You are on page 1of 8

Giới thiệu tuồng Đông Lộ Địch,

bản Nôm sau cùng của thế kỷ 20, mới phát hiện

Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Văn Sâm

Tháng ba, năm 2006, tôi (Nguyễn Văn Sâm) qua Viện Việt Học ở California để nói chuyện về
Văn Chương Tranh Đấu Miền Nam thời Pháp thuộc. Sinh hoạt cũng bình thường thôi. Trao đổi với
nhiều người cũng như tâm tình với một hai người ưu tư với văn hóa Việt trên đất nước người. Đời
sống xứ người mỗi khi gặp ai đó có vẻ tha thiết với những gì của quá khứ Việt Nam, tôi thường hứng
khởi nói nhiều, hỏi nhiều và cảm thấy không mệt mỏi trong câu chuyện.

Tình cờ tôi nói chuyện về Bình Định, về hát bội với ông Lê Cẩm Khoán (LCK), một nhân sĩ địa
phương thường tới lui sinh hoạt với Viện. Buổi nói chuyện hôm đó đại ý như sau: Giáo sư nghiên
cứu về tuồng hát bội, về chữ Nôm mà giáo sư có biết tuồng Lộ Địch hay không? ---Có, nhưng tuồng
này là tuồng Quốc Ngữ mà, Cụ Ưng Bình mô phỏng theo tuồng Le Cid để viết ra. Tôi còn biết một
bản khác về tuồng nầy là Tuồng Lôi Xích nữa. --- Nhưng tôi có một bản Nôm của tuồng Lộ Địch thế
mới hay…

Tôi đổi lại thế ngồi, chăm chú nghe ông Khoán kể:

…Đầu thập niên 1940, cha tôi lúc đó hành nghề thuốc Bắc, ông có nhiều sách thuốc bằng chữ Hán
in hay viết tay, ông cũng có nhiều sách quốc ngữ. Trong khi rãnh rỗi ông thường ngâm nga tuồng Lộ
Địch theo bản quốc ngữ mà ông có. Phải nói rõ lại là cha tôi học chữ Hán, chữ Nôm với ông tôi từ
nhỏ. Người còn đậu bằng Primaire nữa nên chữ quốc ngữ và tiếng Pháp cũng kha khá. Nghề thầy
thuốc Bắc như là một nghề cứu nhân độ thế và không dính dáng gì đến chánh quyền đương thời.
Những lần ngâm nga tuồng Lộ Địch của cha lọt vào tai ông nội tôi. Ông lúc đó hơn bảy mươi rồi,
không biết quốc ngữ mà chỉ biết chữ Nôm thôi. Thích nhưng không tự mình đọc được, ông mới kêu
cha tôi viết lại bản tuồng đó bằng chữ Nôm cho ông đọc. Cha tôi đã viết vào khoảng 1942 và ông tôi
dùng bản đó để ngâm nga, thưởng thức. Cha tôi mất năm 1948 nên bản Nôm nầy chắc chắn không
thể viết xong trước năm 1945 vì thời gian nầy ở vùng tôi rất lộn xộn. Cái hay là mình chỉ có một bản
duy nhất và hơn sáu mươi năm ở vùng binh lửa nó vẫn tồn tại một cách ly kỳ. Số là sau khi ba tôi
mất, chú tôi giữ một số sách vở mà chú thích, các quyển nầy được đem sang nhà chú. Trong khi nhà
ông nội, rồi là nhà cha tôi bị bom đạn tan hoang, sách vở bị nạn không còn gì thì bản Nôm Tuồng Lộ
Địch lại sống sót. Trong lần về Việt Nam cách đây hơn mười năm trước, 1995, tôi đem nó qua Mỹ, nó
như là đứa em của tôi, như là một kỷ niệm của ông cha mình. Mặt khác, đem qua như là một hành vi
bảo tồn một tác phẩm thiệt là đặc biệt dính dáng đến nhiều nước…

Tôi chờ lúc người đối thoại bớt xúc động mới rụt rè xin một bản sao photocopy. Cũng là vì muốn
cho nhiều người biết thôi. Để xem dạng chữ Nôm thập niên 40 của thế kỷ trước như thế nào, để xem
coi hai bản quốc ngữ và Nôm có ăn khớp hay không…
Nghĩ cũng là cơ duyên. Ông Khoán tới lui Viện Việt Học rất thường mà không ai biết ông có bản
Nôm nầy, phải đợi ngày đó tháng đó tôi mới được biết. Cũng như trước đây gần bốn mươi năm tôi
nhìn lên trên cây đòn dông của một nhà trên cù lao ông Chưởng, Long xuyên, thấy một quyển sách
treo tòn ten mới hỏi chủ nhà sách gì. Và tôi được bản chép tay bản Nôm Sãi Vãi của Nguyễn Cư
Trinh. Tất cả mọi chuyện đều là cơ duyên.

Tìm được bản Nôm theo tôi là nhiều cơ duyên may, với một chút quyết tâm của người sưu tầm và
đôi phần tình cảm với người chủ sách. Ta không cần nguyên bản gốc, chỉ cần được bản copy là quí
rồi. Nội dung sách mới quan trọng…

***
Tuồng còn gọi là hát bội, là loại kịch hát rất đặc thù của Việt Nam, vốn có gốc gác rất lâu đời, từ
các hình thức diễn xướng trong dân gian. Thời điểm chính thức xuất hiện là vào khoảng đầu thế kỷ
14 đời nhà Trần. Theo "Đại Việt sử ký toàn thư" thì vào “năm Nhâm Dần, Đại Trị năm thứ 5 [1362],
mùa xuân, tháng giêng, vua ra lệnh cho các nhà vương hầu, công chúa dâng các trò tạp hý. Vua xét
duyệt trò nào hay thì được thưởng. Trước đấy, khi đánh Toa Đô, bắt được con hát là Lý Nguyên Cát
rất giỏi nghề hò hát. Những con ở trẻ của các nhà thế gia theo thường theo y tập hát những khúc
điệu của phương Bắc. Lý Nguyên Cát sáng tác các vở tuồng truyện cổ, có các tích như Tây vương
Mẫu hiến bàn đào. Trong tuồng cổ có các vai quan dân, chu tử, đán nương, câu nô gồm 12 người,
mặc áo gấm, áo thêu, đánh trống, thổi sáo, gảy đàn, vỗ tay, gõ ồn phím đàn, thay đổi nhau ra vào
làm trò, khiến người xem xúc động, muốn cho buồn được buồn, muốn cho vui được vui. Nước ta có
tuồng truyện bắt đầu từ đấy” [1]. Như vậy, trong cuộc chiến tranh chống quân Nguyên xâm lược nhà
Trần đã bắt được tù binh Lý Nguyên Cát, một kép hát tên tuổi ở phương Bắc. Triều đình bèn giữ lại
để biểu diễn và cải tiến nghệ thuật Tuồng của mình về sau.

Thời các chúa Nguyễn, các vua chúa cũng ưa chuộng tuồng. Tương truyền Đào Duy Từ (1572-
1634) là tác giả vở tuồng "Sơn hậu" viết trong thời ông phục vụ dưới trướng của chúa Sãi Nguyễn
Phúc Nguyên. Đây là một vỡ tuồng có ảnh hưởng mạnh mẽ trong dân chúng và hiện nay còn lưu
hành nhiều bản Nôm khác nhau.

Sang đến thời vua Minh Mạng thì Duyệt Thị Đường là nhà hát được xây dựng quy mô trong Tử
Cấm Thành. Riêng tính tại Huế những nǎm đầu thế kỷ 20, không kể Duyệt Thị Đường là nhà hát
cung đình, thì cũng có khá nhiều rạp tuồng phục vụ quần chúng. Nổi tiếng nhất là rạp Đồng Xuân mà
dân địa phương quen gọi là "rạp Bà Tuần" được xây dựng từ năm 1923. Song song với dòng tuồng
ngự trong cung, dòng tuồng dân gian tiếp tục nẩy nở phù hợp với thị hiếu của quần chúng, nhất là
những vở tuồng liên quan tới cuộc sống thường ngày.

Thường, tuồng được phân làm hai loại chính: 1) Tuồng không theo tích truyện Tàu như: Quần
tiên hiến thụy, Vạn bửu trình tường, tuồng Tào Lao, Tuồng Trần Bồ... 2) Tuồng dựa vào tích truyện
Tàu như các vở: Tống Sứ, Hộ sanh đàn, Đào Phi Phụng, Lý Phụng Đình, Đường tăng Tây Du ký,
Tam Quốc Diễn Truyện (1), Tam Hạ Nam Đường, Quan Công hồi cổ Thành, Tiết Đinh San cầu Phàn
Lê Huê, Lôi Phong Tháp...Loại tuồng thứ hai, còn gọi là tuồng đồ, chiếm phần lớn. Về sau này,
Tuồng có xu hướng cải cách, không chỉ mượn ý từ những chuyện Tàu mà còn lấy từ các truyện trong
dân gian Việt Nam như Trương Đồ Nhục, Trương Ngáo, Trương Ngố… hay trong lịch sử Việt Nam
như Tượng Kỳ Khí Xa . Đặc biệt, Ưng Bình Thúc Giạ Thị, một vị vương tôn Nho học của triều đình
Huế đỗ khoa thi Ký Lục năm 1904, đã phỏng theo một kịch phẩm nổi tiếng của nền văn học Pháp thế
kỷ 17, tuồng Le Cid của Pierre Corneille, để viết thành một tuồng hát bội nổi danh là trường hợp hầu
như duy nhất (2). Tác giả thay đổi kết cục trong nguyên bản cho phù hợp với văn hóa Việt Nam, cho
nên gọi tuồng này là tuồng Đông Lộ Ðịch (tuồng Le Ciq (Lộ Địch) của phương Đông). Tuồng Đông Lộ
Địch là tác phẩm đầu tiên trong lịch sử tuồng cổ Việt nam lấy đề tài từ tác phẩm châu Âu. Cụ đã tìm
thấy trong tác phẩm “Le Cid” những thí dụ đức hạnh của các nhân vật trong thế giới phương Tây, và
những thí dụ này cũng được thế giới phương Đông ghi nhận như là những giá trị đạo đức. Trong lời
“Mẹo Tuồng” cụ viết: “Sự tích tuồng Le Cid có đủ trung, hiếu, tiết, nghĩa, nên tôi xét có nhiều điểm rất
hợp với tinh thần luân lý Á đông. Như vậy kịch Pháp có thể dung hòa một phần nào với tuồng ta. Đó
là lý do khiến tôi phỏng theo tuồng Le Cid mà diễn tuồng Lộ Địch…”.

Tuồng Đông Lộ Ðịch là một thí dụ tiêu biểu sự ảnh hưởng của việc tiếp xúc với một nền văn hóa
khác, không nhất nhất phải là Tàu, trong đó tính sáng tạo nghệ thuật theo tâm hồn Việt Nam đã được
gìn giữ và triển khai. Chính cụ đã nhấn mạnh đây là 1 điều mới mẻ trong Tuồng hát. Trong bài Vãn
Tuồng cú (Câu vãn tuồng) [2], cụ viết “Trai tài gái sắc, con thảo tôi ngay. Chuyện đời xưa bên cõi Thái
Tây, tuồng hát mới của người Nam Việt. Nghiên mài bút viết, phấn điểm hương tô. Liễu còn giăng
trước cửa nhà Nho, hoa cứ dệt trên màn chữ Hán…” .

Nói chung tuồng này là thí dụ rõ ràng của Trung Hiếu và Ái tình, như lời tựa “Diễn truyện Lộ
Địch” bằng chữ Hán của tác giả: Vấn đề thứ nhất trong Tuồng là Trung hiếu, điểm quan trọng trong
Tuồng là Ái tình. Trong đời, ta cũng thường nghe kẻ trung hiếu ai mà chẳng trải qua chuyện tình ái.
Tôi cũng theo người, xưa cũng như nay, nhưng làm Tuồng để làm gì? Chuyện tình éo le trong chuyện
hiếu trung, chuyện trung hiếu khó xử trong chuyện đời tình ái, đủ chuyện oái ăm lắt léo, trăm ngàn
khổ cực khó khăn, khó bề toàn vẹn. Chuyện hiếu trung khó xảy ra lại xảy ra. Chuyện tình ái khó giải
lại có được kết cục được vẹn lòng người. Xem màn diễn gươm đâm bên bàn trang điểm mong được
chết cho xong, coi màn người gửi thân cửa Phật cho qua kiếp người, nén lòng dục vọng, chịu đủ thứ
buồn khổ. Chuyện diễn thành ra gương sáng cho Tâm lý học, chuyện lạ trong Luân lý học.

Vì thế, tôi Ưng Bình Thúc Giạ cảm thán câu chuyện hiếu trung, tình ái này mà viết nên Tuồng để
biểu dương kẻ thục nữ, để tán thán người anh hùng, không dám tự cho đây là 1 án văn chương.

Ưng Bình Thúc Giạ Thị viết xong vào tháng đầu xuân năm Ất Hợi, Bảo Đại thứ 10 (3)

Về giá trị của tuồng này, những lời tán tụng sau đây của Cụ Ưng Tôn Thúc Thuyên thiết nghĩ
không phải là màu mè mà thực tình nói được chân giá trị của tác phẩm: Mùa xuân năm nay, cùng với
anh trai là Quảng Bình Quan Sát Sứ Ưng Bình trở về kinh thăm nhà. Đêm rằm cùng bà con, bạn bè
họp nhau nâng ly, ca hát ở nhà Liên Nghiệp (Liên Nghiệp hiên), Gặp lúc mưa đêm rả rích, hàn huyên
thâu canh, Ưng Bình mới đem bản thảo vở kịch Lộ Địch ra cho xem và nói rằng: Tuồng này do danh
sĩ bên trời Âu làm ra, nhưng nội dung và thực chất cũng giống y như chuyện nước ta, cốt chuyện
thường tình, viết thành tuồng có hơi dài dòng, lộn xộn, không được mạch lạc cho lắm, chú đọc thử
cho qua đêm mưa. Tôi bèn giở ra xem đề tài, cốt chuyện thì thấy văn thì hay, ý thì đẹp, đủ chuyện
trung hiếu tiết nghĩa, buồn vui, hờn giận, tình tiết tuyệt diệu đủ cả, làm người đọc như đi vào thế giới
của nhạc điệu Quảng Lăng, càng đọc thấy càng hay như ăn cây mía từ ngọn, càng ăn thì thấy càng
ngọt. Đem so với các tuồng hát bội khác nổi tiếng như tuồng Lý Phụng Đình, Đường tăng Tây Du Ký
thì tuồng này vượt hơn hẳn. Đem chuyện trời Âu viết thành chuyện đất Á tài tình như thế, đúng là
chuyện hay cho các bậc thưởng lãm, là thuốc lành chữa bệnh “buồn” cho các bậc tao nhân. Trai gái
có tình ý với nhau thì nên tranh nhau tìm đọc. Đừng để phụ lòng vì trên sân khấu đây là tuồng hát bội
tuyệt hay, trong chốn ca múa là nơi lưu lại tuyệt tích ái tình diễm lệ.

Tôi đây, không ngại tài hèn thấp kém, viết lên vài dòng, chỉ sợ không đủ tài viết ra hết được cái tài
tình trong vở tuồng có đủ tình, tiết, thơ, nhạc này, xin người đọc lượng thứ cho. (4)

Tuồng Đông Lộ Địch được khai diễn


lần đầu tiên in vào ngày 5, 6 tháng 5
năm 1928 ở rạp Xuân Kinh Đài, Huế,
dưới sự tham dự của Khâm Sứ Trung
Kỳ.

Sau năm 1937, tuồng được lần lượt


công diễn nhiều lần ở các tỉnh Bình
Thuận, Thanh Hóa, Quảng Nam, Bình
Định, nhưng được diễn lại nhiều lần
nhất là tại Huế. Theo nhà thơ Tôn Nữ
Hỷ Khương, ái nữ của tác giả thì "tuồng
Lộ Địch được công diễn từ năm 1928,
đã gây tiếng vang trên sân khấu miền
Trung và miền Nam một thời. Điểm đặc
sắc ở tuồng "Lộ Địch", khác với nguyên
tác tuồng Le Cid là ở chỗ kết cục, tác
giả đã để nhân vật nữ chính là Chi
Manh đi tu để giữ được trọn vẹn phẩm
giá người phụ nữ theo tinh thần Á Đông". Sau năm 1975, tuồng cổ hầu như bị xao lãng trong một
quãng thời gian dài, cho đến mấy năm sau này , vở tuồng "Đông Lộ Địch" đã được diễn lại nhiều lần,
do nhà hát tuồng Đào Tấn ở Bình Định dàn dựng trên sân khấu ở Quy Nhơn (17-1-2000), Sài Gòn
(14-3-2000), Hà Nội (19-9-2000), Huế (4-4-2001), và đặc biệt là ở sân khấu Châu Âu tại Munich, Đức
năm 2002.
Tờ program quảng cáo ở Rạp Xuân Kinh Đài, Huế (1928) và ở Munich, Đức (2002)

Từ lúc tuồng
được diễn vào
năm 1928 và
Thần Kinh Tạp
Chí cũng cho
đăng lên báo,
cũng theo ái nữ
của tác giả thì
tác giả trong
những năm sau
đó đã dành
nhiều thì giờ
sửa chữa lại
bản thảo. Theo
lời tựa “Diễn
truyện Lộ Địch” của Ưng Bình thì tuồng viết lại xong vào năm 1935 là năm Ất Hợi, Bảo Đại thứ mười,
bản văn được xuất bản năm sau, 1936, và được tái bản vào năm 1959. Một điều cũng đặc biệt nữa
là tuồng này được viết và in thành sách bằng chữ Quốc Ngữ, chứ không viết bằng chữ Nôm như
thường thấy trước thời đó. Trong bài “Lời Cáo Bạch” tác giả viết “Coi tuồng xưa thời coi tuồng Nôm
dễ hiểu hơn chữ Quốc Ngữ, vì chữ Nôm là mượn chữ Nho mà làm ra; đặt tuồng hát thời chữ Nho
phần nhiều, như hát Nam thời là chữ Nôm, hát Khách thời phải chữ Nho mới được; vả lại hưởng, tán,
niêu, nồi, ngâm, xướng, thán, vấn cũng dùng chữ Nho phần nhiều; bởI vậy mê coi tuồng chữ Nôm
hơn chữ Quốc Ngữ. Nhưng viết chữ Nôm phiền lắm, lại cũng có nhiều chữ Nôm đọc không chạy, nên
phải in chữ Quốc Ngữ, nhưng câu nào toàn chữ Nho, hoặc trong câu có vài ba chữ Nho, mà đọc ra
không được hiểu liền, thời chữ Nho ấy cũng in ra chữ Quốc Ngữ cho dễ đọc, mà phải nối thêm chữ
Nho thiệt vào, để coi cho dễ hiểu nghĩa lý, và cho khỏi lộn điển tích…”

Bản viết bằng chữ Nôm mà chúng tôi mới phát hiện trên trang bìa có hàng chữ Quốc Ngữ ghi bản
Nôm do cụ Lê Cẩm Tú viết vào năm 1941 [3]. Chữ Nôm ở đây sắc sảo, rõ ràng, dễ đọc. Nhìn chung,
có một ít khác biệt giữa bản Nôm và bản Quốc Ngữ. Ví dụ, bản chữ Nôm chỉ có lời tựa bằng chữ
Hán của cụ Ưng Bình và cụ Ưng Tôn, không có “Tựa” của giáo sư Ưng Quả, “Mẹo Tuồng” và “Lời
Cáo Bạch” của Ưng Bình. Trong tuồng, một số câu chỉ vẻ cho kép làm tuồng cũng không thấy có
trong bản Nôm. Trong nhiều màn diễn, các vai diễn và kịch bản có hơi thay đổi, như màn thứ 30 Chi
Manh lên Bạch Vân Am tu, trong bản Nôm vai Yến Nương không xuất hìện, cũng như những lời nói
của A Liệt cũng được sắp xếp khác so với bản Quốc Ngữ. Những điểm này cho chúng ta nghĩ rằng,
người viết bản Nôm có thể đã dùng bản thảo Quốc Ngữ có trước khi Ưng Bình sửa chữa thêm bớt
lần chót để in thành sách vào năm 1936 [4].

Về phương diện cấu tạo chữ Nôm trong bản văn, ta thấy đó là đặc trưng của loại chữ Nôm đầu
thế kỷ 20, trong đó chữ hình thanh có khuynh hướng được sử dụng nhiều cho rõ nghĩa hơn. Với đặc
tính của chữ Nôm trong bản văn, với thời gian ra đời đặc biệt của nó, Tuồng Đông Lộ Địch có thể là
tác phẩm Nôm sau cùng của thế kỷ 20 mà ta có thể chấp nhận được mặc dầu những năm gần đây
cũng có người làm công việc phiên từ chữ Quốc Ngữ sang chữ Nôm.

Phụ lục 1: Tờ Bìa bản Nôm tuồng Đông Lộ Địch [3-


Phụ lục 2: Bài tựa Giáo Đầu (Giáo Đầu Tự) (phiên lại từ bản Nôm):

Phong hòa vũ
thuận, hải yến hà
thanh, non sông
rạng vẻ thái bình,
cây cỏ khoe màu
thạnh trị, nhà nhà
phu phỉ, chốn chốn
ăn chơi, trước võ
đài trông lắm trò vui,
trên văn án tìm thêm
vẻ lạ, rủ màn Đông
Á xem truyện Tây
Âu, nét phong tao
mỉa truyện hồng lâu,
trang thanh tú cũng
phường bạch bích,
trai tài là Lộ Địch,
gái sắc gọi Chi
Manh, lếu lăng xe
mối tơ mành, bỗng
phút hừng cơn lửa
đỏ, gương đại hiếu
soi cùng kim cổ,
gươm vô tình thẹn
với non sông, cắn
răng bẻ một chữ
đồng, mở mắt chia
hai hàng lụy, nỗi oán ân, câu thị phi, cơn biến [huyễn], sự hi kỳ, tỉnh, say, cười, khóc mấy khi; Nam,
Khách, Niêu, Nồi đủ chuyện; xem qua vừa một quyển, kể lại đặng đôi hồi, xin khán quan lặng lặng
mà coi, tuồng hát gọi là Đông Lộ Địch.
Ưng Bình Thúc Giạ Thị tự tựa
Phụ lục 3: Câu vãn tuồng (phiên lại từ bản Nôm):
Trai tài gái sắc, con thảo tôi ngay. Chuyện đời xưa bên cõi Thái Tây, tuồng hát mới của người
Nam Việt. Nghiên mài bút viết, phấn điểm hương tô. Liễu còn giăng trước cửa nhà Nho, hoa cứ dệt
trên màn chữ Hán. Sẵn
lời nguyệt đán của khách
phong tao. Khéo mua
duyên phải kén mặt đào,
cho đúng điệu phải lừa
vai kép. Cửa trường
không hẹp, sân khấu
càng đông. Non Nam
ngưỡng chúc bệ Rồng,
biển Bắc xin dồn thẻ Bạc.

Chú thích:
(1) Tây Du và Tam Quốc
là những tuồng rất dài.
Tây Du dài 100 hồi. (Mỗi
hồi diễn một đêm) Hiện ở
VN không thấy ai hay cơ
quan nhà nước nào có.
Chỉ có thư Viện Trường
Viễn Đông Bác Cổ ở
Paris là có một bản chép
tay đầy đủ 100 hồi. Tam
Quốc dài 120 hồi, các Thư Viện ngoại quốc không có, ở Việt Nam những nhà sưu tập mỗi người giữ
từ vài hồi tới vài chục hồi, lỏn chỏn.
(2) Chúng tôi nói gần như duy nhất vì trước đó đã có các tuồng đạo viết bằng Quốc ngữ lấy ý từ
các chuyện trong Kinh Thánh được xuất bản cuối thế kỷ 19 bằng Quốc Ngữ trong quyển Vãn và
Tuồng. Và đồng thời với nó là tuồng đạo Nôm Đa Vít. Nhìn tổng quan, tuồng đạo chưa qua khỏi giáo
dân để đi vào số đông dân chúng Việt Nam nên ảnh hưởng rất ít.
(3) Dịch lời tựa của Ưng Bình viết bằng chữ Hán “Diễn Lộ Địch Truyện Tự”.
(4) Dịch lời Đề tựa của Ưng Tôn Thúc Thuyên viết bằng chữ Hán “Độc Lộ Địch Diễn Truyện”.

Tham khảo:
[1]. “Đại Việt Sứ Ký toàn Thư”, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1998.
[2]. “Tuồng Lộ Địch”, Ưng Bình Thúc Giạ Thị, Sài Gòn, 1959, do Tôn Nữ Hỷ Khương cung cấp
[3]. Tuồng Lộ Địch (bản Nôm) của ông Lê Cẩm Khoán ở Hoa Kỳ do giáo sư Nguyễn Văn Sâm cung
cấp, 2007.

You might also like