« Home « Kết quả tìm kiếm

XÂY DỰNG PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ RỦI RO


Tóm tắt Xem thử

- Bảo hiểm xây dựng lắp đặt.
- Q uản lý rủi ro mới cho.
- ăm 2008 bảo hiểm xây dựng sẽ kỷ niệm 150 năm ngày ra đời loại hình bảo hiểm này.
- Bảo hiểm xây dựng có nguồn gốc đầu tiên ở miền bắc nước Anh, nơi quá trình công nghiệp hoá diễn ra mạnh mẽ.
- đã dẫn tới sự gia tăng những rủi ro về nổ nồi áp suất và nồi hơi, từ.
- đó đơn bảo hiểm kỹ thuật và xây dựng đầu tiên đã ra đời..
- Qua nhiều năm, loại hình bảo hiểm này đã phát triển mạnh mẽ, rất nhiều sản phẩm bảo hiểm cho tất cả các nguy cơ rủi ro trong xây dựng và máy móc liên quan đã ra đời..
- Xây dựng là một trong những.
- đoạn bùng nổ về xây dựng gần.
- đây nhất bắt đầu từ thập kỷ 90 và cho đến nay hàng loạt các dự án về nhà ở, tổ hợp thương mại, kỹ thuật dân dụng và điện vẫn đang.
- được triển khai trên khắp thế giới, bao gồm cả các dự án nâng cấp cơ sở hạ tầng hiện có, ví dụ như dự án mở rộng sân bay quốc tế Bắc Kinh ở Trung Quốc..
- Một trong những điểm nóng về xây dựng trên thế giới là khu vực Trung Đông.
- ả rập Xê út đã lên kế hoạch cho các dự án xây dựng với tổng giá trị lên tới hơn 100 tỷ USD, Qatar cũng có nhiều dự án.
- Đây là những tin tức tốt cho ngành bảo hiểm, vì bảo hiểm là một yếu tố quan trọng trong bất cứ dự án xây dựng quy mô lớn nào..
- Với nguy cơ rủi ro ngày càng tăng, các nhà bảo hiểm xây dựng đang tìm kiếm những công cụ và phương pháp mới để quản lý các dịch vụ đã nhận bảo hiểm..
- Bề ngoài thì các rủi ro về xây dựng và kỹ thuật có nhiều điểm chung với các rủi ro tài sản nói chung.
- bảo hiểm xây dựng là một loại hình riêng với một số những đặc.
- Tạp chí bảo hiểm - tái bảo hiểm Việt Nam.
- Bảo hiểm - tái bảo hiểm thế giới.
- So sánh rủi ro xây dựng và rủi ro tài sản chung.
- Đặc điểm rủi ro Tài sản Xây dựng và kỹ thuật.
- Số tiền bảo hiểm trung bình của mỗi đơn Thường là giá trị nhỏ Thường có giá trị lớn.
- Phương pháp định phí Theo biểu phí chuẩn Theo từng dự án.
- Giá trị thành tiền chịu rủi ro trong thời hạn của.
- Phạm vi bảo hiểm của đơn Đồng nhất (điều kiện và phạm vi bảo hiểm tiêu chuẩn).
- Loại rủi ro Đồng nhất (tuỳ thuộc loại tài.
- Các loại đơn bảo hiểm trong xây dựng.
- Để phân biệt sự khác nhau giữa hai loại hình bảo hiểm này, cần xem lại những đặc điểm chính của những sản phẩm hay được sử dụng nhất.
- Hai loại đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất chủ yếu liên quan đến các dự án xây dựng là bảo hiểm mọi rủi ro nhà thầu (CAR) và bảo hiểm mọi rủi ro lắp đặt (EAR)..
- Loại thứ nhất được dùng cho tất cả các dự án xây dựng nhà ở, thương mại và kỹ thuật dân dụng trong đó chỉ có một phần nhỏ liên quan tới lắp đặt máy móc như thang máy hoặc hệ thống điều hoà.
- Loại thứ hai phù hợp với những dự án tập trung vào việc lắp đặt máy móc thiết bị và có thể có một tỷ lệ nhỏ công việc xây dựng.
- Chẳng hạn như, loại đơn bảo hiểm này có thể.
- được sử dụng trong các dự án xây dựng nhà máy điện nơi hầu hết giá trị tập trung vào máy móc (các tuabin, máy phát hay.
- được đặt trong những nhà xưởng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng chi phí chung của dự án..
- Cả hai loại đơn bảo hiểm này.
- thường là bảo hiểm cho toàn bộ dự án, không tái tục, với thời hạn bảo hiểm kéo dài nhiều năm và bảo hiểm cho tất cả các bên tham gia tại địa điểm của dự án..
- Do đó mỗi nhà thầu không cần phải mua một đơn bảo hiểm riêng.
- Những đơn bảo hiểm như.
- đầu thực hiện dự án xây dựng và kết thúc khi từng phần của dự án.
- Những rủi ro được bảo hiểm là những sự cố không lường trước được và mang tính ngẫu nhiên xảy ra tại nơi tiến hành dự án.
- Cả hai loại đơn bảo hiểm này thông thường đều loại trừ rủi ro thiệt hại đối với những thiết bị bị lỗi, nhưng có bảo hiểm cho những thiệt hại do những thiết bị đó gây ra..
- Các loại đơn bảo hiểm xây dựng khác bao gồm bảo hiểm thiết bị và máy móc của nhà thầu (CPE), bảo hiểm thiết bị điện tử (EEI) và bảo hiểm nổ nồi hơi và nồi áp suất (PVBE).
- Ngoài phần thiệt hại vật chất, các rủi ro về trách nhiệm có thể được bảo hiểm bằng cách mở rộng các đơn bảo hiểm chính hoặc trong một đơn bảo hiểm riêng của nhà thầu..
- Các nhà đầu tư trong dự án xây dựng cũng quan tâm đến các.
- đơn bảo hiểm thu nhập trong trường hợp mất lợi nhuận do chậm trễ bàn giao mà nguyên nhân là do những sự cố ngẫu nhiên đã được bồi thường trong các đơn CAR/EAR của dự án.
- Quá trình đánh giá các rủi ro xây dựng thường được tiến hành rất kỹ lưỡng do quy mô, độ phức tạp và tính chất đơn lẻ của các dịch vụ thuộc loại này.
- Thông thường chuyên gia thẩm định các dự án xây dựng đều là các kỹ sư chuyên môn có kinh nghiệm thực tế về một loại hình rủi ro nhất định do đã có thời gian làm việc trong các dự án tương tự..
- Do vậy, các thông tin về rủi ro như PML và tổng số tiền được bảo hiểm đều được coi là các thông tin thực và có thể tin cậy.
- Những vấn đề trong quản lý rủi ro.
- Mặc dù phức tạp như vậy, các rủi ro trong xây dựng thường là khá.
- Tháng 5/2007 22 Tạp chí bảo hiểm - tái bảo hiểm Việt Nam.
- cấu dịch vụ, khi các rủi ro đơn lẻ.
- được gộp lại, đặc biệt là khi các rủi ro xây dựng lại được áp theo tiêu chuẩn của các rủi ro tài sản nói chung.
- đặc điểm riêng của loại hình bảo hiểm này không được phản ảnh.
- Bảo hiểm tài sản có những công cụ riêng cho phép các nhà bảo hiểm quản lý cơ cấu dịch vụ của họ một cách chặt chẽ.
- Những công cụ này có thể là việc tính toán tổng giá trị tài sản được bảo hiểm tại những vùng “nóng”, hoặc tính toán chi tiết mức tổn thất có thể gây ra bởi thiên tai dựa trên các mô hình hiện có..
- trên cũng thường được áp dụng trong bảo hiểm xây dựng.
- Các dịch vụ bảo hiểm xây dựng thường được gộp chung vào với danh mục các dịch vụ tài sản với số lượng lớn hơn nhiều.
- Khi đó, người ta cũng sử dụng chung một tiêu thức là số tiền bảo hiểm, khiến cho nguy cơ rủi ro bị đánh giá quá mức vì số tiền bảo hiểm của một dịch vụ bảo hiểm xây dựng thường rất lớn..
- Các nguy cơ rủi ro liên quan đến hoạt động xây dựng thường có.
- đặc điểm riêng và mang tính chất động, do đó không phù hợp với những tiêu thức của bảo hiểm tài sản vốn áp dụng cho những nguy cơ rủi ro tĩnh.
- Hậu quả là việc phân bổ nguồn vốn cho loại hình bảo hiểm này bị hạn chế và các khai thác viên không dám nhận thêm những dịch vụ dù là tốt, nhất là ở những khu vực chịu nhiều ảnh hưởng của thiên tai và năng lực khai thác bị giới hạn..
- Từ góc độ tái bảo hiểm, điều này cũng ảnh hưởng đến việc phân tích đánh giá các hợp đồng tỷ lệ và phi tỷ lệ, việc định phí cho các lớp tái bảo hiểm vượt mức bồi thường sẽ không chính xác và việc tính toán tổn thất theo các mô hình cũng sẽ bị sai lệch nghiêm trọng..
- được cái nhìn chính xác hơn về số tiền bảo hiểm có khả năng chịu rủi ro.
- Giá trị của một công trình xây dựng thay đổi theo thời gian, bắt đầu từ khi ký kết hợp.
- rủi ro riêng, tuỳ theo từng dịch vụ.
- Tuy nhiên vì các dự án thường không đúng theo tiến độ, người ta có thể gộp các dự án có.
- năng bị thiệt hại của dự án.
- Những tỷ lệ này thường dựa trên thông số của một công trình hoàn chỉnh và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, chẳng hạn như loại công trình, vật liệu sử dụng, tuổi thọ công trình, phương pháp xây dựng và tiêu chuẩn xây dựng..
- Tuy nhiên, nếu áp dụng mô hình của các công trình hoàn chỉnh cho các rủi ro xây dựng thì.
- không đúng, vì mỗi giai đoạn của dự án có khả năng bị thiệt.
- Ví dụ sau đây cho thấy việc đánh giá rủi ro của một dự án xây dựng ở các giai.
- Một rủi ro về tài sản được bảo hiểm với số tiền 10 triệu USD.
- Một cơn bão gây thiệt hại 10% giá trị của tài sản.
- Một rủi ro về xây dựng cũng có số tiền bảo hiểm 10 triệu USD, nhưng ở vào giữa giai.
- Cũng rủi ro xây dựng đó ở giai đoạn trước chỉ có giá trị chịu thiệt hại là 2 triệu USD..
- Như vậy, vấn đề lớn nhất đối với các nhà bảo hiểm xây dựng là xây dựng được một mô hình.
- đã thu thập được để xác định những đặc điểm chung của mỗi loại dự án.
- Điều này đòi hỏi phải có một cơ sở dữ liệu đủ lớn và do vậy khó áp dụng được đối với mọi loại dự án..
- Mặc dù có những khó khăn và hạn chế như trên, nhiều chuyên gia về bảo hiểm xây dựng đã.
- đề và có nhiều cố gắng để xây dựng những công cụ mô hình dành riêng cho các nguy cơ rủi ro có tính chất động như đối với bảo hiểm xây dựng.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt