You are on page 1of 131

ĐIỆN BIÊN PHỦ, 170 NGÀY ĐÊM BỊ VÂY HÃM

Erwan Bergot

Lời giới thiệu

Cho tới nay, nhân dân ta vẫn quen với khái niệm chiến dịch Điện Biên Phủ kéo dài 56
ngày đêm, kể từ khi ta bắt đầu nổ súng tiến công tập đoàn cứ điểm của Pháp vào ngày 13 tháng 3
năm 1954, và kết thúc vào ngày 7 tháng 5 năm 1954 khi toàn bộ các lực lượng Pháp ở đây buông
súng đầu hàng.
Tuy nhiên, đối với quân đội viễn chinh Pháp thì Điện Biên Phủ là một cơn ác mộng kéo
dài, kể từ ngày 20 tháng 11 năm 1953 là khi mới bắt đầu nhảy dù xuống cánh đồng Mường Thanh
đã lập tức bị bộ đội và nhân dân địa phương đón đánh, tiếp đó là gần nửa năm bị vây hãm, bị tập
kích, phục kích mà đỉnh cao là những trận đánh liên tục kéo dài từ ngày 13 tháng 3 đến 7 tháng 5
và hoàn toàn kết thúc vào ngày 8 tháng 5 khi những đơn vị đóng tại Hồng Cúm thuộc phân khu
phía Nam định tháo chạy sang Lào nhưng đã bị chặn đánh và tiêu diệt hết, tổng cộng là 170 ngày
tất cả.
Chính vì những lẽ đó nên Erwan Bergot, một trung uý có mặt tại Điện Biên Phủ từ
những ngày đầu đã trải qua gần sáu tháng sống trong cảnh căng thẳng, hãi hùng, khốn đốn tại
Điện Biên Phủ, cuối cùng bị bắt làm tù binh rồi được phóng thích, đã viết cuốn sách này và được
Nhà xuất bản Presses de la Cité ở Paris, Pháp, xuất bản năm 1979, sau đó được nhiều lần tái bản.
Theo giới thiệu của Nhà xuất bản Presses de la Cité, Erwan Bergot đã bỏ ra nhiều năm
sưu tầm tài liệu, gặp gỡ các bạn chiến đấu cũ, ghi lại “nhiều chứng cứ của những người còn sống
sót để dựng lại một bức tranh sinh động và bi thảm trải dài suốt 170 ngày đêm, từ việc xây dựng
tập đoàn cứ điểm, tổ chức các vị trí phòng ngự đến các trận đánh, nhưng trước hết là tinh thần,
tình cảm của những người lính chiến đấu. Chính họ là những nhân chứng không thể bác bỏ. Họ là
những người đứng ở vị trí hàng đâu”.
Để làm phong phú thêm nguồn tư liệu về cuộc chiến ở Điện Biên Phủ, chúng tôi xin
cung cấp thêm một cách nhìn nhận, phản ánh từ phía bên kia chiến tuyến, do chính một cựu binh
Pháp viết,
Bản dịch tiến Việt được thể hiện bởi dịch giả Lê Kim, người cũng từng là một chiến sĩ
Điện Biên chiến đấu trong sư đoàn 308 năm xưa.
Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.
Nhà xuất bản Công an nhân dân
***

Lịch chiến sự

1953
12-11: Bộ tư lệnh chiến trường Bắc Bộ do tướng Cogny chỉ huy thông qua quyết định
mở cuộc hành quân Castor nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ. Bản kế hoạch hành quân được
Tổng tư lệnh Đông Dương Navarre phê chuẩn.
20-11: Cuộc hành quân Castor bắt đầu. Tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 do Bigeard chỉ huy
nhảy dù xuống bãi Natacha, cánh đồng Mường Thanh, phía Tây Bắc Bản Kéo. Tiểu đoàn dù số 2
do Bréchignac chỉ huy thuộc trung đoàn dù thuộc địa số 1 nhảy xuống bãi Simone cách Bản Kéo 4
kilômét về phía Nam. Tiểu đoàn dù số 1 do Souquet chỉ huy và ban chỉ huy lực lượng nhảy dù do
Fourcade chỉ huy kết thúc cuộc nhảy dù trong ngày.
21-11: Cuộc hành quân Castor tiếp tục với tiểu đoàn dù lê dương số 1 do Guiraud chỉ
huy và tiểu đoàn dù thuộc địa số 8 của Tourret cùng với bộ phận hỗ trợ của Molinier.
22-11: Tiểu đoàn dù lính Việt do Leclerc chỉ huy kết thúc cuộc hành quân Castor. Điện
Biên Phủ có 4.560 binh sĩ chiếm đóng.
23-11: Bắt đầu cuộc hành quân Pollux rút khỏi Lai Châu.
8-12: Tiểu đoàn 2 bộ binh lính Thái tới Điện Biên Phủ.
10-12: Các tiểu đoàn dù thuộc địa số 1, tiểu đoàn dù thuộc địa số 6, tiểu đoàn 2 thuộc
trung đoàn dù thuộc địa số 1 được đưa trở về Hà Nội (từ 2-12).
15-12: Thêm một số đại đội lính Thái tới Điện Biên Phủ.
16-12: Tiểu đoàn dù lính Việt số 5 được đưa từ Điện Biên Phủ trở lại Hà Nội bằng máy
bay.
Từ 15 đến 20-12: Các tiểu đoàn số 1 và số 3 thuộc bán lữ đoàn lê dương số 3 và những
đơn vị đầu tiên của binh đoàn cơ động số 9 do Gaucher chỉ huy được máy bay đưa lên Điện Biên
Phủ.
Từ 23 đến 28-12: Tiến hành cuộc hành quân Regates với tiểu đoàn dù lê dương số 1 và
tiểu đoàn dù xung kích số 8 thuộc binh đoàn đổ bộ đường không số 2 tiến công thăm dò từ Sốp
Nạo đến Mường Khoa trên lãnh thổ Lào.
29-12: Tiếp tục vận chuyển bằng cầu hàng không lên Điện Biên Phủ: tiểu đoàn 5 thuộc
trung đoàn bộ binh Algerie số 7 và tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn pháo binh thuộc địa số 10 cùng
với một đại đội xe tăng Chaffee.
1954
Từ 1 đến 10-1: Cầu hàng không tiếp tục đưa lên Điện Biên Phủ: tiểu đoàn 3 thuộc
trung đoàn bộ binh lê dương số 3 và bộ phận đầu của binh đoàn cơ động số 6 gồm: tiểu đoàn 1
thuộc trung đoàn bộ binh Algerie số 2 và tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn bộ binh lê dương số 2.
Từ tháng 1 đến tháng 2: Hoàn chỉnh việc xây dựng các cụm cứ điểm xếp theo thứ tự A,
B, C… mang tên: Anne Marie, Béatrice, Cladine, Dominique, Éliane, Françoise, Gabrielle,
Huguette, Isabelle.
Từ 12 đến 16-2: Hành quân thăm dò các mỏm đồi phía Đông với sự tham gia của tiểu
đoàn dù lê dương số 1, tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn bộ binh lê dương số 3, tiểu đoàn 3 thuộc
trung đoàn bộ binh Algerie số 3, tiểu đoàn lính Thái số 3, tiểu đoàn dù xung kích số 8, tiểu đoàn 1
thuộc bán lữ đoàn lê dương số 13.
Từ 10 đến 13-3: Tiến công phòng ngự và phản kích lấp các chiến hào do Việt Minh đào
lấn bao vây cụm cứ điểm Béatrice gần bản Him Lam.
13-3: Sư đoàn 312 Việt Minh tiến đánh Béatrice lúc chập tối. Đến 2 giờ sáng, cụm cứ
điểm bị thất thủ.
14-3: Hai bên ngừng bắn từ 8 giờ đến 12 giờ để thu nhặt thương binh.
Tiểu đoàn dù lính Việt số 5 nhảy xuống tăng viện cho Điện Biên Phủ.
17 giờ: Sư đoàn 308 Việt Minh tiến đánh Gabrielle.
15-3: Tổ chức phản kích giành lại Gabrielle bằng hai đại đội lính dù lê dương, tiểu
đoàn 5 lính dù người Việt và một tiểu đội xe tăng. Đến 8 giờ cuộc phản kích bị chặn lại. Gabrielle
coi như hoàn toàn bị thất thủ vào 8 giờ sáng.
16-3: Tiểu đoàn 6 lính dù thuộc địa do Bigeard chỉ huy nhảy xuống tăng viện.
Đầu giờ buổi chiều hai đại đội lính Thái đóng ở Anne Marie 1 và Anne Marie 2 gần
Bản Kéo bỏ đồn, đào ngũ.
17-3: Một đại đội thuộc tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 cố chiếm lại Anne Marie 1 và Anne
Marrie 2 nhưng không đạt kết quả.
18-3: Việt Minh bắn pháo vào các cụm cứ điểm và sân bay. Hai cứ điểm còn lại ở Bản
Kéo là Anne Marie 3 và Anne Marie 4 được lệnh sát nhập với cụm cứ điểm bảo vệ sân bay, đổi tên
thành Huguette 6 và Huguette 7. Một đại đội lính dù người Việt do Rondeaux chỉ huy được điều
động đóng giữ Huguette 7 thay cho lính Thái đưa về khu Trung tâm.
19-3: Hai máy bay Dakota hạ cánh xuống đường băng sân bay, bị pháo bắn, chỉ một
chiếc hoàn thành nhiệm vụ.
20-3: Pháo tiếp tục bắn vào sân bay. 5 chiếc Dakota đã hạ cánh và cất cánh an toàn.
21-3: Nhiều cuộc giao tranh ác liệt trong đoạn đường từ khu Trung tâm đến phân khu
Nam, nơi đặt cụm cứ điểm Isabelle.
24-3: Tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 đụng độ với địch ở khu vực giữa cụm Claudine trên
dãy đồi phía Đông với Isabelle thuộc phân khu Nam.
25-3: Pháo Việt Minh đặt ở Bản Kéo bắn vào Huguette 7 bảo vệ đầu đường băng sân
bay.
Tiểu đoàn dù xung kích số 8 đụng độ với Việt Minh ở khu vực giữa các cứ điểm
Dominique 1 và 2, phía Đông phân khu Trung tâm.
26-3: Hành quân giải vây cho Huguette 7 bằng tiểu đoàn dù lê dương và tiểu đoàn dù
lính Việt. Trung uý Rondeaux bị thương. Đại uý Bizard được cử thay thế.
27-3: Các đơn vị liên tục cho quân ra lấp các chiến hào do Việt Minh đào lấn bao vây
cứ điểm.
Thánh lập thêm cứ điểm Opera ở phía Đông sân bay do một đại đội thuộc tiểu đoàn dù
xung kích số 8 đóng giữ.
28-3: Các lực lượng ứng chiến từ phân khu Trung tâm mở cuộc hành quân ra phía Tây
nhằm tiêu diệt các khẩu pháo cao xạ Việt Minh đặt tại bản Ong Pẻ và gần bản Pe. Tiểu đoàn dù
thuộc địa số 6 mở đầu cuộc tiến công, tiếp theo là tiểu đoàn dù xung kích số 8. Tiểu đoàn dù lê
dương đi sau tiếp ứng. Tiểu đoàn bộ binh lê dương số 1 làm nhiệm vụ hỗ trợ khi rút quân trở về.
Các xe tăng từ Isabelle cùng đi để yểm trợ hoả lực.
29-3: Một cứ điểm mới, mang tên Éliane 4 được thành lập do các đơn vị rút từ tiểu
đoàn dù thuộc địa số 6 và tiểu đoàn dù lính Việt số 5 cùng đóng giữ.
Việt Minh xiết chặt vòng vây quanh các đồi phía Đông.
30-3: Trung tá Langlais đi kiểm tra các cụm cứ điểm mang tên Dominique và Éliane,
quyết định đưa đại đội 4 lính dù người Việt đến đóng tại Dominique 1 và tăng cường thêm cho
Éliane 2 một đại đội thuộc tiểu đoàn dù lê dương số 1.
Các đơn vị tăng cường chưa kịp tới vị trí, Việt Minh đã mở cuộc tiến công.
Pháo chuẩn bị của Việt Minh bắt đầu bắn từ 17 giờ 30 phút. Một khẩu 155 và bốn khẩu
105 bị pháo Việt Minh phá huỷ ngay trong hầm đặt pháo. 18 giờ 45, bộ đội Việt Minh bắt đầu
xung phong, nhanh chóng chiếm lĩnh Éliane 1 và Dominique 2. Đến 21 giờ, Việt Minh chiếm
thêm Dominique 1 nhưng bị chặn lại trước Dominique 3. Tại Éliane 2 (trên đồi A1) lính lê dương
và lính Marocco bị đánh bật khỏi một số vị trí nhưng vẫn bám giữ.
22 giờ, sư đoàn 308 Việt Minh tiến công Huguette 7. 24 giờ, sư đoàn 316 Việt Minh
bám chân được vào khu đất dưới chân Éliane 2, mang tên Champs Élysées, nhưng vẫn không
chiếm được đỉnh đồi A1.
31-3: Huguette 7 bảo vệ đường băng vẫn giữ vững.
Éliane 2 bảo vệ khu Trung tâm sau khi nhận được tất cả các lực lượng ứng cứu có thể
huy động, vẫn tiếp tục chống cự.
10 giờ sáng, tiểu đoàn dù xung kích số 8 và tiểu đoàn dù thuộc địa số 7 cố giành lại
Dominique 2 và Éliane 1 nhưng không thành công, phải rút về sau khi bị thiệt hại nặng vào lúc 15
giờ.
17 giờ, Việt Minh tiếp tục tiến đánh Éliane 2 nhưng cứ điểm vẫn giữ vững sau suốt một
đêm chống cự ác liệt.
1-4: Tiểu đoàn dù lê dương số 1 và một đại đội của tiểu đoàn dù xung kích số 8 chiếm
lại được Champs Élysées.
Huguette 7 bị bắn pháo dữ dội. Bizard tạm thời dẫn một bộ phận rút khỏi cứ điểm
nhưng đến tờ mờ sáng hôm sau họ quay trở lại, chiếm lại toàn bộ các vị trí. Đến 10 giờ, đại đội bộ
binh lê dương do Spozio chỉ huy tới thay thế đơn vị Bizard, chiếm đóng Huguette 7.
Trong ngày, những binh lính còn sống sót thuộc tiểu đoàn 1, trung đoàn bộ binh
Marocco số 4 tập hợp tại một cứ điểm vừa được thiết lập, mang tên Lily nằm ở khu vực giữa cụm
Huguette và cụm Claudine.
17 giờ, sư đoàn 316 tiếp tục tiến đánh Éliane 2. Các lính dù lê dương, lính dù hỗn hợp
Pháp - Việt, lính dù thuộc địa, lính dù xung kích, lính bộ binh lê dương, lính bộ binh Marocco luân
phiên chiến đấu chống cự suốt 36 giờ liên tục.
Ở phía Tây, Huguette 7 bảo vệ đầu đường băng bị Việt Minh chiếm vào lúc 21 giờ.
Mười hai lính lê dương còn sống sót chạy về được khu Trung tâm.
2-4: Tiểu đoàn số 2 thuộc trung đoàn dù thuộc địa số 1 bắt đầu nhảy xuống Điện Biên
Phủ, do Bréchignac chỉ huy.
Cho tới rạng sáng Éliane 2 vẫn giữ vững. Nhưng cứ điểm mang tên Françoise nằm lẻ
loi ở phía Tây, do lính Thái đóng giữ đã “bốc hơi” trong đêm.
Huguette 7 bị mất. Huguette 6 trở thành tiền đồn bảo vệ đường băng sân bay tiếp tục bị
Việt Minh tiến công.
Tiểu đoàn số 2 thuộc trung đoàn dù thuộc địa số 1 tiếp tục nhảy xuống Điện Biên Phủ.
Ban chỉ huy tiểu đoàn đặt tại Éliane 4. Lính dù người Việt trong cứ điểm đặt dưới sự chỉ huy của
Bréchignac.
3-4: Éliane 2 vẫn giữ vững sau 90 giờ chiến đấu ác liệt.
Buổi tối, Huguette 6 tiếp tục bị tiến đánh. Đại đội do Desmons chỉ huy thuộc tiểu đoàn
dù xung kích số 8 tiến theo đường mương thoát nước của sân bay đánh tạt ngang sườn quân địch.
Việt Minh phải rút lui.
Đơn vị cuối cùng thuộc tiểu đoàn 2, trung đoàn dù thuộc địa số 1, nhảy xuống phân
khu Trung tâm.
4-4: Vào lúc rạng sáng. Việt Minh tự động rút khỏi Champs Elysées (ở chân Éliane 2).
Cuộc chiến đấu liên tục trên đồi Éliane 2 kéo dài suốt 107 giờ, coi như tạm chấm dứt.
Trong khi đó, cuộc chiến đấu giành giật các cứ điểm Huguette bảo vệ đường băng sân
bay lại bắt đầu: vào lúc gần nửa đêm, bốn tiểu đoàn Việt Minh có pháo nặng yểm trợ lực xung
phong đánh chiếm Huguette 6. Đại đội Bailly thuộc tiểu đoàn dù xung kích số 8 xuất phát từ
Opera đến ứng cứu bằng cách tiến quân theo mương thoát nước nhưng được nửa đường thì bị
chặn lại. Đại đội Clédic thuộc tiểu đoàn 2, trung đoàn dù thuộc địa số 1 vừa nhảy xuống trong
đêm trước, đánh thẳng vào đường băng, buộc một tiểu đoàn Việt Minh bố trí ở điểm nút phải rút
lui.
5-4: Buổi sáng, đơn vị Clédic có thêm một đại đội do Le Page chỉ huy thuộc tiểu đoàn
dù xung kích số 8 tăng cường hoàn thành việc chiếm lại Huguette 6.
Tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn dù thuộc địa số 1 do Minaud chỉ huy tới thay cho đơn vị
Clédic rút về phía sau, chuyển thành lực lượng dự bị.
Từ 6 đến 8-4: Đại đội Bizard thay Minaud giữ Huguette 6.
Việc bảo vệ Éliane 2 được giao cho tiểu đoàn 1 thuộc bán lữ đoàn lê dương số 13 đảm
nhiệm, do thiếu tá Coutant chỉ huy.
Từ 9 đến 10-4: Chiến hào Việt Minh hoàn toàn vây chặt cụm cứ điểm Huguette 6. Lực
lượng ứng cứu di Trapp và Le Page chỉ huy mở cuộc hành quân chiếm lại Éliane 1. Buổi tối,
Charles và Minaud dẫn tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn dù thuộc địa số 1 tới thay quân.
Việt Minh lại tiến đánh. Bigeard tung hai đại đội dù lê dương do Martin và Brandon chỉ
huy, có hai đại đội dù người Việt do Guilleminot và Phạm Văn Phú tiến theo trợ lực. Đến rạng
sáng, lại đưa thêm một đại đội thuộc tiểu đoàn dù lê dương số 2 do Lecour Grandmaison đến tăng
cường thêm, nhằm chống lại cuộc tiến công của Việt Minh.
Từ 11 đến 12-4: Éliane 1 vẫn giữ vững.
Hoàn thành việc thả dù toàn bộ tiểu đoàn 2 lính dù lê dương.
Những lính dù thuộc tiểu đoàn 2, trung đoàn dù thuộc địa số 1 còn sống sót trên cứ
điểm Éliane 1 được sát nhập vào đại đội do thiếu uý Leguerre chỉ huy.
Từ 12 đến 13-4: Huguette 6 bị pháo bắn dữ dội. Việc tiếp tế lương thực, đạn dược và
nước uống rất khó khăn.
14-4: Việt Minh đã chiếm được một phần ba đường băng sân bay. Huguette 6 vẫn cố
giữ.
Éliane 1 và Éliane 2 tiếp tục chống cự.
15-4: Hai đại đội xuất phát từ Opera lấp các chiến hào do Việt Minh đào bao vây
Huguette 6.
Từ 16 đến 17-4: Phải huy động tới một tiểu đoàn lính chiến đấu để bảo vệ cho số phu
mang lương thực, đạn dược, nước uống cho Huguette 6.
Một giờ sáng, địch bất ngờ tiến công Éliane 1.
Các đại đội dưới sự chỉ huy của Clédic và Periou tổ chức đánh chặn.
17-4: Chỉ huy trưởng De Castries quyết định rút bỏ Huguette 6.
Từ đêm 17 đến 18-4: Tiểu đoàn dù lê dương số 1 được lệnh mở đường tiến qua hệ
thống chiến hào bao vây của Việt Minh đón đơn vị Bizard rút khỏi Huguette 6. Được nửa đường
thì vấp phải một tiểu đoàn Việt Minh, không sao tiến được nữa.
Đến 10 giờ, Bizard quyết định tự phá vây và đã rút về được Huguette 1 nhưng bị
thương vong tới 70% quân số.
18-4: Đại đội 4 thuộc tiểu đoàn 1 bán lữ đoàn lê dương số 13, do Chevalier chỉ huy
được lệnh thay quân cho đơn vị bộ binh lê dương đang đóng tại Huguette 1.
19-4: Sau một đêm chiến đấu, Chevalier đã tới được Huguette thay Spozio. Nhưng khi,
dẫn quân trở về khu Trung tâm, Spozio bị tiêu hao tới một nửa số quân còn lại.
20-4: Khoảng 100 lính “tình nguyện” chưa có bằng tốt nghiệp nhảy dù, nhảy liều
xuống Điện Biên Phủ.
21-4: Sau một đêm tương đối yên tĩnh, Việt Minh lại tiến đánh Huguette 1 nhưng
không đạt kết quả.
Đêm 22 rạng 23-4: Cứ điểm Huguette 1 bị tiến công từ mọi phía. Đến 1 giờ sáng liên
lạc điện thoại với Chevalier hoàn toàn bị cắt đứt.
23-4: De Castries quyết định giành lại Huguette 1.
Hồi 11 giờ trưa, tiêu đoàn dù lê dương số 2 được lệnh phản kích. Hai đại đội xuất phát
từ phía Nam Huguette 2 và hai đại đội từ phía Tây Opera cùng tiến về Huguette 1. 16 giờ, cuộc
phản kích bị Việt Minh đánh lui.
24-4: Tổ chức lại hệ thống phòng ngự. Opera bị rút bỏ. Lính trong cứ điểm hợp nhất
với đơn vị đang đóng tại Huguette 2.
25-4: Việt Minh tiến đánh Epervier (là một cứ điểm ở phía Nam Opera). Các hầm hố
trong cứ điểm đều ngập đầy bùn vì mưa suốt đêm.
Từ 26 đến 30-4: Pháo bắn liên tục. Việt Minh tiếp tục đào hào bao vây Huguette 4 và
Huguette 5.
Trong bốn đêm liền, khoảng 300 lính tình nguyện nhảy dù xuống Điện Biên Phủ.
Từ 1 đến 2-5: 17 giờ, pháo Việt Minh bắt đầu bắn chuẩn bị, mạnh nhất và kéo dài nhất
kể từ ngày bắt đầu chiến dịch. Pháo bắn suốt ba tiếng đồng hồ.
Từ 20 giờ 30, Éliane 1 và Éliane 2 bắt đầu bị bộ đội Việt Minh xông vào cứ điểm.
Khoảng tờ mờ sáng, Éliane 1 vị Việt Minh hoàn toàn chiếm lĩnh, Éliane 2 vẫn tiếp tục chống cự.
Ở mặt phía Tây, sau khi tiến công thăm dò Huguette 4 và Lily, Việt Minh bắt đầu tiến
đánh Huguette 5. Đến 3 giờ sáng, Huguette 5 bị chiếm lĩnh. Một cuộc phản kích từ Huguette 2
đánh sang bị Việt Minh chặn đứng ngay trước lớp hàng rào kẽm gai của Huguette 5.
Đêm 2 rạng sáng 3-5: Việt Minh tiếp tục tiến công gây sức ép ở mặt Đông, nhằm vào
Éliane 2 và Dominque 3.
Ở mặt Tây, sức ép của Việt Minh nhằm vào Huguette 4.
Rạng sáng, Dominique 3 bị chiếm lĩnh.
Đêm 3 rạng 4-5: Pháo bắn suốt đêm.
Đại đội 2 thuộc tiểu đoàn dù thuộc địa số 1 nhảy xuống ngay khu vực đặt sở chỉ huy
Trung tâm, lập tức được đưa ngay lên Éliane 2 là nơi tiểu đoàn 1 thuộc bán lữ đoàn lê dương số 13
đã chiến đấu suốt 72 giờ.
Việt Minh đào một đường hầm dưới Éliane 2 đặt thuốc nổ.
4-5: Đại đội 3 thuộc tiểu đoàn dù thuộc địa số 1 tới tiếp viện cho đại đội 2 đóng tại
Éliane 2 vào lúc rạng sáng. Tiểu đoàn 1 thuộc bán lữ đoàn lê dương số 13 tuần tự rút lui.
5-5: Trời mưa cản trở việc thả dù. Chỉ có khoảng gần hai trung đội nhảy được xuống
Điện Biên Phủ.
Việt Minh củng cố các vị trí đã chiếm được tại Éliane 1 và Domonique 3.
6-5: Việt Minh tiếp tục tiến công Éliane 2 vào lúc gần tới đêm. Từng tiểu đoàn tiến
đánh theo nhịp độ nửa giờ rồi lại thay bằng tiểu đoàn khác. Khoảng 23 giờ khối thuốc nổ trong
đường hầm dưới cứ điểm Éliane 2 phát nổ, chôn vùi đại đội 2 của tiểu đoàn dù thuộc địa số 1.
Đại đội 3 tổ chức phản kích, đến 3 giờ sáng chiếm lại được đỉnh đồi.
7-5: Éliane 4 bị tiến công. Botella và Bréchignac không thấy trả lời qua điện đài.
Việt Minh quay trở lại tiến công. Éliane 2 sau khi đã chiếm được Éliane 4. Đến 5 giờ
sáng, Éliane 2 hoàn toàn bị Việt Minh chiếm lĩnh.
7 giờ sáng, Éliane 10 ở dưới chân Éliane 2 cũng bị chiếm.
8 giờ sáng, phần lớn các điểm tựa ở phía Đông bảo vệ cho sở chỉ huy Trung tâm đều
nằm trong tay Việt Minh.
Ở mặt Tây, Huguette 4 bị chiếm.
17 giờ 30 tiếng súng chấm dứt tại Điện Biên Phủ.

Cuộc hành quân Castor

20-11-1953
Máy bay từ từ lấy độ cao. Nhìn xuống phía dưới, bên phải là quầng sáng màu vàng của
dãy đèn dọc cầu Dourmer (nay là cầu Long Biên) soi rõ mặt nước sông Hồng. Toà Nhà hát lớn, lờ
mờ trong bóng tối vẫn nổi bật ở đầu phố Paul Bert (Phố Tràng Tiền).
Máy bay tiếp tục lên cao. Hà Nội vẫn còn hiện rõ từng điểm vói những đường phố và
đại lộ có những cột đèn điện chiếu sáng giao nhau theo hình thước thợ. Đây là ngã tư phố Gia
Long (phố Bà Triệu) với khách sạn Ritz nổi bật như một khối hình hộp màu trắng trên nền đường
màu đen, kia là nhà ga nằm ở đại lộ De Lattre (đường Lê Duẩn), ngay đầu đường Gambetta
(đường Trần Hưng Đạo) có nhiều cây cao lá rậm. Xa hơn nữa về phía chân trời, có thể đoán được
vùng châu thổ đang chìm trong sương lam ở phía sau, còn phía trước là đỉnh núi Tam Đảo màu
đen trên nền trời đang sáng dần của ánh bình minh.
Đó là bốn giờ ba mươi phút sáng 20 tháng 11 năm 1953. Chiếc Dakota số 356 trong phi
đội số 2 của lực lượng không quân vận tải 64 mang tên Anjou đang tiếp tục cuộc hành trình trên
những đám mây dày che phủ lưng chừng núi Ba Vì ở phía Tây.
Chiếc Dakota vẫn bốc cao mãi. Cho tới khi lên tới đỉnh tột cùng theo qui định là 4.000
mét, lúc đó mới rẽ ngoặt 290 độ. Lúc này, máy bay đang trên vùng trời Sơn Tây, nơi sông Hồng
chảy xuôi về phía châu thổ.
Trong khoang máy bay, nhiệt độ xuống thấp. Mọi người phải mặc thêm một chiếc áo
nịt bông bên ngoài chiếc áo trậ. Riêng tướng Gilles vẫn chỉ mặc bộ đồ len kaki. Ông chủ đoàn
quân nhảy dù cau lông mày, nheo con mắt duy nhất còn lại, nhìn những đám mây đang như bị
luồng gió cánh quạt máy bay cuốn hút. Thỉnh thoảng, ông lại rút từ túi áo ngực ra một chiếc khăn
tay nhỏ, lau vành mi đang ứa nước từ chiếc mắt giả bằng thuỷ tinh.
Trước mặt tướng Gilles, chỉ huy đoàn quân đổ bộ đường không, là tướng Dechaux, Tư
lệnh lực lượng không quân chiến thuật miền Bắc Đông Dương, gọi tắt là GATAC - NORD. Tướng
Dechaux cũng đang nóng lòng sốt ruột cúi nhìn ra phía ngoài, ngang tầm với mẩu thuốc lá đã hút
xong nhưng vẫn còn ngậm trên môi của tướng Bodet, phó của Tổng tư lệnh Đông Dương Navarre.
Phó tổng tư lệnh Bodet, bộ mặt lạnh như phiến đá hoa, đang chăm chú theo dõi trên
bản đồ hành trình của chuyến máy bay, tuyệt đối không liếc nhìn ra phía ngoài một chút nào. Dưới
cánh máy bay lúc này chỉ là những đám mây dày đặc màu trắng, chồng chất lên nhau. Đó là một
thứ “mưa phùn khô” tạo thành một tấm màn che do gió rét và hơi ẩm trên vùng trời thượng du
Bắc Kỳ kéo tới che phủ rừng núi và thung lũng suốt phần lớn thời gian mùa Đông. Tuy nhiên, đôi
lúc tấm màn mây này cũng tự xé rách, để lộ ra một khoảng trời như cửa chiếc bẫy sập, nhìn xuống
phía dưới là một vực sâu có những bản làng người Thái bám chặt lấy những sườn núi đã chặt hết
cây cối, hoặc là những suối nước chảy dữ dội đổ vào sông Đà hay sông Hồng.
Từ loa phát thanh vọng ra tiếng nói khàn khàn:
- Máy bay đang trên vùng trời Yên Bái.
Tướng Bodet ấn ngón tay trỏ lên bản đồi. Bắt đầu từ thời điểm này, máy bay rời bỏ
vùng trời thung lũng sông Hồng để bay ngược lên vùng núi, tới vùng trời Nghĩa Lộ và Sơn La.
Ngồi ở chiếc ghế sau tướng Bodet, tướng Gilles vẫn không động đậy. Ông cũng không
cần theo dõi trên bản đồ. Vùng thượng du là khu vực ông đã biết rất rõ để có thể nói thẳng thừng
là đã “chạy thục mạng” hàng tháng trời suốt chiến dịch Thu Đông năm trước.
Đúng một năm trước đây, tướng Jeans Gilles hồi đó mới là một đại tá, cuối tháng 11
năm 1952 đang đón đợi cuộc tiến công của các sư đoàn thiện chiến Việt Minh tại một thung lũng
nhỏ trong xứ Thái, nằm giữa vùng núi Nghĩa Lộ và Sơn La, một tập đoàn cứ điểm xây dựng vội
vã nhằm ngăn chặn làn sóng tiến công của Việt Minh đang tràn khắp vùng thượng du, quét sạch
những đồn bốt nhỏ bé trong những thung lũng và trên đỉnh núi. Cứ điểm “con nhím” này đặt ở Nà
Sản, một địa danh nổi bật trên trang nhất báo chí khi tướng Giáp bất ngờ nổ súng tiến đánh vào
ngày 28 tháng 11 năm 1952. Sau 6 ngày giao tranh quyết liệt, giành đi giật lại từng vị trí, có lúc
tưởng chừng như Nà Sản sẽ sụp đổ tới nơi; nhưng cuối cùng các đơn vị lính lê dương và lính dù
đóng giữ tập đoàn cứ điểm này vẫn giữ vững, bộ đội Việt Minh phải rút lui.
Chiến công này đã nâng Jeans Gilles từ đại tá lên thiếu tướng. Hơn nữa, chiến công này
còn neo chặt trong đầu óc một sĩ quan tham mưu niềm tin vững chắc là những cứ điểm phòng ngự
kiểu “con nhím” ở vùng thượng du là giải pháp kỳ diệu để nhử mồi và đánh thắng lực lượng chủ
lực tiến công của Việt Minh chưa có đủ trang bị cần thiết để đánh chiếm những vị trí như thế này.
Đặc biệt, đó là quan điểm của đại tá Berteil, người thay Gilles làm Tư lệnh binh đoàn tác chiến
khu vực miền Trung sông Đà, gọi tắt là GORMON. Ngày 21-5-1953, khi Tổng tư lệnh Navarre
bất ngờ đặt chân xuống Nà Sản trong cuộc hành trình thị sát vùng thượng du, đại tá Berteil đã
nồng nhiệt bộc lộ ý kiến trên đây với cấp trên.
Nhưng riêng về phần mình, tướng Gilles lại có quan điểm khác. Là một người ưa hành
động, tướng Gilles không thể chịu được cảnh giam chân trong một cứ điểm kiểu “con nhím”, bị
vây bọc mọi phía, hoàn toàn phụ thuộc vào việc tiếp tế bằng máy bay, chờ đợi địch tiến đánh. Ông
muốn được có những cuộc hành quân táo bạo, trong đó được tự do vận động, nhử địch vào những
cạm bẫy để rồi nghiền nát bằng quả đấm của lính dù.
Đó là phần cuối trong ý niệm về cuộc hành quân chiếm lĩnh Điện Biên Phủ ngày hôm
đó. Nếu ông nhận cầm đầu lính dù của mình nhảy xuống tiến đánh Điện Biên Phủ, đó là do ông
nhận được lời hứa chính thức chỉ ở lại đây một thời gian ngắn, vừa đủ để tìm được người thay thế.
Một cơn đau tim gần đây nhất đã chứng minh, ông đang vượt qua giới hạn của sự dẻo dai về thể
lực. Ông bộc lộ với tướng Dechaux:
- Điện Biên Phủ không thể trở thành một Nà Sản thứ hai như tất cả những đầu óc trong
ban tham mưu ở Sài gòn nghĩ như vậy. Bởi vì, Việt Minh hẳn cũng đã rút kinh nghiệm về những
bài học thất bại ở Nà Sản năm ngoái. Hoặc là, tướng Giáp sẽ áp dụng các biện pháp cần thiết
nhằm ngăn cản không cho Điện Biên Phủ trở thành mối uy hiếp hậu phương Việt Minh, hoặc là sẽ
tiến đánh Điện Biên Phủ …
Tướng Gilles không nói thêm, nhưng vẫn khiến cho người nghe có cảm giác ông không
muốn bị chôn chân bó tay tại Điện Biên Phủ nếu Việt Minh tiến công.
Tuy nhiên, ông cũng cho biết, sau khi rút bỏ Nà Sản hồi tháng 8 vừa rồi, thì hiện nay
Điện Biên Phủ là một căn cứ ít tồi nhất ở vùng thượng du. Trong mọi trường hợp, Điện Biên Phủ
vẫn còn tốt hơn Lai Châu là điểm tựa duy nhất còn tồn tại trong vùng, mà mọi người vẫn thường
đánh giá là “một chiếc bô đi tiểu”.
Tướng Bodet nhìn ra phía ngoài máy bay, nhăn mặt khi thấy những đám mây mỗi lúc
một nhiều. Nếu vòm trời bị phủ kín mây, hoặc nếu có mưa, thì không thể nhảy dù xuống Điện
Biên Phủ.
Tướng Dechaux liếc nhìn đồng hồ đeo tay: 5 giờ 40 phút. Ông nói:
- Chậm nhất là một giờ nữa, ta sẽ về tới nơi.
Phía dưới máy bay, trời vẫn một màu mây trắng. Chỉ có một vài đỉnh núi như người
vừa chợt tỉnh ngủ, nhô đầu ra khỏi lớp chăn bông của mây. Dù sao mặt trời đã hiện ra ở phía
Đông, đang nhuộm những đám mấy tích điện to lớn một mày hồng thẫm.
Hoa tiêu nói qua loa phóng thanh:
- Chúng ta đang bay trên vùng trời Tuần Giáo.
Khoảnh khắc thực tế đang tới gần. Điện Biên Phủ chỉ còn cách 80 kilômét về phía Tây.
Hai mươi phút nữa. Tướng Gilles cúi đầu xuống, trề môi suy nghĩ. Cùng với mặt trời mọc, có vẻ
như cảnh “mưa phùn khô” cũng xuất hiện cho bầu trời nhuốm một màu xanh lơ nhạt dịu. Bây giờ,
những tia nắng đầu tiên của mặt trời đã làm màu xanh lơ trong trẻo chuyển thành màu xám bẩn
thỉu dày đặc sương mù.
Tướng Bodet và tướng Dechaux đưa mắt nhìn nhau. Suy cho cùng, chính tướng Bodet
trên cương vị Phó tổng tư lệnh là người chịu trách nhiệm nặng nề bật đèn xanh cho 1500 lính dù
của Bigeard và Bréchignac đang tập trung tại sân bay Bạch Mai và Gia Lâm từ 4 giờ sáng để
chuẩn bị lên đường nhảy xuống Điện Biên Phủ.
Tổng tư lệnh Navarre nói:
- Nếu thật thời tiết tốt mới nhảy.
Tối hôm qua, tướng Bodet cũng nhắc lại câu này với các chỉ huy tiểu đoàn nhảy dù:
- Nếu thời tiết tốt, sẽ nhảy.
Tướng Bodet không thuộc phái tán thành vô điều kiện cuộc hành quân Castor nhằm
chiếm đóng sân bay và toàn bộ thung lũng Điện Biên Phủ, tổ chức khu vực này thành một căn cứ
lục - không quân, tạo nên một then cổng khoá đường biên giới thông sang Lào, một con đập ngăn
chặn du kích Việt Minh, một bàn đạp xuất phát những cuộc hành quân tiến đánh vùng hậu phương
địch. Bodet là một phi công. Ông suy nghĩ trên cương vị chuyên môn về vận chuyển và yểm trợ
đường không. Mảnh đất Điện Biên Phủ, cách sân bay Bạch Mai Hà Nội 300 kilômét, cách sân bay
Cát Bi Hải Phòng 400 kilômét, là một sân bay hạn chế cho việc sử dụng thực tế tiềm năng của lực
lượng không quân hiện có tại Đông Dương của Quân đội viễn chinh Pháp.
Đã 6 giờ 10 phút.
Chiếc Dakota lượn một vòng rộng trên thung lũng Điện Biên Phủ. Tướng Bodet lại liếc
nhìn đồng hồ. Còn khoảng gần 50 phút nữa trước khi có thể ra lệnh hoãn cuộc hành quân Castor.
Trong khoang lái, những chuyên viên “công ty vận tải đường không” dán mắt vào
khung cửa kính. Họ không nhìn thấy gì ngoài những đỉnh núi cao 1500 mét hiện ra trên hướng Lai
Châu. Mấy người này trao đổi với nhau:
- Nhìn này, sương mù đang dày đặc thêm.
- Có vẻ như những triển vọng của cuộc hành quân Castor đang giảm dần theo từng giây
phút.
Đột nhiên, một vừng sáng màu đỏ chói đang biến mớ bòng bong màu xám loang lổ
thành những làn hơi nước. Mặt trời đã xuất hiện từ những đám mây. Khung cảnh đang ảm đạm trở
thành rực rỡ. Những dải sương mù bốc lên cao tan trong ánh sáng đang sà xuống thấp.
Trên thung lũng Điện Biên Phủ, sương mù như bị luồng gió nuốt chửng, đang bị tan, bị
xé, bị rách từng mảng để bộc lộ những thảm xanh tươi của ruộng đồng, những lùm đen sạm của
cây cối, những vệt sáng màu bạc của suối nước và dòng sông Nậm Rốm cuồn cuộn chảy.
Đã 6 giờ 37 phút.
Phó tổng tư lệnh Bodet thở phào, nhẹ nhõm. Ông lại gần tướng Gilles chỉ huy trưởng
cuộc hành quân:
- Có vẻ như trời hửng, đúng không?
Tướng Gilles không trả lời, chỉ gật đầu tỏ vẻ đồng ý. Vầng trán cầu thủ bóng ném của
ông lúc này đang cúi sát khung cửa sổ máy bay, ông cố phát hiện một vài dấu hiệu nổi bật của địa
hình phù hợp với những tấm ảnh chụp từ trên không mà ông vẫn còn nhớ như in trong óc. Đối với
ông, câu nói vừa qua của tướng Bodet chỉ còn đơn giản chứa đựng hàm ý: vài giờ nữa, hai tiểu
đoàn dù, những lính dù “của ông” sẽ đương đầu với thực tế gay go của cuộc chiến đấu. Và cuộc
chiến này nhất định sẽ xảy ra. Nhưng thắng lợi là chắc chắn. Tướng Gilles tin cậy vào hai tiểu
đoàn trưởng quân dù của ông là Bigeard và Bréchignac. Đó là hai sĩ quan chỉ huy hai đơn vị thiện
chiến có hiệu xuất tác chiến như nhau dù phong cách khác nhau.
Tướng Gilles lúc này mới quay đầu về phía tướng Bodet. Tướng Bodet vẫn đang tiếp
tục nhìn đồng hồ. Đã 6 giờ 52 phút. Phó tổng tư lệnh Bodet nói với tướng Dechaux, tư lệnh lực
lượng không quân chiến thuật miền Bắc Đông Dương:
- Phát lệnh theo quy định! Chúng ta bắt đầu cuộc hành quân Castor.

Cuộc hành trình

Số phận cuộc hành quân bắt đầu lúc 7 giờ sáng ngày 20-11-1953. Nhưng lúc đó, mọi
người vẫn chưa biết rõ vận mệnh cuộc nhảy dù sẽ ra sao. Bất kể tầm quan trọng như thế nào, kế
hoạch mang tên Castor, có nghĩa là con hải ly, vẫn là một kế hoạch tuyệt mật, được soạn thảo
trong phòng làm việc của tướng Navarre là Tổng tư lệnh, có trách nhiệm quân sự trên toàn bộ lãnh
thổ Đông Dương và kế hoạch này đã được chính phủ Pháp phê chuẩn trên tổng thể.
Tướng Navarre bắt đầu nhận nhiệm vụ Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Pháp ở
Đông Dương vào tháng 5 năm 1953, thay tướng Salan tới đây từ năm 1951 cùng với tướng De
Lattre. Khi vừa mới đặt chân tới Sài gòn, tướng Navarre đã phải nhanh chóng có một ý niệm cá
nhân về tình thế quân sự ở Đông Dương, những vấn đề ưu tiên cần thực hiện, những mục tiêu cần
đạt tới. Ông chỉ có một mình vì hầu hết các tư lệnh chiến trường và toàn bộ các sĩ quan tham mưu,
phần lớn các chỉ huy phân khu hoặc các binh đoàn đều đã hết nhiệm kỳ phục vụ, đang trở về
Pháp. Trong tổng hành dinh, các ghế chỉ huy đều trống vắng.
Một mình tướng Navarre phải tự tìm hiểu, tự tổ chức, tự quyết định mọi việc.
Lúc này, cuộc chiến tranh Đông Dương đã bước vào năm thứ tám. So với hồi đầu, Việt
Minh đã hoàn toàn thay đổi. Việt Minh ngoài việc kiểm soát được nhiều vùng lãnh thổ, đã thực tế
không còn thuần tuý duy trì chiến tranh du kích mà đã có một quân đội chính quy theo kiểu “cổ
điển” được Liên Xô, Trung Quốc giúp đỡ trang bị, có những tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn chủ
lực, một lực lượng pháo binh, một hệ thống hậu cần đúng qui ước. Ngoài ra, Việt Minh còn áp
dụng một chiến lược hướng về giai đoạn tiến công, điểm tột cùng của mọi cuộc chiến tranh cách
mạng.
Từ năm 1951, tướng De Lattre và phó của ông là tướng Salan đã phải đương đầu chật
vật với tướng Giáp: tại Vĩnh Yên hồi tháng Giêng, tại dãy núi Đông Triều hồi tháng 3, trên sông
Đáy hồi tháng 5 và trong thung lũng Nghĩa Lộ vùng thượng du hồi cuối tháng 10.
Năm 1952 không thấy Việt Minh tiến đánh vùng đồng bằng như phía Pháp chờ đợi.
Ngược lại, dù thất bại trong cuộc tiến đánh Nà Sản, Việt Minh vẫn kiểm soát được khu vực nằm
giữa sông Hồng và biên giới Lào, thông qua Điện Biên Phủ là thủ phủ của người Thái đen, và cửa
ngõ của tất cả những đường mòn dẫn tới sông Mekong.
Sau đó ít lâu, đến tháng 5 năm 1953, Việt Minh lại mở hai cuộc tiến công, một trận
đánh về phía Luang Prabang, một trận đánh về phía Viêng Chăn. Do thiếu lương thực tiếp tế, các
sư đoàn Việt Minh đã quay trở lại nửa chừng.
Đối với Tổng tư lệnh Navrarre cũng như toàn cơ quan bộ tổng tham mưu, chiến dịch
Thu Đông sắp tới của Việt Minh chắc chắn sẽ là một cuộc tiến quân nữa xuống phía Nam, tiến
đánh các tuyến phòng ngự của Pháp rồi từ đó đánh thẳng lên Tây Nguyên, chỉ cách Sài gòn 180
kilômét. Cùng trong chiến dịch này, Việt Minh sẽ tiến đánh Lai Châu, thành luỹ cuối cùng của
Pháp ở khu vực Tây Bắc.
Cũng có thể phải tính đến một cuộc tiến công vào vùng đồng bằng Bắc Bộ, nhằm kiểm
soát dân chúng và thu lúa gạo dùng để nuôi hàng chục ngàn bộ đội đóng trong rừng không sản
xuất được lương thực.
Để đối phó với hai nguy cơ này, Bộ tổng chỉ huy quân đội Pháp không còn cách lựa
chọn nào khác: hoặc là chuẩn bị thụ động đỡ đòn, như tướng Salan đã từng làm và đã từng bị phê
phán; hoặc là cố giành chủ động tiến công trước để cản phá những dự định của Việt Minh và buộc
tướng Giáp phải chấp nhận giao tranh trên một chiến trường không chuẩn bị sẵn và có thể bị thua.
Đó là dự định của tướng Navarre.
Cản phá tướng Giáp là chuyện dễ dàng, ít nhất cũng trên lý thuyết, vì tướng Navarre đã
phán đoán được thời điểm và đường tiến quân của tướng Giáp về phía biên giới Lào.
Thật vậy. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 8 sẽ ngăn cản việc vận chuyển bằng xe tải trên
các đường núi, và dù có tất cả một lực lượng công binh, tướng Giáp cũng không thể làm gì được
để chống lại địa lý thiên nhiên. Ở đây, địa hình là chủ soái.
Đi từ sông Hồng tới sông Mekong chỉ có hai con đường bộ có thể sử dụng cho xe cộ. Ở
phía Nam, đó là con đường đi qua Mộc Châu, vượt sông Đà ở Tạ Khoa, ngược lên Sầm Nưa và
Cánh đồng Chum để tiến về Viêng Chăn. Ở phía Bắc, đó là con đường đi qua Nghĩa Lộ, Sơn La,
theo quốc lộ 41 qua Điện Biên Phủ để tiến về Luang Prabang.
Kế hoạch do Tổng tư lệnh mới là tướng Navarre soạn thảo còn ôm ấp những tham vọng
lớn hơn. Đó là, bám chân lại tại một vùng đất mà Việt Minh đã kiểm soát từ năm 1947 nằm trên
dải đất ven biển giữa đường đi từ Bắc vào Nam, từ Hà Nội đến Sài gòn.
Chiến dịch đánh chiếm khu vực này được đặt tên mật là Atlante, cần thiết phải huy
động phần lớn nhất các phương tiện chiến tranh hiện có. Nhất định, việc đánh chiếm vùng Việt
Minh gọi là Liên khu 5 sẽ buộc tướng Giáp phải giữ lại các sư đoàn 304 và 320 đã chuẩn bị sẵn
sàng tiến vào vùng đồng bằng Bắc Bộ để hướng về miền Nam, giữa vùng núi và ven biển.
Chỉ còn lại một việc nữa là cản đường Việt Minh tiến sang Lào. Từ tháng 1 năm 1953,
trong chỉ thị mật số 40, tướng Salan lúc đó là Tổng tư lệnh đã viết “Việc chiếm đóng Điện Biên
Phủ phải được tiến hành trong thời gian tới, coi như giai đoạn đầu trong việc kiểm soát toàn bộ xứ
Thái và loại bỏ hết Việt Minh trên lãnh thổ miền Tây sông Đà”.
Đại tá Berteil thay tướng Gilles chỉ huy tập đoàn cứ điểm Nà Sản hồi đó đã trở thành
một người tán thành vô điều kiện việc xây dựng các tập đoàn cứ điểm phòng ngự kiểu “con
nhím”, tích cực hưởng ứng chỉ thị nói trên của tướng Salan. Sau đó, ông đã được cử làm trưởng
ban tác chiến tại Tổng hành dinh, cơ quan tham mưu tối cao đặt trụ sở tại Sài gòn.
Luận điểm của Berteil không thiếu lý lẽ chính đáng: Điện Biên Phủ có đầy đủ yếu tố
nhằm hoàn thành ba nhiệm vụ được giao phó. Đó là: cản đường Việt Minh tiến sang Lào; xây
dựng căn cứ biệt kích chống cộng sản đang phát triển dần tại thung lũng thượng nguồn sông Hồng
(như căn cứ biệt kích Cardamone) tới quốc lộ 41 và đến tận sông Mã (như các căn cứ Calamar,
Colibri, Aiglon) và cả trong khu vực Lai Châu (như căn cứ Pamplemousse)…; cuối cùng tạo thành
một bàn đạp xuất phát tầm trung bình đánh vào các tuyến giao thông của địch.
Đại tá Berteil cũng như đại tướng Navarre đều không có ý niệm xây dựng Điện Biên
Phủ thành một tập đoàn cứ điểm nặng nề phục vụ cho những đơn vị lớn (để rồi trở thành một cái
vực sâu thu hút các tiểu đoàn), mà ngược lại, chỉ muốn xây dựng Điện Biên Phủ thành một căn cứ
phòng ngự nhẹ nhàng thay cho Lai Châu nằm ở một vị trí đã bị nhận xét là không thể giữ vững
được khi xảy ra một cuộc tiến công lớn của Việt Minh.
Hơn nữa đối với những cư dân sống tại những thung lũng thượng nguồn sông Đà của
Việt Nam qua Lào tới tận Thái Lan, Điện Biên Phủ sẽ là thủ đô của xứ Thái, biểu tượng của các
dân tộc Thái.
Tên thật của Điện Biên Phủ được gọi là Mường Thanh, một bản làng to lớn với những
nhà sàn mái tranh dựng trên cột gỗ, nằm giữa một thung lũng lớn có những đồn ruộng sản xuất ra
một loại gạo ngon nhất miền Bắc Đông Dương. Được che chở bởi những ngọn núi hình thành từ
những đợt chấn động đã tạo ra dãy Himalaya, Mường Thanh là một khu biệt lập từ nhiều thế kỷ đã
được các dân tộc Thái coi như một thiên đường, một cái nôi của chủng tộc tách biệt với những
biến động bên ngoài.
Năm 1870, khi bọn giặc từ dãy Thập vạn đại sơn ở Vân Nam tràn xuống uy hiếp
Mường Thanh, vua Thái là Đèo Văn Tri đã khẩn cầu Pháp giúp đỡ và đã ký với Auguste Pavie
một hiệp ước chấp nhận sự bảo hộ của Pháp đối với xứ Thái. Mường Thanh trở thành một trung
tâm cai trị của chính quyền Pháp từ năm 1880 và sau đó đã bị đổi tên thành Điện Biên Phủ, có
nghĩa là một “huyện lỵ ở biên giới”.
Trong vòng hơn 60 năm, các cư dân Điện Biên Phủ sống trong hoàn cảnh bình dị,
không có chuyện gì đặc biệt. Địa điểm này đúng là một thị trường giao lưu kinh tế trong vùng.
Đến ngày phiên chợ, người Mông rời làng xóm cheo leo trên những tầng mây, xuống núi đến Điện
Biên Phủ, đem thuốc phiện đổi lấy những thỏi bạc trắng. Người Dao có những mớ tóc bôi sáp
dính chặt với nhau như gắn si, tới đây mua muối đã được vận chuyển từ vùng ven biển châu thổ
theo con đường 41 xuyên rừng núi, tới Điện Biên Phủ.
Năm 1940, quân Nhật kéo tới, phá vỡ cảnh thanh bình của người Thái, bắt họ phải đi
phu xây dựng một đường băng cất cánh và hạ cánh cho máy bay. Chính tại sân bay dã chiến này
Nhật Bản đã cho máy bay chiến đấu ném bom Trung Quốc và giao chiến với máy bay Mỹ ở Vân
Nam.
Năm 1945, quân Nhật phải ra đi, quân Trung Quốc (của Tưởng Giới Thạch) lại kéo tới.
Rồi quân Pháp tới thay thế quân đội Tưởng Giới Thạch, lấy lại vị trí đã buộc phải rời bỏ.
Người Pháp dựng Đèo Văn Long lên làm tay sai, coi như một ông vua xứ Thái, bên
cạnh một viên quan cai trị người Pháp với một trung đội lính Senegal, làm nhiệm vụ canh gác.
Năm 1952 những đơn vị chủ lực đầu tiên của Việt Minh đặt chân tới Điện Biên Phủ.
Những người dân Thái hiểu rằng Điện Biên Phủ là một bộ phận không thể tách rời khỏi nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà, nhiều người đi theo tư tưởng mác-xít. Nhưng, cũng có những người lên
Lai Châu là nơi Đèo Văn Long vẫn đang ngự trị như một lãnh chúa của liên bang Thái. Một số
khác rút vào rừng chiến đấu chống Việt Minh dưới sự chỉ huy của Pháp.
Tháng 5 năm 1953, một chiếc máy bay Dakota đã hạ cánh xuống sân bay chở theo
khoảng 30 lính dù biệt kích người Thái đã được huấn luyện nhưng sau đó đã bị tiêu diệt.
Đối với tướng Navarre cũng như toàn ban tham mưu của ông, việc nhảy dù chiếm đóng
Điện Biên Phủ ngày 20-11-1953, chỉ là một hành động tất yếu nằm trong chiến lược đã hoạch
định. Đó là một cuộc hành quân phòng ngừa có tính chất chiến thuật dẫn đến những lợi thế tiếp
theo. Theo kế hoạch ban đầu, sau khi đã khôi phục lại sân bay, chỉ đưa lên vùng thượng du Tây
Bắc một lực lượng nhỏ gồm sáu hoặc bảy tiểu đoàn, trong đó phần lớn là từ Lai Châu sẽ rút về
trong những tuần tiếp theo. Đó là cuộc hành quân thứ hai mang tên Pollux.
Vẫn theo kế hoạch đã định, tướng Navarre dự tính trong bất cứ trường hợp nào, tổng số
lính Pháp chiếm đóng Điện Biên Phủ cũng không vượt quá 4% toàn bộ số quân lực lượng viễn
chinh Đông Dương. Với số lính này, người ta đã tin rằng có thể tiến hành các hoạt động quân sự
theo dự kiến, trên lãnh thổ tận cùng của bán đảo Đông Dương. Trong trường hợp bị uy hiếp mạnh,
cũng đã tính đến khả năng rút toàn bộ doanh trại Điện Biên Phủ sang Lào.
Rất rõ ràng, tất cả mọi tính toàn trên đây đều dựa trên ý định cơ bản, nhưng đã không
tính đến phản ứng của đối phương. Bởi vì, tướng Giáp không thể thờ ơ trước mưu đồ giành lại
quyền chủ động tiến công của Pháp. Hơn nữa, tướng Giáp vẫn đang nuôi ý định tiến quân đến tận
sông Mekong. Việc nắm giữ Điện Biên Phủ trong tay là rất cần vì địa điểm này nằm trên đường
tiến, ngoài ra không còn đường nào khác trừ việc phải bạt núi hoặc nấp thung lũng.

Bãi nhảy dù Natacha

20-11-1953
- Đứng dậy! Kiểm tra trang bị!
Từng nửa tiểu đội gồm mười hai người, các lính dù xiết chặt hành trang, cầm chắc vũ
khí. Hầu hết mọi người, ngoài trang bị cá nhân, còn phải mang thêm những bộ phận súng cối 81
hoặc 60, các thùng đạn súng máy hoặc đạn pháo. Với dáng điệu vụng về, người nọ va vấp đụng
phải người kia, họ lầu bầu văng tục và chửi rủa cả tấm ván sàn bấp bênh có thể làm cho họ nhảy
vọt ra cửa máy bay thiếu chính xác.
Đợt đầu cuộc hành quân Castor gồm 65 máy bay Dakota đã bay tới đoạn chót sau khi
vượt qua đỉnh đèo Mèo, thung lũng Tuần Giáo chìm ngập trong sương, từ trên đường 41 lượn một
vòng rộng tới trục nhảy trên cánh đồng Điện Biên Phủ rồi bay thẳng thành một vệt dài theo hướng
Nam Bắc.
Tốp đi trước gồm 33 máy bay, dưới sự chỉ huy của thiếu tá Fourcaut, mật danh là “Ông
Sếp Vàng” có nhiệm vụ thả dù xuống bãi nhảy mang tên Natacha ở phía Tây Bắc bản Kéo. Tiểu
đoàn dù thuộc địa số 6 do Bigeard chỉ huy, có thêm một đại đội công binh làm nhiệm vụ sửa sang
ngay sân bay sau khi nhảy xuống đất.
Tốp thứ hai gồm 32 chiếc DC-3 dưới sự chỉ huy của thiếu tá Martinet, được gọi trong
điện thoại vô tuyến là “Ông Sếp Đỏ”, thả dù xuống bãi mang tên Simone cách trung tâm Điện
Biên Phủ 4 kilômét về phía Nam.
Trong khoang máy bay rất lạnh. Do cửa mở nên gió từ ngoài lùa vào rất buốt giá.
Nhiều lính dù đã phải mặc thêm tới hai chiếc áo len dưới lớp áo nhảy dù mà vẫn thấy lạnh. Một số
lính khác mặc lót bên trong bằng bộ đồ nịt thể thao. Một số nữa như trung đội trưởng Allaire chỉ
đơn giản giữ lại bộ đồ ngủ bên trong bộ quần áo nhảy dù.
Phía chân trời lúc này đã hoàn toàn tan sương. Trên vòm trời nhẹ, mặt trời đã chiếu
sáng. Nhìn xuống phía dưới những đống rơm rạ sau vụ gặt đang điểm những đốm vàng trên đồng
ruộng. Đây đó, từ những mái nhà sàn, những cột khói nhẹ, bốc thẳng lên cao, chứng tỏ không có
gió trên mặt đất.
Mặc dù cách xa nhau hàng mấy cây số theo đội hình trải dài của máy bay, Bigeard và
Bréchignac cùng nhìn đồng hồ khi chuẩn bị nhảy: 10 giờ 35 phút!
Bréchignac hét vào tai phó của mình là trung uý Abadie:
- Chậm mất năm phút rồi!
Tiếng động cơ lọt qua cửa mở kêu ầm ĩ. Hai sĩ quan phải gào thét vào tai nhau mới
nghe rõ:
- Dưới đất đông người lắm, thưa thiếu tá!
Bréchignac cúi xuống nhìn. Dưới cánh máy bay hiện rõ những bóng người trên đồng
ruộng, Bréchigac trả lới Abeide:
- Đó là dân thường. Không thấy mang vũ khí!
Liếc nhìn điểm báo trong máy bay, Bréchignac ngạc nhiên khi thấy vẫn để đèn đỏ,
đáng lẽ phải bật đèn xanh để nhảy từ sáu phút rồi. Nhìn xuống dưới, cũng không thấy những đặc
điểm của bãi nhảy dù như đã ghi trong những tấm ảnh chụp từ trên không. Abadie hỏi:
- Ta đang ở đâu thế này?
Bréchignac nhún vai tỏ ý không biết. Trong đầu thiếu tá vụt lên những nỗi lo sợ từ đêm
trước. Khi được phổ biến là máy bay sẽ chỉ bay một lượt để có thể thả xuống toàn bộ tiểu đoàn dù,
Bréchignac đã lưu ý các phi công những rủi ro của sự tản mát khi toàn bộ số lính dù tiếp đất. Ông
đã hỏi:
- Lúc thả dù các anh bay theo tốc độ nào?
- Không dưới 170 kilômét một giờ.
Một bài toán cấp tốc. Một đội 24 lính dù đã tốt nghiệp cũng phải mất từ một phút rưỡi
đến hai phút mới nhảy hết ra khỏi máy bay. Trong thời gian hai phút đó, máy bay đã bay được một
đoạn đường dài tới ba kilômét.
“Như vậy là toàn tiểu đoàn sẽ tiếp đất từ năm đến sáu kilômét từ người đầu đến người
cuối”. Bréchignac kết luận như vậy. Hơn nữa nếu máy bay lại thả không đúng chỗ thì …
- Nhảy!
Một tiếng hô vang qua loa phóng thanh.
Đối với Bréchignac, thời điểm của mọi vấn đề đã đến. Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2
thuộc trung đoàn nhảy dù thuộc địa số 1 lao ra khỏi cửa máy bay, nhảy vào khoảng không. Theo
gót ông là tiểu đoàn dù. Ông cũng chỉ là một người lính chiến như toàn đơn vị.
Ngay khi tiếp đất, Bréchignac nhận rõ ngay, những điều ông lo sợ hôm nọ là đúng.
Không chỉ toàn bộ tiểu đoàn của ông rơi khắp mọi phía mà chỉ đảo mắt nhìn ông cũng đã biết
ngay các phi công đã thả dù chệch mục tiêu, cách bãi đáp những hai kilômét về phía Nam.
Trong lúc này, cách Bréchignac tới 10 kilômét, Bigeard và tiểu đoàn dù thuộc địa số 6
cũng đang lủng lẳng trên cao, dưới những sợi dây dù. Họ cũng nhìn thấy những bóng người dưới
đất đang chạy ùa về phía họ. Nhưng đó không phải là dân làng chạy đi tìm nơi trú ẩn mà là bộ đội
Việt Minh đang đón đánh!
Bigeard cau mặt. Ở Hà Nội, ông được ban tham mưu cho biết tại địa điểm nhảy dù chỉ
có khoảng hai đại đội bộ binh cùng với một đại đội súng cối. Nhưng giờ đây có vẻ như đông hơn.
Do một sự trùng hợp bất hạnh, hình như bộ đội Việt Minh đang tập đánh quân nhảy dù, đúng vào
lúc lính dù của Bréchignac đang rơi xuống.
Để “đón tiếp” 651 lính dù của Bigeard và 52 lính công binh đi theo, hình như Việt
Minh cũng có một số quân tương ứng và có hoả lực súng cối trội hơn. Hơn nữa, Việt Minh còn có
lợi thế là ở sẵn dưới đất, tập trung, sẵn sàng giao chiến, trong khi lính dù rất dễ bị nhằm bắn khi
đang rơi lẻ loi từng người, nặng trĩu các hành trang, thiết bị, xe cộ, vũ khí nặng hãy còn đóng gói,
nhảy xuống một bãi đất không rõ địa hình. Ngay khi vừa lao ra khỏi cửa máy bay, họ đã làm mồi
cho bộ đội Việt Minh nhằm bắn. Từ tất cả những bụi cây, những hàng rào, các luồng đạn bắn lên
trời nhằm vào những lính dù đang treo lơ lửng và tiểu đoàn dù số 6 của Bigeard đã bị thương vong
ngay trước khi có thể bắn lại. Đại uý quân y Raymond bị bắn chết ngay trong khi đang rơi và ngay
trong trận nhảy dù đầu tiên của đời ông.
Nếu khi còn ngồi trong máy bay, các binh sĩ dù của tiểu đoàn số 6 còn có ảo tưởng về
tính chất dễ dàng của cuộc hành quân Castor thì đã vỡ mộng ngay sau khi kết thúc cuộc hành trình
trên không và càng lo sợ sau khi vừa mới chạm đất.
Bãi nhảy mang tên Natacha là một cánh đồng có nhiều ruộng cũ bỏ hoang, phủ đầy cỏ
dày cao tới 2 mét, thường gọi là cỏ voi. Những lính dù nhảy xuống trảng cỏ này bị ngập luôn
trong lớp cỏ như bị bịt mắt. Hơn nữa, họ lại rơi tản mát, toàn tiểu đoàn trải dài tới gần 6 kilômét.
Đại đội 4 của trung uý De Wilde rơi lạc về phía Bắc tới chân một quả đồi cây cối rậm rạp hình quả
trám, được binh lính đặt luôn cho cái tên là “Ngư lôi” (Sau này Pháp xây dựng tại đây cụm cứ
điểm Gabrielle) trong khi đại đội 1 của Le Page lại rơi xuống gần một bản làng. Đại đội 3 của
trung uý Magnillat nhảy xuống gần đường băng sân bay cũ. Đại đội 2 của Trapp nhảy xuống khu
đất giữa nhánh sông của Nậm Rốm và quả đồi Alpha của Bản Kéo (Sau này trở thành cụm cứ
điểm Anne Marie). Những binh sĩ trong cơ quan tiểu đoàn bộ rơi xuống lưu vực sông Nậm Luang
ở phía Tây bãi thả các vật liệu mang tên Octavie.
Bộ đội Việt Minh có mặt khắp mọi nơi. Những tốp bộ đội bị lính dù tách khỏi ban chỉ
huy vẫn tự động chiến đấu bắn lại những lính dù chưa kịp gỡ dù. Một lính dù ngồi trên chiếc xe
vừa được thả xuống lái vào một bản gần bãi nhảy, gặp luôn một bộ đội (từ “bộ đội” được viết theo
tiếng Việt trong nguyên bản) Việt Minh đang nấp sau khung cửi. Các binh lính Việt Minh chưa rút
khỏi làng tạo thành một hàng rào bảo vệ ở phía ngoài, có vẻ như để cơ quan chỉ huy bên trong kịp
rút lui an toàn.
Trong nhiều giờ đầu đã xảy ra một loạt những cuộc giao tranh nhỏ nhưng cực kỳ dữ
dội, lính dù đã phải hết sức chiến đấu để tránh khỏi bị tiêu diệt.
Dần dần, qua nhiều hành động tác chiến, các đơn vị dù đã bắt được liên lạc với nhau.
Bigeard hét khản cổ qua máy vô tuyến để tập hợp các trung đội. Trước khi lên máy bay, đã qui
định sau khi chạm đất các đại đội sẽ đốt khói có màu sắc khác nhau để tập hợp đơn vị. Nhưng
ngay từ sân bay Bạch Mai, những ống khói này đã bị xếp lẫn lộn, cho nên binh lính bị lạc lung
tung, chạy đến tập hợp tại đơn vị mình lại nhầm sang đơn vị bạn.
Các lính dù đã phải nổ súng liên lạc từ bụi cây này sang bụi cây khác, từ bờ đê nọ đến
bờ đê kia, trong một cuộc giao tranh hỗn loạn không thể nào giữ được kế hoạch đã định. Bộ đội
Việt Minh lẩn cả vào trong tiểu đội sục sạo mũi nhọn của trung sĩ Gaillard thuộc đại đội 1. Nhiều
lính Việt choàng luôn mảnh vải dù loang lổ vừa nhặt được lên người để trà trộn.
11 giờ 35 phút, Gaillard bị một viên đạn bắn trúng giữa trán. Nhận được tin này,
Bigeard đã gục đầu chán nản vì Gaillard là một trong những người lính cũ thân cận của Bigeard.
Ở mặt Bắc, Trapp và đại đội 2 đã thiết lập được vị trí tại rìa Bản Kéo đối diện với
những dãy đồi Alpha. Nhưng ngay sau đó đã bị trọng liên địch bắn tạt sườn. Phía sau là những
tiểu tổ đang tìm cách cắt rời đơn vị của Trapp với toàn tiểu đoàn. Đơn vị Trapp đã bị một số
thương vong. Peressin phụ trách điện đài, bị trúng đạn vớ ngực. Đại đội 2 dù đã tập hợp được vẫn
ở trong tình thế nguy hiểm mà tiểu đoàn trưởng Bigeard không có cách nào cứu ứng được vì toàn
bộ hoả lực nặng của tiểu đoàn đã thả dù lạc sang bãi Simone cách xa 6 kilômét về phía Nam. Ông
phải gọi điện cho Allaire:
- Allaire, bắn mạnh yểm trợ cho Trapp ở rìa dãy đối Alpha.
Allaire cau mặt. Ông chỉ còn có 3 quả đạn pháo.
Ngày 20 tháng 11 năm 1953 là một ngày đen đủi đối với lính dù. Nếu tiểu đoàn của
Bréchignac được thả đúng bãi nhảy và nếu toàn bộ tiểu đoàn 1 tập hợp được nhanh chóng thì đã
có thể bao vây tiêu diệt được cơ quan chỉ huy mà quân báo Pháp cho là một sở chỉ huy trung đoàn
của Việt Minh.
Đã 12 giờ rưỡi trưa. Lính dù đã nhảy xuống thung lũng được đúng 2 tiếng đồng hồ. Le
Page dẫn đầu đại đội 1 bắt đầu sục vào trong làng, có đại đội 3 của Magnillat tiếp ứng. Quân Việt
chia thành từng nhóm nhỏ, rút ra ngoài.
Ở mặt Bắc, cuối cùng thì Trapp cũng đã thoát khỏi tình thế nguy hiểm sau khi được đội
biệt kích số 3 do trung uý Samalens tới ứng cứu. Samalens mới tới tiểu đoàn sáng sớm hôm nay,
nhưng đã chiến đấu như một cựu binh. Đội biệt kích của ông gồm khoảng 20 lính xứ Bắc kỳ
người nhỏ nhắn nhưng rắn rỏi đã chạy xuyên rừng kịp thời tới cứu viện cho đơn vị dù của Trapp
và lúc này Trapp đã làm chủ trận địa.
Còn trung uý De Wilde thì đang tức sùi bọt mép. Đơn vị ông rơi quá xa nơi xảy ra
chiến sự. Ông chỉ còn biết nghe qua máy vô tuyến những báo cáo của các đơn vị bạn một cách
nuối tiếc.
Bigeard đã gặp Le Page. Ông đặt sở chỉ huy tiểu đoàn trong ngôi nhà đầu tiên của
người Thái ngay lối vào thung lũng Điện Biên Phủ. Các máy vô tuyến đã được đặt tại nơi làm
việc. Cần ăng-ten đã giương cao. Binh lính, kể cả lính văn phòng, hối hả đào công sự chiến đấu.
Le Page đứng tách riêng ra một chỗ kiểm điểm quân số. Sáu người chết, trong đó có 2
hạ sĩ quan là Gaillard và Martelino. Mười một người bị thương trong đó có trung sĩ Le Goail bị
đạn xuyên qua phổi.
Ở phía Nam, ngay sau khi tập hợp xong, tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn dù thuộc địa số 1
do Bréchignac chỉ huy lập tức đi dọc theo bờ trái sông Nậm Rốm ngược về phía trung tâm Điện
Biên Phủ. Cuộc tiến quân gặp trở ngại vì còn phải bảo vệ cho cơ quan chỉ huy của binh đoàn đổ
bộ đường không cùng nhảy dù với đơn vị. Trung tá Fourcade cầm đầu cơ quan chỉ huy đã nhảy dù
xuống trước như một trinh sát viên mũi nhọn, bất chấp nguy hiểm, để được cùng chiến đấu với
tiểu đoàn 6 của Bigeard. Khi Fourcade tới vị trí chỉ huy của Bigeard ông đã không được tiếp đón
nồng nhiệt lắm vì Bigeard đang rối bận vì những biến đổi xáo trộn trong các đại đội thuộc tiểu
đoàn của mình.
Một lát sau, Bréchiganc cũng tới Điện Biên Phủ. Ông nhận được nhiệm vụ phải cho
quân lùng sục, càn quét những dãy đồi phía Đông rồi thiết lập sở chỉ huy phòng ngự tại một pháo
đài đã đổ nát, do Pháp xây dựng từ lâu, trên quả đồi sau này được gọi là Éliane 2 (đồi A1).
Đầu giờ chiều, có thêm một tiểu đoàn dù thứ ba nhảy xuống thung lũng. Đó là tiểu
đoàn dù thuộc địa số 1 do thiếu tá Souquet chỉ huy, có số quân lên tới 711 binh lính, là tiểu đoàn
đông quân nhất trong cuộc hành quân Castor.
Tới chập tối 20 tháng 11 đã có tới 2.650 binh sĩ nhảy dù xuống Điện Biên Phủ tạo
thành một vành đai bao quanh bản làng, ở rải rác cả hai bên bờ sông Nậm Rốm. Bigeard và tiểu
đoàn dù thuộc địa số 6 đóng ở mặt Tây và Nam. Bréchignac và tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn dù
thuộc địa số 1 đóng ở dãy đồi phía Đông. Tiểu đoàn 1 của Souquet đóng ở bờ sông, có nhiệm vụ
bảo vệ mặt Bắc.
Vòm trời phủ kín mây báo hiệu sương mù dày đặc trong đêm. Mặt trời vừa lặn ít lâu,
hàn thử biểu đã xuống thấp tới 5 oC. Lính dù cuộn tròn trong vải bạt và vải ni-lông, tránh hơi ẩm
bốc lên từ mặt đất. Rất ít có lửa sưởi., trừ trong nhà sàn nơi đặt sở chỉ huy.
Một sự im lặng tràn ngập, nhưng thỉnh thoảng vẫn bị phá vỡ bởi những tiếng nói từ các
điện đài báo cáo tình hình với Hà Nội. Các sĩ quan đọc các báo cáo cho thư ký chép để chuyển về
Bộ tư lệnh Bắc Bộ của Cogny tại Hà Nội. Thống kê số thiệt hại sơ bộ:
“Thương vong khi đang nhảy:
Tiểu đoàn 6: 1 chết, 11 bị thương
Đại đội công binh: 2 bị thương.
Thương vong chiến đấu:
Tiểu đoàn 6: 10 chết, 31 bị thương
Đại đội công binh: 2 chết, 3 bị thương
Đơn vị pháo nhẹ: 2 chết.
Cơ quan binh đoàn đổ bộ đường không: 1 chết
Các phương tiện bị thiệt hại:

Những đốm lửa đã tắt. Làng bản chìm ngập trong bóng đêm. Thỉnh thoảng lại vang lên
một tiếng súng bắn lẻ, một loạt súng bắn vội, tiếng hô của lính canh, tiếng giày đinh nện trên mặt
đê báo hiệu đội tuần tra đang trở về. Cuộc chiến đấu buổi sáng đã lùi vào dĩ vãng.

Ngày N+2
21-11-1953
Từ sáng sớm ngày 21 tháng 11 năm 1953, “con nhím” Điện Biên Phủ đã có hình dáng
một ổ kiến hoạt động năng nổ, nửa phần là lâm trường, nửa phần còn lại là đại hội thanh niên
hướng đạo sinh quốc tế. Những đội tuần tra, liên lạc, lao động linh tinh, nhặt dù rơi vãi… tất cả
như một vũ khúc khó hiểu đổi với một khán giả mới đến. Vậy mà mỗi cử chỉ đều mang một ý
nghĩa riêng, hoà trong hoạt động chung. Bầu không khí nhộn nhịp ở đây trong lúc này chưa mang
đến tính chất dữ dội của chiến tranh. Những binh lính mới chỉ đang lao động, đào đất, chặt cây
hoặc đi dạo. Hôm trước bị phân tán lẻ loi trong cuộc nhảy dù, hôm nay họ đã lại gặp nhau bên
đường băng sân bay, chung quanh một cái nhà, bắt đầu kể lại cho nhay nghe những chuyện xảy ra
hôm trước và tranh cãi không ngừng về kế hoạch Castor trong nhà ăn.
Vài liên lạc viên phóng nhanh trên những chiếc xe đạp với vẻ quan trọng. Mỗi khi thấy
những chiếc xe máy được thả dù xuống hôm trước, dành riêng cho các sĩ quan, nổ máy ầm ỹ,
những người lính xe đạp vội nép vào một bên vì đường quá hẹp. Một số lính lê dương hoặc lính
dù cưỡi trên lưng những con ngựa thồ thấp lùn của người Thái, chân người cưỡi buông thõng sát
mặt đất.
Những bụi cây chung quanh làng đều bị đốt cháy, toả ra luồng hơi ấm của mùa thu.
Những đám dân phu phải làm công việc tạp dịch, đầm mình dưới lòng sông Nậm Rốm giặt giũ.
Đã có một số quần áo, vải vóc được phơi khô trên hàng rào cắm cọc tre.
Các vị trí đóng quân tuần tự được tổ chức. Những lính dù tin chắc sẽ phải đóng quân
dài ngày tại Điện Biên Phủ đang chuẩn bị đối phó với chuyện xấu nhất sẽ tới. Dưới cặp mắt xét
nét của các đại đội trưởng, các trung đội trưởng cẩn thận phân định điểm bắn cho các súng máy,
ấn định từng điểm cho binh lính đào hầm cá nhân. Các trung sĩ, hạ sĩ đi lại lăng xăng, đôn đốc
quát tháo đám binh nhì. Ở đây phải có cả uy lực lẫn kiên nhẫn mới có thể buộc đám lính dù có tập
quán hoạt động bay nhảy phải chôn chân trong hố. Ngay cả cung cách cầm cuốc xẻng như thế nào
cũng phải mắng mỏ dạy dỗ đám lính dù.
Mặc dù vậy, đám lính bắt buộc phải đào đất này vẫn rình mọi cơ hội để ngừng tay,
không chịu làm liên tục công việc của những con chuột chũi. Họ ngẩng mặt, vểnh mũi lên trời,
nhìn tiểu đoàn thứ tư đang nhảy xuống thung lũng. Đó là tiểu đoàn dù lê dương số 1.
Đã 10 giờ sáng.
Ở đầu bên kia làng, về phía Tây là bãi mang tên Octavie, lính của tiểu đoàn dù thuộc
địa số 6 đang làm công việc lao công là nhặt những kiện hàng vừa thả dù xuống. Một số làm công
việc đo đạc, ấn định chu vi dành cho nghĩa địa chôn cất những binh lính tử trận nhiều tại Điện
Biên Phủ. Bigeard đã quyết định dành cho binh sĩ bị chết trong cuộc đánh chiếm Điện Biên Phủ
bằng cách cho cắm một cột cờ ở chính giữa nghĩa địa này.
Vừa mới chạm đất, trung sĩ Zurell thuộc tiểu đoàn dù lê dương số 1 chưa kịp tháo bỏ
dù, mới chỉ đảo mắt nhìn quang cảnh đã nói:
- Tớ không ưa mảnh đất này. Đúng đó! Tớ không hề yêu thích chỗ này chút nào.
Tất cả những gì Zurell vừa nhìn thấy trên nghĩa địa như một điềm xấu báo hiệu trước
cho mình những chuyện chẳng lành. Mảnh đấy bẩn thỉu có những bụi cây hình như đang gặm
nhấm những đám ruộng hoang hoá như đang nhiễm bệnh, những dãy núi đen xạm, thù địch vẫn
còn vương vấn chút ít sương mù buổi sáng. Làn sương như bị xé rách khi có 675 lính dù lê dương
do Guiraud chỉ huy từ 34 chiếc máy bay Dakota nhảy xuống. Zurell quả là đã phải chịu đựng một
cách khốn khổ cảnh tượng xảy ra trên góc tận cùng của thế giới này.
Trung sĩ trưởng Romangin vỗ vai Zurell, cười nói:
- Rồi cậu cũng cố phải vượt qua thôi!
- Tất nhiên tôi sẽ cố vượt qua. Nhưng tôi vẫn thích hơn khi được ra khỏi nơi này.
Rồi Zurell cúi đầu, lặng lẽ suy nghĩ. Nếu anh có tài đánh hơi, chắc anh đã nhớ đến một
kinh nghiệm cũ không nên lặp lại ở đây. Đó là hồi tháng 10 năm 1950. Lúc đó Zurell là hạ sĩ của
chính tiểu đoàn dù lê dương số 1. Cũng một buổi sáng như thế này, Zurell đã nhảy xuống một dải
đất cũng giống nơi đây, có núi đồi rậm rạp vây quanh, để “hỗ trợ” cho một binh đoàn cơ động
đang gặp khó khăn ở Thất Khê trên đường 4.
Ba tuần sau, cái tiểu đoàn dù lê dương số 1 này đã bị xoá sổ. Cũng không còn cả cái
“binh đoàn cơ động” của Le Page, của Charton, bị chìm ngập trong thác lũ của bộ đội Việt Minh.
Zurell bị thương nằm ở ven rừng đã được Việt Minh đưa về trại tù binh và ba tuần sau
được Việt Minh trao trả cho Pháp. Lúc này, Zurell đang hấp hối nhưng anh cố sống. Anh được hồi
hương, được về Algerie, được bình phục và đã thề không trở lại Đông Dương nữa. Nhưng bây giờ
lại phải nhảy dù xuống Điện Biên Phủ.
Zurell nói tiếp:
- Ngay khi vừa mới đặt chân tới mảnh đất như thế này, việc trước tiên của tôi là tìm lối
ra. Nước Lào có xa đây không?
Đại đội 4 của Zurell đã tập trung ở rìa bãi nhảy chờ lệnh. Đại đội trưởng Cabiro đứng ở
đầu hàng quân, nói chuyện với Martin, chỉ huy đại đội 3 xếp hàng ở bên cạnh. Cạnh hai chỉ huy,
đám lính dù lê dương suy nghĩ miên man. Họ chẳng tò mò nhìn ngắm cái gì cả. Họ chỉ mong
nhanh chóng có chỗ nghỉ, tháo bỏ cái ba-lô, căng lều bạt và cầm chắc cán xẻng, cán cuốc…
Thiếu tá Guiraud cùng toàn ban chỉ huy đi vào làng nhận huấn thị của cấp trên và dự
cuộc giao ban của các tiểu đoàn trưởng. Dọc đường đi, Guiraud giơ tay chào những gương mặt
thân quen. Trong các binh chủng dù, tiểu đoàn dù lê dương số 1, gọi tắt là BEP được yêu thích
nhất. Đây là một đơn vị thiện chiến đã lê gót ủng nhảy dù tới bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Đông
Dương, khi cần đến một lực lượng xung kích. Nếu trong đơn vị dù thuộc địa của Bigeard, người ta
chú trọng đến tầm vóc, đến phong cách và nếu trong đơn vị dù xung kích của Bréchignac chú
trọng đến sự vững vàng, đến tính cụ thể, thì đơn vị dù lê dương của Guiraud tất cả những truyền
thống của lính dù lê dương được kết hợp nhuần nhuyễn với đặc tính của lính dù. Đó là: một chút
khinh thường với cái chết, trộn lẫn với một chút thèm khát cuộc sống.
Thiếu tướng Gilles chỉ huy toàn bộ lực lượng dù đã cùng nhảy dù xuống Điện Biên Phủ
cùng với tiểu đoàn dù lê dương (BEP) trong cuộc hành quân Castor. Cũng như mọi binh nhì, ông
đã tự mình xếp dù, buộc dù trên lưng, cho tới khi tập hợp. Chỉ đến lúc này ông mới trở lại cương
vị cấp tướng chỉ huy, giữ một bàn làm việc trong trụ sở chỉ huy của đại tá Fourcade, là nơi có cả
Langlais chỉ huy binh đoàn đổ bộ đường không số 2. Lúc này Langlais đang càu nhàu vì bị sai
khớp mắt cá chân khi chạm đất và không muốn nằm yên một chỗ trong lúc toàn binh đoàn đang
hoạt động chiến đấu.
Lực lượng dù tác chiến của tướng Gilles gồm có: binh đoàn đổ bộ đường không số 1 do
Fourcade chỉ huy, trong đó có tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 của Bigeard; tiểu đoàn dù thuộc địa số 1
của Souquet; tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn dù số 1 của Bréchignac; binh đoàn đổ bộ đường không
số 2 của Langlais, trong đó có tiểu đoàn dù lê dương số 1 của Guiraud; tiểu đoàn dù thuộc địa số 8
của Tourret. Ngoài ra còn có lực lượng hoả lực hỗ trợ gồm trung đoàn pháo nhẹ đổ bộ đường
không số 35, đại đội cối, các đơn vị công binh và một bệnh viện phẫu thuật dã chiến.
Lần lượt từng người một, các tiểu đoàn trưởng dự cuộc họp giao ban sáng 21 tháng 11
năm 1953 nhận mệnh lệnh của tướng Gilles. Ông nói với Guiraud:
- Anh đưa đơn vị tới các vị trí phòng ngự trên đồi A2, A3.
Guiraud nhìn bản đồ địa hình. Đây mới chỉ là một bản vẽ rất sơ lược, do ban tham mưu
của tướng Gilles thể hiện, căn cứ vào những bản đồ cũ tỷ lệ 1/100.000 của toàn vùng và những
tấm ảnh chụp từ trên không.
Cho mãi tới khi kết thúc chiến dịch, vẫn chưa bao giờ có được một bản đồ chính xác về
Điện Biên Phủ. Mãi đến tháng 4 năm 1954 sở địa chính của quân đội mới chỉ căn cứ vào những
tấm ảnh chụp từ máy bay, vẽ một bản đồ Điện Biên Phủ tỷ lệ 1/25.000 nhưng lính đóng giữ đã
không nhận được vì tấm bản đồ thả dù đã rơi lạc sang trận địa Việt Minh.
Những vị trí phòng ngự giao cho tiểu đoàn dù lê dương số 1 nằm ở những mỏm đồi
phía tây bắc Trung tâm, tạo thành hình lưỡi liềm, mũi nhọn nằm cách phía Bắc đường băng sân
bay 1200 mét. Lúc ấy những dãy đồi này mới chỉ được gọi là cụm Alpha, vài tuần sau mới mang
tên Anne Marie.
- Này, mày ngủ đây à? Fattori!
- Khô… ô… ng!
Fattori vừa mới mở được một mắt, đã nhắm lại ngay. Anh có cảm giác như đang trải
qua một cơn ác mộng. Vừa mới hôm qua, anh còn thuộc quân số đại đội 2, tiểu đoàn dù lê dương
số 1. Vụt một cái, hạ sĩ Perrin và binh nhì Fattori bị chuyển sang một đơn vị mới thành lập để
phục vụ cho cuộc hành quân Castor. Đó là đại đội 1 súng cối nặng đổ bộ đường không lê dương,
gọi tắt là CEPMI gồm 8 khẩu cối 120 mm yểm trợ cho lính dù của tướng Gilles.
Fattori đã trải qua một đêm trắng trong một xứ sở không quen biết, giữa những người
bạn mới. Ngay khi vừa mới tới vị trí pháo binh ở Điện Biên Phủ, Fattori đã chui vào trong chiếc
hầm làm bằng những vỏ đạn pháo nhồi đất, bên trên căng một tấm vải bạt. Từ lúc đó, anh ngủ li
bì, cho tới khi bị đánh thức bởi những đợt pháo bắn chặn mà người chỉ huy của anh là Perrin ghi
thành một chuỗi danh sách.
Theo tập quán lâu đời của pháo binh Pháp, những đợt pháo ngăn chặn thường xếp theo
thứ tự A, B, C… và mang tên các loại hoa: Anémone, Bégonia, Capucine…
Fattori nói:
- Quả là những vần A, B, C… lạ lùng.
Perrin giải thích:
- Cậu chẳng biết gì cả. Gọi như thế để tránh nhầm lẫn. Không thể gọi đơn giản A, B,
C… cho tất cả các đơn vị, các cứ điểm, các phương tiện. Vì như vậy sẽ có tiểu đoàn bộ binh
Alpha, quả đồi Alpha, máy bay Alpha… cả một mớ hỗn loạn. Vì vậy phải lấy tên các loài hoa vần
A, B, C… để dễ gọi các đợt bắn pháo.
- Tại sao không lấy tên con gái?
Fattori cố hỏi lại một câu nữa rồi lại chìm đắm trong giấc ngủ.
- Ồ! Fattori, dậy đi!
Fattori đành phải vừa ngáp, vừa đứng lên. Trong ánh sáng của ngọn đèn pin được nối
vào hai sợi dây đồng với cục pin trong đồn, Fattori đã nhìn thấy gương mặt láu lỉnh của Perrin. Hạ
sĩ đang cắm dây điện nối liền với đài thu thanh, nghe bài hát phát đi từ đài Con nhạn của Quân đội
Pháp tại Hà Nội. Fattori hỏi:
- Này, hạ sĩ! Anh nghe đài Hà Nội đấy à? Sao bảo cấm nghe…
- Mày làm gì kệ mày - Perrin trả lời - Nhưng bây giờ đến lượt mày gác.
Nói xong, Perrin chui vào trong chiếc chăn kaki, nằm ngủ.
Suốt dọc sân bay đã đào hầm hố gần đường băng, những lính dù thuộc đại đội 4 trong
tiểu đoàn của Bigeard cũng đã chui vào đống vải dù và đang ngủ. Ở phía trước, những lính canh
đứng trên đê, đang im lìm quan sát bóng đêm trong khi đám lính nằm ngủ, thỉnh thoảng lại dùng
khuỷu tay thúc vào sườn đồng đội để tin rằng vẫn còn người bên cạnh. Nhiều khi, do thèm một
điếu thuốc, do kiến đốt, họ lại gãi chân, gãi tay, gãi gáy.
Trước mặt đám lính canh vẫn là con đường mang tên Pavie nối Điện Biên Phủ với Lai
Châu đang dần dần mất hút trong cây cối. Phía chân trời là những dãy đồi nhấp nhô như tường
thành, không thấy gì chứng tỏ có kẻ địch xuất hiện.
Thời gian cứ trôi, vô ích và trống rỗng.

Thung lũng của con hải ly (Castor)


Từ 21 tháng 11 đến 4 tháng 12
Sau khi toàn bộ tiểu đoàn dù số 8 đã chạm đất, đến lượt các máy bay vận tải thả dù các
kiện hàng. Những hòm lương thực, đạn dược, thiết bị quân sự buộc vào những chiếc dù có màu
sắc thích ứng với từng loại liên tiếp được thả xuống bãi mang tên Octaive.
Vào khoảng 4 giờ chiều, những tiếng động cơ ầm ĩ từ phía xa báo hiệu sự xuất hiện của
những máy bay vận tải hai động cơ. Đây là những máy bay vận tải lớn nhất của không quân Đông
Dương, loại C-119 mang tên Flying Boxcar do Mỹ chế tạo, có hình dáng một chiếc xì gà bằng
nhôm khổng lồ kẹp giữa hai thân máy bay nằm đối xứng. Hàng hoá được đưa lên hoặc thả xuống
qua một chiếc cửa hậu ở phía đuôi máy bay.
Máy bay đã tới trục thả dù, hơi ngóc đầu lên cao một chút để tạo đà cho việc trút hàng.
Từ đuôi máy bay, toàn bộ số hàng được hất xuống, rơi lơ lửng trên không, trong lúc chiếc máy bay
nhẹ bỗng có vẻ như bốc lên cao.
Một kiện hàng rất to được buộc vào bốn chiếc dù khổng lồ. Bốn chiếc dù này nở bung
như một chùm hoa. Nhưng rồi một chiếc đai buộc hàng bị đứt. Kiện hàng tụt khỏi những chiếc dù.
Đó là một chiếc xe ủi đất nặng tới 5 tấn rơi thẳng xuống mặt ruộng vì không còn dù đỡ, phát ra
một tiếng động như sấm rồi lún sâu dưới đất.
Hôm sau là ngày chủ nhật. Trời rất rét. Sương mù tan rất chậm. Vì vậy mãi đến giữa
trưa mới thực hiện được việc thả dù tiểu đoàn cuối cùng của cuộc hành quân Castor. Đó là tiểu
đoàn dù lính Việt số 5 của quân đội Bảo Đại.
Buổi tối, tướng Cogny, tư lệnh chiến trường Bắc Bộ, gửi điện báo cáo với Tổng tư lệnh
Navarre về kết quả cuộc hành quân.
Giai đoạn đầu chiếm đóng Điện Biên Phủ đã kết thúc. Tính tới hết ngày chủ nhật 22-
11-1953, có 4.560 lính dù tại thung lũng Điện Biên Phủ.
Ngày hôm đó, các tiểu đoàn đóng giữ Điện Biên Phủ bắt đầu bước vào giai đoạn hai,
tức là tổ chức những cuộc tiến quân thăm dò chung quanh vị trí chiếm đóng. Mới 4 giờ sáng ngày
23 tháng 11, tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 của Bigeard đã xuất phát về phía Đông Nam, nhằm lùng
sục địch ở khoảng giữa sông Nậm Rốm và Nậm Nưa cách Điện Biên Phủ 20 kilômét.
Bréchignac chỉ huy tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn dù thuộc địa số 1 cũng nhận được
nhiệm vụ tương tự nhưng theo một hướng khác. Ông phải mở cuộc hành quân thăm dò về phía
Bắc, theo đường Pavie đi Lai Châu.
Với những cuộc hành quân này, tướng Gilles muốn phát hiện những nơi đóng quân của
địch. Đồng thời, ông cũng muốn chuẩn bị cho kế hoạch tiếp theo cuộc hành quân Castor, tức là
đón đoàn quân từ Lai Châu rút xuống, rời bỏ pháo đài cuối cùng của Pháp ở vùng thượng du vì
biết trước không thể nào đương đầu nổi với các sư đoàn 308 và 316 Việt Minh. Cuộc hành quân
rút khỏi Lai Châu được mang tên mật là Pollux.
Bréchignac nhận xét:
- Có thể, khi tới khu làng đầu tiên là Bản Tấu, cách đây 3 kilômét sẽ đụng phải Việt
Minh.
Rồi ông nói tiếp:
- Nếu cánh Lai Châu muốn bắt liên lạc với chúng ta mà không gặp sự cố gì rắc rối thì
phải rút nhanh ngay. Nếu không, sẽ phải dùng cặp giò thể thao để chạy.
Ngay khi phác hoạ kế hoạch mang tên Navarre, tổng tư lệnh Navarre đã dự kiến Việt
Minh sẽ tiến đánh Lai Châu. Dứt khoát, tướng Giáp không chịu để tồn tại một cứ điểm cuối cùng
của Pháp giữa vùng lãnh thổ mà Việt Minh cần kiểm soát toàn bộ. Nhất là các đơn vị không chính
quy của Pháp đang sử dụng Lai Châu là thủ phủ xứ Thái làm bàn đạp để tiến hành các hoạt động
biệt kích phá hoại đánh vào các tuyến giao thông và cơ sở hậu cần của Việt Minh.
Với các đội biệt kích này, Việt Minh đã phải bỏ ra một trung đoàn chủ lực nhằm thanh
toán ba đội biệt kích quan trọng nhất mang tên Calamar, Colibri, Aiglon hoạt động trong khu vực
giữa Sơn La và Tuần Giáo, ngay sát đường 41, làm chậm bước tiến của sư đoàn 316 lên Tây Bắc.
Ngay khi phê chuẩn kế hoạch Castor, tướng Navarre cũng đồng thời quyết định rút bỏ
Lai Châu, đây là một cứ điểm không thể nào chống cự được với một cuộc tổng tiến công lớn và là
nơi có một sân bay duy nhất trên thế giới lại nằm trên một địa hình thấp hơn các vị trí mà Việt
Minh có thể đặt được pháo cao xạ trên các đỉnh núi vây quanh.
Điều rủi ro duy nhất là các sư đoàn Việt Minh có thể ngăn chặn cuộc rút quân từ Lai
Châu về Điện Biên Phủ. Để hạn chế mối nguy hiểm này, trung tá Trancart, chỉ huy binh đoàn tác
chiến Tây bắc đã nhận được chỉ thị phân chia số binh lính đóng ở Lai Châu làm ba bộ phận.
Ngày 15-11-1953, bộ phận thứ nhất được lệnh cấp tốc hành quân theo đường Pavie từ
Lai Châu về Điện Biên Phủ trước khi Việt Minh có thể chặn đánh bộ phận này do đại uý Bordier,
một người lai Pháp, con rể của Đèo Văn Long chỉ huy, đã hoàn thành việc rút lui một cách an
toàn. Ngày 24 tháng 11, đội tiền trạm của đơn vị lính Thái ở Lai Châu đã tiến được vào thung lũng
Điện Biên Phủ rước lá cờ Pháp đi diễu qua những quả đồi Alpha ở Bản Kéo lúc đó đang do tiểu
đoàn dù lê dương số 1 đóng giữ.
Bộ phận thứ hai được liên tiếp đưa về Điện Biên Phủ bằng máy bay ngay sau khi sân
bay Điện Biên Phủ vừa được khôi phục, bắt đầu từ ngày 25 tháng 11, sớm hơn ba ngày so dự kiến.
Chính những người lính dù và lính bộ binh lê dương đã vượt mức thời gian sửa chữa đường băng.
Họ cũng được chiếc xe ủi đất thứ hai giúp đỡ, chiếc này được thả dù an toàn, không gặp sự cố như
chiếc thứ nhất.
Giai đoạn ba của cuộc hành quân Pollux gặp nhiều nguy hiểm nhất. Đơn vị hậu về ở
Lai Châu đã cố bám giữ đến ngày cuối cùng để làm nghi binh, đánh lừa Việt Minh, cho rằng ở Lai
Châu vẫn còn quân lính sẵn sàng chiến đấu. Sau đó, 2.400 quân còn lại mới phân chia thành từng
đơn vị nhỏ đi theo những đường mòn mà họ biết rõ hơn địch, tìm đường về Điện Biên Phủ và
cũng là hi vọng duy nhất để sống sót.
Để cứu ứng cho đơn vị này, các tiểu đoàn dù của tướng Gilles đã phải tiến lên phía
Bắc, càng xa càng tốt, cho tới khi có thể chìa tay ra đón họ.
Nhưng Việt Minh đã hành động rất nhanh. Ngay trong ngày hôm sau, khi những binh
lính cuối cùng vừa rút khỏi Lai Châu, Việt Minh đã có mặt trong khi Pháp nghĩ rằng phải nhiều
ngày sau họ mới tới nơi.
Từ ngày 25 tháng 11, lính dù ở Điện Biên Phủ cảm thấy Việt Minh đã tới sát thung
lũng. Trung đoàn 1448 và sư đoàn 316 Việt Minh chiếm lĩnh các trận địa ngay sát dãy núi bao
quanh Điện Biên Phủ. Các đại đội trinh sát của Pháp khi ra khỏi vị trí vài kilômét đã gặp những
đơn vị thiện chiến, đông hơn, sẵn sàng từ trong rừng xông ra đón đánh. Trong những ngày đầu
tháng 12 những cuộc giao chiến liên tiếp xảy ra nhiều tới mức không thể đếm xuể. Ngày 4 tháng
12, tiểu đoàn dù thuộc địa số 1 khi sục sạo phía Đông Bắc Điện Biên Phủ, gần bản Him Lam đã bị
thương vong 10 người.
Tuy nhiên, đã tới thời điểm thay quân.
Nhiệm vụ của lính dù đã sắp hoàn tất. Đó là nhiệm vụ chiếm lĩnh sân bay, làng bản,
thung lũng, tạo điều kiện cho căn cứ Điện Biên Phủ hoạt động. Nhiệm vụ này đã hoàn thành.
Những nhiệm vụ khác đang chờ đợi họ ở những nơi khác. Họ đang lần lượt được thay thế bằng
các tiểu đoàn đổ bộ đường không, có trọng pháo do máy bay chở từ đồng bằng tới.
Ngày 4 tháng 12, Bigeard cùng với tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 trở về Hà Nội. Bốn
ngày sau, đến lượt tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn dù thuộc địa số 1 của Bréchignac và ngày 10
tháng 12 là tiểu đoàn dù thuộc địa số 1 của thiếu tá Souquet.
Về phần mình, tướng Gilles cũng muốn ra đi. Khi tới thị sát Điện Biên Phủ, tư lệnh
trưởng Bắc Bộ đã nhắc lại lời hứa với tướng Gilles:
- Ông sẽ được đại tá De Castrie tới thay.
Tướng Gilles đáp lại:
- Đó là một sự lựa chọn tuyệt vời. Castrie sẽ làm được tất cả mọi việc ở nơi này.
Gilles đã nói thật. Ý định của Tổng tư lệnh Navarre là xây dựng Điện Biên Phủ thành
một căn cứ đánh toả ra các vùng hậu phương của Việt Minh sẽ được thực hiện bở De Castrie, vốn
là một kỵ binh tuyệt đối không có ý thích cũng như không có thói quen đứng kìm chân tại một vị
trí.
Tướng Gilles đã được thoả mãn nhưng vẫn không quên ba tiểu đoàn dù còn phải ở lại
Điện Biên Phủ. Đó là tiểu đoàn dù lê dương, tiểu đoàn dù xung kích số 8 và tiểu đoàn dù lính Việt
số 5. Trước khi ra đi ông đã không giải quyết được việc thay thế các tiểu đoàn dù này.
Tướng Cogny nói tiếp:
- Điện Biên Phủ sẽ có một binh đoàn cơ động. Đó là binh đoàn 9 do Gaucher chỉ huy,
trung tuần tháng 12 sẽ tới đây. Việc tiếp tục thay quân sẽ tiến hành sau đó.
Tướng Gilles tán thành. Ông biết rõ Gaucher và binh đoàn cơ động số 9. Trong cuộc
hành quân mang tên Mouette vừa qua nhằm đánh vào các kho hậu cần của sư đoàn 320 ở khu vực
Nam đồng bằng, tướng Gilles đã đánh giá cao tính cơ động và vững vàng của binh đoàn này, gồm
hai phần ba là lính lê dương, một phần ba là lính Algerie. Lính lê dương thuộc các tiểu đoàn 1 và 3
của bán lữ đoàn lê dương số 13 đã từng lập chiến công vang dội trong các chiến dịch Narvik và
Bir Hakeim hồi Chiến tranh thế giới thứ hai. Lính thuộc địa thuộc tiểu đoàn 3, trung đoàn Algerie,
phần lớn là người quê ở Constantine, to lớn, dẻo dai, dũng cảm. Tiểu đoàn này tới Đông Dương từ
mấy năm trước. Binh đoàn cơ động số 9 còn có một lực lượng pháo thuộc địa. Đó là tiểu đoàn 3
thuộc trung đoàn pháo binh thuộc địa số 10 vừa mới tới Nam Kỳ. Đó cũng là một đơn vị nổi tiếng
gồm nhiều pháo thủ châu Phi khỏe mạnh và trung thành.
Tướng Gilles trả lời:
- Rất tốt. Tôi sẽ có thể trấn an các tiểu đoàn trưởng của tôi.
Tướng Cogny quay lại nói:
- Thế nhưng, tôi đang dự tính để lại đây hai tiểu đoàn dù thuộc binh đoàn đổ bộ đường
không số 2 làm lực lượng cơ động ứng chiến. Ông nghĩ thế nào?
Tướng Gilles nhăn mặt. Ông không muốn phổ biến những tin xấu. Nhưng ông vẫn trả
lời:
- Tôi sẽ để lại đây tiểu đoàn dù lê dương và tiểu đoàn dù xung kích số 8.
Sau đó, tướng Gilles đi dự cuộc họp với các chỉ huy tiểu đoàn và đại đội:
- Thưa các bạn! Tôi xin nâng cốc chúc mừng thắng lợi của các bạn. Tôi có nhiệm vụ
chuyển tới các bạn lời khen của Tổng tư lệnh vì đã hoàn thành nhiệm vụ. Riêng đối với tôi, đây là
lần cuối cùng tôi được vinh dự làm nhiệm vụ chỉ huy trước khi trở về Pháp.
Chiếc lều vải bạt đủ rộng để chứa tất cả các đại uý, trung uý chỉ huy các đại đội dù.
Tướng Gilles đã cho triệu tập tất cả chỉ huy các đại đội để nói lời từ biệt.
Cuối cùng, sau một lúc ngần ngừ, tướng Gilles quyết định nói hết. Bằng vài lời ấp úng,
ông giải thích lý do tại sao phải để lại hai tiểu đoàn dù:
- Các bạn hiểu cho. Phải để cho những đơn vị tới thay quân có thời gian cần thiết thích
nghi với trận địa.
Martin, có biệt hiệu là “Loulon” tiến lên hàng đầu trước sự ngạc nhiên của mọi người.
Dưới mớ tóc sẫm, gương mặt ông đỏ ứng, biểu lộ rõ vẻ xúc động. Martin vốn bẽn lẽn. Nhưng điều
đó không ngăn cản ông nói hết những điều mình nghĩ:
- Thưa tướng quân. Tôi nghĩ, tôi có thể tóm tắt được ý nghĩ của các bạn tôi. Đó là,
tướng quân không cần phải ra thêm một mệnh lệnh đã ban hành. Chúng tôi chỉ biết sẽ phục tùng.
Cách tốt nhất là cho chúng tôi biết ai ở lại. Và người đó sẽ ở lại đây…

Cuộc hành quân Pollux


Từ 8 đến 15 tháng 12 năm 1953
Những buổi sáng sớm, trời rất lạnh. Từ lúc rạng đông sương mù dày đặc đọng trên dãy
núi, bao phủ thung lũng dưới lớp sương mù ẩm ướt như đáy mồ. Điều đó vẫn không cản trở việc
xây dựng căn cứ lục - không quân. Mọi người đã trở dậy mặc áo len quần nịt như dân Esquimaux
Bắc cực, hối hả lao động. Ở trên cao, máy bay đã tới thả các kiện hàng xuyên qua đám mây xuống
đất. Để hướng dẫn máy bay thả dù, từ sớm tinh mơ các phi công mặt đất trong sở chỉ huy đã trèo
lên nóc nhà phủ lá cọ dùng làm đài quan sát, cắm một chiếc sào tre trên ngọn có buộc một quả
bóng màu đỏ. Quả bóng này làm mục tiêu báo hiệu cho các máy bay Dakota biết rõ đầu bãi thả
dù.
Đến trưa, sương mù tan dần. Mặt trời hiện ra giữa vòm trời màu xanh lơ. Nhiệt độ dâng
cao ngang với mức ở Côte d` Azur miền Nam nước Pháp. Binh lính cởi áo len, rồi cởi trần, để lộ
làn da nâu như đồng hun, không ngừng đào đất, chặt cây. Các vị trí đã được ấn định.
Các sở chỉ huy nằm ở trong làng. Những đơn vị ứng chiến đóng ở bên ngoài. Ba tiểu
đoàn dù phân chia nhau nơi đóng quân: ở dãy đồi phía Đông, ở bờ sông Nậm Rốm và dọc theo
đường băng sân bay.
Đường băng cất cánh và hạ cánh tạo thành một hình cổ chai chẳng khác gì sân bay Nà
Sản hồi năm ngoái, khi cầu hàng không hoạt động nhộn nhịp nhất.
Những cư dân đã buộc phải rời khỏi Điện Biên Phủ để lui xuống phía Nam vài kilômét,
tạo thành một bản mới mà linh mục Guidon đặt cho cái tên mỹ miều là “Khu phố tươi đẹp”, ngay
trước cổng một bệnh viện sáng nào các bác sĩ quân y cũng thay phiên nhau tới tiêm chủng và chữa
trị các bệnh thông thường.
Tướng Gilles ra đi ngày 8 tháng 12 năm 1953. Đại tá de Castries tới thay trong ngày.
Cả hai vị cùng nhay đi một vòng kiểm tra các vị trí. Sau đó, vị tư lệnh mới của Binh đoàn tác
chiến Tây Bắc, gọi tắt là GONO, vào làm việc trong hầm chỉ huy vừa xây dựng xong, nhờ có sự
trợ lực của chiếc xe ủi đất.
Trung tá Langlais cùng tới với đại tá de Castries với nhiệm vụ chỉ huy binh đoàn dù tại
Điện Biên Phủ. Langlais chưa hoàn toàn chữa khỏi vết sai khớp ở mắt cá chân xảy ra khi nhảy dù
vào ngày 20 tháng 11. Ông vẫn còn đi tập tễnh, nhưng cố nghiến răng quên đau, trả lời trung uý
bác sĩ Carfort của tiểu đoàn 8 khi ông được khuyên nên nghỉ ngơi. Ông trả lời:
- Một cú nhẹ ấy mà! Tôi vẫn còn đi lại được.
Langlais không cường điệu. Ông đã quyết tâm dẫn đầu các lính dù của mình trong cuộc
hành quân. Chiều ngày 10 tháng 12, ông được lệnh cho lính dù đi đến phía Bắc sân bay Lai Châu
để đón khoàng 2.000 lính người Thái tản mát trong một khu vực khoảng 1.600 killimét vuông
trong rừng đang bị bộ đội chủ lực của sư đoàn 316 Việt Minh đuổi đánh.
Giai đoạn 3 của cuộc hành quân Pollux rút khỏi Lai Châu đang bước vào thời điểm
nguy kịch, có thể dẫn đến thảm hoạ. Ngày 10 tháng 12, những tiếng kêu cấp cứu của các đại đội
lính Thái truyền qua điện đài mỗi lúc một nhiều và càng cấp bách hơn. Tất cả những đường mòn,
những ngã tư, những bến sông, những đỉnh đèo đều có bộ đội Việt Minh chặn đánh. Quân Việt
Minh bám sát gót đám lính Thái đã bị phát hiện. Các tiểu đoàn Việt Minh tuần tiễu, lùng sục mọi
ngả. Đối đầu với một sư đoàn chủ lực Việt Minh, những lính dõng người dân tộc Thái, trang bị
kém, chỉ huy thiếu, chỉ thường dùng vào việc biệt kích phá hoại, không quen với chiến đấu chính
quy, không có hy vọng gì sống sót.
Những tốp lính Thái đi chân đất chạy trốn, không còn lương thực, đạn dược. Thỉnh
thoảng một chiếc máy bay trinh sát, thường gọi là máy bay “cào cào” bắt được liên lạc bằng điện
đài với một nhóm đang rút chạy. Lính Thái đề nghị cho máy bay Dakota tới tiếp tế đồ hộp khẩu
phần hoặc đạn dược, và đề nghị máy bay B-26 ném bom yểm trợ họ thật gần. Nhưng điều này
cũng chỉ kéo dài thêm cơn hấp hối. Nhiều lần các bãi thả dù không thấy có người mà chỉ thấy
súng phòng không của Việt Minh bắn lên.
Sáng 10 tháng 12, một trong những đại đội lính Thái này do trung sĩ Blanc chỉ huy bị
Việt Minh vây chặt ở Mường Pồn là một bản nhỏ cách Điện Biên Phủ 18 killomét, trên đường
Pavie từ Điện Biên Phủ đi Lai Châu.
Đại tá Castries chỉ thị cho trung tá Langlais:
- Phải giải vây cho đám lính này!
Langlais lập tức ra lệnh. Tiểu đoàn dù xung kích số 8 chuyên trách việc chiến đấu trong
rừng rậm đi đầu, theo đường số 41 rồi rẽ vào rừng nhằm đánh vào phía sau bộ đội Việt Minh ở
Mường Pồn. Langlais nói:
- Bộ phận còn lại của binh đoàn là tiểu đoàn dù lính Việt số 5 và tiểu đoàn dù lê dương
số 1 sẽ hành quân thẳng tới Mường Pồn vào sáng hôm sau. Tôi sẽ chỉ huy trực tiếp cánh quân này.
Nhìn trên bản đồ, 18 killomét chỉ là một quãng đi rèn luyện sức khỏe. Nhưng trên địa
hình thực tế lại là chuyện khác. Việt Minh đã chặn đường tiến đến Mường Pồn. Rạng sáng 11
tháng 12, khi đại đội 3 tiểu đoàn dù lê dương vừa mới rẽ vào rừng đã vấp phải một nút chặn của
Việt Minh, chỉ cách quả đồi “ngư lôi” sau này xây thành cứ điểm Gabrielle ở phân khu Bắc có 3
kilômét. Đại đội bị thương vong 15 người, trong đó có 4 người chết.
Langlais ra lệnh:
- Bỏ đường mòn. Leo lên đỉnh núi mà tiến.
Họ chỉ còn phải vượt qua 13 kilômét nữa để tới Mường Pồn, các điện đài vẫn liên tiếp
thu được những tiếng kêu cấp cứu của số lính Thái đang bị bao vây. Nhưng, khi lính dù vừa rời
khỏi đường mòn Pavie để rẽ vào rừng định leo lên núi, họ đã bị vấp phải một bức tường thật sự
bằng mây tre, bụi gai và đủ loại cây cối mọi kích cỡ, không tài nào vượt qua được. Với tình hình
này, mỗi giờ chỉ đi được 200 mét. Các trinh sát đi trước, cứ 15 phút lại phải thay. Những người
quay trở về gần như kiệt sức, nét mặt tái xanh, mồ hôi nhễ nhại, trên mặt bị muỗi cắn, lưng, tay và
chân bị vắt và đỉa hút máu.
Mãi đến 6 giờ tối ngày 11 tháng 12, lính dù thuộc binh đoàn đổ bộ đường không chỉ đi
được 2 trong số 11 kilômét đoạn đường phải tới Mường Pồn.
Hạ sĩ Perrin phụ trách điện đài, báo cáo:
- Họ đang giục chúng ta nhanh lên. Ít nhất đang có một tiểu đoàn bao vây họ.
Nhưng lính dù không còn sức để đi thêm nữa. Langlais hạ lệnh dừng quân để ăn tối
trên đỉnh một quả núi nhọn mà ông cho là vị trí tốt nhất có thể phòng ngự. Langlais luôn luôn có ý
thức đề phòng vì ông biết dù Mường Pồn có bị tiêu diệt hoặc được giải vây, Việt Minh cũng sẽ tập
trung lực lượng tiến công binh đoàn của ông.
Perrin tiếp tục báo cáo:
- Máy bay “cào cào” cho biết, quân địch đang chỉnh đốn đội hình.
Gương mặt Perrin lộ rõ vẻ mệt mỏi. Cuộc hành quân với điện đài nặng trĩu trên lưng đã
làm cho hạ sĩ kiệt sức. Trung sĩ Blanc, chỉ huy đại đội lính Thái đang bị vây ở Mường Pồn nói
trong máy bằng một giọng tuyệt vọng:
- Chúng tôi không thể cầm cự được lâu nữa. Mỗi khẩu súng chỉ còn 5 viên đạn.
Langlais hứa sẽ cho máy bay Dakota tới thả dù và lựu đạn tiếp tế cho đơn vị bị bao vây
vào lúc rạng sáng sớm hôm sau. Từ giờ đến lúc rạng đông là một khoảng cách rất xa. Còn phải trải
qua một đêm dài. Nhưng hình như Việt Minh cũng có vẻ như chưa muốn tiến công ngay. Họ đã
nắm chắc con mồi trong tầm tay, đang muốn bao vây chặt hơn nữa.
Langlais quyết định:
- Ta sẽ tiến đánh trước, bằng cách xuất quân từ 4 giờ sáng theo đường trên đỉnh núi.
Đúng 4 giờ sáng, binh đoàn đổ bộ đường không số 2 tiến theo hàng dọc trên những
đỉnh núi nhìn từ xa như những răng cưa khổng lồ, nhấp nhô cách nhau từ bốn đến năm trăm mét
độ cao. Langlais cử tiểu đoàn dù lính Việt số 5 đi đầu, dưới sự chỉ huy của thiếu tá Leclerc. Để mở
đường, thiếu tá Leclerc lại chỉ định đại đội 3 của Gaven, gồm những lính dù kỳ cựu nhất đơn vị đi
trước tiên. Một số binh lính trong đơn vị này đã chiến đấu từ năm 1950 và là những người sống
sót trong chiến dịch Biên giới trên đường số 4.
Trên đỉnh núi không có cây, chỉ toàn loại cỏ voi. Lớp cỏ rậm này cao tới 2 mét. Lính dù
như bị bịt mắt đi trong sương mù, phải dùng dao găm, dao quắm mở đường, làm bốc tung lớp bụi
màu vàng xâm nhập vào tận phổi, làm khô miệng, cay mắt. Dù sao cũng đi nhanh hơn trong rừng
nguyên thuỷ, nhưng cũng chỉ được 800 mét một giờ.
Chiếc máy bay “cào cào châu chấu” lượn trên đầu cánh quân, từng phút một lại truyền
xuống những tiếng kêu hấp hối của đám quân trong doanh trại Mường Pồn, chỉ còn cách có 10
kilômét về phía Bắc.
10 kilômét! Có nghĩa là, với tốc độ này, phải 36 tiếng đồng hồ nữa binh đoàn dù mới
tới nơi, nếu hành quân liên tục không nghỉ một phút nào. Trưa ngày 12 tháng 12, tiểu đoàn dù lê
dương được lệnh thay tiểu đoàn dù lính Việt. Đến nửa đêm, Gaven mới dẫn đơn vị dù lê dương
vượt được lên đầu hàng quân.
Lính dù lê dương như đi trong mơ, chậm như sên.
Cách đó 6 kilômét, lính trong đồn Mường Pồn vẫn đang kêu cứu.
Đến tờ mờ sáng ngày 13 tháng 12, sau khi toàn bộ tiểu đoàn dù lê dương đã vượt được
lên đầu hàng quân, cũng là lúc bắt đầu nghe rõ những tiếng súng từ Mường Pồn vọng tới. Langlais
động viên binh lính:
- Cố lên! Chúng ta cố gắng đến kịp!
Lính dù lê dương lại cố tập trung sức lực phá bức tường cỏ, cố đến cứu đám lính Thái
đang bị Việt Minh gây sức ép.
Nhưng từ phút này đến phút khác, tiếng súng nổ càng dữ dội hơn. Đến 11 giờ sáng thì
tiếng súng câm bặt, trong lúc đội tiền vệ của binh đoàn dù chỉ còn cách Mường Pồn khoảng 1
kilômét. Lại tiếp tục hành quân một giờ nữa. Đến trưa, khi tốp đi đầu của binh đoàn vào được
những đống hoang tàn trong bản Mường Pồn, thì chỉ thấy những vỏ đạn và những cuốn băng thấm
đầy máu. Ngoài ra, không còn gì hết. Việt Minh đã rút khỏi trận địa, mang theo tất cả những lính
Thái bị chết hoặc bị thương. Có còn ai bị bắt không, có ai còn sống sót, có ai trốn thoát không?
Không thể nào đoán biết được.
Và cũng không một ai sẽ biết được chút gì, nghe thấy nói gì về 200 lính Thái và người
chỉ huy là trung sĩ Blanc đã chiến đấu suốt hơn 36 tiếng đồng hồ ở Mường Pồn.
Trung sĩ Zurell nói nhỏ vào tai người bạn cùng đi là Romanzin:
- Mình đã bảo mà! Mình không ưa mảnh đất này. Ở Đông Khê hồi 1950 cũng bắt đầu
như vậy.
Rồi, đảo mắt nhìn chung quanh. Zurell cố kìm hãm sự xúc động,nói tiếp:
- Không có ai có thể quen được với thảm hoạ.
Đối với nhiều lính dù lê dương, đây là lần đầu tiên họ nhìn thấy một trận tiêu diệt như
thế này. Điều khó chịu nhất là không còn lại một chứng tích gì. Cách đây đúng 1 giờ, vẫn còn
nghe thấy tiếng súng của những người đang đánh nhau quyết liệt ở chỗ này. Thế mà bây giờ,
chẳng còn gì cả ngoài vài khẩu súng gãy, hai hoặc ba chiếc mũ vải rộng vành nhàu rách, những vỏ
đạn và bãi máu hãy còn đỏ tươi trên cỏ, trên cột nhà sàn, trên những mảnh áo quần rách, trên
những cuốn băng gạc.
Zurell lại nói tiếp với bạn:
- Không nên ở đây lâu. Vả lại, như người ta nói, rừng cỏ cũng có mắt, có tai.
Các đại đội thuộc tiểu đoàn dù lê dương được lệnh đóng tại phía ngoài bản Mường
Pồn, trước một thung lũng mà phía bên kia là một ngọn núi Pù San nhọn hoắt cao 1.400 mét.
Sau đó ít lâu, tiểu đoàn dù lính Việt số 5 cũng tới nơi. Trung tá Langlais hai má sâu
hõm, lại nghiến răng nén cơn đau. Mắt cá chân chưa lành làm cho ông rất đau đớn. Tuy nhiên,
suốt 36 giờ nay ông vẫn phải cố giữ nhịp độ tiến quân, không một chút nghỉ ngơi. Và tất cả những
chịu đựng đó chẳng đi đến đâu cả. Đồn Mường Pồn trống rỗng. Riêng Langlais đã bộc lộ sự thấm
mệt. Ông nói với tham mưu trưởng Seguin Pazzis:
- Đêm nay, chúng ta nghỉ lại đây.
Ngày 14 tháng 12, binh đoàn dù quay trở lại Điện Biên Phủ. Trong đêm, tiểu đoàn dù
xung kích số 8 đã theo kịp được các tiểu đoàn khác sau khi hành quân 48 giờ không nghỉ. Tiểu
đoàn trưởng Tourret mấy hôm trước cũng đã nhận được điện kêu cứu của Mường Pồn nhưng
không làm gì được vì còn phải tự lo gỡ mìn và cạm bẫy trên đường tiến quân.
Trước tình hình mọi người đều mệt mỏi, trung tá Langlais quyết định lùi cuộc hành
quân trở về đến trưa mai. Trước khi rút quân, đại đội Cabiro được lệnh lên chiếm đỉnh núi Pù San
để yểm trợ cho toàn bộ cánh quân, Langlais không muốn cuộc lui quân gặp một chuyện rủi ro nào.
Đây là một vùng không an toàn và là một trong những cuộc hành quân phức tạp, Việt Minh có
thói quen tận dụng những tình huống như thế này để tiến công binh đoàn.
Ông dự tính:
- Tiểu đoàn dù xung kích số 8 dẫn đầu toàn quân. Đi giữa là tiểu đoàn dù lính Việt số 5.
Tiểu đoàn dù lê dương đi sau cúng. Hành quân theo kiểu “con vẹt”.
“Con vẹt” là tên gọi một cuộc rút quân theo kiểu cổ điển mà tiểu đoàn dù lê dương
thường thực hiện một cách thành thạo. Đại đội đi đầu tiến quân một quãng rồi dừng lại để canh
chừng đoạn đường. Các đại đội sau tuần tự vượt lên trước và cũng thay phiên nhau canh chừng
như vậy cho tới khi đại đội đi đầu chuyển thành đại đội đi sau cùng. Cuộc hành quân sẽ vận hành
theo kiểu chiếc guồng nước và toàn tiểu đoàn sẽ không bị đánh bất ngờ.
Nhưng, theo lời Brandon kể lại, lần này cuộc rút quân theo kiểu “con vẹt” đã không
thành công:
- Ngày hôm sau, ngay sau khi tiểu đoàn dù lính Việt số 5 vừa mới rời khỏi bản, đặt
chân tới đường mòn Pavie (từ Lai Châu về Điện Biên Phủ) đã vấp ngay phải một trung đội địch
trang bị trọng liên. Việt Minh đã thâm nhập được vào khu vực giữa núi Pù San và đường Pavie mà
không ai biết.
Cabiro nói chen vào:
- Thật là khó hiểu. Sáng nay tôi đã dẫn quân lên đỉnh núi Pù San, nhìn thấy những dấu
vết để lại của khoảng chứng một tiểu đoàn địch đã rút. Vậy mà sau đó điểm này lại trở thành một
căn cứ để Việt Minh xuất phát tiến công.
Brandon trả lời:
- Mưu kể của Việt Minh thật đơn giản. Địch cố tình làm cho Cabiro tưởng rằng chúng
đã rút. Nhưng thật tình, chúng chỉ lánh sang bên kia sườn núi chờ đến khi tiểu đoàn dù lính Bảo an
người Việt hành quân đến chỗ này mới tiến công.
Brandon mới chỉ nói tới đó, mọi người đã hiểu. Tiểu đoàn dù lính Bảo an là đơn vị yếu
nhất, dễ bị tiến công nhất. Nhưng, giữa lúc hai bên đang giao tranh thì máy bay quan sát “cào cào”
đã kịp báo tin cho máy bay khu trục đến kịp thời. Nhưng cuộc xung đột giữa Việt Minh với lính
dù cũng là người Việt đang trộn lẫn với nhau khiến cho các phi công không sao phân biệt được
ranh giới. Thế là bom napalm ném xuống cả vào đầu lính dù bảo an của Bảo Đại. Mặc dù vậy, tiểu
đoàn lính dù người Việt cũng đã chạy thoát được một phần, và đến lượt tiểu đoàn dù lê dương vừa
tiến đến cũng bị đánh luôn. Ở giữa hai quả núi Pù San và Pù Tạo.
Brandon nói tiếp:
- Tôi cứ tưởng không thoát được. Rừng cỏ rậm, hai mét cũng không nhìn rõ nhau. Việt
Minh từ trên sườn núi tràn xuống khắp nơi. Không còn chỉ huy chiến đấu được nữa. Đành mặc
cho từng người tự xoay sở. Chơ tới giờ, mình vẫn chưa hiểu rõ đã làm thế nào để gặp lại được tiểu
đoàn.
Đại đội 2 thuộc tiểu đoàn dù lê dương là đơn vị thương vong nặng nhất trong cuộc
hành quân: 11 người bị chết, khoảng 30 người bị thương và mất tích.
Nhưng, nếu so sánh với cánh quân lính Thái từ Lai Châu rút về mà lính dù lê dương có
nhiệm vụ đi đón thì thiệt hại của đơn vị dù lê dương vẫn còn nhẹ. Khi rời khỏi Lai Châu ngày 8
tháng 12, toàn bộ các đại đội lính Thái có 2.101 người trong đó có 3 sĩ quan, 34 hại sĩ quan người
Pháp. Khi những binh lính sống sót cuối cùng đến được Điện Biên Phủ ngày 20 tháng 12, chỉ còn
lại có 1 sĩ quan là trung uý Ulpat, 9 hạ sĩ quan và 175 lính Thái.
Cuộc hành quân Pollux đã kết thúc. Cuộc hành quân Castor vẫn tiếp tục.

Lễ Noel ở Điện Biên Phủ


25 tháng 12 năm 1953
Mới sáng sớm, một tiếng nổ lớn đã làm rung chuyển bầu không khí yên tĩnh ở Điện
Biên Phủ đang bao phủ trong lớp sương mù như sữa. Lập tức, tất cả những cặp mắt đều hướng về
phía Đông, tới quả đồi thứ năm vừa được đặt tên là Éliane 2 có dinh thự của quan cai trị cũ xây ở
trên đỉnh. Toà nhà này vừa tan biến trong lớp bụi và khói thuốc nổ mà công binh vừa đánh sập, để
xây dựng lại thành một cứ điểm phòng ngự.
Những viên đá tảng rơi xuống như mưa. Số gạch đá này sẽ lại được dùng để xây chiến
hào và lô cốt.
Éliane 2 từ nay trở thành quả đồi cuối cùng, then chốt của vị trí trung tâm, bảo vệ mặt
Đông và Nam. Ngày xưa, khi Điện Biên Phủ còn là một huyện lỵ của chính quyền Pháp, quả đồi
này tượng trưng cho quyền lực cai trị. Từ khoảng cách rất xa hoặc đi trên dãy núi Mông từ phía
Nam xuống, hoặc đứng từ các làng bản rải rác trong thung lũng, mọi người đã nhìn thấy toà nhà
này. Đó là biểu hiện của uy quyền tuyệt đối. Bây giờ, chỉ còn lại một quả đồi trọc, lởm chởm
những thân cây đã bị cụt, nom như một cái đầu hói vừa vứt bỏ mớ tóc giả. Elaine 2 hiện ra trong
vẻ trần trụi thô thiển khác hẳn với khung cảnh chung quanh hãy còn cây cối rậm rạp.
Nhưng Éliane 2 cũng không phải là quả đồi duy nhất bị tàn phá bởi những nhát cuốc.
Tất cả những điểm cao vây quanh đường băng sân bay, ở phía Đông cũng như phía Bắc, đều chịu
chung số phận. Cánh đồng cũng không loại trừ. Điện Biên Phủ đã biến thành một trận địa. Đó
cũng là một thế giới đặc biệt, với những đặc tính và một từ vựng riêng. Những tên gọi cũ một cách
phóng khoáng đã được thay bằng những mật danh quân sự, trở thành tên gọi chính thức. Vần chữ
cái A, B, C đã được sử dụng để chỉ định các cứ điểm được tuần tự xây dựng theo thứ tự từ trước
đến sau. Hai quả đồi đầu tiên ở Bản Kéo được xây thành cụm cứ điểm mang tên Anne Marie.
Những cứ điểm thứ hai, xây dựng ở phía Đông Bắc, mang tên cụm Béatrice. Cả đến trung tâm
Điện Biên Phủ cũng mang tên mới là Claudine. Vết tích của những làng bản đã bị xoá hết, chỉ còn
lại những con đường, lúc ngập bùn, lúc đầy bụi. Các nhà sàn bị đánh sập, gỗ dựng nhà được tái sử
dụng làm nắp hầm củng cố vách hào.
Công trường xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là địa điểm được nhiều người
tới thăm nhất trên toàn lãnh thổ Đông Dương. Hàng ngày, máy bay liên tiếp hạ cánh đưa tới đây
một loạt nhân vật quan trọng có nhiệm vụ tới kiểm tra tại chỗ để nhận xét về tiến trình xây dựng
hoặc phát biểu quan điểm của mình về cách thức tổ chức phòng ngự.
Vấn đề này được thể hiện như một vòng xoay có tổ chức. Ngay khi bước xuống cầu
thang máy bay các vị tai to mặt lớn đã được binh lính, thường là lính lê dương, xếp hàng nghênh
đón, tiếp đó được đưa về sở chỉ huy nghe đại tá Castries báo cáo tình hình có chỉ dẫn bằng một
tấm bản đồ lớn, ghi các ký hiệu màu xanh, đỏ, vàng. Rồi, một đoàn gồm ba hoặc bốn chiếc xe
Jeep đưa các vị tới thăm sân bay và các điểm tựa đặt trên đồi cao.
Các vị khách cũng có thể đứng trên Dominique 2, điểm cao nhất phía Đông Bắc sở chỉ
huy trung tâm quan sát chân trời. Sau đó đi thăm các cụm cứ điểm Éliane, nơi lính lê dương đang
dùng súng phun lửa đốt cháy các bụi cây thay cho việc phát quang dọn bãi, gân nên một ấn tượng.
Đến 4 giờ chiều máy bay lại đưa các vị khách trở về Hà Nội. Điện Biên Phủ lại quay về
với cảnh cô đơn, bận rộn với những công việc hàng ngày.
Những cuộc viếng thăm này được đánh giá khác nhau. Các sĩ quan tham mưu thì hoan
nghênh vì được phỉnh nịnh. Các chỉ huy binh đoàn thì khó chịu và sốt ruột vì cứ phải trình bày
hàng chục lần một vấn đề chiến thuật, hoặc phải trả lời những câu hỏi giống nhau.
Trung tá Gaucher, chỉ huy bán lữ đoàn lê dương số 13 nói:
- Tôi y như một hướng dẫn viên khách tham quan toà lâu đài cổ. Tôi có thể trả lời trước
khi khách “du lịch” đặt câu hỏi. Bởi vì, các vị bộ trưởng thường chỉ hỏi “Theo ông, liệu có giữ
được không?” Các nhà chính trị, các vị dân biểu nói với tôi “Nước Pháp tin ở các ông”. Các tướng
lĩnh thì phớt tỉnh, không thèm hỏi gì, chỉ chờ đợi. Còn những người Mỹ thì rõ ràng trông họ rất
ưng ý, nhưng vẫn cứ làm ra vẻ, lấy gậy chọc vào đất nắp hầm xem độ dày ra sao…
Dù sao, nếu ngày 24-12-1953, có một vị khách nào đó tới thăm Điện Biên Phủ họ cũng
không thấy có một lính dù nào trong căn cứ. Tất cả binh đoàn đổ bộ đường không do trung tá
Langlais chỉ huy, từ tiểu đoàn lê dương đến tiểu đoàn dù xung kích từ ngày 22 tháng 12 đã xuất
phát theo hướng Nam, đi về phía Sốp Nạo trên lãnh thổ Lào để mở cuộc hành quân mang tên
Régates nhằm bắt liên lạc với một cánh quân khác từ Luang Prabang đi tới để tỏ rõ Điện Biên Phủ
không thể bị vây hãm, không thể bị cô lập và doanh trại này đã chủ động áp dụng biện pháp rút ra
ngoài.
Régates có nghĩa là những người đua thuyền và cũng là thử nghiệm cuối cùng cuộc
hành quân xa có tính chất thăm dò. Bởi vì, từ lễ Nô-en này, căn cứ lục-không quân đã chấm dứt
nhiệm vụ đánh toả ra các vùng hậu phương Việt Minh và thật sự trở thành một cứ điểm phòng ngự
ngày càng bị vòng vây của địch xiết chặt.
Vào ngày này, Điện Biên Phủ chuẩn bị lễ Thiên Chúa giáng sinh. Ngay trước cửa hầm
cố thủ của trung tá Gaucher ở gần sở chỉ huy của đại tá de Castries, lính lê dương thuộc đại đội 3,
tiểu đoàn 1, bán lữ đoàn lê dương số 13 đã trồng một cây thông Nô-en lớn, trang trí bằng những
vật liệu dã chiến, những băng giấy nhiều màu, bóng đèn điện bôi thuốc đỏ. Bệnh viện quây y cho
mượn đèn pha, sở hậu cần cung cấp một loạt chăn mền và vải dù nhiều màu sắc. Ban thờ Đức
Chúa Jesus vào buổi tối trở thành một cực nam châm thu hút mọi người trong tập đoàn cứ điểm.
Tại các đơn vị, binh lính cũng cố tìm cách trang hoàng hầm hố của mình, tuy nghèo
nàn nhưng xúc động.
Trong khi lục soát tìm tòi vật trang trí, một lính lê dương tay cầm nến bước vào hầm
pháo cối đã sơ ý làm cháy một đống rơ-le đạn cối. Đám cháy bốc lên rất nhanh. Cả vị trí náo loạn,
mạnh ai nấy chạy. Cuối cùng, hầm đạn nổ tung. Một cột lửa bốc lên rất cao làm tung cả đất và
những mảnh kim loại, suýt nữa văng phải một chiếc máy bay Dakota đang lượn trên cao khoảng
30 mét để chuẩn bị hạ cánh.
Trung uý Turcy, mặt tái mét vì giận dữ, văng tục chửi thủ phạm gây ra vụ nổ và hét to:
- Mày định phá huỷ chiếc máy bay chở Tổng tư lệnh Navarre à?
Đúng là Tổng tư lệnh đã quyết định tới Điện Biên Phủ một đêm để cùng dự lễ Thiên
Chúa giáng sinh với các binh sĩ tại đây.
Dưới tấm vải bạt dựng lên làm trụ sở chỉ huy tạm thời cho trung tá Gaucher và binh
đoàn cơ động số 9, trung uý De Veyes vừa viết xong bản báo cáo tình hình hoạt động trong ngày.
Không có gì đặc biệt ngoài việc trồng cây thông Nô-en, tiểu đoàn 1 đã phát quang cây cối trên đồi
để dựng cứ điểm Éliane 1. Tiểu đoàn 3 sửa sang cụm đồi phía tây bắc để xây dựng cứ điểm
Béatrice.
Trung uý ngừng viết. Vóc dáng cao lớn của trung tá Gaucher vừa xuất hiện trước cửa
lều bạt. Ông nói với De Veyes:
- Để đống giấy tờ ở đây! Đi theo tôi. Ta cùng đi đến cứ điểm của Pégot. Tôi đã hứa, sẽ
tới đó cùng dự lễ Nô-en với anh em.
De Veyes trả lời:
- Tướng Navarre vừa mới tới. Ngài muốn gặp tất cả các sĩ quan để uống một chầu rượu
khai vị. Hay là ta đến Béatrice sau, thưa trung tá?
- Không. Pégot đang đợi. Chúng ta còn có cả một đêm để tới chào tướng Navarre. Anh
nói với Brinon đưa cả Capeyron tới Béatrice, dù anh ta đang phải băng bó. Cảnh này nhất định
gây ấn tượng.
Capeyron hiện đang chỉ huy đại đội 3, tiểu đoàn 1, bán lữ đoàn lê dương 13. Ông đã bị
thương hồi còn ở đồng bằng. Đáng lẽ, ông không phải lên Điện Biên Phủ, hiện đang kết thúc
nhiệm kỳ. Nhưng, ngay sau khi tạm bình phục, vẫn còn phải chống gậy ông đã đòi trở về đơn vị.
Capeyron là một sĩ quan lê dương kỳ cựu, thuộc loại người không muốn xa đơn vị nhất là lại đang
ở cương vị chỉ huy. Tiếng nói sang sảng, gương mặt điểm ria mép, Capeyron có một cái nhìn đặc
biệt, tròng mắt mầu sám khi vui vẻ và chuyển sang màu xanh khi giận dữ. Trong thời gian này,
không phải lúc nào ông cũng vui vẻ. Những vết thương không cho ông được đi tuần tra cùng với
đơn vị, là điều thường xảy ra hàng ngày như một việc lao công mỗi khi có khách đáp xuống sân
bay.
Trung tá Gaucher đã nhảy lên xe Jeep, nắm lấy tay lái và gọi De Veyes:
- Ta đi thôi!
Vừa lái xe trên con đường mòn dẫn tới cứ điểm Béatrice, trung tá Gaucher vừa huýt
sáo một hành khúc của lính lê dương. Đây là một thói quen của ông, nhằm cắt đứt những câu
chuyện phiếm để tập trung vào một vấn đề đang quan tâm. Trung uý De Veyes ngồi bên cạnh cố
giữ im lặng trong khi chờ dịp bắt chuyện. Chợt Gaucher nói:
- Thằng cha Pégot thật kỳ cục! Mọi người đều cho hắn là một kẻ không có trái tim. Thế
mà hắn vẫn nghĩ đến chuyện đón lễ Thiên chúa giáng sinh.
De Veyes chớp thời cơ, hỏi luôn:
- Chắc Tổng tư lệnh Navarre cũng quan tâm ghê lắm đến Điện Biên Phủ?
- Đúng đấy! Chắc chắn như vậy. Tướng Navarre không lầm đâu. Điện Biên Phủ rất
quan trọng.
Gaucher bặm môi, gật đầu. Đó là biểu hiện quen thuộc ông thường bộc lộ mỗi khi độc
thoại. Ông nói tiếp:
- Năm 1945, mình đã ở Điện Biên Phủ đúng sau ngày 9 tháng 3, khi Nhật Bản làm đảo
chính, tiêu diệt tất cả các vị trí Pháp ở Đông Dương trong vòng vài giờ. Bọn mình đã phá vỡ vòng
vây, cùng với trung đoàn lê dương số 5 do tướng Alessandri chỉ huy kéo lên đây, hy vọng sẽ rút
được sang Trung Quốc…
- Các ông đã sang…
- Đúng. Nhưng trước khi sang Trung Quốc, phải chiến đấu để ngăn chặn bọn Nhật đuổi
theo. Chúng mình đã mất 15 ngày để hành quân tới Điện Biên Phủ. Một chiếc máy bay nhỏ đã hạ
cánh xuống sân bay này, chở tới đây ông Langlade là một điền chủ, lúc đó là đại diện của chính
phủ lâm thời Cộng hoà Pháp. Ông Langlade nói với bọn mình “Tướng De Gaulle hi vọng các ông
giữ vững cánh đồng Điện Biên Phủ. Giữ được Điện Biên Phủ, tức là cứu được xứ Đông Dương
thuộc Pháp”.
- Thế các ông đã giữ được bao lâu?
- Bốn ngày. Lúc đó, mình chỉ huy đại đội 7, hậu về của tướng Alessandri. Đại đội mình
đã chặn được bọn Nhật lúc chúng vừa thò đầu ra khỏi rừng, ở đúng địa điểm hiện nay là Béatrice.
Veyes, cậu xem đấy, không có gì khác cả. Đối với tướng Navarre cũng vậy, Điện Biên Phủ là niềm
hy vọng để cứu Đông Dương.
- Trung tá có vẻ tiếc khi chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến.
- Tuyệt đối không. Tướng Navarre đã chọn Điện Biên Phủ, vì đây là vị trí ít tồi nhất
trong toàn vùng thượng du. Ở đây, trước kia bọn mình chỉ có 50 người, đã giữ được 4 ngày. Mà
lúc đó lại đi chân đất, trang bị vũ khí từ năm 1914, hầu như không có đạn. Bọn Nhật Bản đông
gấp 50 lần, lại có bất ngờ từ trong rừng đánh ra. Chính cuộc chiến đấu của đại đội mình đã giúp
cánh quân của tướng Alessandri rút sang Lào, tới Mường Khoa, Sốp Nạo…
Trung tá Gaucher thay tốc độ, nổ máy để dẫn đến vị trí chỉ huy của đại đội 3:
- Veyes này! Nếu tình hình trở nên xấu ta vẫn có thể chạy sang Lào qua con đường dẫn
đến Sốp Nạo. Đó là con đường duy nhất có thể dùng để rút lui.
Ngồi trên nóc lô cốt của thiếu tá Pégot, trung tá Gaucher cầm cốc rượu trong tay, lắng
nghe những bài ca trong đêm. Lính lê dương rất xúc động khi được trung tá chỉ huy binh đoàn tới
thăm trong đêm lễ thánh thiêng liêng.
Gaucher liếc nhìn sang bên cạnh. Ông thấy Pégot gầy gò, căng thẳng, nhưng cặp mắt
vẫn sáng.
Gaucher có một điểm quý nể thiếu tá Pégot chỉ huy tiểu đoàn 3. Cũng như mọi người,
ông được biết thiếu tá Pégot tới Điện Biên Phủ để tìm cái chết. Trước đây, ông là phó tham mưu
trưởng của bán lữ đoàn lê dương đóng ở Hóc Môn. Ông có ý định đưa vợ sang đây sống cùng với
mình trong giai đoạn cuối nhiệm kỳ phục vụ tại Đông Dương. Những ngày đầu năm 1953 bà vợ
ông đã tới bến cảng Marseille, đáp tàu thuỷ đi Việt Nam. Rồi, một buổi sớm, Pégot nhận được một
bức điện “Đề nghị báo cho thiếu tá Pégot biết, vợ ông bị mất tích ở biển”.
Pégot im lặng nhiều ngày, không báo cho ai biết cả. Chờ đến khi tàu cập bến Sài gòn,
ông mới xin phép lên tàu, thăm khoang tàu nơi vợ ông đã ở. Không còn gì hết. Các hành lý của bà
vợ đã được đóng gói. Thuyền trưởng tàu giải thích:
- Chúng tôi cũng không hề biết gì cả. Khi gần cập bến cảng Aden chúng tôi mới phát
hiện vợ ông không có mặt trên tàu. Bà thường có thói quen đi dạo trên boong sau bữa ăn. Có lẽ bà
đã bị chóng mặt và ngã xuống biển.
Pégot không bao giờ kể lại với ai về chuyện vợ mất tích nữa. Ông gửi trả các hành
trang của vợ về Pháp rồi đến gặp trung tá Gaucher:
- Tôi đề nghị được trở lại tiểu đoàn.
Gaucher đồng ý và đưa Pégot lên Điện Biên Phủ.
- Vì Thượng đế, Thánh Barthelemy, lao vào cuộc bắn giết!
Thiếu tá Pégot, đại uý Pandi, trung uý Veyes ngơ ngác nhìn trung tá Gaucher vừa hét to
câu nói trên. Gaucher cười rũ ra và hỏi:
- Các cậu không hiểu à? Đó là mật hiệu do nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương cho
phát trên đài, ra lệnh tổng báo động khi Nhật làm đảo chính. Nhưng nhiều người lúc đó chẳng
hiểu quái gì cả. Suốt đêm các điện đài cứ phát đi khẩu hiệu đó. Nhưng đến sáng, không phải là
chuyện lao vào cuộc bắn giết nữa. Chỉ còn chuyện cầu Thánh Barthelemy phù hộ…
Gaucher đã uống quá nhiều. Giọng ông lè nhè, khi nói với Veyes trên đường về phân
khu Trung tâm:
- Veyes này! Chúng ta đang đón lễ Nô-en và mọi người đều uống rượu. Mình cũng vậy.
Nhưng cậu có biết trong giờ phút này Việt Minh đang làm gì không?
- Đang tiến đến.
- Cậu nói đúng. Việt Minh đang tiến đến. Ban nãy, mình đã nghe trung sĩ Fels thuộc đại
đội 11 báo cáo. Anh ta không uống rượu, không say. Vì lúc đó anh cùng với 4 người nữa đi tuần
tra trên đường đi Tuần Giáo, cách đây 8 kilômét. Và anh nhìn thấy địch. Việt Minh ngồi trên xe ô
tô, chú Veyes ạ! Từng đoàn xe cam-nhông, bật đèn sáng quắc. Như vậy là tướng Giáp đã chấp
nhận quyết chiến ở Điện Biên Phủ.
Ngay bên cạnh hầm chỉ huy của đại tá de Castries đã căng một lều bạt rộng lớn, trong
đó có kê một loạt dãy bàn dài trên để chai và cốc rượu. Ngồi chung quanh bàn là những đoàn sĩ
quan của tất cả các đơn vị có mặt đêm nay tại Điện Biên Phủ. Có nhiều gương mặt mới, vì ngày
nào cũng có thêm đơn vị nhảy dù xuống. Không khí chan hoà, tươi trẻ. “Một chầu rượu” vẫn là
một dịp để các sĩ quan từ mọi ngả, cách biệt nhau từ hồi đi Viễn Đông nay gặp lại nhau tại Điện
Biên Phủ. Tối nay rất đông người tới dự. Có những sĩ quan tới đây từ đợt nhảy dù đầu tiên, những
chỉ huy pháo, cối, đổ bộ đường không, những chỉ huy lính Thái từ Lai Châu tới đây hồi đầu tháng
12, những sĩ quan lê dương vừa đến từ những chuyến máy bay cuối ngày.
Đại tá Castries mặc áo sơ mi, cổ mở để lộ chiếc khăn quàng lụa màu đỏ nổi tiếng,
chung quanh là các sĩ quan trong ban chỉ huy Binh đoàn tác chiến Tây Bắc ngồi chen chuc nhau
trên ghế dài. Tham mưu trưởng Guth, chỉ huy cụm pháo Piroth, và Alloux, Noel, Trancart… nhiều
người nữa.
Ngồi gần các sĩ quan cao cấp này là Paule Bourgeade, người phụ nữ duy nhất trong tập
đoàn cứ điểm, mớ tóc nâu sẫm để dài ôm lấy bộ mặt tròn trĩnh, mặc bộ đồ ra trận.
Tướng Navarre bước vào, đi theo sau là đại tá Revol, tổng tham mưu trưởng, vẻ mặt
lạnh lùng như đá hoa và Pouget, sĩ quan tuỳ tùng chỉ đảo mắt quan sát mà không nói câu gì.
Tướng Navarre bắt tay mọi người nhưng không cười. Capeyron ngại đôi nạng gỗ của
mình có thể làm vướng lối đi cho nên ngồi ở hàng ghế cuối cùng. Ông nhìn thẳng vào mắt tướng
Navarre nhưng chỉ nhận được một cái cau mày thay cho trả lời, tỏ vẻ khó chịu.
Tướng Navarre đã quay trở lại giữa câu lạc bộ các sĩ quan. Ông nâng cốc, giữ chiếc cốc
ở ngực rồi nói chuyện. Bài nói của ông không bốc lửa, không say sưa. Các sĩ quan trẻ tuổi đang
chờ nghe những lời động viên nồng nhiệt, đem lại niềm hy vọng, cổ vũ tinh thần dũng cảm, những
lời dối trá từng sử dụng từ nhiều thập kỷ mà ai cũng biết là giả tạo nhưng người nào cũng cần
được nghe để có niềm tin.
Tướng Navarre không đi theo chiều hướng đó. Tổng tư lệnh chỉ nói “Các bạn sẽ chiến
đấu cho Điện Biên Phủ”. Nhưng, cả Capeyron và các bạn của ông trong tiểu đoàn 1 như Chounet,
Chevalier, Krumenacker đều đặc biệt không có ý định chiến đấu cho Điện Biên Phủ. Đối với họ,
đây chỉ là một địa danh chẳng có một chút lợi ích nào.
Capeyron làu bàu:
- Chiến đấu ở đâu cũng được.
Chevalier nói thêm:
- Mình muốn Tổng tư lệnh giải thích thêm lý do. Nếu cần, chúng ta sẽ chiến đấu ở đây.
Sao lại không? Nhưng đây chỉ là một thung lũng tầm thường…
Krumenacker chen ngang:
- Một “cái chảo” thì đúng hơn.
Chevalier gật đầu;
- Đối với các phi công từ trên cao nhìn xuống, Điện Biên Phủ là một cái chảo. Nhưng
chúng ta không cho đây là một cái chảo. Việt Minh cũng vậy, vì địch sẽ đánh từ dưới lên. Còn
chúng ta thì đóng ở những điểm cao chứ không phải nằm trong lòng chảo.
Nói xong, ông uống một hồi cạn cốc rượu, rồi lại nói tiếp:
- Việt Minh cũng sẽ không chiến đấu vì Điện Biên Phủ. Họ không cần đánh Điện Biên
Phủ cũng vẫn có thể tiến quân sang Lào. Họ chỉ cần để lại vài tiểu đoàn kìm chân chúng ta ở Điện
Biên Phủ rồi dốc tất cả các sư đoàn còn lại sang Lào. Còn nếu Việt Minh quyết định đánh Điện
Biên Phủ, thì đó là do Điện Biên Phủ là một biểu trưng hoặc một canh bạc gì đó. Điều này, chỉ có
tướng Giáp mới giải thích được.
- Tướng Giáp có toàn bộ chính phủ ủng hộ. Chính phủ Việt Minh chỉ có một nhóm
người. Nhưng đều là những người yên vị từ nhiều năm nay, quyết tâm theo đuổi cuộc chiến tranh.
Đây không phải là chuyện suy xét, nhưng mọi người đều liên tưởng đến tướng Navarre.
Nếu Tổng tư lệnh Đông Dương không thể tiến hành chiến tranh như mong muốn đó là do chính
phủ Pháp ở xa mãi tận Paris và đối với nước Pháp cuộc chiến tranh Đông Dương chỉ là một biến
cố đột ngột, bị một số người khinh miệt và nhiều người khác chẳng hiểu biết gì đến. Nếu các
chiến binh Pháp ở đây bị cô lập thì tướng Navarre nhất định là người bị cô lập nhất.

Căn cứ lục - không quân


Tháng 1 năm 1954
Perrin cúi gập người, hai tay chống nạng sườn, cười rất to rồi dùng khuỷa tay huých
một cái khiến cho Fattori đang ngồi xổm rải dây điện thoại phải bật dậy:
- Này, Fattori! Tớ nói đúng không, máy bay chở gái điếm vừa hạ cánh. Điện Biên Phủ
đã trở thành một thành phố pháo đài rồi!
- Chỉ còn thiếu có rạp chiếu bóng.
Đúng vậy. Cũng như ở Nà Sản trước kia, binh lính đóng tại Điện Biên Phủ hiện nay
vẫn còn phải tập trung tại sân bay xem chiếu bóng. Mà toàn là những phim cũ, rách nát, máy
chiếu lại thường hỏng hóc về kỹ thuật. Bộ phận phục vụ xã hội của quân đội chỉ chiếu toàn những
phim khô khan, không có chuyện làm tình hiện đại.
Với nhà chứa gái điếm tạm đặt trong chiếc Dakota ở đầu đường băng đã có thể giải
quyết được nhu cầu hằng ngày.
Perrin vẫn chống tay vào sườn, nói tiếp:
- Riêng tớ, tớ sẽ đi tìm kiếm chính “bà má”.
“Bà má” là tên gọi binh lính đặt cho mụ chủ cai quản lũ gái điếm, một mụ đàn bà gầy
gò, khô cứng kéo lê đôi guốc sơn màu vàng trên đường băng đầy bụi. Một tay, mụ cầm chiếc ví
xách bằng da thuộc, đồng thời cố giữ tà áo dài màu hồng tươi đang bay tung trước gió. Tay còn
lại, mụ giương giương cao chiếc dù đen tránh ánh nắng gay gắt của mặt trời.
Đi bên cạnh mụ chủ chứa là bác sĩ quân y tiểu đoàn 1, trung đoàn lê dương số 2, có
trách nhiệm bảo vệ sức khỏe cho binh lính, và cũng là ông chủ của bọn gái điếm. Lũ con gái bước
theo sau hai người, dáng điệu trơ tráo, tự tin, nhìn thẳng vào đám lính tò mò đang theo dõi bước đi
và bàn tán tục tĩu. Vài anh lính lê dương được cử đi theo mang vác hành lý gồm những chiếc va-li
nặng trĩu hoặc chỉ là những làn mây tre.
Fattori hỏi bạn:
- Bao giờ thì đến lượt chúng mình?
Perrin doạ:
- Cậu là lính mới, phải đợi đến lượt sau cùng.
Mọi việc đã làm xong, Perrin quay trở về đơn vị, gặp đại đội trưởng, giọng nói hồi hộp:
- Báo cáo trung uý! Bọn gái điếm đã tới. Đầy một chuyến bay Dakota.
Trung uý Turcy mỉm cười:
- Tôi biết rồi!
Nếu chuyện gái điếm mang lại niềm vui cho Perrin và đồng đội thì cũng là một vấn đề
phải tranh cãi nghiêm chỉnh trong ban chỉ huy. Phải đợi rất lâu sau khi đã thảo luận kỹ, ban chỉ
huy mới đồng ý để cho “kíp” gái điếm đầu tiên đến phục vụ tiểu đoàn 1, trung đoàn lê dương số 2.
Quyết định này đặt ra nhiều vấn đề thực chất cho “khách làng chơi” và rất nhiều viên sĩ
quan được cử ra đón nhận và nuôi dưỡng bọn gái điếm này. Không thể để bọn này ở ngoài trời
dưới một lều bạt mà chính họ cho là rất thuận tiện để hành nghề. Từ đầu tháng 2, tất cả đều đã
phải sống trong hầm. Bởi vì, cứ đúng vào ngày lẻ, vào quãng 4 giờ chiều thì một khẩu pháo bí mật
của Việt Minh lại nã một loạt đạn 75 vào cứ điểm. Đã xác định được đây là một khẩu pháo của
Nhật Bản, có thể Việt Minh đã tịch thu được. Lính trong cứ điểm cũng đã quen được với việc
pháo bắn và cũng mới chỉ có vài người bị thương, nhưng dù sao cũng phải đề phòng và không ai
muốn bị rủi ro một cách vô ích.
Như vậy là phải đào thêm một loạt hầm trú ẩn. Đối với công việc này, không hiếm
người tình nguyện lao động. Họ được miễn trừ việc xây dựng các công trình quân sự để đổi công
bằng việc đào hầm nhà chứa gái điếm, có đủ cả mái vòm, đường hào dẫn vào và lối thoát ra ngoài.
Một công văn được gửi tới các đơn vị, qui định ngày và giờ mở cửa nhà chứa, các đơn
vị tới thưởng thức theo thứ tự luân phiên. Những đơn vị đóng ở xa quá, tận trên cao điểm bao
quanh Điện Biên Phủ vẫn được phục vụ. Lính tại những điểm tựa này không tới được nhà chứa thì
sẽ có đội gái điếm lưu động đến phục vụ tại chỗ.
Chỉ riêng các linh mục là phản đối. Các cha tuyên uý đòi thay đổi giờ giấc đón khách,
làm sao không trùng hợp với giờ đọc kinh hoặc làm lễ rửa tội. Họ nói rất có lý.
- Nếu không làm như vậy, các con chiên sẽ sao nhãng phần đạo.
Riêng với Perrin, Fattori và một số người khác họ đã không có may mắn được thưởng
thức thú vui này. Bởi vì, chỉ 2 ngày sau khi đội gái điếm được đưa tới Điện Biên Phủ, đơn vị
Perrin được điều động đi đóng giữ Dominique 2 là một cao điểm khoá chặt cửa Đông Bắc. Đây là
một cụm cứ điểm quan trọng nhất trong dãy đồi vành đai, cao hơn mặt sông Nậm Rốm tới 80 mét.
Trung tá Piroth chỉ huy hoả lực đã quyết định đặt trên điểm cao này 6 khẩu súng cối nặng dưới sự
chỉ huy của trung uý Bergot có thể xa tới mức yểm trợ được cho cụm cứ điểm Béatrice ở bản Him
Lan. Ông nói:
- Để có thể bắn được tới chỗ chúng ta, Việt Minh phải đặt pháo trên cánh đồng, hoặc ít
nhất cũng ở sườn núi ngoại vi, đối diện với chúng ta. Địch vừa mới nổ pháo lập tức sẽ lộ ngay
mục tiêu. Mỗi khẩu pháo địch bị lộ là lập tức bị tiêu diệt ngay tức khắc.
Phản pháo là một chiến thuật đã được chỉ dẫn trong sách giáo khoa, tỉ mỉ đến từng chi
tiết, được coi như kinh thánh của lính pháo. Trung tá Piroth nói:
- Các khẩu pháo 105 và 155 của chúng ta sẽ đảm bảo việc phản pháo, nã pháo vào các
khẩu pháo địch. Còn các khẩu đội cối 120 của chúng ta sẽ chịu trách nhiệm bắn nát bộ binh địch.
Ngay sau khi có quyết định này, mỗi điểm tựa đều được tiến hành một loạt cuộc bắn
tập. Những cuộc bắn tập này, gọi tắt là CPO, tức là “diễn tập để chuẩn bị phản kích bằng pháo”
được thực hiện ngay khi có lệnh báo động. Các pháo thủ đều đã nhận được mật lệnh theo từng mã
số với ba con số.
Ba tuần lễ sau Nô-en, Điện Biên Phủ đã thay đổi rất nhiều. Căn cứ lục - không quân đã
có diện mạo mới định hình. Mỗi điểm tựa đều là một pháo đài phòng ngự kiên cố với những lớp
rào đầy thép gai, những bãi mìn, những thùng chứa ét-xăng khô napalm. Các lô cốt cố thủ đểu có
thể yểm trợ được lẫn nhau.
Vào giờ phút này đã có 7 tiểu đoàn sẵn sàng bảo vệ khu căn cứ. Các điểm tựa tuần tự
được xây dựng, dặt tên theo vần chữ cái A, B, C… Tại cụm cứ điểm Anne Marie ở Bản Kéo, các
cứ điểm A2 và A3 hiện do tiểu đoàn lính Thái số 3 đóng giữ. Tiểu đoàn này hồi tháng 12 đã được
máy bay đưa từ Lai Châu về đồng bằng, nay lại được cầu hàng không đưa lên Điện Biên Phủ.
Cụm cứ điểm Béatrice gần bản Him Lan, trấn giữ mặt Đông Bắc được giao cho tiểu
đoàn 3, bán lữ đoàn lê dương số 13 đóng giữ. Trung tá Gaucher là tiểu đoàn trưởng, cũng đồng
thời là chỉ huy trưởng binh đoàn cơ động số 9, được tăng cường thêm tiểu đoàn 3, trung đoàn bộ
binh Algerie số 3. Chỉ huy tiểu đoàn này là đại uý Papion đã hết nhiệm kỳ phục vụ tại Đông
Dương, sắp tới sẽ được thay bằng đại uý Garandeau. Hai cứ điểm Dominique 1 và Dominique 2
được xếp vào loại quan trọng bậc nhất, có nhiệm vụ như hai chòi canh án ngữ con đường 41 từ
Tuần Giáo tiến vào Điện Biên Phủ.
Cứ điểm Dominique 3 đóng trên cánh đồng, giữa đường cái và sông Nậm Rốm, có
nhiệm vụ trấn giữ khoảng cách giữa Dominique 1 và Dominique 2.
Lùi một chút về phía Nam là cụm cứ điểm Éliane. Cứ điểm Éliane 1 cao nhất do 2 đại
đội thuộc tiểu đoàn 1, trung đoàn 4 lính bộ binh Marốc đóng giữ. Nicolas đặt vị trí chỉ huy cùng
với hai đại đội tại Éliane 2, trong đống đổ nát của dinh thự quan cai trị cũ hiện đã cải tạo thành
hầm cố thủ.
Phần còn lại của những điểm tựa tạo thành vành đai phía Tây Điện Biên Phủ được
mang tên Claudine kéo dài theo dọc đường băng sân bay đến những điểm cao Anne Marie,
Huguette do các đại đội thuộc tiểu đoàn bộ binh lê dương đóng giữ, dưới sự chỉ huy của thiếu tá
Clémenson.
Cứ điểm Gabrielle là vị trí xa nhất ở phía Bắc thung lũng, như một người lính gác kiêu
hãnh và đơn độc. Quả đồi đứng trơ trọi một mình này, trước kia được binh lính Điện Biên Phủ đặt
tên là đồi Ngư lôi, giống như một tàu chiến, thành vách cao, khó có thể leo tới, lởm chởm các
nòng pháo, cối, trọng liên, bảo vệ cho các hầm chiến đấu. Đây là một doanh trại được xếp vào loại
vững chắc, do binh lính Algerie thuộc tiểu đoàn 5 trung đoàn bộ binh Algerie số 7 hồi mười năm
trước đã lập được nhiều chiến công trên chiến trường Itali, đóng giữ.
Cuối cùng, ở tít phía Nam là cụm pháo binh bảo vệ cho Điện Biên Phủ và xa nữa là
cụm cứ điểm Isabelle nằm trên mảnh đất bằng phẳng, lầy lội trong vòng lượn của con sông.
Isabelle cũng có một sân bay nhỏ dùng để cấp cứu.
Nhìn tổng quát như vậy, Điện Biên Phủ có vẻ bất khả xâm phạm. Perrin là nhân viên
phụ trách điện đài, tỏ vẻ chủ quan:
- Tôi cho rằng Điện Biên Phủ là một cái bẫy lớn. Tướng Giáp đúng là đã nghĩ đến
chuyện tiến đánh, nhưng sau đó cảm thấy không có cơ may nên đã…
Đúng là ngày 25 tháng 1 năm 1954, tướng Giáp đã ra lệnh hoãn cuộc tiến công Điện
Biên Phủ. Trong ban tham mưu của đại tá Castries, mọi người đều biết chuyện này nhưng không
ai rõ lý do tại sao.

Những đỉnh đồi phía đông


Tháng 2 năm 1954
Cứ 40 phút một lần, các khẩu pháo đặt tại phân khu Trung tâm Điện Biên Phủ lại bắn
một loạt đạn vào những quả đồi phía Đông là nơi nghi ngờ Việt Minh đã bố trí một khẩu sơn pháo
của Nhật Bản, bắn vào đường băng sân bay. Anh lính lê dương Fréderic Hoffman cười to:
- Bắn suốt đêm như thế này thì Việt Minh chợp mắt thế quái nào được!
Roger Chevalet, đồng đội của Hoffman trả lời:
- Thì chúng ta cũng chẳng ngủ được chút nào!
Từ sớm hôm trước cho tới tận tối mịt, ba đại đội thuộc tiểu đoàn 3, trung đoàn bộ binh
lê dương số 3 đã mở cuộc hành quân lùng sục các mỏm đồi phía Đông để truy tìm các khẩu pháo
Việt Minh. Lúc này, ở phía Nam phân khu Trung tâm đã xây dựng xong một cụm cứ điểm phòng
ngự kiểu “con nhìm” trong đó có hai cụm pháo. Cụm cứ điểm mới thành lập, đặt tên là Isabelle,
có nhiệm vụ yểm trợ bằng pháo binh cho tất cả các điểm tựa đặt tại Điện Biên Phủ và còn có một
sân bay dự trữ khi sân bay chính không hoạt động được.
Isabelle là một vệ tinh về mặt lý thuyết nằm trong tổng thể tập đoàn cứ điểm, nhưng
trên thực tế vẫn có thể hoạt động độc lập một cách tương đối. Đây là một cụm cứ điểm tự khép
kín, nằm trong vòng lượn của sông Nậm Rốm, có thuận lợi nhưng cũng có điểm bất lợi. Đó là
toàn bộ vị trí đều nằm trên một cánh đồng, có thể nói là một bãi lầy, mưa một chút là dễ ngập
nước ngay. Nhưng hiện nay, vấn đề này chưa đặt ra. Mùa xuân ở xứ Thái vẫn còn đang kéo dài
trên thung lũng, những dải mây mù buổi sớm nhanh chóng bị mặt trời xua tan hằng ngày.
Khi được lệnh rời Isabelle để thực hiện một cuộc hành quân chiến đấu; lính lê dương
tiểu đoàn 3 nhanh chóng chuẩn bị hành trang, lập tức lên đường ra trận. Đối với những người lính
lê dương suốt 1 tháng phải nằm cách trung tâm 5 killomét, nay được lệnh xuất phát, quả là một
cuộc chuyển quân từ Isabelle ảm đạm đến khu trung tâm nhộn nhịp.
Đêm hôm đó thật náo động. Tất cả các khẩu pháo và cối đều bắn vào những quả đồi
nghi ngờ là những vị trí địch. Đến 4 giờ sáng, các tiểu đoàn cơ động đã tập hợp chỉnh tề trong
bóng tối, dọc đường 41.
Tiểu đoàn 3 trung đoàn dù lê dương số 1 đi trước mở đường, theo sau là tiểu đoàn lê
dương số 1. Giữa hai tiểu đoàn là ban chỉ huy binh đoàn đổ bộ đường không số 2, đứng đầu là
trung tá Langlais.
Chevalet muốn biết đang hành quân đi đâu, nói một câu có tính chất thăm dò:
- Chúng mình sẽ thanh toán khẩu pháo Nhật.
Từ khi không còn phải phụ trách tiểu đội, Chevalet có vẻ như trẻ lại. Anh đã được
trung đội trưởng Paladini đồng ý cử làm trinh sát viên, cùng một nhóm với Hoffman là đồng đội
thân nhất. Cheva et nói tiếp:
- Mình hy vọng sẽ tóm gọn.
Đó cũng là ý kiến của Hoffman.
Trong khi đó, đoàn quân vẫn tiếp tục tiến về phía Đông. Địa hình rất khó vượt. Vừa ra
khỏi cứ điểm Dominique tốp trinh sát đã lọt vào một khu rừng cây cối rậm rạp, rất nhiều gai. Đã
gần ba tháng nay, người dân Thái không lên nương làm rẫy, cây cỏ mọc rất nhanh và nhiều.
Lúc mặt trời mọc, các tiểu đoàn lê dương đã tới chân những dãy núi nghi ngời Việt
Minh đặt pháo. Có vẻ như ở đâu đó trong rừng, những khẩu sơn pháo 77 mm của Việt Minh đang
được nguỵ trang kỹ.
Đến 8 giờ sáng, các khẩu pháo ngừng bắn về phía nghi ngờ có Việt Minh. Bây giờ đến
lượt bộ binh xuất kích. Tiểu đoàn 3, trung đoàn bộ binh lê dương số 3 dẫn đầu, phía trái có tiểu
đoàn lính Thái số 3. Cách vài trăm mét phía phải là tiểu đoàn dù lê dương và tiểu đoàn bộ binh
Algerie số 3 xuất phát từ Dominique. Một cuộc hành quân tác chiến đúng bài bản, cổ điển,
nghiêm chỉnh, chắc chắn. Ban chỉ huy không nghi ngờ gì về kết quả sẽ đạt được. Lính lê dương
truyền nhau một công thức tóm tắt “Phá hết rồi rút”.
Đội trinh sát đang dò đường tiến lên những đỉnh đồi. Họ đã vượt được khoảng 300 mét
đường dốc để tiến đến đỉnh điểm cao 780. Cây cối rất rậm rạp. Phải luồn dưới những cành thấp,
phải gỡ các bụi gai, phải bò sát dưới những dây mây, phải đi vòng qua những cây to.
Vài trung đội đã tới được những mục tiêu ấn định nhưng không thấy Việt Minh chống
trả. Ngược lai, một số trung đội khác bị bắn rất mãnh liệt khi đặt chân tới đỉnh đổi. Đến 9 giờ
sáng, trung tá Langlais phải cho ngừng cuộc tiến quân để chấn chỉnh lại các tiểu đoàn, tập trung
cho các đơn vị tại một số điểm cao để chuẩn bị tiến đánh các mỏm đồi lân cận.
Trung uý Beauchamp, chỉ huy đại đội 10, nói:
- Bây giờ đến lượt chúng mình đây. Đại đội sẽ tiến đánh đỉnh đồi đã bị cháy rụi phía
trước mặt.
Đó là điểm cao 700.
Lính lê dương tiến theo đội hình phân tán, hoả lực sẵn sàng hỗ trợ cho các trinh sát
viên một khi bị Việt Minh đánh lại.
Nhưng không phải kẻ địch cản trở cuộc tiến quân. Mà là những sườn đồi dốc của mỏm
700. Nhìn từ trên cao hoặc từ xa có vẻ như rất dễ trượt vì những quả đồi này đều đã bị ném bom
napalm. Nhưng binh lính vẫn leo lên rất chậm vì rừng quá rậm. Bom napalm chỉ thiêu cháy các lá
cây, vẫn còn rất nhiều cành thấp và dây leo phía dưới. Hơn nữa, các trinh sát viên có cảm giác như
bị lộ vì không có gì che phủ phía trên đầu, dễ bị địch phát hiện và nhằm bắn. Trong khi đó phía
dưới chân lại vướng víu như bị mắc trong mảng lưới thực sự đã bị đốt cháy đen sì, để lại trên mặt
và trên quần áo những vết nhọ.
Chevalet nói châm biếm:
- Không cần phải nguỵ trang gì cả, Việt Minh có nhìn thấy chúng mình, sẽ tưởng là
những con ngựa vằn.
Hoffman cãi lại:
- Nhưng chúng ta không được giúp đỡ, yểm hộ.
Chỉ còn 50 mét nữa là tới đỉnh đồi. Rồi 30 mét nữa. Không khí nồng nặc mùi cỏ cây bị
thối rữa hoà với mùi tro than bị ét-xăng đốt cháy. Trời rất nóng và nắng. Nhìn từ phía dưới lên,
vòm trời như lay động. Mọi người bắt đầu thấy khát. Đã 10 giờ.
Đúng vào lúc trung đội 2 tiến đến đỉnh đồi thì trận đánh bùng nổ. Việt Minh đã phục
sẵn phía bên kia đỉnh núi, trong những hầm hố nguỵ trang kỹ, máy bay rất khó phát hiện. Họ nã
súng vào tốp trinh sát đúng với tầm bắn, từ những vị trí giấu quân rất tốt, không ai đoàn biết được.
Lính lê dương hoàn toàn sửng sốt trước chiến thuật của Việt Minh mà họ không tài nào
hiểu được. Theo lý thuyết thì vị trí phòng ngự tốt nhất là đặt trên đỉnh núi… nơi có thể bắn chặn
khi đối phương đang leo lên. Đã có câu châm ngôn nổi tiếng “chiếm được đỉnh núi là giữ được
chân”. Hơn nữa, khi chiếm được ưu thế. Vậy mà, Việt Minh lại để cho đối phương dễ dàng leo lên
tận đỉnh. Trong khi đó Việt Minh nằm chờ sẵn ở phía bên kia, nã súng bắn đúng lúc lính lê dương
đang chủ quan, bất ngờ.
Trung đội trinh sát nằm dán mình trên mặt đất, ném lựu đạn vào những hầm hố phía
trước. Từ những bụi cây phía sườn đồi trước mặt, bộ đội Việt Minh xông ra phản kích, cầm súng
ngang người bắn vào lính lê dương theo nhịp còi.
Chevalet kêu to, hoảng hốt:
- Lạy Chúa tôi! Có địch!
Hoffman nối lời:
- Mà đây mới chỉ là những tốp đầu tiên. Chúng còn đông lắm.
Quả thật, quân địch tới liên tiếp từng đợt tưởng chừng như không bao giờ chấm dứt. Để
phản kích, một đại đội lê dương, địch hình như có tới một tiểu đoàn. Mà toàn là những bộ đội
thiện chiến, lẩn rất nhanh từ gốc cây này sang gốc cây khác, vụt một cái đã ra ngoài tầm bắn của
các xạ thủ lê dương.
Hai bên đã tiến sát tới mức có thể giao chiến giáp lá cà. Một lính Việt Minh nhảy tới
trước mặt Chevalet, nã một loạt đạn ngang bụng suýt nữa có thể tiện đứt Chevalet ra làm đôi.
Nhưng Hoffman, đã thấy trước mối nguy và đã bắn lại rất kịp thời. Người lính Việt ngã vật xuống,
loạt đạn trúng vào thắt lưng da của Hoffman làm cho trái lựu đạn rơi xuống như một quả trứng.
- Rút!
Mệnh lệnh được truyền đi từ tiểu đội này đến tiểu đội khác. Trung uý Beauchamp nhìn
thấy bộ đội địch tràn tới, đã kịp thời ra lệnh lui quân. Chỉ trong vòng vài phút chiến đấu, đại đội
11 lê dương đã có 4 lính bị chết, 11 bị thương. Đại đội bắt đầu leo xuống núi, chậm chạp, nặng nề
vì phải dìu thương binh.
Đến lưng chừng núi, đại đội lại bị đạn trọng liên của địch từ các điểm cao bên cạnh bắn
tới, tiếp theo là một chùm đạn súng cối. Lại có thêm người chết và bị thương.
Hoffman vác Chevalet trên vai, vứa buồn vừa tức. Buồn vì người bạn thân nhất đang bị
thương rất nặng, tức vì bất lực, không trả thù cho bạn được.
Vài giờ sau, đến lượt tiểu đoàn lính Thái số 3 cố đánh lên cao điểm 700, nhưng vẫn lại
vấp phải lưới lửa dày đặc của súng máy và súng cối của địch, đành phải bỏ cuộc. Đến cuối buổi
chiều, cả đại đội 11 đến tăng viện cho đại đội 10 lê dương cũng phải rút lui. Việt Minh vẫn giữ
nguyên vị trí hầu như không tài nào vượt qua được.
Tiểu đoàn 3 không phải là đơn vị duy nhất bị thất bại. Trên thực tế, không đơn vị nào
đánh chiếm được dãy núi phía Đông do Việt Minh nắm giữ. Cây cối rậm rạp che khuất những ụ
súng và những hầm chiến đấu của địch được nguỵ trang rất kỹ, từ đó đã ẩn náu từng trung đội
địch hầu như hoàn toàn làm chủ trận địa.
Đại đội 4 lính dù lê dương đã phải đối phó với những ổ súng tự động bố trí chìm dưới
mặt đất, nòng súng chỉ thò ra ngoài vài centimét. Mãi đến giây phút cuối cùng lính lê dương mới
phát hiện ra những ổ súng này, cũng chính là lúc họ bị đạn địch bắn ngang cẳng chân. Trong số bị
tử trận như vậy có cả đại uý Cabiro. Đã phải tổ chức một cuộc phản kích, tập trung tất cả mọi lực
lượng để scụ tìm đại uý. Trong cuộc tìm kiếm này, có thêm bốn lính lê dương nữa trúng đạn. Cuối
cùng, bất chấp lựu đạn ném từ trên đỉnh núi xuống, thiếu uý Boisbouvier đã mang được xác đại uý
Cabiro trở về.
Ngày hôm sau, các tiểu đoàn ở Điện Biên Phủ lại cố giành kiểm soát những mỏm đồi
phía Đông một lần nữa, nhưng vẫn không thành công. Đến ngày 15 tháng 12 cuộc hành quân lùng
sục chấm dứt. Kết quả: 13 binh lính và sĩ quan bị chết, 9. người bị thương. Ngoài ra, còn có 3 lính
Thái đào ngũ. Điều đáng chú ý là phần lớn lính Thái tiểu đoàn 3 đều là người quê Sơn La, nơi Việt
Minh đã kiểm soát hơn một năm nay. Họ muốn trở về nhà sau khi tính toán đồng lương của lính
không tương xứng với rủi ro về tính mạng.
- Họ chỉ đơn giản là trở về nhà thôi…
Nhưng, từ bữa đó trở đi, cứ hỏi đến lính Thái là được trả lời:
- Chúng nó “về nhà” rồi!
Nếu cứ theo đà này, tiếp tục vài tuần nữa thì không còn lính Thái để giữ đồn nữa, và
các đơn vị lính Thái cũng sẽ tan biến trong làn gió hốt hoảng đang lan tràn khắp các đơn vị ở Điện
Biên Phủ. Nhưng dù sao, cũng vẫn có những người lính Thái trung thành ở lại cho đến tận những
giờ phút cuối cùng.
Còn trong lúc này thì các tiểu đoàn đang băng bó các vết thương. Hoffman đã quay trở
lại cụm cứ điểm Isabelle. Cuộc sống ở đây đối với anh lại buồn tẻ, ảm đạm với công việc hằng
ngày là sửa sang công sự, đào hào thoát nước, tập bắn và tuần tra thăm dò chuẩn bị cho những trận
phản kích.
Đó là công việc mà lính lê dương buộc phải làm một cách miễn cưỡng. Không phải chỉ
những cuộc tuần tra ban đêm kéo dài hầu như vô tận làm họ chán ngán mà chính là vì họ phát hiện
thấy con đường ngắn nhất để cứu viện cho các cứ điểm Claudine và Éliane nằm ngay dưới tầm
súng cối địch. Binh lính bảo nhau:
- Đó là con đường tự sát.
Đôi khi, cảnh buồn tẻ hằng ngày đột nhiên náo nhiệt hơn bình thường. Đó là việc chuẩn
bị đón tiếp các nhân vật quan trọng. Quốc vụ khanh phụ trách quốc phòng, ngài Chevigné, tới
thăm Điện Biên Phủ ngày 7 tháng 2. Bộ trưởng quốc phòng Réne Pleven tới Điện Biên Phủ ngày
19.
Những chuyến đi thăm thị sát kiểm tra này đã đem lại niềm vui cho đám lính lê dương
xếp hàng dọc theo đường băng để làm lễ nghênh đón. Hôm đó, ngài Bộ trưởng Quốc phòng mặc
một bộ đồ màu xanh nhạt, không phải là thường phục, mà cũng không hoàn toàn là quân phục.
Ngài sắn ống quần, đội một chiếc mũ vải, vành mũ cụp xuống, nom giống như một ngư dân câu
tôm hơn là một vị bộ trưởng chiến tranh.
Hoffman ghi trong nhật ký:
“Phải thừa nhận, ngài bộ trưởng có một cử chỉ đáng yêu: tối hôm đó, anh em được phát
rượu khai vị, rồi lại cả rượu để tiêu cơm, một chai Pernod cho 12 người, một chai cho 24
người…”.

Chiến hào bao vây Béatrice


Tháng 3 năm 1954
- 7 giờ sáng mai, 11 tháng 3, tập trung toàn đại đội. Quân phục chiến đấu. Mang theo
xẻng, cuốc.
Đại uý Pichelin gấp lại mảnh giấy vừa đọc. Đó là lệnh của thiếu tá tiểu đoàn trưởng
Tourret. Sau đó, ông khom lưng, cúi thân hình quá khổ, ra khỏi lô cốt.
Sau khi nghe lệnh của cấp trên, trung sĩ Carre nói:
- Đúng rồi, lại đi lấp các chiến hào địch bao vây Béatrice đây mà!
Carre là một hạ sĩ quan có cá tính xấu nhất trong toàn thể tiểu đoàn dù số 8. Đại uý
Pichelin, biết rõ tâm tính các hạ sĩ quan dưới quyền chỉ huy của mình, thường vẫn phải giải thích
cho Carre mỗi khi cần truyền đạt một chỉ thị phiền toái.
Thiếu uý Pastor quay về phía Carre, nói thêm:
- Hôm nay là phiên của tiểu đoàn dù lê dương. Ngày mai sẽ đến lượt tiểu đoàn dù thuộc
địa chúng ta.
Carre vẫn mím chặt môi không nói gì. Trung sĩ cảm thấy trước phản ứng của lính dù
người Campuchia trong trung đội của mình. Những người lính này chẳng ưa gì công việc phải đi
lấp một đoạn hào của địch đang lấn dần về phía cứ điểm. Phải giao chiến với Việt Minh, chiếm
giữ được đoạn hào đó rồi mới có thể san lấp được. Và đến khi lính dù quay trở về thì bộ đội Việt
Minh lại quay trở lại, tiếp tục đào lấn. Chiến hào Việt Minh cứ như một chứng bệnh ngoài da, lan
rộng khắp thung lũng, bắt đầu từ bìa rừng rồi tới chân những dãy đồi phía Đông.
Lúc này Carre mới bộc lộ ý kiến;
- Thôi, không nói đến chuyện ấy nữa. Mời ông đi với tôi tới chỗ các hạ sĩ quan, uống
một chầu rượu tiễn biệt thằng Bordas.
Pastor thở phào nhẹ nhõm. Thế là không phải giải thích cho Carre một điều khó thuyết
phục nổi. Pastor chưa có thực tế trong cuộc đời binh nghiệp để có thể nói như Bordas “Làm đi rồi
làm lại, chẳng qua cũng chỉ là làm”.
Pastor là một sĩ quan duy nhất của đại đội phải chỉ huy một trung đội. Đáng lẽ, cấp
trung đội trưởng chỉ là hạ sĩ quan cấp trung sĩ, thượng sĩ chứ không phải như Pastor, đã là sĩ quan
cấp thiếu uý. Anh thuộc ngạch dự bị, tình nguyện sang Đông Dương, bản chất hiền hoà, bình tĩnh,
vóc người cao to, tóc hung, để ria mép như một số sĩ quan muốn tạo vẻ già trước tuổi để dễ chỉ
huy, nhưng vẫn không đánh lừa được ai.
Pastor đi dọc theo hầm chỉ huy của thiếu tá Tourret, rẽ tay phải, đi qua một thân cây
khô phía trên có đặt một phi nước 200 lít, rồi bước vào hầm các hạ sĩ quan đại đội 2. Trong hầm
nồng nặc khói thuốc lá.
Một vài gương mặt quen thuộc hiện ra dưới ánh sáng của những cây nến cắm trên chai
rượu bia. Phần lớn là những gương mặt ít quen biết. Đó là những hạ sĩ quan đến từ những đơn vị
khác. Tất cá có 25 người ngồi chen chúc nhau trong gian hầm dài 5 mét, rộng 2 mét.
Pastor hỏi:
- Thế Bordas đâu?
- Có tôi! Báo cáo thiếu uý, tôi muốn nói thẳng ra, là … (Bordas ngần ngừ một lát, cố
nở một nụ cười trên khuôn mặt nhăn nhó rồi nói tiếp). Thưa thiếu uý, tôi muốn tếch khỏi chỗ này
ngay lập tức.
- Vì sao?
- Như tôi đã báo cáo. Tôi đã hết nhiệm kỳ phục vụ tại Đông Dương. Ông biết rõ rồi
đấy! Ba năm. Ba năm không nghỉ phép, không ngừng việc, không có gì cả. Toàn là những cuộc
hành quân dã ngoại, đóng quân trong đồng ruộng, sục sạo trong rừng rú, rồi bây giờ là chui rúc ở
Điện Biên Phủ. Tôi ngán quá rồi.
Pastor vốn không ưa giải thích, nói:
- Tôi hiểu.
Carre lập tức chen ngang:
- Mày xéo đi! Tâm trạng mày không được ai đồng tình cả. Mọi người sẽ làm thay mày.
Bordas vặn lại:
- Mày cứ việc ở lại. Tao cứ đi. Đó là tất cả sự khác nhay. Hãy nhớ lời tao đã nói với
mày, hãy kết thúc cuộc đời tốt đẹp trong trung đội. Nay mai, chúng mày sẽ đánh nhau một trận ra
trò với Việt Minh. Trong lúc đó thì cái thằng Bordas là tao đây sẽ làm gì? Nó sẽ ở Pháp uống rượu
say trong quán Château Margaux để tưởng nhớ tới chúng mày.
Preignon bình phán:
- Được đấy, mày là thằng gặp số đỏ, có thể đi ngay từ bây giờ.
Bordas tỏ vẻ nhiệt liệt tán thành và càng hồ hởi nói to:
- Hàng tá đàn bà con gái sẽ theo tao. Có đủ nhà trọ để chứa chúng nó. Và cả quầy rượu
nữa! Cả khách sạn loại sang… Có đủ mọi thứ, trong lúc chúng mày phải ở đây, phải ngủ trong
hầm, hang chuột bẩn thỉu, phải ăn đồ nguội trong ga-men và bị nện đòn…
Bordas đã đứng dậy, nhưng không cười nữa:
- Đúng vậy! Tớ rất thích được ra đi. Được nhìn thấy tất cả các cậu như thế này, tớ rất
vui.
Prignon kịp đỡ lấy Bordas trước khi viên hại sĩ quan này gục xuống. Mọi người dồn
dập hỏi:
- Nó làm sao thế?
- Nó khóc!
Cuộc họp giải tán và sáng hôm sau là cuộc tập hợp để hành quân đi lấp chiến hào.
- Nhanh lên! Tiến lên phía trước!
Từng trung đội thuộc đại đội 3 lần lượt chui ra khỏi hầm, đi ra tập hợp trước chiếc cầu
sắt mang tên Bailly do công binh vừa mới lắp xong phía trước bãi đậu máy bay. Thời tiết báo hiệu
một ngày đẹp trời, vòm trời như được lau rửa bởi lớp sương tan đang ửng hồng ở phía Đông.
Đại uý Pichelin bước qua cầu bằng cặp giò dẻo dai. Theo sau là nhân viên điện đài.
Theo gót họ là trung đội do thiểu uý Pastor chỉ huy. Trung sĩ Carre đi cuối cùng.
Đại đội 2 đi dọc theo con đường dưới chân cứ điểm Dominique 2. Lính trinh sát bắt
gặp giữa đường đội lao công ngồi trên xe tải đi lên trung tâm Điện Biên Phủ để lĩnh lương thực,
đạn dược phân phối cho các đơn vị.
Pastor nói với hạ sĩ trung đội phó Le Brenn:
- Thật kỳ cục, người thì đi tuần tra, người thì làm công việc bình thường hằng ngày.
- Cũng là lao động cả…
- Tất nhiên. Nhưng, hoặc là chiến đấu, hoặc là nghỉ ngơi lấy sức. Còn đây, cậu nhìn
xem. Tụi bộ binh thì đang chăm lo nhặt từng kiện hàng có đánh dấu thực đơn bữa ăn trưa. Còn
chúng mình thì…
- Chúng mình ấy à? Đến mai sẽ đổi phiên. Tụi lính bộ binh sẽ đi tuần tra. Chúng mình
lại được một ngày thư giãn. Người nào lo việc người ấy.
Phía sau có tiếng động cơ nổ ầm ầm. Hai chiếc xe tăng được lệnh đi yểm trợ cho đại
đội 2 đang đi tới từ phía Nam, cuốn tung bụi mù trên đường. Từ lễ Nô-en đến nay, xe bọc thép là
bạn đồng hành không bao giờ tách rời các đơn vị tuần tra. Một tình cảm thân quen bắt đầu nảy nở
từ những cuộc tiếp xúc gặp gỡ hàng ngày giữa hai thứ quân, tối đến lại cùng nhau trò chuyện râm
ran không dứt trong nhà ăn chung. Tối hôm trước, đại diện đơn vị trinh sát bằng xe cơ giới là Ney
và Willer cũng được mời tới uống rượu chia tay với trung sĩ Bordas. Sáng nay, họ lại cùng đi yểm
trợ cuộc tuần tra của đại đội 2. Ney ngồi ở chiếc xe tăng mang tên Ettlingen. Willer ngồi trong xe
tăng mang tên Conti. Họ đứng trong tháp pháo, đội mũ bê-rê của lính leo núi Gurkha, giơ tay chào
lính dù đang hành quân bộ rồi hỏi thăm:
- Thế nào, Bordas ra đi rồi chứ?
- Rồi! - Carre nói - Phải dìu cậu ấy lên máy bay. Hắn không được tươi tỉnh lắm.
Đã vượt qua dãy đồi Dominique. Bây giờ, trước mắt các trung đội chỉ còn lại một đoạn
đường nữa là rẽ phải, đi tới Béatrice. Đến cứ điểm này công việc thật sự mới bắt đầu. Lính trinh
sát người Campuchia của đại đội 2 đã rất thông thạo với địa hình này. Họ leo núi, đi tắt qua những
mỏm đồi trên bờ sông Nậm Rốm và là những người đầu tiên đặt chân tới những lớp chiến hào
địch đào lấn được để bao vây Béatrice ở gần bản Him Lan.
- Màu xanh số 1. Địch đã rút. Hết!
“Màu xanh số 1” là mật hiệu của trung sĩ trưởng Marty, chỉ huy trung đội 1, một hạ sĩ
quan thiện chiến đã phục vụ hai nhiệm kỳ ở Đông Dương, bảy lần được tuyên dương, đang chờ
nhận Bắc đẩu bội tinh. Cũng như Marty, binh lính trong trung đội đều là lính chuyên nghiệp, cần
cù, hoạt động chính xác, không kêu ca phàn nàn. Họ xông lên phía trước, vượt qua khúc chiến hào
địch đào dở dang, theo sau các trinh sát viên có nhiệm vụ báo động khi gặp địch. Rồi họ tản ra các
bụi cây, yểm trợ cho những trung đội phía sau đang tiến đến.
Bây giờ, mọi người đã khoác súng ngang vai, cầm lấy cuốc xẻng để lấp hào. Thỉnh
thoảng các hạ sĩ quan lại gài một vài quả mình cá nhân xuống lớp đất mềm đã lấp, để bẫy những
kẻ địch thiếu khôn ngoan, ban đêm ra đào lại đoạn hào đó bị lấp sẽ chạm xẻng vào mìn, gây nổ.
Carre làu bàu nói:
- Chẳng hiệu quả lắm, nhưng cũng doạ được một số.
Một lúc khá lâu, binh lính chểnh mảng việc lấp hào vì mải nhìn những chiếc máy bay
Bearcat từ sân bay Điện Biên Phủ bay lên, lượn vòng trên những dãy núi phía Đông. Thỉnh thoảng
lại có một chiếc vụt nhào xuống gần như thẳng đứng, rồi vọt lên cao trong khi những bụi cây dưới
đất bốc lên những luồng khói màu sám bẩn, báo hiệu máy bay vừa bắn phá những vị trí tình nghi
là có bố trí khẩu pháo Nhật 77 mm.
Liên tục những ngày này, cứ đến 17 giờ là khẩu pháo này lại đã đạn vào các vị trí của
Pháp ở phân khu Trung tâm.
Chợt có tiếng súng nổ. Pichelin vồ lấy điện đài, gọi trung đội trinh sát. Marty báo cáo:
- Địch phản kích! Chúng đang từ nơi giấu quân xông ra. Năm phút nữa chúng sẽ tới
đây.
Pichelin hạ lệnh cho đơn vị chuẩn bị chiến đấu, chỉ để lại một bộ phận ở phía sau tiếp
tục lấp hào. Việt Minh có súng cối và trọng liên bố trí ở bên kia sông bắn tới. Lính thuộc địa người
Campuchia do Carre và Pastor chỉ huy xông lên đón đánh bộ binh địch. Cuộc đụng độ kéo dài
suốt hai giờ. Để giải quyết dứt điểm, Pichelin kêu gọi đại đội xe tăng Chaffee tới hỗ trợ. Rồi yêu
cầu cả pháo binh bắn yểm trợ.
Cuối cùng, không quân cũng phải can thiệp, máy bay tới ném bom chỉ cách quân Pháp
có 50 mét. Đến lúc đó, Việt Minh mới chịu rút.
Đến 16 giờ, đại đội 2 trở về căn cứ xuất phát. Việc đầu tiên của binh lính là ra sông tắm
rửa, muốn kỳ cọ hết những gì bám trên da thịt. Đơn vị này có thói quen phải ăn mừng chiến thắng.
Nhưng ngày hôm nay, dù có làm chủ được trận địa họ vẫn có cảm tưởng không giành được chiến
thắng.
Còn với các đơn vị khác ở Điện Biên Phủ, tuy có nghe thấy tiếng súng giao tranh ở
phía Đông Bắc khá xa, nhưng ngày 11-3-1954 vẫn bình thường như mọi ngày trước đó. Thời tiết
hôm đó tuyệt đẹp, bầu không khí nhẹ nhàng lúc cuối mùa kéo dài suốt mấy ngày trước khi chuyển
sang đợt gió mùa đầu tiên. Nhưng trên căn cứ vẫn xuất hiện một lớp bụi mỏng thường xuyên bốc
lên cao từ những cánh quạt máy bay và những chuyến xe tải chuyển vận không ngừng như những
con thoi giữa đường băng sân bày và các nhà kho vật liệu.
Tiếng động gần như bão hoà. Máy bay Dakota tới tấp lên xuống, hối hả bay về Hà Nội
trước khi trời tối, pháo 105 mm yểm trợ cho những đội tuần tra đên, xe tăng Chaffee nổ máy,
xưởng phát điện nạp lại những bình ắc quy dự trữ…
Làm xong việc thường ngày, binh lính bắt đầu lang thang đi chơi từ lô cốt này đến lô
cốt khác, hoặc tới căng tin rồi trở về tay ôm một đống hàng hoà vừa mua được như thuốc đánh
răng, vài chai bia…
Thời gian nhẹ nhàng trôi đi trong hoàng hôn. Lát nữa, Điện Biên Phủ sẽ chìm trong
bóng tối, toàn bộ Điện Biên Phủ chỉ có vài ánh đèn hiếm hoi. Các bếp ăn của tiểu đoàn đã bốc
khói. Ở Điện Biên Phủ, binh lính ăn bữa tối sớm hơn thường lệ, cũng như tại các bệnh viện.
Khẩu pháo Nhật từ đầu tháng 2 cứ đến giờ này là bắn vào sân bay, tối nay im bặt. Đúng
là cuối buổi chiều pháo 155 của trung đoàn pháo binh thuộc địa số 4 đã bắn phá ác liệt vị trí tình
nghi, cùng với các máy bay ném bom B-26 từ Cát Bi tới, trút xuống những trái bom 250 pound.
Nhưng liệu tối mai, khẩu pháo này có tiếp tục hoạt động nữa không?
Lính lê dương thuộc tiểu đoàn 1, bán lữ đoàn 13 mang súng mới ra lau chùi. Có thể
ngày mai lại thêm một nhân vật quan trọng nào đó tới thăm Điện Biên Phủ.
- Báo cáo trung uý! Đại uý Chounet cho gọi.
Turpin ngạc nhiên. Thông thường, những mệnh lệnh tuần tra và phục kích đêm chỉ phổ
biến vào lúc 7 giờ rưỡi tối. Bây giờ mới 5 giờ chiều. Ông vội vàng chụp chiếc mũ bê-rê lên đầu
rồi bước ra khỏi hầm. Chỉ vài bước chân, Turpin đã tới hầm chỉ huy đại đội, đặt ở rìa con đường
màu trắng đi dọc Điện Biên Phủ theo hướng Bắc-Nam, sau những lớp rào kẽm gai của cụm cứ
điểm mang tên Junon.
Vừa nhìn thấy Turpin, đại đội trưởng Chounet đã tới nói ngay.
- Cấp trên chuyển anh sang chỉ huy đại đội 11.
- 11 à? Đại đội này không thuộc tiểu đoàn mình.
- Tất nhiên. Nhưng trung uý Bedeaux là đại đội trưởng bị thương, máy bay đã đưa về
Hà Nội.
- Thế phó của Bedeaux đâu?
Chounet lắc đầu:
- Không có phó. Carriere tạm quyền nhưng cũng đã phải chuyển đi chỉ huy đại đội 9.
Tiểu đoàn 3 của chúng ta thiếu cán bộ. Mỗi đại đội chỉ có một sĩ quan chỉ huy.
- Thôi được. Nghĩa là tôi phải đi ngay?
- Đúng. Xe Jeep của ban chỉ huy sẽ đưa anh tới Béatrice. Phó của anh sẽ lên làm trung
đội trưởng.
Turpin giơ tay chào rồi bước ra ngoài.
Có những tiếng kêu làm Turpin chú ý. Anh ngừng đi, nhìn về phía sân bay, nơi vang
vọng những tiếng động.
Khẩu pháo Nhật lại như mới thức giấc. Nó đang nhằm mục tiêu là chiếc máy bay vận
tải to đùng Fairchild Packet C-119 đổ ở đường băng từ ngày hôm trước vì hỏng máy. Sau vài phút
đầu chuệch choạc, Việt Minh đã bắn trúng lưng chiếc máy bay. Đây là một quả đạn may mắn đủ
để làm cho máy bay bốc cháy. Mới đầu ngọn lửa còn bập bùng không ổn định nhưng sau đó đã
bốc to mặc dù đội bảo vệ của trung sĩ Peyrac ra sức chữa cháy.
Những lính dù thuộc tiểu đoàn xung kích số 8 đứng ở điểm tựa Epervier quan sát, bình
luận. Họ vừa mới hoàn thành một cuộc tuần tra, tắm rửa ngoài sông rồi trở về. Nhiều người cười
đùa khi nhìn quang cảnh bắn phá ở sân bay. Trung sĩ Carre nói:
- Thế là có một “quả chuối” Việt Minh đã đạt kết quả!
Preignon không tán thành câu nói đùa của Carre:
- Mất chiếc máy bay Packet là thiệt hại to lớn của lực lượng vận tải đường không đấy!
Trung tá Langlais đứng cách đó vài mét. Trên cương vị của ông, với những thông tin
mà ông nhận được, không có gì đáng cười vui cả. Nếu đám lính kia cũng ở vị trí như ông, chắc họ
cũng không đùa tếu như vậy… Nhưng họ không hiểu điều đó. Vì vậy, họ đã ngạc nhiên khi thấy
Langlais quát mắng:
- Không có gì đáng cười đùa cả! Đi ngay ra giúp đội bảo vệ dập tắt lửa!
Chữa cháy ư? Có gì cứu chữa được đâu. Ngọn lửa đã tràn tới khoang chứa chất đốt.
Chiếc máy bay Packet rung chuyển, lảo đảo, mũi chúc xuống đất, đuôi chổng lên trời trong đám
lửa đỏ rực.
Trung uý Turpin nhìn thấy cảnh này từ phía xa. Anh trèo lên xe Jeep không nói một lời,
lơ đãng chào lại những lời chúc mừng tiễn biệt của toàn trung đội đang xếp hàng bên đường trong
tư thế đứng nghiêm.
Turpin thuộc lòng đường đi tới Béatrice. Không phức tạp lắm. Tất cả các đội tuần tra
xuất phát từ khu Trung tâm đều đi trên con đường này. Trước hết, phải vượt qua cống xây ở sông
Nậm Rốm nằm ở phía dưới trạm phẫu thuật tiền phương của bác sĩ Grauwin, rẽ về bên trái con
đường 41 ở chân cứ điểm Éliane 4.
Khoảng 500 mét nữa, đến cụm Dominique. Đường 41 khi gặp Dominique 2 chuyển
thành màu đất đỏ, đến Dominique 1 lại là đất sét màu xám. Từ đây, chiếc xe Jeep rẽ tay phải,
phóng thẳng theo hướng Đông. Hai lần rẽ sang trái nữa là đến ba điểm cao của cụm cứ điểm
Béatrice.
Đó là lãnh địa của tiểu đoàn 3, bán lữ đoàn lê dương số 13.
Một con đường nhỏ có thể đi xe ô tô lượn giữa hai quả đồi dẫn đến vị trí. Turpin xuống
xe đi về phía trụ sở ban chỉ huy đại đội. Theo sau là anh lính cần vụ mang vác hành trang.
Turpin bước vào hầm lô cốt là vị trí chỉ huy của thiếu tá Pégot, chỉ huy tiểu đoàn 3.
Pégot nói trước:
- Chúc mừng anh đã tới!
Turpin mỉm cười, giơ tay chào và cảm ơn.
Pégot nói tiếp:
- Anh tới trình diện với phó tiểu đoàn trưởng là đại uý Pardin để nhận chỉ thị cụ thể.
Trái ngược với dáng vẻ khô khan của tiểu đoàn trưởng Pégot, tiểu đoàn phó Pardin
luôn tỏ ra vui vẻ, lạc quan trong cuộc sôngs. Ông nói bằng một giọng còn đọng dư âm kéo dài của
chiến khu trên đảo Corse:
- Đại đội 11 trấn giữ mặt Đông - Đông Nam của cụm cứ điểm. Từ nhiều ngày nay, Việt
Minh đào lấn một chiến hào đã sát gần đỉnh núi ở phía bên kia đường 41. Sáng nào các trung đội
cũng phải ra lấp hào. Hôm nay xảy ra một trận giao chiến, trung uý Bedeaux đã bị thương.
Pardin sửa lại cặp kính mắt rồi châm một điếu thuốc lá tiếp theo, nói thêm;
- Anh là sĩ quan duy nhất của đại đội vì vậy sẽ phải mất nhiều thời gian để thích nghi.
Công việc đang khẩn trương. Có điều may mắn là các hạ sĩ quan dưới quyền anh đều vững vàng.
Trong trường hợp bất trắc, anh có thể tin vào họ. Căn cứ vào tình hình thực tế, tôi nghĩ rằng chúng
ta sắp bị tiến công đến nơi.
Trung uý Turpin bước ra khỏi hầm chỉ huy. Anh lại theo con đường mòn xuống núi,
bước qua một cái khe rồi lại leo lên dốc, tới quả đồi bên cạnh là nơi tập trung toàn đại đội.
Một thượng sĩ ra đón, xưng tên:
- Tôi là Fels, trợ lý đại đội.
Turpin theo viên hạ sĩ quan bước vào hầm chỉ huy, nói:
- Tôi muốn xem bản danh sách quân số.
Fels gỡ một bảng giấy treo trên vách phên nứa xuống. Turpin liếc mắt nhìn qua rồi
nhăn mặt: đại đội 11, tiểu đoàn 3, bán lữ đoàn 13 có gần một trăm người nhưng chỉ có mình anh là
sĩ quan. Số còn lại toàn bộ là hạ sĩ quan, 2 thượng sĩ chỉ huy trung đội, 9 trung sĩ, 1 hạ sĩ trưởng,
10 hạ sĩ, 83 lính lê dương. Thông thường mỗi đại đội phải có 3 sĩ quan, từ 10 đến 18 hạ sĩ quan, từ
28 đến 30 hạ sĩ và từ 105 đến 110 lính.
Ba trung đội trưởng lần lượt từng người tiến vào trình diện. Trung sĩ Schweiger chỉ huy
trung đội 1, trung sĩ Keil chỉ huy trung đội 2, trung sĩ Aubertin chỉ huy trung đội 3, trung sĩ Rosier
chỉ huy trung đội 4.
Turpin thảo luận với từng người kế hoạch cụ thể trong đêm, ấn định các vọng gác, các
lộ trình tuần tra, giờ thay các vọng gác báo động (gồm tứng nhóm ba người mang theo một điện
đài có nhiệm vụ cấp báo khi phát hiện địch chuẩn bị tiến công).
Sau khi các trung đội trưởng ra về. Turpin nghiên cứu kế hoạch hoả lực của người tiền
nhiệm là Bedeaux để lại. Tất cả đều ghi rõ nơi đặt pháo 105, cối 120, khu vực bắn của cối 81 tiểu
đoàn, các bãi mìn, chỗ đặt thùng napalm.
Trước khi bước vào đêm, Turpin đi một vòng men theo các hào giao thông ngoằn
nghèo dẫn từ trung đội này đến trung đội khác. Lính gác đứng canh nghiêm chỉnh sau lỗ châu mai,
vũ khí tự động đặt sẵn ngay phía trước mặt. Binh lính lê dương tất cả đều bình tĩnh, tự tin ở mình
và tin vào hệ thống phòng thủ của toàn đơn vị. Trên thực tể, ở mặt Tây cứ điểm có một mảnh đất
trống phát quanh, tầm nhìn xa tới 60 mét khiến cho Việt Minh khi tiến qua nhất định sẽ không
thoát khỏi những loạt đạn súng máy hoặc đạn pháo, cối bắn tập trung.
Đêm đã tới. Trung uý vẫn thức. Anh không buồn ngủ. Anh hiểu rằng mình có rất ít thời
gian để có thể nắm guồng máy chỉ huy mới. Anh lắng nghe, cố làm quen với mọi tiếng động, thử
phân biệt tiếng người và nhanh chóng phát hiện những tiếng động lạ.
Khoảng 22 giờ một lính lê dương thò đầu vào lỗ châu mai:
- Báo cáo trung uý, lính gác phát hiện thấy bóng bộ đội Việt Minh.
Turpin bước ra ngoài lô cốt. Người lính quan sát bằng ống nhòm khẳng định:
- Có nhiều bóng người ở bên kia đường 41, phía Nam và Đông Nam.
Turpin cố nhìn xuyên bóng tối nhưng không thấy gì cả. Anh báo cáo lên ban chỉ huy
tiểu đoàn và được trả lời:
- Sẽ đưa trinh sát đi xác minh…
Có những tiếng đạn nổ. Cối 81 của tiểu đoàn bắn vào những điểm nghi ngờ. Một luồng
ánh sáng mờ nhạt xuyên qua bóng tối. Những lính dù được lệnh đi trinh sát đã xuống núi dưới ánh
sáng mờ. Nhưng vẫn không nhìn thấy địch. Turpin bắt đầu quay trở về thì một lính canh khẽ gọi
to:
- Nghe này trung uý…
Trong bóng tối, tiếng động nghe thấy là rất quan trọng. Rõ ràng, trung uý nghe thấy
tiếng xẻng đào đất.
- Chúng đào như chuột gặm…
Sáng hôm sau, Turpin quan sát dãy núi phía Nam. Đêm trước, Việt Minh đã tiến hành
một công cuộc lao động khổng lồ, đào được cả một hệ thống hào giao thông phức tạp từ đồng
bằng leo lên sườn núi, vây chặt lấy các cứ điểm Béatrice ở cả mặt Bắc lẫn mặt Nam. Việt Minh
còn bắt đầu nguỵ trang khéo léo những điểm hào giao nhau.
Turpin báo cáo qua điện thoại với tiểu đoàn trưởng Pégot:
- Hệ thống hào của địch được tổ chức rất chu đáo, có cả hầm chìm, ụ súng. Tôi nhìn
thấy nhiều lỗ châu mai hướng về phía chúng ta.
Vài phút sau, lính quan sát của đại đội 9 ở mặt Bắc thừa nhận:
- Những điểm cao trước mặt đã bị Việt Minh chiếm giữ, có bố trí lính canh và vẫn tiếp
tục đào hào.

Trước trận đánh


12 tháng 3 năm 1954
Đại đội 4 lính dù lê dương trở về từ cứ điểm Béatrice, vừa đi vừa hát. Họ đã từ phân
khu Trung tâm tới đây, lấp được nhiều đoạn chiến hào, đánh bật một đại đội hoả lực của Việt
Minh, được coi là một thắng lợi quan trọng chưa từng có kể từ ngày đóng quân tại Điện Biên Phủ.
Đại đội trưởng Domigo rất hài lòng. Như vậy là lính lê dương đã đối chọi với Việt
Minh nấp trong chiến hào và tỏ ra xuất sắc nhất trong các binh chủng đóng tại đây.
Ở mặt Nam, lính bộ binh thuộc địa và lính Thái không gặp may mắn như vậy. Họ đã
phải giáp mặt với kẻ địch đã xây dựng được những ụ súng tại các cao điểm, bắn dữ dội làm họ
không tài nào xông lên được. Bị phơi mình trên cánh đồng trống trải trong một thung lũng nhỏ
phía Nam Béatrice, lính Thái thuộc tiểu đoàn 2 chạy tán loạn để tránh khỏi bị tiêu diệt. May mà
máy bay kịp tới ứng cứu, ném bom vào những đơn vị Việt Minh đang tập hợp để chuẩn bị xung
phong tiến công.
Từ cứ điểm Béatrice, trung uý Turpin theo dõi trận đánh rồi ghi trong sổ nhật ký chiến
sự.
“Thất bại của lính Thái đã làm cho việc lấp hào cách Béatrice 3 khoảng 200 mét không
thực hiện được. Đoạn hào này được hoả lực địch bố trí tại mỏm núi phía Nam bắn bảo vệ”.
Sau khi các toán quân ứng cứu lần lượt quay trở về, Turpin phát hiện thêm, bộ đội Việt
Minh mỗi lúc một đông đã chiếm lĩnh các đoạn hào mà lính dù lê dương vừa mới lấp. Vài phút
sau, pháo 105 Việt Minh bắn lẻ tẻ vào khu vực cụm cứ điểm. Một số binh sĩ đã từng tham dự cuộc
chiến tranh ở Pháp, nhận xét:
- Có vẻ như đây là bắn thăm dò để chuẩn bị cho một cuộc tiến công lớn.
Tại sở chỉ huy trung tâm Điện Biên Phủ, trung tá Gaucher chỉ huy binh đoàn cơ động
số 9 nhận được tin tức về tình hình phát triển chung quanh Béatrice, báo cáo đều đặn hàng giờ.
Nhưng ông không thật sự lo ngại. Ông tin tưởng ở sự vững vàng của tiểu đoàn 3 bán lữ đoàn lê
dương số 13 đã từng lập nên những chiến công vang dội ở Narvik và Bir Hakeim. Cũng như nhiều
sĩ quan khác ở Điện Biên Phủ, ông nóng lòng chờ đợi cuộc tiến công đọ sức một cách tò mò thích
thù. Cùng với đa số sĩ quan, ông tin chắc Việt Minh sẽ bị đánh gãy răng.
Chuông điện thoại reo, Gaucher áp ống nghe vào tai rồi một lát sau lại đặt vào máy, im
lặng không nói câu gì, lặng lẽ suy nghĩ rồi cuối cùng mới nói:
- Điện của đại tá de Castries, báo tin 17 giờ chiều mai Việt Minh sẽ tiến công.
Sáng 13 tháng 3, mặt trời bị che phủ bởi những lớp mây xám. Sương mù nặng trĩu phủ
trên mặt đất, khiến cho mặt đất trở thành đen sì, ảm đạm. Giữa đoạn đường băng tạo thành một vệt
thẳng tắp, sáng yếu ớt trên nền đen tối của đồng ruộng, các thợ máy đang hối hả sửa chữa chiéc
Curtiss Commando, một loại máy bay vận tải hai động cơ cỡ lớn, nom như một con cá voi mắc
cạn, đang bị hỏng máy từ hai hôm trước.
Trên điểm cao Dominique 2, Perrin phụ trách điện đài của trung đội cối nặng, đứng
chống tay vào cạnh sườn theo thói quen, lặng lẽ ngắm nhìn cảnh vật. Đứng sát bên cạnh là trung sĩ
Rol, phụ trách khẩu cối số 1, một người Itali có cái đầu La Mã to tướng, cằm vênh, cặp mắt
nhung, giọng nói chắc nịch. Rol là một trong những hạ sĩ quan có thâm niên cao nhất đơn vị, được
đồng đội lê dương tin cậy cho nên có quyền lực về mặt tinh thần trong toàn trung đội.
Hai người cùng đứng cách chiếc Curtiss khoảng 800 mét, từ trên cao nhìn xuống trận
đấu giữa lính pháo Việt Minh với lính thợ đang sửa chữa máy bay.
Đến 9 giờ, một quả đạn pháo đầu tiên bắn trúng đường băng phát ra một tiếng nổ đinh
tai như tiếng búa đập mạnh vào mặt chiêng đồng. Các phi công ào vào trong chiếc máy bay, cố
tìm cách cất cánh trước khi máy bay bị phá huỷ.
Động cơ thứ nhất đã được phát nổ, tiếng động vang đến tận Dominique 2. Trung sĩ nhất
Maillard sán lại gần Perrin và Rol:
- Tớ đánh cược một chai sâm banh là máy bay sẽ bay thoát.
Maillard là một hạ sĩ quan to lớn, khuôn mặt hình tam giác, đôi tai vểnh, giọng nói
trầm, cử chỉ vụng về. Diễn biến của cuộc chiến tranh đã khiến cho anh từ một lính pháo binh trở
thành một lính dù rồi lính bộ lê dương. Anh em gọi Maillard là con “lật đật” vì sự chuyển dịch khó
khăn thân hình to lớn của anh trong những hào giao thông. Họ cũng gọi anh là “thầy giáo” vì đã
chỉ dẫn cho binh lính trong đơn vị biết cách bắn súng cối thành thạo.
Perrin hỏi lại:
- Cược bao nhiêu chai sâm banh?
Maillard bặm môi:
- Để chờ xem đã …
Rol nói chen:
- Tớ không đánh cược.
Anh bắt chéo hai ngón tay, theo kiểu Itali, ra hiệu sẽ xảy ra chuyện không tốt lành.
Quả pháo thứ hai nổ giữa hố khoét của quả thứ nhất và chiếc máy bay. Cánh quạt thứ
hai đã quay.
Maillard nói to:
- Thắng rồi!
- Không!
Quả đạn thứ ba nổ trúng mũi máy bay. Cả hai động cơ đều bị phá huỷ. Lính lê dương
nhìn thấy rất rõ phi hành đoàn vọt ra ngoài khoang lái, trong đó có một người bị thương, rồi chạy
tản mát trong lúc pháo bắn dồn dập như mưa. Chiếc Curtiss lại trúng một quả đạn nữa, nghiêng
hẳn đi.
Vẻ mặt rầu rĩ, Rol phát biểu:
- Mình không muốn nhìn cảnh tượng này.
Cách đây hai ngày, chiếc Packet bị pháo Việt Minh bắn cháy đã gây nên một cảnh
tượng hấp dẫn làm cho lính lê dương thoả mãn sự tò mò. Bây giờ, chiếc Curtiss bị phá huỷ lại gây
một cảnh tượng đáng buồn như báo hiệu một điềm gở.
Như tất cả binh lính trong tập đoàn cứ điểm, lính lê dương trên cứ điểm Dominique 2
đã có ý thức về bầu không khí chiến tranh đang đến từ hai hôm nay, gây nên một cảm giác nặng
nề, một nguy cơ không biết sẽ vụt đến lúc nào. Mặc dù các sĩ quan chưa ai báo cho binh lính biết,
cuộc tiến công sẽ xảy ra vào lúc 17 giờ chiều mai, tuy nhiên họ vẫn có cảm giác khẳng định dựa
vào nhiều tình tiết cụ thể. Đó là những báo cáo dồn dập qua điện đài, vẻ căng thẳng thần kinh
thoáng hiện trên khuôn mặt của các cấp chỉ huy. Một vị chỉ huy vừa từ trung tâm tới thị sát cứ
điểm Dominique 2, đã cáu kỉnh một cách vô cớ, và ra lệnh mà không giải thích.
- Thay ngay các xà gỗ hầm chứa đạn.
Lính lê dương sững sờ uể oải làm theo mệnh lệnh mà không hiểu tại sao phải thay gỗ
nóc hầm.
Trung sĩ Rol nói:
- Lạy Chúa! Cứ làm! Gỗ gì rồi cũng gãy. Chẳng cần biết bao giờ sẽ gãy và gãy như thế
nào. Chỉ biết, hiện nay một nửa cái chết đã đến rồi.
Cách đó 3 kilômét, trung uý Turpin chỉ huy cụm cứ điểm Béatrice báo cáo về sở chỉ
huy:
- Chúng tôi phải rút một tổ báo động.
Pardi trả lời:
- Thế là đúng. Vì tổ báo động của đại đội 9 vừa mới bị Việt Minh tiêu diệt gọn.
- Đề nghị cho biết, có chỉ thị gì mới?
- Tiếp tục cảnh giác. Địch sắp tiến công rồi. Những người dân Thái ở bản Him Lam
vừa nhận được lời khuyên của cán bộ Việt Minh tạm lánh vào rừng để tránh đạn pháo. Hãy tăng
cường cảnh giác lên gấp đôi.
Turpin quay lên đài quan sát. Cho tới giờ phút này, anh đã nhìn thấy rất rõ tận mắt hệ
thống chiến hào của Việt Minh, phát triển từng giờ đang vây chặt cụm cứ điẻm Béatrice với hai
gọng kìm ở hai mặt Bắc và Nam.
Fels báo cáo:
- Chúng tôi đã nhìn thấy rõ lính canh của Việt Minh đội mũ nan, gài lá xanh nguỵ
trang. Nhìn thấy cả lưỡi lê lấp lánh trên đầu mũi súng.
Cuối buổi sáng, thiếu tá Pégot tới kiểm tra các vị trí của đại đội 9 ở Béatrice 1 và đại
đội 11 ở Béatrice 3. Ông quay trở về rất yên tâm vì lính lê dương tỏ ra sẵn sàng đón đánh địch.
Từ hai ngày nay, bộ đội Việt Minh không bao giờ xuất hiện trên bãi trống lộ thiên, mà
toàn di chuyển trong hào giao thông ngoằn nghèo. Chiến hào Việt Minh như con rắn lượn từ lô cốt
này đến lô cốt khác, cả những ụ súng máy có thể bắn xuyên phá những lớp rào dây thép gai và
yểm hộ lẫn cho nhau.
Pégot lần lượt đi gặp các hạ sĩ quan chỉ huy các tiểu đội. Họ đang sốt ruột chờ đợi đánh
địch, đang tích cực củng cố các vị trí chiến đấu. Mỗi người đang tự đào thêm một hầm cho riêng
mình, trong đó dự trữ sẵn nhiều đạn và lựu đạn.
Ngày hôm đó, tất cả mọi việc lao động công dịch đều ngừng. Lính nấu ăn cũng trang bị
vũ khí sẵn sàng chiến đấu sau lỗ châu mai. Toàn thể lính lê dương đều ăn nguội.
Sau 16 giờ lại có chuông điện thoại. Turpin nghe thấy tiếng Pardi nói:
- Nghe lệnh này! Từ 17 giờ, tất cả đều vào vị trí chiến đấu. Ăn uống tại chỗ.
- Rõ.
Sau đó, Turpin gọi trợ lý đại đội tới:
- Cho di tản ngay những người bị thương và không đủ sức chiến đấu.
Năm phút sau, Fels quay trở lại báo cáo:
- Xe Jeep đã đến đón thương binh. Nhưng, một số người không đủ sức chiến đấu không
chịu đi. Họ nói, không bắn được thì làm nhiệm vụ tiếp đạn.
Turpin bước ra ngoài. Có ba lính lê dương bị trúng mảnh đạn pháo hồi sáng đã băng bó
chu đáo, phiếu di tản gài trước túi ngực. Đó là Lewraski, Borosfar, Stouff.
- Tôi đề nghị được ở lại - Stouff nói - Tôi còn có thể làm được một việc gì đó để phục
vụ chiến đấu.
- Được!
Hai người khác phải nằm trên cáng được khiêng ra xe. Chiếc xe Jeep xuống dốc, đi trên
con đường mòn giữa Béatrice 2 và Béatrice 3 rồi rẽ phải, ra đường 41, chỉ cách vị trí của địch
chưa đầy 100 mét. Nhưng Việt Minh không bắn.
Từ đó trở đi, không còn một cuộc di chuyển nào nữa từ Béatrice về khu Trung tâm
Điện Biên Phủ.
Turpin bất giác ngẩng mặt nhìn lên cao. Trời đẹp. Những đám mây xám xịt buổi sáng
đã tan hết. Xa xa, về phía Đông, những chiếc máy bay Bearcat đang trút bom xuống tiêu diệt được
khẩu pháo Nhật nổi tiếng đã phá huỷ chiếc máy bay vận tải cỡ lớn Curiss Commando, làm phía
Pháp phải trả một giá đắt.
Đã 17 giờ. Tất cả binh lính lê dương đều sẵn sàng ở vị trí chiến đấu, vội vã mở đồ hộp
và uống một ít nước trong bi đông, nhanh chóng kết thúc bữa ăn chiều. Đã có lệnh phải dè sẻn
nước uống vì từ lúc này đến tận sáng hôm sau không thể đi ra sông Nậm Rốm lấy nước được.
Nhưng lính lê dương đã có thói quen nhịn uống để chiến đấu.
Từ vị trí chỉ huy, thiếu tá Pégot đề nghị báo pháo bắn vào những vị trí địch. 17 giờ 5
phút, pháo binh của Piroth bắt đầu bắn những loạt đạn đầu tiên vào những chiến hào Việt Minh.
Trung uý Turpin nhận xét:
- Chưa đủ để công phá.
Từ đầu vị trí chiến đấu, trung sĩ nhất Fels báo tin:
- Địch đã tới mỏm đồi phía Nam. Có cả pháo không giật 75, cối 81, trọng liên.
Turpin báo cáo về Trung tâm:
- Căn cứ vào những phát hiện của các đại đội, địch có khoảng hai trung đoàn.
Anh làm nhanh bài toán. Hai trung đoàn, có nghĩa là từ năm đến sáu nghìn bộ đội.
Chống lại chỉ có chưa đầy 500 lính lê dương. Nhưng lính lê dương được nấp trong chiến hào, súng
tự động nhằm sẵn vào các bãi đất trống trải mà nhất định bộ đội Việt Minh phải vượt qua.
Fels nhận xét;
- Vả lại, cũng như ở Camerone trước kia, ta ít quân hơn nhiều nhưng vẫn thắng.
Turpin gật đầu nhưng không cười. Anh ghi nhận chiến công Camerone đã thành biểu
tượng của lính lê dương. Nhưng đây không phải là Camerone và lại là ngày 13 tháng 3.
Trung sĩ nhất Schweiger báo cáo:
- Bộ binh địch đang tiến trong chiến hào. Tôi nhìn thấy những bộ đồ màu xanh lá cây,
mũ nan cái lá. Nhìn thấy cả lưỡi lê cắm trên đầu súng.
Tại hầm chỉ huy binh đoàn 9, trung tá Gaucher họp với các phó của mình là Martinelli,
phó trực tiếp, Vadot, chỉ huy cụm Claudine; Brinon chỉ huy tiểu đoàn 1; trung uý Bretteville
trưởng ban tham mưu, trung uý Bailly trưởng ban quân báo, Gaucher cười, nói giễu:
- Đã 17 giờ 5 phút rồi. Ông Castries lại nhầm!
Vedot nhấc ống nghe:
- Pégot báo cáo, địch đang tiến về Béatrice 1 và 3, tức là các cứ điểm của đại đội 9 và
đại đội 11. Chắc chắn là địch tiến đánh rồi.
Gaucher không cười được nữa:
- Vadot! Đề nghị pháo bắn!
Piroth trả lời:
- Tôi sẽ làm mọi việc cần thiết.

Bão lửa
17 giờ 15 ngày 15 tháng 3 năm 1954
Perrin ngồi trực bên máy điện thoại. Anh lật giở từng trang một cuốn tạp chí cũ rích,
xuất bản từ một năm trước, có bài nói về lễ tấn phong nữ hoàng Anh. Anh rất buồn vì phải ngồi bó
giò trong lô cốt chỉ được soi sáng qua khe cửa như một cái lỗ ở vách hầm.
Chiếc máy điện thoại bọc da vẫn im lặng.
Perrin ngáp dài, thò tay vào túi áo trận định tìm một điếu thuốc lá, nhưng đột nhiên
dừng lại. Chuông điện thoại vừa reo.
Perrin áp ống nghe vào tai, nhận rõ tiếng nói của trung uý Lépinay ở sở chỉ huy pháo
binh:
- Zoulou Kilo 50 đấy à? Zoulou Kilo đây. Bắn ngay vào điểm 321 Béatrice. 8 viên một
phút.
Zoulou Kilo 50 là mật danh của trung đội cối thuộc tiểu đoàn dù. Zoulou Kilo là sở chỉ
huy pháo binh. Perrin nhắc lại mệnh lệnh vừa nghe rồi vọt ra ngoài, hô to:
- Tất cả vào vị trí chiến đấu!
Lúc đó là 17 giờ 18 phút và cũng là lúc mà cổng địa ngục mở toang. Hình như tất cả
các khẩu pháo của sư đoàn 351 Việt Minh đều đồng loạt bắn phá. Từ nhiều tuần nay, các đái quan
sát của Việt Minh đã nghiên cứu tất cả các mục tiêu, chứng cớ là khẩu pháo Nhật đã thực tế là
khẩu pháo bắn dọn đường cho các cỡ pháo khác. Chỉ một loáng, toàn bộ Điện Biên Phủ đã như
tan hoang dưới làn đạn pháo, nhất là các hầm chỉ huy rất dễ nhận thấy từ xa do cắm nhiều dây
ăng-ten trên nóc. Những ụ pháo lộ thiên cũng bị nhằm bắn, các pháo thủ đứng cạnh đều bị thương
vong.
Trận bắn pháo mạnh tới mức làm nhiều người choáng váng. Trong những hầm hồ chỉ
được phủ bằng lớp đất mỏng, lính bộ binh khiếp sợ ngồi nép vào nhau.
Tại vị trí súng cối đặt ở sườn Dominique 2, cánh tượng này xuất hiện chỉ sau nửa phút.
Việt Minh chỉ bắn vài phát đạn, chính xác một cách kỳ lạ, đã làm tan rã các thiết bị phản pháo
chuẩn bị công phu hàng tuần. Những quả đạn pháo 105 dày đặc và khủng khiếp từ khắp mọi ngả
bắn tới đã làm cho nắp hầm bị sụt, vách hầm sạt lở, những ụ pháo biến thành cạm bẫy.
Pháo binh địch có vận may. Đối với khu vực chật hẹp tại phân khu Trung tâm, các ụ
pháo, cối xen kẽ với các hầm đạn và các vị trí chỉ huy, pháo địch bắn vào chỗ nào cũng có hiệu
quả. Loạt đạn pháo đầu tiên đã nổ giữa một đám đông lính lê dương, làm chết ngay khẩu đội
trưởng, gây thương vong cho cả người bắn lẫn người tiếp đạn là hạ sĩ Drescher và các binh nhì lê
dương Zaplotny, Kanderski, Runde, Schoch (Nếu lịch sử cuộc chiến ở Điện Biên Phủ được ghi
nhận bắt đầu từ 17 giờ ngày 13 tháng 3 năm 1954 thì đây là những người chết trận đầu tiên).
Ngay sau khi Perrin ra lệnh, tất cả binh lính lê dương đều lập tức đứng vào các vị trí
chiến đấu. Tất cả các khẩu đội trưởng đều biết rõ các toạ độ của Béatrice 321. Họ chỉnh hướng
bắn cho các khẩu súng cối, rồi chỉnh độ cao và bắt đầu phản pháo như đã từng được tập luyện
thành thạo. Pháo cối của Pháp bắn trả Việt Minh tạo nên một cơn thác lũ lửa đạn không một phút
giảm bớt mặc dù cũng không ngừng bị thiệt hại. Khẩu đội nào cũng có thương vong. Dưới lớp đạn
nổ không ngưng, đất dưới chân cứ điểm như chồm lên, vỡ tan rồi phủ kín đỉnh đồi Dominique 2
một đám mây dày đặc bụi màu vàng và khói màu đen.
Bỗng đột nhiên một quả đạn pháo Việt Minh như một trái ngư lôi nổ chậm, xuyên qua
nóc hầm, lọt vào giữa đống đạn cối rồi mới nổ. Có 5.000 quả đạn đang chứa trong hầm, tức là một
phần tư số đạn cối của cứ điểm.
Sóng chấn động mạnh như động đất lớn. Đỉnh đồi vỡ ra như một quả trứng gà, để lộ
một vực sâu, rộng hàng chục mét. Anh lính Pfenning đứng trong hầm đạn, tan vụn không còn xác.
Nhiều hầm bên cạnh cũng bị sức nổ tàn phá dưới lớp đất. Chỉ trong vòng năm phút, một nửa số
quân của trung đội súng cối đã bị loại khỏi vòng chiến.
Trung đội trưởng báo cáo tình hình về sở chỉ huy đại đội. Tay quay của máy điện thoại
như bị bật chốt. Tất cả các tuyến dây điện thoại đều bị đứt.
Perrin giơ cao một nắm dây điện thoại, lệnh cho Fattori đi nối lại.
Fattori ra khỏi hầm, đội mũ sắt, kéo dây quai xuống cằm, làm mọi động tác một cách
cẩn thận, chậm chạp, chờ pháo ngớt bắn để vọt ra khoảng trống giữa cơn bão đạn. Perrin sốt ruột:
- Nhanh lên! Lát nữa hãy trang điểm!
Bergot nói theo:
- Nhưng, cẩn thận tránh đạn!
Perrin nhún vai:
- Tôi đã có kinh nghiệm. Không bao giờ hai quả đạn pháo rơi đúng một lỗ. Chính thức
đấy!
Rồi anh vọt ra ngoài hầm. Fattori chạy theo sau, mang theo máy điện thoại để kiểm tra
đường dây.
Đêm đã ập xuống. Sau mỗi tia lửa đạn, bóng tối càng thêm dày đặc trong lớp khói đen.
Thỉnh thoảng tiếng hét ra lệnh của trung sĩ nhất Maillard vẫn vang vọng tới chỗ hai người rảo
bước.
Hai khẩu cối đã bị phá huỷ, vẫn giơ nòng lên trời một cách vô ích. Perrin chạy như phi
ngựa, nhảy từ hố này sang hố khác, giơ tay vẫy gọi, Fattori đi sau cứ nghe thấy tiếng pháo dù nổ ở
xa cũng nằm lăn ra đất.
Perrin đã ngồi sụp xuống, lấy tan lần mò đường dây điện thoại để tìm chỗ đứt:
- A! Tìm thấy rồi! Đây này…
Hai người đã đến đầu đoạn hào, nơi sợi dây bị đạn cắt đứt ở trên mặt đất, cùng ngồi
trên bãi trống sườn đồi Dominique, nơi đạn pháo vẫn đang trút xuống như mưa.
- Đưa máy đây! Tôi kiểm tra xem hai đầu dây đã nối với nhau chưa.
Máy đã chạy. Đầu bên này, Perrin nghe rõ sở chỉ huy pháo binh. Đầu bên kia, cũng
nghe rõ tiếng của trung đội cối của mình.
- Tốt. Bây giờ bắt đầu nối dây. Cậu có mang đèn pin không?
Fattori cười trong bóng tối, cảm thấy mình như một y tá giúp việc bác sĩ giải phẫu, lục
tìm trong túi lấy ra một chiếc đèn pin bấm đưa cho Perrin. Từ phía tay phải vang lên tiếng thét cảu
trung sĩ nhất Maillard:
- Tắt đèn! Đồ ngu! Chúng mày làm lộ chúng tao rồi!
Perrin cười đáp lại chỉ huy:
- Thưa sếp, các anh bị lộ thì chúng em là những người bị lộ trước.
Như để chứng minh lời nói của Perrin, một loạt tiếng đạn cối nổ đầu nòng kéo theo
những vệt lửa dài bắn về phía họ. Fattori kêu:
- Nhanh lên! Việt Minh bắn đấy.
Perrin trả lời:
- Được. Sắp xong rồi.
Một tiếng gầm như sấm vang lên từ xa. Tiếng sấm này dội lại gần, vang vọng khắp
thung lũng, ngày càng rền vang, làm đau nhói lỗ tai, gây căng thẳng mỗi lúc một tăng, cho tới khi
ập xuống đất như một chiếc đầu xe lửa đâm vào ga. Màng nhĩ như bị chọc thủng, đầu óc như bị gõ
mạnh, toàn thân như bị chấn động đến tận xương tuỷ.
- Nằm xuống!
Fattori như bị dính chặt vào bờ chiến hào, gần như bất động, không thể có được một cử
chỉ nào. Anh không hiểu Perrin nói gì. Nhưng tiếng thét của Perrin bất giác đã làm cho Fattori
bừng tỉnh, nhảy vọt sang một cái hố bên cạnh.
Tiếng sấm rền đã im bặt khi những trái đạn pháo rơi xuống đất. Thoạt đầu là một sự
rung chuyển chấn động có cảm giác như một làn sóng bò dưới bụng. Rồi một tiếng động như cây
to bị đổ. Fattori nhắm nghiền mắt, giơ tay nắm chặt lấy mũ theo một phản xạ tự nhiên, miệng há
hốc vì khiếp sợ, bụng đau quặn, có cảm giác mơ hồ như đang phiêu bạt trong không gian, giống
như một con chim bị bão.
Cơn ác mộng này kéo dài bao lâu? Chắc chắn không quá một giây, nhưng Fattori có
cảm giác như kéo dài một thế kỷ.
Có một tiếng rú như một con vật sắp chết vang lên rồi chuyển thành một tiếng thở dồn
dập. Fattori đã nhận ra đó là tiếng rên của trung sĩ trưởng. Anh gọi:
- Perri ơi! Hình như Maillard bị thương.
Fattori đã trở lại với thực tại. Dù chưa thật hiểu rõ cái gì đã xảy ra, nhưng cơn sợ hãi đã
bị cắt đứt. Anh đứng phắt dậy, nhảy bổ về vị trí chỉ huy của trung đội. Đúng là Maillard rồi. Trung
sĩ trưởng đứng dựa vào thành chiến hào do vướng các cọc chắn nên không ngã gục. Một mảnh đạn
pháo đã phạt ngang sọ Maillard, tiếng kêu rú vừa rồi chỉ là phản xạ tự nhiên và cuối cùng thoát ra
từ phổi.
Fattori nhìn Maillard chằm chằm như vừa mới khám phá ra một hiện tượng quái lạ. Sự
kinh ngạc đã vượt quá nỗi khiếp sợ. Anh nói to như không phải là mình nói:
- Perrin ơi! Sếp chết rồi!
Không có tiếng trả lời. Fattori vụt trở lại sự kinh hoàng. Bất chấp đạn pháo vẫn nổ từ
những khoảng cách khác nhau, Fattori trườn ra khỏi chỗ đứng của Maillard, băng qua bãi đất
trống, quay trở lại chỗ vừa nối dây điện thoại với Perrin. Anh nhìn thấy bóng người nằm trên mặt
đất. Vòm trời trong cơn bão lửa đủ sáng để nhận ra người bạn đã chết. Perrin nằm bất động nhưng
trong một tư thế rất tự nhiên: đầu ngoẹo về một phía, hai cánh tay úp vào người, một bàn tay hãy
còn nắm chùm dây điện thoại,
- Perrin ơi! Đừng vờ nữa …
Đây chỉ là một câu mời cháo thật vô lý đáng buồn cười mà chính Fattori cũng nhận rõ
như vậy. Nhưng Fattori vẫn lẩm bẩm nói, như ngỡ rằng mấy câu này có thể nối lại mạng sống cho
bạn. Nhưng ngay lập tức, Fattori nhận thấy không thể làm gì được nữa. Chỉ vài giây thôi cũng đủ
để Fattori nhận thức rõ như vậy. Anh ngồi xổm, ngắm nhìn Perrin. Vẻ mặt anh đang nhìn, không
phải là một bộ mặt đen thui, miệng đầy đất, cặp mắt trắng dã, con ngươi tụt sâu vào hố mắt.
Ngược lại, Fattori hình dung thấy một gương mặt lúc nhạo báng, lúc cáu kỉnh, thân thuộc của
người bạn thần kinh thường hay căng thẳng. Anh như đang nghe lại tiếng hô của Perrin lúc nãy:
- Andrea, nằm xuống!
Đây là lần đầu tiên, Perrin gọi Fattori bằng tên nhỏ. Có lẽ, biết rằng mình sắp chết,
Perrin biểu lộ tinh thần với bạn chăng? Fattori không bao giờ biết được. Điều anh vừa mới khám
phá thuộc một lĩnh vực khác. Bên cạnh những lúc ghét bỏ viên hạ sĩ của mình, còn có một tình
anh em vững vàng khó hiểu. Cho đến bây giờ Fattori mới biết mình đã mất hết tất cả dù chẳng bao
giờ cảm thấy giàu có. Đối với Fattori, việc Perrin bị chết cũng đau đớn như anh bị mất một phần
cơ thể.
Fattori chợt nhận ra đường dây điện thoại lại vừa mới bị đứt. Anh nối lại rất nhanh y
như Perrin thường làm. Rồi anh vác Perrin lên vai bước từng bước về vị trí chỉ huy trung đội, vừa
đi vừa nói với Perrin:
- Cậu đừng giận. Chúng mình đi có đôi, trở về cũng có đôi.
Khi trung đội trưởng nhìn thấy Fattori bước vào hầm, ông không sao nhận ra được.
Dưới lớp bụi đất vàng đậm, gương mặt Fattori với cặp mắt và đôi gò má sâu hõm, như già đi hàng
chục tuổi. Nhất là cái nhìn của Fattori đờ đẫn như mắt ma. Còn giọng nói thì hoàn toàn thay đổi:
khô hơn, chắc nịch hơn, y hệt giọng nói của Perrin:
- Báo cáo trung uý, đã nối xong đường dây.
Rồi Fattori ngồi sụp xuống đất, hai bàn tay mở rộng đặt lên đùi, y như một bức tượng
đá.
- Xin báo cáo thêm: Perrin đã chết.
Tiếng nói như vỡ ra. Cằm rung lên. Fattori ngã vật xuống, tay ôm lấy mặt, khóc nức
nở.
Biết nói gì với người lính này bây giờ? Phải làm gì? Trong lúc bối rối như thế này, cách
đối xử duy nhất thường phải áp dụng là giáng cho một cái tát. Nhưng trung uý không giải quyết
như vậy. Ai nỡ tát một người đã như bị cụt một cánh tay, có một vết thương trong lòng. Trung uý
gọi y tá:
- Donovan, lấy cho Fattori một cốc rượu Rhum.
Pháo vẫn tiếp tục bắn, cho tới lúc này đã kéo dài bốn tiếng đồng hồ. Trong trung đội
súng cối, danh sách bị thương vong mỗi phút một thêm kéo dài, trong đó có trung sĩ trưởng
Maillard, trung sĩ Soo, hạ sĩ Drescher, ba người bị thương nặng. Những người bị thương nằm chật
hầm. Số súng cối còn có thể sử dụng được cũng mỗi lúc một giảm bớt.

Trận Béatrice
13 tháng 3 năm 1954
Pháo chuẩn bị tiến công của Việt Minh bắn vào Béatrice lúc 17 giờ 15 phút, kéo dài
suốt hai giờ. Lính lê dương không còn gì để mô tả ngoài từ “hoả ngục”. Nhưng danh từ này vẫn
chưa đủ mức nói hết. Bởi vì khi nói đến hoả ngục, người ta chỉ hình dung đó là vương quốc của
lửa và của niềm thất vọng, chưa nghĩ đến tiếng động. Thế nhưng, chính tiếng động mới là nguyên
cớ nảy sinh sự khiếp hãi. Tiếng động gây ra bởi những tiếng nổ trút xuống cụm cứ điểm Béatrice
như thác lũ, kéo dài không ngừng, không nghỉ, chất đầy trong lỗ tai và tràn ngập mọi cảm giác.
Chỉ biết ngồi im không động đậy. Bắp thịt nhão ra, cặp mắt nhắm lại, ý nghĩ trống rỗng. Không
còn chỗ để nghĩ ngợi mông lung lộn xộn nữa. Chỉ nhìn thấy những gương mặt nhăn nhúm, cặp
mắt đờ đẫn, mồm miệng méo mõ.
Những lính lê dương thuộc đại đội 9 và đại đội 11 trực diện với những đợt sóng tiến
công của địch ở mặt Đông Bắc và Đông Nam, ngồi trong hầm hố phải chịu đựng cuộc bắn phá mà
không làm gì để đối phó được.
Những quả đạn pháo rơi dồn dập gây ra những tiếng nổ rền, tiếng này tiếp theo hàng
trăm tiếng khác như tiếng đầu máy xe lửa đang phóng quá nhanh. Đất tung lên rồi cát, sỏi, đá lại
rơi xuống, bụi bay mù mịt bốc cao hơn. Không còn nhìn thấy gì nữa. Vả lại quang cảnh cũng đã
hoàn toàn thay đổi. Gò đống biến thành hố. Hầm hố biến thành gò đống. Cả người lẫn vũ khí đều
bị chôn vùi.
Tiếp theo pháo 105 là những khẩu 75 và 57 bắn trực tiếp từ những khoảng cách xuất
phát tiến công. Việt Minh tuần tự nhằm vào các lô cốt, các ụ súng máy, các hầm chỉ huy có cắm
ăng-ten để huỷ diệt bằng pháo bắn thẳng.
Điều khó chịu nhất là lính lê dương không có được một giây nào để thở một chút, nghỉ
một tý, nhìn nhau một cái. Họ đành chịu đựng, ngây dại, đờ đẫn, ngạc nhiên vì thấy hãy còn sống.
Thỉnh thoảng họ lại nhìn thấy ở ngay bên bên cạnh người bạn thân nhất, hoặc người chỉ huy trực
tiếp, bị tan biến không còn gì sau một quả đạn pháo. Hoặc, khiếp hãi hơn nữa là thấy có người
không bị một vết thương nào cũng đã bị chết, trên mặt còn ghi lại một nét ngạc nhiên.
Chỉ riêng các chỉ huy trung đội là vẫn còn có thể hoạt động được. Họ chạy từ chiến hào
này sang chiến hào khác, lay động người này, cổ vũ người kia, hối hả tổ chức lại những vị trí đã bị
bỏ trống. Những anh lính trẻ bám chặt lấy người chỉ huy như con nít lạc mẹ. Các trung đội trưởng
đành phải tỏ ra thô bạo vì hiểu rằng một nụ cười, một lời nói thương yêu trong lúc này càng làm
giảm sút ý chí chiến đấu:
- Câm mồm đi! Chú ý bảo vệ vũ khí!
- Giữ sức để chiến đấu!
- Đừng khóc nữa. Nín ngay!
Các đường dây điện thoại đều bị đứt hoặc mềm nhão như những sợi bún. Ngay cả loại
W130 cũng không chịu nổi đạn pháo 105. Phải dùng máy vô tuyến, với điều kiện những thiết bị
này chưa bị phá huỷ hoặc không bị vùi lấp. Lại phải dùng tiếng lóng, mật danh, mật hiệu để nói
chuyện vì sợ địch theo dõi trên cùng một tần số. Chính vì vậy, những câu đàm thoại có vẻ khôi
hài, không thực tế:
- Schweiger! Tình hình trong nhà thế nào?
Trung đội trưởng trung đội 1 ở ngay bên cạnh nhưng qua điện đài, tiếng nói như vang
lại từ xa lại bị đứt quãng vì những tiếng nổ:
- Đang chuẩn bị va-li quần áo! Đi pích-ních, chán lắm! Cái lều đã đổ sụp, ập xuống con
chó.
Có nghĩa là: trung đội 1 đang bị pháo bắn. Không có gì bảo vệ. Hầm bị sụp.
Trận bắn pháo chuẩn bị tiến công kéo dài suốt hai giờ. Bụi bay rất cao, che khuất ánh
mặt trời lặn tạo nên một cảnh hoàng hôn quái gở. Mọi người có cảm giác sợ hãi vì bị cô đơn trong
hầm hào hoặc trong hố cá nhân.
Cách đó vài mét ở trên cao, trung uý Turpin ngồi trong hầm chỉ huy đặt trên đỉnh
Béatrice 3 cố gọi điện về sở chỉ huy tiểu đoàn chỉ cách đó chưa đầy 200 mét về phía Tây. Máy
điện thoại không trả lời. Qua điện đài vô tuyến, Turpin đề nghị cối 81 đặt ở mỏm núi phía Nam
bắn yểm trợ. Nhưng cối 81 của Pháp chưa kịp bắn thì cối 120 của Việt Minh đã lại bắn tiếp một
đợt mới. Đến lượt những hầm cuối cùng của Béatrice 3 còn đứng vững từ đầu cuộc chiến, nay lần
lượt sụp đổ.
Tuy nhiên, các đại đội đã dần dần kháng cự. Hình như, đây cũng là một thói quen, một
phản xạ tự nhiên, dù pháo địch bắn vẫn cứ phải chống lại. Các khẩu trọng liên của đại đội 9 ở mặt
Bắc, cũng như trọng liên ở mặt Nam đồng loạt nổ súng:
- Keil đây! Chỗ tôi có nhiều người bị thương.
Trung đội 2 trấn giữ mặt Đông Bắc Béatrice 3 vừa bị một loạt đạn làm thương vong
một nửa quân số. Trung uý Turpin lập tức cử đến một y tá đến giúp đỡ. Sau đó, ông bất giác nhìn
đồng hồ đeo tay,, thấy kim chỉ đúng 6 giờ tối. Turpin tự hỏi có ngủ mê không. Chẳng lẽ mới chỉ
18 giờ, trong khi pháo địch đã bắn rất lâu, lâu lắm.
- Stouff, gọi ban chỉ huy tiểu đoàn.
Người phụ trách điện đài đã bị thương, vừa mới tự băng bó xong, gương mặt vẫn còn
máy, vội vã bật nút bấm và nói:
- Báo cáo! Đã liên lạc được!
Turpin cúi xuống cầm máy nói. Chợt anh cảm thấy như bị một cú đấm rất mạnh, đồng
thời thấy một luồng ánh sáng chói lọi làm loá mắt và một tiếng nổ dữ dội. Có một cơn lốc nào đó
quét Turpin khỏi mặt đất, đập anh vào thành lô cốt đã đổ nát một phần, đầu anh vấp mạnh vào xà
gỗ, miệng đầy bụi và khói. Rồi một bóng đen úp chụp xuống lấy anh, Turpin cảm thấy như đang
bị rơi xuống vực sâu không đáy.
Cách đó 200 mét, trên điểm cao đặt sở chỉ huy tiểu đoàn, tiếng nổ từ Turpin vang mạnh
vào máy nói, đập mạnh vào màng nhĩ đại uý tiểu đoàn phó Pardi đang úp ống nghe vào tai. Có lẽ
đây là tiếng động cuối cùng mà Pardi nghe được. Bởi vì gần như cùng một lúc với quả đạn đã rơi
xuống qua nóc hầm Pardi, một quả đạn khác xuyên qua ngay tại chỗ. Bên cạnh Pardi, thiếu tá
Pégot cũng nằm gục, hấp hối. Tiểu đoàn 3 bán lữ đoàn lê dương số 13 như rắn mất đầu vì toàn ban
chỉ huy đều tử trận.
Chỉ còn mỗi một điện đài nối liền từ ban chỉ huy binh đoàn 9 của trung tá Gaucher với
cụm cứ điểm Béatrice là còn hoạt động được. Điệp báo viên lo ngại nhắc đi nhắc lại:
- Béatrice, Béatrice, trả lời đi! Chuyện gì đã xảy ra?
Nhưng không thấy ai trả lời.
Một lát sau mới nghe có tiếng nói của một người lính lê dương mà chắc chắn không
phải là người Pháp vì nói tiếng Pháp rất dở, cũng không biết họ tên là gì, trả lời qua ống nói:
- Béatrice đây! Chết hết cả rồi!
Rồi im bặt. Liệu người lính lê dương này có bị thương không? Không ai rõ. Liệu anh ta
có bị chết trong khi đang nói không? Không ai biết! Hay là anh chỉ nói được có thể và đã trở lại vị
trí chiến đấu của mình?
Trong hầm chỉ huy của binh đoàn 9, máy phát tiếp tục kêu ra rả:
- Alô! Alô! Béatrice! Béatrice nghe rõ không?
Trong khi đó, tại Béatrice, trung uý Turpin không rõ là mình đã làm thế nào để dậy
được dưới lớp đất và xà gỗ đè lên người. Bên cạnh Turpin là trung sĩ Rosier chỉ huy trung đội 4
đang cố cầm máu tuôn ra như suối từ nhiều vết thương:
- Ông có làm sao không, trung uý?
- Không. Vẫn bình thường. Hãy chú ý tới những người khác.
- Ai?
- Kessler và Stouff. Họ cùng ở trong hầm của mình.
Rosier dìu trung uý Turpin tới một hàm ếch khoét vào vách hào rồi gọi người đi tìm
những người đang còn bị vùi trong hầm chỉ huy.
Fels bước vào.
Turpin nói:
- Cậu chỉ huy đại đội. Cố giữ vững.
Fels tuân lệnh, bước ra ngoài, đi từ chiến hào này sang chiến hào khác gọi lính. Đại đội
11 không còn một sĩ quan nào nữa.
Ở các vị trí khác, tình hình cũng tương tự tuy các chi tiết cụ thể không giống nhau. Tại
đại đội 9 ở Béatrice 1, trung uý Carriere bị chết bở một loạt đạn trọng liên; trung sĩ Kubiak thay
quyền chỉ huy số binh lính còn lại. Toàn đơn vị cũng không còn một sĩ quan nào nữa. Đây là thời
điểm rất cần có người chỉ huy vì chỉ vài phút nữa là bộ binh Việt Minh xông lên tiến công. Lúc
này mới 7 giờ tối.
Mặc dù bị vỡ khuỷu tay và có thêm một vết thương ở trán, trung uý Turpin vẫn cố giữ
vững sự chỉ huy. Anh đi đến trung đội 2 là đơn vị lúc này chưa bị thiệt hại nặng lắm, rồi tới trung
đội 4 là trung đội tuy có một số xáo trộn nhưng đã lại chiếm lĩnh được các vị trí chiến đấu. Chợt
một bóng người xuất hiện trước mặt Turpin, quần áo rách nát, đầu tóc bết bùn đất, nét mặt biến
dạng:
- Báo cáo trung uý, tôi, Kesseker đây!
Turpin trợn tròn mắt. Anh lính cần vụ đã chui ra khỏi đống đổ nát của hầm chỉ huy?
Nhưng bằng cách nào? Dù sao anh ta cũng không có vẻ bị thương nặng.
Lại một quả đạn pháo nữa rơi xuống bờ chiến hào. Turpin lại bị thương. Anh ngã
xuống. Rồi lại vùng dậy, hai mắt không nhìn thấy gì. Mảnh đạn đã trúng vào mắt Turpin.
- Báo cáo trung uý! Việt Minh …
Tiếng pháo bắn chuẩn bị đã ngưng bặt. Bây giờ là những tiếng hô xung phong của bộ
binh địch đang tiến qua bãi trống của Beatriec. Lúc này là 19 giờ 15 phút.
Những lính lê dương còn khả năng chiến đấu lập tức bắn đạn qua lỗ châu mai, tiếng
trọng liên xen kẽ với tiếng tiểu liên và súng trường. Vài quả lựu đạn nổ. Tiếng người kêu.
- Xung phong! Tiến lên!
Trả lời tiếng hô của Việt Minh là những tiếng kêu bằng các ngôn ngữ: Pháp, Đức, Italia

- Báo cáo trung uý! Đại đội 9 hỏi: liệu có quân tiếp viện không?
Turpin cũng không biết rõ. Anh hoài nghi. Ai có thể đến cứu Béatrice được, dưới làn
đạn như thế này? Anh ra lệnh trả lời qua vô tuyến:
- Chúng ta cố giữ vững!
Những đợt tấn công của Việt Minh đã diễn ra trong lớp rào dây kẽm gai đã bị pháo bắn.
Những lính “cảm tử” Việt Minh đẩy những chiếc sào dài buộc thuốc nổ, bò sát người qua những
đoạn rào kẽm gai chưa bị pháo phá trụi. Những tổ xung kích Việt Minh xông vào một lô cốt phòng
ngự ở mặt phía Đông cứ điểm. Lô-cốt này do trung sĩ Bartoli chỉ huy, có súng máy và trọng liên
30. Có cả một trung đội súng cối được bố trí trong những chiến hào lân cận. Hoả lực đã ngăn chặn
được bước tiến của Việt Minh.
Nhưng đột nhiên, một loạt đạn pháo 105 lại bắn tới, huỷ diệt tất cả những gì còn lại ở
lô-cốt và các ụ súng gần đó. Trung sĩ Fels kêu lên:
- “Chúng nó” lại giã pháo!
Nhưng, trung uý Turpin có cảm giác đây không phải là pháo Việt Minh mà chính là
pháo của Pháp từ phân khu Trung tâm bắn tới yểm trợ. Như để xác minh ý nghĩ của Turpin, có
tiếng nói từ điện đài đại đội 9 vang tới:
- Pháo bắn xa hơn một trăm mét nữa!
Turpin choáng váng cả người. Anh bảo điện báo viên:
- Seguin! Cậu nói với trung tâm! Pháo bắn vào chúng ta rồi!
Nhưng điện đài đã bị hỏng. Liên lạc trực tiếp với tiểu đoàn cũng không được, còn nói
gì đến chuyện bắt liên lạc với ban chỉ huy binh đoàn của Gaucher.
Turpin lại ra lệnh:
- Fels, cậu chạy đi kiểm tra tình hình trung đội Schweiger và trung đội Aubertin!
Trợ lý đại đội chạy ra ngoài. Vài phút sau anh quay lại, không còn nhận được đó là Fels
nữa. Áo rách bươm, hai cánh tay đầy máu, mặt lỗ chỗ những mảnh đạn:
- Báo cáo trung uý. Cả trung đội 1 lẫn trung đội 3 đều đã bị tiêu diệt hết!
Turpin không nói gì. Đêm đã xuống. Đại đội trưởng tự hỏi, làm thế nào mà cụm cứ
điểm vẫn chưa bị mất dưới thác lũ của đạn pháo và những làn sóng tiến công liên tiếp không
ngừng của bộ binh địch? Vẫn còn hi vọng ngăn chặn được làn sóng thuỷ triều xung phong của
địch. Dọc sườn núi, ở phía trước những lớp rào dây kẽm gai đã bố trí mìn và thùng đựng xăng khô
napalm. Nút bấm đặt ngay trong hầm chỉ huy của Turpin.
- Seguin! Cậu chạy vào hầm chỉ huy, cố tìm bảng điện và bấm nút cho nổ tung tất cả
lên!
Seguin nằm rạp xuống, bò sát đất về phía hầm chỉ huy nhưng rồi không thấy quay lại
nữa.
Tiếng súng địch có vẻ yếu dần. Việt Minh đã chuyển làn đạn sang phía Tây, bắn vào
rãnh ngăn cách đại đội 11 với vị trí chỉ huy tiểu đoàn. Turpin tranh thủ thời gian tạm yên ắng này
để cho kiểm điểm quân số từng trung đội.
Trung sĩ nhất Fels báo cáo:
- Tất cả còn khoảng gần 25 người có khả năng chiến đấu, thuộc trung đội 2 và trung đội
4.
Anh lau mặt rồi nói thêm:
- Tôi nghe thấy những tiếng thét to từ đồi ban chỉ huy tiểu đoàn vọng tới, ra lệnh cho
đại đội ta rời vị trí, tiến về chỗ đại đội 10.
Turpin nhăn mặt. Vị trí của đại đội 10 chỉ cách chỗ ông ngồi có 100 mét teo đường
chim bay. Nhưng mà phải di chuyển dưới làn đạn địch, trước hết phải xuống dốc, vượt qua đáy
thung lũng rồi lại leo lên sườn đồi, đối diện với pháo địch. Tuy nhiên, không còn cách nào khác.
Nếu tất cả những đơn vị còn lại tập trung ở quả đồi thứ ba của đại đội 10 thì cuộc kháng cự sẽ có
hiệu quả hơn là phân tán như hiện nay.
Fels được lệnh đi đầu với tất cả những người còn lại của trung đội 2. Những người còn
khỏe mạnh của trung đội 4 mang theo thương binh có thể mang được. Turpin đi sau cùng với
trung sĩ Rosier và anh lính công vụ Kessler. Lúc này là 8 giờ 30 phút tối.
Đối với Turpin, leo núi là cả một cực hình. Được nửa đường, anh buộc phải nghỉ vì
những vết thương đau nhức nhối. Nhưng anh vẫn cố lê tới đích. Cuối cùng, những binh lính còn
sống sót của đại đội 11 đã sát cánh bên cạnh đồng đội thuộc đại đội 10 và đại đội trực thuộc ban
chỉ huy tiểu đoàn. Turpin cho người dẫn anh đến ban chỉ huy. Cho tới lúc này Turpin mới biết, cả
thiếu tá tiểu đoàn trưởng Pégot và đại uý tiểu đoàn phó Pardi đều đã tử trận.
Nhưng, thảm hoạ còn lớn hơn nhiều. Cách đó bốn kilômét, tai hoạ cũng ập đến.
Sau khi tất cả mọi liên lạc với tiểu đoàn 3 và ban chỉ huy binh đoàn 9 đều bị đứt, trung
tá Gaucher đã triệu tập ban tham mưu tới hầm chỉ huy của binh đoàn, gồm có: phó chỉ huy, thiếu
tá Martinelli; thiếu tá Vadot chỉ huy phân khu Trung tâm; thiếu tá Brinon, chỉ huy tiểu đoàn 1;
trung uý Bailly trưởng ban tác chiến; trung uý Bretteville, trưởng ban quân báo, nêu câu hỏi:
- Làm thế nào để cứu viện cho Béatrice?
Hầm của trung tá Gaucher nhỏ. Để có thể chứa nổi tất cả số sĩ quan này, thiếu tá Vadot
đã phải cúi khom lưng ngồi trên chiếc giường kê ở vách hầm. Bên kia hầm là nơi làm việc của
Guenzi, phụ trách điện đài của tiểu đoàn 1 và Van Fleteren, thư ký Ban 2. Cả hai nhân viên này
đều biết rõ tình hình nghiêm trọng. Nhưng cả hai đều tin tưởng vào người chỉ huy trưởng. Cũng
như họ, tất cả binh sĩ lê dương đều biết Gaucher là một sĩ quan lê dương kỳ cựu và đã ở Đông
Dương lâu năm.
Guenzi có nhiệm vụ phải bắt được thường xuyên các làn sóng truyền từ tiểu đoàn 3.
Van Fleteren có nhiệm vụ tổng hợp các tin tình báo quân sự thu lượm được.
Bên kia vách hầm, trung tá Gaucher nghiên cứu các bức điện vừa nhận được. Tất cả
đều lộn xộn, đứt đoạn, đôi khi trái ngược nhau. Dù sao, ông cũng đã biết toàn ban chỉ huy tiểu
đoàn 3 đã bị tiêu diệt từ 6 tiếng đồng hồ rồi. Ông cũng biết, trung uý Carriere chỉ huy đại đội 9 đã
bị bắn chết trên đồi Béatrice 2 và trung uý Turpin đang bị thương nặng. Ông nói:
- Không thể đảm bảo phòng thủ qua mạng lưới thông tin được. Phải chỉ định một sĩ
quan tới Béatrice để chỉ huy. Tôi đề nghị …
Ông không kịp nói hết câu. Một quả đạn pháo đã xuyên qua nóc hầm rơi xuống chiếc
bàn gỗ của ông đang ngồi và phát nổ. Cùng lúc đó, đèn điện vụt tắt. Trong đêm tối, Van Fleteren
mò mẫm vén tấm vải bạt ngăn đôi gian hầm rồi bấm đèn pin quan sát chung quanh. Trong đám
khói và bụi anh nhìn thấy một cảnh tượng kinh hoàng. Trung tá nằm dưới đống bàn ghế nát vụn,
chân tay cụt hết, bộ mặt hoàn toàn biến dạng. Nằm bên cạnh ông là trung uý Bailly bị văng mất
đầu và trung uý Bretteville bị vỡ tan ngực. Chỉ riêng thiếu tá Vadot còn sống sót nhờ ngồi thụt một
chút vào phía trong, nhưng ngực cũng bị dính một số mảnh đạn nhỏ.
Van Fleteren quỳ xuống bên cạnh chỉ huy trưởng. Trung tá vẫn còn thoi thóp. Ông mở
to mắt khi bị đèn pin chiếu vào mặt, cố sức nói lắp bắp:
- Lau miệng … và… cho tôi uống.
Chưa đầy mười lăm phút sau, trung tá Gaucher tắt thở trên bàn mổ.
Đây là một tin đau đớn rụng rời đối với binh đoàn 9 và tiểu đoàn 1 lê dương. Mọi
người hoang mang tinh thần:
- Không có “ông già” thì làm sao thoát khỏi tình thế này?
Đúng là không có trung tá Gaucher, đám lính dưới quyền như đàn gà con mất mẹ. Tối
hôm đó, tất cả mọi người, trong đó có những binh sĩ đã sát cánh chiến đấu bên cạnh Gaucher từ
châu Âu đến Đông Dương, nước mắt lưng tròng, đã cùng hát bài ca vĩnh biệt ông.

Himlam
13 và 14 tháng 3 năm 1954
Việc chuyển quân của đại đội 11 ở Béatrice 2 đã làm cho Việt Minh bị bất ngờ. Nhất là,
sau khi nhận được điện của đại đội 10, cối 120 đã từ Dominique bắn tới dữ dội. Đến 21 giờ, địch
phải lui dần về vị trí xuất phát tiến công.
Tất nhiên, bên phòng ngự cũng bị nhiều tổn thất to lớn. Trong số 4 đại đội bố trí tại ba
cao điểm, chỉ còn lại một phần ba quân số có thể tiếp tục chiến đấu. Đại đội 11 và đại đội 9 là hai
đơn vị bị pháo bắn mãnh liệt và tiến công liên tiếp bằng bộ binh, là những đơn vị bị thương vong
nhiều nhất. Nhưng đã có lúc họ nghĩ rằng Việt Minh rút quân để từ bỏ hẳn cuộc chiến đấu.
Tại ban chỉ huy, chức vụ tiểu đoàn trưởng đã được trao cho đại uý Nicolas, người có
cấp bậc cao nhất trong đơn vị. Dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Nicolas chỉ có 2 sĩ quan là trung
uý Madelain, chỉ huy cơ quan tiểu đoàn bộ và trung uý Leude, bác sĩ quân y cùng với một số hạ sĩ
quan. Tất cả những người có cấp bậc khác đều đã bị chết, bị thương hoặc kiệt sức không thể tiếp
tục chiến đấu.
Nicolas ra lệnh cho Bonte phụ trách điện đài:
- Bắt liên lạc với trung tâm. Báo cáo là vẫn còn giữ được Béatrice 2 và 4. Báo cáo số
thương vong.
Boute vừa bật máy lên thi Việt Minh lại bắn một loạt pháo vào cứ điểm, rất mãnh liệt.
Lần này, pháo bắn tập trung vào vị trí ban chỉ huy tiểu đoàn. Có nghĩa là địch sẽ xung phong tiến
đánh nơi này.
Cùng trong lúc đó, đại đội 9 hiện không còn một sĩ quan nào, chức đại đội trưởng phải
trao cho trung sĩ Bleyer, anh báo cáo bằng điện đài rằng địch đã đặt chân tới đỉnh Béatrice 3. Các
trung đội đóng ở đây không thấy trả lời qua điện thoại vô tuyến. Một lát sau mới nghe thấy tiếng
Kubiak:
- Địch đã vào tới vị trí chỉ huy đại đội. Tôi đang chuyển vị trí.
Nicolas lệnh cho khoảng 100 lính lê dương còn lại, tập trung tại hai mặt Bắc và Đông,
đón đánh. Ông nói với các chỉ huy:
- Bây giờ đến lượt chúng ta đây.
11 giờ đêm, Béatrice 1 không trả lời. Có nghĩa là đã bị địch chiếm đóng. Việt Minh từ
Béatrice 3 đi xuống rãnh ngăn hai quả đồi, tiếp tục tiến đánh vị trí còn lại. Lính lê dương chờ Việt
Minh tới gần mới đồng loạt nổ súng. Đây là những người lính có tinh thần chiến đấu. Họ dũng
cảm kháng cự dưới làn mưa đạn pháo cối bắn liên tục. Hơn nữa, đây là một vị trí kiên cố, có bố trí
hoả lực bắn chéo hai bên sườn, sườn đồi dốc khó leo tới đỉnh, lại có thêm nhiều lớp rào kẽm gai
cản đường thâm nhập. Dĩ nhiên, Việt Minh có những người lính mang theo chất nổ gọi là “bộc
phá” để đánh sập những lớp rào dây kẽm gai. Một số đã bị lính lê dương bắn khi đang bò sát sườn
đồi để leo tới đỉnh.
Cuộc tiến công đã bị chặn lại. Việt Minh tập trung tại đáy thung lũng, giữa hai quả đồi.
Lính lê dương thở dài:
- Nếu chúng ta có pháo bắn vào rãnh này.
Madelain hỏi Nicolas:
- Mấy giờ rồi?
- Đúng nửa đêm.
Nicolas hỏi lại Bonte:
- Tình hình các nơi thế nào?
- Không bắt liên lạc được. Với chúng ta, thế là hết rồi.
Những báo cáo cuối cùng gửi về Trung tâm cũng đã cho biết: cuộc chiến đấu ở
Béatrice chấm dứt hồi nửa đêm “13 tháng 3 năm 1954”. Sau này, sử sách cũng ghi như vậy, căn cứ
vào lời kể của một vài người lính lê dương, dẫn đầu là Kubiak chạy thoát khỏi Béatrice vào lúc
nửa đêm. Nhưng trên thực tế sau đó Béatrice vẫn tiếp tục chiến đấu.
Trên điểm tựa, đại uý Nicolas và trung uý Madelain tập trung tất cả những binh lính lê
dương còn sống sót từ các đại đội chạy đến, biên chế thành từng tiểu đội, trung đội mới.
Trung uý Turpin đã được đưa đến trạm quân y tiểu đoàn, được trung uý bác sĩ Leude
chữa trị. Trong trạm xá, lính bị thương mỗi lúc một nhiều, nằm ngồi hỗn độn tại các hàm ếch, các
đầu hào giao thông. Những người may mắn lắm mới được nghỉ trong hầm.
Đã 1 giờ 40 phút sáng 14-3-1954. Việt Minh lại chuẩn bị tiến đánh Béatrice 2 một lần
nữa. Những tiếng hô “Tiến lên” của Việt Minh vang vọng rất rõ đến tai những người lính lê dương
đang bố trí lại những chiến hào đã sụp đổ một nửa.
Trung uý Turpin dựa vào người bác sĩ Leude, tiến ra khỏi hầm quân y. Anh không
muốn ẩn náu như một con chuột trong lỗ. Trên cứ điểm, cuộc giao tranh đang diễn ra hỗn loạn. Đó
là những cuộc chiến đấu của từng cá nhân, không liên lạc được với nhau, ở rải rác khắp nơi. Súng
máy bắn, lựu đạn nổ, tiếng hô của những người tiến công, tiếng thét của những người phòng ngự,
tiếng rên của những người sắp chết. Đến 2 giờ sáng, Việt Minh đã tạo được một cửa mở và ào ạt
xông lên như thác lũ đang làm vỡ đê. Một số đã vào được vị trí chỉ huy, sục sạo các chiến hào.
Những “cán bộ” Việt Minh, xà cột khoác vai, hô to không ngừng bằng tiếng Pháp:
- Lính lê dương! Ra hàng đi!
Những tù binh đầu tiên đã tập trung trên đỉnh đồi, trong đó có trung uý bác sĩ quân y
Leude và trung uý đại đội trưởng Turpin. Cố nén đau, Turpin nằm xuống đất rồi lặng lẽ bò đến
góc một lô cốt cách đó vài mét. Anh nghĩ, Việt Minh đang chú ý tới những người còn khỏe mạnh,
chắc họ không để ý tới Turpin đầu và khuỷu tay đều quấn băng. Chỉ còn một nỗi lo là chiếc máy
bay Dakota lượn trên cao vẫn đều đặn tung pháo sáng thường xuyên có thể làm cho Turpin bị lộ.
Nhất là cách chỗ anh nấp khoảng 5 mét lại có một ụ súng trọng liên đã bị Việt Minh chiếm.
Đã gần 3 giờ sáng. Mọi cuộc chống cự có tổ chức trên cứ điểm đã hoàn toàn chấm dứt.
Nhưng vẫn còn nghe thấy vài loạt đạn tiểu liên và vài tiếng súng trường. Nhưng rồi sau đó, mọi
tiếng động đều im hẳn.
Phần lớn bộ đội Việt Minh đã rút khỏi điểm cao, chỉ để lại trên trận địa vài nhóm người
có nhiệm vụ sục sạo trong các lô cốt, tìm vũ khí, đạn dược, lương thực rồi khuân ra ngoài.
Turpin bị bỏ rơi bên cạnh một lô cốt. Và hình như cũng chỉ có một mình anh nằm lại
chỗ này. Turpin rất đau nhức và hoàn toàn kiệt sức. Nhưng do rất sợ bị lộ, anh vẫn cố nằm im,
không cử động, hai mắt mở to quan sát, hai tai nghe ngóng, đầu óc cảnh giác. Thời gian lặng lẽ
trôi dần như vô tận. Phía đông, trời đã hửng. Có lẽ đã 4 giờ sáng.
Chợt có tiếng rên chỉ cách chỗ Turpin vài mét. Một người lính lê dương bị thương đang
đòi uống nước. Rồi Turpin nhìn thấy một người lính Việt Minh đang chạy đến, đưa bi đông nước
cho người lính bị thương uống và nói bằng tiếng Pháp với âm thanh trầm bổng như hát:
- Không nằm đây được đâu. Chốc nữa, toàn bộ cứ điểm này sẽ bị đánh sập!
Người lính Việt Minh cúi xuống, dìu người lính lê dương bị thương đi chỗ khác. Turpin
cảm thấy rất lo sợ. Nếu Việt Minh đánh mìn phá sập cứ điểm, nhất định anh sẽ tan xác. Nhưng anh
đang quá yếu sức, không thể bò đi mà không bị lộ và bị bắt. Turpin đắn đo suy nghĩ: đi hay ở?
Để phòng xa, Turpin dùng bàn tay chưa bị thương cất giữ những giấy tờ tuỳ thân và
bản kế hoạch phòng ngự trong lớp áo sơ mi và tháo gỡ chiếc lon trung uý vứt đi.
Dựa vào cánh tay còn khỏe, Turpin cố lết đi khoảng 20 mét thì gặp một đoạn hào
không sâu lắm ở sát lớp rào dây kem gai. Anh lăn xuống đó, gần như bị ngất đi vì cẳng chân bị
thương làm đau nhói cả hai bên sườn.
Không may cho Turpin, anh rơi đúng hào mà những người lính cuối cùng của bộ đội cứ
điểm dùng để rút quân. Người lính đi sau cùng ngoảnh lại đã nhìn thấy Turpin. Anh ta giương
súng, lên đạn. Turpin vội nói:
- Tôi bị thương.
Người lính Việt Minh gật đầu, tỏ vẻ đã hiểu. Anh ta gọi một đồng đội. Cả hai người
lính Việt cùng ngồi trên bờ hào. Người mới đến biết nói tiếng Pháp một chút. Anh ta hỏi Turpin
trường hợp bị thương, bao nhiêu tuổi, có vợ chưa, có con chưa. Cuộc nói chuyện có vẻ như không
phải là hỏi cung, mà chỉ là trao đổi gần như thân tình, có tính chất cá nhân.
Đến lượt Turpin hỏi lại:
- Anh đi lính bao lâu rồi?
- Sáu tháng!
Người lính Việt Minh hỏi thêm:
- Anh có khát nước không?
- Không!
Người lính Việt Minh đứng dậy, mỉm cười bắt tay từ biệt Turpin rồi ra đi. Nhưng sau
đó ít lâu, anh ta lại quay trở lại cùng với một người khác, hỏi cung thật sự. Tên là gì? Cấp bậc?
Đại đội nào?
- Trung đội trưởng à? Đại đội nào?
- 11.
- Anh là người Pháp.
- Vâng!
- Anh có nghĩ chúng tôi có pháo?
- Có. Tôi biết. Các ông có pháo 75, 105.
Người lính Việt Minh chuyển đề tài:
- Phải đi khỏi đây thôi. Chúng tôi sắp phá huỷ cứ điểm.
Turpin hứa sẽ cố gắng. Người lính Việt Minh rút sổ tay, viết mấy chữ, nói:
- Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy chúng tôi đối xử nhân đạo với binh lính địch đã bị thương.
Anh ta xé trang giấy trong sổ tay đã viết mấy chữ rồi đưa cho Turpin:
- Đây là giấy thông hành tôi cấp cho anh để anh đi qua trận địa của chúng tôi, trở về vị
trí của các anh.
Anh ta cẩn thận gấp mảnh giấy thứ hai rồi đưa cho Turpin:
- Còn đây là thư gửi cho đại tá Castries của các anh. Chúng tôi cho phép phía Pháp đến
đây thu nhặt xác chết và lính bị thương.
Phải khó khăn lắm, Turpin mới đứng lên được. Anh tập tễnh đi xuống sườn đồi
Béatrice. Hai người “bộ đội” dìu Turpin đến một đường hẻm mà chỉ riêng Việt Minh mới biết, chỉ
cho anh lối về trận địa Pháp. Nhưng Turpin ưa dùng con đường cũ mà anh thông thạo, tức là
đường 41. Sau khi chia tay hai bộ đội Việt Minh, Turpin rẽ tay phải, men ra đường cái. Ngang
đường, anh nhận thấy gian hầm trống vẫn thường dùng làm chỗ đỗ ban đêm cho chiếc xe Jeep của
tiểu đoàn vẫn còn nguyên vẹn. Tức là Việt Minh đã không tiến đánh Béatrice từ phía này.
Lúc Turpin về đến chân Dominique, trời đã sáng rõ. Anh còn phải đơn độc đi bộ một
cây số nữa mới tới trạm giải phẫu. Turpin bước vào, dùng máy điện thoại nói chuyện với thiếu tá
Vadot sau khi được tin trung tá Gaucher tử trận.
Một sĩ quan quân báo là đại uý Noel đến trạm quân y. Turpin đưa cho Noel thư của Việt
Minh gửi đại tá Castries.
Chiều 14 tháng 3, một chiếc máy bay Beaver do thiếu tá không quân Devoucoux,
trưởng đội phi hành liên lạc từ Hà Nội tới đã hạ cánh được xuống đường băng sân bay Điện Biên
Phủ. Trung uý Turpin được đưa về Hà Nội. Cùng được di tản với Turpin trên chiếc máy bay nhỏ
bé này còn có một thương binh mà anh không nhớ tên và cô Paule Bourgeade, thư ký riêng của
đại tá Castries.

Đợt ngừng bắn


10 giờ ngày 14 tháng 3 năm 1954
Sau những giờ còn lại trong đêm ngủ ở dưới hầm, trung sĩ Bertin Dubois vươn vai
đứng dậy. Người anh bị tê bại vì phải ngồi bó gối quá lâu trong góc hầm, trên đầu che một tấm vải
bạt để tránh bị đất bụi rơi xuống mặt. Thái dương Dubois đập mạnh, miệng khô đắng như sau một
đêm uống nhiều rượu.
Ánh sáng ban ngày chiếu qua ô cửa vuông, lọt vào hầm. Dubois leo bốn bậc thềm lên
mặt đất, đứng trên bờ sông Nậm Rốm, chứng kiến hai cảnh tượng kỳ cục: sự im ắng và sự xáo
trộn. Dưới lớp mưa phùn tắm ướt những đỉnh đồi phía Đông, thung lũng lòng chảo Điện Biên Phủ
hình như bị đông đặc lại. Không còn vẻ nhộn nhịp náo nhiệt báo hiệu một ngày mới. Xe ô tô
không thấy mở máy, binh lính vẫn đi lại từ vị trí này sang vị trí khác nhưng không nô đùa, gọi
nhau. Cũng không đi đông người. Chỉ có từng tốp nhỏ cúi đầu, bước chân lặng lẽ. Trên mặt đất, có
những hố tròn màu sáng, chung quanh là màu đất cháy đen thui. Gây ấn tượng mạnh mẽ nhất, đó
là cảnh những căn hầm bị phá huỷ, những xà gỗ dính đất chổng ngược lên trời, những lớp hàng
rào dây kẽm gai nằm bẹp dí trên mặt đất, rách tả tơi, đứt đoạn, văng đi khắp mọi phía, những
mảnh tôn, mảnh gỗ, những quả đạn chưa nổ, những bộ phận cơ thể con người bị cháy đen hoặc
đẫm máu đỏ, vương vãi lung tung.
Không còn bất cứ vật gì ở nguyên chỗ cũ. Không còn bất cứ hình ảnh gì gợi lại quanh
cảnh ngày hôm trước. Thực tại mới mẻ này được khẳng định giữa ban ngày đã nhắc lại cơn ác
mộng đêm qua.
- Có những đêm dài bằng mười năm.
Hạ sĩ Pinelli vừa nói vừa bước lại gần Dubois. Cũng như người bạn của mình, Pinelli
có vẻ mặt xám xịt, mệt mỏi, hai gò má hôm trước còn tròn đầy, bầu bĩnh, sáng nay đã hóp lại làm
cho anh càng thể hiện rõ nguồn gốc châu Á của mình, Pinelli thư ký - phiên dịch của ban quân báo
là một người Pháp lai Việt.
- Khi nào mọi việc kết thúc, càng có nhiều chuyện kể lại cho con cháu nghe.
Dubois hỏi lại:
- Nhưng đến bao giờ thì kết thúc?
- Ồ! Chỉ là vấn đề vài tiếng đồng hồ nữa thôi. Việt Minh bắn đạn tiếp rồi. Tớ làm trong
ngành quân báo, tớ biết rõ. Việt Minh chỉ mang theo được có ba ngày đạn pháo. Họ không thể kéo
dài cường độ bắn như thế này được.
Dubois không tin. Nhưng, cũng như Pinelli, anh cố bấu víu niềm lạc quan. Cả hai
người đều tự nhận thấy, họ không thể chìm sâu trong vũ trụ kinh hoàng mà họ vừa mới thấy đêm
qua. Họ không muốn dấn sâu vào đó, mặc dù đang đứng trên bờ vực.
Pinelli có một tâm hồn bình dị. Anh là tín đồ của một tôn giáo mà người Bồ Đào Nha
đã mang tới Việt nam, gọi là đạo Thiên Chúa. Anh có ý nghĩ thường xuyên đặt số phận trong bàn
tay đức Chúa Trời mà anh gắn bó cả cuộc đời mình. Pinelli nói:
- Đêm qua, tớ đã cầu xin Chúa cho buổi sáng đến nhanh!
Rồi anh mỉm một nụ cười ngớ ngẩn:
- Tớ cũng cầu xin, đêm nay chỉ đến một mình, không có chuyện gì cả!
Hai người ngồi uống bi-đông cà phê trên bờ sông đang cuồn cuộn chảy, dòng nước
màu vàng pha trộn đất cát, hai cặp mắt cùng nhìn lơ đãng về phía đường 41.
Trên đường cái, một đoàn người quần áo rách nát, dáng điệu mỏi mệt đang lê bước. Đó
là những binh lính sống sót từ cụm cứ điểm Béatrice đang lần mò về phân khu Trung tâm. Từng
người một, họ bước qua cầu phao kết bằng những bè mảng trên dòng sông Nậm Rốm rồi lên bờ đi
mất hút về phía sau trạm quân y giải phẫu có treo một lá cờ trang điểm chứ thập màu đỏ ở chính
giữa, rồi lại xuất hiện, đi về phía sở chỉ huy binh đoàn 9. Đồng đội từ khu Trung tâm đã ra đón,
hỏi han những người sống sót trở về, động viên họ, dìu họ vào nghỉ trong hầm trú ẩn của các trung
đội.
Pinelli và Dubois vượt qua 50 mét đường tới gần những người mới đến, hỏi thầm:
- Gay go chứ?
Bleyer nhìn lại người hỏi bằng cặp mắt đờ đẫn, như chưa hết nỗi kinh hoàng:
- Gay à? Thế nào là gay? Chỉ biết là lâu lắm…
Cùng với trung sĩ Kubiak, trung sĩ Bleyer là hai hạ sĩ quan cuối cùng còn lại của đại
đội 9. Với tổng số 600 quân trên cụm cứ điểm Béatrice, chỉ còn sống sót có 64 người.
Đến giờ phút này, cuộc sống đã dần dần trở lại trong thung lũng lòng chảo. Hai đại đội
xuất phát từ buổi sáng, định mở cuộc phản kích lấy lại Béatrice và bị chặn đứng ngay gần
Dominique, lúc này đã quay trở về nơi đóng quân, cùng với hai xe tăng đi yểm hộ, giống như vừa
mới đi đưa đám ma.
Chung quanh hầm chỉ huy là nơi chưa đầy vài tiếng đồng hồ trước, trung tá Gaucher
vừa bị chết, binh lính đang dọn dẹp đống đổ nát để tìm kiếm những vật liệu còn dùng được. Từ
sáng sớm, thi thể các trung uý Baily và Bretteville đã được bỏ trong chiếu đưa đi chôn cất tại
nghĩa trang bên bờ sông.
Đại uý quân y Le Damany rảo chân bước vào hầm, nói với thiếu tá Vadot, “ông chủ
mới”:
- Việt Minh cho phép ta đưa một bộ phận tới Béatrice để thu nhặt những người chết và
bị thương. Dĩ nhiên tôi phải phụ trách đội này.
Vadot gật đầu, không nói gì.
Linh mục Trinquard là đức cha tuyên uý của bán lữ đoàn đi theo bác sĩ vào hầm, nói:
- Tôi xin đi theo.
Linh mục là người đã tiếp nhận những lời cuối cùng của trung tá Gaucher trong trạm
phẫu thuật. Bác sĩ Le Damany đề nghị:
- Tôi cần có những người tình nguyện.
Trung uý Bach, chỉ huy trung đội cơ quan sở chỉ huy, truyền đạt lời yêu cầu này tới các
binh sĩ. Toàn thể tiểu đoàn 1 đều xung phong tình nguyện, trong đó có cả phần lớn những người từ
Béatrice sống sót trở về. Họ nói:
- Chúng tôi biết chỗ.
Đó là lý lẽ chắc nịch. Trên thực tế, họ còn có một ý muốn thầm kín là đưa tất cả những
người bị thương và người chết trở về. Vì vậy, họ chỉ mang theo xẻng. Đúng 10 giờ, đoàn công vụ
lên đường trong đó có hai hạ sĩ quan là Bleyer và Kubiak, đội tải thương mang theo cáng thuộc
trung đội của trung uý Bach, do thượng sĩ Signorini dẫn đầu.
Vượt lên trên đoàn người đi bộ là hai chiếc xe tải cắm lá cờ chữ thập đỏ rất to trên
chiếc xe đầu. Đại uý quân y Le Damany đứng bám vào thành xe. Một cán bộ Việt Minh từ bụi cây
ngang đường tiến ra, dùng tay làm ám hiệu cho xe cứ tiến thẳng rồi cùng lên xe ngồi cạnh người
lái.
Cho tới khi cả hai chiếc xe tải đều đến chân đồi là vị trí cũ của ban chỉ huy tiểu đoàn 3,
lúc đó người cán bộ Việt Minh mới nói:
- Đỗ xe ở đấy.
Quang cảnh trống rỗng lặng lẽ. Đây không phải là vị trí quân bạn, cũng không phải là
vị trí quân địch. Người cán bộ Việt Minh đã rảo bước đi theo hướng Bắc, về phía khu rừng mà có
lẽ đêm qua Việt Minh đã xuất phát tiến công Béatrice.
Chỉ còn lại những binh sĩ Pháp im lặng, ngỡ ngàng tìm kiếm những người chết và
những người bị thương.
Trong vòm nhà hầm, chiếc xe Jeep của tiểu đoàn vẫn đỗ ở đó, nhưng đã có một người
lính Việt Minh bé nhỏ đứng gác, im lặng như pho tượng.
Trong hầm chỉ huy đã dọn sạch. Không thấy xác của thiếu tá Pégot và đại uý Pardi,
nhưng vẫn còn lại một số thi thể, trong đó có xác trung uý Carriere chỉ huy đại đội 9, ba phần tư
cơ thể bị vùi lấp trong đống đổ nát, chỉ còn thò ra đôi giày và một phần ống quần để dễ dàng nhận
biết.
Dưới thấp, trong những rãnh giữa hai quả đồi, linh mục Trinquand tìm thấy một lính bị
thương.
Khoảng 11 giờ, một đoàn người quân phục màu xanh lá cây mang theo cáng, trên có
lính Pháp bị thương. Theo sau là những lính lê dương cũng bị thương nhưng còn đi được. Việt
Minh mang trả cho Pháp 14 binh sĩ bị thương.
11 giờ 30 phút, đại uý bác sĩ Le Damany lệnh cho mọi người trở về vị trí.
Cách Điện Biên Phủ 800 kilômét, tại một trại tù binh đặt trong một bản người Tày,
trung uý Chauvet, nguyên sĩ quan tiểu đoàn dù lê dương số 1 bị bắt trên đường số 4 từ năm 1950,
được một cán bộ Việt Minh phụ trách trại gọi lên hỏi chuyện. Chauvet uể oải bước lên, đinh ninh
lại phải nghe lên lớp chính trị.
Nhưng, trưởng trại vui vẻ nói:
- Chauvet này, phải tổ chức thêm nhiều bếp ăn nữa.
- Thưa sếp, đủ rồi mà.
- Anh chưa hiểu rõ. Sẽ có thêm nhiều tù binh nữa!

Pháo Điện Biên Phủ


14 tháng 3 năm 1954
12 giờ trưa. Hết hạn ngừng bắn. Pháo Việt Minh lại nã đạn nhằm duy trì một tình trạng
bất an và lo lắng cho binh lính Pháp. Những quả đạn rơi đều đặn, cách quãng, nhằm vào những
hầm chỉ huy, chung quanh đó là những người lính quan sát đang ra, vào; những bãi đỗ trên sân
bay, cố bắn trúng những chiếc máy bay Bearcat; những hầm pháo mà các pháo thủ vừa lợi dụng
thời gian tạm im ắng để củng cố.
Trời mưa. Một thứ mưa phùn ấm và nhớp nhúa như mồ hôi dính vào da, thu hút những
con nhặng xanh.
Vậy mà, cũng như các bạn mình, Yves Le Pajolec vẫn cởi trần trùng trục khi lao động,
cố gột rửa hết lớp bụi đất để cho những giọt nước mưa tạo thành những vết đen dài trôi trên da
thịt. Yves vẫn còn đội trên đầu chiếc mũ sắt nặng trĩu. Đây là một sự bắt buộc có tính nguyên tắc
nhưng trước kia ít được tuân theo nghiêm chỉnh, chỉ sau khi xảy ra trận đánh đêm 13 tháng 3 mới
trở thành một phản xạ tự vệ thực tế. Tất cả mọi người khi bước ra khỏi hầm đều đội mũ sắt, kể cả
đám phu không được phát mũ sắt vẫn thu lượm của các xác chết để đội lên đầu.
Mặc dầu pháo bắn, số quân bước ra khỏi hầm vẫn đông. Họ làm việc ngoài trời chỉ
mang theo xẻng cuôc, khơi sâu thêm chiến hào, đào thêm hào giao thông nối từ hầm này sang hầm
khác, khoét thêm hàm ếch trong vách hầm.
Đó đây ở khắp mọi nơi là những binh lính đi lẻ, tìm kiếm vật liệu để củng cố công sự,
chống sạt lở, đắp thêm vài centimét đất trên nóc hầm. Người lính nào còn phải nằm dưới lều bạt
cũng sẵn sàng trả cả một tháng lương cho bất cứ ai tìm giúp cho mình một thùng gỗ, một túi đất,
một cọc rào để có phương tiện chống đỡ.
Le Pajolec chào hàng:
- Nhìn này! Tớ kiếm được những thùng sắt đã đựng đạn pháo.
Người tìm mua vội vồ lấy, hớn hở cắp dưới nách những vỏ đạn pháo bằng cát-tông.
Anh ta sẽ đổ đất vào những ống giấy này rồi đặt sát vách hào. Đây chỉ là một sự đề phòng có tính
chất tâm lý. Trung uý trung đội trưởng Clément nhận xét như một nhà triết học:
- Quả đạn nào bắn trúng thì vẫn trúng!
Và nhà triết học này đã đắp một lớp đất dày tới 25 centimét trên nóc hầm của mình.
Le Pajolec bình luận:
- Dày cộm như vậy, trung uý sẽ như người điếc, không nghe thấy tiếng pháo rơi.
Trung uý Clément là một nhân vật kỳ cục. Một bộ mặt hình tam giác, trán nở, cằm
nhọn, trên đầu là mớ tóc dày lượn như những làn sóng đẫm nước mưa. Một cặp kính mắt rất dày
khiến ông giống như một con cú. Nhưng Pajolec rất yêu tâm hồn bên trong của trung uý mà anh
coi như người anh đối với người em trai. Vì vậy, ông sống gần như cách biệt, chỉ say sưa với
những cuốn sách toán học mang theo. Hầm chỉ huy của Clément rộng một mét, dài hai mét, phủ
bằng một tấm sắt trên đổ dày đất, giống như nơi làm việc của một giáo sư toán học, chứa đầy sách
toán, giấy viết, thước đo, kính ngắm. Những phút im ắng, Clément liên tục vẽ trên giấy những
hình tròn, đường thẳng. Bên cạnh đống giấy tờ sổ sách là những ga-men đựng thức ăn. Clément
rất hàu đói. Có lẽ ông khoác một chiếc “blu” màu trắng thì hợp hơn là bộ đồ trận. Giọng nói của
ông dịu dàng, chậm rãi.
Binh lính dưới quyền yêu mến ông. Từ đêm trung đội bị pháo bắn mãnh liệt, họ càng
kính phục người chỉ huy trung đội pháo binh của mình. Clément đã rời vị trí với những tính toán
nhà nghề của pháo binh, sống sát binh lính, đi từ chiến hào này sang chiến hào khác, kiểm tra từng
khẩu pháo, giúp đỡ từng pháo thủ, đôi khi mang theo cả những bi đông cà phê để thức và cũng
không chạy tìm nơi trú ẩn khi pháo địch nổ gần.
- Nằm xuống!
Mặc cho tiếng kêu của những người bên cạnh, Clément không quay đầu nhìn lại. Cũng
không nhảy vọt sang một chỗ khác khi quả đạn 105 nổ gần, phát ra một luồng sáng chói màu da
cam. Ông chỉ bình thản đứng dậy, sẵn sàng đi tới các chiến hào, nhảy lên lưng người này, hoặc
đẩy người kia vào hầm khi có quả đạn pháo rơi gần. Le Pajolec theo sát ông, nói:
- Suốt đêm, em đã cầu xin Đức mẹ đồng trinh phù hộ, làm giảm bớt nhịp pháo bắn.
Lúc này, Clément đã có nơi trú ẩn. Sau khi đi kiểm tra suốt dọc chiến hào của trung đội
do ông chỉ huy, ông nghỉ đêm tại hầm của người bạn đồng khoá là trung uý Lépinay, sĩ quan pháo
thủ của sở chỉ huy trung tâm. Le Pajolec thở phào nhẹ nhõm, bắt tay vào công việc của người thợ
đào đất.
Với kinh nghiệm đã quan sát thực tế, Le Pajolec nhận xét rất nhanh, lớp tường dày một
mét vây quanh khẩu 105 vẫn không đảm bảo tuyệt đối chống lại đạn pháo Việt Minh.
Đêm hôm trước đã có hai khẩu pháo bị huỷ diệt bởi pháo Việt Minh bắn thẳng. Hai
khẩu pháo khác bị hỏng vì mảnh đạn phá huỷ bộ phận giật nòng. Đây vẫn là chỗ yếu của pháo 105
do Mỹ chế tạo. Chỉ cần một mảnh đạn văng ra khỏi ống si-lanh là dầu chảy hết ra ngoài, buộc phải
ngưng bắn để sửa chữa.
Nâng cao thêm tường luỹ bảo vệ pháo chỉ có tác dụng tâm lý, không ngăn được pháo
Việt Minh bố trí trên vị trí cao khống chế. Cũng không thể đặt pháo trong hầm sâu hơn vì pháo
cần phải “bắn ngang”, đảm nhiệm phản kích ở mọi hướng. Đối với Việt Minh, không có vấn đề gì
cả vì họ có sẵn những mục tiêu cố định và bắn pháo rất tập trung.
Một pháo thủ bị mất tinh thần, nhận xét:
- Đó là bắn chim bồ câu!
Le Pajolec mắng luôn:
- Chính mày là chim bồ câu!
Pajolec là dân Bretagne với tất cả những mặt tốt và mặt xấu của người dân địa phương
này. Dĩ nhiên, Pajolec là người cứng đầu cứng cổ, nhưng bên cạnh đó anh còn tin vào yếu tố tinh
thần và sự phán xét công minh của thượng để, thể hiện trong những người chỉ huy trực tiếp. Le
Pajolec cho rằng, vị trí và nhiệm vụ của mình là phải phục tùng và tin tưởng. Dù tính ít nói, anh
vẫn phát biểu rất hăng khi tranh cãi về nhiệm vụ của đạo quân viễn chinh ở Đông Dương.
- Các anh nghĩ thế nào? Cuồng tín à? Phát xít, lính đánh thuê tiến hành cuộc chiến
tranh bẩn thỉu à? Chỉ huy của chúng ta là Leclerc, De Lattre, Bigeard, Bréchignac, quá khứ của họ
đã được xác minh. Tất nhiên, chúng ta là những công cụ của chính phủ Pháp, nhưng cũng là
những người bỏ phiếu bầu lãnh đạo, đóng thuế để làm luật…
Thường thường, Le Pajolec chỉ nói tới đó là hết. Nhưng đôi lúc cũng làu bàu nói thêm:
- Phận sự của chúng ta không phải là phán xét những quyết định và những việc làm của
cấp trên. Phận sự của chúng ta là bắn pháo. Bắn càng nhiều càng tốt. Vỡ bụng ra cũng vẫn bắn.
Trong hầm chỉ huy, trung uý Clément hí hoáy viết một bức thư và kết luận:
- Tất cả đều ổn. Chỉ có một chi tiết nhỏ: nhiều ruồi quá và phải ăn nguội.
Mặc dù bị pháo bắn, Điện Biên Phủ đã trở lại cảnh nhộn nhịp của một tổ ong. Mọi
người, mọi nơi đều hoạt động. Xe ô tô tiếp tục nạp ắc-quy. Việc thay quân được tiến hành. Trong
đoàn lính tiến về khu Trung tâm được biên chế lại, đi tăng cường bổ sung cho những căn cứ nhỏ
mang tên Huguette ở gần sân bay phía Tây tập đoàn cứ điểm.
Xa hơn nữa trong khu Trung tâm, những chiếc xe tăng Chaffee của đại uý Hervouet
đang thử máy trên sân bay. Những chiếc máy bay này cần vọt lên ngay khi bị pháo bắn. Khoảng
15 giờ, ba chiếc đã cất cánh được trước khi Việt Minh bắn cản. Nhưng 6 chiếc Bearcat còn lại đã
bị phá huỷ và bốc cháy. Cả đài kiểm soát không lưu và đèn pha dẫn đường cũng bị huỷ diệt.
Những chuyện này, chỉ có ban chỉ huy được biết. Còn binh lính thì vẫn đang rụt đầu rụt
cổ, ngạc nhiên, kinh hoàng vì bị pháo bắn không ngừng, cô lập các đơn vị. Họ chỉ ngẩng đầu
trong lúc 30 chiếc máy bay Dakota tới thả một tiểu đoàn dù, phân tán tại ba nơi: Simone, Octavie,
Natacha là những bãi cũ.
Tiểu đoàn dù lính Việt số 5 đã được đưa về Hà Nội nay lại nhảy dù xuống Điện Biên
Phủ.

Trên cứ điểm Gabrielle


17 giờ ngày chủ nhật 14 tháng 3 năm 1954
Trung uý Moreau tỳ khuỷu tay lên vách hào đài quán sát, ngước cặp mắt đeo kính nhìn
lên những cánh đồng phía Nam, trong lớp sương mù còn đọng sát đất. Ông nói vui với Sanselme
đứng bên cạnh:
- Này! Khách hàng đã đến!
Rõ ràng, trung uý Moreau không lo lắng cho số phận cứ điểm của mình là Gabrielle,
mặc dù tất cả mọi người ở đây đều biết rõ sắp đến lượt Gabrielle bị bắn phá.
Đêm hôm trước, một trận cuồng phong lửa đạn đã ập xuống Béatrice. Từ Gabrielle là
cụm cứ điểm nằm xa nhất ở phía Bắc, mọi người như được ngồi trên ghế cao theo dõi tình hình
Béatrice ở cách đó chưa đầy 5 kilômét về phía Đông, do tiểu đoàn 3 lê dương đóng giữ. Khi mọi
liên lạc vô tuyến với Béatrice bị ngừng một lát, mọi người ở Gabrielle đã tưởng Việt Minh phải từ
bỏ trận tiến công Béatrice và đã rót rượu sâm banh vào những chiếc ca sắt để uống mừng. Mãi
rạng sáng hôm nay, trung uý Saselme, sĩ quan quân báo của tiểu đoàn mới phát hiện thấy toàn bộ
cụm cứ điểm Béatrice đã tan hoang đổ nát, bộ đội Việt Minh đang như đàn kiến kéo vào lục soát.
Việc Béatrice sụp đổ nhanh chóng đã làm sững sờ tất cả các sĩ quan chỉ huy đóng ở
Gabrielle. Không một ai có thể hình dung, một trong bốn tiểu đoàn thiện chiến nhất của Điện Biên
Phủ lại bị tan biến trong một thời gian ngắn như vậy. Moreau cố tìm cách giải thích:
- Ở bên đó, họ không đủ thời gian cũng như vật liệu để xây dựng một cứ điểm phòng
ngự kiên cố. Vả lại họ lấy đâu ra gỗ cần thiết để xây lô cốt. Đồi Him Lam không có cây to, toàn là
bụi rậm.
Sanselme nhận xét:
- Hoàn cảnh của chúng ta ở đây khác hẳn họ.
Hai người cùng nhớ lại, đã phải bỏ ra nhiều tuần để đốn cây, chặt gỗ trên quả đồi này
để xây dựng cụm cứ điểm mang tên Gabrielle. Toàn là những cây gỗ lim, cứng như sắt, rắn như bê
tông, rất tốt để xây mái hầm, xây dựng các hầm chỉ huy, hầm tập thể, hầm trạm xá quân y. Những
cành cây lim vẫn còn cử dụng được để che chắn các ụ súng, các hầm chỉ huy trung đội hoặc đại
đội.
Moreau khẳng định:
- Béatrice thua vì sai lầm về chiến thuật. Lính lê dương bên đó, cũng giống như một võ
sĩ đấu quyền Anh đứng cúi mình định giáng một quả làm cho đối thủ Việt Minh thấp bé hơn đo
ván. Nhưng lại bị quật ở phía sau gáy. Trận đấu thua vì bị lừa miếng.
Sanselme tiếp lời:
- Hơn nữa, lính lê dương đóng ở Béatrice lại thiếu sĩ quan chỉ huy. Cả một đại đội mà
chỉ có một sĩ quan. Các trung đội trưởng đều là hạ sĩ quan, cao nhất là cấp trung sĩ. Mỗi đại đội
cũng chỉ có chưa đầy một trăm binh lính.
Sanselme nói có lý. Là một sĩ quan quân báo, ông được tiếp xúc và nắm rõ quân số của
các đơn vị khác. Và cũng do đó, Sanselme có dịp so sánh, về mặt quân số thì tiểu đoàn 5 lính
thuộc địa Algerie đóng tại cứ điểm Gabrielle này được ưu tiên nhiều. Vào ngày 14 tháng 3, trước
khi trận đánh bùng nổ, quân có mặt tại Gabrielle là 877, trong đó có 14 sĩ quan, 68 hạ sĩ quan. Các
đơn vị đều có đủ số chỉ huy, ít nhất là hai sĩ quan một đại đội, các trung đội trưởng đều là trung sĩ
nhất có thâm niên.
Hơn nữa, tiểu đoàn 5 thuộc trung đoàn thuộc địa Algerie này còn là một tiểu đoàn có
thành tích chiến đấu, đã được thưởng Bắc Đẩu bội tinh trong chiến dịch Itali năm 1944.
Moreau tự hào:
- Nhất định chúng ta sẽ đánh giỏi hơn cánh lê dương ở Béatrice.
Moreau lạc quan. Ông vừa đi Hà Nội thăm vợ và mới quay lại Điện Biên Phủ vài ngày.
Ông chỉ huy đại đội 4, một trong những đại đội xuất sắc của tiểu đoàn. Trong đại đội của ông có
nhiều người lính già, trung bình đã đi lính được 12 năm, có nghĩa là hầu hết số lính này đã dự các
chiến dịch tiến công trên đất Italia, chọc thủng phòng tuyến Liri, đánh chiếm Garigliano, tiến đến
Cassino… và bây giờ là Điện Biên Phủ.
Chiến tranh là vũ trụ của họ, quân đội là tổ quốc, trung đoàn là gia đình và đại đội
trưởng là người anh của họ. Đó là những người lính chuyên nghiệp, tận tuỵ, đóng giữ một cứ điểm
kiểu mẫu. Trong cuộc thi vừa qua do đại tá Castries tổ chức, cụm cứ điểm Gabrielle của họ đã
đoạt giải nhất về tổ chức phòng ngự chiến đấu.
Moreau bình luận với một vẻ ngạo mạn:
- Đối với các pháo đài kiểu mẫu, điều phiền toái nhất là bị các tướng đến thăm thường
xuyên để động viên tinh thần.
Trung uý Sanselme liếc nhìn đồng hồ đeo tay, đã 5 giờ chiều:
- Sắp tới rồi. Đánh cược nào?
Moreau nheo mắt, trả lời:
- Để xem đã.
Rồi ông giơ tay chào tạm biệt, bước vào giao thông hào trở về đại đội, vừa đi vừa huýt
sáo bài ca truyền thống của tiểu đoàn. Dọc đường, Moreau mỉm cười chào lại các binh lính đang
ngồi tại các vị trí sẵn sàng chiến đấu, súng để trước mặt, đạn và lựu đạn vừa tầm tay. Mọi người
đã ăn cơm rất sớm, từ lúc 4 giờ 30 chiều. Tất cả đều ít nói, một số hút thuốc, mắt nhìn vẩn vơ, chờ
đợi.
Sansleme đi dạo một lát. Trời mỗi lúc một tối. Xa xa ở phía Nam, những đốm lửa đèn
điện trong cứ điểm đã được bật, hiện rất rõ. Trước khi trở về hầm chỉ huy đã tới giờ sẵn sàng chiến
đấu, trung uý nhìn bao quát toàn bộ cứ điểm một lần cuối cùng. Hôm qua, Gabrielle đã bị bắn
pháo rất mạnh, nhưng các lô cốt vẫn chịu đựng được, không bị sụp đổ. Một phần buối sáng, binh
lính đã sửa sang, củng cố, kiện toàn công sự, làm tỉ mỉ mọi việc như một người làm vườn kỹ tính.
Buổi tối nay, tất cả đều ngăn nắp, sạch sẽ, hầm chỉ huy đặt trên đỉnh cao chế ngự toàn cứ điểm,
giống như tháp chỉ huy một tàu chiến. Gabrielle đặt trên một quả đồi đứng độc lập riêng biệt, lúc
nào cũng tỏ ra xứng đáng với tên gọi buổi đầu là “trái ngư lôi”. Chiến hào trục, còn gọi là “hào
xương sống” chạy dài suốt dọc quả đồi từ đỉnh xuống hai sườn Nam và Bắc, lởm chởm những lô
cốt bề thế và tròn như tháp súng, nòng pháo nhằm sẵn về hướng địch. Các sườn đồi đều có hai
tuyến phòng ngự song song nối với nhau bởi các hào giao thông được che chở bởi các hầm chiến
đấu trung đội, đại đội. Các khoảng cách đều bố trí sẵn những hàng rào đẩy có nhiệm vụ làm vật
cản nếu tuyến phòng ngự đầu tiên bị chọc thủng, để các trung đội ứng cứu kịp tới ngăn chặn địch
và giành lại những vị trí đã mất.
Tất cả hệ thống phòng ngự của Gabrielle đã được suy nghĩ, nghiên cứu, tổ chức tốt, căn
cứ vào những dự đoàn, kể cả những dự đoán bi quan nhất.
Sansleme đã vào tới hầm chỉ huy của tiểu đoàn. Ông giơ tay chào thượng sĩ Soldati, từ
đơn vị lê dương vừa được thuyên chuyển tới đây thay trung uý bác sĩ Chauveau bị thương hôm
trước vì pháo địch. Soldati xuất thân là một sinh viên trường Đại học Y khoa nước Áo. Chỉ vài
giờ, bác sĩ mới đến đã tổ chức lại trạm xá quân y tiểu đoàn một cách tốt đẹp.
Trong hầm chỉ huy, vài sĩ quan đang tranh luận nhẹ nhàng, vừa nói vừa nhấm nháp
nước trà có hương vị bạc hà trong những chiếc ca nhôm. Ngồi chung quanh bàn là đại uý Carré
tiểu đoàn phó, thiếu uý Larchey, trưởng đội thông tin. Trong góc đối diện, trung uý pháo bịnh
Collins lặng lẽ ngồi tính toán các bảng ngắm và các kế hoạch phản pháo địch.
Ở giữa hầm là thiếu tá Kah, người vừa được cử tới thay thiếu tá tiểu đoàn trưởng De
Mecquenem đã hết nhiệm kỳ phục vụ. Thiếu tá Kah cao hơn De Mecquenem gần một cái đầu.
Thiếu tá Macquenem đứng thẳng người, im lặng hút thuốc lá đầu lọc, có vẻ như không nghe cái
gì, không nhìn thấy gì. Nhưng thật ra, không gì qua khỏi mắt ông. Người ta thấy thỉnh thoảng ông
vẫn uốn nắn lại một câu nói hoặc chỉnh sửa lại một điểm ngắm. Đáng lẽ ông đã ra đi từ mấy hôm
trước sau khi bàn giao công việc cho thiếu tá Kah. Nhưng, cảm thấy cuộc chiến tới gần,
Mecquenem đã nấn ná ở lại, vì ông tự coi là người chịu trách nhiệm tổ chức phòng ngự cứ điểm
Gabrielle và vị trí của ông hiện nay là đứng lại đây trong cơn thử thách. Mecquenem đã từng làm
việc nhiều năm tại phái đoàn quân sự thường trực của Pháp ở Washington, Mỹ, dưới sự chỉ huy
của tướng Ély. Chính ông là người soạn thảo giúp tướng Ély các báo cáo. Trong suy nghĩ của cái
đầu, hành động của cử chỉ, tiết kiệm của ngôn ngữ, Mecquenem luôn tỏ ra là một chỉ huy.
Với vóc dáng của một lãnh chúa kết hợp với quan niệm một sĩ quan phải là người có
tầm nhìn rộng, ông được anh em sĩ quan dưới quyền gọi là “Von Meckenheim” vì họ coi ông như
một sĩ quan quý tộc Đức, hiện thân của uy quyền độc đoán. Ông ra lệnh:
- Các bạn! Đã đến giờ bước vào vị trí chiến đấu rồi!
Mecquenem nói câu này thậm chí không cần liếc nhìn đồng hồ. Ông cảm thấy địch sẽ
tiến công. Thiếu tá De Mecquenem vừa nói xong những quả đạn pháo của địch đã bắt đầu nổ. Các
sĩ quan bất giác rụt cổ lại nhưng lập tức lại ngửng đầu lên khi thấy thiếu tá tiểu đoàn trưởng không
hề động đậy một chiếc lông mi. Ông chỉ rút điếu thuốc lá ra khỏi môi, bình thản dụi vào một vỏ đồ
hộp rồi lặng lẽ ngồi nghe báo cáo qua điện đài. Vẻ bình tĩnh của ông gây ấn tượng đối với những
người chứng kiến trong khi pháo địch vẫn nổ liên tiếp chung quanh hầm, làm sụt lở vách đất, rung
chuyển cả quả đồi, tung bụi khắp hầm.
Những tiếng nổ vẫn tiếp tục không ngừng, ầm ầm như thác lũ, làm chấn động hệ thần
kinh trước thử thách của con người.
- Các đại đội trưởng, theo thứ tự, lần lượt báo cáo tình hình.
De Mecquenem chỉ nói to một chút, để người nghe được rõ. Hình như, giọng nói của
ông có tác dụng giảm bớt căng thẳng.
- Tôi, Narbey, chỉ huy đại đội 1, báo cáo: tình hình chỗ tôi vẫn bình thường. Pháo bắn
rất dày, trúng đích. Nhưng không thiệt hại gì.
Gendre, chỉ huy đại đội 3 nói tiếp theo Botella chỉ huy đại đội 2, với nội dung tương tự:
- Chỗ tôi nhận được từ 15 đến 20 quả đạn pháo một phút.
Trung uý Moreau cầm ống nghe. Thiếu tá Mecquenem hỏi:
- Chỗ anh thế nào? Thương vong bao nhiêu?
- Không bị thiệt hại gì cả. À, có! Báo cáo thiếu tá. Tôi bỏ quên ở căng tin bốn chai rượu
mạnh mang từ Hà Nội lên. Đừng ai uống nếu không có mặt tôi!
- Cái thằng Moreau này! - Thiếu tá Mecquenem cắt ngay báo cáo của Moreau, không
cười. Nhưng Sanselme đứng bên cạnh đã nhìn thấy một ánh vui lóe lên trong mắt tiểu đoàn
trưởng.
Sanselme báo cáo:
- Tôi xin phép đi một vòng để nắm tình hình.
Sanselme vẫn nhớ nhiệm vụ của mình là trong trường hợp Gabrielle bị tiến công, phản
ứng cứu ngay điểm nào bị uy hiếp mạnh nhất. Lúc này, 40 tay súng đang ngồi dưới những nắp
hầm vững chắc, sẵn sàng đợi lệnh. Sanselme lần lượt nhìn từng người một. Họ có vẻ bình thản,
trang bị đầy đủ như đứng trước một cuộc kiểm tra vũ khí. Bộ đồ trận sạch sẽ, dây đeo xiết chặt,
quai mũ sắt buông vừa đúng dưới cằm. Tất cả đều đã tham dự các chiến dịch ở Itali hồi Chiến
tranh thế giới thứ hai. Họ có thể chịu đựng được nhiều trận pháo nữa nếu như Việt Minh còn có
khả năng bắn. Vả lại, ngồi ở dưới hầm họ không thể quan sát, đánh giá được tình hình. Là những
người theo chủ nghĩa định mệnh, họ chỉ biết chờ đợi mệnh lệnh. Là những tín đồ đạo Hồi, họ nằm
trong bàn tay định đoạt của thánh Allah.
Ở đây, trong lúc này, hình như thánh Allah đang ủng hộ Pháp.
- Bộ binh địch tiến đến!
Narbey và Moreau lần lượt báo cáo cùng một nội dung lên ban chỉ huy tiểu đoàn. Đây
là hai đại đội trấn giữ mặt Bắc cụm cứ điểm Gabrielle. Hai đại đội trưởng nhìn thấy rõ những đợt
xung phong đầu tiên của Việt Minh, vừa tiến vừa hồ “Tiến lên!”. Tiếng hô lọt cả vào trong máy,
vang đến tai De Macquenem.
Lúc này là 19 giờ 45 phút. Pháo chuẩn bị cho cuộc tiến công đã bắn phá suốt hai tiếng
đồng hồ. Trong hai giờ này đủ các loại pháo nặng, pháo nhẹ, cối nặng ập xuống cụm cứ điểm,
nhấn chìm các lô cốt, các chiến hào., các giao thông hào trong cơn bão lũ của lửa và thép. Từ
những quả đồi lân cận vây quanh Gabrielle, các khẩu pháo không giật 75 và cối 82 nhằm một cách
chính xác những nơi đặt ú súng trọng liên và hầm cối 120 trên đỉnh núi, những vị trí chỉ huy của
các đơn vị rất dễ nhìn thấy vì nóc hầm cắm nhiều cột ăng ten.
Nhìn từ Trung tâm cũng như từ các đài quan sát của địch thì có vẻ như không vật gì
trong hệ thống phòng ngự có thể chịu đựng được pháo địch, không một vị trí nào có thể đứng
vững, không một người nào có thể tồn tại trước cơn bão đạn pháo này. Không một thước đất nào,
một lô cốt nào, một chiến hào nào không bị địch bắn.
Gabrielle không còn là con tàu phóng lôi nữa mà có vẻ như là một xác tàu sắp bị lật
tung, hào chiến đấu bị sụt lởm, tất cả chìm ngập trong khói đen từ đạn cháy, cát bụi tung tóe từ
đạn nổ, những mảnh sắt, mảnh gỗ, thân cây dùng làm vật liệu xây công sự chổng ngược lên trời
như những cánh tay của xác chết.
Bộ đội Việt Minh xung phong tiến qua những bãi mìn, luồn dưới lớp hàng rào dây thép
gai đã bị bắn tơi tả, vừa tiến vừa hô khẩu hiệu, tin tưởng sẽ chắc thắng. Đêm nay, đến lượt sư đoàn
308 tiến công. Mười hai ngàn bộ đội, gồm 3 trung đoàn 36, 88, 102 nổi tiếng là những đơn vị
vững chắc nhất của quân đội cộng sản. Những đơn vị này đã tới Điện Biên Phủ từ tháng 12 năm
trước, đã không ngừng chặn đánh những đơn vị pháo mạo hiểm ra khỏi cánh đồng Mường Thanh,
đã có dịp thử sức với đối phương.
Đúng là đến giờ phút này, Gabrielle đã tiếp nhận nhiều tấn đạn pháo địch. Đúng là,
nhiều hầm hố đã sụp đổ, nhiều chiến hào đã sạt lở. Các đơn vị lính Algerie bám chặt vào hố đang
chuẩn bị rút lui thì được pháo từ khu Trung tâm bắn tới chi viện. Việt Minh chững lại khi chỉ còn
cách tầm xung phong đánh giáp lá cà khoảng 10 mét. Từ vị trí chỉ huy tiểu đoàn Mecquenem, lệnh
được truyền tới trung đội trưởng:
- Pháo đã yểm hộ. Bây giờ đến lượt các anh chiến đấu.
Đến lượt các trung đội trưởng ra lệnh:
- Về vị trí!
Lính bộ binh quay trở về các vị trí chiến đấu, thông thạo như những đơn vị chuyên
nghiệp. Mọi người tỳ súng vào vai, nhằm bắn, kiểm tra lại các băng đạn tiểu liên, đặt lựu đạn đúng
tầm tay, chuẩn bị trước các mục tiêu bắn tới.
- Bắn!
Việt Minh chỉ cách đó chưa đầy 10 mét và đã tin là sẽ thắng, nhưng đột nhiên bị ngã
gục trước những luồng đạn bắn thẳng từ các lô cốt trong khi còn đang lúng túng bởi những lớp rào
dây kẽm gai.
Cùng trong lúc đó, chiếc Dakota lượn vòng trên cụm cứ điểm bắt đầu thả pháo sáng,
biến cuộc chiến đấu ban đêm thuận lợi cho Việt Minh thành một cuộc giao tranh ban ngàu, trong
đó lợi thế thuộc về lực lượng phòng ngự.
Hết đợt này đến đợt khác Việt Minh liên tiếp bị chặn lại từ cự ly có thể xung phong.
Nhưng đối phương vẫn tiếp tục xông lên như những đợt thuỷ triều, chỉ dừng lại một lát để chấn
chỉnh lại lực lượng rồi lại xông lên.
Từ phân khu Trung tâm, pháo bắt đầu bắn vào đội hình địch bằng các loại đạn 105, 120
do trung uý Collins từ Gabrielle chỉ dẫn mục tiêu. Cối 81 và 60 của các đại đội cũng bắn hợp lực
với pháo.
Tiếng nổ ran như sấm rền tới mức các sĩ quan phải hét thật to và bổ sung thêm bằng cử
chỉ mỗi khi ra lệnh. Dưới ánh pháo sáng, họ không phải là người nữa mà trông như lũ quỷ sứ,
bóng hình bị méo mó biến dạng, miệng há to, cánh tay vung vẩy, bàn tay xòe rộng.
Từ vị trí chỉ huy, thiếu tá tiểu đoàn trưởng De Mecquenem chăm chú theo dõi tình hình
phát triển của trận đánh. Trận tiến công đã tiến hành được 45 phút nhưng chưa dứt điểm. Cứ điểm
như giả vờ ngủ say để đợi giờ phút quyết định. Thời điểm đó đã tới. Gabrielle vụt thức giấc, trở
nên hung dữ như con bò rừng.
Tuy nhiên, cuộc tiến công vẫn diễn ra toàn diện. Đại đội 1 ở mặt Bắc, đại đội 4 ở mặt
Đông đều đã gặp địch. Nhưng quân địch còn tiến đánh cả mặt Nam và Tây Nam trong khu vực
của đại đội 3 và đại đội 2. Trên các sườn đồi đều có địch nhưng địch vẫn chưa tới được đỉnh đồi.
Đến 21 giờ, Macquenem báo cáo với Castries:
- Chúng tôi vẫn giữ vững. Các đại đội của tôi vẫn nắm chắc tình hình.
Mecquenem có lý. Một giờ mười lăm phút giao tranh quyết liệt đã trôi qua nhưng địch
chưa đạt kết quả.
Đại uý Narbey báo cáo thêm:
- Cuộc tiến công của địch vào vị trí trước mặt chúng tôi có vẻ đã yếu đi.
Năm phút sau, trung uý Moreau cũng báo cáo như vậy. Ông vẫn không quên mấy chai
rượu vang.
- Đã đến lúc uống rồi đấy. Tôi cảm thấy khát…
Đã có lúc, lính bộ binh Algerie trên cụm cứ điểm Gabrielle nghĩ rằng Việt Minh đã bỏ
cuộc. Nhưng đó chỉ là một đợt nghỉ. Lúc bộ đội Việt Minh ngừng tiến công thì pháo Việt Minh lại
bắn phá như để thay thế bằng một trận bắn ác liệt hơn trận trước. Lần này pháo địch tập trung vào
điểm cao, nơi đặt trụ sở chỉ huy và vị trí các vũ khí nặng. Bụi và khói dày đặc tới mức pháo sáng
không còn soi rõ chiến trường nữa. Dưới làn đạn pháo, lính thông tin liên lạc chạy như con thoi từ
chiến hào này sang chiến hào khác, lính tải thương khiêng cáng di tản thương binh, lính tiếp vận
chở đạn và lựu đạn đến các vị trí tiền tiêu. Súng lại bắn như điên ở cả hai phía đối địch, từ phía
Việt Minh cũng như từ phía Pháp.
Trung uý Clerget, chỉ huy trung đội cối 120 nói:
- Thật là súng bắn như điên.
Trung đội phó Timmermans không trả lời, cũng không gật đầu. Ông đã hoàn toàn bị
điếc đặc.

Trận đấu
Từ 14 đến 15 tháng 3 năm 1954
Trung uý Moreau đứng dậy, phủi bụi hai ống tay áo như một võ sĩ quyền Anh vừa bị
đấm một quả mạnh vào thẳng giữa mặt. Một quả đạn pháo 75 vừa mới nổ trên mép hào hất ông
ngã sụp xuống trong đám bụi đấy và mảnh đạn. Hai tay ông bị đau nhói nhưng khi lấy tay sờ
không thấy có vết thương nào. Chỉ riêng chiếc đồng hồ đeo tay là bị thiệt hại nặng. Mặt kính bị vỡ
tan. Hai chiếc kim đứng im lặng chỉ vào con số 12 giờ 10 phút đêm.
Moreau nói qua điện đài, gọi về sở chỉ huy tiểu đoàn.
- Thế là lính Algerie trong cứ điểm của tôi đã chiến đấu khá hơn lính lê dương ở
Béatrice đêm trước!
Đại uý Carre tiểu đoàn phó trả lời:
- Đây không phải là cuộc thi đua giữa lính thuộc địa Algerie của chúng ta với lính lê
dương, mà là một trận đấu giữa ta với Việt Minh. Ta phải thắng!
Từ 9 giờ tối tới lúc này, pháo Việt Minh không lúc nào ngừng, cũng không lúc nào
giảm. Hơn nữa, cách đây khoảng 20 phút, Việt Minh sử dụng thêm đạn cối 120 nổ chậm làm lung
lay các lô cốt, tan nát vách hần, phá huỷ những hầm sâu nhất. Cụm cứ điểm Gabrielle bắt đầu bị
thương tổn.
- Sanselme đâu? Tôi không bắt liên lạc với trung đội 3, đại đội 1.
Sanselme cũng không bắt liên lạc với trung đội này. Ông liền hạ lệnh báo động cho
trung đội ứng cứu rồi dẫn đầu cánh quân nhỏ bé men theo các chiến hào đi lên mặt Bắc cụm cứ
điểm.
Lính thuộc địa Algerie đã dày dạn chiến đấu, không để ý nhiều lắm đến đạn pháo đang
rơi như mưa. Nét mặt người nào cũng rắn như đá. Bàn tay họ nắm chặt vũ khí. Đi cuối trung đội là
đội lính chuyên môn trang bị súng phun lửa đeo bình chứa chất cháy trên lưng.
Cuộc tiến quân diễn ra rất nhanh. Đại uý Narbey chỉ tay về phía vị trí trung đội 3 đang
bị Việt Minh xâm nhập. Theo ngón tay chỉ, Sanselme lập tức vẫy tay cho toàn đơn vị xông lên.
Không có một tiếng hô thét nào. Chỉ có ngón tay trỏ phát đi tín hiệu ra lệnh và binh lính hiểu ngay
phải làm gì. Đôi tay thành thạo của họ biết rõ đâu là nơi đang bị địch chọc thủng. Họ ném lựu đạn
rồi nhảy từ hào này sang hào khác. Đây là một thứ máy đã được bôi dầu: ném lựu đạn, bắn một
loạt đạn, xông lên phía trước. Lại ném lựu đạn, lại bắn thêm một loạt đạn. Rồi lại xông lên lần
nữa.
Đôi khi họ vấp phải một sự chống trả ngăn chặn bước tiến. Lập tức đôi hình trang bị
súng phun lửa nhảy vào cuộc. Một lưỡi lửa khủng khiếp quét lia trên mặt đất. Chỉ cần ba giây
đồng hồ, cuộc tiến quân lại tiếp tục:
- Labes Abderrahmane đâu?
Thượng sĩ Labes, người Algerie, trả lời to:
- Báo cáo trung uý, Labes đây. Máy điện vỡ rồi. Tôi không có cách nào…
Nhưng Labes không nao núng. Không có liên lạc với cấp trên, cũng không biết chắc
đại đội còn giữ được chiến tuyến phòng ngự hay không, thượng sĩ Labes vẫn chỉ huy những binh
lính còn sống sót trong trung đội của mình bám trụ ở vị trí chiến đấu.
Trung đội đi ứng cứu đã phải quay trở lại trung tâm điểm tựa mang theo những binh
lính bị thương thu nhặt được rải rác trên đường về. Thượng sĩ Soldati xắn hai ống tay áo cùng với
các y tá băng bó các vết thương, nắn lại những chỗ gãy, đặt bông băng, buộc nẹp. Những người
được băng bó xong lại trở về vị trí chiến đấu, không nói một câu. Đối với họ, chỉ nằm nghỉ khi đã
chết.
Trong trạm xá lại diễn ra một cảnh tượng hoàn toàn khác. Những xác chết dồn dập
được đưa về đây, một mảnh vải bạt phủ trên thi hài bị què cụt.
- Sanselme đâu?
- Có tôi.
- Đại đội 4 đề nghị cứu viện. Hình như địch đã thâm nhập được vào kẽ hở giữa đại đội
1 và đại đội 4.
- Rõ!
Lần này, đến lượt thượng sĩ Rouzic dẫn đầu trung đội đi ứng cứu. Anh bước những
bước dài trong chiến hào. Bám sát theo sau là binh lính. Rouzic không nói một lời, chỉ lấy tay ra
hiệu. Gương mặt anh quá bình thản, không thấy xuất hiện một nét xúc động nào. Rouzic vẫn luôn
luôn như vậy. Khi cấp trên ra lệnh, anh lắng nghe, không động đậy mi mắt, không nhắc lại lệnh,
nhưng đã nhập tâm và thực hiện đúng.
Rouzic đã dẫn trung đội đi ứng cứu quay trở về. Đúng là người anh lấm lem hơn, quần
áo tả tơi hơn, nhưng thái độ không thay đổi:
- Báo cáo, đã hoàn thành nhiệm vụ.
Sau câu nói đơn giản đó, Rouzic lặng lẽ dẫn quân về vị trí cũ.
Trong hầm chỉ huy tiểu đoàn, thiếu uý Larchey nhận xét:
- Nghe này! Cuộc chiến có vẻ lắng dịu.
Thượng sĩ Budet, thư ký của ban chỉ huy, ngẩng đầu khỏi đống giấy ghi điện báo, lắng
tai nghe. Thời khắc tạm im ắng đã đến, sau khi pháo địch đã bắn rất mạnh mẽ. Một dịp tốt cho
mọi người trong hầm.
Ở bàn đối diện với ban thư ký, hai thiếu tá Kah và Mecquenem nhấm nháp món patê
đóng hộp và nghe báo cáo của đại uý Suzineau, chỉ huy đại đội trợ chiến. Đứng dựa vào vách
hầm, trung uý Sanselme cũng tranh thủ tận dụng đợt im ắng vừa qua để ăn uống một chút. Trên
chiếc bàn nhỏ gần ông là một trong những chai rượu vang của trung uý Moreau.
Larchey hỏi:
- Mấy giờ rồi?
- Hai giờ rưỡi sáng.
- Địch chịu thua rồi à?
Thiếu tá Mecquenem từ từ quay về phía hai người, nói:
- Đừng có ảo tưởng. Hãy truyền lệnh cho các đại đội, tận dụng thời gian tạm im ắng
này để cho anh em ăn uống, bổ sung đạn dược.
Thiếu tá Kah nói thêm:
- Việt Minh cũng là người, cũng cần phải nghỉ để thở. Nhưng rồi địch sẽ lại tiến đánh.
Còn bốn tiếng đồng hồ nữa trời mới sáng.
Thiếu tá Kah đã lầm. Việt Minh không phải ngừng để thờ. Đến 3 giờ sáng ngày 15
tháng 3 cuộc tiến công lại tiếp tục với những đơn vị mới, còn sung sức của Việt Minh.
Trung uý Moreau là người đầu tiên báo tin:
- Địch lại tiến công!
Đúng vậy. Pháo chuẩn bị cho cuộc tiến công bằng bộ binh lại tiếp tục bắn như giã giò
vào điểm tựa, mạnh hơn tất cả những đợt trước. Phải chăng là một sự bất ngờ? Hay chỉ là một cảm
giác sau đợt im ắng? Nhưng rõ ràng lần này, tất cả các cỡ pháo địch cùng bắn phá với nhịp độ rất
nhanh. Những khẩu cối 120 là vũ khí khủng khiếp nhất, bắn tập trung vào đỉnh Gabrielle, cày sâu
xuống đất, lật tung cả hầm hố lẫn chiến hào, vùi lấp cả người lẫn vũ khí.
Trung uý Clerget chỉ huy trung đội cối 120 của binh đoàn lê dương bắn hỗ trợ cho
Gabrielle, bước vào hầm chỉ huy, cặp mắt đờ đẫn, mồm há hốc, cử chỉ luống cuống, dáng điệu bơ
phờ, ấp úng nói:
- Trung đội tôi. Trung đội cối của tôi. Tất cả chết hết. Khiếp quá! Một quả đạn rơi đúng
giữa vào vị trí. Phá huỷ hết. Không còn một khẩu cối nào nữa!
Thiếu tá Mecquenem đã hiểu hết mọi chuyện. Ông lạnh lùng nói:
- Anh gắng gượng dậy. Hãy về đại đội 2, dưới sự chỉ huy của Botella.
Như vừa bị một cái tát hoặc một gáo nước lạnh, trung uý Clerget đứng thẳng người.
Một chút ửng hồng bây giờ mới hiện trên gò má.
Một quả đạn pháo rơi xuống nóc hầm có những xà gỗ lớn chống đỡ. Khói lọt vào hầm,
đọng lại trên trần. Các sĩ quan trong hầm chỉ huy phải cúi gập người để thở.
Mecquenem nói với Clerget:
- Đi đi!
Đến lúc này Clerget mới đi giật lùi, bước ra khỏi hầm chỉ huy tiểu đoàn.
Từ điện đài vang lên tiếng nói:
- Moreau đây! Yêu cầu trung đội ứng cứu đến bịt ngay lỗ thủng ở trung đội tôi.
Mecquenem chỉ tay về phía Sanselme bước ra ngoài trong khi Moreau vẫn tiếp tục nói
qua loa phóng thanh:
- Việt Minh đông lắm. Địch đang đào lấn ngay dưới chân các vị trí đóng quân của đại
đội tôi y như những con chuột chũi. Mà chúng đào nhanh lắm, với tốc độ không thể nào tưởng
tượng nổi!
Sanselme đã bước vào giao thông hào. Ông còn phải chạy khoảng 20 mét nữa mới gặp
được thượng sĩ Rouzic và trung đội ứng cứu. Nhưng ông không thể chạy được. Ông cảm thấy như
vừa mới bị một quả đấm rất mạnh vào lưng. Quay đầu lại, ông nhìn thấy sở chỉ huy tiểu đoàn
trong khoảnh khắc như vỡ tung trong hoả ngục. Những luồng lửa và khói bụi vọt ra cửa hầm, qua
nóc hầm, cuồn cuộn bốc lên cao, cuốn theo những mảnh vụn của đất đá và các vật liệu xây dựng.
Hai quả đạn pháo, và có lẽ ba quả, đã bắn vào đúng giữa hầm, phá tan nát tất cả.
Sanselme nghe thấy tiếng kêu, tiếng thét, tiếng rên. Ông cúi đầu xuống, biết rõ chẳng
làm gì được để cứu những người sống sót nhưng vẫn cố gắng luồn qua những xà gỗ đang đổ
xuống cản lối vào hầm. Nhưng ông không thể đi được nữa. Một luồng ánh sáng chói loà bất giác
làm ông nhắm nghiền mắt, trong khi một lưỡi liềm khổng lồ phạt ngang hai ống chân ông.
Sau vài giây choáng váng, Sanselme bừng tỉnh, nhìn thấy từ hai bắp về máu tuôn ra xối
xả.
Sanselme cảm thấy tò mò hơn là khiếp sợ. Hoặc là cái sợ đã tan biến, nhường chỗ cho
sự tỉnh táo. Ông tự nhận xét:
- Thế là mình bị thương rồi!
Cùng trong lúc đó, bằng những cử chỉ chính xác, ông vén những ống quần đã bị rách
bươm, sờ nắn chung quanh chỗ chảy máu để xác định vết thương ở mức độ nào.
Cả hai bắp đùi Sanselme đều bị đạn. Những thớ thịt bị rách nát rũ xuống hai đầu gối.
Ông tự nghĩ:
- Phải đi trạm xá.
Sanselme cố bò bằng bụng và hai khuỷu tay. Chợt ông nhìn thấy một cảnh tượng kinh
khủng ngay ở phía trước. Toàn bộ lô cốt cũng đã bị phá huỷ. Giữa những đám xác chết bắn tung
mọi phía ông nhận ra có cả thi hài thượng sĩ Soldati. Ông không còn tin vào mắt mình được nữa.
Sanselme cố gắng tiếp tục bò, quên tất cả, không biết là đã bò bằng tay, bằng vại, chỉ
thấy toàn thân toát mồ hôi, nóng hầm hập, dính nhơm nhớp. Ông lần mò trong trạm xá, lấy từ trên
giá xuống một túi cứu thương. Rồi từ dưới ánh đèn pin, bắt đầu băng bó các vết đau. Có đủ
Xuynphamit, Mecquyrôcrom. Vấn đề phức tạp là phải xếp những mẩu thịt vào đúng chỗ cũ, rắc
thuốc, bôi thuốc rồi băng lại.
Mọi việc đã xong. Sanselme dùng hai bàn tay bấu vào thành hào, lê người đi. Ông còn
một nhiệm vụ cần thực hiện, đó là lệnh cho trung đội ứng cứu đến cứu viện đại đội 4. Cuối cùng,
Sanselme đã gặp Rouzic:
- Trung uý bị thương à?
- Ừ! Mình không đi được nữa.
- Có cấn tôi giúp không?
- Có. Đến cứu đại đội 4.
- Tôi sẽ dẫn quân đi. Còn trung uý cố lê đến nhà ăn. Ở đó có hầm trú ẩn. Tôi sẽ về gặp
ông sau.
Rouzic khoác bình xăng khô lên lưng, mang theo súng phun lửa ra đi.
Sanselme cũng đã lết được tới nhà ăn, hiện được tạm dùng làm hầm chỉ huy. Vừa mới
bò váo, ông đã nghe thấy tiếng trung uý Collins, sĩ quan pháo binh ra lệnh cho pháo bắn chặn.
Collins nói rành rọt như đang hô bắn tập, không lộ một chút hoảng hốt:
- Nhằm điểm 23! Nam 50!
Sanselme nhìn thấy thiếu tá Mecquenem đang đứng trước mặt Collins, người phủ đầy
bụi đất, quần áo rách bươm, có cả vệt máu xen lẫn vết đất. Nhưng nét mặt ông vẫn không thay
đổi, chỉ cái nhìn có vẻ mệt mỏi:
- Chịu được chứ, Sanselme?
- Vâng. Đây có thiệt hại gì không?
- Có. Thiếu tá Kah bị gãy một chân. Những người khác trong hầm đều bị chết.
Sanselme ngồi xuống, đầu óc quay cuồng.
- Ăn một chút. Cậu mất máu nhiều đấy.
Tiếng nói của thiếu tá tiểu đoàn trưởng như vang vọng từ nơi xa xôi, như trong giấc
mộng. Sanselme nhai một mẩu pho mát, rồi uống chỗ rượu vang còn lại trong chai rượu của
Moreau. Đến lúc đó, Sanselme mới biết chai rượu đã cạn hết và ông cảm thấy cơn khát cháy bỏng.
Ông ngạc nhiên vì thấy mình có cảm xúc rõ rệt. Trí óc Sanselme lại bắt đầu minh mẫn. Ông cố
nén đau và chỉ cảm thấy một vết sưng to gần mắt cá chân phải dù đã băng chặt vẫn còn nhắc nhối.
- Cậu định đi đâu?
- Cứu viện. Tôi đi xem Rouzic đang ở đâu.
Đã 5 giờ sáng. Ở phía Đông một dải xám xịt trên chân trời phía Béatrice đã nhạt dần,
chứng tỏ sắp rạng đông. Cuộc chiến vẫn tiếp diễn, nhưng Gabrielle có vẻ như vẫn giữ được. Chợt
một câu thơ ngụ ngôn học thuộc lòng từ nhỏ, lóe lên trong óc Sanselme:
Rồi đến sáng rõ
Con chó sói sẽ nhai con thỏ
Sanselme cố xua đuổi câu thơ đó. Không! Con chó sói chưa ăn thịt cứ điểm mang tên
cô gái Gabrielle. Ông đã nhìn thấy Rouzic quay trở lại, khuỷu tay bị thương phải buộc một dải
băng qua cổ nhưng cặp mắt sáng ngời, báo tin:
- Không bịt được cửa mở. Nhưng không sao. Đã đẩy lùi được địch. Mới đầu bằng lựu
đạn, rồi bằng thuốc nổ. Cuối cùng là súng phun lửa dọn sạch một góc đồn. Và rồi, để dứt điểm,
mời ông sẽ xơi rượu Cognac.
Sanselme bật cười. Cơn sốt cũng như sự mệt nhọc đã tan biến. Có lẽ là do ngửi thấy
hơi rượu.
Rouzic nói tiếp:
- Phải lui về tuyến thứ hai. Tôi đã bố trí các ụ súng bắn chặn ở mọi ngách chiến hào.
Phía sau là ổ trọng liên chặn đứng như một nút chai. Sẽ giữ được.
Nhưng mà không giữ được. Vài phút sau, chỉ huy đại đội 1 báo cáo, hào giao thông của
địch đã xuyên qua tuyến phòng ngự đầu tiên và đã tạo được một góc hết, đạn bắn cản không bắn
tới được.
Nerbey nói:
- Không thể nào đánh bật được địch. Tôi bị đứt liên lạc với trung đội 1 của
Abderrahmane.
Rouzic trả lời:
- Rồi sẽ tiếp xúc được.
Sanselme quyết định:
- Tôi cũng sẽ đi tới đó.
Trung đội ứng cứu chỉ còn lại có hai chục tay súng. Nhưng họ vẫn không nao núng.
Trung đội bò qua chiến hào và hố đạn đại bác, tới được tuyến giao tranh. Mọi người
lặng lẽ nấp sau một thân cây gỗ lim rất to, có lẽ rơi từ nóc hầm xuống, rồi đồng loạt ném lựu đạn
xuống khe rãnh có Việt Minh.
Một loạt tiếng nổ vang lên đồng thời với những ánh lửa. Có những tiếng kêu. Nhưng
liền theo đó là những tiếng hô vang:
- Tiến lên! Tiến lên!
Rouzic thở dài:
- Lạy Chúa tôi! Ném lựu đạn như thế mà vẫn còn địch.

Đêm Gabrielle
Từ 14 đến 15 tháng 3 năm 1954
- Tôi, đại uý Gendre đây. Tôi vừa được cử làm chỉ huy cứ điểm Gabrielle.
Tiếng nói truyền qua loa phóng thanh trong hầm chỉ huy của đại tá de Castries bị ngắt
quãng, lúc yếu, lúc rõ như bị những lớp sóng vô hình nào đó lôi cuốn mất những âm thanh.
Lúc này là 4 giờ 30 sáng:
- Tình hình ở đó ra sao?
- Thiếu tá Kah và thiếu tá Mecquenem đều bị thương trong hầm. Các điểm tựa vẫn giữ
được, nhưng Việt Minh đã lọt vào được một số vị trí ở mặt Bắc và Đông Bắc. Phải có quân tăng
viện mới đánh bật được…
- Được! Đến rạng đông sẽ phản kích. Cố giữ tới lúc đó.
Tức là chờ tới sáng. Đại uý Gendre không bình luận gì. Ông chỉ trả lời:
- Rõ! Chúng tôi cố giữ
Lập tức đại tá de Castries lệnh cho trung tá Langlais chuẩn bị phản kích. Lúc này,
Langlais vốn là chỉ huy lính dù đã được cử làm chỉ huy trưởng phân khu Trung tâm. Suốt đêm ông
không ngủ. Từ vị trí chỉ huy, ông theo dõi những đợt giao tranh ở Gabrielle, thầm hi vọng cụm cứ
điểm này cố ngăn được địch cho tới thời điểm quân tăng viện tới.
Vấn để phản kích cứu ứng cho Gabriell đã được nghiên cứu kỹ. Từ trung tuần tháng 2,
hai tiểu đoàn dù là tiểu đoàn dù lê dương số 1 và tiểu đoàn xung kích số 8 do Guiraud và Tourret
chỉ huy đã tổ chức hành quân thăm dò đường tiến, có xe tăng yểm hộ, công binh đã sửa chữa
đường cái lớn từ Điện Biên Phủ đi Lai Châu ngang qua Gabrielle, mở rộng những đường mòn dẫn
tới các cứ điểm mang tên Huguette bảo vệ sân bay ở mặt phía Tây.
Xa hơn nữa, cách Gabrielle gần một cây số đã làm một đường vượt sông bằng cầu phao
nổi trên mặt nước.
Langlais cũng như các tiểu đoàn trưởng Guiraud, Tourret đều thuộc lòng kịch bản phản
kích. Mọi người đều thừa nhận nếu tiến đánh vào ban đêm sẽ thất bại, và cần phải chờ trời sáng,
với điều kiện tới lúc đó vẫn còn giữ được Gabrielle.
Trong đêm, hai cứ điểm Dominique 1 và Dominique 5 thuộc phân khu Trung tâm cũng
bị tiến công. Langlais do dự, đắn đo suy nghĩ, không rõ đây là cuộc tiến công tiêu hao kiềm chế
hay là tiến đánh thật sự. Trong hệ thống phòng ngự toàn tập đoàn cứ điểm, Gabrielle thuộc phân
khu Bắc, dưới sự chỉ huy của Trancard, Langlais đã nói:
- Tôi chỉ còn tiểu đoàn dù lính Việt số 5.
- Thế tiểu đoàn dù lê dương đâu?
- Ông biết đấy. Tiểu đoàn này đang phải chia thành hai bộ phận: giữ Junon ở mặt Đông
Nam và giữ Claudine đối diện với mặt Tây. Còn tiểu đoàn dù xung kích số 8 thì phải bảo vệ mặt
Nam của sân bay. Đúng là chỉ còn có tiểu đoàn dù lính Bảo an số 5. Tôi sẽ chỉ thị cho Seguin
Pazzis làm việc này.
Vừa mới hôm trước, thiếu tá Seguin Pazzis còn là phó của Langlais. Khi trung tá
Langlais được cử thay trung tá Gaucher bị chết ngay trong trận đầu làm chỉ huy trưởng phân khu
Trung tâm, thì Seguin Pazzis nghiễm nhiên là chỉ huy lực lượng ứng cứu. Seguin Pazzis là một
sản phẩm tốt, ra lò từ Học viện chiến tranh có bộ mặt dài như lưỡi dao, vầng trán rộng của người
trí thức, giọng nói chắc nịch. Là tham mưu trưởng binh đoàn đổ bộ đường không, ông là một
người hoàn hảo đã vạch trên giấy những kế hoạch tác chiến chứng minh trên thực địa.
Langlais chỉ thị cho đại uý Cabiro:
- Anh chuẩn bị đưa tiểu đoàn dù lính Bảo An số 5 phản kích vào lúc rạng đông, đúng
như kế hoạch.
Seguin Pazzis cãi lại:
- Nhưng kế hoạch không phải như vậy. Trong kịch bản, lực lượng cứu viện cho
Gabrielle là tiểu đoàn dù lê dương của Guiraud và tiểu đoàn dù xung kích của Tourret, chứ không
phải tiểu đoàn dù Bảo an số 5. Tiểu đoàn này vừa nhảy xuống chiều hôm qua, chưa rõ địa hình,
không nằm trong kế hoạch…
Langlais không thích tranh cãi. Vả lại ông đã trình bày lý do với đại tá Castries. Hơn
nữa đã 5 giờ. Chỉ còn một tiếng đồng hồ nữa sẽ sáng rõ. Ông trả lời Seguin Pazzis:
- Hãy làm theo chỉ thị!
Seguin Pazzis là một sĩ quan bướng bỉnh. Ông trả lời:
- Tôi đã hình dung được những lý do của ông. Và đó là những lý do đúng đắn, theo
quan điểm của ông. Nhưng điều tôi nhấn mạnh, đó là vì lợi ích của Điện Biên Phủ và xuất phát từ
cả lợi ích của cuộc hành quân phản kích. Cả ông và tôi đều biết rõ tiểu đoàn dù Bảo an số 5. Tôi lo
nó không đủ sức làm nhiệm vụ này.
Langlais suy nghĩ. Ông buộc phải công nhận tính đúng đắn trong lập luận của Seguin
Pazzis. Ông đã dịu cơn nóng. Và ông nhượng bộ. Nhưng chỉ nhượng bộ một phần:
- Thôi được. Ông sẽ có thêm hai đại đội của tiểu đoàn dù lê dương để hỗ trợ cho tụi
Bảo an.
Seguin Pazzis để quyền cho Guiraud chọn hai đại đội đưa đi ứng cứu Gabrielle. Tiểu
đoàn trưởng Guiraud chỉ định đại đội 3 của Martin và đại đội 4 của Domigo, tất cả đều ở cấp trung
uý. Hai người không giống nhau, nhưng mỗi người có cách riêng để chỉ huy có hiệu quả.
Tại đại đội 3 mọi người đều biết tính thoải mái, hay hài hước của Martin. Ông chỉ huy
mà không ra vẻ là một người chỉ huy, lúc nào cũng coi như bình đẳng với các trung đội trưởng,
nói năng dịu dàng. Chính sự dịu dàng đó lại tạo ra sự chú ý. Đại đội 3 được gọi là đơn vị của
“Loulou” của Martin, mọi người muốn làm gì cũng được miễn là phục vụ cho chiến thắng.
Đại đội 4 do đại uý Cabiro, thường được gọi thân mật là “bố Cab”, chỉ huy từ nhiều
năm nay, lúc đầu đã duy trì một nếp kỷ luật rất nghiêm nhưng sau đó vẫn phải áp dụng mềm dẻo.
Sau khi Cabiro bị thương, Nobert Domigo được cử thay, là một người trầm tĩnh, ít nói, hơi bẽn
lẽn. Nhưng ông lại có một bàn tay sắt. Được lệnh phản kích, Domigo nói:
- Phản kích chiếm lại Gabrielle bằng hai đại đội à? Một chuyện ngu xuẩn. Có mà gãy
răng vô ích.
Guiraud giơ tay tỏ vẻ không hài lòng. Ông không muốn uy quyền của mình bị xúc
phạm. Từ nãy đến giờ, người nọ trách cứ người kia. Ông đã phản ứng với Seguin Pazzis là người
đã từng phản ứng với Langlais.
Đại uý Botella chứng kiến cuộc cãi cọ mà không hiểu nội dung cũng như sự cần thiết.
Ông không có chính kiến riêng. Hơn nữa, cũng chẳng ai nghĩ đến chuyện hỏi ý kiến ông. Trong
thâm tâm, ông tự nghĩ, tại sao kế hoạch đã được quyết định vắng mặt ông, thì nay người ta lại đột
ngột lôi cuốn ông vào để làm gì.
Vả lại, ông cũng tự ái khi thấy người ta coi thường tiểu đoàn dù Bảo an số 5 do ông chỉ
huy. Mọi người đã quên rằng hồi mới thành lập, cái tiểu đoàn mang tên lính dù người Việt này có
tới hai phần ba quân số thuộc tiểu đoàn lính dù thuộc địa số 3 cũ. Những lính dù của đơn vị này đã
có thâm niên tới sáu hoặc bảy năm chiến đấu. Riêng về phần ông, có lẽ ông là sĩ quan dù lâu năm
nhất so với các đơn vi khác tại Điện Biên Phủ. Từ mùa hè năm 1944, lúc còn là một thiếu uý, ông
đã nhảy dù xuống vùng địch chiếm đóng ở Bretagne, miền Bắc trong khu rừng Duault, ông đã
chiến đấu một chọi năm mươi để thoát khỏi vòng vây của Đức. Bị thương nặng ở chân, Botella từ
chối di tản, đòi ở lại trận địa. Nhờ một sự may mắn kỳ lạ, ông đã được dân chúng địa phương cứu
thoát, che giấu, chữa trị, cuối cùng đã bình phục. Từ đó ông bước đi hơi thọt một chút, nhưng vẫn
bước nhanh và bước kịp anh em trong đơn vị. Ông chỉ hỏi:
- Thế tiến đến Gabrielle như thế nào?
Guiraud đáp:
- Chúng ta dẫn đầu cuộc phản kích. Anh sẽ có người dẫn đường để vượt qua những lối
đi ngoằn ngoèo qua các cụm Huguette.
Hai đại đội này của tiểu đoàn dù lê dương vừa tách ra nay lại được sắp xếp gần nhau,
đóng quân gần sở chỉ huy tiểu đoàn. Ngược lại, tiểu đoàn dù Bảo an số 5 phải vựot gần một
kilômét mới tới điểm tập trung xuất kích.
6 giờ sáng. Những lính dù lê dương tiến về phía bắc cùng với những xe tăng của đại uý
Hervouet. Các trưởng xe ngồi lọt thỏm trong tháp pháo.
Dẫn đầu hang quân là chiếc xe tăng Conti do chính đại uý Hervouet chỉ huy. Chiếc thứ
hai mang tên Smolensk của Gunt. Chiếc thứ ba của Ney, mang tên Ettlingen đi cuối cùng. Tất cả
đều là những chiếc xe tăng quen thuộc và thân thiết của lính dù lê dương đã từng yểm trợ cho họ
trong mọi cuộc tiến công.
Lúc vượt qua cứ điểm Anne Marie 4, Luoloi Martin nói với Hervouet:
- Ta còn hai kilômét nữa. Sau đó sẽ quyết định xem đặt chân ở đâu. Tôi rất ngạc nhiên
nếu Việt Minh không dự đoán trước cuộc hành quân cứu viện của chúng ta.
Domigo bàn:
- Cần xiết chặt đội hình. Nếu Việt Minh đón đợi chúng ta thì chúng sẽ phục kích ở
quãng cầu phao qua sông Nậm Rốm, ở phía bản Khe Phai.
Hervouet cắt ngang:
- Nghe này! Gabrielle đang kêu cứu.
Điện đài trên xe tăng vừa thu được tiếng nói của đại uý Gendre:
- Nhanh lên. Chúng tôi đang rất gay. Việt Minh đã chiếm được đỉnh núi. Chúng tôi
đang bị kẹt dưới hai luồng đạn.
Tiếng nói rất yếu như là sắp hết pin.
Domigo lại kêu to:
- Cẩn thận! Chúng ta đang tới cầu phao…
Điều mà hai đại đội trưởng nghi ngờ đã thành sự thật. Việt Minh đã thiết lập trên bờ
sông một điểm chốt kiên cố như chiếc nút chai.
Domigo dẫn các trung đội tiến lên phía trước, miệng làu bàu:
- Chúng có ít nhất là một tiểu đoàn.
Trời đổ mưa. Thiếu uý Boisbouvier đã vượt qua cầu phao, nhanh chóng tản đội hình,
phát huy mọi hoả lực. Trung uý Bertrand tiến theo sau, với nhiệm vụ kìm chân địch để Martin dẫn
quân lên, bám sát xe tăng.
Đã 7 giờ 30 phút. Mặt trời đã mọc nhưng rất tiếc vòm trời nặng trĩu, phủ đầy mây thấp
màu xám xịt. Cảnh vật chỉ có màu đen và màu xám. Cây đen, cỏ đên, nước suối cũng đen ngòm.
Đất màu xám, trời màu xám, mặt người màu xám. Bộ đồ trận cũng biến thành màu xám dính chặt
vào cánh tay, bắp đùi.
Ngay từ những loạt đạn đầu tiên, lính lê dương đã nhảy vọt lên phía trước, không cần
ẩn nấp, không cần né tránh. Chỉ xung phong tiến lên cho vừa tầm súng, tầm ném lựu đạn.
Các xe tăng yểm trợ bộ binh bắn pháo với nhịp độ cấp tập, kể cả trọng liên, dệt thành
một hàng rào sắt và lửa.
Đến lượt Martin dẫn quân vượt qua cầu phao. Đơn vị ông chỉ còn cách chân đồi
Gabrielle non một cây số. Ngước mắt nhìn lên. Không còn gì hết!
Việt Minh đã chiếm được đỉnh đồi, đang quan sát cuộc phản kích và đã phát hiện được
lính lê dương đẩy lùi đơn vị phục kích gần cầu phao.
Pháo Việt Minh lập tức bắn tới. Những khẩu pháo 105 từ điểm cao Gabrielle bắn thẳng
xuống những chiếc xe tăng và lính lê dương tạo thành một bức tường của những tiếng nổ. Đất
ruộng bắn tung tóe vọt lên cao. Martin hét to:
- Nhanh lên!
Ông nhảy từ hố này sang hố khác luôn luôn dẫn đầu trung đội đi đầu do thiếu uý
Touchet chỉ huy. Ông thúc đẩy Navak chỉ huy trung đội trợ chiến, thúc giục các binh lính tiến lên.
Phía sau là tiếng gầm rú của xe tăng. Martin nói:
- Chúng ta đã tới nơi, chúng ta phải đánh thắng!

Bình minh trên Gabrielle


6 giờ sáng ngày 15 tháng 3 năm 1954
Trung uý Sanselme mở bừng mắt. Trời đã sáng. Ông không biết mình đã làm thế nào
để nằm bẹp dưới đáy chiến hào, dính máu vài người lính bị trúng đạn pháo. Ông đứng dậy, tiếp
tục bò đi bằng khuỷu tay. Từ phía háng trở xuống, cẳng chân ông hoàn toàn bị tê liệt không còn
cảm giác nữa.
Chung quanh Sanselme, binh lính chạy đi chạy lại, gọi nhau, túm tụm lại để bắn địch.
Họ không còn người chỉ huy nữa, nhưng vẫn chiến đấu từng nhóm.
- Trung uý đấy à?
Hạ sĩ trưởng Slimane thò bộ mặt rậm râu ra khỏi cửa lô cốt số 3, nhìn Sanselme và
cười. Hàm răng trắng nhởn của Sanselme tương phản với bộ mặt có nước da màu đen, lại đen
thêm vì đất, vì khói, vì râu. Đây là người lính già nhất tiểu đoàn. Hai mươi năm trong quân ngũ
nhưng vẫn chỉ là hạ sĩ, nhưng đã được thưởng Huân chương trong chiến dịch Cassino hồi Chiến
tranh thế giới thứ hai, lúc còn là một binh nhất.
Trung uý Sanselme hỏi lại:
- Cậu thế nào?
- Tôi ấy à? Vẫn bình thường. Như một ông lão.
Viên hạ sĩ Algerie trả lời bằng một giọng nói rất bình thường rồi lui vào trong hầm trú
ẩn, sau khi kéo đoạn rào dây kẽm gai kín lối vào lô cốt. Sanselme chào tạm biệt bằng lời chúc:
- May mắn nhé!
- Ơn nhờ thánh Allah!
Trung uý Sanselme lết ra xa. Trước mắt ông là một tốp khoảng mười người, tất cả đều
đã bị thương, vẫn chiến đấu. Việt Minh hình như đang có mặt ở khắp mọi nơi. Đồn bốt nào đã để
cho địch thọc vào rồi đánh toả đi như thế này? Thật khó xác định được. Chỉ biết rằng, mặt Bắc của
Gabrielle đã như mũi tàu chìm xuống, để nước tràn vào, từ từ nhưng không thể nào ngăn cản nổi.
Slimane và sáu binh lính bị bao vây trong lô cốt cố thủ.
Đột nhiên có một bóng người xuất hiện ở đầu bờ hào đối diện. Trong chớp mắt,
Sanselme nhận ra ngay, đó là một người Việt bé nhỏ mặc quân phục màu xanh lá cây, hai ống
quần xắn cao để lộ đôi cẳng chân gầy gò, trần trụi đang giơ máy ảnh định ghi hình những cảnh lạ
mắt. Trung uý lập tức rút khẩu súng ngắn ra bắn. Người lính Việt Minh nhào xuống tránh, cả băng
đạn của Sanselme vọt lên trời. Nhưng đồng thời, Sanselme cảm thấy ngực nóng bỏng, khó thở.
Ông nằm xuống lết đi, hai mắt nhắm nghiền, cố gắng thở từng hơi ngắn. Nhưng máu từ miệng đã
trào ra, ông lấy tay sờ, mở mắt nhìn, thấy rõ một màu hồng:
- Mình bị trúng đạn vào phổi rồi!
Ông nhớ lại, trong chiến dịch càn quét ở vùng châu thổ sông Hồng năm ngoái có một
hạ sĩ cũng bị đạn trúng ngực tương tự như ông. Trung đội trưởng của anh ta đã nói:
- Việc cần kíp là phải bịt ngay lỗ thủng. Nếu không máu sẽ tràn lên họng rồi bị tắc phế
quản và chết ngạt.
Sanselme cởi áo, tìm vết thương và nhét vào đó cuộn băng cứu thương cá nhân. Ông đã
hoàn toàn mất khái niệm thời gian và cũng không cần hiểu chung quanh đang xảy ra chuyện gì.
Trong tình trạng nửa mê, nửa tỉnh, ông thấy như có ngựa phi trong đầu rồi bên tai vang lên những
tiếng gọi nhau bằng tiếng Việt và tiếng Ả-rập. Những cuộc giao chiến đã sát bên cạnh. Không còn
đủ sức lết thêm một bước, Sanselme nằm im, không động đậy. Vết thương cuối cùng đang làm
ông bất tỉnh.
Rồi, như trong giấc mơ, ông nghe thấy tiếng bánh xích nghiến đât, tiếng động cơ nổ
ròn. Chung quanh ông vang lên nhiều tiếng reo:
- Có cứu viện! Hãy giữ vững! Xe tăng đã tới!
Hai người lính Algerie bước lại phía Sanselme. Họ đều bị thương ở cánh tay, đang rút
về phía Nam là khu vực cuộc chiến vẫn đang quyết liệt.
- Không nằm ở đây được đâu, trung uý ơi! Quân địch đã xộc vào vị trí chỉ huy rồi.
- Không! Các anh đi đi. Bảo mang cáng lại đây.
Những người lính đã đi xa. Sanselme nhắm nghiền mắt. Việt Minh đã tràn vào vị trí,
nhưng chưa chiếm được đỉnh cao. Sanselme nghĩ: vài phút nữa, cuộc phản kích sẽ thắng lợi. Xe
tăng sẽ quét sạch, dọn sạch địch khỏi những lớp hàng rào dây kẽm gai. Đây chỉ còn là vấn đề giây
phút.
Có tiếng súng vang lại từ mặt Bắc, từ phía lô cốt mà ban nãy hạ sĩ Slimane vẫn đang cố
thủ. Cô gái Gabrielle đã không bị ăn thịt vào lúc bình minh như câu chuyện ngụ ngôn cổ ích.
Sanselme nhìn đồng hồ: 8 giờ sáng!

Trận phản kích


6 giờ ngày 15 tháng 3 năm 1954
- Báo cáo trung uý, có điện!
Trung uý Gaven vén mảnh vải bạt anh đắp hôm trước, cuộn tròn trong một cái hố để
ngủ, giơ tay cầm lấy ống nghe. Cũng như mọi người thiếu ngủ khác, mắt Gaven ngầu đỏ, miệng
nhão ra, lưỡi khô đắng. Ông nói bằng một giọng khàn khàn:
- Tôi, Gaven nghe đây!
- Tập hợp ngay toàn đại đội. Tiểu đoàn ta được chỉ định mở cuộc phản kích giành lại
Gabrielle.
- Toàn tiểu đoàn à? - Gaven ngạc nhiên hỏi lại. Tiểu đoàn lính dù Bảo an số 5 vừa mới
nhảy xuống chưa đầy mười bốn tiếng đồng hồ.
Đại uý Botella, chỉ huy tiểu đoàn dù số 5, cũng hỏi:
- Gabrielle à?
- Đúng!
Botella không nói thêm câu nào nữa. Quan điểm của ông là, nếu tiểu đoàn dù lính Việt
số 5 do ông chỉ huy được lệnh nhảy xuống Điện Biên Phủ, thì đó không phải là để đi chơi như
khách du lịch, cần phải nghỉ ngơi, thích nghi rồi mới hoạt động, mà ngược lại cần chiến đấu ngay.
Đó là vì, người ta viện cớ tiểu đoàn dù số 5 là đơn vị “mới toanh”, vừa nhảy xuống, còn xung sức
nên đã cho nó tiến hành phản kích vào một mục tiêu chưa nhìn thấy và cũng chưa biết gì.
Botella nhớ lại, chiều hôm qua ông đã tới trình diện trung tá Langlais, chỉ huy trưởng
phân khu Trung tâm. Langlais đã nói thẳng với ông:
- Thú thật, tôi không mong chờ tiểu đoàn của anh lên đây.
Nếu không phải là Botella, người chỉ huy nào nghe thấy câu này cũng phải tự ái. Thế
nhưng, Botella là một sĩ quan dù lâu năm. Ông hiểu, trên tinh thần đồng đội, cần phải thẳng thắn
với nhau. Ông thừa nhận, tiểu đoàn 5 chưa có thành tích chiến đấu, cho nên Langlais muốn tiểu
đoàn 6 của Bigeard lên đây là đúng. Ông báo tin cho Langlais:
- Ngày mai, hoặc chậm nhất là hai ngày nữa, tiểu đoàn 6 của Bigeard sẽ nhảy xuống
đây. Trong lúc chờ đợi, liệu tiểu đoàn 5 của tôi có giúp gì được không?
Langlais đã không trả lời. Một lát sau, các đại đội tập hợp đầy đủ và được đưa đến một
địa điểm ở phía Đông, gần sông Nậm Rốm, trên những sườn đồi vừa mới đặt tên là Éliane 4. Đây
chỉ là những bãi trống, không có hầm hố, không có công sự phòng ngự, thậm chí cả hàng rào dây
kẽm gai ấn định giới hạn cũng không có. Vừa tới nơi, các đại đội dù đã phải hối hả đào hầm hố
tránh đạn pháo, vì không có đủ xẻng cho nên phải dùng mũ sắt để xúc đất.
Trung uý Gaven nhăn mặt đứng dậy. Hơi ẩm, hơi lạnh và sự bất động khi nằm ngủ đã
làm cho những cơ bắp của ông tê bại.
Chuẩn uý Guy Canton báo cáo:
- Các đại đội đã tập trung.
- Tốt. Chúng ta sẽ đi đầu hàng quân.
- Theo hướng nào, thưa trung uý?
- Tôi cũng chưa biết. Người ta chỉ nói là chuẩn bị vượt sông rồi tập trung đại đội tại
một bãi đất đầu đường băng sân bay. Đến đó sẽ có liên lạc dẫn đường.
Canton thở dài:
- Một sự khởi đầu…
Anh khoát tay ra hiệu cho những lính dù người Việt rảo bước theo mình. Toàn thể tiểu
đoàn dù số 5 tiến quân theo hàng một, như một con rắn khổng lồ gồm 500 người, lội bì bõm trong
bùn, lượn vòng vèo qua những hàng rào dây thép gai trên con đường mòn vòng quanh các lô cốt
và các hầm trú ẩn.
Ở phía Đông, trời đã sáng rõ. Nhìn về phía Bắc, cứ điểm Gabrielle như một cứ điểm
sáng hiện ra trên nền núi đồi đen sẫm, dưới vòm trời xám vẫn có pháo sáng màu vàng. Vẫn còn
nhìn thấy những ánh chớp trên cứ điểm. Rõ ràng pháo địch đang bắn. Nghĩa là cuộc chiến vẫn tiếp
diễn.
Canton thúc các trinh sát viên tiến nhanh lên phía trước, nhưng rồi lại bảo họ đi chậm
lại, vì từ phía sau đang truyền lên khẩu lệnh.
- Tốp đi đầu nhanh quá, đuổi theo không kịp.
Canton giơ hai tay lên trời:
- Không thấy liên lạc dẫn đường!
Toàn tiểu đoàn đứng yên lặng trước những lối đi ngoắt ngoéo gần sân bay. Còn phải
hành quân ít nhất ba kilômét nữa mới tới mục tiêu. Botella tới gặp đại đội 3, quát:
- Thế nào? Các anh định cắm trại ở đây à?
Canton lại khoát tay ra hiệu cho đơn vị trinh sát tiến lên. Phía sau là trung uý Gaven và
thiếu tá Botella luôn miệng thúc giục:
- Nhanh lên! Nhanh hơn nữa.
Nhưng nói thì dễ, làm thì khó. Phải lần lượt mở các cự mã trong lớp rào dây thép gai
bao quanh các cứ điểm Huguette. Mỗi lần dừng lại để mở lối đi, Botella lại hỏi:
- Bọn lính dù lê dương qua đây lâu chưa?
- Được gần một tiếng đồng hồ rồi.
Gaven càu nhàu:
- Thật là ngu như bò. Đáng lẽ tụi nó phải chờ chúng ta chứ!
Tuy vậy, Gaven cũng hiểu là không thể chờ được. Cứu viện cho Gabrielle là chuyện
cấp cứu, ưu tiên số một. Các đại đội lê dương của Martin và Domigo vội vã là đúng. Chỉ còn chờ
tiểu đoàn dù số 5 cùng tiến gấp để cùng kề vai chiến đấu.
Trung đội Canton đã tới điểm tựa cuối cùng ở phía cực Bắc sân bay là Anne Marie 4.
Botella ngạc nhiên thấy cứ điểm này trống rỗng. Không có một lính gác nào, một chỉ huy nào. Chỉ
duy nhất có một bóng người xuất hiện, đó là một anh chàng rậm râu, thò đầu ra ngoài lô cốt, cầm
máy ảnh, bấm một cái rồi biến mất.
Gaven đã đi song song với Canton. Hai người nhìn thấy chiếc cầu phao làm bằng mảng
vắt qua sông. Ở đó đang giao tranh ác liệt. Domigo báo cáo bị đánh thiệt hại nặng.
Canton dẫn đầu trung đội chạy qua cầu phao. Rồi ông dừng lại ngay khi pháo địch bắn
chặn chung quanh nơi giao chiến, tự hỏi:
- Phải làm gì bây giờ?
Botella đã tới. Ông nhìn qua ống nhòm, cố quan sát xem hai đại đội trưởng Guiraud và
Seguin Pizzis chỉ huy cánh quân đi trước đang đứng ở chỗ nào nhưng không thấy ai. Botella thét
to để át tiếng đạn pháo.
- Tiến lên phía trước!
Canton và Gaven dẫn quân vượt qua lớp hàng rào khói và bãi lầy. Ở phía trước có vẻ
như các đơn vị bạn đang phối hợp chiến đấu. Dưới chân đồi xe tăng cũng đang tiến lên, có những
nhóm nhỏ binh lính bám theo.
Sau đó những chiếc xe tăng Chaffee, từng chiếc một, quay đầu trở lại, lui theo hướng
Nam. Khi xe đi ngang qua thiếu tá nhìn thấy có những vệt máu đỏ bám vào thành xe. Trên thân xe
phía sau tháp pháo chất đống nhiều binh lính bị thương, lộ rõ những áo dù loang lổ của lính lê
dương và những bộ đồ màu nâu của lính bộ binh Algerie. Ông hỏi to:
- Sao thế?
Trên tháp pháo chiếc xe tăng Ettlingen, hạ sĩ Ney trả lời:
- Chúng tôi được lệnh quay về. Tiện thể mang theo lính bị thương và bị chết.
Từ một hầm lộ thiên, Botella nhìn thấy những cặp ăng-ten vươn cao. Ông đi tới đó,
Seguin Pizzis và Guiraud đang họp bàn. Botella nói:
- Tôi đã tới. Mệnh lệnh thế nào?
Guiraud trả lời:
- Đi tong rồi. Tất cả chúng tôi đều rút.
- Thế Gabrielle ra sao?
- Chậm quá! Các đại đội cuối cùng đã rời bỏ trận địa.
Botella không sao hiểu nổi. Hình như tất cả đều diễn ra như là không một ai tin vào
thắng lợi của cuộc phản kích. Ông nói:
- Thật là câu chuyện của những thằng điên.
Lúc này, Botella chưa biết cụ thể câu chuyện đã xảy ra như thế nào, nhưng quả thật là
một chuyện điên rồ. Thất bại hoàn toàn do một sự tình cờ.
Hồi nãy, trước khi tiến hành phản kích, Guiraud cảm thấy tình hình có vẻ khó khăn nên
đã đề nghị sở chỉ huy của Castries tăng viện và được trả lời:
- Hãy thu nhặt những đại đội còn lại ở Gabrielle.
Tình cờ, đại uý Gendre đang chỉ huy đại đội lính Algerie số 3 trên cứ điểm Gabrielle
cũng nghe được câu trả lời đó qua điện đài. Gendre lại nghĩ là việc cứu ứng Gabrielle không thực
hiện được vì phải “thu nhặt những đại đội còn lại ở Gabrielle”. Mục tiêu không phải là phản kích
nữa mà là lui quân cùng với đại đội 2 đang chiến đấu ở Gabrielle. Thế là ông ra lệnh cho đại đội
này rời bỏ trận địa.
Martin đi ngang qua. Một cánh tay bị trúng đạn, ông vừa đi vừa rên:
- Thật là hỗn loạn! Đã tiến được gần tới đỉnh đồi rồi thì mình lại nhìn thấy tụi lính đóng
ở đó rút chạy. Thật là hy sinh vô ích.
Guiraud cũng không sao hiểu nổi. Trong khi đó, Việt Minh lại hiểu rõ, một đội quân
đang rút chạy là dễ đánh nhất. Thế là các hoả lực của Việt Minh đặt ở điểm cao từ pháo, cối đến
súng máy đều nhả đạn.
Một xe tăng bị trúng đạn. Trưởng xe Guntz bị chết.
Gabrielle hoàn toàn bị xoá sổ trên bản đồ các cứ điểm phòng ngự.
Một tiếng đồng hồ sau, khi đi ngang qua Huguette 3 để trở về vị trí xuất phát, Botella
nhìn thấy bộ phận đi sau của tiểu đoàn dù số 5 không theo kịp đoàn quân lúc nãy mới tới. Ông thở
dài. Thế là, đối với lịch sử, tiểu đoàn dù lính Việt số 5 sẽ chịu trách nhiệm về thất bại của cuộc
phản kích. Botella đã nghe thấy những lời bàn tán:
- Nếu tiểu đoàn 5 đến kịp…
Nhưng Botella không cần. Hoặc làm ra ẻ bất cần. Qua kinh nghiệm, ông cho rằng trách
nhiệm là ở người cầm đèn.

Gabrielle tắt thở


8 giờ sáng 15 tháng 3 năm 1954
Thế là những xe tăng đã quay trở về!
Trên cứ điểm Gabrielle, một vài nhóm nhỏ còn cố sức chống cự khi đoàn quân cứu
viện tới gần, nay hoàn toàn bị bỏ rơi. Tình hình hết sức hỗn loạn. Ở một vài nơi vẫn còn một số
người tiếp tục cuộc chiến đấu, hoặc vì danh dự, hoặc vì không còn lối thoát. Họ bị cô lập, không
có người chỉ huy, và cũng không được biết rằng Gabrielle sắp sụp đổ.
Dù đã chiếm được đỉnh đồi, Việt Minh vẫn còn phải cẩn thận quét sạch các chiến hào,
đề phòng bị bắn trả.
Trước đó ít lâu, trung uý Sanselme ở đầu hào đã nghe rõ có tiếng xe tăng. Nhưng tiếng
bánh xích cứ yếu dần rồi mất hẳn. Ông không hiểu tại sao và cũng có thể là ông đã hiểu rõ: Đồng
đội đã bỏ rơi ông.
Chung quanh Sanselme chỉ còn lại một dúm người, phần lớn đều đã bị thương đang
chống trả như một bầy quỷ dữ. Họ không nghĩ rằng đang bị rơi vào cạm bẫy và do đó chỉ nghĩ là
phải chiến đấu. Cố giữ chừng nào chưa nhận được lệnh ngược lại. Nhưng cái lệnh cuối cùng này
ai sẽ truyền cho họ. Ngay cả trung uý Sanselme cũng không có quyền. Mọi liên lạc với sở chỉ huy
đã bị đứt, cũng không hề nhìn thấy mặt đại đội trưởng. Có được một điện đài trong tay, ông cho
rằng bổn phận của mình là cố giữ. Ông nghĩ “Nếu mình bỏ cuộc, có thể sẽ gây thảm hoạ cho toàn
cứ điểm”.
Và như thế là, ông cứ chiến đấu. Dựa lưng vào thành hào và không còn sức đi thêm
một bước, ông tiếp tục bắn. Số binh lính chung quanh ông đã hết cả lựu đạn nhưng vẫn còn súng
đạn và đều là những tay thiện xạ.
Cách chỗ Sanselme vài mét, Việt Minh vừa mới cho nổ chiếc lô cốt duy nhất còn lại ở
mặt Tây cứ điểm. Một người nhảy vọt ra ngoài, điếc đặc, cặp mắt ngây dại, mặt và thân hình đầy
mảnh đạn, không có mũ sắt che đầu. Anh ta cố bước thêm vài bước rồi ngã sụp xuống sát chân
Sanselme, lắp bắp nói:
- Trung uý có nhận ra tôi không? Tôi đây. Gigelman đây. Ông có biết thượng sĩ Rouzic
ở đâu không?
Sanselme không biết rõ. Lần cuối cùng ông nhìn thấy Rouzic là vào khoảng 7 giờ sáng
khi Rouzic đi làm nhiệm vụh ngăn chặn một cuộc đột nhập của Việt Minh vào khe hở giữa đại đội
3 và đại đội 4. Sau đó có tin Rouzic bị thương và hai phát đạn vào cánh tay.
Gigelman nói tiếp:
- Trung uý biết đấy, thượng sĩ đã để tôi ở lại trong lô cốt với một khẩu trọng liên có
nhiệm vụ bắn chặn địch. Tôi đã bắn hết tất cả các băng đạn. Tôi đã ném hết tất cả đống lựu đạn.
Địch không vào được đã buộc thuốc nổ vào đầu một cây sào đánh sập lô cốt. Ngừng một lát,
Gigelman lại nói bằng một giọng buồn rầu:
- Tôi không còn gì để chống lại nữa. Không còn súng. Không còn lựu đạn. Nhưng đó
không phải lỗi ở tôi.
Gigelman cầm lấy một khẩu súng, giơ thẳng lên cao, nhưng không còn đủ sức sử dụng
nữa.
Sanselme an ủi Gigelman và nói:
- Ngày hôm nay, cậu đã làm được nhiều việc rồi. Hãy rút về phía sau nghỉ ngơi, điều
trị.
Trung uý vừa mới có một quyết định. Nếu không có quyền ra lệnh ngừng bắn, thì dù
sao cũng còn có quyền ra lệnh cho những binh lính bị thương rút về phía sau. Ít nhất, họ cũng có
cơ mau thoát khỏi bị bắt làm tù binh. Lần lượt, từng người lính bị thương rút khỏi vị trí. Có người
hỏi:
- Chúng tôi mang trung uý đi nhé!
- Không! Tôi phải ở lại đây. Vả lại, tôi không đi được nữa - Ông lấy tay chỉ vào đùi -
Và còn phải chạy nữa. Thôi nhé, đi đi!
Sanselme kết thúc bằng tiếng Ả Rập “Fissa”
Những người lính Algerie bị thương đã rút hết. Sanselme quay lưng về phía họ. Ông
vẫn dựa vào vách hào, tiếp tục bắn. Sát cạnh ông là những người đã chết và đang hấp hối.
Những trái lựu đạn bắt đầu rơi như mưa chung quanh trung uý Sanselme. Từng chùm
rơi xuống, lăn trên mặt đất rồi phát nổ. Quả là những vũ khí khủng khiếp. Đồng thời còn có những
ống bộc phá, tức là những ống kim loại buộc thuốc nổ, phát ra một luồng sáng vàng chói lọi, đào
những hố sauu và làm sụp đổ các vách hầm.
Một ống kim loại tương tự, tuồn dần, tuồn dần đến chân Sanselme. Ông cố sức đẩy ra.
Vô ích. Sau một cố gắng cuối cùng, Sanselme lấy tay bưng mặt, co gối lên che bụng. Một luồng
ánh sáng chói màu vàng lóe lên. Sanselme không biết gì nữa.
- Đi! Đi!
Sanselme bừng tỉnh khi nghe thấy câu tiếng Việt đó, kèm theo mũi súng tiểu liên thúc
vào lưng. Trung uý nghĩ “Thế là hết! Mình không ngờ sự việc lại kết thúc như thế này!”.
Ông cố đứng dây, dựa vào bờ hào. Ông muốn nói nhưng miệng không mở được. Ông
lấy tay sờ mặt, sờ môi, không còn nhận ra nữa, có cảm giác như sờ một quả bóng cao su rất mềm.
Sóng chấn động của tiếng nổ đã làm méo mó bộ mặt ông.
Với một sự kiên nhẫn cao độ kéo dài, người lính Việt Minh cố đưa được Sanselme ra
khỏi chiến hào, tới sườn đồi mặt Bắc cứ điểm Gabrielle. Hai người tiến đi rất chậm. Không phải
chỉ vì Sanselme kiệt sức mà còn do có rất nhiều xác chết chất đống khắp nơi, Sanselme không nhớ
đã dẫm lên xác bao nhiêu người.
Dưới chân núi, trong thung lũng, khoản vài chục binh lính và sĩ quan bị bắt đang ngồi
túm tụm chờ được giải đi. Họ trao đổi với nhau vài câu, chủ yếu tập trung vào số phận đồng đội.
Chính vì vậy, khi đi ngang qua, Sanselme được biết Moreau đã bị một quả đạn pháo 75 bắn thẳng,
chết ngay trước cửa lô cốt. Đại uý Narbey cũng bị chết trong hầm chỉ huy, cùng với một số sĩ quan
khác.
Chiếc cáng chở thiếu tá Kah đi qua, có một y tá kèm theo. Ông đang mê sảng trong cơn
hấp hối:
- Tiểu đoàn… tiểu đoàn…
Sanselme ngoái cổ nhìn Gabrielle lần cuối. Từ phía dưới thấp nhìn lên, cụm cứ điểm
càng có vẻ vững chắc hơn thực tế.
Một quân nhân Việt Minh, chắc là một cán bộ, nói tiếng Pháp rất thạo, hỏi Sanselme:
- Anh nhìn quả đồi à?
Rồi, không chuyển giọng, người cán bộ này nói tiếp:
- Với các anh, thế là chiến tranh đã kết thúc rồi. Phần còn lại để những người chiếm
lĩnh tiếp tục công việc.
Mới đầu, Sanselme chưa thật hiểu rõ câu nói này. Nhưng liền sau đó, ông sực nhớ hãy
còn lô cốt số 3 chưa đầu hàng, đang bắn súng và ném lựu đạn. Ông hình dung hạ sĩ trưởng
Slimane khép lại đoạn rào dây kẽm gai “khoá cửa” ra vào lô cốt để tiếp tục chiến đấu.
Với lịch sử, điểm tựa Gabrielle sụp đổ vào hồi 8 giờ sáng ngày 15 tháng 3 năm 1954.
Với thực tế, đến 13 giờ lô cốt số 3 vẫn còn tồn tại.
Ngày 13 tháng 3, trước trận đánh cụm cứ điểm Gabrielle có 877 binh sĩ. Trong chiến
đấu, có 501 bị chết, 41 mất tích, 221 bị thương và bị bắt làm tù binh ngày 15 tháng 3, 114 bị
thương và được thu gom trong ngày 15 tháng 3…
Tại phân khu Trung tâm, trung sĩ Bertin Dubois gặp người bạn là Pinelli, làm phiên
dịch tiếng Việt tại Ban 2, nói giễu:
- Thế nào, cậu bảo Việt Minh chỉ bắn được ba đợt pháo là hết nhẵn đạn cơ mà?
Pinelli có vẻ mệt mỏi, ốm yếu vì lâu ngày không được ngủ. Không phải chỉ có một
mình Pinelli mà còn nhiều người khác cùng chung tâm trạng. Sáng hôm nay, bầu không khí càng
ảm đạm hơn hôm trước. Buổi bình minh hình như đến quá chậm và ửng lên một màu sắc bẩn. Mọi
người đều cúi đầu, tưởng chừng như nếu ngẩng lên sẽ đụng phải trần mây thấp.
Bertin Dubois, mặc dù giễu cợt Pinelli, nhưng cũng mất tinh thần. Ông đã phải trực
suốt bên cạnh điện đài đến tận hai giờ sáng. Nhưng điều nghe thấy qua báo cáo đã làm ông thất
vọng.
Không riêng Bertin Dubois, có vẻ như toàn thể mọi người không một ai còn giữ được
khí thế. Giữa Castries với Langlais, giữa Langlais với Seguin Pezzis, giữa chỉ huy binh đoàn đổ
bộ đường không với các sĩ quan dù đều đứng trên bờ của sự tan vỡ. Ngay sau khi cánh quân phản
kích phải quay trở về, trước khi Martin và Domigo kịp mở miệng trình bày lý do, Langlais đã
quay lưng lại họ. Ông không muốn nghe nói gì, giải thích điều gì. Ông hoàn toàn lặng thinh.
Chiếc mũ nồi kéo sụp xuống trán, cặp mắt lạnh lùng, chiếc hàm dưới nghiến lại làm lõm sâu thêm
gò má trũng vì mệt mỏi và mất ngủ.
Vả lại, giải thích lý do không phản kích được càng làm tăng thêm không khí chán nản.
Muốn tổ chức một đợt phản kích nữa thì lính dù phải có được niềm tin vào cấp chỉ huy. Nhưng, có
thể nói với họ là, từ ngày 13 tháng 3 họ đã không được chỉ huy. Trung tá Gaucher chỉ huy trưởng
phân khu Trung tâm đã tử trận ngay trong những giờ đầu tiên. Những sĩ quan cấp tá tiếp theo,
được chỉ định thay thế Gaucher, người nào cũng cầu cạnh đại tá Castries, xin được di tản. Có thể
nói, từ ngày 13 tháng 3 Langlais hoàn toàn cô độc. Một ngày nào đó, sẽ có những vị tướng đòi hỏi
tính sổ, chỉ trích những quyết định của ông, phê phán những mệnh lệnh của ông. Ông biết lắm.
Nhưng hôm nay, các vị tướng đó ngồi ở đâu?
Trong lúc này, nước Pháp có 12 nghìn quân tại Điện Biên Phủ. Để chỉ huy số quân này
chỉ có một đại tá, trong khi ở hậu phương nước Pháp có rất nhiều cấp tướng đang tranh giành nhau
một phòng làm việc, một bộ máy điện thoại, một cô thư ký riêng.
Ở Điện Biên Phủ, trung tá Langlais cũng có một ban tham mưu. Nhưng chẳng ai nói
đến cái ban tham mưu này. Người sĩ quan cấp cao nhất trong ban tham mưu của Langlais là trung
tá pháo binh Piroth, chỉ huy cụm pháo binh có nhiệm vụ bắn trả, tiêu diệt pháo Việt Minh. Lúc
bùng nổ trận đánh, Piroth thường hay đi lang thang từ hầm chỉ huy này sang hầm chỉ huy khác,
biện bạch một cách thảm bại, có tính chất xin lỗi, là do “trục trặc trong kế hoạch” đã không phản
pháo có hiệu quả.
Chỉ là một trung tá bình thường, nhưng Langlais phải quán xuyến mọi việc. Giữa cảnh
hỗn loạn này phải có một người nào đó đứng thẳng, dù có phải vật lộn với cả trái đất. Langlais đã
đứng vững, dù cho có kiệt sức vì mệt lử.
Pinelli nói thầm với bạn:
- Có một cái gì đó không ổn. Người ta đồn rằng trung tá K trưởng cơ quan tham mưu bị
suy sụp tinh thần nghiêm trọng, suốt ngày ngồi trong góc hầm, mũ sắt đội sụp trên đầu, binh lính
đi qua đi lại cứ giả vờ vấp phải ông…
Bertin Dubois gật đầu hưởng ứng:
- Còn hơn thế nữa. Mọi người sắp phát điên hết rồi. Cứ y như sắp sụp đổ. Nếu Việt
Minh nghe lén được những cuộc cãi vã qua điện đài, chắc họ cười vỡ bụng.
Dubois không hiểu tại sao có tình trạng này. Cũng như mọi người bạn của mình.
Dubois nghĩ đáng lẽ sau hai thất bại nghiêm trọng vừa xảy ra, thành trì Điện Biên Phủ phải có
được một niềm tin, niềm hy vọng, niềm lạc quan chiến đấu, thì các vị chỉ huy các cấp ở đây lại
mất bình tĩnh.
Dubois đảo mắt nhìn quanh những ngọn đồi phía Đông, rồi lại nhìn cánh đồng phía Tây
ảm đạm và trống rỗng. Trên trời vắng bóng máy bay, trừ một chiếc Hellecat lẻ loi bay trên cứ
điểm Gabrielle vừa thất thủ rồi mất hút phía chân trời. Dubois thở dài, nói với Pinelli:
- Pinelli, nhìn xem, chúng ta bị bỏ rơi rồi! Phải tự lực cùng nhau chống chọi để sống
vậy.
Bertin Dubois ngẩng đầu lên. Cặp mắt chăm chú, gương mặt căng thẳng, ông nhìn
chiếc máy bay bé nhỏ lượn vòng trở lại vòm trời phía Bắc cánh đồng Mường Thanh. Pinelli cũng
như số đông binh sĩ chung quanh cùng theo dõi chiếc Hellcat. Máy bay thực hiện một vòng xoáy,
phụt khói ra phía đuôi rồi đâm thẳng xuống một khu rừng. Một cụm lửa đỏ vụt bốc lên cao ngay
chỗ máy bay rơi. Mọi người bất giác đứng nghiêm theo phản xạ, chào vĩnh biệt người xấu số mà
sau này mới biết đó là đại uý hải quân Lespinasse, thuộc lực lượng không quân tiêm kích số 11
của hải quân, đã lái chiếc khu trục Hellcat quan sát Gabrielle vừa tắt thở.
Vào lúc xế chiều, một tin xấu loang đi tất cả các vị trí. Mặc dù đã có nghiêm lệnh phải
tuyệt đối giữ kín chuyện này, nhưng phần lớn binh lính ở Điện Biên Phủ đều biết, trung tá Piroth
đã tự sát trong hầm chỉ huy pháo binh.
Ngoại trừ các tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng và các binh sĩ pháo, ít người quen biết
trung tá Piroth. Không ai bàn tán phê phán nhiều về hành động của ông, vì coi đó là điều bất lịch
sự với người đã chết.
Tuy nhiên, chuẩn uý Canton trên cứ điểm Éliane 4 khi tới chia buồn với trung uý đại
đội trưởng súng cối Bergot đã nói:
- Thật là kỳ cục. Sao cứ nối đuôi nhau ra đi theo kiểu này.
Bergot trả lời:
- Ông ấy cảm thấy phải gánh chịu trách nhiệm về việc kế hoạch phản pháo thất bại.
Canton nhún vai, uống một ngụm cà phê nóng:
- Nếu trong hai ngày nay, tất cả những người có trách nhiệm đều tự sát, thì từ Điện
Biên Phủ đến Paris sẽ là một khoảng trống rỗng, không còn sĩ quan chỉ huy nữa.
Bergot cười. Đúng là Canton nói có lý.
Chắp tay sau lưng, Bergot tiễn Canton về tận vị trí trên đồi Éliane. Đó là một cái hố
vuông lộ thiên, không có mái che, khoét vào một vách hầm:
- Cái nhà ổ chuột của cậu chất đầy quá đấy!
Canton nhún vai lấy tay chỉ lên trời:
- Lúc nào cũng đẹp trời sẽ cảm thấy trần nhà rất cao…
Trong hầm thông tin, Bertin Dubois lại chúi đầu vào công việc của mình. Chung quanh
ông, những cỗ máy vô tuyến thường trực liên lạc với các đơn vị phát ra những tiếng kêu như bầy
ong, các hiệu thính viên đội mũ gắn ống nghe áp sát tai ghi trên sổ những bức điện đang gửi đến.
Nếu không có những bộ đồ ra trận, những chiếc bàn gập, những vách đất, những bóng đèn phát ra
luồng ánh sáng vàng nhạt, người ta có thể cho rằng đây là một trung tâm thông tin tại bất cứ cơ
quan tham mưu nào ở Đông Dương. Những chàng trai ngồi trong hầm, lưng tròn, cặm cụi làm
việc, chỉ đột ngột bật lên khi có tiếng đạn nổ quá gần, rồi lại tiếp tục phận sự một cách bạc bẽo,
chẳng vinh quang gì. Trong thông báo chiến sự không thấy nhắc đến họ. Cũng hiếm hoi lắm mới
có người được tuyên dương công trạng. Vậy mà họ vẫn phải gánh chịu tất cả những rủi ro như
mọi người, vì những quả đạn pháo không có mắt để nhìn nhận, phân biệt đối xử. Họ cũng không
được bồi dưỡng công vụ để chống lại sự sợ hãi đôi khi đau thắt bụng.
Những hiệu thính viên là người biết rõ tình hình chiến sự nhất, hơn tất cả những người
lính chiến đấu. Họ biết cả những tin mật trong cơ quan tham mưu. Họ là những người đầu tiên
được biết những giới hạn của viện trợ đến từ bên ngoài. Là những nhân chứng được ưu tiên nhưng
bị nhốt chặt trong hầm, họ nhận xét trận đánh chỉ qua cái nhìn minh mẫn hoặc bi quan, thông qua
những lúc được tiếp nhận những tin tức hoặc điên khùng, hoặc vui mừng phấn khởi từ những binh
sĩ chiến đấu ở những tuyến đầu.
Bertin Dubois đã đội mũ, áp ống nghe vào tai, cầm bút bi chuẩn bị ghi chép. Chợt ông
giật bắn người. Ông vội điều chỉnh bằng một tay, còn tay khác ghi nhanh trên giấy, dịch sang tiếng
Pháp bức điện của một đơn vị Việt Minh nào đó đề nghị cấp trên cho “tiến đánh ngay vì anh em
chiến sĩ đang bừng bừng khí thế và đơn vị đang ở ngay vị trí xuất phát tiến công”.
Dubois vẫy tay mời trưởng đội thông tin xem mảnh giấy đã dịch xong bức điện. Đội
trưởng cúi người xuống đọc. Những ngón tay ông rung lên. Bức điện nói lên rất rõ. Tối nay, nhất
định Việt Minh sẽ tiếp tục tiến đánh cứ điểm thứ ba ở vành ngoài (sau Béatrice và Gabrielle) là cứ
điểm yếu nhất, do hai đại đội lính Thái đóng giữ. Đây là những người lính xuất thân từ nông dân
trong vùng Nghĩa Lộ, Sơn La thuộc tiểu đoàn lính Thái số 3, mặc quân phục màu vàng bẩn, đội
mũ vải méo mó hoặc mũ nồi lệch, phần lớn đi chân đất. Họ không có những truyền thống chiến
đấu như lính lê dương, cũng không có những tính xung kích như lính Algerie. Đó chỉ là những
người lính dân tộc địa phương thoát ly gia đình, chiến đấu trong rừng.
Đội trưởng thông tin cầm máy nối liên lạc với đại uý Noel trưởng ban quân báo Binh
đoàn tác chiến Tây Bắc:
- Điện trả lời của Việt Minh như thế nào?
Bertin Dubois nhăn mặt. Ông không kịp thu được bức điện trả lời này.
Mạch thông tin đột ngột bị đứt. Từ trong hầm, Bertin Dubois hình dung trận đánh có
thể đang diễn ra không xa, chỉ cách đây có 4 kilômét về phía tây bắc…
Trong đêm hôm đó, những người lính Algerie trên cụm cứ điểm Dominique, những
người lính Maroc trên cụm cứ điểm Éliane, những người lính lê dương trên cụm cứ điểm Huguette
đinh ninh rằng, nếu Việt Minh tiến công thì chắc chắn Điện Biên Phủ sẽ đi tới sụp đổ.
Từ 15 đến 18 tháng 3 năm 1954
Chiều ngày 16 tháng 3, tiểu đoàn dù số 6 nhảy xuống bãi đáp Simone giữa phân khu
Trung tâm và Isabelle. Việc nhảy dù tiến hành trong những điều kiện cực kỳ bi đát. Việt Minh bắn
pháo 105 dồn dập vào bãi nhảy dù. Đại đội nào cũng bị nhiều thương vong. Bigeard cách đây vài
tuần vừa bị bong gân ở Lào, nay lại bị sai khớp mắt cá. Chỉ mới liếc mắt nhìn cứ điểm Isabelle và
toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, ông thấy ngay tình hình thực địa phức tạp hơn tinh hình
phác hoạ trên bản đồ do tướng Cogny trình bày tối hôm trước.
Bigeard tập tễnh bước vào trong một lô cốt nhỏ hẹp dùng làm hầm chỉ huy của trung tá
Langlais. Ông đứng dựa vào một xà gỗ có lẽ rơi từ nóc một chiếc hầm nào đó bị sụp, mặt tái đi vì
giận dữ. Không chào hỏi, ông nói ngay với người chỉ huy phân khu Trung tâm:
- Một đại đội trưởng của tôi vừa báo tin, ông trực tiếp lệnh cho đại đội này đóng ở
Anne Marie?
Langlais trả lời lạnh lùng:
- Đúng! Rạng sáng nay, lính Thái đóng ở Anne Marie 1 và Anne Marie 2 đã đào ngũ,
chạy vào rừng. Phải điều động một đơn vị nào đó thay thế. Chúng ta không thể bỏ rơi một điểm
tựa nào nữa.
Như vậy là, cuộc tiến công của Việt Minh có thể dự định đánh vào Anne Marie đã
không xảy ra. Anne Marie, cụm cứ điểm bố trí theo hình lưỡi liềm án ngữ mặt Tây Bắc cánh đồng
Mường Thanh như một người lính canh trên vọng gác tiền tiêu bảo vệ cho sân bay, không chiến
đấu mà cũng bị mất, coi như một món quà trao tặng trung đoàn Việt Minh đã hạ quyết tâm tiến
đánh.
Các sĩ quan chỉ uy người Âu ở tiểu đoàn lính Thái số 3 ở Anne Marie, sau khi binh lính
bỏ chạy, đã rút về các cứ điểm khác. Theo lời kể lại, thiếu tá tiểu đoàn trưởng Thimonier quá xấu
hổ trước việc binh lính đào ngũ, muốn chuộc lỗi bằng cách ở lại cứ điểm nhưng không được.
Như vậy là đã có ba cụm cứ điểm tuần tự bị mất trong vòng ba đêm. Langlais bị mất
ngủ từ đêm thứ bảy trước, đang căng thẳng thần kinh tột độ. Từ đêm 13 tháng 3, không có sự cố
nào mà không đụng chạm tới ông. Sau khi Gaucher tử trận, ông phải nắm quyền chỉ huy trong
những điều kiện tồi tệ. Các tiểu đoàn theo nhau tan biến, các cuộc phản kích đều bị thất bại. Nếu
không bị chết trong chiến đấu hoặc không tự sát thì những cộng sự gần gũi nhất của ông cứ ẩn náu
trong hầm, chẳng làm gì cả. Làm thế nào giữ được ý chí chiến đấu? Làm thế nào duy trì được
những quan hệ với đồng cấp, khi những cấp dưới của mình, đôi khi chỉ là những trung uý tầm
thường lại rũ hết trách nhiệm thất bại trong việc chỉ huy cho một mình cấp trung tá là Pierre
Langlais?
Và đến bây giờ lại đến lượt Bigeard ghen tức vì bị mất độc quyền điều động các đơn vị
của mình, tới đây bắt bẻ về những chuyện hình thức. Dù sao, Langlais vẫn là ông chủ. Ông không
có thời gian để kiềm chế, tránh né sự tự ái. Ông nói thẳng:
- Tôi đã trực tiếp ra lệnh cho Le Page đi ngay tới Anne Marie vì không được để lỡ một
giây.
Liệu Bigeard có biết được sự phẫn nộ của cấp trên không? Ông không biết hay làm ra
vẻ không biết Langlais đang bực mình. Nguyên tắc vẫn là nguyên tắc. Giọng nói của Bigeard rắn
rỏi, dù trong phạm vi cấp tiểu đoàn trưởng nói với một trung tá chỉ huy phân khu:
- Chính tôi mới là người ra lệnh cho những đơn vị của tôi. Chừng nào tôi còn ở đây…
Cho tới lúc này, Langlais chỉ toàn đối thoại với những người lúng túng khuất phục
trước sự quyết đoán của ông. Đây là lần đầu tiên có một kẻ dám đương đầu với ông, với một thái
độ rõ ràng, không cáu giận vô ích. Liệu giữa Langlais và Bigeard có thể tăng thêm sự hiểu nhầm
không? Langlais do dự đôi chút. Có lẽ ông chợt hiểu, trước mặt ông là người cũng cứng rắn như
ông. Và bất ngờ, ông đã chỉ tay vào một chiếc cột gỗ chống thấm, nói:
- Anh là người Lorrain? Tôi là người Bretagne đây. Tôi với anh, chúng ta thử đập đầu
vào cột gỗ này xem đầu ai rắn hơn?
Bigeard sững người. Nhưng vốn có tính hài hước, nhất là với cấp trên, ông phá ra cười.
Tiếng cười cũng như câu bông đùa, đã làm cho Langlais giải toả được cơn tức giận. Giữa hai
người, hoà bình đã được lập lại.
Câu chuyện này đi xa hơn hai sĩ quan tưởng, và đã dấy lên một tinh thần mới trong tập
đoàn cứ điểm.
Bị pháo bắn liên tục, gặp thất bại liên tiếp trong ba ngày liền, bất lực trước những
phương tiện của địch, các đơn vị Pháp đóng ở Điện Biên Phủ vụt chuyển từ trạng thái lạc quan
điên cuồng nhất sang bi quan là rất dễ hiểu Việc tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 tới tăng viện tạo ra
một bước ngoặt trong cuộc chiến, tạo ra một tác động sâu sắc giữ thăng bằng cho hai thái cực.
Trước hết, về mặt kỹ thuật chuyên môn, những ai được biết tiểu đoàn dù của Bigeard
đều thừa nhận đây là một đơn vị đặc biệt, chưa bao giờ bị đánh bại trên chiến trường, ngay cả khi
phải đương đầu với một kẻ địch đông hơn. Đối với các lính dù và cả những binh lính không thuộc
đơn vị dù, việc tiểu đoàn Bigeard tới Điện Biên Phủ có nghĩa là thành trì này đã kết thúc sự chịu
đòn mà không thể hoặc không muốn đánh trả.
Tiếp theo là về mặt tâm lý, việc có mặt đơn vị dù mới đến chứng minh Điện Biên Phủ
không bị lẻ loi, không bị bỏ rơi nữa và có cơ hội chiến thắng.
Vả lại, trên thực tế (chắc không đúng nhưng lại rất quan trọng để gây niềm tin),
Bigeard chỉ xuất quân khi chắc thắng. Nếu Bigeard đã lên đây, có nghĩa là ông tin sẽ thắng.
Kết luận này cũng hoàn toàn hồ đồ. Bởi vì, trên thực tế, Bigeard sẵn sàng, bằng mọi
cách, tới cứu những gì còn có thể cứu được. Nhưng ông không có ảo tưởng nào hết. Tất cả những
đại đội trưởng trong tiểu đoàn do ông chỉ huy, tất cả các hạ sĩ quan dưới quyền ông, đều xác định
nhiệm vụ của mình là phải đi cứu đồng đội. Vì màu cờ, sắc áo, vì lý tưởng muốn tự khẳng định,
phải là đơn vị xuất sắc, dù cho tan xương nát thịt.
Tới đóng quân ở đồi Éliane 4 là điểm tựa mà tiểu đoàn lính dù Việt số 5 đã đóng quân
nhưng không có thời gian và phương tiện để củng cố vị trí, lính dù tiểu đoàn 6 của Bigeard nhăn
mặt kêu:
- Nếu tất cả các “điểm tựa” đều làm theo kiểu này thì “tựa” vào đâu được?
Cũng theo cung cách này, tại cơ quan tham mưu, nơi sự cãi lộn giữa Bigeard và
Langlais cuối cùng gắn bó họ thành một đội ngũ không thể nào chia rẽ được, dần dần đã tác động
đến quan hệ giữa các sĩ quan có trách nhiệm. Một lần nữa, với thái độ bộc trực trong phát biểu,
không càu nhàu gây gổ mà là thẳng thừng một cách thô bạo. Bigeard đã tạo ra một thứ ý thức
trách nhiệm. Ngay lập tức, tất cả những hằn học, những trách cứ đều loại bỏ, thay bằng một tinh
thần đồng đội. Cho tới lúc này, các sĩ quan vẫn giữ những sự khác biệt theo phù hiệu đơn vị, màu
sắc của mũ ca-lô, mũ bê-rê. Bigeard nhắc nhở mọi người từ nay trở đi họ chỉ có một gia đình duy
nhất gắn bó với nhau bằng cả mặt tốt lẫn mặt xấu của số phận. Tinh thần “làm chủ quán ăn” của
tiểu đoàn dù số 6 phải được truyền rộng, không phân biệt đơn vị, chỉ nhằm vào tập thể của tập
đoàn cứ điểm.
Từ ngày 18 tháng 3, thế giới của phía Pháp bắt đầu chia thành hai khối. Một bên là
những binh sĩ ở Điện Biên Phủ, coi như một lớp người riêng biệt, chỉ kết nạp dựa trên thử thách
những ai được công nhận là xứng đáng gia nhập, kể cả những phi công của lực lượng không quân
và hải quân cùng tham gia chiến đấu. Một bên là những người ngoài cuộc, được coi như những
người nước ngoài, ỏ Hà Nội, Sài gòn, Paris và các nơi khác, nói tóm lại là những ai không nẳm
trong những “hang chuột” khoét vào thành vách chiến hào đắp đất, không gặp rủi ro và thỉnh
thoảng lại bị một quả đạn pháo rơi vào đầu, những người có thể đi dạo chơi, ngắm trời ngắm đất,
được hưởng chút thời gian yên lặng tuyệt đối, những người được ngủ yên giấc trong đêm, không
phải chiến đấu tại một điểm tựa, mười lần bị mất, mười một lần giành lại.
Có lẽ đó là điều giải thích tình thân hữu ái để những ngày sắp tới, tinh thần này thúc
đẩy thêm những tiểu đoàn dù khác nhảy xuống tập đoàn cứ điểm, cả những người tình nguyện
mới nhảy lần đầu đã chiến đấu ngay, mà đáng lẽ họ có thể đứng ở ngoài lề cuộc chiến.
Ngày 18 tháng 3, một đại đội của tiểu đoàn dù số 6 lên đường chiếm lại Anne Marie.
Như vậy là Bigeard đã phải phục tùng Langlais. Để đạt được thắng lợi, ông đã cử Wilde chỉ huy
đại đội 4 tiến hành phản kích, chứ không sử dụng đại đội Le Page như Langlais đã trực tiếp chỉ
định. Đến cánh đồng Mường Thanh, đại đội 4 đã bị pháo và súng máy Việt Minh đặt trên đồi bắn
rất mạnh phải dừng lại rồi được lệnh rút về phía sau vào lúc 6 giờ sáng.
Cũng vào thời điểm đó, đại đội 1 của tiểu đoàn dù Bảo an số 5 đi dọc theo đường băng
sân bay. Nhiệm vụ của đại đội này là đặt tại Anne Marie 4 một điểm tựa nhằm tạo điểm liên lạc
giữa các lính dù lê dương với các đại đội lính Thái của đại uý Duluat. Từ tháng 1, khi căn cứ này
được thiết lập, lính biệt kích mũ nồi xanh đã gọi nó là Mercedes vì giống hình một ngôi sao ba
cánh, tương tự như ngôi sao nhãn hiệu hãng xe ôtô Mercedes của Đức.
Bên cạnh tên gọi chính thức là Anne Marie 4, cứ điểm này còn có tên là “điểm tựa hình
ngôi sao”.
Sau khi xảy ra vụ đào ngũ tập thể của tiểu đoàn lính Thái số 3, cụm cứ điểm Anne
Marie bị xoá bỏ, hai cứ điểm còn lại bị sát nhập vào cụm Huguette bảo vệ sân bay, mang tên
Huguette 6, Huguette 7. Hiện nay, những cứ điểm này do tiểu đoàn 1 trung đoàn bộ binh lê dương
số 2 do thiếu tá Clémenson chỉ huy đóng giữ, chịu trách nhiệm bảo vệ mặt Tây đường băng sân
bay.
Bộ phận đi đầu của tiểu đoàn dù Bảo an số 5 tới Huguette 7 vào lúc sẩm tối. Trung uý
Rondeaux chỉ huy đại đội của tiểu đoàn 5 tới gặp đại đội trưởng lính Thái đóng ở đây, truyền đạt
lệnh thay quân. Ông rất ngạc nhiên khi thấy đại uý Desire chỉ huy tiểu đoàn lính Thái nói:
- Tôi thấy không cần phải thay quân. Lính Thái dưới quyền chỉ huy của tôi đều là
những người lính đã được huấn luyện tốt. Chừng nào tôi còn ở đây…
Đại uý Desire là một người có khuôn mặt tròn, thể hiện sự thông minh và nhân hậu,
giọng nói rành rọt, dịu dàng. Như một người chủ nhà có ý thức về những nhiệm vụ của mình, đại
uý Desire mời trung uý Rondeaux đi thăm cứ điểm. Ông nhấn mạnh đến nguồn gốc xây dựng và
sự vững chắc của các công trình phòng ngự. Rondeaux tán thành. Trung uý đã tận mắt nhìn thấy
hệ thống chiến hào được đào sâu, các lô cốt và hầm chiến đấu xây dựng vững chắc, phạm vi bắn
được mở rộng quang đãng.
Cuộc thay quân đã được tiến hành theo đúng lệnh cấp trên. Sau khi lính Thái của đại uý
Desire đã rút về căn cứ Isabelle thuộc phân khu Nam, Rondeaux đã triệut tập các trung đội trưởng
tới trao nhiệm vụ.
Những người có mặt đầu tiên là hai thiếu uý dự bị Thélot và Latanne. Ở Điện Biên Phủ
có nhiều sĩ quan dự bị nhưng không kém phần xứng đáng. Họ mới chỉ vào khoảng hai mươi tuổi,
mặc dù quyền lợi vật chất không bằng các thiếu uý thường trực nhưng vẫn chiến đấu hăng hái.
Người thứ ba tới họp là trung sĩ Tournayre thuộc lực lượng thường trực. Đây là nhiệm
kỳ thứ hai Tournayre phục vụ tại Đông Dương. Đây là một lính dù kỳ cựu, sau khi tiểu đoàn dù
thuộc địa số 3 chuyển về Pháp đã được giữ lại làm chỉ huy trung đội lính dù người Việt thuộc tiểu
đoàn dù Bảo an số 5. Cũng như những người khác, Tournayre không vui lắm mà chỉ là phục tùng
quyết định phù hợp với trật tự đã thiết lập và những thói quen. Xét cho cùng, đối với họ, phù hiệu
binh chủng không quan trọng, cái chính là cấu trúc trung đội thuộc tiểu đoàn 5 không thay đổi so
với tiểu đoàn 3 mà Tournayre đã phục vụ.
Rondeaux nói với các trung đội trưởng:
- Các anh đã nhìn rõ môi trường ở đây rồi. Điện Biên Phủ không giống bất cứ nơi nào
mà các anh đã biết. Ở đây là một cuộc chiến tranh thật sự, với tất cả những rủi ro.
Ông giơ tay chỉ hệ thống chiến hào đã được đào sâu ngập đầu người và nói tiếp:
- Không cần phải chơi cái trò anh hùng ngu xuẩn. Tôi không muốn thế. Tôi nhắc lại: tôi
không muốn các anh bị chết vì thiếu thận trọng, vì các anh và binh lính của mình không đội mũ
sắt hoặc đi dạo mát giữa ban ngày. Đó là chuyện nghiêm chỉnh đấy.
Ông nhìn lần lượt từng trung đội trưởng một, rồi nói tiếp:
- Vừa rồi, thiếu tá Botella chỉ huy tiểu đoàn dù số 5 có yêu cầu chúng tôi phải loại bỏ
khỏi các đại đội những phần tử yếu kém. Thiếu tá tiểu đoàn trưởng cho rằng chúng ta không được
phép giữ lại trong hàng ngũ những kẻ hoang mang lo sợ, vì hoảng loạn là căn bênh dễ lây lan
nhất.
Thélot chen ngang:
- Đơn vị tôi không có!
Rondeaux cười:
- Đúng. Tôi đã trả lời. Đến lượt anh chứng minh là tôi nói có lý.
Rondeaux phân phối nhiệm vụ. Mỗi trung đội trấn giữ một vị trí ở góc ngôi sao ba
cánh, dành lại một tiểu đội đi tuần tiễu, ứng cứu.
Sau cuộc họp, Latanne tâm sự với Thélot:
- Mình có một ông cậu đã dự cuộc chiến năm 1914. Tất cả những điều ông kể về cuộc
chiến tranh chiến hào nghe khiếp sợ tới mức mình đã thề sẽ không bao giờ để rơi vào tình trạng
đó. Chính vì vậy mình đã chọn binh chủng dù, chỉ tiến công đánh chiếm chứ không phải chôn
chân trong chiến hào phòng ngự. Vậy mà bây giờ lại…
Lantanne đã quên nhiều chi tiết chiến đấu do ông cậu kể lại nhưng đến khi phải tập sự
làm quen với tình hình mới thì lại nhớ rất rõ.
Vấn đề trước tiên là phải thay đổi căn bản trạng thái tâm lý. Là lính dù, tức là thuộc về
binh chủng tiến công chỉ sống ở ngoài trời, không thèm cúi đầu trước những luồng đạn, chạy rất
nhanh trước khi đạn bắn trúng. Nay lại sống trong hầm đào sâu dưới đất của một điểm tựa, điều
đó đòi hỏi phải được thích nghi. Đang là diễn viên, nay lại chuyển vai biến thành khán giả thụ
động, chịu đựng đạn pháo và các làn đạn bắn sát mặt đất của bộ binh địch. Khi di chuyển phải cúi
khom lưng, khi đổi hầm phải nhảy vọt lên mặt đất. Latanne nhớ đến cả một cuốn “từ vựng về
chiến tranh đường hầm” do ông cậu kể lại: giao thông hào, chiến hào, hầm ngầm, hàng rào dây
thép gai, đạn pháo rơi, mảnh đạn găm vào vách hào ngay sát đỉnh đầu. Cuộc sống chen chúc dưới
hầm hào, những con ruồi, bùn đất, mùi xác chết…
Đối với Latanne, đây là tất cả những câu chuyện rất xa xưa, gợi lên trong óc anh hình
ảnh những mũ sắt có đỉnh nhọn hoắt úp chụp lên đầu những bộ mặt để ria vểnh ngược. Cuộc chiến
tranh năm 1919, với những trận đánh trên Đường Đức Bà, Craonne, cao điểm 304, Argonne đã trở
thành một xâu chuỗi huyền thoại cần đưa vào viện bảo tàng của những chứng cứ thuộc về quá
khứ.
Vậy mà giờ đây, Điện Biên Phủ lại tái tạo cuộc chiến tranh trận đía. Latanne khám phá
thêm cả những gì mà ông cậu chưa kể hoặc muốn giấu. Cảnh bẩn thỉu, nhớp nhúa kinh khủng:
bùn, máu, cái chết. Latanne nhận xét:
- Tất cả gợi nên một vấn đề. Chiến đấu chẳng có ý nghĩa gì. Sau cuộc chiến lại phải
sống. Ăn, ngủ trong cảnh đó. Và phần còn lại…
Phần còn lại không dễ dàng. Đó là việc xây dựng những vách che cho các hố chiến đấu
ở sát hàng rào dây kẽm gai. Một loạt phên đan bằng tre nứa được dựng lên chung quanh hố, phía
trên là một mái che bằng gỗ đặt xiên xẹo. Binh lính nói với nhau:
- Kái phên (tiếng Việt trong nguyên bản) chỉ là vật ngăn cách chứ không ngăn cản được
đạn pháo.
Điều nguy hiểm là những phên che này lại biến thành mục tiêu cho pháo Việt Minh
bắn. Trung sĩ Tournayre nhận xét:
- Đã cố xê dịch phên che, nhưng nó vẫn thu hút đạn pháo. Một tay châm biếm đã viết
mảnh giấy vào phên “Nơi hẹn hò của đạn pháo”.
Thélot bình luận:
- Tôi cho rằng chúng ta đã nhảy một bước lùi tới bốn mươi năm, vào thời kỳ chiến
tranh năm 1914, Ernst Junger đã nêu lên nhận xét này trong cuốn sách “Những trận bão thép” của
ông “Tôi nghĩ, không có hi vọng thoát khỏi đạn pháo tại những nơi tập trung”
Latanne nhún vai:
- Có lẽ đây là những “nơi tập trung” như cậu nói. Không ai thanh thản để tự làm cho
mình biến thành mục tiêu đạn pháo trong vị trí này.
Sự lo lắng của Pierre Latanne cũng là tâm trạng chung của binh lính bị vây hãm trong
cứ điểm Huguette 7. Có điều, nỗi lo này đến sớm đôi chút. Vài ngày sau, toàn bộ binh lính phòng
ngự ở Điện Biên Phủ mới có những mối lo ngại tương tự. Và vài tuần sau thì tâm trạng này đã làm
cho Điện Biên Phủ trở thành một cái hố khổng lồ bị nhiễm khuẩn.
Thiếu uý Latanne đã tới cứ điểm đặt tại đỉnh Tây Nam của hình ngôi sao. Vài phút sau,
những lính dù Bảo an cũng tới và nhanh chóng triển khai, có vẻ như đã luôn luôn sống dưới chiến
hào. Những kẻ ranh mãnh chiếm luôn những chiếc hầm rồi trải vải bạt phủ lên đống rơm mà trước
kia lính Thái đã nằm. Những kẻ ít may mắn đành phải khoét vào vách hào những hầm gọi là hầm
ếch, như những hang chuột. Đã quá muộn, không thể kiếm được gỗ tốt để làm nắp hầm, nhưng họ
cũng vẫn phủ lên nắp hầm một lớp đất dày gần một mét. Đất ở đây có pha đất sét, mềm và dính
nhưng để lại trên tay và quần áo trận những vết bẩn màu trắng kéo dài.
Đầu hào là đồn canh có lính gác đêm.
Latanne vẫn còn nhớ những hình trong Báo ảnh về cảnh gác bên cạnh lỗ châu mai.
Quần áo khác nhau, mặt mũi khác nhau, mũ sắt tròn và thái độ giống nhau. Lính canh
đứng dựa vào bờ chiến hào, khuỷu tay trái tỳ vào khe ngắm gọi là “cửa sổ” giữa hai chồng túi đất,
nòng súng chĩa về hướng địch. Những lính dù người Việt chế tạo được những chiếc điếu cày bằng
tre có đục thêm lỗ để toả khói và không để lộ ánh lửa. Nhưng cũng như bất cứ người lính gác nào
trên thế giới, họ thường lơ đãng nhìn trời.
Latanne chui vào lô cốt, trèo lên một bệ đất như chiếc ghế dài ở vị trí nhằm bắn nhìn ra
ngoài. Quang cảnh thật ảm đạm dưới vòm trời mây thấp. Thỉnh thoảng những vệt lửa màu vàng lại
lóe lên từ chân trời, vài giây sau kéo theo tiếng rít rồi kết thúc bằng tiếng nổ. Lính pháo đôi bên nã
những quả đạn vào nhau để nhắc nhở lẫn nhau đừng có ngủ vì kẻ địch vẫn đang có mặt. Trận bắn
pháo không đều nhưng thường xuyên. Những quả đạn lúc tập trung, lúc lẻ tẻ, khó đoán biết được
mục tiêu nhằm bắn.
Latanne sững sờ bối rồi khi nhìn qua khe ngắm bắn sát mặt đất. Ở vị trí này, cảnh vật
phía trước hình như lớn hơn, mỗi ụ đất nom như một quả núi, những đám cỏ dại trên mảnh đất
hoang hoá như cây rừng. Ngay cả làn gió nhẹ thổi qua cũng như trận cuồng phong.
Bên cạnh đó, khí lạnh tràn vào tất cả các khe hở. Đó là hơi lạnh của nấm mồ, ẩm ướt và
nhầy nhụa.
- Có gì ăn không, trung uý?
Dzu, lính cần vụ của Latanne nhẹ nhàng đến gần chủ, không gây ra một tiếng động
nào. Anh cầm trong hai bàn tay bữa cơm vừa nấu trong hầm. Đó là một nắm cơm tẩm với nước
mắm. Trong khi đó trung uý Latanne ăn trong ga-men nhưng không cảm thấy ngon. Điều hấp dẫn
của cơm là ăn nóng.
Đã nửa đêm. Điện Biên Phủ nằm yên như chết. Không một tiếng động nào vang vọng
tới, cứ điểm Huguette 7 mất hút ở đầu đường băng, dưới bóng một điểm tựa mà lính Thái đã bỏ
chạy, không còn động tĩnh gì trên đó. Có vẻ như chiến tranh đã xa vắng tại khu vực này, chỉ còn
đẻ lại những trận bắn pháo cầm canh.
- Báo cáo trung uý, tôi tới thay phiên gác.
Trung sĩ Cornec bước tới khe nhằm bắn. Latanne rút khỏi vị trí, có vẻ như còn luyến
tiếc. Hình như vừa rồi ông đã được sống những giờ phút đặc biệt quý báu, như được hưởng một sự
yên lành sau trận bão. Chỉ trong ba ngày anh đã được dịp hiểu biết tất cả, từ những trận chiến đấu
ác liệt đến những trận bắn pháo dữ dội. Anh nói với trung sĩ Cornec:
- Điều đặc biệt nhất, đó là vượt qua được những giới hạn của khả năng và mặc dù mọi
việc xảy ra, vẫn phải tiếp tục sống.

Bắn tỉa
23 tháng 3 năm 1954
Hôm qua, một cánh quân mở đường liên lạc từ phân khu Trung tâm đến phân khu Nam
Isabelle đã vấp phải một tiểu đoàn Việt Minh bố trí tại chiến hào cắt ngang cánh đồng từ phía
Đông sang phía Tây. Tiểu đoàn dù số 6 của Bigeard có xe tăng yểm trợ. Phải mất một ngày chiến
đấu mới chiếm được trận địa, đến đêm lại phải rút lui mà không hoàn toàn thực hiện trót lọt được
nhiệm vụ. Binh lính ở Isabelle đi đón, đến nửa đường đã phải quay lại.
Tối hôm nay, Điện Biên Phủ cố lấy lại sức. Trong tập đoàn cứ điểm, suốt ngày tiến
hành việc thu nhặt và phân phối lương thực đạn dược tới các cứ điểm, chuẩn bị đề phòng ban
đêm.
Không ai nghỉ ngơi. Những người không làm việc ở bên ngoài thì đào các giao thông
hào mới, mở rộng các chiến hào, sửa sang các hầm trú ẩn. Từ ngày 13 tháng 3 đã đào rất nhiều ở
Điện Biên Phủ và sẽ còn tiếp tục đào không ngừng. Chưa có hố hào nào được coi là đủ sâu, đủ
kín, đủ bảo vệ cho người.
Trung sĩ Bertin Dubois nhận xét:
- Chúng ta đang sống trong hoàn cảnh có nhiều bất ngờ: đạn pháo ở trên đầu, đất cát ở
chung quanh và chúng ta sống ở giữa. Chúng ta là những con chuột chũi bị kẻ mưu sát năng nổ
săn lùng…
Trung sĩ Bauchet im lặng tỏ vẻ tán thành. Đây là một chàng trai lực lưỡng tóc vàng hoe
rất Âu, trong khi Dubois ngăm ngăm đen đượm màu châu Á. Hai người gặp nhau tại một chỗ
ngoặt của chiến hào. Bauchet đeo khệ nệ trên lưng một máy ngắm của xạ thủ có đèn chiếu và kính
hồng ngoại để bắn đêm. Dubois vác giúp hòm ắc-quy. Ông tỳ súng vào bệ ngắm và nhích mũi
súng ra bờ hào, nói một cách bình thản:
- Tôi không nghĩ rằng người ta có thể chịu được nhiều quả đạn như vậy mà không phát
điên. Đúng là đạn rơi liên tục và tôi không điên …
Một tiếng rít lớn dần, lớn dần, vang vọng cả khoảng không gian gần kề. Rồi tiếng rít
trở thành tiếng rú, chuyển đổi giọng để vang to mãi, được trợ lực bởi không khí bị dồn ép, dày đặc
như tiếng vang của thác lũ. Bauchet lại nhảy vào chiến hào. Quả đạn pháo nổ ngay chỗ anh vừa
đứng. Anh làu bàu:
- Nó rơi không xa. Mình còn nghe thấy những tiếng vang …
Bertin Dubois hỏi:
- Cậu có nhận xét là lỗ tai đã học được cách phân biệt những tiếng động? Những ngày
đầu, nghe thấy tiếng rít của quả đạn nào mình cũng cúi đầu chào. Bây giờ, mình đã phân biệt được
những quả rơi trúng mõm…
- Đúng vậy. MÌnh vừa biết, chính mình cũng không phân biệt được những quả rơi quá
xa hoặc quá gần nữa,
Bauchet không phải là người duy nhất. Dần dà, phần lớn những người ở Điện Biên Phủ
có vẻ như không bị tác động nhiều lắm trước những loạt đạn đang không ngừng cày xới đất. Đôi
lúc, họ cũng tạm lơi lỏng công việc để tìm một nơi ẩn nấp, nhưng phần lớn thời gian bắn pháo họ
chỉ cúi đầu xuống để tránh né. Tuy nhiên, họ cũng cố thu xếp để không bao giờ phải đứng quá xa
chiến hào khi làm việc ngoài trời.
Bauchet tiếp tục nói với Dubois:
- Này, nếu đêm nay tớ đưa cậu cùng đi.
- Để làm gì?
- Đi bắn bia sống. Dĩ nhiên. Tớ đã có một tay trợ thủ nhưng hắn đã bị trúng một mảnh
đạn không đúng chỗ. Trung uý cho mình được mang theo một dân phu để mang vác thiết bị. Tớ
không tin tưởng ở thằng này.
Bauchet nhổ toẹt một bãi nước bọt ngay trước mặt rồi chữa lại:
- Cũng không hẳn là tớ không tin. Tớ chỉ nghĩ rằng thằng này không thạo việc.
Dubois tán thành:
- Cậu có lý. Nhưng bây giờ chiến tranh đã bắt đầu. Ai định nghĩa được cái gì là công
việc của dân phu, cái gì không phải. Đạn pháo cũng như mặt trời, thuộc về tất cả mọi người.
- Không sao cả. Nếu tớ là một thằng tù, tớ cũng không thích tiếp tay cho Việt Minh.
Dubois quay trở về với đề nghị của Dubois:
- Mình đồng ý với cậu để thay đổi không khí, vì được ra khỏi hang chuột. Sáng mai
mình không phải trực công vụ.
Chiếc xe Jeep từ từ lăn bánh, nẩy trên những vết bánh xe cũ trên con đường mang tên
Pavie (dẫn tới Lai Châu) ngược về phía Bắc. Về phía tay phải là bãi đỗ, các xe tải và xe cứu
thương đang tập trung, chờ chiếc máy bay Dakota y tế một lần nữa, cố hạ cánh thử đậu qua đêm.
Bauchet nói nhỏ vào tai Dubois cũng ngồi trên chiếc ghế dài phía sau:
- Tụi phi công cũng táo bạo đấy!
- Ừ! Cậu có biết rằng họ đã áp dụng một mẹo để đánh lừa Việt Minh không? Họ bay
đôi trên vùng trời này. Một chiếc bay ở độ cao 200 mét, nổ máy to hết cỡ để Việt Minh tưởng là
thả dù. Trong khi chiếc thứ hai cắt ga, nhẹ nhàng hạ cánh xuống đường băng.
- Thoát chứ?
- Cho tới nay thì rất thông suốt. Miễn là tiếp tục kéo dài.
Bauchet suy nghĩ một lát rồi nói:
- Mình vẫn tự hỏi, làm thế này thì nguy hiểm cho phi công quá, việc hạ cánh biến thành
mục tiêu di động để Việt Minh nhằm bắn.
Dubois khẽ cười:
- Cậu đi mà hỏi phi công.
- Này! Cậu là sĩ quan quân báo, nắm được bí mật của cả thần thánh. Cho mình biết mỗi
đêm di tản được bao nhiêu thương binh?
- Không nhất định. Cái đó còn tuỳ ở nhiều yếu tố: sự can đảm của các phi công, những
phản ứng của Việt Minh, sự nhanh nhạy của bọn tải thương khiêng cáng. Cậu biết không? Hôm
kia mình phải giúp một tay. Không đẹp mắt lắm. Máy bay đã lăn bánh sẵn sàng cất cánh, vẫn còn
có những thằng cố đuổi theo, bám chặt lấy cửa máy bay. Tối hôm đó, chỉ di tản được 15 thương
binh toàn loại nhẹ. Mình còn nhớ: có một trung uý thuộc tiểu đoàn dù lê dương nằm trên cáng.
Lúc nhìn thấy cảnh hỗn loạn như chợ vỡ, tất cả lũ chạy theo sẵn sàng đánh nhau để leo lên chiếc
máy bay Dakota, ông ấy đã nói với mình: “Thà tan xác ở Điện Biên Phủ còn hơn là rời khỏi đây
cùng với cái lũ hèn đốn này!”. Thế là ông ấy tụt xuống cáng, chống nạng quay về. Đó là trung uý
Domigo, bị thương trong trận phản kích đánh lên Gabrielle.
Chiếc xe Jeep đã vượt qua cứ điểm Huguette 2 đi về hướng Bắc. Bauchet thuộc lòng lộ
trình. Sau khi vượt qua vật chướng ngại ở Huguette 6, họ xuống xe, đi bộ khoảng 800 mét để tới
Huguette 7.
Bertin Dubois hỏi:
- Thực chất là làm nhiệm vụ gì?
- Ta cùng đi với một tổ báo động của lính Bảo an. Bọn nó nghe thấy có tiếng địch đào
hào.
Họ đi tới con đường chữ chi ở phía Đông Nam. Lính gác lặng lẽ dẫn họ đi qua những
đường hào ngoằn ngoèo cho tới hầm của đại đội trưởng. Trung uý Rondeaux đang ngồi trong hầm,
khuỷu tay tỳ lên chiếc bàn khập khiễng, nét mặt bị chiếu sáng xiên xẹo bởi một bóng đèn bấm tiếp
nói với cục pin của điện đài. Ông có những nét mặt mệt mỏi căng thẳng, ngồi vặn vẹo trên chiếc
ghế đẩu, sức nặng của toàn thân dồn về phía đùi bên trái. Qua kẽ hở của chiếc áo nhảy dù lộ ra
những mẩu băng thấm máu. Sáng hôm nay, Rondeaux dẫn đầu trung đội, thử tiến hành một cuộc
thăm dò đồi Anne Marie do lính Việt Minh vừa chiếm đóng, đang tu sửa. Ông đã phải rút quân
dưới hoả lực dày đặc của các vũ khí nặng. Một số lính trong trung đội bị thương. Rondeaux cũng
bị trúng một loạt đạn, nhưng từ chối di tản về phía sau. Ông nói:
- Bắt liên lạc với thiếu uý Thélot hiện đang ở mỏm Bắc của điểm tựa.
Bauchet khoác khẩu các-bin ngang vai, chỉ đáp một câu đơn giản:
- Rõ!
Thiếu uý Thélot mỉm nụ cười đáng yêu chào đón những người mới đến. Anh vui vẻ
nói:
- Hoan nghênh các bạn đến cái hang của tôi.
Anh di chuyển một chút để có chỗ và ngồi sát một thiếu uý khác. Anh này cũng biểu lộ
một cử chỉ nhã nhặn và tự giới thiệu:
- Tôi là Latanne.
Rồi anh lấy mũi dao chỉ vào một khối màu trắng, đặt trên hòm đạn. Ánh sáng yếu ớt
của ngọn nến làm cho mọi người nhìn thấy cái khối màu trằng này có vẻ như một tảng thạch cao
mềm.
Dubois hỏi:
- Cái gì thế này?
Latanne cười:
- Đặc sản của sếp đấy! Ông ấy gọi, đây là món “patê đóng đinh”.
Rồi anh nói tiếp như một tay đầu bếp trình bày chi tiết các khoản thu của mình: đơn
giản và không đắt; thuần tuý chỉ dựa vào cốt lõi của khẩu phần đồ hộp cá nhân. Trước hết, lấy 12
chiếc bánh bích quy vụn dã chiến hoà với nước và sữa đặc thành bột nhão. Cho vào vỏ đồ hộp
khẩu phần đã lắng dầu cá sardin ở bên trong. Cho thêm thịt bò tẩm gia vị, thịt lợn đông và ba con
cá sardin hộp. Liên kết với nhau trong vỏ đồ hộp, đưa lên đun khoảng 15 phút và ăn nóng.
Latanne lại cười rồi kết luận:
- Kết quả đây! Mời các bạn nếm thử, nếu thấy hấp dẫn. Còn tôi, dù sinh trưởng ở
Lourdes, tôi vẫn không tin vào những điều huyền hoặc.
Bauchet trả lời nghiêm chỉnh:
- Xin cảm ơn bạn. Tôi xin một chút cà phê sữa Nescafe là đủ.
Mặc dù ánh sáng trong hầm lô cốt của trung đội rất yếu nhưng khi bước ra chiến hào,
Bauchet và Dubois vẫn khó chịu với bóng tối bên ngoài. Cánh đồng Điện Biên Phủ giống như một
cái chảo bật nắp vung. Trời đen mượt như nhung và nếu ở trên cao, có thể phán đoán được có
những chiếc máy bay Dakota đang lượn sát các ngọn đồi như những con chim mồi, thì vẫn không
nhìn thấy được những ánh đèn màu xanh phát ra từ phía động cơ.
Thiếu uý Thélot vỗ vai hai trung sĩ ra hiệu cho họ bước theo mình. Anh đi nhanh, dễ
dàng như đã thực hành từ lâu. Anh biết rõ từng kẽ hẻm của cứ điểm. Anh dừng lại trước đường
vào cửa hầm và gọi:
- Tournayre, đi thôi, đến giờ rồi.
Một bóng sáng xuất hiên, theo sau có ba nóng nữa, nhỏ bé hơn:
- Bọn “tia hồng ngoại” có đấy không?
Bauchet trả lời:
- Có!
Họ bắt tay nhau trong tối đen. Sau đó, trung sĩ Tournayre trườn ra ngoài chiến hào bắt
đầu bò đi và báo trước:
- Cấn thận rắn rết, tôi chỉ đặt một mẩu gỗ để cách ly chúng từ mặt đất. Theo đúng bước
đi của tôi để tránh vấp phải mìn.
Từng người một, đội tuần tiễu theo hàng dọc ra khỏi điểm tựa. Dubois đi sau cùng. Khi
đến lượt trèo lên khỏi hào, anh thấy ống tay áo bị kéo lại. Có tiếng thiếu uý Thélot nói nhỏ:
- Chúc chuyến đi săn đạt kết quả.
Lúc trèo lên bờ hào, chiếc mũ sắt của Dubois vấp phải gót ủng nhảy dù của người đi
trước. Anh hất đầu ra, leo lên theo đoàn người đang dính chặt trong bùn như những con cua bất
động. Đi ngang hai trung sĩ, anh dừng lại, ghé mặt sát họ.
Bauchet hỏi nhỏ:
- Tránh được hứ? Đi thôi. Đã có tụi lính Bảo an bảo vệ, hai chúng ta kiếm lấy một chỗ
đứng.
Anh đặt tay lên vai bạn:
- Nghe này!
Dubois vểnh tai lên nghe và giật thót tim. Bất chợt anh có một cảm giác kỳ lạ, vừa kích
thích vừa sợ hãi. Anh cảm thấy đột ngột không còn ở mảnh đất mang tên Điện Biên Phủ nữa để
như phải chèo chống trên một cái mảng giữa biển. Cách chỗ đứng khoảng 50 mét, anh nghe rất rõ
tiếng xẻng nạo đất vang vọng lại.
Bauchet bắt đầu chuẩn bị dụng cụ bắn tỉa. Mặc dù đêm tối, Dubois cũng đoán biết bạn
mình hành động một cách dũng cảm, tự chủ, chính xác. Bauchet đã lắp đèn chiếu trên nòng súng,
thử các nấc điều chỉnh của máy ngắm, trải dài dây điện rồi đưa cho Dubois:
- Cậu cẩn thận, đừng nhầm ổ cắm. Những phích cắm có kích cỡ khác nhau đấy.
Dubois cắm giây điện. Đột nhiên, anh cảm thấy đang phơi mình trước địch như một kẻ
bị lột trần truống. Anh đang đứng giữa trận địa địch, vừa tầm ném lựu đạn của một “bộ đội” đang
căng thẳng thần kinh hoặc đang minh mẫn, thế mà lại không nghĩ đến chuyện đem súng theo.
Đành rằng, ở trong lô cốt thông tin liên lạc thì khẩu súng chẳng làm được điều gì cả.
Bauchet đã ở trong vị trí như một vận động viên bắn súng, nằm sát mặt đất, soải chân,
quai súng cuộn vào cổ tay. Dubois đến sát, chỉ cách vài centimét:
- Có nhìn thấy gì không?
- Có! Bốn đứa! Chắc là tụi lính gác. Vấn đề là, nếu tớ bắn một thằng, thì ba thằng còn
lại sẽ nằm xuống và ném lựu đạn về phía chúng mình. Cách tốt nhất là nhằm bắn được hai đứa
liền và chờ.
Bauchet cần thận tỳ chặt báng súng vào vai rồi bấm cò. Hai phát đạn nổ sát nhau tới
mức Dubois tưởng chừng như chỉ nghe thấy một tiếng nổ. Bauchet vẫn áp sát mắt vào kính ngắm
để quan sát kết quả rồi mới lăn sang bên cạnh, nói với Dubois:
- Cậu muốn thử không?
Dubois cầm súng, ngồi xuống, hướng ống nhòm về phía Việt Minh. Qua ống kính anh
nhìn thấy mọi chi tiết đắm chìm trong bóng tối hiện lên rõ lạ lùng. Dubois thấy một thế giới kỳ lạ,
màu xanh lục, trong đó các vật chuyển động có màu sáng, như một phim ảnh âm bản. Dubois nói,
như tự thốt ra “
- Một đứa.
Bóng người nhìn qua kính hồng ngoại mờ nhạt, chuyển động, biến dạng, nhưng vẫn
phân biệt được rõ những đường viền của cái đầu và đôi vai, có vẻ như một bóng ma màu xanh
nhạt.
Dubois gần như tự động bấm cò súng, nẩy người lên khi phát ra tiếng nổ, trong khi
cách đó khoảng 50 mét, bóng người biến mất như bị nuốt chửng trong cái bẩy. Anh kêu lên:
- Hỏng rồi!
- Không phải!
Bauchet kêu to rồi giơ tay nắm lấy khẩu súng cáca-bin, nói với Dubois:
- Đừng ở lại đây. Nhất định chúng ta bị phát hiện rồi. Địch sẽ bắn trả ngay lập tức.
Bauchet biết rõ con mồi của mình. Hai người vừa quay về chỗ đội tuần tiễu đang đứng
đợi thì nghe thấy những tiếng “lốp đốp “của quả đạn cối vừa được bắn ra khỏi nòng. Việt Minh đã
được báo động. Nhưng đạn pháo rơi khá xa về phía phải.
Tournayre và Dubois đứng sát gần Bauchet:
- Ta về chứ?
- Không. Ta chỉ đổi chỗ bắn thôi.
Cuộc bắn tỉa kéo dài cho tới rạng đông. Khi vòm trời hửng sáng, đội tuần tra được thay
thế bằng một trung đội ứng cứu có nhiệm vụ lấp lại đoạn hào Việt Minh vừa đào.
Lập tức, pháo địch lại ập xuống lính dù. Lại tiếp tục có thêm người chết, người bị
thương, trong đó có thiếu uý Thélot. Latanne nói với Thélot:
- Thôi, phải ghi tên anh vào danh sách những người cần di tản khẩn cấp. Sáng mau, anh
sẽ về Hà Nội.
Nếu đây là lời chúc, thì lời chúc này không thành. Latanne có lý khi anh nói không tin
vào những điều kỳ diệu. Chiếc máy bay đêm nay hạ cánh xuống Điện Biên Phủ là chiếc cuối
cùng. Vừa mới đáp xuống đường băng, máy bay đã bị những mảnh đạn pháo phá thủng ống đựng
dầu của một bên động cơ. Đến sáng rõ pháo binh Việt hoàn thành việc phá huỷ máy bay.
Từ đêm hôm đó, doanh trại Điện Biên Phủ lại có thêm hai người nữa. Đó là thiếu tá
Blanchet, trưởng phi cơ của chiếc Dakota Delta Coc 434 và cô tiếp viên hàng không Genevieve de
Galard.

Thảm hoạ
Từ 26 đến 28 tháng 3 năm 1954
Không còn dữ dội như những ngày đầu, khi tập đoàn cứ điểm bị pháo bắn giã giò, súng
bắn liên tục, chìm trong kinh hoàng, khiếp sợ. Lúc này Việt minh đang nín hơi, nhưng vẫn có mặt,
càng ngày càng sát gần, càng ngày càng hoạt động tích cự dù chưa xung phong tiến công ào ạt
bằng bộ binh.
Từ cứ điểm này đến cứ điểm khác, những binh lính trên cánh đồng Điện Biên Phủ, một
khi đã quen với tiếng pháo bắn, tiếng đạn nổ, tiếng rít của những mảnh đạn, có thể gần như trở lại
với thời kỳ đầu cuộc chiến. Họ đang tồn tại. Họ đã có thời gian để ngủ, để sửa sang công sự, thậm
chí còn có thể ra bờ sông Nậm Rốm, vục đầu xuống nước, hưởng một sự im ắng trong vòng lửa
đạn của địch.
Tuy nhiên, tất cả đều cảm thấy, sự nghỉ ngơi tương đối này vẫn chứa đựng những nguy
cơ to lớn nhất. Đó là trận địa bao vây, mỗi sáng bừng mắt dậy lại thấy sát gần hơn, xiết chặt hơn.
Gần như thường lệ, ngày nào các đơn vị ứng cứu như lính dù, lính lê dương, lính thuộc
địa đều chạm trán với địch ở ngay vành ngoài các vị trí. Ngày 26 tháng 3, tiểu đoàn dù lê dương
đã phải tiến hành một cuộc chiến đấu khó khăn ở phía Bắc Huguette 6, chỉ cách cuối đường băng
sân bay chưa đầy 300 mét. Mặc dù tìm đủ mọi cách, mãi đến trưa tiểu đoàn này vẫn chưa nhích
lên được một mét. Cuối cùng phải sử dụng đến xe tăng của Hervouet bắn pháo vào những ụ súng
mà Việt Minh xây dựng kiên cố như những lô cốt để bố trí súng không giật và trọng liên.
Ngày hôm đó, xe tăng không được nghỉ ngơi lấy một phút. Sau trận chiến đấu ở
Huguette 6 thì lại phải đi ứng cứu cho tiểu đoàn dù thuộc địa xung kích số 8 đang ở Dominique 1
bên bờ trái sông Nậm Rốm, một phần vị trí đã bị Việt Minh từ một mỏm đồi ngay trước các vị trí
Pháp đánh chiếm.
Đối với lính bộ binh Pháp cũng như lính lái xe tăng, cuộc chiến này gần như là chuyện
quen thuộc. Một sự quen thuộc chết chóc vì không ngày nào là không có người chết vì bị thương
trong đội ngũ.
Sáng 25 tháng 3, một cuộc hành quân mở đường xuống cụm Isabelle đã có hai sĩ quan
là trung uý Bertrand và Lecoq thuộc tiểu đoàn dù lê dương số 1, là đơn vị đã phải chiến đấu bốn
giờ chống lại một tiểu đoàn địch, cách trung tâm Điện Biên Phủ bốn kilômét.
Hạ sĩ Issert không nản chí hơn các đồng đội tiểu đoàn xung kích số 8. Anh chỉ hơi ngỡ
ngàng vì thực tế hằng ngày mà anh đã nhìn thấy tận mắt, trong khi đài phát thanh mang tên Con
nhạn ở Hà Nội trong những bản thông cáo chiến sự cứ lải nhải đây là “tập đoàn cứ điểm phòng
ngự”, là “thành trì”. Issert nói:
- Ngày nào cũng như vậy. Chúng tôi phải đi từ Nam tới Bắc, từ Đông sang Tây và mỗi
ngày lại đi ngắn hơn một chút. Nhưng mà - anh giải thích cho đồng đội Le Brenn, cựu võ sĩ quyền
Anh - tôi đã nhìn thấy các thành trì như thế nào rồi. Nó như là Carcassonne hoặc Montlouis mà tôi
đã từng học. Ở đây thì lại hoàn toàn khác.
Issert suy nghĩ một lát rồi tiếp tục phát triển sự so sánh:
- Điện Biên Phủ cũng có thể là một thành trì pháo đài vì ở đây người ta chỉ xây các đồn
canh mà không xây tường… Rồi lại đào cả những hố sâu giữa các vị trí. Nếu tôi là quân Việt, tôi
sẽ lẻn vào giữa những cái “tháp canh” này để lọt sâu vào căn cứ, cù vào bàn chân các vị chỉ huy
cấp cao.
- Đừng nói chuyện gở.
Việt Minh không chờ Issert nhắc mới nghĩ đến chuyện này. Bốn đêm trước, một đội
đặc công Việt Minh đã từ đường 41 lọt qua hai cứ điểm Dominique, tiến vào trong, phá huỷ một
đầu đường băng sân bay. Đội lính này không gây thiệt hại nặng mà chỉ chứng mình Điện Biên Phủ
không phải là một thành trì không thể xâm phạm.
Ngày hôm sau, trung tá Langlais lệnh cho một đại đội thuộc tiểu đoàn dù lính Việt số 5
đi chặn kẻ hở nguy hiểm này. Dưới làn đạn pháo 105 Việt Minh, lính Bảo An đã đào chiến hào,
chôn mìn, rào dây kẽm gai ngay chỗ đêm trước Việt Minh thâm nhập để thiết lập một vị trí mới.
Issert bình luận:
- Công việc này quả là công cốc! Nhưng đó không phải lỗi của bọn nhà nghèo. Chúng
nó không kiếm được một mẩu gỗ nào, chỉ có cọc rào.
- Thế thì Việt Minh vẫn lọt vào được, nếu muốn.
Thượng sĩ Carre tham gia cuộc tranh cãi:
- Không thành vấn đề! - Anh vừa nói vừa cười chế nhạo - Bây giờ chúng ta lại có một
“điểm tựa” nữa, bởi vì cái hang chuột mà lính Bảo an vừa xây dựng từ nay được đặt tên là cứ
điểm “Dominique 6”.
Anh lấy tay vê râu, nói thêm:
- Nếu Việt Minh tiến công, tớ không thích đóng giữ ở cái vị trí này. Cậu có biết tụi lính
ở Dominique 1 và Dominique 2 có bố trí dưới lớp hàng rào kẽm gai những thùng phuy 200 lít
không?
- Đựng gì?
- Napalm. Cậu vừa nói về thành Carcassone à? Ngày xưa, lính phòng ngự giữ thành
bằng dầu đun sôi. Ngày nay, chúng mình có ét-xăng khô gọi là Napalm. Nếu Việt Minh xông tới,
ta sẽ cho nổ thùng phuy đựng napalm và thế là… Có điều, tụi lính Bảo an đóng ở khe núi giữa hai
cứ điểm tựa rất có nguy cơ bị thiêu cháy như trận đánh ở núi Pù Tạo năm trước.
Một chiếc Dakota bay tới làm gián đoạn cuộc nói chuyện. Máy bay bay rất thấp, rất
đúng trục đường băng, thả những kiện hàng xuống bãi cỏ ghi rõ chữ T làm chỉ điểm.
- Một quán quân!
Issert lại bình luận, ca ngợi sự dũng cảm của các phi công thả dù ban ngày và cố hạ
cánh ban đêm.
Bay đến đầu cánh đồng, chiếc máy bay hai động cơ quay một vòng hẹp chuẩn bị trở lại
khu Trung tâm.
Issert cắn móng tay, văng tục và nói:
- Nó trúng đạn mất!
Chiếc Dakota kéo theo sau một dải khói đen, lớn dần, to dần, trải dài sát mặt đất. Hình
như nó muốn ngóc đầu lên như một con chim bị đập vào đầu. Mũi máy bay đã vểnh lên, nhưng
đuôi lại chạm đất. Rồi máy bay bị rơi, lao xuống những thửa ruộng, rung chuyển vì vấp trong khi
có thêm một đám bụi xám và bẩn hoà vào đám khói.
Từ chỗ đỗ ở gần đường băng, một chiếc xe Jeep lao vội ra, chở theo ba người đứng
trong xe, cúi lom khom bám vào thành xe.
Thượng sĩ Carre nói:
- Mình biết tay này. Nó là Peyrac, trung sĩ đội bảo vệ an toàn.
Trung sĩ Peyrac và đồng đội hối hả tới chỗ máy bay rơi, hy vọng có mặt kịp thời để
giúp đội phi hành ra khỏi khoang lái trước khi lửa lan tới. Chiếc xe Jeep vẫn tiến thẳng, leo qua
các bờ ruộng khô cạn, vặn vẹo khi vượt qua những hố hào rồi dính chặt trên mặt đất như con ốc
sên vụng về.
Chiếc Dakota bốc khói chỉ còn cách 300 mét. Trung sĩ cố thúc giục người lính lái xe.
Vô ích. Máy bay bốc cháy lúc chiếc xe Jeep còn cách hai trăm mét.
Hạ sĩ Issert gầm lên:
- Thật là một thảm hoạ!
Issert nói lên điều mà tất cả binh lính ở Điện Biên Phủ đều nghĩ như vậy. Đúng là một
thảm hoạ. Từ hôm qua, đây là chiếc DC-3 bị trúng đạn cao xạ Việt Minh bố trí trên những sườn
đồi trước kia là cứ điểm Gabrielle, và cả trong cánh đồng dưới lớp cây của những bản cũ người
Thái.
De Castries đã được báo tin về việc chiếc DC-3 số 267 của đội vận tải 2/63 Sénegal bụi
huỷ diệt. Ông biết, ở Hà Nội, các vị tướng lĩnh phụ trách lực lượng không quân sẽ nhân dịp này đề
nghị Tổng tư lệnh Navarre đình chỉ các chuyến bay để tránh bị tàn sát. Và thế là Điện Biên Phủ
cũng đi đứt vì cuộc sống ở đây hoàn toàn phụ thuộc vào máy bay tiếp tế. Chỉ huy trưởng báo động
cho Langlais. Chỉ huy phân khu Trung tâm trả lời:
- Bigeard là người chỉ huy các lực lượng ứng cứu. Chính Bigeard mới là người cần chỉ
thị phải làm gì.
Trong hầm chỉ huy, Tourret đang ngủ thì có người đánh thức:
- Đại uý đấy ạ? “Bruno” cần gặp đại uý tại sở chỉ huy.
- Mấy giờ rồi?
- Mười hai giờ đêm.
Tourret đứng dậy. Thật ra, ông không ngủ vì bị chiếc bóng đèn điện treo bằng một sợi
dây ngay trên đầu làm chói mắt. Bộ mặt hốc hác vì mỏi mệt của ông có những nét vàng võ của
ngà voi dùng lâu. Cũng như phần lớn đồng đội tiểu đoàn trưởng, Tourret ngủ rất ít. Nhưng, nếu
Botella chịu đựng được nhờ sức khỏe rắn chắc như bê tông, Guiraud nhờ sự chăm sóc của binh
lính lê dương thì Tourret chỉ có một mình để chống chọi lại bằng tinh thần và ý thức trách nhiệm.
Không phải vì niềm tin vào lối thoát của cuộc chiến đã làm ông như vậy. Mỗi người lính của ông
bị thương, mỗi người ính của ông bị chết ông đều cảm thấy như là nỗi đâu của mình. Nhưng
không phải như kiểu cách của Bigeard thường nhìn một cách buồn rầu như xót xa trước việc một
dụng cụ mà ông rèn đúc bị phá huỷ, khi có một người mà ông thương yêu như ruột thịt bị thương
vong. Tourret tượng trưng cho trách nhiệm được nhân cách hoá. Ông tự mình bắt buộc mình,
cưỡng bức mình, gò ép mình phải chăm sóc từng lính dù, tốt hơn nữa. Ông cho rằng người chỉ huy
không được ngủ khi những binh lính của mình, những sĩ quan của mình còn thức hoặc chiến đấu.
Trong khi đó, những cấp dưới luôn luôn không hề biết ý chí chứa đựng dưới vóc dáng gầy guộc và
bộ mặt hốc hác của ông chủ.
Tối hôm ấy, Bigeard tới làm việc tại một trong những hầm chỉ huy “phòng ngự” cách
hầm Langlais vài bước chân. Ông trải bản đồ và những sơ đồ tác chiến mà thư ký của ông là
Martial Chevalier vừa phác hoạ căn cứ vào những mệnh lệnh của cấp trên, lên một chiếc bàn thảm
hại làm bằng bốn cọc rào cắm xuống đất, trên đặt một tấm ván gỗ dán.
- De Castries vừa yêu cầi tôi mở một cuộc hành quân phá huỷ các khẩu cao xạ đang
quấy rầy máy bay.
Ông đặt một bàn tay lên bản đồ, che lấp một mảng màu vàng tượng trưng cho ruộng
nương ở phía Tây các cụm Huguette rồi nhìn chằm chằm vào các sĩ quan vây quanh đang chăm
chú nhìn nghe như các học trò. Có mặt Thomas là người ngày hôm kia vừa được cử thay ông chỉ
huy tiểu đoàn dù số 6; Tourret, chỉ huy tiểu đoàn dù xung kích số 8; Clémenson chỉ huy tiểu đoàn,
trung đoàn bộ binh lê dương số 2 và các cụm Huguette đang bị thương, ông cử phó tiểu đoàn
trưởng là Vieules đi họp thay; một sĩ quan có bộ mặt hình tam giác, cái nhìn trong sáng, nụ cười
cởi mở.
Dựa lưng vào thành hầm đối diện, tay cầm sổ ghi chép là chỉ huy các đơn vị “yểm trợ
hoả lực” có: thiếu tá Guerin sĩ quan liên lạc với không quân, có nhiệm vụ phối hợp hoả lực từ máy
bay; trung tá Vaillant vừa tới thay Piroth chỉ huy cụm pháo binh. Trung tá Valliant là một người
khác thường. Nhỏ bé, mảnh khảnh, giọng nói dịu hiền, cử chỉ ung dung từ tốn, giống như một
giáo sư trường đại học với cặp mắt thông minh, vầng trán trí thức hơn là một chiến binh tình
nguyện nắm trong tay một tình huống mà mọi người đều coi là tuyệt vọng, trong một cứ điểm bị
vây hãm.
Vaillant không lạ gì cái tổ ong vò vẽ mà ông tình nguyện chui đầu vào, một vị trí mà
không ai nghĩ đến chuyện tranh giành với ông. Ông không ngần ngại và ngày hôm kia, khi ông tới
nhậm chức dưới làn đạn pháo đã đem lại cho các lính pháo một nghị lực mới. Tươi cười, nhã
nhặn, chính xác, ông đã giải đáp các vấn đề, các thắc mắc, các lo toan của cấp dưới. Ông không
hứa hẹn điều gì về sự kỳ diệu sẽ tới, về vinh quang sẽ đạt được, và cả khôn ngoan, tức là sẽ đè bẹp
pháo Việt Minh. Ông chỉ giản đơn đảm bảo là các khẩu pháo sẽ phát huy mọi khả năng có thể.
Một dịp may chợt đến khi Vaillant vừa nhận chức chỉ huy cụm pháo binh ở Điện Biên
Phủ. Khẩu đội 155 của ông đã phá huỷ được ba khẩu 75 của địch bố trí cách phía đông Isabelle
vài kilômét, bằng những phát đạn bắn trúng đích.
Bertin Dubois khi biết tin này qua việc nghe lén những thông tin của pháo binh, đã
bình luận:
- Thật là thích thú!
Trước khi các tiểu đoàn trưởng bộ binh tới họp, Bigeard đã vắn tắt giải thích với
Guerin và Vaillant, điều gì ông đang mong đợi ở họ. Hai người vắng mặt vài phút để truyền đạt
các mệnh lệnh rồi sau đó lại trở về phòng họp để khẳng định với lính dù là tất cả sẽ diễn biến theo
kế hoạch đã ấn định.
Bigeard nói bằng một giọng nồng nhiệt mang lại sự hưởng ứng và neo trong trái tim
người nghe niềm tin chắc thắng:
- Đây là giải trình: có hai cụm pháo cao xạ Việt Minh cách đây ba kilômét về phía Tây,
bố trí trong hai làng bản: bản Ong Pet, xa nhất ở phía Nam giao cho Thomas và tiểu đoàn 6 tiến
đánh; Bản Pe, xa nhất ở phía Bắc là thuộc Tourret và tiểu đoàn 8 xử lý. Tiểu đoàn dù lê dương làm
lực lượng ứng cứu dự bị, bố trí phía sau lực lượng tiến công.
Thật là rõ ràng, chính xác. Không có những câu chuyện vô ích. Cả Tourret lẫn Thomas
đều không phải cúi nhìn bản đồ. Từ Bắc tới Nam, từ Đông sang Tây họ đều thật sự biết rõ mỗi
hàng rào, mỗi bờ đất, mỗi con đường mòn.
Bigeard bẻ đôi điều thuốc lá, nhét một nửa điều vào trong tẩu:
- Tôi muốn việc bố trí binh lực phải tiến hành hết sức bí mật. Đánh vỗ mặt các khẩu
trọng liên của địch, có nghĩa là phải tới gần mục tiêu mà không bị phát hiện với khoảng cách
nhiều nhất là 300 mét. Nếu trong khi chuyển vận mà gặp địch thì cứ để cho chúng đi. Phải làm
cho địch tưởng rằng đây chỉ là những đội tuần tra như thường lệ.
Tiến trình tiến công:
- Chậm nhất là 5 giờ 30 phút phải chiếm lĩnh xong vị trí xuất phát tiến công. 6 giờ pháo
bắn chuẩn bị. Mười lăm phút đầu nhằm vào nơi đặt pháo cao xạ. Mười lăm phút sau nhằm vào các
vị trí ở trước mặt tiểu đoàn 6 và tiểu đoàn 8 ở phía Tây. 6 giờ 30 phút các máy bay khu trục và
máy bay ném bom B-26 của không quân sẽ can thiệp để ngăn chặn quân cứu viện của địch.
Rồi ông quay về phía Vaillant, hỏi:
- Ông dành cho chúng tôi bao nhiêu khẩu yểm trợ?
Vaillant liếc nhanh cuốn sổ ghi chép:
- Mười hai pháo 105 và mười hai cối 120. Pháo và cối sẽ bắn từng loạt năm phút một,
khoảng cách giữa hai đợt là ba phút. Thời gian này để Việt Minh tưởng rằng chúng ta đã thôi bắn
và sẽ ra khỏi hào…
Guerin nói thêm:
- Về phía không quân, không có vấn đề gì. Nhưng mọi trường hợp đều phải chấp hành
đúng nguyên tắc: tất cả đều phụ thuộc vào thời tiết.
Bigeard rút tẩu thuốc ra khỏi miệng:
- Không được chậm trễ một giây. Nào, mời các ông bước vào cuộc chơi.
Ngồi trong hầm, trung uý Singland tính đi tính lại tới ba lần, từ lúc nửa đêm, tổng số
đạn cối 120 chất đống trong các hầm của trung đội dù. Chỉ có chưa đầy 1500 quả, tức là chỉ đảm
bảo được hai phần ba số yểm trợ đòi hỏi ngày mai.
Singland mới đến Điện Biên Phủ. Việc điều động ông vào lực lượng pháo nhẹ đổ bộ
đường không chỉ tiến hành trong vòng chưa đầy 24 giờ, sau khi Hà Nội nhận được tin trung uý
Turcy tử trận ngày 15 tháng 3 cùng với phó của mình trong hầm. Singland đã nói với ban tham
mưu của Sauvagnac, Tư lệnh các lực lượng đổ bộ đường không Bắc Đông Dương:
- Tôi biết sử dụng cối 120.
- Rất tốt. Ông sẽ nhảy dù ngay chiều nay, cùng với tiểu đoàn Bigeard.
Chính vì vậy mà Singland đã tới Điện Biên Phủ. Ông đã gặp các hạ sĩ quan và lính lê
dương đang hoang mang bối rối. Khi những người này nhìn thấy bóng dáng nặng nề của người chỉ
huy mới, họ có vẻ thiếu tin tưởng. Trong con người Singland, tất cả đều tròn lẳn; từ bộ mặt, giọng
nói đến cử chỉ. Ông không có một chút gì giống sự khô khan đặc biệt của các sĩ quan tiểu đoàn dù
lê dương là những người cứng rắn, tôi luyện, khắc khổ, căng thẳng. Còn Singland thì tươi cười,
nhã nhặn, người ta cho rằng ông thích sự thân tình.
Các hạ sĩ quan và lính lê dương trong đơn vị đã thử thách Singland. Nhưng, họ không
cần phải thử nghiệm một thời gian dài để thấy rằng, đây là một chỉ huy có trọng lượng, cả nghĩa
đen lẫn nghĩa bóng. Cùng với thời gian, họ đã nhận xét Singland đang thiết lập trong trung đội
một kiểu cách mới trong quan hệ; dựa trên cơ sở của tinh thần, của tính lạc quan và nụ cười.
Singland gọi Eckell, chỉ thị:
- Eckell, anh chuẩn bị cho tôi 1500 quả đạn trước 6 giờ sáng mai.
Eckell phụ trách tiếp tế. Đây là một chàng trai có tính phớt đời và hay càu nhàu, không
bao giờ nhận nhiệm vụ mà không kêu ca:
- Có lẽ, tốt hơn là gửi thông điệp xin Việt Minh…
Singland nhún vai. Ông nhẫn nại chờ. Ông biết, binh nhất Eckell sẽ tìm được 1500 quả
đạn cối vào đúng giờ đã ấn định. Eckell làu bàu bước ra khỏi hầm. Đi theo sau là Trọng, một nông
dân có tuổi ở vùng châu thổ sông Hông, nhuộm răng đen bị bắt trong một trận càn quét, trở thành
dân phu, một tù binh tạm thời và không chính thức.
- Báo cáo trung uý! Đã đến giờ rồi.
Singland nhỏm dậy. Ông có cảm giác mới chợp mắt được một giây. Thế mà đã 3 giờ
sáng rồi. Ông càu nhàu, vươn vai, nắm lấy tay người lính cần vụ Flohr đón cốc cà phê sữa nóng.
- Cậu đã có tin tức gì của Eckell chưa?
Có tiếng người lính lê dương nói:
- Có! Đã kiếm được 2400 quả đạn cho các khẩu cối.
- Rất tốt.
Eckell trả lời với một vẻ khiêm tốn:
- Ồ! Tôi có làm được gì đâu. Đó là công của thượng sĩ Robert, chỉ huy trung đội phòng
vệ của Langlais, chính ông ta mới là người làm được phần lớn công việc này. Ông đã dùng một
chiếc xe tải chạy khắp Điện Biên Phủ để thu gom mang về số hàng này.

Những khẩu súng cao xạ


28 tháng 3 năm 1954
Bốn giờ sáng, trời tối đen. Tất cả đều lặng lẽ. Không một tiếng động. Không một tiếng
súng. Không một tiếng pháo. Đây là thời khắc nghỉ ngơi tuyệt đối trên toàn bộ cánh đồng, một sự
im ắng trước lúc bình minh của ngày chủ nhật. Các sĩ quan tranh thủ thời gian vài phút tới dự lễ
cầu kinh của linh mục Heinrich dành cho những người sắp ra trận. Họ lẩm nhẩm cầu kinh
“Loetatus sum in his, quoe dicta sunt mihi: in domum Domini ibimus…” có nghĩa là “Tôi rất vui
khi được nghe những lời ca: chúng ta cùng đi vào nhà Chúa”.
Đức cha Heinrich cầu xin phù hộ cho những người, có lẽ tối nay đi gặp đức Chúa Trời.
Điện Biên Phủ lặng im, nhưng từ khắp mọi nơi đang có những đoàn quân người dài,
đội mũ sắt, đi về phương Bắc như hàng ngàn nhánh của con sông. Dẫn đầu là tiểu đoàn dù thuộc
địa số 6 xuất phát từ Éliane 4 ở bờ trái sông Nậm Rốm. Rồi đến tiểu đoàn dù xung kích số 8 tập
trung tại điểm tựa trung tâm ngay bên cạnh hầm chỉ huy của De Castries cạnh một cây to bị chặt
hết cành, nom như một người lính canh đã chết đứng.
Cuối cùng là các đại đội lính dù lê dương do Guiraud chỉ huy xuất phát từ Claudine ở
phía Tây và Junon ở phía Đông Nam.
Có một lúc, tại đường ngoặt chữ tri trước lối vào đường băng sân bay, cuộc hành quân
đã vấp phải một chốt ngăn chặn ngay trên đường cái đi Lai Châu. Bộ phận dẫn đường của thiếu tá
Clémenson thuộc tiểu đoàn dù lê dương số 2 đã nhanh chóng giải quyết. Những người lính dù lê
dương biết rõ từng ngọn cỏ trong khu vực quen thuộc của họ và đã dẫn các tiểu đoàn tới được các
vị trí xuất phát mà không phải nổ súng.
Mới đầu, tiểu đoàn dù xung kích số 8 đi dọc theo đường Pavie, anh lính lê dương dẫn
đường đi đến một con sông tới Bản Cang Nha, một làng cũ của người Thái mà binh lính đã phá
những cột gỗ, khung gỗ của các nhà sàn để xây dựng cứ điểm Huguette 7 ở cách đó gần hai
kilômét về phía Bắc.
Về phần mình, tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 mới đầu đi về phía điểm tựa Françoise 6 vừa
đóng giữ. Sau đó được anh lính lê dương Kellner dẫn đường, hai đại đội đi đầu do trung uý Le
Page và trung uý Le Boudec chỉ huy, luồn vào một thung lũng rậm rạp, lầy lội, có con suối nhỏ
chảy qua. Mọi người tiến bước rất nhẹ, ngay cả tiếng điện đài quen thuộc cũng không nghe rõ,
Bigeard đã ra lệnh phải giữ tuyệt đối im lặng. Giờ khai hoả là 5 giờ 30 phút, cũng là lúc phải hoàn
thành chiếm lĩnh vị trí xuất phát tiến công.
Đại uý Thomas đi ở khúc giữa các đại đội. Đây là lần đầu tiên, ông chịu trách nhiệm cá
nhân về tiểu đoàn dù số 6, còn Bigeard là tiểu đoàn trưởng thì buộc phải trao tiểu đoàn này cho
Thomas chỉ huy để nắm quyền điều khiển toàn bộ cuộc hành quân. Những người khác có thể e
ngại hoặc mặc cảm vì là người theo đuôi Bigeard. Nhưng Thomas thì không thế. Là người mới
đến tiểu đoàn, nhưng Thomas đã đến trong khung cảnh rầm rộ. Trước khi nhảy xuống Điện Biên
Phủ, 6 giờ tối hôm trước ông còn đánh cược đi chơi tối ở phố Paul Bert (Nay là phố Tràng Tiền)
trục lộ chính của Hà Nội, mà là cởi truồng đi dạo.
Ông đã giữ lời hứa, cứ đi không quần không áo trước cặp mắt bực bội của đám chức
sắc quan liêu đang ngồi ăn uống trên vỉa hè nàh hàng Taverne Royale sau khi kết thúc một ngày
làm việc. Một chiếc xe Jeep bất ngờ xuất hiện trước ngã tư do trung uý Datin cầm lái. Cuối cùng,
trung uý đã thuyết phục được đại uý Thomas lên xe giữa lúc hành động này của Thomas đang gây
ra một “xì căng đan”, một sự xôn xao bàn tán lớn. Đại uý Thomas đã lập tức chinh phục được các
trung uý trẻ tuổi và ông trở thành người dẫn đầu.
Sáng nay, ông dẫn đầu họ đi chiến đấu. Ông tin ở họ. Số đông bọn họ có khả năng tác
chiến không cần đến chỉ huy, họ thông thạo địa hình, hiểu rõ hảo lực và hoàn toàn có thể lập được
chiến công. Thêm một chiến công nữa.
Trung uý Singland nhìn đồng hồ. 5 giờ 30 phút.
- Donovan, bật đài!
Donovan, anh chàng người xứ Ireland này vừa mới được cử làm tổ trưởng thông tin
liên lạc cơ quan chỉ huy với cấp bậc hạ sĩ, từ từ vặn các núm đài C9 và theo dõi kim chỉ trên màn
hình. Bộ mặt dài ngoằng của hạ sĩ vừa mọc thêm một bộ ria mép, cặp mắt soi mói và nụ cười
châm biếm luôn xuất hiện ở rìa môi bằng những cái nhếch mép. Donovan báo cáo đơn giản:
- Đã liên lạc với các tiểu đoàn.
Nhưng không thu được tín hiệu gì. Điện đài vẫn im lặng.
- Có chắc không?
- Chắc. Nhưng có lẽ mở máy sớm quá.
Đúng thật. Vừa nói xong thì có tín hiệu. Rồi vang lên tiếng nói dễ nhận của Bigeard,
thường kéo dài những từ ngữ cuối:
- Bruno đây. Bắt liên lạc. Nếu đã bố trí xong lần lượt trả lời. Pierrot đâu?
Một giây im lặng. Rồi có hai tín hiệu rẩt rõ. Tourret báo cáo đã tới vị trí xuất phát tiến
công mà không bị phát hiện. Bigeard lại hỏi:
- Thomas đâu?
Thomas báo cáo đã sẵn sàng, tiếp theo là Guiraud, lấy bí danh là Maurice. Cuối cùng
Clémenson cho biết đơn vị của ông cũng đã yên vị ở khoảng giữa Huguette 1 và Huguette 4.
Vẫn còn 30 phút nữa mới đến giờ tiến công. Qua kênh điện thoại nội bộ, trung uý
Singland phát lệnh báo động cho tám khẩu cối. Lính pháo đã vào vị trí, nòng súng hướng về phía
tây bắc, các quả đạn đã lắp kíp, sẵn sàng.
Phía đông, mặt trời mọc đang nhuộm màu hông. Hôm nay sẽ đẹp trời.
- Mấy giờ rồi?
- Báo cáo chuẩn uý, 6 giờ kém một phút.
Chuẩn uý Herraud kiểm tra một lần nữa trung đội của mình đang dàn hàng. Những lính
dù nhìn anh, nháy mắt biểu lộ sự lạc quan. Từ ngày 16 tháng 3 là lúc nhảy xuống Điện Biên Phủ,
đây là lần đầu tiên ông trời tỏ ra độ lượng, đáng yêu. Ánh mặt trời nhuộm màu vàng chói các đỉnh
núi phía Đông. Nhiều người lính nằm sát đất, mũi chúi vào đám cỏ dại có điểm những bông hoa
màu trắng. Họ có cảm giác kỳ lạ như dân thành thị đi dạo trong thiên nhiên. Từ hai tuần nay, họ
không ngừng sống, ngủ, và chiến đấu trong đám bùn nhầy nhụa đọng tại các hố hào ở cứ điểm
Éliane 4. Đến bây giờ, họ đột nhiên phát hiện có cuộc sống đang hiển hiện, trái đất không phải chỉ
là một chất trơ lỳ, lạnh lẽo, dính nhớp và im lặng như chết. Trái đất vẫn có khả năng điểm trang,
hiền dịu, êm ái…
- Chú ý! - Herraud thốt lên đồng thời sửa lại mũ sắt úp trên trán.
Đợt im ắng đã kết thúc. Nó đã bị phá tan bởi những tiếng pháo đầu nòng được phát ra
từ khoảng cách vài trăm mét ở phía Đông. Đúng 6 giờ sáng, những cánh tay của ba mươi sáu khẩu
đội trưởng cùng đồng loạt kéo cần cơ bẩm. Ba mươi sáu quả đạn thuộc đủ mọi cỡ xé không khí
xoáy tít lên cao rồi rơi xuống đất.
Lính dù trung đôi Herraud rụt cổ xuống. Lính trong trung đội Le Vigouroux bên cạnh
cũng bắt chước. Các đồng đội của họ thuộc đại đội 3 và cả những quân bạn thuộc tiểu đoàn 8 xung
kích cách đó một kilômét về phía Bắc cũng làm như vậy. Tất cả mọi người đều chờ đợi đạn rơi
như giã giò vào các vị trí địch, chưa ai dám thò mũi lên.
Các quả đạn pháo bay qua chỗ lính dù, chuyển những tiếng rít thành những tiếng hú ào
ào rồi phát nổ cách đó 300 mét về phía trước. Đối với những người đang nằm dài ẩn nấp bên bờ
ruộng, bờ suối, trên bãi cát ẩm ướt, trước khi nghe thấy đạn pháo nổ là cả một sự rung chuyển làm
đất dưới khuỷu tay và đầu gối chấn động như có đoàn xe lửa ngầm đang chạy. Một sự chấn động
trào ngược lên đến tận bụng đang áp sát mặt đất.
Vòm trời lại tràn ngập những tiếng động của đợt pháo cối thứ hai, trong khi những
luồng khói đen kèm theo bụi đất đang bốc thẳng lên cao ở những nơi đã bị bắn, những cây to bao
phủ một màu đen sạm của tro than.
Cảnh thanh bình mà trước đó ít lâu những binh lính của các trung đội dù được hưởng
thì nay bị cơn bão đạn tàn phá xé tan, quét sạch. Ngay tại chỗ họ đang bố trí cũng có những bụi
đất và mảnh gỗ rơi xuống. Họ đưa mắt nhìn nhau, mọi nỗi lo sợ đều đã tan biến. Dĩ nhiên trước
đó, họ đã từng hoang mang, khó thở và nóng ruột. Sự chờ đợi bao giờ cũng là lúc găng nhất. Bây
giờ, khi đã bước vào hành động, họ trở thành những khán giả say sưa, đôi khi quá căng thẳng.
Những cảnh họ nhìn thấy vừa khủng khiếp lại vừa kích thích, và nếu họ đã từng nghe nói đến tình
trạng “say thuốc súng” thì giờ đây đúng là họ đột nhiên lên cơn say gấp mười, gấp trăm lần. Tiếng
nổ của đạn pháo làm mọi người gần như phát điên, hơn cả say rượu. Những đạn pháo, đạn cối rơi
như mưa, có thể gọi tiếng rít thường xuyên của sắt thép này là trận mưa đạn ập xuống mặt đất.
Tuy nhiên, họ cũng biết đạn pháo chỉ có hiệu quả tương đối với những người ở dưới
hầm sâu. Mặc dù địch phải chịu đựng tất cả, nhưng không giảm sức chiến đấu. Mối quan tâm thật
sự, duy nhất của những lính dù hiện nay, tóm gọn trong câu trao đổi với nhau:
- Miễn là ta đến kịp thời.
Kịp thời, nghĩa là chộp được những khẩu súng phòng không của Việt Minh trước khi
kịp hạ thấp nòng để bắn thẳng vào đám lính dù đang xông tới. Kịp thời, nghĩa là trước khi địch có
thể tới cứu viện cho lính cao xạ đang bị lính dù tiến công. Kịp thời để phá huỷ các ụ súng và hầm
hào của địch trước khi trời tối.
Trận bắn pháo vẫn tiếp tục, chỉ hơi chuyển làn về phía Đông một chút, khiến cho mục
tiêu tạm thời bị khói và bụi che khuất.
6 giờ 30 phút:
- Pierrot đâu? Thomas đâu? Bruno gọi đây. Đến lượt các anh, tất cả mọi đơn vị, chơi
đi!
Tiếng nói của Bigeard “Bruno” làm rung chuyển tất cả loa phóng thanh của các trung
đội. Mặc dù tiếng nổ của đạn pháo đang bao trùm tất cả các trung đội mũi nhọn, tiếng nói của
Bigeard vẫn vang lên, điềm tĩnh, cổ vũ. Từng trung đội một lần lượt vận động ra khoảng trống,
ngoài các bờ bụi, hố rãnh, cúi khom lưng, vượt từ hàng rào này qua hàng rào khác. Những trinh
sát viên vọt lên đầu hàng quân, súng sẵn sàng, cầm ngang người, theo bàn tay chỉ đường của tiểu
đội trưởng tiến lên phía trước hoặc dừng lại khi bị lẻ loi, cách xa phía sau. Dường như có một thứ
máy móc cơ khí được bôi trơn bằng dầu đang đẩy tấm thảm chiến binh lên phía trước.
Trước mắt họ là một bờ đất kéo dài có những cây hoang dại, nhiều chỗ cao tới hai mét,
cùng những hàng rào cây nhỏ hoặc hàng rào tre quấn mây, song, rất dày và chắc. Ngay phía sau
những lớp rào này là một làng cũ hoang tàn mang tên bản Ong Pet. Trên thực tế, các khẩu súng
cao xạ địch không chỉ tập trung ở giữa hai làng nhỏ đã được ấn định là mục tiêu đánh chiếm của
lính dù, mà còn triển khai tại nhiều xóm nhỏ mà trên bản đồ chỉ có thể đánh dấu bằng một điểm.
Đó là các bản nhỏ mang tên Bản Hom Lếch, Bản Nọng Hin. 120 lính dù phải dàn ra trên một trận
tuyến dài gần 2 kilômét.
Từng phút một, các đại đội trưởng báo cáo tình hình với Bigeard bằng những câu ngắn
gọn để tránh làm nhiễu các điện đài. Le Page nói:
- Đã nhìn thấy mục tiêu. Đơn vị đầu đã tới rìa phía Tây Nam bản Ong Pet, đang tiếp
cận địch một cách khó khăn.
Bigeard liếc nhìn trời. Máy bay không tới như đã hẹn. Một bức điện gửi từ Cát Bi là
nơi xuất phát của không quân, cho biết sân bay bị sương mù dày đặc không cất cánh được. Phải
hơn một giờ nữa máy bay mới tới.
Sự cố này không cản trở cuộc hành quân. Lính dù xông lên. Không thể ngăn họ được,
ngay cả những khó khăn đang trở thành hiện thực. Đúng như đã phán đoán trước, Việt Minh
không đợi lâu mới phản ứng. Các pháo thủ địch không nhìn trời nữa mà chĩa thẳng nòng súng về
hướng Đông, nơi lính dù đang vượt qua lớp khói đạn xông tới. Đó là trung đội Herraud. Đi đầu là
tiểu đội của trung sĩ Rinasson. Tiểu đội này nhảy ào vào một chiến hào gần nhất. Bộ đội Việt
Minh dưới hào hoàn toàn bị bất ngờ. Nhưng trọng liên địch đã nổ súng bắn tới. Bộ phận còn lại
của trung đội tiếp tục xông lên, vượt qua tiểu đội Rinasson đã bị thương vong một số. Tiểu liên nổ
ran. Lựu đạn ném tới tấp.
Ở phía trái, trung uý Le Vigouroux đã bám chân được vào những hầm hàm ếch đầu tiên
của địch. Những lính trinh sát ném lựu đạn chiến đấu rất tốt, đặc biệt là Berthumyrie, một người
dân xứ Basque miền Nam nước Pháp. Le Vigouroux báo cáo qua điện đài:
- Đã tới được mục tiêu.
Ông hài lòng và cũng tự hào về những binh lính của mình. Ông vừa mới chứng minh
một cách rạng rỡ là, trong cuộc chiến đấu giáp lá cà chỉ độc lực có con người và người lính, lính
dù có thể chơi lại địch đông tới gấp năm lần.
Chợt có một tiếng súng nổ. Chỉ một tiếng thôi. Một tiếng súng không nghĩa lý gì trong
hàng loạt tiếng nổ chung quanh. Tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt này, đây lại là một phát đạn
oan nghiệt vì Le Vigouroux đã ngã vật xuống đất. Ông đã bị một viên đạn giữa trán, trong khi trên
môi đang còn nụ cười đắc thắng.
Đã tới mục tiêu. Nhưng trong lúc này lính dù lại phải đối phó với quân Việt Minh đang
trấn tĩnh lại, đang tập hợp lại, và đang đe doạ chia cắt đơn vị lính dù tiến quá sâu, cắt đứt họ với
phía sau. Phần tế nhị nhất của cuộc hành quân bắt đầu từ đây.
Việt Minh đã nhận thức đúng. Họ tận dụng những chỗ được che phủ để tiến đánh phía
sau lính dù. Le Page nhanh chóng phát hiện được điều đó, vội yêu cầu đại uý Thomas cho viện
binh tới, trong khi trung uý Allaire chỉ huy tất cả lực lượng cối 81 của các đơn vị tham chiến bắn
mạnh vào các đường tiến của địch.
Đến lượt đại đội 4 thuộc tiểu đoàn 6 tiến lên phía trước. Dẫn đầu là trung uý De Wilde,
một Francis “quý tộc” như mọi người thường gọi. Một bộ mặt tròn đáng yêu, một cặp mắt trong
trắng ngây thơ của chàng trai mới lớn, một giọng nói dịu dàng; người em út trong số đại đội
trưởng của tiểu đoàn Bigeard. Anh nắm trong tay 100 lính dù trẻ tuổi người xứ Bắc Kỳ vừa mới
tốt nghiệp trường huấn luyện nhảy dù cấp cơ sở chỉ vài tuần, một khoá đào tạo lính dù có khả
năng chiến đấu được ngay.
De Wilde đi cùng với ban chỉ huy đại đội, theo sau là bốn trung đội trực thuộc. Anh
cũng là người đầu tiên đến vị trí ngang với đại đội Le Page, được nghe Le Page giải thích:
- Cậu xem đấy! Phải chặn ngay cái chiến hào phía tay phải chúng mình. Đó chính là
nơi Việt Minh thâm nhập.
De Wilde đồng ý. Anh dùng cùi tay nhô người lên, giơ tay phải ra hiệu cho các trung
đội tiến. Chợt anh nhăn mạt, rụt tay lại. Một viên đạn trọng liên 13,2 đã xé nát bàn tay vừa giơ
cao.
Đại đội phó Jacobs nói:
- Tội nghiệp cho Francis. Tớ vẫn mong được thay cậu chỉ huy đại đội. Nhưng không
phải trong tình huống nỳa.
Jacobs cố tình pha trò. Đó là món quà duy nhất anh có thể trao tặng đại đội trưởng.
Đại đội 4 đã chiếm lĩnh vị trí. Những người bị thương đã được di tản. Bây giờ Le Page
có thể tiến hành phản kích. Mục đích là hất Việt Minh ra khỏi các vị trí của họ để có thể rút quân
về trong những điều kiện tốt nhất.
Cách đó 100 mét là đại đội 2 của Trapp. Tourret cùng với tiểu đoàn 6 cũng đã tới mục
tiêu cần phá huỷ, các hầm hố, súng phòng không và tiêu diệt các trung đội bảo vệ cao xạ của Việt
Minh. Trapp hỏi:
- Mấy giờ rồi?
- Mười một giờ.
- Đã đến buổi trưa rồi à?
Các lính dù đã chiến đấu năm tiếng đồng hồ. Đến lúc này, họ nghĩ rằng đã hoàn thành
nhiệm vụ, khoá mõm được các khẩu cao xạ Việt Minh ở phía Tây cánh đồng Mường Thanh.
Nhưng, có một điều gì đó rất khó hiểu. Đột nhiên, một sự im lặng bao trùm chiến
trường. Không thấy Việt Minh phản ứng. Lính dù chỉ thấy trước mặt là những chiến hào chống
rỗng, những hầm hố bỏ không. Đó là một cảnh tượng rất lạ lùng, rất khác thường, tới mức lính dù
không thể nào ngờ rằng chỉ cách đây ít phút đã xảy ra trận giao chiến giáp lá cà, nay là một sự im
lặng hoàn toàn. Jacobs nói đùa:
- Có lẽ, một thiên thần đang bay qua.
Một thiên thần ư? Có lẽ. Trong khoảng thời gian chứng 10 phút, không có gì xảy ra.
Lính dù đang di chuyển cũng không muốn phá vỡ đợt hoà bình mong manh đột ngột xuất hiện
giữa cơn thịnh nộ không lường. Một cái gì đó vượt lên cả sự kinh hoàng, sự mệt mỏi. Một sự im
ắng đến bất chợt, rất tình cờ.
Thiên thần đã ra đi. Bây giờ, từ các trận tuyến địch, sấm sét của đạn cối lại ập xuống
những lính dù đang ngồi trong chiến hào, rồi tan biến trong làn khói, trong bụi đất do hàng ngàn
quả đạn, hàng vạn mảnh nổ bốc tung.
Chính Jacobs với số lính còn lại của đại đội bị thiệt hại nặng nhất. Jacobs bị chết ngay
từ loạt đạn đầu tiên khi giáp mặt với Việt Minh. Kẻ địch đang tới lúc bị nuốt chửng đã lập tức
giáng cho đại đội Le Page đòn tiêu diệt.
Le Page lập tức kêu cứu viện. Thomas trả lời;
- Được, tôi sẽ cử đại đội Le Boudec tới ngay.
Le Boudec dẫn quân vượt qua bãi trống nhảy từ hố này sang hố khác dưới làn đạn súng
cối khủng khiếp bắn chặn của địch. Ông buộc phải tiến từ từ vì còn phải giảm bớt những ổ chống
cự vừa tầm. Bộ đội Việt Minh đã tràn ngập các nhóm nhỏ của đại đội 4 bị tan tác, xé lẻ không có
người chỉ huy, như nước dâng dâng lên các đảo nhỏ.
Cuối cùng, sự huyền diệu đã tới. Những chiếc xe tăng Chaffee, do trung uý Préaud từ
phía Nam đang đến. Đơn vị xe tăng đóng tại Isabelle đã nhận lệnh báo động ngay từ khi bắt đầu
cuộc chiến. Lính xe tăng lập tức rời điểm tựa, tiến xuống cánh đồng, nòng pháo hướng về phía
trước. Họ phải vượt qua 6 kilômét đường trống trải, không có gì yểm trợ, hệt như lính kỵ binh thời
xưa. Ba xe tăng phóng thật nhanh, vượt lên các bờ ruộng, húc đổ các hàng rào cây xanh, lao qua
các hố, hào, thọc qua một tiểu đoàn địch bố trí ngăn chặn ở nửa đường, nhằm cô lập Isabelle với
khu Trung tâm Điện Biên Phủ.
Ba xe tăng Chaffee dưới sự chỉ huy của Préaud đã làm được như vậy. Dẫn đầu là chiếc
Ratisbonne, đi chênh chếch hai bên sườn là chiếc Neumach và chiếc Auerstaedt. Tất cả ba chiếc
đều bắn bằng tất cả các trọng liên trên xe, gây thiệt hại cho các ụ súng địch đang muốn cản đường.
Họ đã tới kịp để cứu đại đội 4 thuộc tiểu đoàn Bigeard.
Le Page đã hiểu. Ông lợi dụng lúc Việt Minh đang chểnh mảng để tiến lên nhặt xác của
trung uý Jacobs.

Dominique
Từ 23 đến 30 tháng 3 năm 1954
- Trung uý đâu?
Tiếng nói thều thào. Chuẩn uý Canton chống khuỷu tay nhỏm dậy nhìn vào trung sĩ
Ducloux là người vừa gọi. Ducloux chỉ tay vào máy điện thoại PRC.10. Trong ánh sáng mờ nhạt
của buổi bình minh, cỗ máy hiện ra lờ mờ. Canton lăn người tới một mô đất, cầm lấy ống nghe.
Có tiếng Gaven;
- Canton đấy à? Có thể rút tổ báo động.
- Canton nghe đây. Rõ!
Từ ngày 15 tháng 3, đêm nào cũng có một trung đội tiểu đoàn dù lính Bảo an số 5 luân
phiên làm nhiệm vụ cảnh giới trên núi Hói, là một trong hai mỏm đất trọc nằm chếch 130° về phía
đỉnh Éliane 2. Do thiếu quân nên không thể chiếm đóng thường xuyên mỏm núi này, vì thế các
tiểu đoàn ở Điện Biên Phủ đành phải theo nhau điều động một bộ phận nhẹ, cứ bắt đầu chập tối là
lên gác ở đây để dò xét hoạt động của địch, đến rạng sáng mới rút.
Nếu một ngày nào đó, Việt Minh quyết định tiến công Éliane 2 thì việc đầu tiên là địch
phải chiếm quả núi trọc mà Pháp đặt tên là núi Hói (mont Chauve) và mỏm đất thứ hai như cái
bướu của con lạc đà, gọi là núi Giả (mont Fictif). Chính Bigeard đã chọn cái tên này để đặt cho
điểm tựa giả đặt trên đỉnh núi.
Canton bí mật truyền lệnh rút lui cho Nghiêm, một hạ sĩ quan người Việt, tổ trưởng tổ
trinh sát. Nghiêm có khuôn mặt vuông, nhiều nếp nhăn, không bao giờ cười. Canton nói nhỏ:
- Dẫn toàn tổ rút lui. Dặn tụi lính đừng để lộ…
Nghiêm gật đầu rồi đi về vị trí cũ. Đây là một vị trí vừa mới thiết lập đêm hôm trước,
như một cái bao lơn khống chế khe núi rậm rạp mà đêm nào Việt Minh cũng đào chiếm hào tiếp
cận. Thỉnh thoảng lính Bảo an lại ném lựu đạn xuống đó.
Ba phút sau, Nghiêm lặng lẽ quay trở lại. Canton giật nẩy mình vì không nghe thấy
tiếng bước chân;
- Báo cáo sếp, toàn tổ đã rút.
Canton nhấc ống nói:
- Tổ báo động đã rút. Tôi cũng rút đây!
Canton là người rút sau cùng. Trước mặt ông là trung sĩ Ducloux đang bò xa dần, bộ
máy điện đàm đeo ngang vai. Canton chậm chạp đứng dậy. Ông muốn kiểm tra bằng mắt lần cuối
cùng, xem binh lính của mình có để quên vật gì trên trận địa không.
Trung sĩ không nghe thấy tiếng súng nổ. Có thể là một viên đạn lạc chăng? Trung sĩ chỉ
cảm giác như nghe chuẩn uý thốt ra một tiếng thở dài. Lúc quay lại thì thấy chuẩn uý Canton đã
nằm vật xuống, một viên đạn găm giữa trán.
Ducloux, sau khi báo cáo với trung uý Gaven, đã đi tới quyết định:
- Tôi đưa xác ông ấy về.
Chuẩn uý Guy Canton được chôn ở chân cao điểm Éliane 4, nơi đóng quân của tiểu
đoàn lính dù Bảo an số 5. Toàn trung đội dưới sự chỉ huy của Canton đứng dàn hai bên huyệt,
bồng súng chào. Một lễ tang đặc biệt trong chiến tranh. Lúc này, pháo Việt Minh cũng đang ngừng
bắn. Botella chỉ huy đám lính dù Bảo an có mặt cùng với các sĩ quan đơn vị. Nhiều trung uý thuộc
tiểu đoàn 6 của Bigeard là nơi Canton đã từng phục vụ nhiều tháng cũng tới dự.
Tất cả đều trang nghiêm, thầm lặng, nhận thức rõ trách nhiệm vĩnh biệt một đồng đội,
cũng là tưởng niệm tất cả những người đã chết, chôn lấp vội vã dưới chiến hào hoặc chôn chung
trong một hố do xe ủi đất đào vội.
Datin nhận xét:
- Canton đã đi một chặng đường dài trước khi tới chết ở đây.
Thật vậy. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Canton đã bị phát xít Đức bắt đi đày biệt
xứ lúc mới 17 tuổi. Thật là kỳ lạ, ông bị giam trong trại tập trung Buchenwald nhưng vẫn sống và
trở về được sau ngày chiến thắng, từ đó ai cũng nghĩ không gì có thể làm gục ngã một con người
như thế.
Allaire nhớ lại:
- Ngài bộ trưởng cũng rất chú ý tới Canton.
Đúng là khi ngài De Chevigné tới gắn huân chương cho tiểu đoàn Bigeard sau chiến
thắng Tú Lệ, ông cũng muốn tặng thưởng Canton một Huân chương nhà binh. Nhưng Canton đã
có rồi. Một điều mỉa mai nữa là, Canton là chuẩn uý ngạch thường trực, nhưng do giấy tờ quan
liêu, đã không được phong cấp hàm thiếu uý.
Gaven nói:
- Đây là trung đội trưởng xuất sắc nhất của tôi.
Botella gật đầu hưởng ứng, không trả lời. Canton là sĩ quan thứ hai của Botella tử trận.
Chỉ cách đây vài giờ trước khi tới đây dự đám ma Canton, ông đã được tin trung uý Rondeaux bị
thương tại Huguette 7, vừa mới chết tại trạm xá phẫu thuật.
Langlais khi tới gặp Botella tại Éliane 4 đã nói;
- Tôi biết tiểu đoàn của anh vừa mới trải qua một thử thách. Nhưng tôi vẫn đề nghị anh
có thêm một nỗ lực nữa.
Hai người cùng ngồi sát bên nhau trong hầm đào ở dưới sườn điểm tựa. Đó là một thứ
hang chuột, chui vào trong đó phải ngồi trên những hòm đạn chứ không đứng thẳng được. Thiếu
tá Botella nhìn trung tá Langlais. Trên gương mặt ông có nhiều nếp nhăn kéo dài, dưới làn da
mỏng như giấy nhô lên những mố xương, giống như một cái đầu lâu tạc vào gỗ cây ô-liu.
Botella mở nắp chai rượu cuối cùng, mời Langlais nhấp một ngụm. Langlais uống rồi
nói:
- Tôi vừa mới đi kiểm tra các công trình phòng ngự.
Ông nhăn mặt, nói tiếp:
- Không ra sao cả…
Cũng như De Castries và toàn ban tham mưu binh đoàn tác chiến Tây Bắc. Langlais là
nạn nhân của sự ưa chuộng những nhãn hiệu. Cho tới lúc này, ông vẫn nghĩ rằng những mẩu cờ
nhỏ xíu găm trên bản đồ ở điểm tựa, tượng trưng cho các đơn vị đầy đủ đang chôn sâu dưới những
chiến hào, nhất là đang bị vây chặt.
Trước việc Việt Minh sắp tiến công đến các cứ điểm phía Đông, một trực giác đột ngột
đã thúc đẩy ông làm một việc mà trước đó chưa ai làm. Ông đã tới thị sát tại chỗ, và những gì tận
mắt nhìn thấy đã khiến ông hoàn toàn lo sợ.
Botella chăm chú nhìn Langlais. Rõ ràng, Langlais chưa hết bàng hoàng. Ông cần phải
nói ra. Đây không phải là chuyện bộc lộ với cấp dưới mà là với một sĩ quan dù như ông:
- Tôi được báo cáo, tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn 3 lính thuộc địa Algerie đóng giữa
Dominique, tiểu đoàn 1 trung đoàn 4 lính Marroc đóng giữ Éliane. Tôi đã tới đó. Thật là điên rồ!
Không bao giờ bọn lính này có thể chống chọi nghiêm chỉnh được với Việt Minh. Tôi đã yêu cầu
Guiraud cho một đại đọi lính dù lê dương tới Éliane 2 trợ lực cho lính Marốc. Bây giờ, tôi yêu cầu
anh cho một đại đội tới Dominique 1 thay bọn lính Algerie. Những đơn vị lính dù này phải có mặt
tại vị trí lúc trước 6 giờ.
- Rõ! Tôi sẽ chỉ thị cho Martinais. Chỉ có đại đội 4 của Martinas là có quân số đầy đủ.
Hơn nữa, đại đội này biết rõ trận địa. Họ vừa mới đóng tại Dominique 6, cái nút cổ chai trên
đường 41, cho tới sáng nay.
Langlais đã trở lại bình tĩnh.
- Cũng là lính thuộc địa cả thôi!
- Thưa trung tá, tôi biết rõ chúng. Tôi đã từng tham dự chiến dịch ở Bỉ với các đơn vị
lính thuộc địa. Chừng nào bọn chúng có đủ số sĩ quan chỉ huy (Theo quy định có tính nguyên tắc,
chỉ huy các đơn vị lính thuộc địa từ trung đội trưởng trở lên, đều là sĩ quan Pháp hoặc quốc tịch
Pháp) và các chỉ huy đều có mặt bên cạnh thì chúng là những người lính xuất sắc. Bọn chúng có
một triết lý rất đơn giản: thánh Allah bao giờ cũng đi với người chiến thắng. Vì vậy khi người chỉ
huy tử trận thì chúng cho rằng thánh Allah đã đi với đối phương. Vậy thì chống lại thánh Allah
làm gì?
Langlais thở dài rồi gượng một nụ cười nhăn nhúm:
- Tôi nghĩ, tôi đã quát mắng chúng quá lời…
Tại Dominique 2, trung sĩ Pierre Antonin có vẻ khó chịu. Một sự khó chịu ít thấy đối
với một thượng sĩ của tiểu đoàn. Thông thường, vị trí này vẫn do một hạ sĩ thâm niên về tuổi đời
cũng như về cấp bậc đảm nhiệm. Nhưng với trung sĩ Antonin mới 20 tuổi đã phải gánh vác nhiệm
vụ một thượng sĩ chỉ vì không còn ai hơn.
Tiểu đoàn 3 trung đoàn 3 lính bộ binh Algerie là một đơn vị nghèo, đã lê gót giày trên
lãnh thổ Đông Dương từ ba năm nay. Binh lính đều mỏi mệt, bệnh tật, nhớ quê hương. Hơn nữa,
trong suốt ba năm ở Đông Dương, họ thật sự không có được bốn ngày nghỉ, trước khi mở cuộc
hành quân Mouette và Castor. Những người chỉ huy đều thiếu hụt, tán loạn, một nửa số chỉ huy
phải nằm bệnh viện vì sốt rét, kiết lỵ hoặc vì những vết thương. Ở Điện Biên Phủ thật sự chỉ còn
một chục sĩ quan, kể cả trung uý bác sĩ Fayolle và khoảng chưa đầt hai chục hạ sĩ quan là thật sự
khỏe mạnh. Còn thượng sĩ cuối cùng thì hiện đang ở Hà Nội, ở hậu phương…
Chính vì vậy mà Antonin đã được nâng lên cấp thượng sĩ. Cũng do đó Antonin đã phản
ứng trước sự quát mắng của trung tá Langlais lúc nãy.
Thật ra Langlais chỉ quát mắng một người có cấp bậc mà ông gặp khi đi kiểm tra. Đại
uý Garandeau chỉ huy tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn 3 Algerie đang bị ốm và mặc dù ông từ chối
lui về phía sau, ông vẫn không có khả năng hoạt động.
Mà ông còn làm gì được nữa? Tiểu đoàn của ông đã bị xé lẻ từng mảng để đóng giữ
các điểm tựa trong cụm cứ điểm được đặt tên là Dominique. Đại đội 11 của trung uý Chataigner
chôn chân ở Dominique 1 bên kia đường 41, cùng với một đại đội súng cối của trung đoàn bộ binh
lê dương số 2. Từ ngày 14 tháng 3 sau khi Béatrice bị Việt Minh chiếm, Dominique 1 trở thành
tiền đồn ở tuyến phòng ngự thứ nhất. Để chống lại một cuộc tiến công mới của địch, Chataigner
chỉ có khoảng 80 lính bộ binh chỉ huy bởi các trung sĩ tầm thường.
Đại đội thứ hai là đại đội số 12 của trung uý Filaudeau từ hồi đầu tháng 3 tới nay vẫn
đang chôn chân ở hữu ngạn sông Nậm Rốm, cách đại đội 11 khoảng 400 mets. Trung uý
Filaudeau có nhiệm vụ ngăn chặn địch từ phía Bắc và phía Đông thâm nhập vào đường băng sân
bay. Ông cũng có nhiệm vụ bảo vệ một cụm pháo vừa mới bố trí ở đây vài ngày theo lệnh của
trung uý Brunebroucke. Filandeau chỉ có một thuận lợi hơn các đơn vị khác là quân số khá đầy đủ
và được chỉ huy rất sang trọng, bởi phó đại đội trưởng là Alix cũng là trung uý.
Ngược lại, để trấn giữ Dominique 2 là vị trí chính khống chế toàn bộ trung tâm Điện
Biên Phủ ở điểm cao 80 mét, Garandeau chỉ có hai đại đội nhỏ gồm lính trinh sát. Đó là đại đội 9
thiếu quân số, do Lentsch, một thiếu uý ngạch dự bị chỉ huy, và đại đội 10 của trung uý Marie.
Cả hai đại đội này cùng hướng về phía đông. Phần còn lại được “trấn giữ” bởi một đại
đội lính không chính quy, gọi là lính bổ sung, mà không ai biết do một sự tính toán sai lầm kỳ cục
nào đã được máy bay đưa lên Điện Biên Phủ. Không có đại đội trưởng cũng không có những chỉ
huy cấp dưới, đại đội này gồm toàn những thanh niên công giáo mới 17 tuổi, do giám mục Lê
Hữu Từ tuyển mộ ở Phát Diệm.
Có lẽ đám thanh niên mới lớn này đã bị cưỡng bức đi lính, họp thành một đơn vị đại
diện cho lớp công giáo ở đồng bằng miền Nam xứ Bắc Kỳ. Dù sao, họ cũng đã cạo trọc đầu theo
kiểu các tu sĩ dòng Thánh François. Phần còn lại, chẳng có chút gì tiêu biểu cho tư thế nhà binh.
Bởi vì, họ chỉ được trang bị loại súng trường cũ kỹ “303” của Anh, loại súng mà ngay đến Việt
Minh cũng đã loại bỏ.
Trung sĩ Pierre Antonin đã chịu đựng những lời trách mắng của trung tá Langlais, phẫn
nộ vì Dominique không tương xứng với tư tưởng phòng ngự.
Trung sĩ Antonin biện bạch:
- Trong lực lượng viễn chinh Pháp, chúng tôi bị coi như những con nhà nghèo. Lính
của chúng tôi quần áo cũ rách, vũ khí đã tới mức phải cải thiện. Mỗi lô cốt của chúng tôi chỉ có
một khẩu trọng liên, mà lại là súng máy kiểu Reibel, một vật đáng xếp vào nhà bảo tàng. Chúng
tôi chỉ có một máy lắp đạn dùng chung cho hai khẩu súng máy.
Một thông báo tốt lành duy nhất do trung tá Langlais truyền đạt là đại đội 11 của
Chataigner sẽ chuyển tới Dominique 2:
- Nói với Chataigner chuẩn bị sẵn sàng chuyển quân vào 5 giờ chiều.
Nếu lệnh này mang lại đôi chút nhẹ nhõm cho đại uý Garandeau, được đảm bảo vì có
thể dựa vào một số quân ít khốn khổ hơn, thì điều này càng tăng thêm những khó khăn cho
Antonin. Chưa có gì được chuẩn bị để tiếp nhận thêm một đại đội nữa tới đóng tại cứ điểm.
Không có chiến hào, không có hầm hố, không có lô cốt, ngoài những công sự và đã có người đóng
giữ.
Thiếu uý Lentsch nói:
- Đóng xen kẽ, chật chội với nhau vậy.
17 giờ đúng. Qua ống nhòm, trung sĩ Antonin quan sát đại đội 9 từ Dominique 1 ở cách
đó 300 mét về phía Bắc, đang chuẩn bị chuyển quân. Lính chiến xếp hàng trong chiến hào. Các
trọng liên đã chuyển ra khỏi lô cốt. Chataigner đã sắp xếp không bỏ lỡ một thời gian nhỏ nhất.
Việc thay quân là rất phức tạp, nhất là ở tuyến đầu. Cần phải tránh tập trung quân để các trinh sát
của địch phát hiện, gọi pháo bắn.
Cũng cần phải dọn quang các vị trí chiến đấu để quân bạn tới thay thế chiếm lĩnh được
ngay trận địa phòng ngự, súng máy sẵn sàng nhả đạn từ các ụ súng.
Antonin chuyển tầm nhìn của ống nhòm. Anh quan sát thấy đại đội của lính dù Bảo an
đang đi ngoằn ngoèo theo đường chữ chi xuống cao điểm Dominique 1.
Vài phút nữa việc thay quân sẽ xong.
Một tiếng pháo nổ làm Antonin nghẹn thở. Anh bị vùi lấp nửa người, phủ đầy đất đá và
sỏi, hai tai ù đặc. Anh nhìn lờ mờ thấy những bóng người đi qua phía trước, trong đám sương mù
màu hồng nhạt. Anh thấy những cái miệng mở to, những lời nói không vọng tới tai anh. Anh có
cảm giác kỳ cục và khó chọi, như đang xem một cuốn phim kích động bỗng bị cắt đứt tiếng nói.
Nền đất như nẩy lên không ngừng và trên bờ dốc từ sườn núi tới những khe rãng rậm rạp trên
thung lũng chạy dài về phía Đông, những quả mìn cá nhân do công binh chôn giấu để ngăn chặn
cuộc tiến công của địch, nổ loạn xạ do chấn động. Hàng rào dây kẽm gai bị cắt đứt từng đoạn,
cuốn thành hình chôn ốc bay lên rồi lại rơi xuống, làm cho cảnh vật trước đó của trật tự vụt
chuyển thành quang cảnh đầy tai hoạ của một trận địa mơ hồ. Chỉ vài giây đồng hồ sau trận bắn
pháo chuẩn bị tiến công của địch, vành đai phòng ngự của Dominique 2 đã bị xoá bỏ.
Dần dà, những tiếng động trở lại với quy mô bình thường. Những tiếng rít nối tiếp
nhau đi trước những tiếng nổ. Trong bầu trời hỗn loạn, những tiếng gầm rú này có vẻ như một
đoàn xe lửa khổng lồ tiến vào vòm nhà ga. Tiếng vang bị bão hoà.
Cảnh tượng thật khó tả.
Trung sĩ Antonin cố thoát ra khỏi cái hố mà mỗi quả đạn pháo lại vùi anh sâu thêm một
chút. Anh chạy vội đến hầm chỉ huy tiểu đoàn để nhận lệnh của đại uý tiểu đoàn trưởng
Garandeau hoặc đại uý tiểu đoàn phó Cizeau. Anh thấy hai sĩ quan này đang vật lôn với bộ máy
điện thoại bị nhiễu. Khắp mọi nơi, vang lên những tiếng kêu cứu. Một giọng nói the thé gần như
hoảng loạn:
- Éliane 1 đang bị pháo bắn dữ dội.
Một tiếng nói khác chen vào:
- Éliane 2 đang bị một trận bắn kinh khủng…
- Alô! Dominique 2 đâu? Dominique 1 đây! Lính trong cứ điểm đã nhìn thấy quân bạn
tới thay thế. Họ bắt đầu rút đây.
Garandeau gào lên:
- Lạy Chúa tôi! Đây không phải lúc rút quân! Tôi huỷ bỏ lệnh rút. Hãy giữ vững! Lính
dù không tới thay nữa! Nhưng quân cứu viện sẽ tới.
Antonin bước ra khỏi chiến hào. Cảnh tượng trước mắt thật là khủng khiếp. Tất cả
những quả đồi phía Đông đều làm mồi cho sự phẫn nộ của sắt thép. Các mỏm đồi biến mất trong
đám khói bụi. Gần đó là Dominique 1, lính dù trên những sườn đồi bị đắm chìm trong lửa và khói,
phơi mình ra chỗ trống, đang hối hả tìm nơi ẩn nấp.
Pháo Việt Minh tiếp tục công việc tàn phá suốt nửa giờ. Tại Dominique 2, những tiếng
nổ của đạn pháo dựng lên một bức tường đất đỏ sẫm liên tục thay nhau nổi lên. Lính bộ binh ngồi
trong hố lấy cánh tay ôm đầu, chịu đựng cảnh bắn phá, không dám động đậy. Những binh lính
khác, bất chợt bị pháo bắn giữa lúc đang lao động hằng ngày ngoài trời vội chui vào lô cốt. Nhiều
người không có mũ sắt. Rất ít người có vũ khí trong tay.
Nguy hiểm hơn nữa, bọn lính không chính quy gọi là thân binh đóng ở sườn phía Tây
cứ điểm bắt đầu tuồn ra khỏi vị trí, bò lết trên mặt đất, rời bỏ mỏm đồi điểm tựa.
Tại Dominique 1, mọi việc xảy ra còn nhanh hơn nữa. Khi tiếng pháo địch vừa ngừng,
lính dù lập tức tập hợp, rồi leo lên sườn đồi, chỉ vài mét nữa là tới đỉnh, có những chiến hào của
lính bộ binh Algerie. Nhưng khi sắp tới nơi, họ nhìn thấy lính Algerie đang bị Việt Minh tiến
đánh, phải rời bỏ vị trí chiến đấu. Việt Minh đã tiến quân ăn khớp với pháo bắn, và khi pháo
ngừng bắn thì cũng là lúc vừa tới cự ly xung phong. Những trung đội đi đầu của Việt Minh xuất
hiện ngay trước mũi lính phòng ngự đúng lúc họ vừa ra khỏi cơn khiếp sợ vì pháo bắn.
Cảnh tháo chạy diễn ra ngay tức khắc. Một đại đội khốn khổ chỉ có 80 binh lính còn có
thể làm gì khác được trước một trung đoàn đang sát cánh tiến lên đỉnh núi? Thế là lính Algerie bỏ
chạy và vấp luôn phải lính dù Bảo an tới thay thế.
Đại uý Martinas lập tức có hành động kịp thời. Ông lệnh cho các trung đội trinh sát
chiếm lĩnh những vị trí lính Algerie vừa bỏ, và dùng súng máy bắn vào bọn lính đang tháo chạy.
Bị kẹt giữa hai làn đạn, lính Algerie chững lại, do dự. Một số quay trở lại phía sau, một số khác
liều chạy thục mạng trên những sườn dốc. Một số chạy thoát. Bọn đào ngũ này chui rúc hai bên
bờ sông, họp thành những hạt nhân đầu tiên của cái gọi là “những con chuột ở bờ sông Nậm
Rốm”.
Martinas đã nắm được tình hình trong tay. Ngoài đại đội của mình, ông có thêm khoảng
ba chục lính bộ binh Algerie và khoảng bốn chục lính lê dương của trung uý Poirier chỉ huy đại
đội súng cối hỗn hợp số 2 của binh đoàn lê dương (gồm các khẩu 120 và 81). Số lính này đã để lại
súng cối để chiến đấu giáp lá cà, tại mặt Bắc Dominique.
Nếu tại Dominique 2, lính Algerie định dựa vào các bãi mìn và những lớp rào kẽm gai
để ngăn chặn địch, tạo điều kiện cho việc tổ chức phòng ngự, thì rõ ràng họ đã thất vọng. Trận bắn
pháo chuẩn bị đã diễn ra với cường độ mạnh và dày đặc, phá huỷ tất cả các vật cản khiến cho Việt
Minh không cần phải mang theo thang, ván để vượt các sườn đồi. Không có gì có thể ngăn chặn
được bước tiến của địch.
Không có gì, nghĩa là không tính đến những ụ súng trọng liên của đại đội 9 do thiếu uý
Lentsch chỉ huy. Chỉ tại đây, những trung đội tiến công của Việt Minh mới chịu dừng lại để tiến
hành theo cách đã làm ở Béatrice và Gabrielle, nghĩa là tìm chỗ yếu để tạo cửa mở thọc sâu đánh
quặt vào lực lượng phòng thủ.
Khi pháo vừa mới ngừng bắn, trung sĩ Antonin lập tức chạy vào hầm chỉ huy để điều
khiển các vũ khí nặng của tiểu đoàn. Ông chỉ thấy có một người trong hầm là trung sĩ Chalamont,
một người lai Âu, 18 tuổi, vừa mới qua một khoá đào tạo cán bộ chỉ huy.
- Những đứa khác đâu?
- Chúng nó chuồn hết rồi!
Thế là, hai trung sĩ mỗi người một khẩu trọng liên, nổ súng bắn thẳng vào bộ đội Việt
đang tiến ở khoảng trống giữa hai đại đội.
Nhưng, Chalamont đột nhiên giơ tay làm hiệu, chỉ về phía sau, nơi Việt Minh từ bên
ngoài đang tiến về phía sở chỉ huy.
- Chúng ở đâu ra thế này?
Rất dễ đoán biết. Việt Minh đã men theo sườn phía Nam Dominique 2 thâm nhập vào
điểm tựa qua những vị trí mà bọn thân binh Phát Diệm vừa bỏ chạy. Lính phòng ngự ỏ Dominique
2 bị kẹt giữa hai gọng kìm, không còn lối thoát, chỉ có vài người lính chạy được từ mặt Bắc cứ
điểm, leo xuống chân đồi, tới đường cái rồi hoà mình trong đám hoang tàn của Dominique 1.
Với những người khác, trận đánh thế là đã kết thúc. Họ đặt súng xuống bờ chiến hào,
ngồi thụp trong hố, tay ôm lấy đầu.
Chỗ này chỗ khác chỉ có vài tiểu đội còn chiến đấu lẻ tẻ cho tới khi bắn hết đạn. Nhưng
đến nửa đêm thì hoàn toàn chấm dứt. Bộ đội Việt Minh bắt đầu tập hợp tù binh trên sườn đồi phía
Đông Dominique, tách các sĩ quan ra khỏi binh lính, đưa những người này ra đường cái trước tiên.
Vỡ tổ chức, mất tinh thần, đám lính tập hợp lại như đàn gia súc hoảng hốt, trên bãi đất vài mét
vuông, giữa hai lớp rào dây kẽm gai. Không ai nói một câu. Thảm hoạ quá phũ phàng.
Trung sĩ Antonin vẫn còn bàng hoàng, nói thầm với Chalamont đứng bên cạnh:
- Cậu xem, tớ đã tưởng tượng mọi việc: chết, bị thương, hoặc là cả chiến thắng nữa.
Nhưng chưa bao giờ tớ nghĩ đến cảnh này sẽ xảy ra một ngày nào đó. Bị bắt làm tù binh, đối với
tớ thật là sự bêu riếu nhục nhã… và, hơn nữa còn…
Chalamont muốn trả lời nhưng không kịp. Trong tiếng ầm ầm như sấm rền, một loạt
đạn pháo rơi xuống Dominique 2, đúng giữa đám người đang túm tụm vào nhau trên bờ dốc,
không có gì bảo vệ. Lần này, không phải pháo Việt Minh mà là pháo của cụm pháo binh phân khu
Trung tâm Điện Biên Phủ bước vào hoạt động.
Rất nhanh, bộ đội Việt Minh nhảy vào các chiến hào không có người, giương súng
ngăn doạ các tù binh, không cho ai chạy trốn.
Pháo đã ngừng. Bộ đội Việt Minh lại đi lên khỏi các chiến hào, thúc đẩy đám tù binh đi
ra đường cái số 41.
Antonin nói với Chalamont:
- Cậu cùng đi với tớ!
Anh nhìn bạn rồi nói thêm:
- Hình như vài lần cậu tự hỏi mình là người lại, nhưng thuộc về chủng tộc nào? Rồi cậu
sẽ rõ… Vì cậu sẽ có dịp được chọn lữa giữa châu Âu và châu Á.
Chalamont trả lời:
- Mình đã chọn rồi!

Trung uý Brunebroucke
30 tháng 3 năm 1954
Trung uý Brunebroucke dựng các bao cát, đắp một hầm vòm cho pháo 105 mm, mũ sắt
úp chụp xuống tận lông mày, dáng vẻ chăm chủ nhìn trong bóng tối, ông vừa lao động vừa huýt
sáo một khúc quân hành. Đã nửa đêm. Từ 21 giờ 30, điện đài từ Dominique 1 ngừng phát tín hiệu.
Đại đội 4 thuộc tiểu đoàn dù Bảo an số 5 đã bị tiêu diệt. Brunebroucke hình dung tới cảnh đám
lính còn sống sót bàng hoàng ngơ ngác, bị báng súng thúc vào lưng, đi về hướng Bắc.
Trên vòm trời cách cụm đồi Éliane 300 mét về phía Nam, chiếc Dakota vẫn lượn vòng,
thả pháo sáng không hề mệt mỏi. Những tiếng động cơ lúc vang lúc mất, cắt đứt bầu không khí
yên lặng vừa ập xuống Dominique như lưỡi dao của chiếc máy chém.
Những quả pháo sáng - được gọi là đom đóm - buộc dù từ máy bay rơi xuống, chiếu
một luồng ánh sáng vàng nhạt vì phải lọt qua đám bụi và khói còn bao phủ những mỏm đồi
Éliane.
Brunebroucke vẫn tiếp tục thổi sáo điệp khúc nghe rất khó chịu. Ông nhìn chăm chú
vào bóng tối, nhưng không hiểu được tất cả chuyện gì đang xảy ra phía tay phải, ở vùng đất phía
Nam cứ điểm. Ông chỉ biết, từ nay vị trí của ông đã nằm ở tuyến thứ nhất đúng trên trục đường 41
giữa hai cứ điểm Dominique. Nếu Việt Minh quyết định kết liễu số phận Điện Biên Phủ thì sẽ phải
tiến quân theo hướng này. Brunebroucke đoán, bộ đội Việt Minh đang xuống núi, tự hào vì chỉ vài
tiếng đồng hồ đã chiếm được hai cứ điểm quan trọng nhất mà không cần phải giao tranh ác liệt
như ỏ Gabrielle và Béatrice, hẳn đang bàn tán về chiến thắng dễ dàng này.
Ông hình dung thấy các cán bộ Việt Minh đang tập hợp các tiểu đoàn, chấn chỉnh các
trung đoàn, di tản binh lính chết và bị thương, thống kê chiến lợi phẩm. Ông thử đặt địa vị của
mình vào đối phương để tính toán xem bao giờ thì những công việc kể trên kết thúc, và địch sẽ
tiến đánh vào lúc nào. Brunebroucke tin chắc là địch sẽ tiến công, và đến khi trời sáng chỉ có dòng
sông Nậm Rốm mới cản trở Việt Minh thu được toàn thắng. Thể thức sẽ diễn biến như vậy.
Tuy nhiên, trước khi đánh chiếm được cụm cứ điểm Éliane, Việt Minh phải vượt qua
một vật cản nhỏ nhưng đáng gờm. Đó là Dominique 4 như một nút chai bịt chặt lối đi. Nút chai
này có thể mang tên trung uý Brunebroucke.’
Brunebroucke là sĩ quan pháo binh. Ông chỉ huy một cụm bốn khẩu lựu pháo 105 mà
trước đó, người tiền nhiệm là Vaillant đã “đẩy” ra tận bờ sông, để bảo vệ tuyến hành quân dọc
theo đường 41. Chung quanh ông là lính Algerie thuộc đại đội Filaudeau. Đây là những binh lính
đã bị đánh bại, theo thuyết định mênh, vừa mới cách đây ít lâu đã nhìn thấy cảnh tán loạn khi
đồng đội rút chạy xuống sườn đồi.
Brunebroucke nói với Filaudeau:
- Tôi muốn bọn này không có mặt ở đây. Bởi vì sự hoảng loạn là một chứng bệnh
truyền nhiễm. Nếu chúng bỏ chạy thì sẽ làm mất tinh thần bọn lính châu Phi khác của tôi.
Filaudeau nói:
- Chúng sẽ giữ vững. Các trung đội trưởng đã có mặt ở vị trí. Anh không có gì lo ngại
cả.
Quả thật, đại đội 12 hãy còn có quân số đầy đủ nhất tiểu đoàn. Một trường hợp đặc
biệt. Bên cạnh đại đội trưởng, còn có cả đại đội phó là trung uý Alix và có cả một trung sĩ nhất, là
Jean Claude Herviou.
Filaudeau nói tiếp:
- Dù bất cứ trường hợp nào, phía sau lưng chúng ta vẫn có con sông. Binh lính bắt buộc
phải đối mặt với địch, không thể rút chạy.
Buổi chiều, Filaudeau cử một đội lao công đi đào một chiến hào thẳng tắp chắn ngang
cánh đồng, ngay trước mặt cứ điểm. Hạ sĩ Coulombel và hai binh nhì Mohamed Chouader và
Larbi Seguini đặt trong chiến hào này những khối thuốc nổ “dẹt”. Nhìn từ xa có vẻ như đây là
những nắp đậy các thùng giặt quần áo, nhưng bên trong là thuốc nổ. Hiệu quả sẽ rất ghê gớm.
Filaudeau nói thêm:
- Dominique 4 đã bảo vệ tốt.
Ông đi về phía những chiến hào vặn vẹo chung quanh các nhà vòm đặt pháo. Điệp
khúc hành quân của Brunebroucke vẫn không ngừng phát ra từ những tiếng thổi sáo qua kẽ răng
làm cho Filaudeau càng bực tức.
Trung uý Alix đã theo kịp Brunebroucke:
- Anh nghĩ bọn chúng có tiến đánh không?
Brunebroucke lắc đầu và vẫn thổi sáo
- Tình hình các vị trí khác thế nào? - Alix hỏi tiếp.
Brunebroucke tạm ngừng thổi sáo.
- Tôi nghĩ Éliane 1 sẽ bị chiếm. Éliane 2 sẽ không ổn. Nhưng điều đó không quan
trọng. Chúng ta vẫn còn ở đây.
Ông tròn môi và lại thổi sáo.
- Cậu không thay đĩa à?
Brunebroucke liếc nhìn bạn và cười một cách mỉa mai cay độc:
- Cậu có biết tớ thổi sáo bài gì không? Một bài hát mà bố tớ đã dạy. Đó là bài mà bọn
lính chạy thoát bên đường Đức Bà đã hát năm 1917. Lời ca có ghi trong cuốn Bàn tay bị chặt. Cậu
muốn nghe không?
Alix gật đầu.
Brunebroucke đọc lời bài hát:
“Tướng Marchand không buôn bán chúng ta
Nivelle đã san bằng tất cả
Chúng ta bị tướng Foch chém ngang
Rồi Pétain đem nhào thành bột
Để Mangin ăn thịt chúng ta…”
Alix cố nhịn cười:
- Tôi cá cược: anh đang hiện đại hoá bài hát
- Đúng! Nghe đây.
“ Tướng De Lattre tôn vinh chúng ta
Và Salan đem ta ướp muối
Tướng Navarre nuốt chửng chúng ta
Và Cogny lôi ta ra nện!
(Bài hát chế giễu đả kích những chỉ huy “nướng quân” trong chiến tranh thế giới thứ
nhất và chiến tranh Việt Nam theo kiểu chơi chữ)
- Thế anh có vấn đề gì với Castries không?
Brunebroucke cười, không trả lời. Ông áp mặt vào sát mặt kính đồng hồ dạ quang. Đã
22 giờ 15 phút. Bóng tối dày đặc, có lẽ còn tối đen hơn trước sau khi tắt pháo sáng ở bên kia mỏm
Éliane. Tại đây, dưới chân cụm đồi Dominique, Brunebroucke không còn phân biệt được gì, ngoài
con đường 41 in hằn một vệt sáng nhạt hơn vùng đất chung quanh.
Alix nói:
- Có cái gì chuyển động ở phía trước.
Brunebroucke nheo mắt, hướng mắt nhìn. Ông biết rằng nếu nhìn lâu vào một vật gì đó
thì sẽ bị hoa mắt. Từ hướng nhìn do Alix chỉ, ông thấy có vài bóng người mờ ảo trên nền đêm.
Bên cạnh ông, Alix nên cò súng các-bin, vang lên một tiếng khô khốc. Brunebroucke
giơ tay ngăn, nói thầm:
- Chờ một tý đã. Nếu là Việt Minh, chúng sẽ không di chuyển như vậy. Và số quân
cũng đông hơn.
Những bóng đen đã tới rất gần. Có lẽ tới một chục người.
Một lính gác của đại đội 12 quát to (bằng tiếng Ả rập):
- Chkoun enta? (Ai đấy?)
- Krib (quân bạn).
Thế là chiếc lò xo căng thẳng đã được giải toả. Theo chỉ dẫn của lính canh, những bóng
người vừa phát hiện không lần mò đi thận trọng nữa mà chạy nhanh vượt qua vật cản của hàng rào
kẽm gai, rồi nhảy xuống chiến hào. Trung uý Filaudeau dẫn đầu. Ông nói với Brunebroucke
- Hầu hết là những binh lính bị thương. Có cả lính bộ binh Algerie, lính dù người Việt
và một hạ sĩ quan Pháp. Chính anh ta đã dẫn những người chạy thoát từ Dominique tới đây.
Brunebroucke cúi nhìn người trung sĩ Pháp và kêu lên một tiếng kinh ngạc. Bộ mặt anh
ta như bao bọc bởi một lớp bột đen, có thể đoán ngay là máu đã khô.
Filaudeau giải thích:
- Nó bị một quả lựu đạn làm vỡ mặt.
Trung sĩ gật đầu. Rồi anh lục tìm trong túi, lấy ra một cuốn sổ nhỏ, cố mò mẫm đọc vài
chữ. Brunebroucke cúi xuống bấm đèn pin nhìn đọc:
- Trung sĩ Bellencontre, đại đội 4, tiểu đoàn dù Bảo an số 5.
- Tốt, Bellencontre này. Tôi không thể giữ anh ở lại đây được. Việt Minh sắp tiến công.
Anh có thể dẫn số lính này đến trạm quân y được không?
Một tiếng thều thào phát ra từ đống máu đông đặc trên gương mặt Bellecontre. Trung sĩ
giơ tay chào rồi quay về chiến hào, tập hợp những người vừa chạy thoát khỏi Dominique 1.
Brunebroucke tiếp tục đứng trực bên cạnh khẩu pháo 105 của mình.
Chợt một loạt đạn vang lên trong tai ông, và lập tức diễn ra hoả ngục. Việt Minh từ
đường 41 đã thâm nhập vào trận tuyến và xung phong tiến đánh cứ điểm cuối cùng chặn đường
tiến quân vào cánh đồng. Quân địch tiến công ngay trên bãi trống lộ thiên, không cần pháo bắn
chuẩn bị. Trên thực tế, lúc này pháo Việt Minh chưa bố trí ở cự ly có thể bắn tới đây. Việt Minh
chỉ có chủ bài là quân số đông, đêm tối và hy vọng vào sự mất tinh thần của đối phương. Nhưng
họ đã lầm.
Bởi vì khẩu pháo 105 của Brunebroucke đã bắn ở số không, nghĩa là nếu có thể nhìn
qua nòng pháo thì mới thấy địch. Lần đầu tiên kể từ khi chiến dịch mở màn, bộ đội Việt Minh
phơi ngực trước họng pháo 105, bắn không cần bảng ngắm.
Hai trung đoàn thuộc sư đoàn 312 Việt minh, say sưa trước chiến thắng mới đây trên
dãy đồi Dominique, sát cánh xung phong. Brunebroucke và đám lính pháo Algerie ra sức bắn.
Một khẩu đội trưởng can:
- Nòng pháo quá nóng rồi!
Trung uý hét to át tiếng động chung quanh.
- Không sao cả. Đái vào nòng!
Việt Minh đã chững lại. Rồi ngay lập tức, họ còn bị những khẩu trọng liên bốn nòng
mà Langlais bố trí ở trục đường, từ bên kia sông Nậm Rốm, bắn tạt sườn. Đây là bốn khẩu 12,7
bắn với tốc độ tối đa, lia những làn đạn tạt ngang vào quân Việt Minh đàng túm tụm trước những
bờ dốc ở Dominique 4.
Bị hoả lực quét, các đơn vị trung đội, đại đội Việt tan tác, xé lẻ, toan rút lui trong đêm
tối. Nhưng Brunebroucke với các khẩu pháo và Jourdonneau với các khẩu trọng liên không cho họ
có cơ hội đó. Việt Minh chỉ còn có một giải pháp là nhảy xuống đoạn chiến hào chạy thẳng trước
mặt vị trí Pháp để tránh đạn, chen chúc, chất đống trong đó, với số quân khoảng 200.
Khi anh lính Algerie Mohamed Chonader quan sát thấy tất cả đã chui hết vào trong
chiến hào, lúc đó mới bấm nút pin kích động những khối thuốc nổ dẹt.
Không nghe thấy tiếng nổ. Chỉ thấy như có làn sóng chấn động của động đất dưới chân
những người lính Algerie. Đó là những sóng chấn động phát đi từ chất nổ dẻo, mềm, đặt sẵn dưới
chiến hào.

Đêm Éliane
Từ 30 đến 31 tháng 3 năm 1954
Trung sĩ Bellecontre bước thật nhanh trên con đường hẻm vây quanh dãy đồi ở phía
Tây. Trong suốt trận đánh cản địch ở Dominique 4, Bellecontre nấp kín một chỗ, vì cảm thấy vô
ích, thụ động, không có vũ khó trong tay. Anh hiểu rõ không thể lội qua sông dưới làn đạn liên hồi
của các pháo thủ Việt Minh, hy vọng ngăn cản quân tăng viện cho Éliane mà sư đoàn 316 đang
tiến đánh.
Bellecontre không còn khái niệm về thời gian nữa. Vết thương còn chưa lành, nỗi đau
lan toả, ý nghĩ mơ hồ. Anh chỉ còn một ý định duy nhất là quyết trở về tiểu đoàn của mình, tức là
tiểu đoàn dù số 5 hồi nãy còn đóng giữ Éliane 4. Anh nghĩ là “hồi nãy” nhưng lại tưởng tượng là
“trước kia”. Dường như có một khoảng thời gian vô tận đã kéo dài từ trận đánh buổi tối đến lúc
này là giữa đêm. Biết bao sự việc đã dồn dập xảy đến trong khoảng thời gian này, nhiều như có
thể tràn ngập cả một đời người. Bellecontre không nhận thức được nữa. Anh bước đi như một cơ
thể còn sống trong khi đã chết một nửa.
Cách đây mười phút, một giờ, một thế kỷ, không còn nhớ nữa, một trung uý to lớn đã
khuyên Bellecontre phải tiến về trạm quân y. Anh không còn đủ can đảm và sức lực nữa. Điều anh
mong mỏi, điều anh ước muốn là kịp về được trạm xá tiểu đoàn, ngã vào cánh tay của Roualt,
người thầy thuốc có cử chỉ dịu dàng, được mọi người cói như một lính “Bảo an”, một người thân
thuộc trong gia đình tiểu đoàn dù số 5.
Éliane không còn xa nữa. Trên bản đồ, vị trí quần thể các điểm tựa nom như một cái
bánh hình lưỡi liềm, sừng phía Nam chính là Éliane 4. Hiện nay, Bellecontre và những thương
binh đang rên rỉ bước theo anh mới chỉ vừa qua đầu sừng phía Bắc. Họ bước vào một bãi đất
phẳng thuôn dài giữa dãy đồi, giống như một đấu trường cổ, có những bậc thang.
Bellecontre đang đi trong bóng tối bỗng nhiên thấy bừng sáng. Đó là những quả pháo
sáng quét màn đêm, quầng sáng màu vàng khiến cho cảnh vật có những đường nét kỳ lạ, viền một
màu nâu ánh vàng. Bụi thường xuyên hầu như không ta bởi vì tiếng nổ của đạn pháo khi rơi
xuống đất liên tục bốc bụi lên cao. Cho tới lúc này, Bellecontre vẫn chỉ nghe thấy những tiếng
động mơ hồ. Anh có cảm giác như vừa mới đẩy một cánh cửa để lọt vào trung tâm đấu trường,
vào địa ngục.
Không còn vấn đề gặp lại tiểu đoàn nữa, mặc dù đơn vị cũ chỉ cách đó có 200 mét, trên
quả đồi trước mặt. Quá tầm vì không còn đủ sức leo lên.
Bellecontre đi dọc theo đường mòn, ngắm nhìn một vòm hàm ếch đào ở thành đất rồi
ngã luôn vào đó. Số lính bị thương vẫn bám sát theo gót.
Lúc này, Bellecontre mới nhận thấy đã có tới một chục người khác ở trong hầm. Phần
lớn là lính dù. Bellecontre không quen biết một ai vì đám lính này thuộc tiểu đoàn 6 do Bigeard
chỉ huy. Một trung uý cao gầy đang gọi điện:
- Alô! Bruno đâu? Herve đây. Rõ!
(Bruno là mật danh khi gọi điện của Bigeard. Herve là mật danh của trung uý Trapp,
chỉ huy đại đội 2. Pierre là mật danh của Langlais)
Bellecontre nằm bệt ở một góc hầm. Anh cảm thấy lạc lõng giữa những người đang sẵn
sàng chiến đấu. Một bàn tay nhẹ nhàng đặt trên vai Bellecontre. Ánh đèn bấm làm anh chói mắt.
Một tiếng nói như rít lên:
- Trời ơi, câu biến dạng nhiều quá.
Bị chói mắt, Bellecontre không trả lời. Tiếng nói tiếp tục:
- Tôi là hạ sĩ trưởng Lecoq, y tá đại đội. Tình hình xấu lắm, anh biết rồi đấy. Tụi lính
Maroc đã bỏ chạy khỏi Éliane 1 ở ngay trên đầu chúng ta, và hiện nay vị trí của lính Bảo an đang
nhô ra phía trước. Không thể đưa anh về phía sau trước sáng mai được. Nếu ngày mai bao giờ
cũng đến.
Vừa nói, Lecoq vừa vén tay áo vấy bẩn lên. Anh rửa cánh tay cho Bellecontre, thắt dây
nịt cho mạch máu đen nổi lên:
- Tôi tiêm cho anh một ống morphine để dịu cơn đau vừa mới tái phát. Rồi tiêm thêm
một ống thuốc chống uốn ván nữa. Anh đừng lo…
Bellecontre để yên cho người y tá làm việc. Đạn pháo vẫn nổ, mảnh đạn bay ào ào
ngay trên đầu. Thỉnh thoảng, vách đất lại lở rơi xuống những người trong hầm vòm. Đôi lúc nghe
thấy cả tiếng kêu thét, tiếng súng trường, tiếng lựu đạn. Và xa hơn nữa về phía Tây là tiếng súng
của những khẩu pháo bắn trả từ phân khu Trung tâm. Bellecontre đã dịu cơn đau. Anh có cảm giác
kỳ lạ, toàn thân chỉ còn như một chiếc nút chai nổi bồng bềnh trong bão lũ. Anh đã làm tất cả
những gì cần phải làm. Anh có thể nghỉ ngơi.
Bên tai Bellecontre, các điện đài vẫn hoạt động. Những tiếng gọi, tiếng nói chen lẫn
nhau, cắt ngang nhau.
- Bruno đâu? Pierre đây! Việt Minh đã chiếm đỉnh đồi Éliane 2. Tôi đã gọi pháo bắn
vào đó. Anh có thể tổ chức một cuộc phản kích được không?
Những tiếng nói từ từ lọt vào tiềm thức của Bellecontre. Nếu Việt Minh chiếm được
đỉnh đồi Éliane 2, có nghĩa là Điện Biên Phủ đã đi đứt…
Trước mặt Bellecontre hiện ra một gương mặt quen thuộc. Đó là trung uý Bergot đã
từng là chỉ huy của Bellecontre trong tiểu đoàn xung kích số 11. Bergot đang nói trong điện đài
qua máy 694 nối liền với kênh pháo binh.
- Zoulou Kilo 50. Rõ. Sẽ bắn một loạt đạn vào điểm Saxo 411.
Từ máy nói của Bergot, một tiếng kêu vọt ra:
- Đừng bắn! Đừng bắn! Chúng tôi vẫn còn giữ được Éliane 2…
Trong hầm chỉ huy của mình, trung tá Langlais không bắt được sóng điện đài pháo
binh. Chỉ vài giây nữa, thảm hoạ sẽ diễn ra: quân Pháp bắn vào quân Pháp. Trung uý Trapp vội sử
dụng luôn hệ thống điện đài của chính đơn vị mình:
- Bruno đâu? Herve đây! Tôi vừa nghe đài “bạn” xác nhận vẫn còn giữ được Éliane 2.
- “Bạn” nào?
- Trung uý Luciani thuộc tiểu đoàn lê dương số 1 đây.
Tiếng nói lanh lảnh cất lên rất rõ, không có vẻ gì đang trong tình trạng căng thẳng như
mọi người đoán:
- Yêu cầu bắn yểm hộ mặt Đông Nam ở bãi Champs Élysées.
Hệ thống thông tin đã được thiết lập qua đài 694 của Trapp. Có tiếng Bigeard rồi đột
nhiên tiếng Langlais nói:
- Pierre đây. Tôi muốn liên lạc với trung uý Luciani. Tôi đã hiểu rõ các anh. Bây giờ tôi
sẽ đáp ứng yêu cầu của các anh. Cần gì cứ đề nghị. Anh được ưu tiên. Mật danh của anh là 100,
của chúng tôi là “quân bạn”.
Trung sĩ Bellecontre không nghe được đoạn tiếp theo. Trong giọng nói của Langlais có
thoáng qua một thứ lạc quan, một niềm hy vọng điên rồ. Bellecontre sau khi hiểu rằng Điện Biên
Phủ chưa bị mất, đã lăn vào một góc hầm, chìm trong giấc ngủ dưới đôi cánh của liều thuốc
morphine an thần.
Đã nửa đêm. Trên cứ điểm Éliane 2, lính lê dương và lính Maroc vẫn chiến đấu không
ngừng. Họ đã chiến đấu suốt 7 tiếng đồng hồ.
Tại Éliane 2, tất cả mọi việc đã bắt đầu như trên mọi quả đồi khác bị các sư đoàn của
tướng Giáp tiến công đồng loạt. Từ 5 giờ chiều pháo địch đang dội xuống Dominque cũng bắt đầy
bắn phá các cứ điểm Éliane và các vị trí pháo, cối nặng, khu vực chỉ huy, các điểm ở bên ngoài
trạm xá quân y. Từ giờ phút đó, từng vị trí, từng điểm tựa, từng lô cốt đều bị cô lập, phơi mình
đơn độc trước làn pháo kéo dài của địch. Không còn vấn đề yêu cầu một sự giúp đỡ nào, một sự
yểm trợ nào, dù nhỏ nhất. Mọi người đều phải tự xử, làm mồi cho sự sợ hãi, sự kích động và làm
mồi cho thần chết.
Giờ phút khủng khiếp bắt đầu từ một sự hoang mang, một chút thiếu kiên định bởi vì
mọi người đều nghĩ, cơn bão lửa sẽ ập xuống ngay đầu mình. Ngay từ quả pháo đầu tiên, mọi vật
đã đen sẫm. Có những người nhắm nghiền mắt, có những người bịt chặt tai. Còn những người
khác thì há hốc mồm, chờ đợi quả đạn nổ sẽ chấm dứt nỗi khắc khoải của họ và quét sạch mọi thứ.
Thể xác trở nên nặng nề như đá tảng. Riêng cái bụng lại mềm nhũn, sôi ùng ục, thở phập phồng.
Không phải đó là do sức bật của sự hưng phấn say sưa, mà trái lại, như có một cục gì đó đông đặc
chèn lên phía trên dạ dày, dính chặt lấy cổ họng, bóp chặt hai thái dương. Mặt mũi tái mét, cặp
mắt đờ đẫn, đám lính này bám vào vách đất rồi lại tự để rơi tuột xuống, đôi cẳng chân không giữ
nổi thân hình nữa. Họ nhìn vào bàn tay, đôi tay trở nên nặng trĩu, sưng phồng, nhợt nhạt, nhẫy
nhụa dính mồ hôi. Cái sợ dâng lên tận cổ như có một vật nóng, dính và mặn trong cuống họng.
Với những người đã trải qua thử thách này thì một trận pháo nện trên đầu là cả một cơn
hấp hối dài. Không bao giờ người ta có thể quên được cảnh tượng này. Thử thách sau lại tồi tệ hơn
thử thách trước, cứ y như một cảnh đầy đoạ không ngừng. Cái chết giễu cợt, cười đùa, hành hạ
cong người đang ngồi thụp dưới đất. Cái chết lướt nhẹ qua từng người sau mỗi tiếng nổ, như trả
lời câu hỏi “Bao giờ đến lượt tôi?”.
Cái chết đã quay ngoắt đi và cười. Tiếng pháo xa dần để rồi lại đến gần. Cái chết cũng
quay trở lại cùng với đạn pháo. Nó len lỏi trong chiến hào, xé rách một ít quần áo, phả hơi thở và
hất bụi đất vào mặt người. Thỉnh thoảng nó lại xé xác một người ngồi gần, vặt chân, vặt tay, moi
ruột… một cách rất ghê tởm.
Người nào dù thoát chết cũng vẫn không yên tâm. Không ai có thể an ủi được người
khác vì không thể đảm bảo chút nào là cái chết không sờ đến họ. Và nếu hôm nay không chết, thì
chỉ đơn giản có nghĩa là ngày mai, mọi việc lại tái diễn cho đến khi… Bởi vì, cái chết của người
khác là báo hiệu cái chết của chính mình.
Đại đội 1 lính dù lê dương tới Éliane 2 khi pháo địch bắt đầu bắn chuẩn bị. Tại đây,
tình hình cũng diễn biến như đã xảy ra trên cứ điểm Dominique 1, binh lính đang rời bỏ vị trí vì
nghĩ là thay quân. Nhưng nếu tại Dominique 1, Martinais chỉ có lính Bảo an và nếu lính Algerie
đã cản trở hoạt động của cánh quân tới thay thế, thì tại đây Luciani chỉ huy đơn vị lính dù lê
dương đã chặn đứng được bọn lính Maroc yếu kém định tháo chạy.
Luciani biết rõ địa hình ở đây. Lần lượt các đơn vị lính dù thay phiên nhau bố trí những
“cái chuông” (Tức những tổ canh gác từ xa, gồm khoảng vài người, khi phát hiện Việt Minh tiến
đến sẽ báo động) trên núi Hói, bên kia thung lũng rậm rạp dưới chân Champs Élysées, tạo thành
một bãi phẳng kéo dài từ Elian 2 về phía Đông - Nam. Trước tiên, Luciani cẩn thận chiếm lĩnh lô
cốt, khống chế bãi Champs Élysées, và giao lô cốt này cho Schmidt, một hạ sĩ chỉ có thể có trong
binh đoàn lê dương, tức là rất kỷ luật tới mức kỳ cục.
- Schdmit, giữ lô cốt này, không một lính Việt nào được tới gần.
Để có thể nghe được trong khi pháo bắn, Schdmit phải đứng thẳng người, hét rất to.
Năm binh lính dưới quyền chỉ huy của Schdmit cũng không thể làm gì hơn là cùng đứng và nghe.
Được đảm bảo có những công sự kiên cố ở mặt sau, Luciani đã bố trí bốn trung đội
chiếm lĩnh các điểm trọng yếu ngay dưới làn đạn pháo địch. Trung đội của Rolin đóng ở điểm cao
chế ngự thung lũng, đối mặt với núi Hói. Lemahieu đóng quân dọc chiến hào phía trước lô cốt.
Falsetti ở mặt Nam Champs Élysées. Lính lê dương cúi gập mình nhảy đi chiếm lĩnh các vị trí
dưới pháo đạn, di chuyển dưới giao thông hào, đặt súng máy tại các ngã tư, ngăn không cho lính
Maroc tháo chạy, từ khi chúng băng mình trên khoảng trống. Nhưng ai dám làm như vậy khi pháo
đang bắn.
Ngồi trong những hố quá chật hẹp, mông chạm gót, đầu rụt xuống vai, mũ sắt úp chụp
tận lông mày, lính bộ binh Maroc chỉ còn một cách là: ở lại đó!
Cũng như trận Dominique, tại đây Việt Minh tiến quân dưới làn đạn pháo cho tới cự ly
xung phong và khi pháo ngừng bắn lập tức xông lên tiến công từ những chiến hào ở núi Hói,
ngoằn ngoèo giữa đồng ruộng cho tới tận những lớp rào dây kẽm gai ở chân bãi Champs Élysées.
Thoạt đầu lính Maroc cũng định rút nhưng không được vì lính lê dương đã bịt các ngả
đường, do đó, họ đành phải chiến đấu cùng với sự động viên của vài người lính lê dương bên
cạnh, vì không còn cách nào khác.
Luciani chạy từ vị trí này sang vị trí khác. Ông đến mọi nơi. Ông nhìn mọi chỗ. Ông
đặt vị trí chỉ huy tại hầm dinh thự của viên quan cai trị cũ, xây dựng như một hầm cố thủ bê-tông,
là một kiểu nhà độc đáo ở Điện Biên Phủ, có cửa sắt chống lại được đạn pháo 105. Ông đã cải tạo
nơi đây thành một pháo đài ngầm rất lợi hại. Chính trung đội dự bị cuối cùng do Dumont chỉ huy,
một thiếu uý mới ra trận, đã liên tục tổ chức phản kích, xuất phát từ hầm ngầm cố thủ này.
Việt Minh tung một trung đoàn đầy đủ để đánh Éliane 2. Đó là trung đoàn 98. Để xông
lên đỉnh đồi, ba ngàn bộ đội Việt Minh bắt buộc phải chen lấn nhau vì trận địa rất hẹp, chưa đầy
800 mét vuông. Bộ đội Việt Minh lúc nhúc xông lên, tiến công từ khắp các phía. Nhưng, phía tay
phải vấp phải trung đội Rondin, nấp trong đống hoang tàn của pháo đài cũ đã đổ nát hoặc trong
những mẩu chiến hào. Lính lê dương kêu ca vì không được ẩn nấp đầy đủ. Họ lấy những xác chết
để đắp thành bờ luỹ che chở.
Ở phía trái, dọc theo con đường mòn chạy dài như một vết bút vẽ lên tới đỉnh Éliane 2,
Việt Minh vấp phải trung đội Falseti. Falsetti không phải là kẻ mới vào nghề. Vừa chỉ huy trung
đội, ông vừa chỉnh đốn hoả lực cho các khẩu cối 81 và 120 “bắn sát ria mép”, như ông thường nói.
Và thế là Việt Minh phải rút lui. Bộ đội Việt Minh tập trung tại thung lũng giữa Éliane
và núi Hói.
Đến 11 giờ đêm, trung đoàn 98 lại tiến công. Có lẽ, trung đoàn trưởng đơn vị này đã
biết tin tất cả các mục tiêu khác đều đã đánh chiếm được, trừ mục tiêu dành cho trung đoàn 98.
Ông ta muốn chứng minh tất cả quyết tâm, dũng cảm, ý chí của mình. Những đợt xung phong lại
tiếp tục sau đợt pháo bắn mãnh liệt. Từ núi Hói và núi Giả ở phía Bắc, những khẩu pháo không
giật và khẩu cối của Việt Minh nã đạn vào đỉnh đồi Éliane 2. Chính cách đánh này đã tiêu diệt các
ổ kháng cự của Béatrice và Gabrielle khi các vị trí chỉ huy trong cụm cứ điểm đã bị vô hiệu hoá.
Chung quanh Luciani đạn pháo rơi như mưa. Nhiều người gục ngã. Trước tiên là trung
uý Nicod và một số lính bộ binh. Rồi đến Falsetti. Cuối cùng là Luciani. Ông bị trúng một mảnh
đạn vào đầu. Rất nhanh chíng, chính xác, Wagenfuhr là y tá của đại đội 2 đã băng bó cho ông,
quấn một cuộn băng qua trán khiến cho ông có vẻ như một tên cướp biển.
Giữa những tiếng lựu đạn nổ và tiếng súng máy, có cả những tiếng hô, tiếng thét rất
gần. Bộ đội Việt Minh đã thâm nhập vào khoảng cách giữa các trung đội và đã tới vị trí của trung
đội Falsetti. Nhảy từ hố này sang hố khác, tiến như cua bò, lính Việt Minh tuần tự quét sạch các ổ
kháng cự và tiến dần lên tới các lô cốt trên đỉnh Éliane 2 ở cự ly có thể nghe thấy tiếng nói.
Chính trong lúc đó Luciani bắt được sóng điện yêu cầu pháo ở khu trung tâm bắn vào
vị trí của ông.
Luciani rất bực tức. Chẳng lẽ Langlais lại thoáng có một giây nghĩ rằng đại đội 1 thuộc
tiểu đoàn 1 lính dù lê dương lại rút khỏi vị trí chiến đấu hay sao? Đây là một vấn đề thuộc lĩnh
vực cá nhân, hay sự xúc phạm, một sự thách thức cần phải thanh toán. Trước mặt Luciani, vẫn là
bóng hình của Schdmit đang nhảy từ ụ súng này sang ụ súng khác, trợ lực cho ổ kháng cự, tập hợp
vài ba người lính để cố đánh bật địch ra khỏi vị trí. Ở phía tay phải Luciani, Lemahieu đã chậm
chạp nhưng chắc chắn, đẩy lùi được Việt Minh ra khỏi vị trí của mình. Luciani ghi nhận tất cả, ghi
nhớ từng tình huống một như đang diễu hành chậm rãi trước mắt. Đó là một sự nhìn nhận trong
cơn ác mộng, trong ánh sáng vàng vọt của pháo sáng. Trên những sườn đồi, hàng trăm bộ đội Việt
Minh vẫn đang xô dần lên như những đợt sóng. Ngay phía dưới, tại một nơi ô uế nhưng lại đặt tên
là Champs Élysées có thể hình dung thấy cuộc chiến đấu giáp lá cà giữa lính lê dương với bộ đội
Việt Minh, họ nã súng thẳng vào nhau ở cự ly gần, đâm chém nhau bằng dao găm, lưỡi lê, mắng
chửi nhau…
Đã hai lần, những đơn vị đi đầu của trung đoàn 98 tiến được tới đỉnh Éliane 2, cả hai
lần đều bị đơn vị của Lemahieu đánh bật xuống khe núi. Thời gian lặng lẽ trôi. Luciani và binh
lính của mình đã chiến đấu được năm giờ.
Thỉnh thoảng lại có một người lính bị thương dìu một người lính khác cũng bị thương
đi qua. Tất cả bọn họ đều có bộ mặt dính đầy đất và máu, cử chỉ mơ hồ, cái nhìn ngây dại. Cũng
thỉnh thoảng, từ cánh đồng dưới chân đồi lại xuất hiện những bóng người khác, còng lưng dưới
sức nặng của các thùng đạn. Luciani khẽ mỉm cười. Đó là những viên phi hành của đại uý
Charnod. Từ ngày những chiếc máy bay của họ bị phá huỷ trên sân bay Điện Biên Phủ, những
người này không còn việc gì để làm nữa. Và thế là, các phi công, hoa tiêu, thợ máy, lính bắn pháo
sáng, nhân viên khí tượng đều lập tức hợp thành một đại đội phu khuân vác.
Charnod nói:
- Khi có những người chiến đấu có hiệu quả như lính lê dương thì ít nhất họ cũng có
quyền được có đạn.
Số người khuân vác này hoạt động trong hoàn cảnh ít được ẩn náu. Dưới làn đạn súng
trường, súng máy và đạn pháo, họ phơi mình ở những khoảng trống trải, trên các lối đi ở Điện
Biên Phủ. Họ vượt sông Nậm Rốm, đi dọc theo con đường mòn đất trắng lên đến tận đỉnh Éliane,
nặng trĩu các hòm đạn vác trên vai hoặc treo ở đầu gậy. Họ cũng rách rưới bẩn thỉu như những
lính dù, thường chỉ mặc một chiếc quần cộc và một chiếc áo sơ-mi rách tả tơi. Một số người bị
thương, cẳng chân bê bết bùn và máu.
Dĩ nhiên, không gì bắt buộc họ hoàn thành những công việc này. Trong mọi trường
hợp, cũng không ai ngăn cản được họ.
Đã hai giờ sáng, Việt Minh vẫn tiến công. Ý chí quyết thắng giúp họ vượt qua tất cả
mọi sự suy yếu. Họ phải chiếm bằng được Éliane 2, điểm tựa quái lạ, nhỏ nhất, bé nhất, trước khi
trời sáng. Phải cố chiếm. Họ đã hứa với cấp trên như vậy. Và thế là, liên tục không ngừng, như
một guồng nước không gì ngăn cản được, họ trèo lên, trèo lên nữa, kiên quyết, vượt qua mọi trở
ngại, đi vòng, tiến thẳng, chiếm lĩnh một mét, hai mét đất. Có những người ngã xuống. Những
người khác vượt lên, nhặt khẩu súng đồng đội bỏ lại, giương súng tiểu liên, ném quả lựu đạn, gặm
nhấm dần các vị trí của đại đội 1, đánh bật những gì còn lại của đám lính Maroc đang bám vào vị
trí, bị kích động bởi các mệnh lệnh của Nicolas là người chỉ huy vẫn đang giữ vững vị trí liên tục
thúc đẩy họ chiến đấu.
Nhưng, còn có thể làm gì được để chống lại sự năng nổ, quyết tâm của Việt Minh?
Không có một pháo đài nào có thể gọi là bất khả xâm phạm khi họ quyết tâm đánh chiếm bằng
mọi giá. Có thể trước khi trời sáng trung đoàn 98 Việt Minh sẽ phải hy sinh, nhưng họ vẫn sẽ
chiếm được Éliane 2.
Cả Nicolas lẫn Luciani đều hiểu điều đó. Hai người tức giận đầy ruột, quyết không lùi
bước. Họ ở lại vị trí chiến đấu với một quyết tâm ít nhất cũng ngang kẻ địch. Ở thế cân bằng này,
cả hai bên đều bị thương vong ghê gớm. Lính Maroc, lính lê dương gục ngã ngay trên xác địch.
Những viên đạn vẫn còn liên tiếp bắn vào những xác chết của cả hai bên, rất điên cuống, phát ra
tiếng nổ hút hồn. Máu tuôn trào từ những vết thương mới. Không khí đắc sệt mùi thuốc đạn và
xác chết.
Đột nhiên, tình hình lắng dịu. Sức ép của địch có vẻ giảm. Luciani nói:
- Việt Minh đã đụng vào một vật rắn như xương.
Nhưng không phải là “một khúc xương”. Mười phút trước, hai đại đội lính dù đã tới
trận địa. Ở mặt Bắc là đại đội Le Boudec của tiểu đoàn dù xung kích số 6 do Bigeard chỉ huy. Ở
mặt Nam, là hai đại đội thuộc tiểu đoàn dù lê dương của Loulou Martin. Lính dù thuộc địa và lính
dù lê dương thi nhau trổ tài gan góc. Họ không nghĩ đến chuyện dùng mưu kế. Họ chống chọi với
những đợt tiến công đầu tiên của địch theo kiểu chơi bóng. Cuộc đụng độ thật kinh khủng. Các
sườn đồi, các chiến hào, một lần nữa tràn ngập các chiến binh vật lộn với nhau.
Mọi thứ đối với họ đều tốt và một khi không còn vũ khí nữa họ đánh nhau bằng tay
trần. Mọi người nhìn thấy rõ một lính Việt Minh xông lên, giơ hai bàn tay về phía trước, sẵn sàng
bóp cổ đối phương. Nhưng anh ta đã vấp phải một lính Pháp biết võ Judo. Cũng nhìn thấy rõ một
“bộ đội” một tay cầm súng cắm lưỡi lê, tay kia giơ quả lựu đạn ngăn cản đối thủ bỏ chạy.
Không phải sự hằn thù đã đẩy những người này bắn giết nhau. Sự hằn thù là một thứ
tình cảm đã trôi qua, không còn ở lại Éliane 2, và lúc này chỉ còn lại một hình thức tôn trọng danh
dự nào đó. Bởi vì nếu là hằn thù thì trong hằn thù thường xuất hiện cả sự sợ hãi đối thủ, mà sự sợ
hãi thì từ lâu đã không tồn tại trong những chiến binh. Tính mạng của họ lúc này quá đơn giản để
có thể biểu lộ một chút tình cảm tâm hồn.
Và sau đó, chỉ sau đó mới rõ…

Huguette 7
Từ 30 đến 31 tháng 3 năm 1954
- Huguette bị tiến đánh. Đề nghị cứu viện ngay lập tức.

You might also like