« Home « Kết quả tìm kiếm

Y ĐỨC VÀ ĐẠO ĐỨC HỌC Y KHOA


Tóm tắt Xem thử

- Y ĐỨC VÀ ĐẠO ĐỨC HỌC Y KHOA.
- kinh tế thị trường làm tha hóa quan hệ bệnh nhân-thầy thuốc, biến quan hệ này thành quan hệ dịch vụ-khách hàng thuần túy với đồng tiền chi phối tất cả;.
- bệnh nhân tha hóa nhân viên y tế bằng “phong thư”, “bao bì”, “quà biếu”,.
- các cơ sở y tế bị quá tải do bệnh nhân vượt tuyến khiến nhân viên y tế phải làm việc quá sức;.
- không có dạy cho sinh viên y nha dược nghĩa vụ luận ở những năm cuối trước khi ra trường;.
- các nhân viên y tế không biết cách giao tiếp với bệnh nhân và gia đinh, nói năng thô lổ, cộc cằn với bộ mặt lạnh lùng, hiếm khì có nụ cười trên môi;.
- nhưng không giúp ích gì mấy cho các bác sĩ điều trị và sinh viên thực tập hướng giải quyết các xung đột về y đức xảy ra hàng ngày trong quá trình chẩn đoán bệnh tình và điều trị bệnh nhân.
- Bài viết này nhằm trình bày các khái niệm cơ bản về đạo đức học trong y khoa, nghĩa vụ của thày thuốc đối với bệnh nhân và xã hội, nghĩa vụ của bệnh nhân đối với thày thuốc và xã hội, nghĩa vụ của xã hội về chính sách y tế và nhất là phương pháp luận để giải quyết các xung đột về y đức.
- Đại cương về đạo đức học.
- Đạo đức học, môn học về đạo đức (morality), thường được chia thành hai ngành học: đạo đức học mô tả (descriptive ethics) và đạo đức học chuẩn mực.
- Đạo đức học mô tả mô tả quan niệm và thực hành đạo đức của cá nhân, nhóm hoặc xã hội bằng các phương pháp định tính và định lượng của xã hội học.
- Đạo đức học chuẩn mực nhằm trả lời một cách có lý lẻ câu hỏi.
- “Đạo đức phải như thế nào?” (What ought morality to be?).
- Đạo đức học quan tâm tới hai lãnh vực, thái độ (behavior) và đức tính.
- Do đó, trong lãnh vực thái độ, đạo đức học nhằm trả lời hai câu hỏi:.
- Trong lãnh vực đức tính, đạo đức học cũng nhằm trả lời hai câu hỏi:.
- Bài này chỉ bàn về nghĩa vụ luận..
- Đó là bệnh nhân, thầy thuốc và cơ sở y tế trong khung cảnh của xã hội.
- Đã có rất nhiều bài viết về nghĩa vụ của thầy thuốc đối với bệnh nhân, nhưng rất ít bài viết về nghĩa vụ của bệnh nhân, cơ sở y tế và xã hội..
- Nghĩa vụ của thầy thuốc đối với bệnh nhân, tổ chức y tế và xã hội.
- Nghĩa vụ cơ bản nhất của thầy thuốc đối với bệnh nhân là nghĩa vụ luân lý làm người được ủy thác (moral fiduciary) của bệnh nhân.
- Nghĩa vụ này đòi hỏi người thầy thuốc phải đặt quyền lợi của bệnh nhân trên hết và trước hết, trên và trước cả quyền lợi của người thầy thuốc.
- Để có thể thực hiện được nghĩa vụ này, người thầy thuốc cần vun trồng bốn đức hạnh sau đây: tính quên mình (self effacement), tính hy sinh (self sacrifice), tính vị tha (compassion) và tính chính trực (integrity)..
- Tính quên mình có nghĩa là người thầy thuốc chỉ tập trung bảo vệ quyên lợi của bênh nhân trong việc chẩn đoán bệnh và điều trị trị bệnh mà không bi sao nhãng bởi màu da, sắc tộc, tôn giáo, giới tính, sắc đẹp, tiền tại, địa vị xã hội.
- Nếu người thầy thuốc bị các yếu tố trên quyến rũ, chẳng hạn như dục vọng, thì trong trường hợp này người thầy thuốc đã đặt quyền lợi của mình lên trên quyền lợi của bệnh nhân..
- Tính hy sinh có nghĩa là người thầy thuốc sẳn sàng hy sinh quyền lợi của mình, ngay cả khi cần thiết, luôn sinh mạng của mình như nhiều tấm gương đã được ghi vào sử sách..
- Tính vị tha có nghĩa là người thầy thuốc hiểu được nổi đau của bệnh nhân và đồng cảm với bệnh nhân..
- Với nghĩa vụ ủy thác luân lý của thầy thuốc đối với bệnh nhân, nghề y không phải đơn thuần là một nghề kinh doanh như các ngành nghề khác.
- Nói như vậy không có nghĩa là nghĩa vụ của thầy thuốc đối với bệnh nhân là không có giới hạn.
- (1) Nhóm 1 là nhóm các quyền lợi nhằm giúp thầy thuốc phục vụ bệnh nhân tốt hơn, chẳng hạn như giờ nghỉ, giờ tự trao dồi kiến thức..
- (2) Nhóm 2 là nhóm các nghĩa vụ của thầy thuốc đối với ngưòi thân, chẳng hạn lương đủ nuôi sống gia đình, thời gian với con cái..
- Nghĩa vụ của bệnh nhân đối với thầy thuốc, tổ chức y tế và xã hội.
- Trong khi có rất nhiều bài viết về nghĩa vụ của thầy thuốc đối với bệnh nhân thì có rất ít bài viết về nghĩa vụ của bệnh nhân đối vớ thầy thuốc, bệnh viện và xã hội..
- Để có thể thực hành tốt nguyên tắc tôn trọng tự chủ của bệnh nhân ( principle of respect for patient autonomy), bệnh nhân cần phải tỏ ra quan tâm và lắng nghe giải thích của bác sĩ.
- Bệnh nhân cần yêu cầu bác sĩ giải thích tình trạng bệnh mình bằng một ngôn ngữ thích hợp với trình độ của mình.
- Và bệnh nhân cần hợp tác với bác sĩ trong việc trình bày các giá trị của mình mà không nên nhắm mắt buông xuôi cho bác sĩ quyết định, trừ trường hợp tối cấp cứu..
- Bệnh nhân còn có nghĩa vụ đối với người thân, nhất là những bệnh nhân có bệnh kinh niên hoặc giai đoạn cuối của bệnh nan y.
- Bệnh nhân nên bàn với người nhà trong trường hợp mình bị mất khả năng quyết định (loss of capacity to make decisions), ai sẽ là người thay thế mình để quyết định (surrogate/power of attorney), có nên tiếp tục các biện pháp trợ sinh (life support) khi không còn hy vọng sống hay không.
- Nghĩa vụ của bệnh nhân đối với bệnh viện và xã hội chủ yếu nằm trong việc sử dụng nguồn lực y tế (health care resources) eo hẹp một cách hiệu quả và công bằng nhất.
- Các nghĩa vụ này bắt nguồn từ hai nguồn cơ sở..
- Quyền tự chủ của bệnh nhân là một thí dụ điển hình.
- Phần lớn các nguồn lực y tế, không ít thì nhiều, thuộc xã hội cho nên quyền tự chủ của bệnh nhân không phải là tuyệt đối..
- Trường hợp này thường dễ thấy khi bệnh nhân có bảo hiểm y tế chi trả 100% chi phí.
- Bệnh nhân thường có khuynh.
- Nghĩa vụ của tổ chức y tế đối với bệnh nhân, nhân viên y tế và xã hội.
- Đối với người bệnh, bệnh viện cũng có nghĩa vụ như là một đồng sự được ủy thác luân lý (moral co-fiduciary) cùng với thầy thuốc bởi vì các chính sách, chế độ của bệnh viện ảnh hưởng tới quan hệ bệnh nhân thầy thuốc..
- Đối với xã hội, bệnh viện, dù công hay tư, cũng phải chứng tỏ rằng bệnh viện và công nhân viên đều đặt quyền lợi của bệnh nhân lên trên hết, bằng hanh động,.
- Nghĩa vụ của xã hội về chính sách y tế.
- Nếu ai có làm ở khoa cấp cứu thì đều có cảm giác chán nản khi phải điều trị cho những bệnh nhân nghiện ngập hoặc bị tai nạn giao thông nhập viện hàng chục lần chỉ vì không tự chăm sóc cho chính bản thân mình, không màng tới người khác.
- quyến lợi cũng như nghĩa vụ của các bên đã được quan tâm.
- (circumstances) mà trong lâm sàng gọi là một “ca” (case) và một nhóm nguyên tắc đạo đức chủ đạo.
- Vấn đề y đức thường xảy ra khi hai hoặc nhiều nguyên tắc đối chọi nhau..
- Thường thì các nguyên tắc về y đức rất ít khi xung đột gìữa “trắng” và.
- Thường ở đây có thể thấy được các phân loại về xung đột, chẳng hạn giữa nguyên tắc làm điều có lợi cho bệnh nhân (benificience) và quyền tự chủ của bệnh nhân (patient autonomy), quyền hạn của bệnh nhân nhi và quyền hạn của cha mẹ..
- Xác định tập hợp các con đường hành động có thể có được để bảo vệ tối đa các giá trị đạo đức..
- Điều này đòi hỏi một phán đoán y đức (ethical judgement) dựa trên một hoàn cảnh lâm sàng nhất định và các giá trị đạo đức khác nhau..
- Đây là bước khó nhất vì phải giải bày một cách minh bạch các tiêu chuẩn chọn lựa và sự sắp xếp theo thứ tự ưu tiên các gia trị đạo đức khác nhau..
- Ý thích của bệnh nhân (Patient Preferences) Nguyên tắc làm điều tốt và nguyên tắc.
- Bệnh nhân bị bệnh gì, tiên lượng ra sao?.
- Tóm l ại, bệnh nhân này được lợi gì khi được điều trị và chăm sóc? Làm cách nào để tránh gây tổn hại cho bệnh nhân?.
- Nguyên tắc tôn trọng quyền tự chủ (Principle of Respect for Autonomy).
- Bệnh nhân này có khả năng quyết định được không? Có dấu hiệu nào chứng tỏ bệnh nhân không có năng lực quyết định không?.
- Nếu bệnh nhân có đủ năng lực, ý thích của bệnh nhân về các phương pháp điều trị?.
- Bệnh nhân có ý thức được lợi, hại của các phương pháp khác nhau hay không? Bệnh nhân có đồng ý chưa?.
- Nếu bệnh nhân mất năng lực, ai là người thay thế? Người này có xử sự như chính bệnh nhân mà mình đại diện không?.
- Bệnh nhân này trước khi mất năng.
- Bệnh nhân có chiu hợp tác với y bác sĩ không? Nếu không, tại sao không?.
- Tóm l ại, quyền được lựa chọn của bệnh nhân có được tôn trọng tối đa hay không, trong khuôn khổ đạo đức va luật pháp cho phép?.
- Yếu tố ngoại lai (Contextual Factors) Nguyên tắc làm điều tốt, nguyên tắc.
- tránh làm điều hại và nguyên tắc tôn trọng quyền tự quyết (Principles of Beneficience, Nonmaleficience and Respect for Autonomy).
- Tiên l ượng bệnh nhân trở về cuộc sống bình thường, nếu được điều trị hoặc nếu không được điều trị?.
- Y bác sĩ co thể bị lệch lạc không khi đánh giá về chất lượng sống của bệnh nhân?.
- Có kế hoạch nào để giảm đau cho bệnh nhân không?.
- Nguyên tắc trung thành và công bằng (Principles of Loyalty and Fairness).
- Có vần đề gì về phía thầy thuốc và nhân viên y tế có thể ảnh hưởng tới điều trị?.
- Yếu tố đạo đức.
- Từ các dữ kiện lâm sàng, các giá trị và yếu tố xã hội, có thể phân loại vấn đề hiện tại vào trong những nhóm lớn về y đức, chẳng hạn đồng ý có ý thức (informed consent), từ chối điều trị, bệnh nhân mất năng lực phán đoán..
- Nguyên tắc và hướng dẫn y đức.
- Ở đây, nếu có một nguyên tắc đạo đức duy nhất hoạt đông thì nguyên tắc này chỉ đạo hành động.
- Thông thường có nhiều nguyên tắc hoạt động cùng thời với nhau, gây ra xung đột, chẳng hạn xung đột giữa nguyên tắc làm điều tốt và nguyên tắc tôn trọng quyền tự quyết của bệnh nhân..
- Thí dụ trong trường hợp tối cấp cứu thì ý kiến chuyên môn của thầy thuốc được xem trọng hơn ý kiến của bệnh nhân.
- Hoặc ý bệnh nhân muốn được chết bàng cách tự tiêm thuốc hoặc qua sự giúp đở của bác sĩ (euthanasia) chưa chắc được chấp thuận trong một cơ sở y tế của một dòng tu vì điều yêu cầu này đi ngược lại với giáo lý của cơ sở đó..
- Xếp hạng nguyên tắc.
- Một bệnh nhân nữ đang chuyển dạ sanh.
- Bệnh nhân và chồng thuộc giáo phái Jehovah’s Witness, không đồng ý ký tên cho phép truyền máu cho con.
- Thí dụ trên thường đựoc giảng dạy tại các lớp về đạo đức học.
- Bác sĩ dựa trên nguyên tắc làm điều tốt cho bệnh nhân.
- Vợ chồng bệnh nhân dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền tự quyết của bệnh nhân.
- Quan tòa có thể dựa trên nguyên tắc không làm điều hại cho đứa bé.
- Xung đột chính ở đây là xung đột giữa nguyên tắc làm điều tốt cho bênh nhân của bác sĩ và nguyên tắc tôn trọng quyền tự quyết của bệnh nhân..
- Giảng dạy đạo đức học y khoa.
- Có thể nói một cách trung thực rằng tại Việt Nam, bộ môn đạo đức học y khoa không được quan tâm đúng mức trong quá trình đào tạo bác sĩ tại trường Y, ngoài chuyện đạo đức sinh viên được đánh giá qua lăng kính chính trị mỗi năm và khi tốt nghiệp.
- Thái độ và hành vi đạo đức khác hẳn thái độ và hành vi chánh trị.
- đức hạnh cần thiết cho ngành Y, chẳng hạn tính quên mình, tính hy sinh, tính vị tha, tính chính trực? Đạo đức có thể giảng dạy cho sinh viên được không? Cần phải bố trí môi trường đại học, bệnh viện và phòng khám sao cho sinh viên có thể thực hành đạo đức tốt hơn?.
- Các nghiên cứu cho thấy suy nghĩ đạo đức (ethical thinking) của sinh viên tăng theo các năm học khi sinh viên có dịp tiếp xúc với bệnh nhân và gặp nhiều nghịch lý đạo đức (ethical dilemmas) hơn.
- Đạo đức học có thể được giảng dạy như môn bắt buộc hoặc môn nhiệm ý, từ nhừng khái niệm cơ bản như các nguyên tắc đạo đức hoàn vũ (universal ethical principles), đến các vấn đề thời sự hơn như phá thai, tầm soát tiền sản (antenatal screening), đồng ý có ý thức (informed consent), năng lực phán đoán của bệnh nhân (patient competence), hoặc các ca cụ thể trong lâm sàng.
- Ban giảng huấn về đạo đức học không nhất thiết phải là bác sĩ, mà có thể là người ngoài ngành, như luật sư, nhà văn, triết gia..
- Do đó, đạo đức của thành viên ban giảng huấn rất là quan trọng.
- Nhà trường gây dựng một môi trường văn hóa đạo đức trong đó sinh viên và ban giảng huấn có thể đem các nghich ly về đạo đức ra bàn thảo mà không ngại bị trù dập..
- Nền tảng của quan hệ bệnh nhân - thầy thuốc dựa trên nghĩa vụ thầy thưốc là người chụi sự ủy thác luân lý của bệnh nhân

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt