghiệm. Các sự kiện được tổ chức, sắp xếp theo trình tự thời gian làm nên
tình huống và kết cấu của ký sự chiến tranh. Các tác phẩm ký sự chiến
tranh được viết với cảm hứng lịch sử, mang âm hưởng anh hùng ca và đầy
tính lãng mạn cách mạng.
3.2. Ký sự chiến tranh trong văn học Việt Nam 1945 - 1975 với
nghệ thuật lựa chọn sự kiện, nghệ thuật trần thuật và kết cấu
3.2.1. Nghệ thuật lựa chọn sự kiện, chi tiết
Ký sự chiến tranh giai đoạn 1945 – 1975 tái hiện lại những cuộc chiến
đấu chống “hai đế quốc to” của nhân dân ta. Với đặc trưng thể loại bám sát
chiến trường, ghi lại những sự việc, người thật, việc thật nên ký sự chiến
tranh đã lựa chọn những sự kiện, chi tiết chân thật, điển hình.
Mỗi tác phẩm ký sự chiến tranh không chỉ có giá trị văn học mà còn
là tư liệu lịch sử quý giá. Những gì được nhà văn tái hiện trong tác phẩm là
cả một quá trình xâm nhập, trải nghiệm thực tế của chính người viết. Tuy
77

nhiên không phải tất cả những gì được nhà văn trải nghiệm đều tái hiện hết
trong tác phẩm ký sự. Bằng cảm quan nghệ thuật của mình, các nhà văn lựa
chọn những chi tiết, sự kiện chân thật, điển hình để từ đó tái hiện lại chặng
đường lịch sử đấu tranh của dân tộc. Khác với các thể loại khác như truyện
ngắn, tiểu thuyết, ký sự chiến tranh viết về người thật, việc thật và tác giả
chính là người chứng kiến trực tiếp hoặc được người khác kể lại. Vì thế các
sự kiện, chi tiết đều rất chân thật, đó là những chi tiết, sự kiện được lấy từ
hiện thực chiến tranh: “Tiếng thét xung phong vang lừng. Bóng một người
chạy về, đến gần tiểu đội trưởng.
- Cầu đấy à? Lên đi chứ, sao quay lại?
Cầu chìa cánh tay lủng lẳng :
- Báo cáo anh, anh chặt cho tôi, nó lủng lẳng không tì được vào bom
giật kíp.
- Tiểu đội trưởng cúi xuống, giơ kiếm chặt. Cầu đã chạy lên. Dẫm lên
cái khúc tay mình vừa chặt, người cán bộ dừng lại. Một tiếng bom nổ sáng
rực. Tiếng gạch đá nổ ầm ầm. Xung kích hò reo”[56, 62- 63].
Trong khói lửa chiến tranh đã có không biết bao chiến sĩ phải hi sinh
tính mạng của mình để đổi lấy phần chiến thắng cho dân tộc. Bản thân các
tác giả đã chứng kiến rất nhiều lần hi sinh của những người đồng đội song
các nhà văn chỉ miêu tả một vài tên tuổi điển hình có thật: “Đại đội theo hai
anh tiến lên sườn đồi.
- Các đồng chí nhớ đêm nay quyết giải quyết xong Đông Khê nhé.
- Trần Cừ băng băng lên trước. Một chú liên lạc đang cố rúm người
lên để ném lựu đạn vào một lỗ châu mai là là mặt đất. Cừ nói :
- Chú đưa anh một quả. Phải triệt lỗ châu mai này mới tiến được.
Anh mở nút lựu đạn xông lên. Những tràng đạn liên thanh, những chai
thuốc nổ từ trong ném ra. Trần Cừ lảo đảo. Anh hô to :
- Giải phóng Đông Khê! Hồ Chủ tịch muôn năm! Đảng cộng sản
Đông-Dương muôn năm!
78

- Trần Cừ cố nhoai lên rồi gục xuống, xác bịt lỗ châu mai. Các bạn
anh xông lên”[56, 64]
Những năm tháng đánh Mĩ, nhân dân miền Nam đồng lòng chung sức
cùng bộ đội lập nên những chiến công lẫy lừng. Họ là những người nuôi bộ
đội, tiếp tế cho bộ đội. Họ không chỉ có vài người mà cả hàng trăm, hàng
nghìn người nhưng để miêu tả, tái hiện lại tình quân dân, tinh thần cách
mạng của nhân dân, các tác giả ký sự chiến tranh chỉ tập trung miêu tả một
số nhân vật điển hình như chị Dậu, chị Hồng, o Em, ông H… để từ đó có
thể khái quát lên hình ảnh những lớp người Việt Nam đánh giặc. Các tác
giả “đã tìm ra giữa cái biển mênh mông của cuộc chiến tranh nhân dân
những hạt muối mặn kết tinh những điển hình anh dũng thoạt đầu tưởng
như không có gì đáng kể” [11, 52].
Nghệ thuật của người viết ký là biết nhìn ra và chọn được trong cuộc
sống thật những hiện tượng có tính chất chung, bản chất và điển hình. Để
khắc họa vẻ đẹp của người dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống
thực dân và đế quốc xâm lược, các tác giả ký sự chiến tranh chỉ tập trung
miêu tả một số hành động điển hình tiêu biểu mà không đi sâu miêu tả nội
tâm hay đời sống của nhân vật. Miêu tả nhân vật o Dậu, tác giả Ký sự miền
đất lửa chỉ miêu tả hành động vượt bom đạn, chèo thuyền đưa bộ đội qua
sông của o, từ đó khái quát nên vẻ đẹp của người phụ nữ anh hùng.
Ký sự chiến tranh 1945 – 1975 lựa chọn, thể hiện những sự kiện, chi
tiết mang tính thời sự nóng hổi, nhiều sự kiện mang tính thông tấn đầy sức
hấp dẫn.
Ký sự chiến tranh viết về những người thật, việc thật trong hai cuộc
kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Ký sự luôn tỏ rõ ưu thế của mình trong việc
phản ánh nhanh nhạy, kịp thời các sự kiện lịch sử nóng hổi, mang tính
thông tấn đầy sức hấp dẫn. Đó là sức mạnh của ký sự đồng thời là niềm cổ
vũ mạnh mẽ đối với quân và dân ta trong thời kỳ lúc bấy giờ. Trong hoàn
cảnh chiến tranh, hiện thực chiến trường luôn ác liệt. Nhiệm vụ của các văn
79

nghệ sĩ trải nghiệm thực tế là ghi lại, tái hiện lại những trận đánh nảy lửa,
những chiến công vang dội của quân ta. Để làm được điều đó, đòi hỏi các
nhà văn phải cập nhật, ghi lại kịp thời những chi tiết, sự kiện lịch sử mang
tính thời sự. Tính thông tấn, thời sự thể hiện ở việc lựa chọn các chi tiết, sự
kiện phải có thật, nhanh chóng, kịp thời và có sức cổ vũ, lay động người
đọc. Các sự kiện, chi tiết vừa đậm chất thông tấn mà cũng mang được hơi
thở chiến tranh phả vào mỗi con chữ: “Đây là dãy Quý-Chân. Chiều mồng
Sáu binh đoàn Sác-tông gồm lê dương, ngụy binh, ngót hai nghìn quân, tới
đây. Quý - Chân là một dãy núi dài bảy cây số, cao từ ba đến năm trăm
thước, cỏ gianh rậm rạp. Có tất cả chín ngọn. Sác-tông ra lệnh cho bộ đội
hắn sống chết phải giữ lấy cao điểm này làm căn cứ đánh tỏa ra, tiến về
Thất-Khê. Bị chặn đánh ở đồi 590, hắn đã mất viên quan tư Ti-nô và hàng
trăm quân sĩ. Hắn đánh điện cho Lơ Pa-giơ và Lơ Pa-giơ im lặng. Tiếng
súng suốt đêm ở Cốc-Xá làm cho hắn lo ngại. Núi âm vang. Bốn bề là tiếng
súng. Rồi lẻ tẻ những tên Ta-bo sống sót ở Cốc- Xá chạy sang ngơ ngác mất
hồn xin ăn. Quân hắn hoang mang. Phu và dõng đào ngũ lung tung”[56, 83].
Trong ký sự Tháng ba ở Tây Nguyên, Nguyễn Khải đã thể hiện nhiều
chi tiết, sự kiện mang tính thời sự, nóng hổi: “Ngày 14 tháng Ba, khi Thiệu
ra Nha Trang gặp Phú, tư lệnh quân khu II nghe thuyết trình tình hình quân
sự trong quân khu, và hạ lệnh rút quân khỏi Tây Nguyên, kịp thời bố trí lại
lực lượng vùng duyên hải miền Trung, lập tức bị cả mọi người trong phe
cánh lên tiếng chỉ trích. Đành rằng phải bỏ cái không thể giữ được để cố
giữ cái có thể giữ nhưng nếu lại bỏ hẳn cả vùng cao nguyên trung phần thì
sẽ không thể giữ lại những cái còn có thể giữ. Họ dẫn chứng: Ba tỉnh Tây
Nguyên vẫn là cái vòm trần của miền Nam Việt Nam. Na-va thời Pháp và
Oét-mo-len thời Mỹ dầu có bị đánh thua ở Điện Biên Phủ hoặc vùng đồng
bằng sông Cửu Long vẫn cố sức giữ mấy tỉnh này. Vì mất nó có nghĩa là
mất hết. Lại có một loại dư luận phân tích việc Thiệu cho rút khỏi Tây
Nguyên như sau: một là, vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện đang bị áp
80

lực của Cộng quân quá mạnh; hai là, muốn bi đát hóa tình hình Nam Việt
Nam để lôi quân Mỹ nhảy vào chiến cuộc một lần nữa; ba là, âm mưu chia
đôi miền Nam, từ Quảng Trị đến Đắc Lắc là của mặt trận Giải phóng, từ Đà
Lạt đến An Xuyên là của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Nhiều tờ báo Mỹ
đã bắt đầu than thở cho công lao của Mỹ trong bấy nhiêu năm, nay vì
những quyết định rồ dại của Thiệu bỗng chốc hóa ra tay trắng”[57, 116].
Với sở trường tạo dựng không khí, Tháng ba ở Tây Nguyên đã làm
sống dậy những sự kiện diễn ra trong thời điểm cuối cùng của cuộc kháng
chiến chống Mĩ cứu nước:
“Ngày 09-3-75 được tin lực lượng cộng quân gia tăng tại Ban Mê
Thuật và Quảng Đức, tôi đã tới thanh sát tại chỗ và đã chỉ thị :
- Đại tá tư lệnh phó sư đoàn 23 bộ binh làm tư lệnh chiến trường.
- Kiểm soát hệ thống phòng thủ thị xã.
- Phân phối và phân tán kho xăng, kho đạn.
- Đêm 09 rạng 10-3-75 quân số địch gấp 5, 6 lần quân ta, có chiến
xa, đại pháo tấn chiếm Ban Mê Thuột. Lực lượng phòng thủ đã đẩy lùi
nhiều đợt tấn công, tiêu diệt nhiều chiến xa, đặc biệt tại phi trường
Phụng Dực. Ngày 11-3-75, lúc 08 giờ không quân ném hai trái bom làm
sập trung tâm hành quân sư đoàn 23 bộ binh và bộ chỉ huy tiểu khu
Darlac. Bị mất liên lạc với tư lệnh chiến trường và tiểu khu nên tình thế
rất nguy ngập.
- Ngày 12 và 13-3-75, theo lệnh của tổng thống và đại tướng tổng
tham mưu trưởng đã cho tăng viện để giải tỏa Ban Mê Thuột gồm trung
đoàn 44. trung đoàn 45 do tư lệnh sư đoàn 23 chỉ huy. Các đơn vị vẫn tiếp
tục đánh gồm: Trung đoàn 53, liên đoàn 21 biệt động quân, quận Buôn Hồ
và Phước An. Tôi đã bay ra lệnh và khích lệ.
Áp lực địch quá mạnh đẩy lui dần ta ra khỏi thị xã, phía quốc lộ 21” [57,
121-122].
81

Ưu thế của ký sự chiến tranh là tính thời sự, kịp thời, có khả năng ghi
lại và chuyển tải những sự kiện của đời sống chiến tranh một cách nhanh
nhạy và nóng hổi nhất. Bởi vậy, các nhà văn viết ký sự đã lựa chọn những
chi tiết, sự kiện cụ thể và mang tính thời sự để làm sống dậy không khí
chiến đấu của nhân dân ta trong cuộc đọ sức trường kỳ với thực dân Pháp
và đế quốc Mĩ.

3.2.2. Nghệ thuật trần thuật


Trần thuật là một phương thức nghệ thuật đặc trưng của tác phẩm tự
sự. Nghệ thuật trần thuật có vai trò quan trọng, tạo nên thành công của tác
phẩm văn học. Nó là yếu tố cơ bản thể hiện phong cách của nhà văn, cấu
thành nên cá tính riêng biệt của mỗi tác giả.
Trần thuật là “phương diện cơ bản của phương thức tự sự, là việc giới
thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh,
sự vật theo cách nhìn của một người trần thuật nhất định”[3, 364]. Trần
thuật bao gồm lời thuật, việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật
lại tiểu sử nhân vật, lời bình luận, lời trữ tình ngoại đề, lời ghi chú của tác
giả. Chức năng của nó không chỉ là kể việc, nó “gắn liền với toàn bộ công
việc bố cục, kết cấu tác phẩm”. Tác phẩm dù kể theo trình tự nào thì trần
thuật là cả một hệ thống tổ chức phức tạp nhằm đưa hoạt động, lời nói nhân
vật vào đúng vị trí của nó để người đọc có thể lĩnh hội theo đúng ý định của
nhà văn.
Có nhiều phương thức trần thuật, trong đó thịnh hành chủ yếu là trần
thuật theo ngôi thứ nhất và trần thuật theo ngôi thứ ba. Sự trần thuật có khi
trở thành “dòng ý thức”, lời độc thoại của chính người viết. Điều này thể
hiện ý thức về lập trường, sắc thái, khả năng nhận thức của chủ thể trần
thuật. Mỗi tác phẩm, mỗi tác giả đều có những phương thức trần thuật
không giống nhau. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là độc chiếm phương
thức trần thuật. Trong các tác phẩm ký sự chiến tranh 1945 – 1975, nhìn
82

chung các tác giả đều sử dụng phương thức trần thuật từ ngôi thứ nhất và ngôi
thứ ba.
Ký là một thể loại linh hoạt, có khả năng phản ánh hiện thực chiến tranh
rộng lớn. Ký có thể dung nạp tất cả hình thức và phong cách sáng tạo của các
thể loại khác như truyện ngắn, kịch, điêu khắc…vì vậy theo Nguyễn Đăng Na,
ở những tác phẩm ký “dấu ấn chủ quan của người cầm bút mới thực sự rõ
nét”[37, 429]. Ngôn ngữ người kể chuyện trong tác phẩm ký đóng vai trò quan
trọng trong việc giúp người đọc biết rõ phải hiểu như thế nào, giải thích cho
người đọc biết rõ ý nghĩa thầm kín, những động cơ bí ẩn phía sau hành động
của các nhân vật được miêu tả.
Ký sự chiến tranh chủ yếu trần thuật về người thật, việc thật. Người viết
hầu như tôn trọng sự thật khách quan, không thêm thắt, bịa đặt.Và hình thức
trần thuật từ ngôi thứ ba đã tạo nên sự chân thật, độ tin cậy cao cho ký sự
chiến tranh. Truyện, tiểu thuyết có thể viết theo lối hư cấu, tác giả hoàn toàn
có thể “bịa đặt” mà không chịu gò ép trong nguyên tắc sáng tác của thể loại:
“Trong thời đại ngày nay, với nhiều sự kiện sôi nổi, biến đổi bất ngờ, sách về
các tư liệu rất đáng quý trọng. Những sách đó, các loại ký lấy tư liệu làm
chính, nếu muốn, có thể gọi là văn xuôi tư liệu, hay văn học tư liệu. Còn tiểu
thuyết trước hết phải là tiểu thuyết, trong đó hư cấu, trí tưởng tượng của nhà
văn là chính”[29, 428]. Ở ký sự chiến tranh, tác giả là người chứng kiến hoặc
nghe người khác kể lại nên độ chân thực thậm chí là xác thực rất cao. Hình
thức tự sự từ ngôi thứ ba cho phép tác giả ghi lại một cách cụ thể, tỉ mỉ, chân
thực về hiện thực Việt Nam trong những năm chiến tranh khốc liệt. Nếu như
trần thuật từ ngôi thứ nhất mang tính cá nhân thì trần thuật từ ngôi thứ ba
mang tính phi cá nhân. Nhân vật kể chuyện ở ngôi thứ nhất ít ai tin, chỉ hiện
ra góc nhìn của một người thì nhân vật người kể chuyện ở ngôi thứ ba tạo cho
người đọc có cảm giác tin cậy cao, buộc người đọc tin là chân lý. Ký sự Trận
Phố Ràng của Trần Đăng, Ký sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng, Trận
Thanh Hương của Nguyễn Khắc Thứ… đều trần thuật từ ngôi thứ ba. Nhân
83

vật người kể chuyện ở ngôi thứ ba nặc danh đóng vai trò là người quan sát,
chứng kiến và kể lại, thuật lại. Phương thức trần thuật từ ngôi thứ ba giúp cho
tác phẩm ký có tính khách quan, độ chính xác cao. Điều đó tạo nên sức hấp
dẫn cho ký sự chiến tranh.
Ký sự chiến tranh trong những năm chống Mĩ cứu nước chủ yếu là lời
kể của tác giả. Người trần thuật luôn ở ngôi thứ nhất của người kể chuyện vô
danh, xuất hiện dưới các đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số ít và số nhiều: tôi,
chúng tôi. Khảo sát các tác phẩm ký sự chiến tranh giai đoạn này, chúng ta có
thể thấy được điều đó. Chẳng hạn, trong tác phẩm Tháng ba ở Tây Nguyên,
Nguyễn Khải viết: “Bây giờ, tôi xin thuật chuyện về những con người đã
quyết định số phận của nhiều nhân vật mà tôi được quen biết trong tháng
Ba và tháng Tư ở miền Nam. Có điều chắc chắn là họ chưa từng quen biết
nhau, chưa có cơ hội nào để giáp mặt nhau, xa lạ và khác biệt nhau hầu như
hoàn toàn. Ấy vậy mà cách sống, cách nghĩ cùng những lý lẽ của người này
lại thay đổi đến triệt để vận mệnh của người kia. Tôi xin thuật lại về những
người làm cách mạng, những công việc của họ, cách tính toán của họ, niềm
vui và nỗi lo của họ, cũng hoàn toàn khác xa với những “nhà cách mạng”
mà nhiều bạn đọc ở miền Nam có quen biết hoặc nghe nói. Bởi vì những
nhà cách mạng mà tôi được gặp và sẽ kể chuyện về họ đây không biết tranh
cãi một cách bóng bảy và hùng biện, lại không có âm mưu tinh xảo mà
cũng chẳng có những hoạt động khúc khuỷu ở hậu trường. Câu chuyện sẽ
thiếu đi sự hấp dẫn bởi không có những tính cách độc đáo, những tính toán
oái oăm, những quyết định kỳ dị cùng vô vàn tình tiết căng thẳng của những
mưu mô giành giật, cắn xé lẫn nhau[57, 26-27].
Hay ở tác phẩm Bắc Hải Vân xuân 1975, Xuân Thiều viết: “Không - tôi
tự cãi mình - dấu tích của chúng còn khá nhiều, rải rác đó đây từ câu viết bậy
trong hố xí đến lá cờ sọc dưa dùng làm giẻ lau xe đạp Nhưng tập trung hơn cả,
có lẽ là khu nhà hầm “trung tâm hành quân”. Đây là một thứ nhà hầm hình
chữ nhật, khá rộng lớn, đắp nổi bằng nhiều tầng bao cát xếp dày, đạn đại pháo
84

130 ly không xuyên thông, có hàng rào thép chống đạn B.40 bao quanh. Nhà
"trung tâm hành quân" này bây giờ trở thành một thứ bảo tồn để nghiên cứu,
để nhìn vào đó càng tự hào về chiến thắng của ta [57, 151].
Nguyễn Sinh và Vũ Kỳ Lân trong Ký sự miền đất lửa đã không ít lần
sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số ít và số nhiều: “Mười một giờ
chúng tôi vào đến cầu đường sắt, cách trung tâm Đông Hà chừng hai cây
số. Phía trước, phía sau, bên trái, bên phải đều có địch. Hai trung đội bộ đội
địa phương chốt hai đầu cầu để tôi và Long trèo lên lan can đứng nhìn.
Thấy đường Chín, sân bay nhưng không thấy được mục tiêu số một và bến
cảng. Tôi yêu cầu đồng chí chính trị viên và đồng chí tham mưu trưởng cho
vào sâu thêm nữa. Tham mưu trưởng gật đầu. Anh chọn tám tay súng : một
đại liên, một trung liên, một B40, một B41 và hai AK tự anh chỉ huy tổ hỏa
lực hộ tống chúng tôi vào. Định vào thêm 800 mét nhưng chỉ được một nửa
đã hết đường. Trước mặt là bãi tha ma, bên kia là hàng rào phòng thủ của
địch [57, 244].
Nhiều khi đại từ nhân xưng không xuất hiện nhưng dáng dấp của chủ
thể, người viết vẫn hiện rõ qua sự việc, qua cách xưng hô trong tác phẩm.
Đọc Tháng ba ở Tây Nguyên của Nguyễn Khải, có những đoạn dù người
viết không xưng danh nhưng người đọc vẫn cảm nhận được vị trí trung tâm
của chủ thể: “Đứng phơi mặt ngoài trời cả đêm, đứng không đổi chỗ, ý
nghĩ mờ mờ ảo ảo, vừa là chính mình, vừa là người khác, quen thuộc vô
cùng mà cũng ngỡ ngàng vô cùng. Việc tin chắc trước sau rồi cũng phải
xảy ra đúng như thế, mà lại chưa hẳn tin sao lại có thể xảy ra gọn ghẽ, lẹ
làng đến thế. Biến động lịch sử là gì? Là như thế đó! Là khi những dấu hiệu
đầu tiên của những tháng ngày vĩ đại đã xuất hiện thì ta vẫn còn phân vân
tự hỏi : đó là loại hiện tượng gì? Là khi những sự việc xảy ra có vẻ giống
như trước đây, như là sự lắp lại những cái trước đây, nhưng ý nghĩa của nó
thật ra đã thuộc về một giai đoạn hoàn toàn mới, đòi hỏi phải có ngay
những phản ứng mới, những hành động mới”[57, 03].
85

Ký sự chiến tranh tái hiện hiện thực đất nước đau thương trong
những năm chiến tranh vì vậy tất cả các sự việc, con người đều được các
tác giả ghi lại rất tỉ mỉ, cụ thể, chi tiết những gì mắt thấy tai nghe, thậm
chí là trực tiếp tham gia. Tuy nhiên hình thức tự sự từ ngôi thứ nhất cho
phép người viết bộc bạch, ghi chép theo chủ quan của mình. Tác giả có
thể độc thoại với chính mình về cuộc sống, về nỗi đau của bản thân trước
hiện thực chiến tranh. Trong Bắc Hải Vân xuân 1975, Xuân Thiều đã thốt
lên: "Đã ba mươi năm..." - Tôi thầm kêu lên. Đã ba mươi năm, kể từ ngày tôi
nhìn thấy lá cờ đỏ sao vàng đầu tiên. Hồi đó, tôi chỉ là một chú bé con bận
quần xà lỏn chạy đi “coi” người lớn giành chính quyền ở huyện. Bây giờ tôi
đã đến bốn mươi, lác đác vài sợi tóc bạc. Ba mươi năm, qua hai cuộc kháng
chiến ác liệt để hôm nay lá cờ đỏ sao vàng bay lượn trên cột cờ khu Mang Cá
như một sự khẳng định chiến thắng. Niềm tự hào trào dâng trong lòng, tôi đưa
tay lên chấm những giọt nước mắt ứa ra trên mi, chỉ sợ ai trông thấy”[57,
151].
Với hình thức tự sự từ ngôi thứ nhất, ký sự chiến tranh đã tái hiện
được không khí chung của dân tộc trong những năm kháng chiến ác
liệt. Qua những dòng ký sự, người đọc có cái nhìn toàn diện hơn, sâu
sắc hơn về đất nước trong chiến tranh, con người trong chiến tranh và
hơn hết cả là tình cảm của nhà văn ẩn sau những trang ký sự.
3.2.3. Nghệ thuật kết cấu
Kết cấu tác phẩm văn học là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động,
phức tạp của tác phẩm văn học. Nhà văn bằng cảm quan nghệ thuật của
mình đã nhào nặn hiện thực cuộc sống để xây dựng thành những công trình
nghệ thuật giàu tính khái quát. Kết cấu đảm nhiệm vai trò tổ chức các yếu
tố như hệ thống nhân vật, sự kiện, không gian, thời gian, hệ thống điểm
nhìn... thành một chỉnh thể theo phương thức dùng một chuỗi phương tiện
ngôn từ kế tiếp nhau theo thời gian làm sống dậy thế giới hình tượng trong
một chiều kích (cả bề rộng, sâu, cao) và thiết lập một trật tự cho nó.
86

Kết cấu là một khái niệm thuộc phạm trù hình thức của tác phẩm văn
học. Toàn bộ các yếu tố thuộc về hình thức. Theo Từ điển thuật ngữ văn
học: “Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm. Thuật
ngữ kết cấu thể hiện một nội dung rộng rãi, phức tạp hơn. Tổ chức tác
phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên
ngoài giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên
trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm”[3, 156-157]. Với
vai trò quan trọng trong việc kiến tạo tác phẩm văn học nên kết cấu thường
là tính độc đáo không lặp lại của những mối quan hệ và liên kết giữa các
yếu tố, bộc lộ tài năng sáng tạo của nhà văn. Mặt khác kết cấu thể hiện tính
phổ biến của một kiểu tổ chức tác phẩm phản ánh đặc trưng thể loại, loại
hình và bản chất dân tộc, phẩm chất thời đại của chính tác phẩm đó. Chính
điều này cho phép ta nói tới các vấn đề: kết cấu thể loại, kết cấu của một
loại hình sáng tác. Có thể nói đến nhiều hình thức kết cấu khác nhau và nhà
văn xây dựng tác phẩm lựa chọn kết cấu nào bao giờ cũng nâng cao sức
biểu hiện của chủ đề tư tưởng. Trong từng tác phẩm, nhà văn có thể vận
dụng nhiều hình thức kết cấu khác nhau. Vì vậy không thể quy những tác
phẩm cụ thể vào một dạng kết cấu riêng biệt nào mà cần xem xét tác động
nghệ thuật của kết cấu trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm,
cũng như tác động với người đọc. Trong các tác phẩm ký sự chiến tranh
1945 – 1975, chúng tôi nhận thấy có một số kiểu kết cấu như sau:
Kết cấu theo trật tự tuyến tính. Theo kết cấu này, câu chuyện được
trình bày theo thứ tự, phát triển trước sau của thời gian. Các sự kiện được
sắp xếp, xâu chuỗi lại và lần lượt xuất hiện không bị đứt quãng. Ở đây tác
phẩm được chia thành nhiều chương và nó thường khá trọn vẹn. Lối kết
cấu này giúp người đọc dễ theo dõi câu chuyện. Hầu hết những tác phẩm
tiểu thuyết chương hồi sử dụng lối kết cấu này. Trong ký sự chiến tranh
1945 – 1975, các tác giả thường sử dụng hình thức kết cấu theo trình tự
thời gian bởi bản chất của ký sự chiến tranh là cập nhật, ghi lại những sự
kiện chiến tranh, diễn biến các trận đánh giữa ta và địch. Các sự kiện, các
trận đánh thường được diễn ra theo mốc thời gian nhất quán từ trước đến
87

sau. Trong các tác phẩm ký sự như Trận Phố Ràng, Trận Thanh Hương, Ký
sự Cao Lạng... các sự kiện, chi tiết thường gắn với những mốc thời gian cụ
thể. Trận Phố Ràng của Trần Đăng tái hiện lại cuộc đụng đầu giữa ta và địch
trong trận đánh chiếm đồn Phố Ràng diễn ra trong hai ngày 24, 25 – 6 –
1949, tác giả lần lượt tái hiện lại diễn biến sự kiện xẩy ra trong hai ngày 24
và 25. Các sự kiện thậm chí được ghi lại theo từng giây: “Còn 53 phút...”,
“còn 52 phút. Bắt đầu tiến ...”, “còn 45 phút ..., còn 44 phút rưỡi...”.
Trong Ký sự Cao Lạng, tác phẩm được chia thành nhiều mục. Mỗi
mục là một sự kiện. Các mục, các sự kiện được sắp xếp, xâu chuỗi lần lượt
xuất hiện: I, II, III, IV, V, VI. Các sự kiện như việc chuẩn bị cho chiến dịch,
diễn biến của các trận đánh chiếm Đông Khê, Thất Khê và chiến dịch kết
thúc thắng lợi lần lượt được tác giả tái hiện từ mục I đến mục VI.
Kết cấu theo trình tự thời gian được hầu hết tác giả trong ký sự chiến
tranh 1945 – 1975 sử dụng. Lối kết cấu này được thể hiện trong việc các
nhà văn chia thành nhiều chương (Tháng ba ở Tây Nguyên), sử dụng đề
mục cho từng sự kiện, mỗi đề mục như là một chương khá trọn vẹn và các
sự kiện được sắp xếp lần lượt xuất hiện không bị đứt quãng (Ký sự miền
đất lửa, Bắc Hải Vân xuân 1975). Diễn biến các sự kiện được các nhà văn
tái hiện lần lượt theo trình tự thời gian rõ ràng. Trong Tháng ba ở Tây
Nguyên, Nguyễn Khải đã ghi lại những sự kiện, chi tiết diễn biến trận đánh
của quân ta trong chiến dịch Nam Tây Nguyên: Từ 6 giờ 00 ngày 09 tháng
3 đến 24 giờ 00 ngày 15 tháng 3 khá tỉ mỹ rõ ràng: “5 giờ 40 ngày 09 tháng
3, đồng chí Vũ Lăng gọi về chỉ huy sở cơ bản báo tin cách đây 5 phút pháo
binh của ta đã rót đạn vào các căn cứ 23 và Núi Lửa, mở đầu trận đánh vào
khu Đức Lập.
8 giờ 20, các trung đoàn 66 và 28 đã làm chủ các căn cứ trên...
Ngày 08 tháng 3, sư 320 đã làm chủ khu vực Cẩm Ga – Thuần Mẫn...
Trưa ngày 09 tháng 3...
16 giờ ngày 09 tháng 3 ...
17 giờ ngày 09...
20 giờ ngày 09...
88

01 giờ sáng ngày 10 tháng 3...


02 giờ sáng ngày 10...
05 giờ 30 sáng ngày 10...
08 giờ sáng ngày 10...
21 giờ ngày 10 tháng 3, tại sở chỉ huy cơ bản...
Ngày 11 tháng 3 quân địch...”[57].
Với lối kết cấu này các tác phẩm ký sự chiến tranh 1945 – 1975 giúp
người đọc có thể nắm bắt được diễn biến các cuộc chiến đấu của quân ta
trên chiến trường. Đó là ưu thế lớn mạnh của các thiên ký sự trong việc lôi
cuốn và hấp dẫn người đọc.
Ký sự chiến tranh 1945 – 1975 không chỉ sử dụng kết cấu trình tự
theo thời gian mà các tác giả còn sử dụng lối kết cấu liên hoàn các sự kiện.
Mỗi tác phẩm văn học dù dung lượng lớn hay nhỏ cũng đều là một
chỉnh thể nghệ thuật bao gồm nhiều yếu tố, bộ phận. Tất cả các yếu tố, bộ
phận đó được nhà văn sắp xếp, tổ chức theo một hệ thống trật tự nhất định
nhằm biểu hiện một nội dung nghệ thuật nào đó. Bên cạnh việc tổ chức sắp
xếp các yếu tố của tác phẩm, kết cấu còn bao hàm sự liên kết bên trong,
những mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố về nội dung và hình thức của tác
phẩm. Ký không yêu cầu xây dựng cốt truyện một cách chặt chẽ. Các chi
tiết, sự kiện trong ký thường được xây dựng sắp xếp từ những mẫu chuyện
khác nhau mà các tác giả chứng kiến trong hiện thực cuộc sống chiến tranh.
Kết cấu liên hoàn các sự kiện là dạng kết cấu mà nhà văn xâu chuỗi
những mẫu chuyện, sự kiện khác nhau theo một hệ thống trật tự tuyến tính.
Hình thức kết cấu này thường được sử dụng trong truyện cổ tích, tiểu
thuyết chương hồi. Trong ký sự chiến tranh 1945 – 1975, hệ thống các sự
kiện, biến cố, hình ảnh được liên kết, gắn bó chặt chẽ tác động qua lại ngay
từ bên trong tác phẩm làm cho nó trở thành một chỉnh thể nghệ thuật toàn
vẹn. Việc nhà văn sắp xếp các tình huống, sự kiện liên hệ qua lại giữa
chúng với nhau là cả một sự cân nhắc kỹ lưỡng, thể hiện dụng ý nghệ thuật
89

của tác giả. Hầu hết trong các tác phẩm ký sự chiến tranh, các chi tiết, sự
kiện, biến cố thường được sắp xếp theo trật tự tuyến tính, chúng liên kết
với nhau. Từng sự kiện, mẫu chuyện khác nhau được đặt trong mối quan
hệ, chúng được xâu chuỗi lại với nhau. Khảo sát các tập ký sự chiến tranh
có thể thấy các tác phẩm đều thể hiện điều này. Ký sự Cao Lạng của
Nguyễn Huy Tưởng được tác giả chia thành 6 mục. Mỗi mục tương ứng
với mỗi sự kiện khác nhau. Nhưng chúng không hề đơn lẽ trong việc thể
hiện tư tưởng chủ đề tác phẩm mà chúng liên kết, xâu chuỗi với nhau. Nếu
như ở mục I là sự kiện toàn bộ dân công dốc hết sức mình vào việc làm
đường chuẩn bị cho trận đánh mới, mục II là sự chuẩn bị về mặt tư tưởng
chính trị cho đội viên và cán bộ cũng như những định hướng, kế hoạch
chống máy bay, chống quân nhảy dù; mục III là cuộc hành quân trong
những đêm “không đèn, không đuốc, không trăng, không sao” của pháo
binh và bộ binh thì ở mục IV là câu chuyện về những con người trong đoạn
đường hành quân. Mục V là cuộc đụng đầu giữa ta và địch trong trận đánh
chiếm Đông Khê, Thất Khê, mục VI là sự thất bại nặng nề của quân giặc và
niềm vui thắng lợi của quân và dân Cao Lạng. Với việc sắp xếp, liên kết
các sự kiện với nhau, người đọc dễ dàng nắm được các sự kiện chính trong
chiến dịch Cao Lạng của quân và dân ta.
Ký sự Miền đất lửa của Nguyễn Sinh và Vũ Kỳ Lân được sắp xếp
theo các đề mục khác nhau, mỗi đề mục là một câu chuyện nhỏ. Các đề
mục này đặt theo một trật tự tuyến tính, chúng liên kết chặt chẽ với nhau.
Toàn bộ thiên ký sự tái hiện, ghi lại hình ảnh đồng bào, chiến sĩ, cán bộ
Vĩnh Linh anh dũng, kiên cường trong cuộc đụng đầu bắn tên lửa, diệt máy
bay địch. Mỗi đề mục gắn với một câu chuyện, sự kiện về những con người
Vĩnh Linh anh hùng. Qua đò Tùng Luật ta bắt gặp hình ảnh o Dậu, cô dân
quân chèo thuyền vượt bom đạn đưa bộ đội qua sông. Cuộc chiến đấu trên
bờ sông Cửa Việt là hình ảnh o Em - một cán bộ cũ của Quảng Trị, ngoài
sáu mươi tuổi vẫn nấu gạo đưa cơm nuôi bộ đội; đó là câu chuyện tình yêu
90

cảm động của Khoa và cô gái tên Mỹ Lệ... các câu chuyện nhỏ này không
nằm ngoài câu chuyện lớn những ngày đánh Mĩ ác liệt của quân dân Vĩnh
Linh. Tất cả các sự kiện: vượt sông Lam, thất bại đầu tiên, đến Vĩnh Linh,
đánh hụt B52, lại thất bại, chiến thắng, thắng nhưng không được khen,
những ngày gian khổ, diệt pháo đài bay B52, vượt sông Bến Hải, tiến ra
phía trước, qua đò Tùng Luật, cuộc chiến đấu trên bờ sông Cửa Việt, mắt
của pháo, Vĩnh Linh với Cồn Cỏ, đảo, Hồng Hà gọi sông Lô, cả nhà ra
đảo, thuyền gỗ thắng tàu sắt được liên kết xâu chuỗi với nhau theo một trật
tự nhất định tạo nên tính lôgic, hấp dẫn cho câu chuyện lớn.
Ký sự nói chung và ký sự chiến tranh 1945 – 1975 nói riêng, người
viết không bao giờ chỉ đơn thuần kể một câu chuyện mà thường xuyên lồng
chuyện, liên hoàn, kết nối các sự kiện một cách phong phú, sinh động. Các
tác phẩm ký sự chiến tranh như Trận Thanh Hương, Bắc Hải Vân xuân
1975, Tháng ba ở Tây Nguyên... đều có chung kết cấu này. Và thực sự hình
thức kết cấu liên hoàn các sự kiện đã đem lại những hiệu quả nghệ thuật
nhất định cho các tác phẩm ký sự. Nó góp phần làm nổi bật đặc trưng của
ký sự chiến tranh là tái hiện, ghi lại kịp thời, nhanh chóng các sự kiện chiến
đấu của quân và dân trong những năm chiến tranh.
Ngoài ra, ký sự chiến tranh 1945 – 1975 còn sử dụng một số kiểu kết
cấu khác như kết cấu đối lập, tương phản (đối lập, tương phản giữa ta và
địch), kết cấu hồi cố, lần tìm (Bắc Hải Vân xuân 1975, Tháng ba ở Tây
Nguyên).
Kết cấu thuộc hình thức của tác phẩm, đó là sự tổng hợp các hình
thức nghệ thuật để tạo thành một hệ thống. Lựa chọn kết cấu cho tác
phẩm trong một giai đoạn là kết quả nhận thức thẩm mĩ của các nhà văn.
Ký sự chiến tranh 1945 – 1975 đã chọn được những kiểu kết cấu phù
hợp để truyền tải nội dung đến với người đọc và thực sự đã tạo nên hiệu
quả nghệ thuật cao.
91

3.3. Ký sự chiến tranh trong văn học Việt Nam 1945 – 1975 với
nghệ thuật tổ chức giọng điệu và ngôn ngữ
3.3.1. Nghệ thuật tổ chức giọng điệu
Giọng điệu trong tác phẩm văn học là một yếu tố cơ bản phản ánh quan
điểm, thị hiếu thẩm mỹ của người sáng tạo. Giọng điệu là một trong những
yếu tố quan trong để khu biệt các thể loại văn học cũng như để khu biệt
phong cách tác giả. Nghệ thuật tổ chức giọng điệu bao giờ cũng được tổ
chức công phu, là kết quả của một quá trình sáng tạo nghệ thuật của nhà văn.
Giọng điệu là “thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà
văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn qui định cách
xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách thụ xa gần, thân sơ,
thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm”[3, 134]. Giọng điệu được
thiết kế bởi mối quan hệ, thái độ, lập trường tư tưởng, tình cảm của người
kể chuyện với các hiện tượng, các sự kiện được miêu tả cũng như người
nghe tạo thành giọng điệu trần thuật.
Các tác phẩm ký sự chiến tranh được tổ chức kết hợp đan xen nhiều
giọng điệu khác nhau. Đặc biệt là sự kết hợp, đan xen giọng chính luận – trữ
tình. Ký sự chiến tranh 1945 – 1975 tập trung viết về lịch sử trọng đại của dân
tộc tất yếu phải sử dụng giọng chính luận. Theo Tô Hoài, “Với ngôn ngữ
chính luận, người viết bộc lộ trực tiếp và rõ ràng khuynh hướng tư tưởng tình
cảm của mình nhằm mục đích tuyên truyền chiến đấu”[19, 439]. Để đi sâu
phân tích bình luận các vấn đề chính trị, xã hội các tác giả ký sự chiến
tranh đã sử dụng giọng văn chính luận sắc sảo, sâu sát. Ký sự chiến tranh
hầu hết viết về những vấn đề nóng bỏng của lịch sử Việt Nam 1945 – 1975,
đó là những vấn đề mang tính thời sự, trọng đại của dân tộc. Ký sự Cao
Lạng ghi lại con người và sự kiện của chiến dịch Biên giới với những trận
đánh quyết liệt giữa ta và địch diễn ra trên những địa danh cụ thể trên đỉnh
Khâu Luông, Quý Châu... Trong Tháng ba ở Tây Nguyên, chiến dịch Hồ
Chí Minh lịch sử đã được Nguyễn Khải tái dựng chân thật, cụ thể. Tháng
92

ba ở Tây Nguyên đã làm sống dậy những sự kiện đã diễn ra trong thời điểm
cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ở một phương diện
khác, ký sự Miền đất lửa của Nguyễn Sinh và Vũ Kỳ Lân ghi lại không khí
một thời kỳ chiến đấu kiên cường, oanh liệt trên mảnh đất Vĩnh Linh, tuyến
đầu của tổ quốc... tất cả là những vấn đề lớn, trọng đại của dân tộc, những
vấn đề thuộc về chính sự. Đó là những cuộc hội thoại đậm chất chính trị “-
Tiểu đoàn xung kích phía Bắc đã tới đâu?

- Đã tiến sát đồn Sìa Khóa.


- Rút có lộ không?
- Lộ.
- Tình hình pháo binh phía Bắc thế nào?
- Mới có một khẩu bố trí ở Sìa Khinh” [56, 58]
Đó là những công văn, điện báo chiến sự.
Đại tướng Tổng tư lệnh điện cho các chiến sĩ :
“Suốt mấy hôm nay, các chiến sĩ đã chiến đấu anh dũng.
Binh đoàn Lơ Pa-giơ hiện đã kiệt sức, thiếu đạn, thiếu lương, nhiều
bộ phận gặp quân ta chạy tán loạn. Chúng chỉ còn một hy vọng là ra sức
liên lạc được với binh đoàn Sác-tông từ Cao-Bằng xuống để cứu vãn nguy
cơ của chúng.
Hỡi các chiến sĩ !
Thời gian lúc này rất quý giá. Hành động sớm được một phút nào là
tiết kiệm được xương máu, lập được chiến công, giành được thắng lợi.
Hành động kịp thời, giải quyết chiến đấu cho nhanh chóng, mãnh liệt,
dồn dập vì địch đã yếu, tiêu diệt binh đoàn Lơ Pa-giơ để kịp thời chuyển
lực lượng tiêu diệt binh đoàn Sác-tông, làm cho cuộc giải phóng Cao-Bằng
ghi sâu vào sử sách những chiến công lớn của binh đoàn, của Quân đội
quốc gia Việt-Nam.
Quyết tiêu diệt binh đoàn Lơ Pa-giơ !” [56, 31].
93

Đặc biệt các tác giả sử dụng giọng phân tích chính luận, một dạng
thức của văn bản chính luận, đưa ra những lập luận chặt chẽ, phân tích tình
hình tương quan lực lượng giữa ta và địch cũng như định hướng tấn công,
ngày giờ tấn công của quân ta trong các chiến dịch: “Mùa hè năm 1974,
chúng tôi đã kết luận rằng: các đơn vị thuộc quân đoàn 2 ngụy đã sút sức
chiến đấu. Khi ta tấn công vào một trung đoàn tăng cường của ngụy thì
chúng không đủ sức chống đỡ. Chúng đưa một sư đoàn thiếu thì không đủ
sức giải vây. Trong trận đánh ở Plây Me, thiết giáp của nó toàn đứng sau
đội hình bắn với lên, nếu bị đánh từ phía lưng là lập tức tháo chạy. Quân
đoàn 2 chỉ đủ sức đối phó với một sư đoàn của ta trên một hướng. Nếu ta
đánh lớn hơn, trên nhiều hướng, nhất định chúng sẽ bị lúng túng. Sau trận
đánh ở Thượng Đức, chúng tôi tin rằng trong vòng hai năm tới có thể giải
phóng hoàn toàn Tây Nguyên. Tháng Mười năm 1974, đồng chí tham mưu
phó của B3 ra Bộ báo cáo đã trở về, mang theo mệnh lệnh tác chiến mùa
khô : đánh Thuần Mẫn, đánh Đức Lập và đánh thị xã Gia Nghĩa, mở thông
xuống đường 20, rồi vùng giải phóng Tây Nguyên với miền đông Nam Bộ.
Đánh Thuần Mẫn và Đức Lập chúng tôi đã có dự tính trước” [57, 43].
Tháng ba ở Tây Nguyên của Nguyễn Khải đậm chất chính luận, các tư
văn của Tổng thống Việt Nam cộng hòa được Nguyễn Khải đưa vào và
khai thác triệt để, các đoạn văn miêu tả tình hình chính sự đậm chất giọng
chính trị: “Chiến dịch Đông Xuân 1975 sẽ bắt đầu cuối tháng 1 hoặc đầu
tháng 2 năm 1975. Về mức độ so với năm 1972 thì cường độ sẽ mãnh liệt
hơn nhiều. Vì với hệ thống hành lang xâm nhập và vận chuyển quy mô
hiện nay, địch dễ dàng tập trung pháo, chiến xa, bộ binh nhanh chóng áp
lực nặng vào từng khu vực. Và thời gian chiến dịch có thể kéo dài hơn năm
1972... ước tính nếu cộng sản mở chiến dịch lớn thì tỉnh Kontum, Pleiku và
bắc Bình Định sẽ là những chiến trường trọng điểm. Các tỉnh Đăclăk,
Quảng Đức, sẽ là các chiến trường phụ để thu hút và cầm chân lực lượng
của ta.
94

Trong mùa khô sắp tới ước tính mặt trận Kontum sẽ là điểm kết hợp
với diện là Pleiku. Tuy nhiên chiến trường Pleiku cũng vẫn có thể trở thành
mặt trận thêm nếu địch tăng cường lực lượng” [57, 51].
Trong các tác phẩm ký sự chiến tranh 1945 – 1975, giọng chính luận
được sử dụng triệt để tối đa nhằm làm rõ, nổi bật các sự kiện chính sự được
đề cập đến. Bằng nghệ thuật tổ chức giọng điệu tài tình, các tác giả đã giúp
người đọc nắm bắt được tình hình chiến trận cũng như có những suy nghĩ
sâu sắc về vấn đề chiến sự đang diễn ra lúc bấy giờ.
Nếu ký sự chiến tranh 1945 – 1975 chỉ sử dụng giọng chính luận
không thôi thì các tác phẩm chỉ là những văn bản ghi chép những sự kiện
lịch sử đơn thuần. Các tác phẩm ký sự chiến tranh là những tác phẩm văn
học nghệ thuật bởi trong ký sự chiến tranh được tổ chức đan xen nhiều
giọng điệu. Bên cạnh những trang viết đậm chất chính luận là những trang
viết đậm chất trữ tình. Người viết ký sự chiến tranh đã thổi vào những con
số, những sự kiện khô khan những cảm xúc đậm chất văn chương. Hiện
thực chiến tranh được miêu tả, tái hiện thông qua lăng kính chủ quan của
nhà văn nên ít nhiều biểu hiện những ý nghĩ, cảm xúc, tâm trạng riêng của
con người, của bản thân người viết trước hiện thực chiến tranh. Bởi vậy
ngoài những sự kiện còn có những dòng cảm xúc, suy tưởng của thế giới
nội tâm. Đó là những trang viết về những hy sinh gian khổ của quân và dân
ta trong những năm tháng chiến tranh, đó là những dòng cảm xúc của tác
giả được khơi gợi trước hiện thực cuộc sống. Và cả những đoạn văn miêu
tả hiện thực chiến tranh hết sức lãng mạn, đậm chất văn chương: “Bốn bề
lại trắng xóa. Rồi gió lại thổi. Sương mù xô nhau, rách ra, bíu lấy nhau, bay
lên, lộn xuống, cuối cùng tan đi để lộ toàn bộ thị xã dưới chân. Sân bay với
chiếc đa-cô-ta, chiếc cầu đen qua sông Bằng, con sông Hiến, đồn to, khu
phố, nhà trắng, cây xanh. Đồn ngụy binh đỏ kệch. Con đường số bốn uốn
khúc chạy vào đồn to” [56, 45].
95

Nguyễn Huy Tưởng trong Ký sự Cao Lạng đã có những đoạn văn


miêu tả con người Tây Bắc đậm chất trữ tình: “Mấy chị Mán đỏ, khăn áo
sặc sỡ, trán cạo nhẵn, nhễ nhại mồ hôi, đang còng lưng đeo sọt đi giữa đám
đông. Những chị Nùng áo ngắn, tay rộng. Những chị Thổ tay chẽn, áo dài.
Những anh Mán cao lớn để hồng mao. Số đông áo chàm. Khi tản, khi
chụm. Khi lố nhố dưới thung lũng, khi thoăn thoắt lên đèo cao. Khi lẫn vào
rừng cây chuyển động, khi xóa đi, hòa vào những hàng dài đá xám lởm
chởm bên đường, thỉnh thoảng bật lên vài chấm trắng của người đàn bà
Mán lài, áo pha màu đất, váy nhiều nếp xùm xòa, ngực hở để lộ các vành
xương và đường dẹt của đôi vú. Các chị đi, hành quân dài và lủng củng,
ngoằn ngoèo, nối rừng nọ với rừng kia, đèo này với đèo khác, ngày đêm
không nghỉ. Không phải là vòng vây thép, dễ phá vỡ hơn, mà là vòng vây
của muôn hạng người chung một ý chí giết giặc, của người Kinh từ miền
xuôi lên, của người Mán từ những đỉnh chon von xuống, của người Ngái,
người Thổ, người Nùng từ các bản, các lán, các hang, các hốc đổ ra” [56,
43-44].
Giọng điệu trữ tình được nảy sinh từ mối quan hệ giữa cảm xúc của
nhà văn và xã hội. Xuân Thiều trong Bắc Hải Vân xuân 1975 đã có những
trang viết về nổi xót xa của quân và dân ta: “Đồng bào ta bị chúng nhốt sau
tầng kẽm gai, xóm làng ta bị chúng đem máy xúc máy ủi về san bằng.
Những người chết nằm dưới mồ không yên, những người còn sống ngồi
trong trại tập trung mái tôn nóng bỏng, mỗi bước đi đều có mũi súng rê
theo, căm thù muốn nổ con mắt... Nhưng chính cái bối cảnh khốc liệt của
nông thôn đồng bằng như thế, mới xuất hiện những sự tích kỳ lạ về những
người con gái anh hùng của Trị Thiên: Nguyễn Thị Lài, Trần Thị Tâm, ...
Nhớ lại những năm 1969 - 1970 , dường như ngay anh em chúng tôi cũng
ngỡ ngàng tự hỏi, làm sao ta vẫn là ta - đứng vững và chiến thắng, trưởng
thành và dày dạn. Nhớ lại những năm ấy chúng tôi thường xúc động ứa
nước mắt: một chút tủi thân, một chút tự hào. Thời kỳ khó khăn đã qua đi,
96

và chúng tôi có dịp làm ăn lớn vào mùa xuân năm 1971, đánh bại cuộc
hành quân Lam Sơn 719 của Mỹ - ngụy” [57, 162].
Nguyễn Khải đã bộc lộ cảm xúc suy nghĩ của mình trước hoàn cảnh
lịch sử trong Tháng ba ở Tây Nguyên: “Đứng phơi mặt ngoài trời cả đêm,
đứng không đổi chỗ, ý nghĩ mờ mờ ảo ảo, vừa là chính mình, vừa là người
khác, quen thuộc vô cùng mà cũng ngỡ ngàng vô cùng. Việc tin chắc trước
sau rồi cũng phải xảy ra đúng như thế, mà lại chưa hẳn tin sao lại có thể
xảy ra gọn ghẽ, lẹ làng đến thế. Biến động lịch sử là gì? Là như thế đó! Là
khi những dấu hiệu đầu tiên của những tháng ngày vĩ đại đã xuất hiện thì ta
vẫn còn phân vân tự hỏi : đó là loại hiện tượng gì? Là khi những sự việc
xảy ra có vẻ giống như trước đây, như là sự lắp lại những cái trước đây,
nhưng ý nghĩa của nó thật ra đã thuộc về một giai đoạn hoàn toàn mới, đòi
hỏi phải có ngay những phản ứng mới, những hành động mới. Là khi đã
được tắm mình trong biến động đó bỗng chốc ta chợt nhận ra, như lần đầu
tiên, cái ý nghĩa then chốt những việc đang làm và cả những việc đã làm, là
ta cũng sẽ nhận ra, như là lần đầu tiên, tầm vóc của chính ta và cái tập thể
to lớn bao quanh ta. Là khi sự lớn lên của mỗi người gần như có phép mầu,
tài giỏi hơn cả bao giờ, táo bạo hơn cả bao giờ, uốn lượn theo sóng gió của
lịch sử một cách tài ba, quyết định trong phút chốc những việc vô cùng ghê
gớm mà không hề có mảy may sai trật” [57, 3].
Ký sự chiến tranh vẫn có thể thể hiện thế giới nội tâm, đặc biệt là thế
giới nội tâm của người viết. Cái tôi tác giả vừa tràn đầy cảm xúc vừa sắc sảo
về trí tuệ. Giọng điệu trữ tình đầy sôi nổi, tha thiết nhưng vẫn rất tỉnh táo.
Giọng điệu trữ tình còn được thể hiện trong những trang ký sự miêu tả
về niềm vui thắng lợi, niềm tin tưởng lạc quan vào tương lai đất nước: “Tin
vui truyền qua các rú. Tiếng hoan hô như thác nước lướt trên đợt cây, suốt
qua các đơn vị chạy mãi ra xa tít” [56, 31].
Đọc những trang ký sự chiến tranh 1945 – 1975 chúng ta bắt gặp
không ít những đoạn văn miêu tả con người, cảnh vật thiên nhiên đầy tính
97

nghệ thuật, mang màu sắc lạc quan yêu đời. Điều này có lẽ xuất phát từ yêu
cầu của hoàn cảnh chiến tranh, văn chương phải xuất phát từ mục đích
tuyên truyền cổ động cách mạng nên các tác phẩm ký sự chiến tranh ít
nhiều là giọng hào sảng, hùng hồn.
Ngoài giọng chính luận, trữ tình ký sự chiến tranh 1945 – 1975 còn sử
dụng đan xen giọng mỉa mai, đã kích. Giọng văn này, các tác giả sử dụng
khi viết về bọn cướp nước và bè lũ bán nước.
Sự tổ chức đan xen nhiều giọng điệu trong các tác phẩm ký sự chiến
tranh đã tạo nên bức tranh toàn cảnh về đất nước Việt Nam trong những
năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đầy sinh động.
3.3.2. Nghệ thuật tổ chức ngôn ngữ
Ngôn ngữ trong một tác phẩm văn học là những ký hiệu nghệ thuật
vừa thể hiện tài năng, phong cách của nhà văn, vừa tham gia trực tiếp vào
việc xây dựng nội dung tác phẩm. Ngoài nghệ thuật kết cấu, nghệ thuật trần
thuật, nghệ thuật tổ chức giọng điệu, nghệ thuật tổ chức ngôn ngữ cũng là
một nét đặc sắc tạo nên sức hấp dẫn, sự khác lạ của ký sự chiến tranh trong
văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975.
Đọc hàng loạt thiên ký sự chiến tranh trong văn học Việt Nam 1945 –
1975, trước hết ta thấy các tác giả rất có ý thức trong việc tổ chức ngôn ngữ.
Đặc biệt, các tác giả chú ý đến việc xây dựng đan xen nhiều dạng thức ngôn
ngữ: ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ chính trị - xã hội và ngôn ngữ văn
chương giàu hình ảnh.
Ở lớp ngôn ngữ đời thường, một đặc điểm dễ nhận thấy là các tác giả
ký sự chiến tranh sử dụng rất nhiều các lớp từ mang tính chất khẩu ngữ, đó
là sử dụng những từ ngữ, cách nói địa phương. Với lớp từ ngữ này, chúng
ta thấy được hình ảnh những con người trong chiến tranh hiện lên với vẻ
mộc mạc, chân thành. Mặt khác, ngôn ngữ này giúp cho việc tái hiện, ghi
lại những chi tiết, sự kiện trong hoàn cảnh chiến tranh đến độ chính xác tin
cậy. Trong hoàn cảnh chiến tranh, tất cả mọi người Việt Nam từ các vùng
98

miền khác nhau xung phong ra trận, mỗi người xuất phát từ những vùng
quê khác nhau, tất yếu sẽ có những ngôn ngữ địa phương riêng của mình.
Chính những từ ngữ địa phương, mang tính chất khẩu ngữ đã tạo nên nét
đáng yêu riêng.
Trong văn học cách mạng đã có nhiều tác phẩm thành công với
cách sử dụng từ ngữ, giọng nói địa phương. Đó là những truyện ngắn
viết về những người anh hùng của vùng đất Nam bộ, Tây nguyên... Ký
sự chiến tranh 1945 - 1975 cũng đã tỏ rõ được vị thế của mình trong vấn
đề này. Hầu hết trong các thiên ký sự chiến tranh 1945 - 1975 đều xuất
hiện khá dày đặc ngôn ngữ địa phương. Trong kháng chiến chống Pháp,
Nguyễn Khắc Thứ trong Trận Thanh Hương đã ghi lại, tái hiện lại những
câu nói, những từ ngữ chất phác, giản dị, đậm chất Bình Trị Thiên:
“Chị phụ nữ mừng rõ:
- Bộ đội à! Rứa em bới cơm cho các eng đây
Tất cả chồm dậy. Trừ mấy anh thương binh.
- Răng chị biết chúng tôi ở đây mà bới cơm ra
- Không biết nhưng cứ đi bừa là gặp cả. Chỗ mô chẳng có bộ đội miềng!
Chị thoăn thoắt phát mỗi anh một vắt cơm cười vui vẻ:
- Các eng ăn tạm. Gấp quá không kịp mần thức ăn, chỉ có muối” [56,
37]. Và: - “Bầy tui bị bọn hắn bắt mần tù hơn năm nay. Bửa tê hắn bắt bầy tui
đi theo tưởng e chết nè! May được eng em giải thoát cho. Bầy tui sướng
không biết chừng mô mà kể. Thiệt là eng em đẻ bầy tui lại lần thứ hai”[56,
41].
Ngôn ngữ đời thường, mang đậm chất địa phương tưởng chừng như
khô khan, buồn cười nhưng đặt trong không gian câu chuyện ta cảm nhận
được sự chân thành, mộc mạc của những con người miền Trung. Nó dung
dị, bình thường nhưng lấp lánh, tràn đầy ý nghĩa.
Các lớp khẩu ngữ tự nhiên được các tác giả sử dụng khi mô tả lòng
căm thù giặc của nhân dân, bà con các dân tộc đối với giặc Pháp và giặc Mỹ:
99

- “Hắng lắm rồi chết không kịp ngáp các con ạ!”
- “Kệ cha nó, đông giết càng sướng tay”
- “Mả cha mi, không đi lùng, đi ăn cướp nữa đi”
- “Đánh bỏ mẹ thằng việt gian đi”
- “Ừ! Những thằng giặc Pháp kia, chúng nó không máu mủ gì với
mình, chúng nó ác đã đành, còn mày, sao mày chó má thế được”
- “Ngày mai, thằng tây Hà Nội lại lên ném bom .. Đéo mẹ chúng nó!”
- “Đồng chới thả tui ra, đồng chới thả tui ra để tui đập bể sọ hắn, tổ
cha hắn. Hắn giết của tui mất hai đứa con. Hắn đốt nhà tui năm lần rồi”.
Trong ký sự chiến tranh 1945 – 1975 không chỉ có ngôn ngữ miền
Trung, đậm chất Bình Trị Thiên, mà còn có ngôn ngữ mang đậm chất Tây
Bắc, các dân tộc thiểu số ở miền Bắc:
- “Mày ra tớ bảo!
- Ờ, để tớ lấy quả lựu đạn đã nhớ, lúc nãy vừa tước được.
- “Nó sợ xuống núi thì thối chân, cái cóc, cái nhái nó kêu không ngủ
được. Phải ủng hộ cái chính phủ thì mới đánh Tây được lố.”
Nguyễn Sinh và Vũ Kỳ Lân đã cùng sống, chiến đấu và viết bài tại
mảnh đất Vĩnh Linh, ngôn ngữ hàng ngày của bà con miền đất lửa đã được
tái hiện, ghi lại hết sức sinh động và chân thực trong Ký sự miền đất lửa:
“Bưởi cười rung rúc:
- Mạ ưng hung, mạ giơ cả hai tay thủ trưởng ạ.
- Rứa là mạ "hen-xấp" à? - Một anh chàng đi phía trước nói đùa làm
những tiếng cười rộ lên.
Câu nói vô tình nhưng lại ngụ ý sâu xa. Mẹ Bưởi thương con nhưng
rất khắt khe. Việc gì cụ đã không thích thì con cái đừng hòng mà ho he.
Lần Bưởi sinh con, bà cụ bắt cô phải ở trong một căn hầm kín mít, chỉ được
ăn cơm với muối rang, bắt kiêng cữ nhiều thứ rất vô lý. Anh Minh, chồng
Bưởi khuyên mẹ không được đi phàn nàn với đồng chí Quách Sĩ Kha, phó
chính ủy Quân khu Bốn. Anh Kha bảo : “Mày xoàng, để tao vào tao nói với
100

bà cụ cho”. Nghe anh Kha nói bà cụ chỉ ậm ừ. Tiễn khách về xong, bà cụ


quay lại con gái và con rể : “Ông nớ là tướng chỉ huy ngoài mặt trận còn
trong gia đình ni tao là chỉ huy, tao vẽ chi bay phải nghe nấy, không được
xớ rớ”.
Bưởi khoe :
- Bữa ni mạ tiến bộ hung. Lúc út đi mạ dặn đi dặn lại : "Đừng hấp tấp
nghe út, bắn bung tao không biết chớ đi cấy đi cắt mi hấp tấp dữ” [57, 225-
226].
Những từ ngữ địa phương mang tính chất khẩu ngữ: mô, chi, răng,
rứa, nớ, mi, miếng, ... tưởng như khô cằn, nhưng đó chính là những lời lẽ
của những con người chất phác, giản dị và chân thành, ẩn đằng sau đó là cả
một tấm lòng rất đỗi anh hùng, “ấm áp, thân thuộc”. Chính tác giả của ký
sự Miền đất lửa cũng phải thốt lên rằng: “Hai tiếng” “chư bác” thoạt nghe
như đùa bỡn. Kỳ thực, với những ai đã ở Vĩnh Linh trong những năm chiến
tranh, nó gợi một cái gì ấm áp, thân thuộc”.
Việc sử dụng phương ngữ, các loại khẩu ngữ không chỉ chứng tỏ sự
am hiểu kỹ lưỡng của tác giả đối với từng đối tượng, nhân vật mà còn góp
phần làm nên sự dung dị, lôi cuốn người đọc, có tác dụng tác động trực tiếp
đến quần chúng nhân dân cách mạng.
Ngoài ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ chính trị xã hội cũng được các
tác giả ký sự chiến tranh quan tâm và thể hiện rất hiệu quả. Viết về những
vấn đề trọng đại, những biến cố của dân tộc, ký sự chiến tranh sử dụng
ngôn ngữ trần thuật kết hợp tự sự, trữ tình, chính luận. Để có những trang
ký sự thấm chất chính luận, ngôn ngữ chính trị, xã hội được các nhà văn
viết ký sự chiến tranh ưu tiên sử dụng.
Một đặc điểm nổi bật của ký sự chiến tranh là đi sâu phản ánh những
vấn đề, những sự kiện trọng đại của đất nước, các lớp từ ngữ chính trị - xã
hội xuất hiện với tần số cao. Sắc thái ý nghĩa chung của ngôn ngữ chính trị
- xã hội là trang trọng, phù hợp với việc thể hiện những vấn đề lớn, mang
101

tính trọng đại của dân tộc. Theo dõi các thiên ký sự chúng ta bắt bặp rất
nhiều đoạn văn sử dụng dày đặc lớp từ ngữ chính trị - xã hội. Trong Ký sự
Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng, có đoạn: “- Đại tướng tổng tư lệnh điện
cho các chiến sỹ
Suốt mấy hôm nay, các chiến sĩ đã chiến đấu anh dũng.
Binh đoàn Lơ Pa-giơ hiện đã kiệt sức, thiếu đạn, thiếu lương, nhiều bộ
phận gặp quân ta chạy tán loạn. Chúng chỉ còn một hy vọng là ra sức liên
lạc được với binh đoàn Sác-tông từ Cao-Bằng xuống để cứu vãn nguy cơ
của chúng.

Hỡi các chiến sĩ !


Thời gian lúc này rất quý giá. Hành động sớm được một phút nào là
tiết kiệm được xương máu, lập được chiến công, giành được thắng lợi.
Hành động kịp thời, giải quyết chiến đấu cho nhanh chóng, mãnh liệt,
dồn dập vì địch đã yếu, tiêu diệt binh đoàn Lơ Pa-giơ để kịp thời chuyển
lực lượng tiêu diệt binh đoàn Sác-tông, làm cho cuộc giải phóng Cao-Bằng
ghi sâu vào sử sách những chiến công lớn của binh đoàn, của Quân đội
quốc gia Việt-Nam. Quyết tiêu diệt binh đoàn Lơ Pa-giơ !” [57, 77].
Đặc biệt trong ký sự của Nguyễn Khải, ngôn ngữ chính trị - xã hội
được sử dụng nhiều nhất. Ký sự Tháng ba ở Tây Nguyên cho thấy lớp từ
ngữ chính trị - xã hội dày đặc:
“Để giúp bạn đọc hiểu rõ thêm cách nhận định tình hình và cách bố trí
lực lượng của quân ngụy ở quân khu II tôi xin giới thiệu tóm lược phần
thuyết trình tình hình quân sự của Phạm Văn Phú - Tư lệnh Quân khu II
trước Trần Thiện Khiêm và phái đoàn chính phủ do y dẫn đầu, tới thăm
quân khu II hồi đầu tháng Giêng năm 1975...
Chiến dịch Đông Xuân 1975 sẽ bắt đầu cuối tháng 1 hoặc đầu tháng 2
năm 1975. Về mức độ so với năm 1972 thì cường độ sẽ mãnh liệt hơn
nhiều. Vì với hệ thống hành lang xâm nhập và vận chuyển quy mô hiện
102

nay, địch dễ dàng tập trung pháo, chiến xa, bộ binh nhanh chóng áp lực
nặng vào từng khu vực. Và thời gian chiến dịch có thể kéo dài hơn năm
1972... ước tính nếu cộng sản mở chiến dịch lớn thì tỉnh Kontum, Pleiku và
bắc Bình Định sẽ là những chiến trường trọng điểm. Các tỉnh Daclak,
Quảng Đức, sẽ là các chiến trường phụ để thu hút và cầm chân lực lượng
của ta.
Trong mùa khô sắp tới ước tính mặt trận Kontum sẽ là điểm kết hợp
với diện là Pleiku. Tuy nhiên chiến trường Pleiku cũng vẫn có thể trở thành
mặt trận thêm nếu địch tăng cường lực lượng.
Ở Kontum Kể từ trung tuần tháng 5 năm 1974 hoạt động địch gia tăng
mạnh mẽ. Đáng kể là vào những ngày 15, 16 tháng 5 năm 1974, địch đã tập
trung bộ binh, pháo, chiến xa phối hợp tấn công bức rút trại và chi khu
Dakpek. Hai tháng sau lại gây áp lực mạnh vào chi khu Mangbuk. Cho đến
ngày 19 và 20 tháng 8 năm 1974 chi khu Mangbuk phải di tản về Chương
Nghĩa. Đến đầu tháng 10 năm 1974, áp lực địch chuyển về chi khu Chương
Nghĩa. Và sau đó chi khu này mất liên lạc kể từ ngày 3 tháng 10 năm 1974.
Ở Pleiku Áp lực mạnh Pleime, Địch pháo mạnh mười ngàn viên đạn,
tấn pháo mạnh vào tây Pleiku.
Ở Bình Định Hoạt động mạnh ở hai quận Phù Mỹ - Phú Cát, lấn mở
rộng vùng giải phóng. Hoạt động mạnh ở vùng Hoài Nhơn - Tam Quan.
Đánh giao thông trên quốc lộ 19 và tây Bình Khê.
Ở Đarlac Pháo kích trên 1000 viên đạn, lấn chiếm trại biên phòng
Tiểu Anh (tây bắc Ban Mê Thuột). Đánh phá đường 14 - bắc Buôn Hồ.
Các đơn vị quân đoàn 11 được phối trí như sau:
Sư đoàn 22 bộ binh với 4 trung đoàn cơ hữu (40; 41; 42; 47) tại vùng
Bình Định
Sư đoàn 23 với ba trung đoàn cơ hữu (44; 45; 53) và được tăng phối
liên đoàn biệt động quân tại vùng Pleiku.
Biệt động quân/quân khu II hiện đang phối trí tại vùng.
103

Kontum : 4 liên đoàn biệt động quân (22, 23, 4, 6).


Darlac : liên đoàn 21/biệt động quân.
Quảng Đức : liên đoàn 24/biệt động quân.
Kế hoạch quân sự của quân khu II trong đệ nhất tam cá nguyệt :
Tại mặt trận Kontum : Bộ chỉ huy biệt động quân/quân khu II với 4 lữ
đoàn biệt động quân trách nhiệm hành quân đánh tiêu hao và tiêu diệt sư
đoàn 10 cộng sản, đặc biệt các trung đoàn 24, 28 và có thể trung đoàn 95B.
Bảo vệ và chiếm giữ Chư Pao (nam Võ Định) bằng mọi giá.
Tại mặt trận Bình Định: Sư đoàn 22 bộ binh đánh tiêu hao và tiêu diệt
sư đoàn 3 và tỉnh đội Bình Định. Bảo vệ quốc lộ 19 bằng mọi giá.
Tại mặt trận Pleiku: Sư đoàn 23 bộ binh trách nhiệm đánh tiêu hao và
tiêu diệt sư đoàn 320 cộng sản. Bảo vệ quốc lộ 19 trong lãnh thổ tiểu khu
Pleiku bằng mọi giá. Chiếm giữ và an ninh quốc lộ 14, đoạn đèo Tử sĩ.
Tiếp tục đánh phá giao liên và tiếp vận địch bằng thám kích không quân
chiến thuật và các đơn vị của nha kỹ thuật” [57, 51-52].
“Thượng khẩn CÔNG ĐIỆN MẬT
Nơi gởi: Tổng thống Việt Nam cộng hòa
Nơi nhận:
- Các tư lệnh quân khu
- Các tư lệnh quân binh chủng
- Tư lệnh biệt khu thủ đô
- Các tư lệnh sư đoàn
- Các tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng
- Tư lệnh cảnh sát quốc gia
Bản văn số. 013 - TT/CĐ/M”[62, 119].
Các từ, cụm từ như binh đoàn, sư đoàn, trung đội, đại bác, súng cối,
pháo cao xạ, trinh sát, chiến thuật, tác chiến, tiêu diệt, bắn tỉa, chính trị,
đồng chí, cách mạng, phong trào, chính trị viên, Bộ Chính trị, đại tướng,
Tổng Tư lệnh... được sử dụng với tần số cao, với số lượng, cách dùng từ
104

chính trị - xã hội người đọc dễ hình dung ra vấn đề thời sự nóng hổi đang
diễn ra trên chiến trường với lượng thông tin chính xác, sắc thái, ý nghĩa
trang trọng.
Nếu đơn thuần là ngôn ngữ chính trị - xã hội, tác phẩm ký sự chiến
tranh sẽ trở nên khô khan, nhưng sự tổ chức kết hợp giữa ngôn ngữ chính
trị - xã hội, ngôn ngữ đời thường với ngôn ngữ văn chương đã tạo nên sức
hấp dẫn ở ký sự chiến tranh. Ký sự chiến tranh không còn là những trận
đánh, những sự kiện lịch sử khô khan nữa mà hiện thực chiến tranh hiện
lên trong các tác phẩm ký sự hết sức sinh động và chân thực là nhờ ngôn
ngữ văn chương. Ngoài ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ miêu tả cũng được
các tác giả ký sự chiến tranh quan tâm và thể hiện rất hiệu quả. Những
đoạn văn miêu tả thiên nhiên, con người đậm chất văn chương được các tác
giả thể hiện. Trong Trận Thanh Hương, Nguyễn Khắc Thứ miêu tả tiếng
chuông nhà thờ: “Tiếng kinh đều đều, lành lạnh ngân nga, vang một điệu
nhạc thiêng liêng kính cẩn. Bỗng nhiên tiếng cầu kinh bốc lên khắp nơi,
loang dài trong lùm cây. Tiếng vọng ra xa tưởng chừng con chiên đang làm
lễ trong một nhà thờ nào, một ngày lễ chúa.Giọng kinh say mê bát
ngát”[56, 26]. Hay trong Ký sự Cao Lạng, tác giả viết: “Bộ đội lặng lẽ đi,
trong bóng chiều, loang lổ một vài ánh hoàng hôn. Khói và bụi bám vào
những cành bị đốt và những lá bị thiêu co quắp, rũ rượi. Cảnh vật càng mờ
mờ. Trên mấy nhà sàn buồn tênh, ba bốn bà ké nhìn ra, nhớ những ngày vui
các đồng chí đóng tại nhà mình. Các em bé giơ ngón tay nhỏ xíu chỉ trỏ.
Giữa tiếng sắt của vó lừa ngựa, tiếng súng lách cách, bộ đội tiến quân,
không nói nửa lời. Trời tối hẳn. Hai bên đường, hết lớp này đến lớp nọ
đoàn dân công đi phục vụ, dừng lại, nép sau những gậy cao tua tủa, sừng
sững như những cột dây thép trông xa xít lại” [56, 51].
Nhiều thiên ký sự chiến tranh lôi cuốn được bạn đọc chính là ở sự kết
hợp nhuần nhị giữa ngôn ngữ báo chí ngắn gọn, giàu thông tin với ngôn ngữ
văn chương giàu hình ảnh: “Họ băng mình vào cuộc đuổi giặc liên miên.
105

Nhưng núi cao, rừng rậm, tìm Tây như thể tìm chim. Vệ quốc quân sốt ruột.
Báo cáo gửi về hỗn độn, mâu thuẫn. Luôn luôn bám sát địch. Vẫn bám sát
địch. Quân báo gửi mật điện về. Đại tá... sốt, ăn vội một nắm cơm, tiêm vội
một ống thuốc, lật đật rời Khuôi- Xâm. Máy bay giặc rạch nát trời, bay loạn.
Nắng thu gay gắt” [56, 78].
Ngôn ngữ miêu tả được Xuân Thiều thể hiện trong việc ghi lại tâm
trạng cảm xúc của ông khi làm việc ở phòng tác chiến trong Bắc Hải Vân
xuân 1975: “Nghe một tiếng chim kêu thống thiết giữa trời hoàng hôn, nhìn
những đợt sóng vỗ hoài vào ghềnh đá cam chịu, tôi thấy lòng mình chợt
buồn, nỗi buồn của một người cô đơn. Đang đi giữa rừng bỗng thấy phía
trước mở ra một thung lũng đầy nắng và hoa mua tím, tôi chỉ muốn reo lên.
Cái cảm giác vui vẻ tràn dâng trong người khiến tôi chỉ muốn trở thành trẻ
nhỏ, chạy tung tăng giữa nắng, ngắt những cánh hoa, đặt lên lỗ hổng nắm
tay, dùng tay kia đánh một cái bốp. Cánh hoa này rách đã có cánh kia, lo gì.
Mỗi cánh hoa là một tiếng nổ. Tiếng pháo tuổi thơ đấy!” [57, 148].
Hình ảnh bộ đội, dân quân hành quân dưới con mắt của Nguyễn
Sinh và Vũ Kỳ Lân thật đẹp biết bao: “Dòng sông chùng lại, giản ra
được một lúc rồi lại xích vào, tựa như có một sức mạnh vô hình nào đó
từ phía sau đang đẩy họ bước nhanh hơn. Lá ngụy trang lào xào lẫn tiếng
cười, tiếng nói chuyện khe khẽ, rì rà rì rầm, tiếng vũ khí va chạm nhau
lách cách. Đứng trên một gò đất, tôi lặng lẽ nhìn đoàn quân đi trong
hoàng hôn. Mặt trời tắt, nhưng hồi quang rực rỡ từ phía tây rọi tới làm
những khẩu súng trên vai chiến sĩ sáng lên lấp lóa”[57, 224].
Cách sử dụng ngôn ngữ đầy gợi cảm và giàu hình ảnh trên, ta còn
bắt gặp rất nhiều trong các thiên ký sự chiến tranh của Trần Đăng,
Nguyễn Khắc Thứ, Nguyễn Khải,...
Trên đây là một số nét chính trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ
của ký sự chiến tranh trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975.
Nghệ thuật đan xen nhiều dạng thức ngôn ngữ khác nhau không chỉ tạo
106

nên độ tin cậy, chính xác của ngôn ngữ thiên ký sự chiến tranh mà còn
tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt của thể tài ký này. Nó góp phần khẳng định
vị trí vững vàng của tiểu loại ký sự chiến tranh nói riêng và thể loại ký
nói chung trong văn học Việt Nam 1945 – 1975.

KẾT LUẬN

1. Hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ trường
kỳ suốt ba mươi năm đã tác động sâu sắc, toàn diện tới đời sống vật chất
và tinh thần của dân tộc, trong đó có văn học. Hiện thực là mảnh đất màu
mở cho văn học nói chung và ký sự nói riêng phát triển và gặt hái được
nhiều thành tựu đóng góp cho lịch sử văn học nước nhà. Ký sự đã bám
sát hiện thực một cách trung thực, sát đúng, không tô hồng hay bôi đen
trong việc phản ánh hiện thực. Với đặc trưng thể loại là tính thời sự,
năng động, nhạy bén, kịp thời, ký sự đã phản ánh chân thực và sinh động
hiện thực đất nước trong suốt ba mươi năm chiến tranh.
2. Chiến tranh đã lùi xa gần nửa thế kỷ, nhưng những sự kiện lịch
sử và các kỳ tích chiến công; những hi sinh, mất mát, đau thương; những
mẫu hình con người tiêu biểu qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc vẫn còn
như hiển hiện trước mắt người đọc hôm nay. Tất cả đó, một phần quan
trọng là nhờ sự “ghi lại” và “lưu giữ” của ký sự chiến tranh. Hãy còn đây
và sẽ sống mãi hình ảnh những người lính trên các mặt trận, hình ảnh
nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến, và cả hình ảnh kẻ thù với những
tội ác không thể dung thứ. Ký sự chiến tranh là những lời cảnh báo nghiêm
107

khắc: đừng bao giờ có chiến tranh, vì chiến tranh là mất mát, chết chóc, đau
thương...
3. Các tác giả ký sự chiến tranh đã vận dụng và khai thác hữu hiệu các
biện pháp nghệ thuật mà thi pháp thể loại cho phép để tạo nên những tác
phẩm có giá trị, có sức sống bền vững. Đấy là việc lựa chọn sự kiện, chi
tiết điển hình, chân thực với độ chính xác cao; là phương thức trần thuật,
chủ yếu trần thuật từ ngôi thứ ba và trần thuật từ ngôi thứ nhất, là sự bộc lộ
trực tiếp những cảm xúc cá nhân trước hoàn cảnh đất nước bị tàn phá, hủy
diệt; là sự linh hoạt trong tổ chức kết cấu, giọng điệu, ngôn ngữ,...
4. Lịch sử đấu tranh của dân tộc trải qua những chặng đường gian
khổ nhưng đầy oanh liệt, hào hùng. Đồng hành cùng với văn học cách
mạng, thể loại ký nói chung và ký sự chiến tranh nói riêng đã có những
đóng góp to lớn trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh. Nó thực sự trở
thành món ăn tinh thần, vừa thể hiện khát vọng độc lập, tự do cháy bỏng
vừa bồi đắp thêm niềm tin cho quần chúng cách mạng. Năm tháng qua đi
với nhiều biến động lịch sử ảnh hưởng tới đời sống văn học nhưng, cho đến
nay và chắc chắn nhiều năm nữa về sau, ký sự chiến tranh 1945 – 1975 vẫn
còn vang vọng sâu xa trong tâm hồn chúng ta. Bằng những hình tượng
nghệ thuật sinh động, ký sự đã góp phần đắc lực vào sự nghiệp chung; giáo
dục tinh thần yêu nước và động viên ý chí chiến đấu, bảo vệ tổ quốc.
5. Ba mươi năm đồng hành với cuộc đấu tranh của dân tộc, ký sự đã có
những đóng góp nhất định về nội dung và nghệ thuật trên chặng đường phát
triển của thể ký nói chung. Cùng với sự vận động và phát triển của thể loại ký
trong bối cảnh của nền văn học hiện đại, ký sự chiến tranh giai đoạn 1945 –
1975 đã có một vị trí nhất định trong lòng độc giả. Tìm hiểu thể tài ký sự
chiến tranh trong văn học Việt Nam 1945 – 1975 đòi hỏi nhiều công sức và
tâm huyết. Những gì mà luận văn trình bày mới chỉ là bước đầu, hy vọng sẽ
có những công trình mới nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn về ký sự chiến
tranh 1945 – 1975, góp phần khẳng định thêm giá trị của thể loại này.
108

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tạ Duy Anh (2000), Nghệ thuật viết truyện ngắn và ký, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
2. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (2006), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt
Nam, (tập II), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Lại Nguyên Ân (2000), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
4. Nhị Ca (1962), Từ cuộc đời vào tác phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội.
5. Nguyễn Đức Dũng (2002), “Đặc điểm và mối quan hệ giữa ký văn
học và ký báo chí”, Tóm tắt Luận án tiến sĩ, Đại học quốc gia Hà Nội.
6. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2002), Văn học Việt Nam thế kỷ XX -
Những vấn đề lịch sử và lí luận, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2002), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
8. Hà Minh Đức (1981), Ký viết về chiến tranh cách mạng và xây
dựng chủ nghĩa xã hội, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
9. Hà Minh Đức (1998), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Đoàn Ánh Dương, Lê Thị Dương, Trịnh Bá Đĩnh (2009), Văn học
Việt Nam thế kỷ XX “Tạp văn và các thể ký Việt Nam 1945 - 1975”, Nxb
Văn học, Hà Nội.
109

11. Phan Hồng Giang (1996), Ghi chép về tác giả và tác phẩm, Nxb
Văn học, Hà Nội.
12. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên)
(2004), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
13. Nguyễn Thị Hảo (2001), “Bước đầu tìm hiểu mảng sáng tác thuộc
thể loại ký của Nguyễn Khải”, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Đại học Sư phạm
Hà Nội.
14. Lê Mậu Hãn (chủ biên) (1998), Đại cương lịch sử Việt Nam (tập
III), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
15. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại, Nxb Bộ văn
hóa thông tin và thể thao – Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
16. Hoàng Ngọc Hiến (2003), Nhập môn văn học và phân tích thể
loại, Nxb Đà Nẵng.
17. Đỗ Đức Hiểu, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (đồng chủ biên)
(2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.
18. Tô Hoài (1963), Người bạn đọc ấy, Nxb Văn học, Hà Nội.
19. Tô Hoài (1963), “Bước phát triển mới của các thể ký”, Tạp chí
Văn học, (số 8 - 1966)
20. Bùi Minh Huệ, Đặng Thị Yến (2011), Ngã ba Đồng Lộc ngã ba
anh hùng, Nxb Nghệ An.
21. Vi Thị Thanh Huệ, “Đặc điểm ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường
dưới góc nhìn thể loại”, Luận văn thạc sĩ, trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn.
22. Nguyễn Khải (2001), Tuyển tập tiểu thuyết Nguyễn Khải, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
23. Lê Đình Kị (1967), “Một số vấn đề đáng quan tâm trong việc thể
hiện nhân vật anh hùng”, Tạp chí Văn học (số 9 – 1967).
24. Phong Lê (1999), Văn học trên hành trình của thế kỷ XX, Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội.
110

25. Phong Lê (2003), Văn học Việt Nam hiện đại, lịch sử và lý luận,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
26. Phan Ngọc Liên (2008), Lịch sử 12, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27. Trần Huy Liệu (1957), Lịch sử tám mươi năm chống Pháp, Nxb
Văn Sử Địa, Hà Nội.
28. Nguyễn Văn Long (2006), Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại –
tập II (sau 1945), Nxb Văn học, Hà Nội.
29. Phương Lựu (chủ biên) (2004), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
30. Hoàng Như Mai, Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Văn học 12, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
31. Nguyễn Đăng Mạnh (1987), Một thời đại văn học mới, Nxb Văn học,
Hà Nội.
32. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1988), Văn học Việt Nam 1945 –
1975 (tập I), Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
33 . Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1988), Văn học Việt Nam 1945 –
1975 (tập II), Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
34. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), “Đặc điểm cơ bản của văn học mới
Việt Nam” (in trong 65 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng 8),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
35. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Lịch sử văn học Việt Nam (tập III),
Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
36. Nam Mộc (1967), “Thể kí và vấn đề viết về người thật, việc thật”,
Tạp chí Văn học, (số 6 – 1967).
37. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã văn học trung đại
Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
38. Phan Nhân (1966), “Suy nghĩ về khả năng của thể ký” (qua một số
bút kí ghi chép, hồi ký của miền Nam), Tạp chí Văn học, (số 7 – 1967).
111

39. Nhiều tác giả (2007), Ký sự chiến tranh – Một thời để nhớ (tập I), Nxb
Văn học, Hà Nội.
40. Nhiều tác giả (2007), Ký sự chiến tranh – Một thời để nhớ (tập II),
Nxb Văn học, Hà Nội.
41. Hoàng Phê (2002), Từ điển văn học, Nxb Đà Nẵng.
42. Vũ Đức Phúc (1966), “Bàn về các thể ký trong văn học từ cách
mạng tháng tám đến nay”, Tạp chí Văn học (8).
43. Trần Đình Sử (1993), Những vấn đề thi pháp học hiện đại, Nxb Vụ
giáo viên, Hà Nội.
44. Trần Đình Sử (2003), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
45. Trần Đình Sử (2004), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
46. Trần Đình Sử (chủ biên) (2011), Giáo trình lý luận văn học (tập II)
– tác phẩm và thể loại văn học, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
47. Trần Hữu Tá – Nguyễn Trí (1985), Tư liệu truyện ký Việt Nam
1955 – 1975 (tập I), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
48. Trần Hữu Tá – Nguyễn Trí (1985), Tư liệu truyện ký Việt Nam
1955 – 1975 (tập II), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
50. Hà Công Tài – Phan Diễm Hương tuyển chọn và giới thiệu (2002),
Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
51. Nguyễn Phú Tạo (2007), “Nghệ thuật tự sự trong Thượng kinh ký
sự của Lê Hữu Trác”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm, Hà Nội.
52. Ngô Thảo (2001), Văn học về người lính, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội.
53. Nguyễn Thi (1969), Truyện và ký, Nxb Giải phóng, Hà Nội.
54. Lý Hoài Thu (2008), “Hồi ký và bút ký thời đổi mới”, Nghiên cứu
văn học (10)
55. Bích Thu (2005), “Sức mạnh của thể ký trong văn học chống Mỹ
cứu nước ở miền Nam”, Nhà văn (số 4 – 2005).
112

56. Bích Thu, Đỗ Hải Ninh (chủ biên) (2006), Ký sự chiến tranh (tập
I), Nxb Văn học Hà Nội.
57. Bích Thu, Đỗ Hải Ninh (chủ biên) (2006), Ký sự chiến tranh (tập
II), Nxb Văn học Hà Nội.
59. Bích Thu, Tôn Thảo Miên (tuyển chọn và giới thiệu) (2003),
Nguyễn Huy Tưởng về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
60. Phạm Thị Thu Thủy (2008), “Thể ký và việc giảng dạy tác phẩm
ký ở nhà trường phổ thông”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh.
61. Phan Trọng Thưởng, “Đặc điểm cơ bản của sự phát triển văn học
trong điều kiện chiến tranh1945 – 1975” , Tạp chí Văn học, (số - 1999).
62. Sơn Tùng (1961) “Các thể ký”, Tạp chí văn học (số 8 – 1961).
63. Hoàng Phủ Ngọc Tường (1983), “Một vài suy nghĩ về thể ký”,
Tạp chí Sông Hương (83).
64. Hoàng Phủ Ngọc Tường và nhiều tác giả (2000), Nghệ thuật viết
truyện ngắn và ký, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
65. Ngô Trang, Vân Trang, Bảo Hưng (sưu tầm và biên soạn) (1997), Văn
học Việt Nam 1975 – 1985 tác phẩm và dư luận, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
66. Lê Xuân Việt (1981), “Nghệ thuật viết ký của Hoàng Phủ Ngọc
Tường trong Rất nhiều ánh lửa”, Văn học (4).
67. Viện văn học (1979), Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước, Nxb
Khoa học Xã hội.

You might also like