Professional Documents
Culture Documents
Điện Biên Phủ 170 ngày đêm - Erwan Bergot
Điện Biên Phủ 170 ngày đêm - Erwan Bergot
Erwan Bergot
Cho tới nay, nhân dân ta vẫn quen với khái niệm chiến dịch Điện Biên Phủ kéo dài 56
ngày đêm, kể từ khi ta bắt đầu nổ súng tiến công tập đoàn cứ điểm của Pháp vào ngày 13 tháng 3
năm 1954, và kết thúc vào ngày 7 tháng 5 năm 1954 khi toàn bộ các lực lượng Pháp ở đây buông
súng đầu hàng.
Tuy nhiên, đối với quân đội viễn chinh Pháp thì Điện Biên Phủ là một cơn ác mộng kéo
dài, kể từ ngày 20 tháng 11 năm 1953 là khi mới bắt đầu nhảy dù xuống cánh đồng Mường Thanh
đã lập tức bị bộ đội và nhân dân địa phương đón đánh, tiếp đó là gần nửa năm bị vây hãm, bị tập
kích, phục kích mà đỉnh cao là những trận đánh liên tục kéo dài từ ngày 13 tháng 3 đến 7 tháng 5
và hoàn toàn kết thúc vào ngày 8 tháng 5 khi những đơn vị đóng tại Hồng Cúm thuộc phân khu
phía Nam định tháo chạy sang Lào nhưng đã bị chặn đánh và tiêu diệt hết, tổng cộng là 170 ngày
tất cả.
Chính vì những lẽ đó nên Erwan Bergot, một trung uý có mặt tại Điện Biên Phủ từ
những ngày đầu đã trải qua gần sáu tháng sống trong cảnh căng thẳng, hãi hùng, khốn đốn tại
Điện Biên Phủ, cuối cùng bị bắt làm tù binh rồi được phóng thích, đã viết cuốn sách này và được
Nhà xuất bản Presses de la Cité ở Paris, Pháp, xuất bản năm 1979, sau đó được nhiều lần tái bản.
Theo giới thiệu của Nhà xuất bản Presses de la Cité, Erwan Bergot đã bỏ ra nhiều năm
sưu tầm tài liệu, gặp gỡ các bạn chiến đấu cũ, ghi lại “nhiều chứng cứ của những người còn sống
sót để dựng lại một bức tranh sinh động và bi thảm trải dài suốt 170 ngày đêm, từ việc xây dựng
tập đoàn cứ điểm, tổ chức các vị trí phòng ngự đến các trận đánh, nhưng trước hết là tinh thần,
tình cảm của những người lính chiến đấu. Chính họ là những nhân chứng không thể bác bỏ. Họ là
những người đứng ở vị trí hàng đâu”.
Để làm phong phú thêm nguồn tư liệu về cuộc chiến ở Điện Biên Phủ, chúng tôi xin
cung cấp thêm một cách nhìn nhận, phản ánh từ phía bên kia chiến tuyến, do chính một cựu binh
Pháp viết,
Bản dịch tiến Việt được thể hiện bởi dịch giả Lê Kim, người cũng từng là một chiến sĩ
Điện Biên chiến đấu trong sư đoàn 308 năm xưa.
Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.
Nhà xuất bản Công an nhân dân
***
Lịch chiến sự
1953
12-11: Bộ tư lệnh chiến trường Bắc Bộ do tướng Cogny chỉ huy thông qua quyết định
mở cuộc hành quân Castor nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ. Bản kế hoạch hành quân được
Tổng tư lệnh Đông Dương Navarre phê chuẩn.
20-11: Cuộc hành quân Castor bắt đầu. Tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 do Bigeard chỉ huy
nhảy dù xuống bãi Natacha, cánh đồng Mường Thanh, phía Tây Bắc Bản Kéo. Tiểu đoàn dù số 2
do Bréchignac chỉ huy thuộc trung đoàn dù thuộc địa số 1 nhảy xuống bãi Simone cách Bản Kéo 4
kilômét về phía Nam. Tiểu đoàn dù số 1 do Souquet chỉ huy và ban chỉ huy lực lượng nhảy dù do
Fourcade chỉ huy kết thúc cuộc nhảy dù trong ngày.
21-11: Cuộc hành quân Castor tiếp tục với tiểu đoàn dù lê dương số 1 do Guiraud chỉ
huy và tiểu đoàn dù thuộc địa số 8 của Tourret cùng với bộ phận hỗ trợ của Molinier.
22-11: Tiểu đoàn dù lính Việt do Leclerc chỉ huy kết thúc cuộc hành quân Castor. Điện
Biên Phủ có 4.560 binh sĩ chiếm đóng.
23-11: Bắt đầu cuộc hành quân Pollux rút khỏi Lai Châu.
8-12: Tiểu đoàn 2 bộ binh lính Thái tới Điện Biên Phủ.
10-12: Các tiểu đoàn dù thuộc địa số 1, tiểu đoàn dù thuộc địa số 6, tiểu đoàn 2 thuộc
trung đoàn dù thuộc địa số 1 được đưa trở về Hà Nội (từ 2-12).
15-12: Thêm một số đại đội lính Thái tới Điện Biên Phủ.
16-12: Tiểu đoàn dù lính Việt số 5 được đưa từ Điện Biên Phủ trở lại Hà Nội bằng máy
bay.
Từ 15 đến 20-12: Các tiểu đoàn số 1 và số 3 thuộc bán lữ đoàn lê dương số 3 và những
đơn vị đầu tiên của binh đoàn cơ động số 9 do Gaucher chỉ huy được máy bay đưa lên Điện Biên
Phủ.
Từ 23 đến 28-12: Tiến hành cuộc hành quân Regates với tiểu đoàn dù lê dương số 1 và
tiểu đoàn dù xung kích số 8 thuộc binh đoàn đổ bộ đường không số 2 tiến công thăm dò từ Sốp
Nạo đến Mường Khoa trên lãnh thổ Lào.
29-12: Tiếp tục vận chuyển bằng cầu hàng không lên Điện Biên Phủ: tiểu đoàn 5 thuộc
trung đoàn bộ binh Algerie số 7 và tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn pháo binh thuộc địa số 10 cùng
với một đại đội xe tăng Chaffee.
1954
Từ 1 đến 10-1: Cầu hàng không tiếp tục đưa lên Điện Biên Phủ: tiểu đoàn 3 thuộc
trung đoàn bộ binh lê dương số 3 và bộ phận đầu của binh đoàn cơ động số 6 gồm: tiểu đoàn 1
thuộc trung đoàn bộ binh Algerie số 2 và tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn bộ binh lê dương số 2.
Từ tháng 1 đến tháng 2: Hoàn chỉnh việc xây dựng các cụm cứ điểm xếp theo thứ tự A,
B, C… mang tên: Anne Marie, Béatrice, Cladine, Dominique, Éliane, Françoise, Gabrielle,
Huguette, Isabelle.
Từ 12 đến 16-2: Hành quân thăm dò các mỏm đồi phía Đông với sự tham gia của tiểu
đoàn dù lê dương số 1, tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn bộ binh lê dương số 3, tiểu đoàn 3 thuộc
trung đoàn bộ binh Algerie số 3, tiểu đoàn lính Thái số 3, tiểu đoàn dù xung kích số 8, tiểu đoàn 1
thuộc bán lữ đoàn lê dương số 13.
Từ 10 đến 13-3: Tiến công phòng ngự và phản kích lấp các chiến hào do Việt Minh đào
lấn bao vây cụm cứ điểm Béatrice gần bản Him Lam.
13-3: Sư đoàn 312 Việt Minh tiến đánh Béatrice lúc chập tối. Đến 2 giờ sáng, cụm cứ
điểm bị thất thủ.
14-3: Hai bên ngừng bắn từ 8 giờ đến 12 giờ để thu nhặt thương binh.
Tiểu đoàn dù lính Việt số 5 nhảy xuống tăng viện cho Điện Biên Phủ.
17 giờ: Sư đoàn 308 Việt Minh tiến đánh Gabrielle.
15-3: Tổ chức phản kích giành lại Gabrielle bằng hai đại đội lính dù lê dương, tiểu
đoàn 5 lính dù người Việt và một tiểu đội xe tăng. Đến 8 giờ cuộc phản kích bị chặn lại. Gabrielle
coi như hoàn toàn bị thất thủ vào 8 giờ sáng.
16-3: Tiểu đoàn 6 lính dù thuộc địa do Bigeard chỉ huy nhảy xuống tăng viện.
Đầu giờ buổi chiều hai đại đội lính Thái đóng ở Anne Marie 1 và Anne Marie 2 gần
Bản Kéo bỏ đồn, đào ngũ.
17-3: Một đại đội thuộc tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 cố chiếm lại Anne Marie 1 và Anne
Marrie 2 nhưng không đạt kết quả.
18-3: Việt Minh bắn pháo vào các cụm cứ điểm và sân bay. Hai cứ điểm còn lại ở Bản
Kéo là Anne Marie 3 và Anne Marie 4 được lệnh sát nhập với cụm cứ điểm bảo vệ sân bay, đổi tên
thành Huguette 6 và Huguette 7. Một đại đội lính dù người Việt do Rondeaux chỉ huy được điều
động đóng giữ Huguette 7 thay cho lính Thái đưa về khu Trung tâm.
19-3: Hai máy bay Dakota hạ cánh xuống đường băng sân bay, bị pháo bắn, chỉ một
chiếc hoàn thành nhiệm vụ.
20-3: Pháo tiếp tục bắn vào sân bay. 5 chiếc Dakota đã hạ cánh và cất cánh an toàn.
21-3: Nhiều cuộc giao tranh ác liệt trong đoạn đường từ khu Trung tâm đến phân khu
Nam, nơi đặt cụm cứ điểm Isabelle.
24-3: Tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 đụng độ với địch ở khu vực giữa cụm Claudine trên
dãy đồi phía Đông với Isabelle thuộc phân khu Nam.
25-3: Pháo Việt Minh đặt ở Bản Kéo bắn vào Huguette 7 bảo vệ đầu đường băng sân
bay.
Tiểu đoàn dù xung kích số 8 đụng độ với Việt Minh ở khu vực giữa các cứ điểm
Dominique 1 và 2, phía Đông phân khu Trung tâm.
26-3: Hành quân giải vây cho Huguette 7 bằng tiểu đoàn dù lê dương và tiểu đoàn dù
lính Việt. Trung uý Rondeaux bị thương. Đại uý Bizard được cử thay thế.
27-3: Các đơn vị liên tục cho quân ra lấp các chiến hào do Việt Minh đào lấn bao vây
cứ điểm.
Thánh lập thêm cứ điểm Opera ở phía Đông sân bay do một đại đội thuộc tiểu đoàn dù
xung kích số 8 đóng giữ.
28-3: Các lực lượng ứng chiến từ phân khu Trung tâm mở cuộc hành quân ra phía Tây
nhằm tiêu diệt các khẩu pháo cao xạ Việt Minh đặt tại bản Ong Pẻ và gần bản Pe. Tiểu đoàn dù
thuộc địa số 6 mở đầu cuộc tiến công, tiếp theo là tiểu đoàn dù xung kích số 8. Tiểu đoàn dù lê
dương đi sau tiếp ứng. Tiểu đoàn bộ binh lê dương số 1 làm nhiệm vụ hỗ trợ khi rút quân trở về.
Các xe tăng từ Isabelle cùng đi để yểm trợ hoả lực.
29-3: Một cứ điểm mới, mang tên Éliane 4 được thành lập do các đơn vị rút từ tiểu
đoàn dù thuộc địa số 6 và tiểu đoàn dù lính Việt số 5 cùng đóng giữ.
Việt Minh xiết chặt vòng vây quanh các đồi phía Đông.
30-3: Trung tá Langlais đi kiểm tra các cụm cứ điểm mang tên Dominique và Éliane,
quyết định đưa đại đội 4 lính dù người Việt đến đóng tại Dominique 1 và tăng cường thêm cho
Éliane 2 một đại đội thuộc tiểu đoàn dù lê dương số 1.
Các đơn vị tăng cường chưa kịp tới vị trí, Việt Minh đã mở cuộc tiến công.
Pháo chuẩn bị của Việt Minh bắt đầu bắn từ 17 giờ 30 phút. Một khẩu 155 và bốn khẩu
105 bị pháo Việt Minh phá huỷ ngay trong hầm đặt pháo. 18 giờ 45, bộ đội Việt Minh bắt đầu
xung phong, nhanh chóng chiếm lĩnh Éliane 1 và Dominique 2. Đến 21 giờ, Việt Minh chiếm
thêm Dominique 1 nhưng bị chặn lại trước Dominique 3. Tại Éliane 2 (trên đồi A1) lính lê dương
và lính Marocco bị đánh bật khỏi một số vị trí nhưng vẫn bám giữ.
22 giờ, sư đoàn 308 Việt Minh tiến công Huguette 7. 24 giờ, sư đoàn 316 Việt Minh
bám chân được vào khu đất dưới chân Éliane 2, mang tên Champs Élysées, nhưng vẫn không
chiếm được đỉnh đồi A1.
31-3: Huguette 7 bảo vệ đường băng vẫn giữ vững.
Éliane 2 bảo vệ khu Trung tâm sau khi nhận được tất cả các lực lượng ứng cứu có thể
huy động, vẫn tiếp tục chống cự.
10 giờ sáng, tiểu đoàn dù xung kích số 8 và tiểu đoàn dù thuộc địa số 7 cố giành lại
Dominique 2 và Éliane 1 nhưng không thành công, phải rút về sau khi bị thiệt hại nặng vào lúc 15
giờ.
17 giờ, Việt Minh tiếp tục tiến đánh Éliane 2 nhưng cứ điểm vẫn giữ vững sau suốt một
đêm chống cự ác liệt.
1-4: Tiểu đoàn dù lê dương số 1 và một đại đội của tiểu đoàn dù xung kích số 8 chiếm
lại được Champs Élysées.
Huguette 7 bị bắn pháo dữ dội. Bizard tạm thời dẫn một bộ phận rút khỏi cứ điểm
nhưng đến tờ mờ sáng hôm sau họ quay trở lại, chiếm lại toàn bộ các vị trí. Đến 10 giờ, đại đội bộ
binh lê dương do Spozio chỉ huy tới thay thế đơn vị Bizard, chiếm đóng Huguette 7.
Trong ngày, những binh lính còn sống sót thuộc tiểu đoàn 1, trung đoàn bộ binh
Marocco số 4 tập hợp tại một cứ điểm vừa được thiết lập, mang tên Lily nằm ở khu vực giữa cụm
Huguette và cụm Claudine.
17 giờ, sư đoàn 316 tiếp tục tiến đánh Éliane 2. Các lính dù lê dương, lính dù hỗn hợp
Pháp - Việt, lính dù thuộc địa, lính dù xung kích, lính bộ binh lê dương, lính bộ binh Marocco luân
phiên chiến đấu chống cự suốt 36 giờ liên tục.
Ở phía Tây, Huguette 7 bảo vệ đầu đường băng bị Việt Minh chiếm vào lúc 21 giờ.
Mười hai lính lê dương còn sống sót chạy về được khu Trung tâm.
2-4: Tiểu đoàn số 2 thuộc trung đoàn dù thuộc địa số 1 bắt đầu nhảy xuống Điện Biên
Phủ, do Bréchignac chỉ huy.
Cho tới rạng sáng Éliane 2 vẫn giữ vững. Nhưng cứ điểm mang tên Françoise nằm lẻ
loi ở phía Tây, do lính Thái đóng giữ đã “bốc hơi” trong đêm.
Huguette 7 bị mất. Huguette 6 trở thành tiền đồn bảo vệ đường băng sân bay tiếp tục bị
Việt Minh tiến công.
Tiểu đoàn số 2 thuộc trung đoàn dù thuộc địa số 1 tiếp tục nhảy xuống Điện Biên Phủ.
Ban chỉ huy tiểu đoàn đặt tại Éliane 4. Lính dù người Việt trong cứ điểm đặt dưới sự chỉ huy của
Bréchignac.
3-4: Éliane 2 vẫn giữ vững sau 90 giờ chiến đấu ác liệt.
Buổi tối, Huguette 6 tiếp tục bị tiến đánh. Đại đội do Desmons chỉ huy thuộc tiểu đoàn
dù xung kích số 8 tiến theo đường mương thoát nước của sân bay đánh tạt ngang sườn quân địch.
Việt Minh phải rút lui.
Đơn vị cuối cùng thuộc tiểu đoàn 2, trung đoàn dù thuộc địa số 1, nhảy xuống phân
khu Trung tâm.
4-4: Vào lúc rạng sáng. Việt Minh tự động rút khỏi Champs Elysées (ở chân Éliane 2).
Cuộc chiến đấu liên tục trên đồi Éliane 2 kéo dài suốt 107 giờ, coi như tạm chấm dứt.
Trong khi đó, cuộc chiến đấu giành giật các cứ điểm Huguette bảo vệ đường băng sân
bay lại bắt đầu: vào lúc gần nửa đêm, bốn tiểu đoàn Việt Minh có pháo nặng yểm trợ lực xung
phong đánh chiếm Huguette 6. Đại đội Bailly thuộc tiểu đoàn dù xung kích số 8 xuất phát từ
Opera đến ứng cứu bằng cách tiến quân theo mương thoát nước nhưng được nửa đường thì bị
chặn lại. Đại đội Clédic thuộc tiểu đoàn 2, trung đoàn dù thuộc địa số 1 vừa nhảy xuống trong
đêm trước, đánh thẳng vào đường băng, buộc một tiểu đoàn Việt Minh bố trí ở điểm nút phải rút
lui.
5-4: Buổi sáng, đơn vị Clédic có thêm một đại đội do Le Page chỉ huy thuộc tiểu đoàn
dù xung kích số 8 tăng cường hoàn thành việc chiếm lại Huguette 6.
Tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn dù thuộc địa số 1 do Minaud chỉ huy tới thay cho đơn vị
Clédic rút về phía sau, chuyển thành lực lượng dự bị.
Từ 6 đến 8-4: Đại đội Bizard thay Minaud giữ Huguette 6.
Việc bảo vệ Éliane 2 được giao cho tiểu đoàn 1 thuộc bán lữ đoàn lê dương số 13 đảm
nhiệm, do thiếu tá Coutant chỉ huy.
Từ 9 đến 10-4: Chiến hào Việt Minh hoàn toàn vây chặt cụm cứ điểm Huguette 6. Lực
lượng ứng cứu di Trapp và Le Page chỉ huy mở cuộc hành quân chiếm lại Éliane 1. Buổi tối,
Charles và Minaud dẫn tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn dù thuộc địa số 1 tới thay quân.
Việt Minh lại tiến đánh. Bigeard tung hai đại đội dù lê dương do Martin và Brandon chỉ
huy, có hai đại đội dù người Việt do Guilleminot và Phạm Văn Phú tiến theo trợ lực. Đến rạng
sáng, lại đưa thêm một đại đội thuộc tiểu đoàn dù lê dương số 2 do Lecour Grandmaison đến tăng
cường thêm, nhằm chống lại cuộc tiến công của Việt Minh.
Từ 11 đến 12-4: Éliane 1 vẫn giữ vững.
Hoàn thành việc thả dù toàn bộ tiểu đoàn 2 lính dù lê dương.
Những lính dù thuộc tiểu đoàn 2, trung đoàn dù thuộc địa số 1 còn sống sót trên cứ
điểm Éliane 1 được sát nhập vào đại đội do thiếu uý Leguerre chỉ huy.
Từ 12 đến 13-4: Huguette 6 bị pháo bắn dữ dội. Việc tiếp tế lương thực, đạn dược và
nước uống rất khó khăn.
14-4: Việt Minh đã chiếm được một phần ba đường băng sân bay. Huguette 6 vẫn cố
giữ.
Éliane 1 và Éliane 2 tiếp tục chống cự.
15-4: Hai đại đội xuất phát từ Opera lấp các chiến hào do Việt Minh đào bao vây
Huguette 6.
Từ 16 đến 17-4: Phải huy động tới một tiểu đoàn lính chiến đấu để bảo vệ cho số phu
mang lương thực, đạn dược, nước uống cho Huguette 6.
Một giờ sáng, địch bất ngờ tiến công Éliane 1.
Các đại đội dưới sự chỉ huy của Clédic và Periou tổ chức đánh chặn.
17-4: Chỉ huy trưởng De Castries quyết định rút bỏ Huguette 6.
Từ đêm 17 đến 18-4: Tiểu đoàn dù lê dương số 1 được lệnh mở đường tiến qua hệ
thống chiến hào bao vây của Việt Minh đón đơn vị Bizard rút khỏi Huguette 6. Được nửa đường
thì vấp phải một tiểu đoàn Việt Minh, không sao tiến được nữa.
Đến 10 giờ, Bizard quyết định tự phá vây và đã rút về được Huguette 1 nhưng bị
thương vong tới 70% quân số.
18-4: Đại đội 4 thuộc tiểu đoàn 1 bán lữ đoàn lê dương số 13, do Chevalier chỉ huy
được lệnh thay quân cho đơn vị bộ binh lê dương đang đóng tại Huguette 1.
19-4: Sau một đêm chiến đấu, Chevalier đã tới được Huguette thay Spozio. Nhưng khi,
dẫn quân trở về khu Trung tâm, Spozio bị tiêu hao tới một nửa số quân còn lại.
20-4: Khoảng 100 lính “tình nguyện” chưa có bằng tốt nghiệp nhảy dù, nhảy liều
xuống Điện Biên Phủ.
21-4: Sau một đêm tương đối yên tĩnh, Việt Minh lại tiến đánh Huguette 1 nhưng
không đạt kết quả.
Đêm 22 rạng 23-4: Cứ điểm Huguette 1 bị tiến công từ mọi phía. Đến 1 giờ sáng liên
lạc điện thoại với Chevalier hoàn toàn bị cắt đứt.
23-4: De Castries quyết định giành lại Huguette 1.
Hồi 11 giờ trưa, tiêu đoàn dù lê dương số 2 được lệnh phản kích. Hai đại đội xuất phát
từ phía Nam Huguette 2 và hai đại đội từ phía Tây Opera cùng tiến về Huguette 1. 16 giờ, cuộc
phản kích bị Việt Minh đánh lui.
24-4: Tổ chức lại hệ thống phòng ngự. Opera bị rút bỏ. Lính trong cứ điểm hợp nhất
với đơn vị đang đóng tại Huguette 2.
25-4: Việt Minh tiến đánh Epervier (là một cứ điểm ở phía Nam Opera). Các hầm hố
trong cứ điểm đều ngập đầy bùn vì mưa suốt đêm.
Từ 26 đến 30-4: Pháo bắn liên tục. Việt Minh tiếp tục đào hào bao vây Huguette 4 và
Huguette 5.
Trong bốn đêm liền, khoảng 300 lính tình nguyện nhảy dù xuống Điện Biên Phủ.
Từ 1 đến 2-5: 17 giờ, pháo Việt Minh bắt đầu bắn chuẩn bị, mạnh nhất và kéo dài nhất
kể từ ngày bắt đầu chiến dịch. Pháo bắn suốt ba tiếng đồng hồ.
Từ 20 giờ 30, Éliane 1 và Éliane 2 bắt đầu bị bộ đội Việt Minh xông vào cứ điểm.
Khoảng tờ mờ sáng, Éliane 1 vị Việt Minh hoàn toàn chiếm lĩnh, Éliane 2 vẫn tiếp tục chống cự.
Ở mặt phía Tây, sau khi tiến công thăm dò Huguette 4 và Lily, Việt Minh bắt đầu tiến
đánh Huguette 5. Đến 3 giờ sáng, Huguette 5 bị chiếm lĩnh. Một cuộc phản kích từ Huguette 2
đánh sang bị Việt Minh chặn đứng ngay trước lớp hàng rào kẽm gai của Huguette 5.
Đêm 2 rạng sáng 3-5: Việt Minh tiếp tục tiến công gây sức ép ở mặt Đông, nhằm vào
Éliane 2 và Dominque 3.
Ở mặt Tây, sức ép của Việt Minh nhằm vào Huguette 4.
Rạng sáng, Dominique 3 bị chiếm lĩnh.
Đêm 3 rạng 4-5: Pháo bắn suốt đêm.
Đại đội 2 thuộc tiểu đoàn dù thuộc địa số 1 nhảy xuống ngay khu vực đặt sở chỉ huy
Trung tâm, lập tức được đưa ngay lên Éliane 2 là nơi tiểu đoàn 1 thuộc bán lữ đoàn lê dương số 13
đã chiến đấu suốt 72 giờ.
Việt Minh đào một đường hầm dưới Éliane 2 đặt thuốc nổ.
4-5: Đại đội 3 thuộc tiểu đoàn dù thuộc địa số 1 tới tiếp viện cho đại đội 2 đóng tại
Éliane 2 vào lúc rạng sáng. Tiểu đoàn 1 thuộc bán lữ đoàn lê dương số 13 tuần tự rút lui.
5-5: Trời mưa cản trở việc thả dù. Chỉ có khoảng gần hai trung đội nhảy được xuống
Điện Biên Phủ.
Việt Minh củng cố các vị trí đã chiếm được tại Éliane 1 và Domonique 3.
6-5: Việt Minh tiếp tục tiến công Éliane 2 vào lúc gần tới đêm. Từng tiểu đoàn tiến
đánh theo nhịp độ nửa giờ rồi lại thay bằng tiểu đoàn khác. Khoảng 23 giờ khối thuốc nổ trong
đường hầm dưới cứ điểm Éliane 2 phát nổ, chôn vùi đại đội 2 của tiểu đoàn dù thuộc địa số 1.
Đại đội 3 tổ chức phản kích, đến 3 giờ sáng chiếm lại được đỉnh đồi.
7-5: Éliane 4 bị tiến công. Botella và Bréchignac không thấy trả lời qua điện đài.
Việt Minh quay trở lại tiến công. Éliane 2 sau khi đã chiếm được Éliane 4. Đến 5 giờ
sáng, Éliane 2 hoàn toàn bị Việt Minh chiếm lĩnh.
7 giờ sáng, Éliane 10 ở dưới chân Éliane 2 cũng bị chiếm.
8 giờ sáng, phần lớn các điểm tựa ở phía Đông bảo vệ cho sở chỉ huy Trung tâm đều
nằm trong tay Việt Minh.
Ở mặt Tây, Huguette 4 bị chiếm.
17 giờ 30 tiếng súng chấm dứt tại Điện Biên Phủ.
20-11-1953
Máy bay từ từ lấy độ cao. Nhìn xuống phía dưới, bên phải là quầng sáng màu vàng của
dãy đèn dọc cầu Dourmer (nay là cầu Long Biên) soi rõ mặt nước sông Hồng. Toà Nhà hát lớn, lờ
mờ trong bóng tối vẫn nổi bật ở đầu phố Paul Bert (Phố Tràng Tiền).
Máy bay tiếp tục lên cao. Hà Nội vẫn còn hiện rõ từng điểm vói những đường phố và
đại lộ có những cột đèn điện chiếu sáng giao nhau theo hình thước thợ. Đây là ngã tư phố Gia
Long (phố Bà Triệu) với khách sạn Ritz nổi bật như một khối hình hộp màu trắng trên nền đường
màu đen, kia là nhà ga nằm ở đại lộ De Lattre (đường Lê Duẩn), ngay đầu đường Gambetta
(đường Trần Hưng Đạo) có nhiều cây cao lá rậm. Xa hơn nữa về phía chân trời, có thể đoán được
vùng châu thổ đang chìm trong sương lam ở phía sau, còn phía trước là đỉnh núi Tam Đảo màu
đen trên nền trời đang sáng dần của ánh bình minh.
Đó là bốn giờ ba mươi phút sáng 20 tháng 11 năm 1953. Chiếc Dakota số 356 trong phi
đội số 2 của lực lượng không quân vận tải 64 mang tên Anjou đang tiếp tục cuộc hành trình trên
những đám mây dày che phủ lưng chừng núi Ba Vì ở phía Tây.
Chiếc Dakota vẫn bốc cao mãi. Cho tới khi lên tới đỉnh tột cùng theo qui định là 4.000
mét, lúc đó mới rẽ ngoặt 290 độ. Lúc này, máy bay đang trên vùng trời Sơn Tây, nơi sông Hồng
chảy xuôi về phía châu thổ.
Trong khoang máy bay, nhiệt độ xuống thấp. Mọi người phải mặc thêm một chiếc áo
nịt bông bên ngoài chiếc áo trậ. Riêng tướng Gilles vẫn chỉ mặc bộ đồ len kaki. Ông chủ đoàn
quân nhảy dù cau lông mày, nheo con mắt duy nhất còn lại, nhìn những đám mây đang như bị
luồng gió cánh quạt máy bay cuốn hút. Thỉnh thoảng, ông lại rút từ túi áo ngực ra một chiếc khăn
tay nhỏ, lau vành mi đang ứa nước từ chiếc mắt giả bằng thuỷ tinh.
Trước mặt tướng Gilles, chỉ huy đoàn quân đổ bộ đường không, là tướng Dechaux, Tư
lệnh lực lượng không quân chiến thuật miền Bắc Đông Dương, gọi tắt là GATAC - NORD. Tướng
Dechaux cũng đang nóng lòng sốt ruột cúi nhìn ra phía ngoài, ngang tầm với mẩu thuốc lá đã hút
xong nhưng vẫn còn ngậm trên môi của tướng Bodet, phó của Tổng tư lệnh Đông Dương Navarre.
Phó tổng tư lệnh Bodet, bộ mặt lạnh như phiến đá hoa, đang chăm chú theo dõi trên
bản đồ hành trình của chuyến máy bay, tuyệt đối không liếc nhìn ra phía ngoài một chút nào. Dưới
cánh máy bay lúc này chỉ là những đám mây dày đặc màu trắng, chồng chất lên nhau. Đó là một
thứ “mưa phùn khô” tạo thành một tấm màn che do gió rét và hơi ẩm trên vùng trời thượng du
Bắc Kỳ kéo tới che phủ rừng núi và thung lũng suốt phần lớn thời gian mùa Đông. Tuy nhiên, đôi
lúc tấm màn mây này cũng tự xé rách, để lộ ra một khoảng trời như cửa chiếc bẫy sập, nhìn xuống
phía dưới là một vực sâu có những bản làng người Thái bám chặt lấy những sườn núi đã chặt hết
cây cối, hoặc là những suối nước chảy dữ dội đổ vào sông Đà hay sông Hồng.
Từ loa phát thanh vọng ra tiếng nói khàn khàn:
- Máy bay đang trên vùng trời Yên Bái.
Tướng Bodet ấn ngón tay trỏ lên bản đồi. Bắt đầu từ thời điểm này, máy bay rời bỏ
vùng trời thung lũng sông Hồng để bay ngược lên vùng núi, tới vùng trời Nghĩa Lộ và Sơn La.
Ngồi ở chiếc ghế sau tướng Bodet, tướng Gilles vẫn không động đậy. Ông cũng không
cần theo dõi trên bản đồ. Vùng thượng du là khu vực ông đã biết rất rõ để có thể nói thẳng thừng
là đã “chạy thục mạng” hàng tháng trời suốt chiến dịch Thu Đông năm trước.
Đúng một năm trước đây, tướng Jeans Gilles hồi đó mới là một đại tá, cuối tháng 11
năm 1952 đang đón đợi cuộc tiến công của các sư đoàn thiện chiến Việt Minh tại một thung lũng
nhỏ trong xứ Thái, nằm giữa vùng núi Nghĩa Lộ và Sơn La, một tập đoàn cứ điểm xây dựng vội
vã nhằm ngăn chặn làn sóng tiến công của Việt Minh đang tràn khắp vùng thượng du, quét sạch
những đồn bốt nhỏ bé trong những thung lũng và trên đỉnh núi. Cứ điểm “con nhím” này đặt ở Nà
Sản, một địa danh nổi bật trên trang nhất báo chí khi tướng Giáp bất ngờ nổ súng tiến đánh vào
ngày 28 tháng 11 năm 1952. Sau 6 ngày giao tranh quyết liệt, giành đi giật lại từng vị trí, có lúc
tưởng chừng như Nà Sản sẽ sụp đổ tới nơi; nhưng cuối cùng các đơn vị lính lê dương và lính dù
đóng giữ tập đoàn cứ điểm này vẫn giữ vững, bộ đội Việt Minh phải rút lui.
Chiến công này đã nâng Jeans Gilles từ đại tá lên thiếu tướng. Hơn nữa, chiến công này
còn neo chặt trong đầu óc một sĩ quan tham mưu niềm tin vững chắc là những cứ điểm phòng ngự
kiểu “con nhím” ở vùng thượng du là giải pháp kỳ diệu để nhử mồi và đánh thắng lực lượng chủ
lực tiến công của Việt Minh chưa có đủ trang bị cần thiết để đánh chiếm những vị trí như thế này.
Đặc biệt, đó là quan điểm của đại tá Berteil, người thay Gilles làm Tư lệnh binh đoàn tác chiến
khu vực miền Trung sông Đà, gọi tắt là GORMON. Ngày 21-5-1953, khi Tổng tư lệnh Navarre
bất ngờ đặt chân xuống Nà Sản trong cuộc hành trình thị sát vùng thượng du, đại tá Berteil đã
nồng nhiệt bộc lộ ý kiến trên đây với cấp trên.
Nhưng riêng về phần mình, tướng Gilles lại có quan điểm khác. Là một người ưa hành
động, tướng Gilles không thể chịu được cảnh giam chân trong một cứ điểm kiểu “con nhím”, bị
vây bọc mọi phía, hoàn toàn phụ thuộc vào việc tiếp tế bằng máy bay, chờ đợi địch tiến đánh. Ông
muốn được có những cuộc hành quân táo bạo, trong đó được tự do vận động, nhử địch vào những
cạm bẫy để rồi nghiền nát bằng quả đấm của lính dù.
Đó là phần cuối trong ý niệm về cuộc hành quân chiếm lĩnh Điện Biên Phủ ngày hôm
đó. Nếu ông nhận cầm đầu lính dù của mình nhảy xuống tiến đánh Điện Biên Phủ, đó là do ông
nhận được lời hứa chính thức chỉ ở lại đây một thời gian ngắn, vừa đủ để tìm được người thay thế.
Một cơn đau tim gần đây nhất đã chứng minh, ông đang vượt qua giới hạn của sự dẻo dai về thể
lực. Ông bộc lộ với tướng Dechaux:
- Điện Biên Phủ không thể trở thành một Nà Sản thứ hai như tất cả những đầu óc trong
ban tham mưu ở Sài gòn nghĩ như vậy. Bởi vì, Việt Minh hẳn cũng đã rút kinh nghiệm về những
bài học thất bại ở Nà Sản năm ngoái. Hoặc là, tướng Giáp sẽ áp dụng các biện pháp cần thiết
nhằm ngăn cản không cho Điện Biên Phủ trở thành mối uy hiếp hậu phương Việt Minh, hoặc là sẽ
tiến đánh Điện Biên Phủ …
Tướng Gilles không nói thêm, nhưng vẫn khiến cho người nghe có cảm giác ông không
muốn bị chôn chân bó tay tại Điện Biên Phủ nếu Việt Minh tiến công.
Tuy nhiên, ông cũng cho biết, sau khi rút bỏ Nà Sản hồi tháng 8 vừa rồi, thì hiện nay
Điện Biên Phủ là một căn cứ ít tồi nhất ở vùng thượng du. Trong mọi trường hợp, Điện Biên Phủ
vẫn còn tốt hơn Lai Châu là điểm tựa duy nhất còn tồn tại trong vùng, mà mọi người vẫn thường
đánh giá là “một chiếc bô đi tiểu”.
Tướng Bodet nhìn ra phía ngoài máy bay, nhăn mặt khi thấy những đám mây mỗi lúc
một nhiều. Nếu vòm trời bị phủ kín mây, hoặc nếu có mưa, thì không thể nhảy dù xuống Điện
Biên Phủ.
Tướng Dechaux liếc nhìn đồng hồ đeo tay: 5 giờ 40 phút. Ông nói:
- Chậm nhất là một giờ nữa, ta sẽ về tới nơi.
Phía dưới máy bay, trời vẫn một màu mây trắng. Chỉ có một vài đỉnh núi như người
vừa chợt tỉnh ngủ, nhô đầu ra khỏi lớp chăn bông của mây. Dù sao mặt trời đã hiện ra ở phía
Đông, đang nhuộm những đám mấy tích điện to lớn một mày hồng thẫm.
Hoa tiêu nói qua loa phóng thanh:
- Chúng ta đang bay trên vùng trời Tuần Giáo.
Khoảnh khắc thực tế đang tới gần. Điện Biên Phủ chỉ còn cách 80 kilômét về phía Tây.
Hai mươi phút nữa. Tướng Gilles cúi đầu xuống, trề môi suy nghĩ. Cùng với mặt trời mọc, có vẻ
như cảnh “mưa phùn khô” cũng xuất hiện cho bầu trời nhuốm một màu xanh lơ nhạt dịu. Bây giờ,
những tia nắng đầu tiên của mặt trời đã làm màu xanh lơ trong trẻo chuyển thành màu xám bẩn
thỉu dày đặc sương mù.
Tướng Bodet và tướng Dechaux đưa mắt nhìn nhau. Suy cho cùng, chính tướng Bodet
trên cương vị Phó tổng tư lệnh là người chịu trách nhiệm nặng nề bật đèn xanh cho 1500 lính dù
của Bigeard và Bréchignac đang tập trung tại sân bay Bạch Mai và Gia Lâm từ 4 giờ sáng để
chuẩn bị lên đường nhảy xuống Điện Biên Phủ.
Tổng tư lệnh Navarre nói:
- Nếu thật thời tiết tốt mới nhảy.
Tối hôm qua, tướng Bodet cũng nhắc lại câu này với các chỉ huy tiểu đoàn nhảy dù:
- Nếu thời tiết tốt, sẽ nhảy.
Tướng Bodet không thuộc phái tán thành vô điều kiện cuộc hành quân Castor nhằm
chiếm đóng sân bay và toàn bộ thung lũng Điện Biên Phủ, tổ chức khu vực này thành một căn cứ
lục - không quân, tạo nên một then cổng khoá đường biên giới thông sang Lào, một con đập ngăn
chặn du kích Việt Minh, một bàn đạp xuất phát những cuộc hành quân tiến đánh vùng hậu phương
địch. Bodet là một phi công. Ông suy nghĩ trên cương vị chuyên môn về vận chuyển và yểm trợ
đường không. Mảnh đất Điện Biên Phủ, cách sân bay Bạch Mai Hà Nội 300 kilômét, cách sân bay
Cát Bi Hải Phòng 400 kilômét, là một sân bay hạn chế cho việc sử dụng thực tế tiềm năng của lực
lượng không quân hiện có tại Đông Dương của Quân đội viễn chinh Pháp.
Đã 6 giờ 10 phút.
Chiếc Dakota lượn một vòng rộng trên thung lũng Điện Biên Phủ. Tướng Bodet lại liếc
nhìn đồng hồ. Còn khoảng gần 50 phút nữa trước khi có thể ra lệnh hoãn cuộc hành quân Castor.
Trong khoang lái, những chuyên viên “công ty vận tải đường không” dán mắt vào
khung cửa kính. Họ không nhìn thấy gì ngoài những đỉnh núi cao 1500 mét hiện ra trên hướng Lai
Châu. Mấy người này trao đổi với nhau:
- Nhìn này, sương mù đang dày đặc thêm.
- Có vẻ như những triển vọng của cuộc hành quân Castor đang giảm dần theo từng giây
phút.
Đột nhiên, một vừng sáng màu đỏ chói đang biến mớ bòng bong màu xám loang lổ
thành những làn hơi nước. Mặt trời đã xuất hiện từ những đám mây. Khung cảnh đang ảm đạm trở
thành rực rỡ. Những dải sương mù bốc lên cao tan trong ánh sáng đang sà xuống thấp.
Trên thung lũng Điện Biên Phủ, sương mù như bị luồng gió nuốt chửng, đang bị tan, bị
xé, bị rách từng mảng để bộc lộ những thảm xanh tươi của ruộng đồng, những lùm đen sạm của
cây cối, những vệt sáng màu bạc của suối nước và dòng sông Nậm Rốm cuồn cuộn chảy.
Đã 6 giờ 37 phút.
Phó tổng tư lệnh Bodet thở phào, nhẹ nhõm. Ông lại gần tướng Gilles chỉ huy trưởng
cuộc hành quân:
- Có vẻ như trời hửng, đúng không?
Tướng Gilles không trả lời, chỉ gật đầu tỏ vẻ đồng ý. Vầng trán cầu thủ bóng ném của
ông lúc này đang cúi sát khung cửa sổ máy bay, ông cố phát hiện một vài dấu hiệu nổi bật của địa
hình phù hợp với những tấm ảnh chụp từ trên không mà ông vẫn còn nhớ như in trong óc. Đối với
ông, câu nói vừa qua của tướng Bodet chỉ còn đơn giản chứa đựng hàm ý: vài giờ nữa, hai tiểu
đoàn dù, những lính dù “của ông” sẽ đương đầu với thực tế gay go của cuộc chiến đấu. Và cuộc
chiến này nhất định sẽ xảy ra. Nhưng thắng lợi là chắc chắn. Tướng Gilles tin cậy vào hai tiểu
đoàn trưởng quân dù của ông là Bigeard và Bréchignac. Đó là hai sĩ quan chỉ huy hai đơn vị thiện
chiến có hiệu xuất tác chiến như nhau dù phong cách khác nhau.
Tướng Gilles lúc này mới quay đầu về phía tướng Bodet. Tướng Bodet vẫn đang tiếp
tục nhìn đồng hồ. Đã 6 giờ 52 phút. Phó tổng tư lệnh Bodet nói với tướng Dechaux, tư lệnh lực
lượng không quân chiến thuật miền Bắc Đông Dương:
- Phát lệnh theo quy định! Chúng ta bắt đầu cuộc hành quân Castor.
Số phận cuộc hành quân bắt đầu lúc 7 giờ sáng ngày 20-11-1953. Nhưng lúc đó, mọi
người vẫn chưa biết rõ vận mệnh cuộc nhảy dù sẽ ra sao. Bất kể tầm quan trọng như thế nào, kế
hoạch mang tên Castor, có nghĩa là con hải ly, vẫn là một kế hoạch tuyệt mật, được soạn thảo
trong phòng làm việc của tướng Navarre là Tổng tư lệnh, có trách nhiệm quân sự trên toàn bộ lãnh
thổ Đông Dương và kế hoạch này đã được chính phủ Pháp phê chuẩn trên tổng thể.
Tướng Navarre bắt đầu nhận nhiệm vụ Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Pháp ở
Đông Dương vào tháng 5 năm 1953, thay tướng Salan tới đây từ năm 1951 cùng với tướng De
Lattre. Khi vừa mới đặt chân tới Sài gòn, tướng Navarre đã phải nhanh chóng có một ý niệm cá
nhân về tình thế quân sự ở Đông Dương, những vấn đề ưu tiên cần thực hiện, những mục tiêu cần
đạt tới. Ông chỉ có một mình vì hầu hết các tư lệnh chiến trường và toàn bộ các sĩ quan tham mưu,
phần lớn các chỉ huy phân khu hoặc các binh đoàn đều đã hết nhiệm kỳ phục vụ, đang trở về
Pháp. Trong tổng hành dinh, các ghế chỉ huy đều trống vắng.
Một mình tướng Navarre phải tự tìm hiểu, tự tổ chức, tự quyết định mọi việc.
Lúc này, cuộc chiến tranh Đông Dương đã bước vào năm thứ tám. So với hồi đầu, Việt
Minh đã hoàn toàn thay đổi. Việt Minh ngoài việc kiểm soát được nhiều vùng lãnh thổ, đã thực tế
không còn thuần tuý duy trì chiến tranh du kích mà đã có một quân đội chính quy theo kiểu “cổ
điển” được Liên Xô, Trung Quốc giúp đỡ trang bị, có những tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn chủ
lực, một lực lượng pháo binh, một hệ thống hậu cần đúng qui ước. Ngoài ra, Việt Minh còn áp
dụng một chiến lược hướng về giai đoạn tiến công, điểm tột cùng của mọi cuộc chiến tranh cách
mạng.
Từ năm 1951, tướng De Lattre và phó của ông là tướng Salan đã phải đương đầu chật
vật với tướng Giáp: tại Vĩnh Yên hồi tháng Giêng, tại dãy núi Đông Triều hồi tháng 3, trên sông
Đáy hồi tháng 5 và trong thung lũng Nghĩa Lộ vùng thượng du hồi cuối tháng 10.
Năm 1952 không thấy Việt Minh tiến đánh vùng đồng bằng như phía Pháp chờ đợi.
Ngược lại, dù thất bại trong cuộc tiến đánh Nà Sản, Việt Minh vẫn kiểm soát được khu vực nằm
giữa sông Hồng và biên giới Lào, thông qua Điện Biên Phủ là thủ phủ của người Thái đen, và cửa
ngõ của tất cả những đường mòn dẫn tới sông Mekong.
Sau đó ít lâu, đến tháng 5 năm 1953, Việt Minh lại mở hai cuộc tiến công, một trận
đánh về phía Luang Prabang, một trận đánh về phía Viêng Chăn. Do thiếu lương thực tiếp tế, các
sư đoàn Việt Minh đã quay trở lại nửa chừng.
Đối với Tổng tư lệnh Navrarre cũng như toàn cơ quan bộ tổng tham mưu, chiến dịch
Thu Đông sắp tới của Việt Minh chắc chắn sẽ là một cuộc tiến quân nữa xuống phía Nam, tiến
đánh các tuyến phòng ngự của Pháp rồi từ đó đánh thẳng lên Tây Nguyên, chỉ cách Sài gòn 180
kilômét. Cùng trong chiến dịch này, Việt Minh sẽ tiến đánh Lai Châu, thành luỹ cuối cùng của
Pháp ở khu vực Tây Bắc.
Cũng có thể phải tính đến một cuộc tiến công vào vùng đồng bằng Bắc Bộ, nhằm kiểm
soát dân chúng và thu lúa gạo dùng để nuôi hàng chục ngàn bộ đội đóng trong rừng không sản
xuất được lương thực.
Để đối phó với hai nguy cơ này, Bộ tổng chỉ huy quân đội Pháp không còn cách lựa
chọn nào khác: hoặc là chuẩn bị thụ động đỡ đòn, như tướng Salan đã từng làm và đã từng bị phê
phán; hoặc là cố giành chủ động tiến công trước để cản phá những dự định của Việt Minh và buộc
tướng Giáp phải chấp nhận giao tranh trên một chiến trường không chuẩn bị sẵn và có thể bị thua.
Đó là dự định của tướng Navarre.
Cản phá tướng Giáp là chuyện dễ dàng, ít nhất cũng trên lý thuyết, vì tướng Navarre đã
phán đoán được thời điểm và đường tiến quân của tướng Giáp về phía biên giới Lào.
Thật vậy. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 8 sẽ ngăn cản việc vận chuyển bằng xe tải trên
các đường núi, và dù có tất cả một lực lượng công binh, tướng Giáp cũng không thể làm gì được
để chống lại địa lý thiên nhiên. Ở đây, địa hình là chủ soái.
Đi từ sông Hồng tới sông Mekong chỉ có hai con đường bộ có thể sử dụng cho xe cộ. Ở
phía Nam, đó là con đường đi qua Mộc Châu, vượt sông Đà ở Tạ Khoa, ngược lên Sầm Nưa và
Cánh đồng Chum để tiến về Viêng Chăn. Ở phía Bắc, đó là con đường đi qua Nghĩa Lộ, Sơn La,
theo quốc lộ 41 qua Điện Biên Phủ để tiến về Luang Prabang.
Kế hoạch do Tổng tư lệnh mới là tướng Navarre soạn thảo còn ôm ấp những tham vọng
lớn hơn. Đó là, bám chân lại tại một vùng đất mà Việt Minh đã kiểm soát từ năm 1947 nằm trên
dải đất ven biển giữa đường đi từ Bắc vào Nam, từ Hà Nội đến Sài gòn.
Chiến dịch đánh chiếm khu vực này được đặt tên mật là Atlante, cần thiết phải huy
động phần lớn nhất các phương tiện chiến tranh hiện có. Nhất định, việc đánh chiếm vùng Việt
Minh gọi là Liên khu 5 sẽ buộc tướng Giáp phải giữ lại các sư đoàn 304 và 320 đã chuẩn bị sẵn
sàng tiến vào vùng đồng bằng Bắc Bộ để hướng về miền Nam, giữa vùng núi và ven biển.
Chỉ còn lại một việc nữa là cản đường Việt Minh tiến sang Lào. Từ tháng 1 năm 1953,
trong chỉ thị mật số 40, tướng Salan lúc đó là Tổng tư lệnh đã viết “Việc chiếm đóng Điện Biên
Phủ phải được tiến hành trong thời gian tới, coi như giai đoạn đầu trong việc kiểm soát toàn bộ xứ
Thái và loại bỏ hết Việt Minh trên lãnh thổ miền Tây sông Đà”.
Đại tá Berteil thay tướng Gilles chỉ huy tập đoàn cứ điểm Nà Sản hồi đó đã trở thành
một người tán thành vô điều kiện việc xây dựng các tập đoàn cứ điểm phòng ngự kiểu “con
nhím”, tích cực hưởng ứng chỉ thị nói trên của tướng Salan. Sau đó, ông đã được cử làm trưởng
ban tác chiến tại Tổng hành dinh, cơ quan tham mưu tối cao đặt trụ sở tại Sài gòn.
Luận điểm của Berteil không thiếu lý lẽ chính đáng: Điện Biên Phủ có đầy đủ yếu tố
nhằm hoàn thành ba nhiệm vụ được giao phó. Đó là: cản đường Việt Minh tiến sang Lào; xây
dựng căn cứ biệt kích chống cộng sản đang phát triển dần tại thung lũng thượng nguồn sông Hồng
(như căn cứ biệt kích Cardamone) tới quốc lộ 41 và đến tận sông Mã (như các căn cứ Calamar,
Colibri, Aiglon) và cả trong khu vực Lai Châu (như căn cứ Pamplemousse)…; cuối cùng tạo thành
một bàn đạp xuất phát tầm trung bình đánh vào các tuyến giao thông của địch.
Đại tá Berteil cũng như đại tướng Navarre đều không có ý niệm xây dựng Điện Biên
Phủ thành một tập đoàn cứ điểm nặng nề phục vụ cho những đơn vị lớn (để rồi trở thành một cái
vực sâu thu hút các tiểu đoàn), mà ngược lại, chỉ muốn xây dựng Điện Biên Phủ thành một căn cứ
phòng ngự nhẹ nhàng thay cho Lai Châu nằm ở một vị trí đã bị nhận xét là không thể giữ vững
được khi xảy ra một cuộc tiến công lớn của Việt Minh.
Hơn nữa đối với những cư dân sống tại những thung lũng thượng nguồn sông Đà của
Việt Nam qua Lào tới tận Thái Lan, Điện Biên Phủ sẽ là thủ đô của xứ Thái, biểu tượng của các
dân tộc Thái.
Tên thật của Điện Biên Phủ được gọi là Mường Thanh, một bản làng to lớn với những
nhà sàn mái tranh dựng trên cột gỗ, nằm giữa một thung lũng lớn có những đồn ruộng sản xuất ra
một loại gạo ngon nhất miền Bắc Đông Dương. Được che chở bởi những ngọn núi hình thành từ
những đợt chấn động đã tạo ra dãy Himalaya, Mường Thanh là một khu biệt lập từ nhiều thế kỷ đã
được các dân tộc Thái coi như một thiên đường, một cái nôi của chủng tộc tách biệt với những
biến động bên ngoài.
Năm 1870, khi bọn giặc từ dãy Thập vạn đại sơn ở Vân Nam tràn xuống uy hiếp
Mường Thanh, vua Thái là Đèo Văn Tri đã khẩn cầu Pháp giúp đỡ và đã ký với Auguste Pavie
một hiệp ước chấp nhận sự bảo hộ của Pháp đối với xứ Thái. Mường Thanh trở thành một trung
tâm cai trị của chính quyền Pháp từ năm 1880 và sau đó đã bị đổi tên thành Điện Biên Phủ, có
nghĩa là một “huyện lỵ ở biên giới”.
Trong vòng hơn 60 năm, các cư dân Điện Biên Phủ sống trong hoàn cảnh bình dị,
không có chuyện gì đặc biệt. Địa điểm này đúng là một thị trường giao lưu kinh tế trong vùng.
Đến ngày phiên chợ, người Mông rời làng xóm cheo leo trên những tầng mây, xuống núi đến Điện
Biên Phủ, đem thuốc phiện đổi lấy những thỏi bạc trắng. Người Dao có những mớ tóc bôi sáp
dính chặt với nhau như gắn si, tới đây mua muối đã được vận chuyển từ vùng ven biển châu thổ
theo con đường 41 xuyên rừng núi, tới Điện Biên Phủ.
Năm 1940, quân Nhật kéo tới, phá vỡ cảnh thanh bình của người Thái, bắt họ phải đi
phu xây dựng một đường băng cất cánh và hạ cánh cho máy bay. Chính tại sân bay dã chiến này
Nhật Bản đã cho máy bay chiến đấu ném bom Trung Quốc và giao chiến với máy bay Mỹ ở Vân
Nam.
Năm 1945, quân Nhật phải ra đi, quân Trung Quốc (của Tưởng Giới Thạch) lại kéo tới.
Rồi quân Pháp tới thay thế quân đội Tưởng Giới Thạch, lấy lại vị trí đã buộc phải rời bỏ.
Người Pháp dựng Đèo Văn Long lên làm tay sai, coi như một ông vua xứ Thái, bên
cạnh một viên quan cai trị người Pháp với một trung đội lính Senegal, làm nhiệm vụ canh gác.
Năm 1952 những đơn vị chủ lực đầu tiên của Việt Minh đặt chân tới Điện Biên Phủ.
Những người dân Thái hiểu rằng Điện Biên Phủ là một bộ phận không thể tách rời khỏi nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà, nhiều người đi theo tư tưởng mác-xít. Nhưng, cũng có những người lên
Lai Châu là nơi Đèo Văn Long vẫn đang ngự trị như một lãnh chúa của liên bang Thái. Một số
khác rút vào rừng chiến đấu chống Việt Minh dưới sự chỉ huy của Pháp.
Tháng 5 năm 1953, một chiếc máy bay Dakota đã hạ cánh xuống sân bay chở theo
khoảng 30 lính dù biệt kích người Thái đã được huấn luyện nhưng sau đó đã bị tiêu diệt.
Đối với tướng Navarre cũng như toàn ban tham mưu của ông, việc nhảy dù chiếm đóng
Điện Biên Phủ ngày 20-11-1953, chỉ là một hành động tất yếu nằm trong chiến lược đã hoạch
định. Đó là một cuộc hành quân phòng ngừa có tính chất chiến thuật dẫn đến những lợi thế tiếp
theo. Theo kế hoạch ban đầu, sau khi đã khôi phục lại sân bay, chỉ đưa lên vùng thượng du Tây
Bắc một lực lượng nhỏ gồm sáu hoặc bảy tiểu đoàn, trong đó phần lớn là từ Lai Châu sẽ rút về
trong những tuần tiếp theo. Đó là cuộc hành quân thứ hai mang tên Pollux.
Vẫn theo kế hoạch đã định, tướng Navarre dự tính trong bất cứ trường hợp nào, tổng số
lính Pháp chiếm đóng Điện Biên Phủ cũng không vượt quá 4% toàn bộ số quân lực lượng viễn
chinh Đông Dương. Với số lính này, người ta đã tin rằng có thể tiến hành các hoạt động quân sự
theo dự kiến, trên lãnh thổ tận cùng của bán đảo Đông Dương. Trong trường hợp bị uy hiếp mạnh,
cũng đã tính đến khả năng rút toàn bộ doanh trại Điện Biên Phủ sang Lào.
Rất rõ ràng, tất cả mọi tính toàn trên đây đều dựa trên ý định cơ bản, nhưng đã không
tính đến phản ứng của đối phương. Bởi vì, tướng Giáp không thể thờ ơ trước mưu đồ giành lại
quyền chủ động tiến công của Pháp. Hơn nữa, tướng Giáp vẫn đang nuôi ý định tiến quân đến tận
sông Mekong. Việc nắm giữ Điện Biên Phủ trong tay là rất cần vì địa điểm này nằm trên đường
tiến, ngoài ra không còn đường nào khác trừ việc phải bạt núi hoặc nấp thung lũng.
20-11-1953
- Đứng dậy! Kiểm tra trang bị!
Từng nửa tiểu đội gồm mười hai người, các lính dù xiết chặt hành trang, cầm chắc vũ
khí. Hầu hết mọi người, ngoài trang bị cá nhân, còn phải mang thêm những bộ phận súng cối 81
hoặc 60, các thùng đạn súng máy hoặc đạn pháo. Với dáng điệu vụng về, người nọ va vấp đụng
phải người kia, họ lầu bầu văng tục và chửi rủa cả tấm ván sàn bấp bênh có thể làm cho họ nhảy
vọt ra cửa máy bay thiếu chính xác.
Đợt đầu cuộc hành quân Castor gồm 65 máy bay Dakota đã bay tới đoạn chót sau khi
vượt qua đỉnh đèo Mèo, thung lũng Tuần Giáo chìm ngập trong sương, từ trên đường 41 lượn một
vòng rộng tới trục nhảy trên cánh đồng Điện Biên Phủ rồi bay thẳng thành một vệt dài theo hướng
Nam Bắc.
Tốp đi trước gồm 33 máy bay, dưới sự chỉ huy của thiếu tá Fourcaut, mật danh là “Ông
Sếp Vàng” có nhiệm vụ thả dù xuống bãi nhảy mang tên Natacha ở phía Tây Bắc bản Kéo. Tiểu
đoàn dù thuộc địa số 6 do Bigeard chỉ huy, có thêm một đại đội công binh làm nhiệm vụ sửa sang
ngay sân bay sau khi nhảy xuống đất.
Tốp thứ hai gồm 32 chiếc DC-3 dưới sự chỉ huy của thiếu tá Martinet, được gọi trong
điện thoại vô tuyến là “Ông Sếp Đỏ”, thả dù xuống bãi mang tên Simone cách trung tâm Điện
Biên Phủ 4 kilômét về phía Nam.
Trong khoang máy bay rất lạnh. Do cửa mở nên gió từ ngoài lùa vào rất buốt giá.
Nhiều lính dù đã phải mặc thêm tới hai chiếc áo len dưới lớp áo nhảy dù mà vẫn thấy lạnh. Một số
lính khác mặc lót bên trong bằng bộ đồ nịt thể thao. Một số nữa như trung đội trưởng Allaire chỉ
đơn giản giữ lại bộ đồ ngủ bên trong bộ quần áo nhảy dù.
Phía chân trời lúc này đã hoàn toàn tan sương. Trên vòm trời nhẹ, mặt trời đã chiếu
sáng. Nhìn xuống phía dưới những đống rơm rạ sau vụ gặt đang điểm những đốm vàng trên đồng
ruộng. Đây đó, từ những mái nhà sàn, những cột khói nhẹ, bốc thẳng lên cao, chứng tỏ không có
gió trên mặt đất.
Mặc dù cách xa nhau hàng mấy cây số theo đội hình trải dài của máy bay, Bigeard và
Bréchignac cùng nhìn đồng hồ khi chuẩn bị nhảy: 10 giờ 35 phút!
Bréchignac hét vào tai phó của mình là trung uý Abadie:
- Chậm mất năm phút rồi!
Tiếng động cơ lọt qua cửa mở kêu ầm ĩ. Hai sĩ quan phải gào thét vào tai nhau mới
nghe rõ:
- Dưới đất đông người lắm, thưa thiếu tá!
Bréchignac cúi xuống nhìn. Dưới cánh máy bay hiện rõ những bóng người trên đồng
ruộng, Bréchigac trả lới Abeide:
- Đó là dân thường. Không thấy mang vũ khí!
Liếc nhìn điểm báo trong máy bay, Bréchignac ngạc nhiên khi thấy vẫn để đèn đỏ,
đáng lẽ phải bật đèn xanh để nhảy từ sáu phút rồi. Nhìn xuống dưới, cũng không thấy những đặc
điểm của bãi nhảy dù như đã ghi trong những tấm ảnh chụp từ trên không. Abadie hỏi:
- Ta đang ở đâu thế này?
Bréchignac nhún vai tỏ ý không biết. Trong đầu thiếu tá vụt lên những nỗi lo sợ từ đêm
trước. Khi được phổ biến là máy bay sẽ chỉ bay một lượt để có thể thả xuống toàn bộ tiểu đoàn dù,
Bréchignac đã lưu ý các phi công những rủi ro của sự tản mát khi toàn bộ số lính dù tiếp đất. Ông
đã hỏi:
- Lúc thả dù các anh bay theo tốc độ nào?
- Không dưới 170 kilômét một giờ.
Một bài toán cấp tốc. Một đội 24 lính dù đã tốt nghiệp cũng phải mất từ một phút rưỡi
đến hai phút mới nhảy hết ra khỏi máy bay. Trong thời gian hai phút đó, máy bay đã bay được một
đoạn đường dài tới ba kilômét.
“Như vậy là toàn tiểu đoàn sẽ tiếp đất từ năm đến sáu kilômét từ người đầu đến người
cuối”. Bréchignac kết luận như vậy. Hơn nữa nếu máy bay lại thả không đúng chỗ thì …
- Nhảy!
Một tiếng hô vang qua loa phóng thanh.
Đối với Bréchignac, thời điểm của mọi vấn đề đã đến. Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2
thuộc trung đoàn nhảy dù thuộc địa số 1 lao ra khỏi cửa máy bay, nhảy vào khoảng không. Theo
gót ông là tiểu đoàn dù. Ông cũng chỉ là một người lính chiến như toàn đơn vị.
Ngay khi tiếp đất, Bréchignac nhận rõ ngay, những điều ông lo sợ hôm nọ là đúng.
Không chỉ toàn bộ tiểu đoàn của ông rơi khắp mọi phía mà chỉ đảo mắt nhìn ông cũng đã biết
ngay các phi công đã thả dù chệch mục tiêu, cách bãi đáp những hai kilômét về phía Nam.
Trong lúc này, cách Bréchignac tới 10 kilômét, Bigeard và tiểu đoàn dù thuộc địa số 6
cũng đang lủng lẳng trên cao, dưới những sợi dây dù. Họ cũng nhìn thấy những bóng người dưới
đất đang chạy ùa về phía họ. Nhưng đó không phải là dân làng chạy đi tìm nơi trú ẩn mà là bộ đội
Việt Minh đang đón đánh!
Bigeard cau mặt. Ở Hà Nội, ông được ban tham mưu cho biết tại địa điểm nhảy dù chỉ
có khoảng hai đại đội bộ binh cùng với một đại đội súng cối. Nhưng giờ đây có vẻ như đông hơn.
Do một sự trùng hợp bất hạnh, hình như bộ đội Việt Minh đang tập đánh quân nhảy dù, đúng vào
lúc lính dù của Bréchignac đang rơi xuống.
Để “đón tiếp” 651 lính dù của Bigeard và 52 lính công binh đi theo, hình như Việt
Minh cũng có một số quân tương ứng và có hoả lực súng cối trội hơn. Hơn nữa, Việt Minh còn có
lợi thế là ở sẵn dưới đất, tập trung, sẵn sàng giao chiến, trong khi lính dù rất dễ bị nhằm bắn khi
đang rơi lẻ loi từng người, nặng trĩu các hành trang, thiết bị, xe cộ, vũ khí nặng hãy còn đóng gói,
nhảy xuống một bãi đất không rõ địa hình. Ngay khi vừa lao ra khỏi cửa máy bay, họ đã làm mồi
cho bộ đội Việt Minh nhằm bắn. Từ tất cả những bụi cây, những hàng rào, các luồng đạn bắn lên
trời nhằm vào những lính dù đang treo lơ lửng và tiểu đoàn dù số 6 của Bigeard đã bị thương vong
ngay trước khi có thể bắn lại. Đại uý quân y Raymond bị bắn chết ngay trong khi đang rơi và ngay
trong trận nhảy dù đầu tiên của đời ông.
Nếu khi còn ngồi trong máy bay, các binh sĩ dù của tiểu đoàn số 6 còn có ảo tưởng về
tính chất dễ dàng của cuộc hành quân Castor thì đã vỡ mộng ngay sau khi kết thúc cuộc hành trình
trên không và càng lo sợ sau khi vừa mới chạm đất.
Bãi nhảy mang tên Natacha là một cánh đồng có nhiều ruộng cũ bỏ hoang, phủ đầy cỏ
dày cao tới 2 mét, thường gọi là cỏ voi. Những lính dù nhảy xuống trảng cỏ này bị ngập luôn
trong lớp cỏ như bị bịt mắt. Hơn nữa, họ lại rơi tản mát, toàn tiểu đoàn trải dài tới gần 6 kilômét.
Đại đội 4 của trung uý De Wilde rơi lạc về phía Bắc tới chân một quả đồi cây cối rậm rạp hình quả
trám, được binh lính đặt luôn cho cái tên là “Ngư lôi” (Sau này Pháp xây dựng tại đây cụm cứ
điểm Gabrielle) trong khi đại đội 1 của Le Page lại rơi xuống gần một bản làng. Đại đội 3 của
trung uý Magnillat nhảy xuống gần đường băng sân bay cũ. Đại đội 2 của Trapp nhảy xuống khu
đất giữa nhánh sông của Nậm Rốm và quả đồi Alpha của Bản Kéo (Sau này trở thành cụm cứ
điểm Anne Marie). Những binh sĩ trong cơ quan tiểu đoàn bộ rơi xuống lưu vực sông Nậm Luang
ở phía Tây bãi thả các vật liệu mang tên Octavie.
Bộ đội Việt Minh có mặt khắp mọi nơi. Những tốp bộ đội bị lính dù tách khỏi ban chỉ
huy vẫn tự động chiến đấu bắn lại những lính dù chưa kịp gỡ dù. Một lính dù ngồi trên chiếc xe
vừa được thả xuống lái vào một bản gần bãi nhảy, gặp luôn một bộ đội (từ “bộ đội” được viết theo
tiếng Việt trong nguyên bản) Việt Minh đang nấp sau khung cửi. Các binh lính Việt Minh chưa rút
khỏi làng tạo thành một hàng rào bảo vệ ở phía ngoài, có vẻ như để cơ quan chỉ huy bên trong kịp
rút lui an toàn.
Trong nhiều giờ đầu đã xảy ra một loạt những cuộc giao tranh nhỏ nhưng cực kỳ dữ
dội, lính dù đã phải hết sức chiến đấu để tránh khỏi bị tiêu diệt.
Dần dần, qua nhiều hành động tác chiến, các đơn vị dù đã bắt được liên lạc với nhau.
Bigeard hét khản cổ qua máy vô tuyến để tập hợp các trung đội. Trước khi lên máy bay, đã qui
định sau khi chạm đất các đại đội sẽ đốt khói có màu sắc khác nhau để tập hợp đơn vị. Nhưng
ngay từ sân bay Bạch Mai, những ống khói này đã bị xếp lẫn lộn, cho nên binh lính bị lạc lung
tung, chạy đến tập hợp tại đơn vị mình lại nhầm sang đơn vị bạn.
Các lính dù đã phải nổ súng liên lạc từ bụi cây này sang bụi cây khác, từ bờ đê nọ đến
bờ đê kia, trong một cuộc giao tranh hỗn loạn không thể nào giữ được kế hoạch đã định. Bộ đội
Việt Minh lẩn cả vào trong tiểu đội sục sạo mũi nhọn của trung sĩ Gaillard thuộc đại đội 1. Nhiều
lính Việt choàng luôn mảnh vải dù loang lổ vừa nhặt được lên người để trà trộn.
11 giờ 35 phút, Gaillard bị một viên đạn bắn trúng giữa trán. Nhận được tin này,
Bigeard đã gục đầu chán nản vì Gaillard là một trong những người lính cũ thân cận của Bigeard.
Ở mặt Bắc, Trapp và đại đội 2 đã thiết lập được vị trí tại rìa Bản Kéo đối diện với
những dãy đồi Alpha. Nhưng ngay sau đó đã bị trọng liên địch bắn tạt sườn. Phía sau là những
tiểu tổ đang tìm cách cắt rời đơn vị của Trapp với toàn tiểu đoàn. Đơn vị Trapp đã bị một số
thương vong. Peressin phụ trách điện đài, bị trúng đạn vớ ngực. Đại đội 2 dù đã tập hợp được vẫn
ở trong tình thế nguy hiểm mà tiểu đoàn trưởng Bigeard không có cách nào cứu ứng được vì toàn
bộ hoả lực nặng của tiểu đoàn đã thả dù lạc sang bãi Simone cách xa 6 kilômét về phía Nam. Ông
phải gọi điện cho Allaire:
- Allaire, bắn mạnh yểm trợ cho Trapp ở rìa dãy đối Alpha.
Allaire cau mặt. Ông chỉ còn có 3 quả đạn pháo.
Ngày 20 tháng 11 năm 1953 là một ngày đen đủi đối với lính dù. Nếu tiểu đoàn của
Bréchignac được thả đúng bãi nhảy và nếu toàn bộ tiểu đoàn 1 tập hợp được nhanh chóng thì đã
có thể bao vây tiêu diệt được cơ quan chỉ huy mà quân báo Pháp cho là một sở chỉ huy trung đoàn
của Việt Minh.
Đã 12 giờ rưỡi trưa. Lính dù đã nhảy xuống thung lũng được đúng 2 tiếng đồng hồ. Le
Page dẫn đầu đại đội 1 bắt đầu sục vào trong làng, có đại đội 3 của Magnillat tiếp ứng. Quân Việt
chia thành từng nhóm nhỏ, rút ra ngoài.
Ở mặt Bắc, cuối cùng thì Trapp cũng đã thoát khỏi tình thế nguy hiểm sau khi được đội
biệt kích số 3 do trung uý Samalens tới ứng cứu. Samalens mới tới tiểu đoàn sáng sớm hôm nay,
nhưng đã chiến đấu như một cựu binh. Đội biệt kích của ông gồm khoảng 20 lính xứ Bắc kỳ
người nhỏ nhắn nhưng rắn rỏi đã chạy xuyên rừng kịp thời tới cứu viện cho đơn vị dù của Trapp
và lúc này Trapp đã làm chủ trận địa.
Còn trung uý De Wilde thì đang tức sùi bọt mép. Đơn vị ông rơi quá xa nơi xảy ra
chiến sự. Ông chỉ còn biết nghe qua máy vô tuyến những báo cáo của các đơn vị bạn một cách
nuối tiếc.
Bigeard đã gặp Le Page. Ông đặt sở chỉ huy tiểu đoàn trong ngôi nhà đầu tiên của
người Thái ngay lối vào thung lũng Điện Biên Phủ. Các máy vô tuyến đã được đặt tại nơi làm
việc. Cần ăng-ten đã giương cao. Binh lính, kể cả lính văn phòng, hối hả đào công sự chiến đấu.
Le Page đứng tách riêng ra một chỗ kiểm điểm quân số. Sáu người chết, trong đó có 2
hạ sĩ quan là Gaillard và Martelino. Mười một người bị thương trong đó có trung sĩ Le Goail bị
đạn xuyên qua phổi.
Ở phía Nam, ngay sau khi tập hợp xong, tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn dù thuộc địa số 1
do Bréchignac chỉ huy lập tức đi dọc theo bờ trái sông Nậm Rốm ngược về phía trung tâm Điện
Biên Phủ. Cuộc tiến quân gặp trở ngại vì còn phải bảo vệ cho cơ quan chỉ huy của binh đoàn đổ
bộ đường không cùng nhảy dù với đơn vị. Trung tá Fourcade cầm đầu cơ quan chỉ huy đã nhảy dù
xuống trước như một trinh sát viên mũi nhọn, bất chấp nguy hiểm, để được cùng chiến đấu với
tiểu đoàn 6 của Bigeard. Khi Fourcade tới vị trí chỉ huy của Bigeard ông đã không được tiếp đón
nồng nhiệt lắm vì Bigeard đang rối bận vì những biến đổi xáo trộn trong các đại đội thuộc tiểu
đoàn của mình.
Một lát sau, Bréchiganc cũng tới Điện Biên Phủ. Ông nhận được nhiệm vụ phải cho
quân lùng sục, càn quét những dãy đồi phía Đông rồi thiết lập sở chỉ huy phòng ngự tại một pháo
đài đã đổ nát, do Pháp xây dựng từ lâu, trên quả đồi sau này được gọi là Éliane 2 (đồi A1).
Đầu giờ chiều, có thêm một tiểu đoàn dù thứ ba nhảy xuống thung lũng. Đó là tiểu
đoàn dù thuộc địa số 1 do thiếu tá Souquet chỉ huy, có số quân lên tới 711 binh lính, là tiểu đoàn
đông quân nhất trong cuộc hành quân Castor.
Tới chập tối 20 tháng 11 đã có tới 2.650 binh sĩ nhảy dù xuống Điện Biên Phủ tạo
thành một vành đai bao quanh bản làng, ở rải rác cả hai bên bờ sông Nậm Rốm. Bigeard và tiểu
đoàn dù thuộc địa số 6 đóng ở mặt Tây và Nam. Bréchignac và tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn dù
thuộc địa số 1 đóng ở dãy đồi phía Đông. Tiểu đoàn 1 của Souquet đóng ở bờ sông, có nhiệm vụ
bảo vệ mặt Bắc.
Vòm trời phủ kín mây báo hiệu sương mù dày đặc trong đêm. Mặt trời vừa lặn ít lâu,
hàn thử biểu đã xuống thấp tới 5 oC. Lính dù cuộn tròn trong vải bạt và vải ni-lông, tránh hơi ẩm
bốc lên từ mặt đất. Rất ít có lửa sưởi., trừ trong nhà sàn nơi đặt sở chỉ huy.
Một sự im lặng tràn ngập, nhưng thỉnh thoảng vẫn bị phá vỡ bởi những tiếng nói từ các
điện đài báo cáo tình hình với Hà Nội. Các sĩ quan đọc các báo cáo cho thư ký chép để chuyển về
Bộ tư lệnh Bắc Bộ của Cogny tại Hà Nội. Thống kê số thiệt hại sơ bộ:
“Thương vong khi đang nhảy:
Tiểu đoàn 6: 1 chết, 11 bị thương
Đại đội công binh: 2 bị thương.
Thương vong chiến đấu:
Tiểu đoàn 6: 10 chết, 31 bị thương
Đại đội công binh: 2 chết, 3 bị thương
Đơn vị pháo nhẹ: 2 chết.
Cơ quan binh đoàn đổ bộ đường không: 1 chết
Các phương tiện bị thiệt hại:
…
Những đốm lửa đã tắt. Làng bản chìm ngập trong bóng đêm. Thỉnh thoảng lại vang lên
một tiếng súng bắn lẻ, một loạt súng bắn vội, tiếng hô của lính canh, tiếng giày đinh nện trên mặt
đê báo hiệu đội tuần tra đang trở về. Cuộc chiến đấu buổi sáng đã lùi vào dĩ vãng.
Ngày N+2
21-11-1953
Từ sáng sớm ngày 21 tháng 11 năm 1953, “con nhím” Điện Biên Phủ đã có hình dáng
một ổ kiến hoạt động năng nổ, nửa phần là lâm trường, nửa phần còn lại là đại hội thanh niên
hướng đạo sinh quốc tế. Những đội tuần tra, liên lạc, lao động linh tinh, nhặt dù rơi vãi… tất cả
như một vũ khúc khó hiểu đổi với một khán giả mới đến. Vậy mà mỗi cử chỉ đều mang một ý
nghĩa riêng, hoà trong hoạt động chung. Bầu không khí nhộn nhịp ở đây trong lúc này chưa mang
đến tính chất dữ dội của chiến tranh. Những binh lính mới chỉ đang lao động, đào đất, chặt cây
hoặc đi dạo. Hôm trước bị phân tán lẻ loi trong cuộc nhảy dù, hôm nay họ đã lại gặp nhau bên
đường băng sân bay, chung quanh một cái nhà, bắt đầu kể lại cho nhay nghe những chuyện xảy ra
hôm trước và tranh cãi không ngừng về kế hoạch Castor trong nhà ăn.
Vài liên lạc viên phóng nhanh trên những chiếc xe đạp với vẻ quan trọng. Mỗi khi thấy
những chiếc xe máy được thả dù xuống hôm trước, dành riêng cho các sĩ quan, nổ máy ầm ỹ,
những người lính xe đạp vội nép vào một bên vì đường quá hẹp. Một số lính lê dương hoặc lính
dù cưỡi trên lưng những con ngựa thồ thấp lùn của người Thái, chân người cưỡi buông thõng sát
mặt đất.
Những bụi cây chung quanh làng đều bị đốt cháy, toả ra luồng hơi ấm của mùa thu.
Những đám dân phu phải làm công việc tạp dịch, đầm mình dưới lòng sông Nậm Rốm giặt giũ.
Đã có một số quần áo, vải vóc được phơi khô trên hàng rào cắm cọc tre.
Các vị trí đóng quân tuần tự được tổ chức. Những lính dù tin chắc sẽ phải đóng quân
dài ngày tại Điện Biên Phủ đang chuẩn bị đối phó với chuyện xấu nhất sẽ tới. Dưới cặp mắt xét
nét của các đại đội trưởng, các trung đội trưởng cẩn thận phân định điểm bắn cho các súng máy,
ấn định từng điểm cho binh lính đào hầm cá nhân. Các trung sĩ, hạ sĩ đi lại lăng xăng, đôn đốc
quát tháo đám binh nhì. Ở đây phải có cả uy lực lẫn kiên nhẫn mới có thể buộc đám lính dù có tập
quán hoạt động bay nhảy phải chôn chân trong hố. Ngay cả cung cách cầm cuốc xẻng như thế nào
cũng phải mắng mỏ dạy dỗ đám lính dù.
Mặc dù vậy, đám lính bắt buộc phải đào đất này vẫn rình mọi cơ hội để ngừng tay,
không chịu làm liên tục công việc của những con chuột chũi. Họ ngẩng mặt, vểnh mũi lên trời,
nhìn tiểu đoàn thứ tư đang nhảy xuống thung lũng. Đó là tiểu đoàn dù lê dương số 1.
Đã 10 giờ sáng.
Ở đầu bên kia làng, về phía Tây là bãi mang tên Octavie, lính của tiểu đoàn dù thuộc
địa số 6 đang làm công việc lao công là nhặt những kiện hàng vừa thả dù xuống. Một số làm công
việc đo đạc, ấn định chu vi dành cho nghĩa địa chôn cất những binh lính tử trận nhiều tại Điện
Biên Phủ. Bigeard đã quyết định dành cho binh sĩ bị chết trong cuộc đánh chiếm Điện Biên Phủ
bằng cách cho cắm một cột cờ ở chính giữa nghĩa địa này.
Vừa mới chạm đất, trung sĩ Zurell thuộc tiểu đoàn dù lê dương số 1 chưa kịp tháo bỏ
dù, mới chỉ đảo mắt nhìn quang cảnh đã nói:
- Tớ không ưa mảnh đất này. Đúng đó! Tớ không hề yêu thích chỗ này chút nào.
Tất cả những gì Zurell vừa nhìn thấy trên nghĩa địa như một điềm xấu báo hiệu trước
cho mình những chuyện chẳng lành. Mảnh đấy bẩn thỉu có những bụi cây hình như đang gặm
nhấm những đám ruộng hoang hoá như đang nhiễm bệnh, những dãy núi đen xạm, thù địch vẫn
còn vương vấn chút ít sương mù buổi sáng. Làn sương như bị xé rách khi có 675 lính dù lê dương
do Guiraud chỉ huy từ 34 chiếc máy bay Dakota nhảy xuống. Zurell quả là đã phải chịu đựng một
cách khốn khổ cảnh tượng xảy ra trên góc tận cùng của thế giới này.
Trung sĩ trưởng Romangin vỗ vai Zurell, cười nói:
- Rồi cậu cũng cố phải vượt qua thôi!
- Tất nhiên tôi sẽ cố vượt qua. Nhưng tôi vẫn thích hơn khi được ra khỏi nơi này.
Rồi Zurell cúi đầu, lặng lẽ suy nghĩ. Nếu anh có tài đánh hơi, chắc anh đã nhớ đến một
kinh nghiệm cũ không nên lặp lại ở đây. Đó là hồi tháng 10 năm 1950. Lúc đó Zurell là hạ sĩ của
chính tiểu đoàn dù lê dương số 1. Cũng một buổi sáng như thế này, Zurell đã nhảy xuống một dải
đất cũng giống nơi đây, có núi đồi rậm rạp vây quanh, để “hỗ trợ” cho một binh đoàn cơ động
đang gặp khó khăn ở Thất Khê trên đường 4.
Ba tuần sau, cái tiểu đoàn dù lê dương số 1 này đã bị xoá sổ. Cũng không còn cả cái
“binh đoàn cơ động” của Le Page, của Charton, bị chìm ngập trong thác lũ của bộ đội Việt Minh.
Zurell bị thương nằm ở ven rừng đã được Việt Minh đưa về trại tù binh và ba tuần sau
được Việt Minh trao trả cho Pháp. Lúc này, Zurell đang hấp hối nhưng anh cố sống. Anh được hồi
hương, được về Algerie, được bình phục và đã thề không trở lại Đông Dương nữa. Nhưng bây giờ
lại phải nhảy dù xuống Điện Biên Phủ.
Zurell nói tiếp:
- Ngay khi vừa mới đặt chân tới mảnh đất như thế này, việc trước tiên của tôi là tìm lối
ra. Nước Lào có xa đây không?
Đại đội 4 của Zurell đã tập trung ở rìa bãi nhảy chờ lệnh. Đại đội trưởng Cabiro đứng ở
đầu hàng quân, nói chuyện với Martin, chỉ huy đại đội 3 xếp hàng ở bên cạnh. Cạnh hai chỉ huy,
đám lính dù lê dương suy nghĩ miên man. Họ chẳng tò mò nhìn ngắm cái gì cả. Họ chỉ mong
nhanh chóng có chỗ nghỉ, tháo bỏ cái ba-lô, căng lều bạt và cầm chắc cán xẻng, cán cuốc…
Thiếu tá Guiraud cùng toàn ban chỉ huy đi vào làng nhận huấn thị của cấp trên và dự
cuộc giao ban của các tiểu đoàn trưởng. Dọc đường đi, Guiraud giơ tay chào những gương mặt
thân quen. Trong các binh chủng dù, tiểu đoàn dù lê dương số 1, gọi tắt là BEP được yêu thích
nhất. Đây là một đơn vị thiện chiến đã lê gót ủng nhảy dù tới bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Đông
Dương, khi cần đến một lực lượng xung kích. Nếu trong đơn vị dù thuộc địa của Bigeard, người ta
chú trọng đến tầm vóc, đến phong cách và nếu trong đơn vị dù xung kích của Bréchignac chú
trọng đến sự vững vàng, đến tính cụ thể, thì đơn vị dù lê dương của Guiraud tất cả những truyền
thống của lính dù lê dương được kết hợp nhuần nhuyễn với đặc tính của lính dù. Đó là: một chút
khinh thường với cái chết, trộn lẫn với một chút thèm khát cuộc sống.
Thiếu tướng Gilles chỉ huy toàn bộ lực lượng dù đã cùng nhảy dù xuống Điện Biên Phủ
cùng với tiểu đoàn dù lê dương (BEP) trong cuộc hành quân Castor. Cũng như mọi binh nhì, ông
đã tự mình xếp dù, buộc dù trên lưng, cho tới khi tập hợp. Chỉ đến lúc này ông mới trở lại cương
vị cấp tướng chỉ huy, giữ một bàn làm việc trong trụ sở chỉ huy của đại tá Fourcade, là nơi có cả
Langlais chỉ huy binh đoàn đổ bộ đường không số 2. Lúc này Langlais đang càu nhàu vì bị sai
khớp mắt cá chân khi chạm đất và không muốn nằm yên một chỗ trong lúc toàn binh đoàn đang
hoạt động chiến đấu.
Lực lượng dù tác chiến của tướng Gilles gồm có: binh đoàn đổ bộ đường không số 1 do
Fourcade chỉ huy, trong đó có tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 của Bigeard; tiểu đoàn dù thuộc địa số 1
của Souquet; tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn dù số 1 của Bréchignac; binh đoàn đổ bộ đường không
số 2 của Langlais, trong đó có tiểu đoàn dù lê dương số 1 của Guiraud; tiểu đoàn dù thuộc địa số 8
của Tourret. Ngoài ra còn có lực lượng hoả lực hỗ trợ gồm trung đoàn pháo nhẹ đổ bộ đường
không số 35, đại đội cối, các đơn vị công binh và một bệnh viện phẫu thuật dã chiến.
Lần lượt từng người một, các tiểu đoàn trưởng dự cuộc họp giao ban sáng 21 tháng 11
năm 1953 nhận mệnh lệnh của tướng Gilles. Ông nói với Guiraud:
- Anh đưa đơn vị tới các vị trí phòng ngự trên đồi A2, A3.
Guiraud nhìn bản đồ địa hình. Đây mới chỉ là một bản vẽ rất sơ lược, do ban tham mưu
của tướng Gilles thể hiện, căn cứ vào những bản đồ cũ tỷ lệ 1/100.000 của toàn vùng và những
tấm ảnh chụp từ trên không.
Cho mãi tới khi kết thúc chiến dịch, vẫn chưa bao giờ có được một bản đồ chính xác về
Điện Biên Phủ. Mãi đến tháng 4 năm 1954 sở địa chính của quân đội mới chỉ căn cứ vào những
tấm ảnh chụp từ máy bay, vẽ một bản đồ Điện Biên Phủ tỷ lệ 1/25.000 nhưng lính đóng giữ đã
không nhận được vì tấm bản đồ thả dù đã rơi lạc sang trận địa Việt Minh.
Những vị trí phòng ngự giao cho tiểu đoàn dù lê dương số 1 nằm ở những mỏm đồi
phía tây bắc Trung tâm, tạo thành hình lưỡi liềm, mũi nhọn nằm cách phía Bắc đường băng sân
bay 1200 mét. Lúc ấy những dãy đồi này mới chỉ được gọi là cụm Alpha, vài tuần sau mới mang
tên Anne Marie.
- Này, mày ngủ đây à? Fattori!
- Khô… ô… ng!
Fattori vừa mới mở được một mắt, đã nhắm lại ngay. Anh có cảm giác như đang trải
qua một cơn ác mộng. Vừa mới hôm qua, anh còn thuộc quân số đại đội 2, tiểu đoàn dù lê dương
số 1. Vụt một cái, hạ sĩ Perrin và binh nhì Fattori bị chuyển sang một đơn vị mới thành lập để
phục vụ cho cuộc hành quân Castor. Đó là đại đội 1 súng cối nặng đổ bộ đường không lê dương,
gọi tắt là CEPMI gồm 8 khẩu cối 120 mm yểm trợ cho lính dù của tướng Gilles.
Fattori đã trải qua một đêm trắng trong một xứ sở không quen biết, giữa những người
bạn mới. Ngay khi vừa mới tới vị trí pháo binh ở Điện Biên Phủ, Fattori đã chui vào trong chiếc
hầm làm bằng những vỏ đạn pháo nhồi đất, bên trên căng một tấm vải bạt. Từ lúc đó, anh ngủ li
bì, cho tới khi bị đánh thức bởi những đợt pháo bắn chặn mà người chỉ huy của anh là Perrin ghi
thành một chuỗi danh sách.
Theo tập quán lâu đời của pháo binh Pháp, những đợt pháo ngăn chặn thường xếp theo
thứ tự A, B, C… và mang tên các loại hoa: Anémone, Bégonia, Capucine…
Fattori nói:
- Quả là những vần A, B, C… lạ lùng.
Perrin giải thích:
- Cậu chẳng biết gì cả. Gọi như thế để tránh nhầm lẫn. Không thể gọi đơn giản A, B,
C… cho tất cả các đơn vị, các cứ điểm, các phương tiện. Vì như vậy sẽ có tiểu đoàn bộ binh
Alpha, quả đồi Alpha, máy bay Alpha… cả một mớ hỗn loạn. Vì vậy phải lấy tên các loài hoa vần
A, B, C… để dễ gọi các đợt bắn pháo.
- Tại sao không lấy tên con gái?
Fattori cố hỏi lại một câu nữa rồi lại chìm đắm trong giấc ngủ.
- Ồ! Fattori, dậy đi!
Fattori đành phải vừa ngáp, vừa đứng lên. Trong ánh sáng của ngọn đèn pin được nối
vào hai sợi dây đồng với cục pin trong đồn, Fattori đã nhìn thấy gương mặt láu lỉnh của Perrin. Hạ
sĩ đang cắm dây điện nối liền với đài thu thanh, nghe bài hát phát đi từ đài Con nhạn của Quân đội
Pháp tại Hà Nội. Fattori hỏi:
- Này, hạ sĩ! Anh nghe đài Hà Nội đấy à? Sao bảo cấm nghe…
- Mày làm gì kệ mày - Perrin trả lời - Nhưng bây giờ đến lượt mày gác.
Nói xong, Perrin chui vào trong chiếc chăn kaki, nằm ngủ.
Suốt dọc sân bay đã đào hầm hố gần đường băng, những lính dù thuộc đại đội 4 trong
tiểu đoàn của Bigeard cũng đã chui vào đống vải dù và đang ngủ. Ở phía trước, những lính canh
đứng trên đê, đang im lìm quan sát bóng đêm trong khi đám lính nằm ngủ, thỉnh thoảng lại dùng
khuỷu tay thúc vào sườn đồng đội để tin rằng vẫn còn người bên cạnh. Nhiều khi, do thèm một
điếu thuốc, do kiến đốt, họ lại gãi chân, gãi tay, gãi gáy.
Trước mặt đám lính canh vẫn là con đường mang tên Pavie nối Điện Biên Phủ với Lai
Châu đang dần dần mất hút trong cây cối. Phía chân trời là những dãy đồi nhấp nhô như tường
thành, không thấy gì chứng tỏ có kẻ địch xuất hiện.
Thời gian cứ trôi, vô ích và trống rỗng.
Bão lửa
17 giờ 15 ngày 15 tháng 3 năm 1954
Perrin ngồi trực bên máy điện thoại. Anh lật giở từng trang một cuốn tạp chí cũ rích,
xuất bản từ một năm trước, có bài nói về lễ tấn phong nữ hoàng Anh. Anh rất buồn vì phải ngồi bó
giò trong lô cốt chỉ được soi sáng qua khe cửa như một cái lỗ ở vách hầm.
Chiếc máy điện thoại bọc da vẫn im lặng.
Perrin ngáp dài, thò tay vào túi áo trận định tìm một điếu thuốc lá, nhưng đột nhiên
dừng lại. Chuông điện thoại vừa reo.
Perrin áp ống nghe vào tai, nhận rõ tiếng nói của trung uý Lépinay ở sở chỉ huy pháo
binh:
- Zoulou Kilo 50 đấy à? Zoulou Kilo đây. Bắn ngay vào điểm 321 Béatrice. 8 viên một
phút.
Zoulou Kilo 50 là mật danh của trung đội cối thuộc tiểu đoàn dù. Zoulou Kilo là sở chỉ
huy pháo binh. Perrin nhắc lại mệnh lệnh vừa nghe rồi vọt ra ngoài, hô to:
- Tất cả vào vị trí chiến đấu!
Lúc đó là 17 giờ 18 phút và cũng là lúc mà cổng địa ngục mở toang. Hình như tất cả
các khẩu pháo của sư đoàn 351 Việt Minh đều đồng loạt bắn phá. Từ nhiều tuần nay, các đái quan
sát của Việt Minh đã nghiên cứu tất cả các mục tiêu, chứng cớ là khẩu pháo Nhật đã thực tế là
khẩu pháo bắn dọn đường cho các cỡ pháo khác. Chỉ một loáng, toàn bộ Điện Biên Phủ đã như
tan hoang dưới làn đạn pháo, nhất là các hầm chỉ huy rất dễ nhận thấy từ xa do cắm nhiều dây
ăng-ten trên nóc. Những ụ pháo lộ thiên cũng bị nhằm bắn, các pháo thủ đứng cạnh đều bị thương
vong.
Trận bắn pháo mạnh tới mức làm nhiều người choáng váng. Trong những hầm hồ chỉ
được phủ bằng lớp đất mỏng, lính bộ binh khiếp sợ ngồi nép vào nhau.
Tại vị trí súng cối đặt ở sườn Dominique 2, cánh tượng này xuất hiện chỉ sau nửa phút.
Việt Minh chỉ bắn vài phát đạn, chính xác một cách kỳ lạ, đã làm tan rã các thiết bị phản pháo
chuẩn bị công phu hàng tuần. Những quả đạn pháo 105 dày đặc và khủng khiếp từ khắp mọi ngả
bắn tới đã làm cho nắp hầm bị sụt, vách hầm sạt lở, những ụ pháo biến thành cạm bẫy.
Pháo binh địch có vận may. Đối với khu vực chật hẹp tại phân khu Trung tâm, các ụ
pháo, cối xen kẽ với các hầm đạn và các vị trí chỉ huy, pháo địch bắn vào chỗ nào cũng có hiệu
quả. Loạt đạn pháo đầu tiên đã nổ giữa một đám đông lính lê dương, làm chết ngay khẩu đội
trưởng, gây thương vong cho cả người bắn lẫn người tiếp đạn là hạ sĩ Drescher và các binh nhì lê
dương Zaplotny, Kanderski, Runde, Schoch (Nếu lịch sử cuộc chiến ở Điện Biên Phủ được ghi
nhận bắt đầu từ 17 giờ ngày 13 tháng 3 năm 1954 thì đây là những người chết trận đầu tiên).
Ngay sau khi Perrin ra lệnh, tất cả binh lính lê dương đều lập tức đứng vào các vị trí
chiến đấu. Tất cả các khẩu đội trưởng đều biết rõ các toạ độ của Béatrice 321. Họ chỉnh hướng
bắn cho các khẩu súng cối, rồi chỉnh độ cao và bắt đầu phản pháo như đã từng được tập luyện
thành thạo. Pháo cối của Pháp bắn trả Việt Minh tạo nên một cơn thác lũ lửa đạn không một phút
giảm bớt mặc dù cũng không ngừng bị thiệt hại. Khẩu đội nào cũng có thương vong. Dưới lớp đạn
nổ không ngưng, đất dưới chân cứ điểm như chồm lên, vỡ tan rồi phủ kín đỉnh đồi Dominique 2
một đám mây dày đặc bụi màu vàng và khói màu đen.
Bỗng đột nhiên một quả đạn pháo Việt Minh như một trái ngư lôi nổ chậm, xuyên qua
nóc hầm, lọt vào giữa đống đạn cối rồi mới nổ. Có 5.000 quả đạn đang chứa trong hầm, tức là một
phần tư số đạn cối của cứ điểm.
Sóng chấn động mạnh như động đất lớn. Đỉnh đồi vỡ ra như một quả trứng gà, để lộ
một vực sâu, rộng hàng chục mét. Anh lính Pfenning đứng trong hầm đạn, tan vụn không còn xác.
Nhiều hầm bên cạnh cũng bị sức nổ tàn phá dưới lớp đất. Chỉ trong vòng năm phút, một nửa số
quân của trung đội súng cối đã bị loại khỏi vòng chiến.
Trung đội trưởng báo cáo tình hình về sở chỉ huy đại đội. Tay quay của máy điện thoại
như bị bật chốt. Tất cả các tuyến dây điện thoại đều bị đứt.
Perrin giơ cao một nắm dây điện thoại, lệnh cho Fattori đi nối lại.
Fattori ra khỏi hầm, đội mũ sắt, kéo dây quai xuống cằm, làm mọi động tác một cách
cẩn thận, chậm chạp, chờ pháo ngớt bắn để vọt ra khoảng trống giữa cơn bão đạn. Perrin sốt ruột:
- Nhanh lên! Lát nữa hãy trang điểm!
Bergot nói theo:
- Nhưng, cẩn thận tránh đạn!
Perrin nhún vai:
- Tôi đã có kinh nghiệm. Không bao giờ hai quả đạn pháo rơi đúng một lỗ. Chính thức
đấy!
Rồi anh vọt ra ngoài hầm. Fattori chạy theo sau, mang theo máy điện thoại để kiểm tra
đường dây.
Đêm đã ập xuống. Sau mỗi tia lửa đạn, bóng tối càng thêm dày đặc trong lớp khói đen.
Thỉnh thoảng tiếng hét ra lệnh của trung sĩ nhất Maillard vẫn vang vọng tới chỗ hai người rảo
bước.
Hai khẩu cối đã bị phá huỷ, vẫn giơ nòng lên trời một cách vô ích. Perrin chạy như phi
ngựa, nhảy từ hố này sang hố khác, giơ tay vẫy gọi, Fattori đi sau cứ nghe thấy tiếng pháo dù nổ ở
xa cũng nằm lăn ra đất.
Perrin đã ngồi sụp xuống, lấy tan lần mò đường dây điện thoại để tìm chỗ đứt:
- A! Tìm thấy rồi! Đây này…
Hai người đã đến đầu đoạn hào, nơi sợi dây bị đạn cắt đứt ở trên mặt đất, cùng ngồi
trên bãi trống sườn đồi Dominique, nơi đạn pháo vẫn đang trút xuống như mưa.
- Đưa máy đây! Tôi kiểm tra xem hai đầu dây đã nối với nhau chưa.
Máy đã chạy. Đầu bên này, Perrin nghe rõ sở chỉ huy pháo binh. Đầu bên kia, cũng
nghe rõ tiếng của trung đội cối của mình.
- Tốt. Bây giờ bắt đầu nối dây. Cậu có mang đèn pin không?
Fattori cười trong bóng tối, cảm thấy mình như một y tá giúp việc bác sĩ giải phẫu, lục
tìm trong túi lấy ra một chiếc đèn pin bấm đưa cho Perrin. Từ phía tay phải vang lên tiếng thét cảu
trung sĩ nhất Maillard:
- Tắt đèn! Đồ ngu! Chúng mày làm lộ chúng tao rồi!
Perrin cười đáp lại chỉ huy:
- Thưa sếp, các anh bị lộ thì chúng em là những người bị lộ trước.
Như để chứng minh lời nói của Perrin, một loạt tiếng đạn cối nổ đầu nòng kéo theo
những vệt lửa dài bắn về phía họ. Fattori kêu:
- Nhanh lên! Việt Minh bắn đấy.
Perrin trả lời:
- Được. Sắp xong rồi.
Một tiếng gầm như sấm vang lên từ xa. Tiếng sấm này dội lại gần, vang vọng khắp
thung lũng, ngày càng rền vang, làm đau nhói lỗ tai, gây căng thẳng mỗi lúc một tăng, cho tới khi
ập xuống đất như một chiếc đầu xe lửa đâm vào ga. Màng nhĩ như bị chọc thủng, đầu óc như bị gõ
mạnh, toàn thân như bị chấn động đến tận xương tuỷ.
- Nằm xuống!
Fattori như bị dính chặt vào bờ chiến hào, gần như bất động, không thể có được một cử
chỉ nào. Anh không hiểu Perrin nói gì. Nhưng tiếng thét của Perrin bất giác đã làm cho Fattori
bừng tỉnh, nhảy vọt sang một cái hố bên cạnh.
Tiếng sấm rền đã im bặt khi những trái đạn pháo rơi xuống đất. Thoạt đầu là một sự
rung chuyển chấn động có cảm giác như một làn sóng bò dưới bụng. Rồi một tiếng động như cây
to bị đổ. Fattori nhắm nghiền mắt, giơ tay nắm chặt lấy mũ theo một phản xạ tự nhiên, miệng há
hốc vì khiếp sợ, bụng đau quặn, có cảm giác mơ hồ như đang phiêu bạt trong không gian, giống
như một con chim bị bão.
Cơn ác mộng này kéo dài bao lâu? Chắc chắn không quá một giây, nhưng Fattori có
cảm giác như kéo dài một thế kỷ.
Có một tiếng rú như một con vật sắp chết vang lên rồi chuyển thành một tiếng thở dồn
dập. Fattori đã nhận ra đó là tiếng rên của trung sĩ trưởng. Anh gọi:
- Perri ơi! Hình như Maillard bị thương.
Fattori đã trở lại với thực tại. Dù chưa thật hiểu rõ cái gì đã xảy ra, nhưng cơn sợ hãi đã
bị cắt đứt. Anh đứng phắt dậy, nhảy bổ về vị trí chỉ huy của trung đội. Đúng là Maillard rồi. Trung
sĩ trưởng đứng dựa vào thành chiến hào do vướng các cọc chắn nên không ngã gục. Một mảnh đạn
pháo đã phạt ngang sọ Maillard, tiếng kêu rú vừa rồi chỉ là phản xạ tự nhiên và cuối cùng thoát ra
từ phổi.
Fattori nhìn Maillard chằm chằm như vừa mới khám phá ra một hiện tượng quái lạ. Sự
kinh ngạc đã vượt quá nỗi khiếp sợ. Anh nói to như không phải là mình nói:
- Perrin ơi! Sếp chết rồi!
Không có tiếng trả lời. Fattori vụt trở lại sự kinh hoàng. Bất chấp đạn pháo vẫn nổ từ
những khoảng cách khác nhau, Fattori trườn ra khỏi chỗ đứng của Maillard, băng qua bãi đất
trống, quay trở lại chỗ vừa nối dây điện thoại với Perrin. Anh nhìn thấy bóng người nằm trên mặt
đất. Vòm trời trong cơn bão lửa đủ sáng để nhận ra người bạn đã chết. Perrin nằm bất động nhưng
trong một tư thế rất tự nhiên: đầu ngoẹo về một phía, hai cánh tay úp vào người, một bàn tay hãy
còn nắm chùm dây điện thoại,
- Perrin ơi! Đừng vờ nữa …
Đây chỉ là một câu mời cháo thật vô lý đáng buồn cười mà chính Fattori cũng nhận rõ
như vậy. Nhưng Fattori vẫn lẩm bẩm nói, như ngỡ rằng mấy câu này có thể nối lại mạng sống cho
bạn. Nhưng ngay lập tức, Fattori nhận thấy không thể làm gì được nữa. Chỉ vài giây thôi cũng đủ
để Fattori nhận thức rõ như vậy. Anh ngồi xổm, ngắm nhìn Perrin. Vẻ mặt anh đang nhìn, không
phải là một bộ mặt đen thui, miệng đầy đất, cặp mắt trắng dã, con ngươi tụt sâu vào hố mắt.
Ngược lại, Fattori hình dung thấy một gương mặt lúc nhạo báng, lúc cáu kỉnh, thân thuộc của
người bạn thần kinh thường hay căng thẳng. Anh như đang nghe lại tiếng hô của Perrin lúc nãy:
- Andrea, nằm xuống!
Đây là lần đầu tiên, Perrin gọi Fattori bằng tên nhỏ. Có lẽ, biết rằng mình sắp chết,
Perrin biểu lộ tinh thần với bạn chăng? Fattori không bao giờ biết được. Điều anh vừa mới khám
phá thuộc một lĩnh vực khác. Bên cạnh những lúc ghét bỏ viên hạ sĩ của mình, còn có một tình
anh em vững vàng khó hiểu. Cho đến bây giờ Fattori mới biết mình đã mất hết tất cả dù chẳng bao
giờ cảm thấy giàu có. Đối với Fattori, việc Perrin bị chết cũng đau đớn như anh bị mất một phần
cơ thể.
Fattori chợt nhận ra đường dây điện thoại lại vừa mới bị đứt. Anh nối lại rất nhanh y
như Perrin thường làm. Rồi anh vác Perrin lên vai bước từng bước về vị trí chỉ huy trung đội, vừa
đi vừa nói với Perrin:
- Cậu đừng giận. Chúng mình đi có đôi, trở về cũng có đôi.
Khi trung đội trưởng nhìn thấy Fattori bước vào hầm, ông không sao nhận ra được.
Dưới lớp bụi đất vàng đậm, gương mặt Fattori với cặp mắt và đôi gò má sâu hõm, như già đi hàng
chục tuổi. Nhất là cái nhìn của Fattori đờ đẫn như mắt ma. Còn giọng nói thì hoàn toàn thay đổi:
khô hơn, chắc nịch hơn, y hệt giọng nói của Perrin:
- Báo cáo trung uý, đã nối xong đường dây.
Rồi Fattori ngồi sụp xuống đất, hai bàn tay mở rộng đặt lên đùi, y như một bức tượng
đá.
- Xin báo cáo thêm: Perrin đã chết.
Tiếng nói như vỡ ra. Cằm rung lên. Fattori ngã vật xuống, tay ôm lấy mặt, khóc nức
nở.
Biết nói gì với người lính này bây giờ? Phải làm gì? Trong lúc bối rối như thế này, cách
đối xử duy nhất thường phải áp dụng là giáng cho một cái tát. Nhưng trung uý không giải quyết
như vậy. Ai nỡ tát một người đã như bị cụt một cánh tay, có một vết thương trong lòng. Trung uý
gọi y tá:
- Donovan, lấy cho Fattori một cốc rượu Rhum.
Pháo vẫn tiếp tục bắn, cho tới lúc này đã kéo dài bốn tiếng đồng hồ. Trong trung đội
súng cối, danh sách bị thương vong mỗi phút một thêm kéo dài, trong đó có trung sĩ trưởng
Maillard, trung sĩ Soo, hạ sĩ Drescher, ba người bị thương nặng. Những người bị thương nằm chật
hầm. Số súng cối còn có thể sử dụng được cũng mỗi lúc một giảm bớt.
Trận Béatrice
13 tháng 3 năm 1954
Pháo chuẩn bị tiến công của Việt Minh bắn vào Béatrice lúc 17 giờ 15 phút, kéo dài
suốt hai giờ. Lính lê dương không còn gì để mô tả ngoài từ “hoả ngục”. Nhưng danh từ này vẫn
chưa đủ mức nói hết. Bởi vì khi nói đến hoả ngục, người ta chỉ hình dung đó là vương quốc của
lửa và của niềm thất vọng, chưa nghĩ đến tiếng động. Thế nhưng, chính tiếng động mới là nguyên
cớ nảy sinh sự khiếp hãi. Tiếng động gây ra bởi những tiếng nổ trút xuống cụm cứ điểm Béatrice
như thác lũ, kéo dài không ngừng, không nghỉ, chất đầy trong lỗ tai và tràn ngập mọi cảm giác.
Chỉ biết ngồi im không động đậy. Bắp thịt nhão ra, cặp mắt nhắm lại, ý nghĩ trống rỗng. Không
còn chỗ để nghĩ ngợi mông lung lộn xộn nữa. Chỉ nhìn thấy những gương mặt nhăn nhúm, cặp
mắt đờ đẫn, mồm miệng méo mõ.
Những lính lê dương thuộc đại đội 9 và đại đội 11 trực diện với những đợt sóng tiến
công của địch ở mặt Đông Bắc và Đông Nam, ngồi trong hầm hố phải chịu đựng cuộc bắn phá mà
không làm gì để đối phó được.
Những quả đạn pháo rơi dồn dập gây ra những tiếng nổ rền, tiếng này tiếp theo hàng
trăm tiếng khác như tiếng đầu máy xe lửa đang phóng quá nhanh. Đất tung lên rồi cát, sỏi, đá lại
rơi xuống, bụi bay mù mịt bốc cao hơn. Không còn nhìn thấy gì nữa. Vả lại quang cảnh cũng đã
hoàn toàn thay đổi. Gò đống biến thành hố. Hầm hố biến thành gò đống. Cả người lẫn vũ khí đều
bị chôn vùi.
Tiếp theo pháo 105 là những khẩu 75 và 57 bắn trực tiếp từ những khoảng cách xuất
phát tiến công. Việt Minh tuần tự nhằm vào các lô cốt, các ụ súng máy, các hầm chỉ huy có cắm
ăng-ten để huỷ diệt bằng pháo bắn thẳng.
Điều khó chịu nhất là lính lê dương không có được một giây nào để thở một chút, nghỉ
một tý, nhìn nhau một cái. Họ đành chịu đựng, ngây dại, đờ đẫn, ngạc nhiên vì thấy hãy còn sống.
Thỉnh thoảng họ lại nhìn thấy ở ngay bên bên cạnh người bạn thân nhất, hoặc người chỉ huy trực
tiếp, bị tan biến không còn gì sau một quả đạn pháo. Hoặc, khiếp hãi hơn nữa là thấy có người
không bị một vết thương nào cũng đã bị chết, trên mặt còn ghi lại một nét ngạc nhiên.
Chỉ riêng các chỉ huy trung đội là vẫn còn có thể hoạt động được. Họ chạy từ chiến hào
này sang chiến hào khác, lay động người này, cổ vũ người kia, hối hả tổ chức lại những vị trí đã bị
bỏ trống. Những anh lính trẻ bám chặt lấy người chỉ huy như con nít lạc mẹ. Các trung đội trưởng
đành phải tỏ ra thô bạo vì hiểu rằng một nụ cười, một lời nói thương yêu trong lúc này càng làm
giảm sút ý chí chiến đấu:
- Câm mồm đi! Chú ý bảo vệ vũ khí!
- Giữ sức để chiến đấu!
- Đừng khóc nữa. Nín ngay!
Các đường dây điện thoại đều bị đứt hoặc mềm nhão như những sợi bún. Ngay cả loại
W130 cũng không chịu nổi đạn pháo 105. Phải dùng máy vô tuyến, với điều kiện những thiết bị
này chưa bị phá huỷ hoặc không bị vùi lấp. Lại phải dùng tiếng lóng, mật danh, mật hiệu để nói
chuyện vì sợ địch theo dõi trên cùng một tần số. Chính vì vậy, những câu đàm thoại có vẻ khôi
hài, không thực tế:
- Schweiger! Tình hình trong nhà thế nào?
Trung đội trưởng trung đội 1 ở ngay bên cạnh nhưng qua điện đài, tiếng nói như vang
lại từ xa lại bị đứt quãng vì những tiếng nổ:
- Đang chuẩn bị va-li quần áo! Đi pích-ních, chán lắm! Cái lều đã đổ sụp, ập xuống con
chó.
Có nghĩa là: trung đội 1 đang bị pháo bắn. Không có gì bảo vệ. Hầm bị sụp.
Trận bắn pháo chuẩn bị tiến công kéo dài suốt hai giờ. Bụi bay rất cao, che khuất ánh
mặt trời lặn tạo nên một cảnh hoàng hôn quái gở. Mọi người có cảm giác sợ hãi vì bị cô đơn trong
hầm hào hoặc trong hố cá nhân.
Cách đó vài mét ở trên cao, trung uý Turpin ngồi trong hầm chỉ huy đặt trên đỉnh
Béatrice 3 cố gọi điện về sở chỉ huy tiểu đoàn chỉ cách đó chưa đầy 200 mét về phía Tây. Máy
điện thoại không trả lời. Qua điện đài vô tuyến, Turpin đề nghị cối 81 đặt ở mỏm núi phía Nam
bắn yểm trợ. Nhưng cối 81 của Pháp chưa kịp bắn thì cối 120 của Việt Minh đã lại bắn tiếp một
đợt mới. Đến lượt những hầm cuối cùng của Béatrice 3 còn đứng vững từ đầu cuộc chiến, nay lần
lượt sụp đổ.
Tuy nhiên, các đại đội đã dần dần kháng cự. Hình như, đây cũng là một thói quen, một
phản xạ tự nhiên, dù pháo địch bắn vẫn cứ phải chống lại. Các khẩu trọng liên của đại đội 9 ở mặt
Bắc, cũng như trọng liên ở mặt Nam đồng loạt nổ súng:
- Keil đây! Chỗ tôi có nhiều người bị thương.
Trung đội 2 trấn giữ mặt Đông Bắc Béatrice 3 vừa bị một loạt đạn làm thương vong
một nửa quân số. Trung uý Turpin lập tức cử đến một y tá đến giúp đỡ. Sau đó, ông bất giác nhìn
đồng hồ đeo tay,, thấy kim chỉ đúng 6 giờ tối. Turpin tự hỏi có ngủ mê không. Chẳng lẽ mới chỉ
18 giờ, trong khi pháo địch đã bắn rất lâu, lâu lắm.
- Stouff, gọi ban chỉ huy tiểu đoàn.
Người phụ trách điện đài đã bị thương, vừa mới tự băng bó xong, gương mặt vẫn còn
máy, vội vã bật nút bấm và nói:
- Báo cáo! Đã liên lạc được!
Turpin cúi xuống cầm máy nói. Chợt anh cảm thấy như bị một cú đấm rất mạnh, đồng
thời thấy một luồng ánh sáng chói lọi làm loá mắt và một tiếng nổ dữ dội. Có một cơn lốc nào đó
quét Turpin khỏi mặt đất, đập anh vào thành lô cốt đã đổ nát một phần, đầu anh vấp mạnh vào xà
gỗ, miệng đầy bụi và khói. Rồi một bóng đen úp chụp xuống lấy anh, Turpin cảm thấy như đang
bị rơi xuống vực sâu không đáy.
Cách đó 200 mét, trên điểm cao đặt sở chỉ huy tiểu đoàn, tiếng nổ từ Turpin vang mạnh
vào máy nói, đập mạnh vào màng nhĩ đại uý tiểu đoàn phó Pardi đang úp ống nghe vào tai. Có lẽ
đây là tiếng động cuối cùng mà Pardi nghe được. Bởi vì gần như cùng một lúc với quả đạn đã rơi
xuống qua nóc hầm Pardi, một quả đạn khác xuyên qua ngay tại chỗ. Bên cạnh Pardi, thiếu tá
Pégot cũng nằm gục, hấp hối. Tiểu đoàn 3 bán lữ đoàn lê dương số 13 như rắn mất đầu vì toàn ban
chỉ huy đều tử trận.
Chỉ còn mỗi một điện đài nối liền từ ban chỉ huy binh đoàn 9 của trung tá Gaucher với
cụm cứ điểm Béatrice là còn hoạt động được. Điệp báo viên lo ngại nhắc đi nhắc lại:
- Béatrice, Béatrice, trả lời đi! Chuyện gì đã xảy ra?
Nhưng không thấy ai trả lời.
Một lát sau mới nghe có tiếng nói của một người lính lê dương mà chắc chắn không
phải là người Pháp vì nói tiếng Pháp rất dở, cũng không biết họ tên là gì, trả lời qua ống nói:
- Béatrice đây! Chết hết cả rồi!
Rồi im bặt. Liệu người lính lê dương này có bị thương không? Không ai rõ. Liệu anh ta
có bị chết trong khi đang nói không? Không ai biết! Hay là anh chỉ nói được có thể và đã trở lại vị
trí chiến đấu của mình?
Trong hầm chỉ huy của binh đoàn 9, máy phát tiếp tục kêu ra rả:
- Alô! Alô! Béatrice! Béatrice nghe rõ không?
Trong khi đó, tại Béatrice, trung uý Turpin không rõ là mình đã làm thế nào để dậy
được dưới lớp đất và xà gỗ đè lên người. Bên cạnh Turpin là trung sĩ Rosier chỉ huy trung đội 4
đang cố cầm máu tuôn ra như suối từ nhiều vết thương:
- Ông có làm sao không, trung uý?
- Không. Vẫn bình thường. Hãy chú ý tới những người khác.
- Ai?
- Kessler và Stouff. Họ cùng ở trong hầm của mình.
Rosier dìu trung uý Turpin tới một hàm ếch khoét vào vách hào rồi gọi người đi tìm
những người đang còn bị vùi trong hầm chỉ huy.
Fels bước vào.
Turpin nói:
- Cậu chỉ huy đại đội. Cố giữ vững.
Fels tuân lệnh, bước ra ngoài, đi từ chiến hào này sang chiến hào khác gọi lính. Đại đội
11 không còn một sĩ quan nào nữa.
Ở các vị trí khác, tình hình cũng tương tự tuy các chi tiết cụ thể không giống nhau. Tại
đại đội 9 ở Béatrice 1, trung uý Carriere bị chết bở một loạt đạn trọng liên; trung sĩ Kubiak thay
quyền chỉ huy số binh lính còn lại. Toàn đơn vị cũng không còn một sĩ quan nào nữa. Đây là thời
điểm rất cần có người chỉ huy vì chỉ vài phút nữa là bộ binh Việt Minh xông lên tiến công. Lúc
này mới 7 giờ tối.
Mặc dù bị vỡ khuỷu tay và có thêm một vết thương ở trán, trung uý Turpin vẫn cố giữ
vững sự chỉ huy. Anh đi đến trung đội 2 là đơn vị lúc này chưa bị thiệt hại nặng lắm, rồi tới trung
đội 4 là trung đội tuy có một số xáo trộn nhưng đã lại chiếm lĩnh được các vị trí chiến đấu. Chợt
một bóng người xuất hiện trước mặt Turpin, quần áo rách nát, đầu tóc bết bùn đất, nét mặt biến
dạng:
- Báo cáo trung uý, tôi, Kesseker đây!
Turpin trợn tròn mắt. Anh lính cần vụ đã chui ra khỏi đống đổ nát của hầm chỉ huy?
Nhưng bằng cách nào? Dù sao anh ta cũng không có vẻ bị thương nặng.
Lại một quả đạn pháo nữa rơi xuống bờ chiến hào. Turpin lại bị thương. Anh ngã
xuống. Rồi lại vùng dậy, hai mắt không nhìn thấy gì. Mảnh đạn đã trúng vào mắt Turpin.
- Báo cáo trung uý! Việt Minh …
Tiếng pháo bắn chuẩn bị đã ngưng bặt. Bây giờ là những tiếng hô xung phong của bộ
binh địch đang tiến qua bãi trống của Beatriec. Lúc này là 19 giờ 15 phút.
Những lính lê dương còn khả năng chiến đấu lập tức bắn đạn qua lỗ châu mai, tiếng
trọng liên xen kẽ với tiếng tiểu liên và súng trường. Vài quả lựu đạn nổ. Tiếng người kêu.
- Xung phong! Tiến lên!
Trả lời tiếng hô của Việt Minh là những tiếng kêu bằng các ngôn ngữ: Pháp, Đức, Italia
…
- Báo cáo trung uý! Đại đội 9 hỏi: liệu có quân tiếp viện không?
Turpin cũng không biết rõ. Anh hoài nghi. Ai có thể đến cứu Béatrice được, dưới làn
đạn như thế này? Anh ra lệnh trả lời qua vô tuyến:
- Chúng ta cố giữ vững!
Những đợt tấn công của Việt Minh đã diễn ra trong lớp rào dây kẽm gai đã bị pháo bắn.
Những lính “cảm tử” Việt Minh đẩy những chiếc sào dài buộc thuốc nổ, bò sát người qua những
đoạn rào kẽm gai chưa bị pháo phá trụi. Những tổ xung kích Việt Minh xông vào một lô cốt phòng
ngự ở mặt phía Đông cứ điểm. Lô-cốt này do trung sĩ Bartoli chỉ huy, có súng máy và trọng liên
30. Có cả một trung đội súng cối được bố trí trong những chiến hào lân cận. Hoả lực đã ngăn chặn
được bước tiến của Việt Minh.
Nhưng đột nhiên, một loạt đạn pháo 105 lại bắn tới, huỷ diệt tất cả những gì còn lại ở
lô-cốt và các ụ súng gần đó. Trung sĩ Fels kêu lên:
- “Chúng nó” lại giã pháo!
Nhưng, trung uý Turpin có cảm giác đây không phải là pháo Việt Minh mà chính là
pháo của Pháp từ phân khu Trung tâm bắn tới yểm trợ. Như để xác minh ý nghĩ của Turpin, có
tiếng nói từ điện đài đại đội 9 vang tới:
- Pháo bắn xa hơn một trăm mét nữa!
Turpin choáng váng cả người. Anh bảo điện báo viên:
- Seguin! Cậu nói với trung tâm! Pháo bắn vào chúng ta rồi!
Nhưng điện đài đã bị hỏng. Liên lạc trực tiếp với tiểu đoàn cũng không được, còn nói
gì đến chuyện bắt liên lạc với ban chỉ huy binh đoàn của Gaucher.
Turpin lại ra lệnh:
- Fels, cậu chạy đi kiểm tra tình hình trung đội Schweiger và trung đội Aubertin!
Trợ lý đại đội chạy ra ngoài. Vài phút sau anh quay lại, không còn nhận được đó là Fels
nữa. Áo rách bươm, hai cánh tay đầy máu, mặt lỗ chỗ những mảnh đạn:
- Báo cáo trung uý. Cả trung đội 1 lẫn trung đội 3 đều đã bị tiêu diệt hết!
Turpin không nói gì. Đêm đã xuống. Đại đội trưởng tự hỏi, làm thế nào mà cụm cứ
điểm vẫn chưa bị mất dưới thác lũ của đạn pháo và những làn sóng tiến công liên tiếp không
ngừng của bộ binh địch? Vẫn còn hi vọng ngăn chặn được làn sóng thuỷ triều xung phong của
địch. Dọc sườn núi, ở phía trước những lớp rào dây kẽm gai đã bố trí mìn và thùng đựng xăng khô
napalm. Nút bấm đặt ngay trong hầm chỉ huy của Turpin.
- Seguin! Cậu chạy vào hầm chỉ huy, cố tìm bảng điện và bấm nút cho nổ tung tất cả
lên!
Seguin nằm rạp xuống, bò sát đất về phía hầm chỉ huy nhưng rồi không thấy quay lại
nữa.
Tiếng súng địch có vẻ yếu dần. Việt Minh đã chuyển làn đạn sang phía Tây, bắn vào
rãnh ngăn cách đại đội 11 với vị trí chỉ huy tiểu đoàn. Turpin tranh thủ thời gian tạm yên ắng này
để cho kiểm điểm quân số từng trung đội.
Trung sĩ nhất Fels báo cáo:
- Tất cả còn khoảng gần 25 người có khả năng chiến đấu, thuộc trung đội 2 và trung đội
4.
Anh lau mặt rồi nói thêm:
- Tôi nghe thấy những tiếng thét to từ đồi ban chỉ huy tiểu đoàn vọng tới, ra lệnh cho
đại đội ta rời vị trí, tiến về chỗ đại đội 10.
Turpin nhăn mặt. Vị trí của đại đội 10 chỉ cách chỗ ông ngồi có 100 mét teo đường
chim bay. Nhưng mà phải di chuyển dưới làn đạn địch, trước hết phải xuống dốc, vượt qua đáy
thung lũng rồi lại leo lên sườn đồi, đối diện với pháo địch. Tuy nhiên, không còn cách nào khác.
Nếu tất cả những đơn vị còn lại tập trung ở quả đồi thứ ba của đại đội 10 thì cuộc kháng cự sẽ có
hiệu quả hơn là phân tán như hiện nay.
Fels được lệnh đi đầu với tất cả những người còn lại của trung đội 2. Những người còn
khỏe mạnh của trung đội 4 mang theo thương binh có thể mang được. Turpin đi sau cùng với
trung sĩ Rosier và anh lính công vụ Kessler. Lúc này là 8 giờ 30 phút tối.
Đối với Turpin, leo núi là cả một cực hình. Được nửa đường, anh buộc phải nghỉ vì
những vết thương đau nhức nhối. Nhưng anh vẫn cố lê tới đích. Cuối cùng, những binh lính còn
sống sót của đại đội 11 đã sát cánh bên cạnh đồng đội thuộc đại đội 10 và đại đội trực thuộc ban
chỉ huy tiểu đoàn. Turpin cho người dẫn anh đến ban chỉ huy. Cho tới lúc này Turpin mới biết, cả
thiếu tá tiểu đoàn trưởng Pégot và đại uý tiểu đoàn phó Pardi đều đã tử trận.
Nhưng, thảm hoạ còn lớn hơn nhiều. Cách đó bốn kilômét, tai hoạ cũng ập đến.
Sau khi tất cả mọi liên lạc với tiểu đoàn 3 và ban chỉ huy binh đoàn 9 đều bị đứt, trung
tá Gaucher đã triệu tập ban tham mưu tới hầm chỉ huy của binh đoàn, gồm có: phó chỉ huy, thiếu
tá Martinelli; thiếu tá Vadot chỉ huy phân khu Trung tâm; thiếu tá Brinon, chỉ huy tiểu đoàn 1;
trung uý Bailly trưởng ban tác chiến; trung uý Bretteville, trưởng ban quân báo, nêu câu hỏi:
- Làm thế nào để cứu viện cho Béatrice?
Hầm của trung tá Gaucher nhỏ. Để có thể chứa nổi tất cả số sĩ quan này, thiếu tá Vadot
đã phải cúi khom lưng ngồi trên chiếc giường kê ở vách hầm. Bên kia hầm là nơi làm việc của
Guenzi, phụ trách điện đài của tiểu đoàn 1 và Van Fleteren, thư ký Ban 2. Cả hai nhân viên này
đều biết rõ tình hình nghiêm trọng. Nhưng cả hai đều tin tưởng vào người chỉ huy trưởng. Cũng
như họ, tất cả binh sĩ lê dương đều biết Gaucher là một sĩ quan lê dương kỳ cựu và đã ở Đông
Dương lâu năm.
Guenzi có nhiệm vụ phải bắt được thường xuyên các làn sóng truyền từ tiểu đoàn 3.
Van Fleteren có nhiệm vụ tổng hợp các tin tình báo quân sự thu lượm được.
Bên kia vách hầm, trung tá Gaucher nghiên cứu các bức điện vừa nhận được. Tất cả
đều lộn xộn, đứt đoạn, đôi khi trái ngược nhau. Dù sao, ông cũng đã biết toàn ban chỉ huy tiểu
đoàn 3 đã bị tiêu diệt từ 6 tiếng đồng hồ rồi. Ông cũng biết, trung uý Carriere chỉ huy đại đội 9 đã
bị bắn chết trên đồi Béatrice 2 và trung uý Turpin đang bị thương nặng. Ông nói:
- Không thể đảm bảo phòng thủ qua mạng lưới thông tin được. Phải chỉ định một sĩ
quan tới Béatrice để chỉ huy. Tôi đề nghị …
Ông không kịp nói hết câu. Một quả đạn pháo đã xuyên qua nóc hầm rơi xuống chiếc
bàn gỗ của ông đang ngồi và phát nổ. Cùng lúc đó, đèn điện vụt tắt. Trong đêm tối, Van Fleteren
mò mẫm vén tấm vải bạt ngăn đôi gian hầm rồi bấm đèn pin quan sát chung quanh. Trong đám
khói và bụi anh nhìn thấy một cảnh tượng kinh hoàng. Trung tá nằm dưới đống bàn ghế nát vụn,
chân tay cụt hết, bộ mặt hoàn toàn biến dạng. Nằm bên cạnh ông là trung uý Bailly bị văng mất
đầu và trung uý Bretteville bị vỡ tan ngực. Chỉ riêng thiếu tá Vadot còn sống sót nhờ ngồi thụt một
chút vào phía trong, nhưng ngực cũng bị dính một số mảnh đạn nhỏ.
Van Fleteren quỳ xuống bên cạnh chỉ huy trưởng. Trung tá vẫn còn thoi thóp. Ông mở
to mắt khi bị đèn pin chiếu vào mặt, cố sức nói lắp bắp:
- Lau miệng … và… cho tôi uống.
Chưa đầy mười lăm phút sau, trung tá Gaucher tắt thở trên bàn mổ.
Đây là một tin đau đớn rụng rời đối với binh đoàn 9 và tiểu đoàn 1 lê dương. Mọi
người hoang mang tinh thần:
- Không có “ông già” thì làm sao thoát khỏi tình thế này?
Đúng là không có trung tá Gaucher, đám lính dưới quyền như đàn gà con mất mẹ. Tối
hôm đó, tất cả mọi người, trong đó có những binh sĩ đã sát cánh chiến đấu bên cạnh Gaucher từ
châu Âu đến Đông Dương, nước mắt lưng tròng, đã cùng hát bài ca vĩnh biệt ông.
Himlam
13 và 14 tháng 3 năm 1954
Việc chuyển quân của đại đội 11 ở Béatrice 2 đã làm cho Việt Minh bị bất ngờ. Nhất là,
sau khi nhận được điện của đại đội 10, cối 120 đã từ Dominique bắn tới dữ dội. Đến 21 giờ, địch
phải lui dần về vị trí xuất phát tiến công.
Tất nhiên, bên phòng ngự cũng bị nhiều tổn thất to lớn. Trong số 4 đại đội bố trí tại ba
cao điểm, chỉ còn lại một phần ba quân số có thể tiếp tục chiến đấu. Đại đội 11 và đại đội 9 là hai
đơn vị bị pháo bắn mãnh liệt và tiến công liên tiếp bằng bộ binh, là những đơn vị bị thương vong
nhiều nhất. Nhưng đã có lúc họ nghĩ rằng Việt Minh rút quân để từ bỏ hẳn cuộc chiến đấu.
Tại ban chỉ huy, chức vụ tiểu đoàn trưởng đã được trao cho đại uý Nicolas, người có
cấp bậc cao nhất trong đơn vị. Dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Nicolas chỉ có 2 sĩ quan là trung
uý Madelain, chỉ huy cơ quan tiểu đoàn bộ và trung uý Leude, bác sĩ quân y cùng với một số hạ sĩ
quan. Tất cả những người có cấp bậc khác đều đã bị chết, bị thương hoặc kiệt sức không thể tiếp
tục chiến đấu.
Nicolas ra lệnh cho Bonte phụ trách điện đài:
- Bắt liên lạc với trung tâm. Báo cáo là vẫn còn giữ được Béatrice 2 và 4. Báo cáo số
thương vong.
Boute vừa bật máy lên thi Việt Minh lại bắn một loạt pháo vào cứ điểm, rất mãnh liệt.
Lần này, pháo bắn tập trung vào vị trí ban chỉ huy tiểu đoàn. Có nghĩa là địch sẽ xung phong tiến
đánh nơi này.
Cùng trong lúc đó, đại đội 9 hiện không còn một sĩ quan nào, chức đại đội trưởng phải
trao cho trung sĩ Bleyer, anh báo cáo bằng điện đài rằng địch đã đặt chân tới đỉnh Béatrice 3. Các
trung đội đóng ở đây không thấy trả lời qua điện thoại vô tuyến. Một lát sau mới nghe thấy tiếng
Kubiak:
- Địch đã vào tới vị trí chỉ huy đại đội. Tôi đang chuyển vị trí.
Nicolas lệnh cho khoảng 100 lính lê dương còn lại, tập trung tại hai mặt Bắc và Đông,
đón đánh. Ông nói với các chỉ huy:
- Bây giờ đến lượt chúng ta đây.
11 giờ đêm, Béatrice 1 không trả lời. Có nghĩa là đã bị địch chiếm đóng. Việt Minh từ
Béatrice 3 đi xuống rãnh ngăn hai quả đồi, tiếp tục tiến đánh vị trí còn lại. Lính lê dương chờ Việt
Minh tới gần mới đồng loạt nổ súng. Đây là những người lính có tinh thần chiến đấu. Họ dũng
cảm kháng cự dưới làn mưa đạn pháo cối bắn liên tục. Hơn nữa, đây là một vị trí kiên cố, có bố trí
hoả lực bắn chéo hai bên sườn, sườn đồi dốc khó leo tới đỉnh, lại có thêm nhiều lớp rào kẽm gai
cản đường thâm nhập. Dĩ nhiên, Việt Minh có những người lính mang theo chất nổ gọi là “bộc
phá” để đánh sập những lớp rào dây kẽm gai. Một số đã bị lính lê dương bắn khi đang bò sát sườn
đồi để leo tới đỉnh.
Cuộc tiến công đã bị chặn lại. Việt Minh tập trung tại đáy thung lũng, giữa hai quả đồi.
Lính lê dương thở dài:
- Nếu chúng ta có pháo bắn vào rãnh này.
Madelain hỏi Nicolas:
- Mấy giờ rồi?
- Đúng nửa đêm.
Nicolas hỏi lại Bonte:
- Tình hình các nơi thế nào?
- Không bắt liên lạc được. Với chúng ta, thế là hết rồi.
Những báo cáo cuối cùng gửi về Trung tâm cũng đã cho biết: cuộc chiến đấu ở
Béatrice chấm dứt hồi nửa đêm “13 tháng 3 năm 1954”. Sau này, sử sách cũng ghi như vậy, căn cứ
vào lời kể của một vài người lính lê dương, dẫn đầu là Kubiak chạy thoát khỏi Béatrice vào lúc
nửa đêm. Nhưng trên thực tế sau đó Béatrice vẫn tiếp tục chiến đấu.
Trên điểm tựa, đại uý Nicolas và trung uý Madelain tập trung tất cả những binh lính lê
dương còn sống sót từ các đại đội chạy đến, biên chế thành từng tiểu đội, trung đội mới.
Trung uý Turpin đã được đưa đến trạm quân y tiểu đoàn, được trung uý bác sĩ Leude
chữa trị. Trong trạm xá, lính bị thương mỗi lúc một nhiều, nằm ngồi hỗn độn tại các hàm ếch, các
đầu hào giao thông. Những người may mắn lắm mới được nghỉ trong hầm.
Đã 1 giờ 40 phút sáng 14-3-1954. Việt Minh lại chuẩn bị tiến đánh Béatrice 2 một lần
nữa. Những tiếng hô “Tiến lên” của Việt Minh vang vọng rất rõ đến tai những người lính lê dương
đang bố trí lại những chiến hào đã sụp đổ một nửa.
Trung uý Turpin dựa vào người bác sĩ Leude, tiến ra khỏi hầm quân y. Anh không
muốn ẩn náu như một con chuột trong lỗ. Trên cứ điểm, cuộc giao tranh đang diễn ra hỗn loạn. Đó
là những cuộc chiến đấu của từng cá nhân, không liên lạc được với nhau, ở rải rác khắp nơi. Súng
máy bắn, lựu đạn nổ, tiếng hô của những người tiến công, tiếng thét của những người phòng ngự,
tiếng rên của những người sắp chết. Đến 2 giờ sáng, Việt Minh đã tạo được một cửa mở và ào ạt
xông lên như thác lũ đang làm vỡ đê. Một số đã vào được vị trí chỉ huy, sục sạo các chiến hào.
Những “cán bộ” Việt Minh, xà cột khoác vai, hô to không ngừng bằng tiếng Pháp:
- Lính lê dương! Ra hàng đi!
Những tù binh đầu tiên đã tập trung trên đỉnh đồi, trong đó có trung uý bác sĩ quân y
Leude và trung uý đại đội trưởng Turpin. Cố nén đau, Turpin nằm xuống đất rồi lặng lẽ bò đến
góc một lô cốt cách đó vài mét. Anh nghĩ, Việt Minh đang chú ý tới những người còn khỏe mạnh,
chắc họ không để ý tới Turpin đầu và khuỷu tay đều quấn băng. Chỉ còn một nỗi lo là chiếc máy
bay Dakota lượn trên cao vẫn đều đặn tung pháo sáng thường xuyên có thể làm cho Turpin bị lộ.
Nhất là cách chỗ anh nấp khoảng 5 mét lại có một ụ súng trọng liên đã bị Việt Minh chiếm.
Đã gần 3 giờ sáng. Mọi cuộc chống cự có tổ chức trên cứ điểm đã hoàn toàn chấm dứt.
Nhưng vẫn còn nghe thấy vài loạt đạn tiểu liên và vài tiếng súng trường. Nhưng rồi sau đó, mọi
tiếng động đều im hẳn.
Phần lớn bộ đội Việt Minh đã rút khỏi điểm cao, chỉ để lại trên trận địa vài nhóm người
có nhiệm vụ sục sạo trong các lô cốt, tìm vũ khí, đạn dược, lương thực rồi khuân ra ngoài.
Turpin bị bỏ rơi bên cạnh một lô cốt. Và hình như cũng chỉ có một mình anh nằm lại
chỗ này. Turpin rất đau nhức và hoàn toàn kiệt sức. Nhưng do rất sợ bị lộ, anh vẫn cố nằm im,
không cử động, hai mắt mở to quan sát, hai tai nghe ngóng, đầu óc cảnh giác. Thời gian lặng lẽ
trôi dần như vô tận. Phía đông, trời đã hửng. Có lẽ đã 4 giờ sáng.
Chợt có tiếng rên chỉ cách chỗ Turpin vài mét. Một người lính lê dương bị thương đang
đòi uống nước. Rồi Turpin nhìn thấy một người lính Việt Minh đang chạy đến, đưa bi đông nước
cho người lính bị thương uống và nói bằng tiếng Pháp với âm thanh trầm bổng như hát:
- Không nằm đây được đâu. Chốc nữa, toàn bộ cứ điểm này sẽ bị đánh sập!
Người lính Việt Minh cúi xuống, dìu người lính lê dương bị thương đi chỗ khác. Turpin
cảm thấy rất lo sợ. Nếu Việt Minh đánh mìn phá sập cứ điểm, nhất định anh sẽ tan xác. Nhưng anh
đang quá yếu sức, không thể bò đi mà không bị lộ và bị bắt. Turpin đắn đo suy nghĩ: đi hay ở?
Để phòng xa, Turpin dùng bàn tay chưa bị thương cất giữ những giấy tờ tuỳ thân và
bản kế hoạch phòng ngự trong lớp áo sơ mi và tháo gỡ chiếc lon trung uý vứt đi.
Dựa vào cánh tay còn khỏe, Turpin cố lết đi khoảng 20 mét thì gặp một đoạn hào
không sâu lắm ở sát lớp rào dây kem gai. Anh lăn xuống đó, gần như bị ngất đi vì cẳng chân bị
thương làm đau nhói cả hai bên sườn.
Không may cho Turpin, anh rơi đúng hào mà những người lính cuối cùng của bộ đội cứ
điểm dùng để rút quân. Người lính đi sau cùng ngoảnh lại đã nhìn thấy Turpin. Anh ta giương
súng, lên đạn. Turpin vội nói:
- Tôi bị thương.
Người lính Việt Minh gật đầu, tỏ vẻ đã hiểu. Anh ta gọi một đồng đội. Cả hai người
lính Việt cùng ngồi trên bờ hào. Người mới đến biết nói tiếng Pháp một chút. Anh ta hỏi Turpin
trường hợp bị thương, bao nhiêu tuổi, có vợ chưa, có con chưa. Cuộc nói chuyện có vẻ như không
phải là hỏi cung, mà chỉ là trao đổi gần như thân tình, có tính chất cá nhân.
Đến lượt Turpin hỏi lại:
- Anh đi lính bao lâu rồi?
- Sáu tháng!
Người lính Việt Minh hỏi thêm:
- Anh có khát nước không?
- Không!
Người lính Việt Minh đứng dậy, mỉm cười bắt tay từ biệt Turpin rồi ra đi. Nhưng sau
đó ít lâu, anh ta lại quay trở lại cùng với một người khác, hỏi cung thật sự. Tên là gì? Cấp bậc?
Đại đội nào?
- Trung đội trưởng à? Đại đội nào?
- 11.
- Anh là người Pháp.
- Vâng!
- Anh có nghĩ chúng tôi có pháo?
- Có. Tôi biết. Các ông có pháo 75, 105.
Người lính Việt Minh chuyển đề tài:
- Phải đi khỏi đây thôi. Chúng tôi sắp phá huỷ cứ điểm.
Turpin hứa sẽ cố gắng. Người lính Việt Minh rút sổ tay, viết mấy chữ, nói:
- Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy chúng tôi đối xử nhân đạo với binh lính địch đã bị thương.
Anh ta xé trang giấy trong sổ tay đã viết mấy chữ rồi đưa cho Turpin:
- Đây là giấy thông hành tôi cấp cho anh để anh đi qua trận địa của chúng tôi, trở về vị
trí của các anh.
Anh ta cẩn thận gấp mảnh giấy thứ hai rồi đưa cho Turpin:
- Còn đây là thư gửi cho đại tá Castries của các anh. Chúng tôi cho phép phía Pháp đến
đây thu nhặt xác chết và lính bị thương.
Phải khó khăn lắm, Turpin mới đứng lên được. Anh tập tễnh đi xuống sườn đồi
Béatrice. Hai người “bộ đội” dìu Turpin đến một đường hẻm mà chỉ riêng Việt Minh mới biết, chỉ
cho anh lối về trận địa Pháp. Nhưng Turpin ưa dùng con đường cũ mà anh thông thạo, tức là
đường 41. Sau khi chia tay hai bộ đội Việt Minh, Turpin rẽ tay phải, men ra đường cái. Ngang
đường, anh nhận thấy gian hầm trống vẫn thường dùng làm chỗ đỗ ban đêm cho chiếc xe Jeep của
tiểu đoàn vẫn còn nguyên vẹn. Tức là Việt Minh đã không tiến đánh Béatrice từ phía này.
Lúc Turpin về đến chân Dominique, trời đã sáng rõ. Anh còn phải đơn độc đi bộ một
cây số nữa mới tới trạm giải phẫu. Turpin bước vào, dùng máy điện thoại nói chuyện với thiếu tá
Vadot sau khi được tin trung tá Gaucher tử trận.
Một sĩ quan quân báo là đại uý Noel đến trạm quân y. Turpin đưa cho Noel thư của Việt
Minh gửi đại tá Castries.
Chiều 14 tháng 3, một chiếc máy bay Beaver do thiếu tá không quân Devoucoux,
trưởng đội phi hành liên lạc từ Hà Nội tới đã hạ cánh được xuống đường băng sân bay Điện Biên
Phủ. Trung uý Turpin được đưa về Hà Nội. Cùng được di tản với Turpin trên chiếc máy bay nhỏ
bé này còn có một thương binh mà anh không nhớ tên và cô Paule Bourgeade, thư ký riêng của
đại tá Castries.
Trận đấu
Từ 14 đến 15 tháng 3 năm 1954
Trung uý Moreau đứng dậy, phủi bụi hai ống tay áo như một võ sĩ quyền Anh vừa bị
đấm một quả mạnh vào thẳng giữa mặt. Một quả đạn pháo 75 vừa mới nổ trên mép hào hất ông
ngã sụp xuống trong đám bụi đấy và mảnh đạn. Hai tay ông bị đau nhói nhưng khi lấy tay sờ
không thấy có vết thương nào. Chỉ riêng chiếc đồng hồ đeo tay là bị thiệt hại nặng. Mặt kính bị vỡ
tan. Hai chiếc kim đứng im lặng chỉ vào con số 12 giờ 10 phút đêm.
Moreau nói qua điện đài, gọi về sở chỉ huy tiểu đoàn.
- Thế là lính Algerie trong cứ điểm của tôi đã chiến đấu khá hơn lính lê dương ở
Béatrice đêm trước!
Đại uý Carre tiểu đoàn phó trả lời:
- Đây không phải là cuộc thi đua giữa lính thuộc địa Algerie của chúng ta với lính lê
dương, mà là một trận đấu giữa ta với Việt Minh. Ta phải thắng!
Từ 9 giờ tối tới lúc này, pháo Việt Minh không lúc nào ngừng, cũng không lúc nào
giảm. Hơn nữa, cách đây khoảng 20 phút, Việt Minh sử dụng thêm đạn cối 120 nổ chậm làm lung
lay các lô cốt, tan nát vách hần, phá huỷ những hầm sâu nhất. Cụm cứ điểm Gabrielle bắt đầu bị
thương tổn.
- Sanselme đâu? Tôi không bắt liên lạc với trung đội 3, đại đội 1.
Sanselme cũng không bắt liên lạc với trung đội này. Ông liền hạ lệnh báo động cho
trung đội ứng cứu rồi dẫn đầu cánh quân nhỏ bé men theo các chiến hào đi lên mặt Bắc cụm cứ
điểm.
Lính thuộc địa Algerie đã dày dạn chiến đấu, không để ý nhiều lắm đến đạn pháo đang
rơi như mưa. Nét mặt người nào cũng rắn như đá. Bàn tay họ nắm chặt vũ khí. Đi cuối trung đội là
đội lính chuyên môn trang bị súng phun lửa đeo bình chứa chất cháy trên lưng.
Cuộc tiến quân diễn ra rất nhanh. Đại uý Narbey chỉ tay về phía vị trí trung đội 3 đang
bị Việt Minh xâm nhập. Theo ngón tay chỉ, Sanselme lập tức vẫy tay cho toàn đơn vị xông lên.
Không có một tiếng hô thét nào. Chỉ có ngón tay trỏ phát đi tín hiệu ra lệnh và binh lính hiểu ngay
phải làm gì. Đôi tay thành thạo của họ biết rõ đâu là nơi đang bị địch chọc thủng. Họ ném lựu đạn
rồi nhảy từ hào này sang hào khác. Đây là một thứ máy đã được bôi dầu: ném lựu đạn, bắn một
loạt đạn, xông lên phía trước. Lại ném lựu đạn, lại bắn thêm một loạt đạn. Rồi lại xông lên lần
nữa.
Đôi khi họ vấp phải một sự chống trả ngăn chặn bước tiến. Lập tức đôi hình trang bị
súng phun lửa nhảy vào cuộc. Một lưỡi lửa khủng khiếp quét lia trên mặt đất. Chỉ cần ba giây
đồng hồ, cuộc tiến quân lại tiếp tục:
- Labes Abderrahmane đâu?
Thượng sĩ Labes, người Algerie, trả lời to:
- Báo cáo trung uý, Labes đây. Máy điện vỡ rồi. Tôi không có cách nào…
Nhưng Labes không nao núng. Không có liên lạc với cấp trên, cũng không biết chắc
đại đội còn giữ được chiến tuyến phòng ngự hay không, thượng sĩ Labes vẫn chỉ huy những binh
lính còn sống sót trong trung đội của mình bám trụ ở vị trí chiến đấu.
Trung đội đi ứng cứu đã phải quay trở lại trung tâm điểm tựa mang theo những binh
lính bị thương thu nhặt được rải rác trên đường về. Thượng sĩ Soldati xắn hai ống tay áo cùng với
các y tá băng bó các vết thương, nắn lại những chỗ gãy, đặt bông băng, buộc nẹp. Những người
được băng bó xong lại trở về vị trí chiến đấu, không nói một câu. Đối với họ, chỉ nằm nghỉ khi đã
chết.
Trong trạm xá lại diễn ra một cảnh tượng hoàn toàn khác. Những xác chết dồn dập
được đưa về đây, một mảnh vải bạt phủ trên thi hài bị què cụt.
- Sanselme đâu?
- Có tôi.
- Đại đội 4 đề nghị cứu viện. Hình như địch đã thâm nhập được vào kẽ hở giữa đại đội
1 và đại đội 4.
- Rõ!
Lần này, đến lượt thượng sĩ Rouzic dẫn đầu trung đội đi ứng cứu. Anh bước những
bước dài trong chiến hào. Bám sát theo sau là binh lính. Rouzic không nói một lời, chỉ lấy tay ra
hiệu. Gương mặt anh quá bình thản, không thấy xuất hiện một nét xúc động nào. Rouzic vẫn luôn
luôn như vậy. Khi cấp trên ra lệnh, anh lắng nghe, không động đậy mi mắt, không nhắc lại lệnh,
nhưng đã nhập tâm và thực hiện đúng.
Rouzic đã dẫn trung đội đi ứng cứu quay trở về. Đúng là người anh lấm lem hơn, quần
áo tả tơi hơn, nhưng thái độ không thay đổi:
- Báo cáo, đã hoàn thành nhiệm vụ.
Sau câu nói đơn giản đó, Rouzic lặng lẽ dẫn quân về vị trí cũ.
Trong hầm chỉ huy tiểu đoàn, thiếu uý Larchey nhận xét:
- Nghe này! Cuộc chiến có vẻ lắng dịu.
Thượng sĩ Budet, thư ký của ban chỉ huy, ngẩng đầu khỏi đống giấy ghi điện báo, lắng
tai nghe. Thời khắc tạm im ắng đã đến, sau khi pháo địch đã bắn rất mạnh mẽ. Một dịp tốt cho
mọi người trong hầm.
Ở bàn đối diện với ban thư ký, hai thiếu tá Kah và Mecquenem nhấm nháp món patê
đóng hộp và nghe báo cáo của đại uý Suzineau, chỉ huy đại đội trợ chiến. Đứng dựa vào vách
hầm, trung uý Sanselme cũng tranh thủ tận dụng đợt im ắng vừa qua để ăn uống một chút. Trên
chiếc bàn nhỏ gần ông là một trong những chai rượu vang của trung uý Moreau.
Larchey hỏi:
- Mấy giờ rồi?
- Hai giờ rưỡi sáng.
- Địch chịu thua rồi à?
Thiếu tá Mecquenem từ từ quay về phía hai người, nói:
- Đừng có ảo tưởng. Hãy truyền lệnh cho các đại đội, tận dụng thời gian tạm im ắng
này để cho anh em ăn uống, bổ sung đạn dược.
Thiếu tá Kah nói thêm:
- Việt Minh cũng là người, cũng cần phải nghỉ để thở. Nhưng rồi địch sẽ lại tiến đánh.
Còn bốn tiếng đồng hồ nữa trời mới sáng.
Thiếu tá Kah đã lầm. Việt Minh không phải ngừng để thờ. Đến 3 giờ sáng ngày 15
tháng 3 cuộc tiến công lại tiếp tục với những đơn vị mới, còn sung sức của Việt Minh.
Trung uý Moreau là người đầu tiên báo tin:
- Địch lại tiến công!
Đúng vậy. Pháo chuẩn bị cho cuộc tiến công bằng bộ binh lại tiếp tục bắn như giã giò
vào điểm tựa, mạnh hơn tất cả những đợt trước. Phải chăng là một sự bất ngờ? Hay chỉ là một cảm
giác sau đợt im ắng? Nhưng rõ ràng lần này, tất cả các cỡ pháo địch cùng bắn phá với nhịp độ rất
nhanh. Những khẩu cối 120 là vũ khí khủng khiếp nhất, bắn tập trung vào đỉnh Gabrielle, cày sâu
xuống đất, lật tung cả hầm hố lẫn chiến hào, vùi lấp cả người lẫn vũ khí.
Trung uý Clerget chỉ huy trung đội cối 120 của binh đoàn lê dương bắn hỗ trợ cho
Gabrielle, bước vào hầm chỉ huy, cặp mắt đờ đẫn, mồm há hốc, cử chỉ luống cuống, dáng điệu bơ
phờ, ấp úng nói:
- Trung đội tôi. Trung đội cối của tôi. Tất cả chết hết. Khiếp quá! Một quả đạn rơi đúng
giữa vào vị trí. Phá huỷ hết. Không còn một khẩu cối nào nữa!
Thiếu tá Mecquenem đã hiểu hết mọi chuyện. Ông lạnh lùng nói:
- Anh gắng gượng dậy. Hãy về đại đội 2, dưới sự chỉ huy của Botella.
Như vừa bị một cái tát hoặc một gáo nước lạnh, trung uý Clerget đứng thẳng người.
Một chút ửng hồng bây giờ mới hiện trên gò má.
Một quả đạn pháo rơi xuống nóc hầm có những xà gỗ lớn chống đỡ. Khói lọt vào hầm,
đọng lại trên trần. Các sĩ quan trong hầm chỉ huy phải cúi gập người để thở.
Mecquenem nói với Clerget:
- Đi đi!
Đến lúc này Clerget mới đi giật lùi, bước ra khỏi hầm chỉ huy tiểu đoàn.
Từ điện đài vang lên tiếng nói:
- Moreau đây! Yêu cầu trung đội ứng cứu đến bịt ngay lỗ thủng ở trung đội tôi.
Mecquenem chỉ tay về phía Sanselme bước ra ngoài trong khi Moreau vẫn tiếp tục nói
qua loa phóng thanh:
- Việt Minh đông lắm. Địch đang đào lấn ngay dưới chân các vị trí đóng quân của đại
đội tôi y như những con chuột chũi. Mà chúng đào nhanh lắm, với tốc độ không thể nào tưởng
tượng nổi!
Sanselme đã bước vào giao thông hào. Ông còn phải chạy khoảng 20 mét nữa mới gặp
được thượng sĩ Rouzic và trung đội ứng cứu. Nhưng ông không thể chạy được. Ông cảm thấy như
vừa mới bị một quả đấm rất mạnh vào lưng. Quay đầu lại, ông nhìn thấy sở chỉ huy tiểu đoàn
trong khoảnh khắc như vỡ tung trong hoả ngục. Những luồng lửa và khói bụi vọt ra cửa hầm, qua
nóc hầm, cuồn cuộn bốc lên cao, cuốn theo những mảnh vụn của đất đá và các vật liệu xây dựng.
Hai quả đạn pháo, và có lẽ ba quả, đã bắn vào đúng giữa hầm, phá tan nát tất cả.
Sanselme nghe thấy tiếng kêu, tiếng thét, tiếng rên. Ông cúi đầu xuống, biết rõ chẳng
làm gì được để cứu những người sống sót nhưng vẫn cố gắng luồn qua những xà gỗ đang đổ
xuống cản lối vào hầm. Nhưng ông không thể đi được nữa. Một luồng ánh sáng chói loà bất giác
làm ông nhắm nghiền mắt, trong khi một lưỡi liềm khổng lồ phạt ngang hai ống chân ông.
Sau vài giây choáng váng, Sanselme bừng tỉnh, nhìn thấy từ hai bắp về máu tuôn ra xối
xả.
Sanselme cảm thấy tò mò hơn là khiếp sợ. Hoặc là cái sợ đã tan biến, nhường chỗ cho
sự tỉnh táo. Ông tự nhận xét:
- Thế là mình bị thương rồi!
Cùng trong lúc đó, bằng những cử chỉ chính xác, ông vén những ống quần đã bị rách
bươm, sờ nắn chung quanh chỗ chảy máu để xác định vết thương ở mức độ nào.
Cả hai bắp đùi Sanselme đều bị đạn. Những thớ thịt bị rách nát rũ xuống hai đầu gối.
Ông tự nghĩ:
- Phải đi trạm xá.
Sanselme cố bò bằng bụng và hai khuỷu tay. Chợt ông nhìn thấy một cảnh tượng kinh
khủng ngay ở phía trước. Toàn bộ lô cốt cũng đã bị phá huỷ. Giữa những đám xác chết bắn tung
mọi phía ông nhận ra có cả thi hài thượng sĩ Soldati. Ông không còn tin vào mắt mình được nữa.
Sanselme cố gắng tiếp tục bò, quên tất cả, không biết là đã bò bằng tay, bằng vại, chỉ
thấy toàn thân toát mồ hôi, nóng hầm hập, dính nhơm nhớp. Ông lần mò trong trạm xá, lấy từ trên
giá xuống một túi cứu thương. Rồi từ dưới ánh đèn pin, bắt đầu băng bó các vết đau. Có đủ
Xuynphamit, Mecquyrôcrom. Vấn đề phức tạp là phải xếp những mẩu thịt vào đúng chỗ cũ, rắc
thuốc, bôi thuốc rồi băng lại.
Mọi việc đã xong. Sanselme dùng hai bàn tay bấu vào thành hào, lê người đi. Ông còn
một nhiệm vụ cần thực hiện, đó là lệnh cho trung đội ứng cứu đến cứu viện đại đội 4. Cuối cùng,
Sanselme đã gặp Rouzic:
- Trung uý bị thương à?
- Ừ! Mình không đi được nữa.
- Có cấn tôi giúp không?
- Có. Đến cứu đại đội 4.
- Tôi sẽ dẫn quân đi. Còn trung uý cố lê đến nhà ăn. Ở đó có hầm trú ẩn. Tôi sẽ về gặp
ông sau.
Rouzic khoác bình xăng khô lên lưng, mang theo súng phun lửa ra đi.
Sanselme cũng đã lết được tới nhà ăn, hiện được tạm dùng làm hầm chỉ huy. Vừa mới
bò váo, ông đã nghe thấy tiếng trung uý Collins, sĩ quan pháo binh ra lệnh cho pháo bắn chặn.
Collins nói rành rọt như đang hô bắn tập, không lộ một chút hoảng hốt:
- Nhằm điểm 23! Nam 50!
Sanselme nhìn thấy thiếu tá Mecquenem đang đứng trước mặt Collins, người phủ đầy
bụi đất, quần áo rách bươm, có cả vệt máu xen lẫn vết đất. Nhưng nét mặt ông vẫn không thay
đổi, chỉ cái nhìn có vẻ mệt mỏi:
- Chịu được chứ, Sanselme?
- Vâng. Đây có thiệt hại gì không?
- Có. Thiếu tá Kah bị gãy một chân. Những người khác trong hầm đều bị chết.
Sanselme ngồi xuống, đầu óc quay cuồng.
- Ăn một chút. Cậu mất máu nhiều đấy.
Tiếng nói của thiếu tá tiểu đoàn trưởng như vang vọng từ nơi xa xôi, như trong giấc
mộng. Sanselme nhai một mẩu pho mát, rồi uống chỗ rượu vang còn lại trong chai rượu của
Moreau. Đến lúc đó, Sanselme mới biết chai rượu đã cạn hết và ông cảm thấy cơn khát cháy bỏng.
Ông ngạc nhiên vì thấy mình có cảm xúc rõ rệt. Trí óc Sanselme lại bắt đầu minh mẫn. Ông cố
nén đau và chỉ cảm thấy một vết sưng to gần mắt cá chân phải dù đã băng chặt vẫn còn nhắc nhối.
- Cậu định đi đâu?
- Cứu viện. Tôi đi xem Rouzic đang ở đâu.
Đã 5 giờ sáng. Ở phía Đông một dải xám xịt trên chân trời phía Béatrice đã nhạt dần,
chứng tỏ sắp rạng đông. Cuộc chiến vẫn tiếp diễn, nhưng Gabrielle có vẻ như vẫn giữ được. Chợt
một câu thơ ngụ ngôn học thuộc lòng từ nhỏ, lóe lên trong óc Sanselme:
Rồi đến sáng rõ
Con chó sói sẽ nhai con thỏ
Sanselme cố xua đuổi câu thơ đó. Không! Con chó sói chưa ăn thịt cứ điểm mang tên
cô gái Gabrielle. Ông đã nhìn thấy Rouzic quay trở lại, khuỷu tay bị thương phải buộc một dải
băng qua cổ nhưng cặp mắt sáng ngời, báo tin:
- Không bịt được cửa mở. Nhưng không sao. Đã đẩy lùi được địch. Mới đầu bằng lựu
đạn, rồi bằng thuốc nổ. Cuối cùng là súng phun lửa dọn sạch một góc đồn. Và rồi, để dứt điểm,
mời ông sẽ xơi rượu Cognac.
Sanselme bật cười. Cơn sốt cũng như sự mệt nhọc đã tan biến. Có lẽ là do ngửi thấy
hơi rượu.
Rouzic nói tiếp:
- Phải lui về tuyến thứ hai. Tôi đã bố trí các ụ súng bắn chặn ở mọi ngách chiến hào.
Phía sau là ổ trọng liên chặn đứng như một nút chai. Sẽ giữ được.
Nhưng mà không giữ được. Vài phút sau, chỉ huy đại đội 1 báo cáo, hào giao thông của
địch đã xuyên qua tuyến phòng ngự đầu tiên và đã tạo được một góc hết, đạn bắn cản không bắn
tới được.
Nerbey nói:
- Không thể nào đánh bật được địch. Tôi bị đứt liên lạc với trung đội 1 của
Abderrahmane.
Rouzic trả lời:
- Rồi sẽ tiếp xúc được.
Sanselme quyết định:
- Tôi cũng sẽ đi tới đó.
Trung đội ứng cứu chỉ còn lại có hai chục tay súng. Nhưng họ vẫn không nao núng.
Trung đội bò qua chiến hào và hố đạn đại bác, tới được tuyến giao tranh. Mọi người
lặng lẽ nấp sau một thân cây gỗ lim rất to, có lẽ rơi từ nóc hầm xuống, rồi đồng loạt ném lựu đạn
xuống khe rãnh có Việt Minh.
Một loạt tiếng nổ vang lên đồng thời với những ánh lửa. Có những tiếng kêu. Nhưng
liền theo đó là những tiếng hô vang:
- Tiến lên! Tiến lên!
Rouzic thở dài:
- Lạy Chúa tôi! Ném lựu đạn như thế mà vẫn còn địch.
Đêm Gabrielle
Từ 14 đến 15 tháng 3 năm 1954
- Tôi, đại uý Gendre đây. Tôi vừa được cử làm chỉ huy cứ điểm Gabrielle.
Tiếng nói truyền qua loa phóng thanh trong hầm chỉ huy của đại tá de Castries bị ngắt
quãng, lúc yếu, lúc rõ như bị những lớp sóng vô hình nào đó lôi cuốn mất những âm thanh.
Lúc này là 4 giờ 30 sáng:
- Tình hình ở đó ra sao?
- Thiếu tá Kah và thiếu tá Mecquenem đều bị thương trong hầm. Các điểm tựa vẫn giữ
được, nhưng Việt Minh đã lọt vào được một số vị trí ở mặt Bắc và Đông Bắc. Phải có quân tăng
viện mới đánh bật được…
- Được! Đến rạng đông sẽ phản kích. Cố giữ tới lúc đó.
Tức là chờ tới sáng. Đại uý Gendre không bình luận gì. Ông chỉ trả lời:
- Rõ! Chúng tôi cố giữ
Lập tức đại tá de Castries lệnh cho trung tá Langlais chuẩn bị phản kích. Lúc này,
Langlais vốn là chỉ huy lính dù đã được cử làm chỉ huy trưởng phân khu Trung tâm. Suốt đêm ông
không ngủ. Từ vị trí chỉ huy, ông theo dõi những đợt giao tranh ở Gabrielle, thầm hi vọng cụm cứ
điểm này cố ngăn được địch cho tới thời điểm quân tăng viện tới.
Vấn để phản kích cứu ứng cho Gabriell đã được nghiên cứu kỹ. Từ trung tuần tháng 2,
hai tiểu đoàn dù là tiểu đoàn dù lê dương số 1 và tiểu đoàn xung kích số 8 do Guiraud và Tourret
chỉ huy đã tổ chức hành quân thăm dò đường tiến, có xe tăng yểm hộ, công binh đã sửa chữa
đường cái lớn từ Điện Biên Phủ đi Lai Châu ngang qua Gabrielle, mở rộng những đường mòn dẫn
tới các cứ điểm mang tên Huguette bảo vệ sân bay ở mặt phía Tây.
Xa hơn nữa, cách Gabrielle gần một cây số đã làm một đường vượt sông bằng cầu phao
nổi trên mặt nước.
Langlais cũng như các tiểu đoàn trưởng Guiraud, Tourret đều thuộc lòng kịch bản phản
kích. Mọi người đều thừa nhận nếu tiến đánh vào ban đêm sẽ thất bại, và cần phải chờ trời sáng,
với điều kiện tới lúc đó vẫn còn giữ được Gabrielle.
Trong đêm, hai cứ điểm Dominique 1 và Dominique 5 thuộc phân khu Trung tâm cũng
bị tiến công. Langlais do dự, đắn đo suy nghĩ, không rõ đây là cuộc tiến công tiêu hao kiềm chế
hay là tiến đánh thật sự. Trong hệ thống phòng ngự toàn tập đoàn cứ điểm, Gabrielle thuộc phân
khu Bắc, dưới sự chỉ huy của Trancard, Langlais đã nói:
- Tôi chỉ còn tiểu đoàn dù lính Việt số 5.
- Thế tiểu đoàn dù lê dương đâu?
- Ông biết đấy. Tiểu đoàn này đang phải chia thành hai bộ phận: giữ Junon ở mặt Đông
Nam và giữ Claudine đối diện với mặt Tây. Còn tiểu đoàn dù xung kích số 8 thì phải bảo vệ mặt
Nam của sân bay. Đúng là chỉ còn có tiểu đoàn dù lính Bảo an số 5. Tôi sẽ chỉ thị cho Seguin
Pazzis làm việc này.
Vừa mới hôm trước, thiếu tá Seguin Pazzis còn là phó của Langlais. Khi trung tá
Langlais được cử thay trung tá Gaucher bị chết ngay trong trận đầu làm chỉ huy trưởng phân khu
Trung tâm, thì Seguin Pazzis nghiễm nhiên là chỉ huy lực lượng ứng cứu. Seguin Pazzis là một
sản phẩm tốt, ra lò từ Học viện chiến tranh có bộ mặt dài như lưỡi dao, vầng trán rộng của người
trí thức, giọng nói chắc nịch. Là tham mưu trưởng binh đoàn đổ bộ đường không, ông là một
người hoàn hảo đã vạch trên giấy những kế hoạch tác chiến chứng minh trên thực địa.
Langlais chỉ thị cho đại uý Cabiro:
- Anh chuẩn bị đưa tiểu đoàn dù lính Bảo An số 5 phản kích vào lúc rạng đông, đúng
như kế hoạch.
Seguin Pazzis cãi lại:
- Nhưng kế hoạch không phải như vậy. Trong kịch bản, lực lượng cứu viện cho
Gabrielle là tiểu đoàn dù lê dương của Guiraud và tiểu đoàn dù xung kích của Tourret, chứ không
phải tiểu đoàn dù Bảo an số 5. Tiểu đoàn này vừa nhảy xuống chiều hôm qua, chưa rõ địa hình,
không nằm trong kế hoạch…
Langlais không thích tranh cãi. Vả lại ông đã trình bày lý do với đại tá Castries. Hơn
nữa đã 5 giờ. Chỉ còn một tiếng đồng hồ nữa sẽ sáng rõ. Ông trả lời Seguin Pazzis:
- Hãy làm theo chỉ thị!
Seguin Pazzis là một sĩ quan bướng bỉnh. Ông trả lời:
- Tôi đã hình dung được những lý do của ông. Và đó là những lý do đúng đắn, theo
quan điểm của ông. Nhưng điều tôi nhấn mạnh, đó là vì lợi ích của Điện Biên Phủ và xuất phát từ
cả lợi ích của cuộc hành quân phản kích. Cả ông và tôi đều biết rõ tiểu đoàn dù Bảo an số 5. Tôi lo
nó không đủ sức làm nhiệm vụ này.
Langlais suy nghĩ. Ông buộc phải công nhận tính đúng đắn trong lập luận của Seguin
Pazzis. Ông đã dịu cơn nóng. Và ông nhượng bộ. Nhưng chỉ nhượng bộ một phần:
- Thôi được. Ông sẽ có thêm hai đại đội của tiểu đoàn dù lê dương để hỗ trợ cho tụi
Bảo an.
Seguin Pazzis để quyền cho Guiraud chọn hai đại đội đưa đi ứng cứu Gabrielle. Tiểu
đoàn trưởng Guiraud chỉ định đại đội 3 của Martin và đại đội 4 của Domigo, tất cả đều ở cấp trung
uý. Hai người không giống nhau, nhưng mỗi người có cách riêng để chỉ huy có hiệu quả.
Tại đại đội 3 mọi người đều biết tính thoải mái, hay hài hước của Martin. Ông chỉ huy
mà không ra vẻ là một người chỉ huy, lúc nào cũng coi như bình đẳng với các trung đội trưởng,
nói năng dịu dàng. Chính sự dịu dàng đó lại tạo ra sự chú ý. Đại đội 3 được gọi là đơn vị của
“Loulou” của Martin, mọi người muốn làm gì cũng được miễn là phục vụ cho chiến thắng.
Đại đội 4 do đại uý Cabiro, thường được gọi thân mật là “bố Cab”, chỉ huy từ nhiều
năm nay, lúc đầu đã duy trì một nếp kỷ luật rất nghiêm nhưng sau đó vẫn phải áp dụng mềm dẻo.
Sau khi Cabiro bị thương, Nobert Domigo được cử thay, là một người trầm tĩnh, ít nói, hơi bẽn
lẽn. Nhưng ông lại có một bàn tay sắt. Được lệnh phản kích, Domigo nói:
- Phản kích chiếm lại Gabrielle bằng hai đại đội à? Một chuyện ngu xuẩn. Có mà gãy
răng vô ích.
Guiraud giơ tay tỏ vẻ không hài lòng. Ông không muốn uy quyền của mình bị xúc
phạm. Từ nãy đến giờ, người nọ trách cứ người kia. Ông đã phản ứng với Seguin Pazzis là người
đã từng phản ứng với Langlais.
Đại uý Botella chứng kiến cuộc cãi cọ mà không hiểu nội dung cũng như sự cần thiết.
Ông không có chính kiến riêng. Hơn nữa, cũng chẳng ai nghĩ đến chuyện hỏi ý kiến ông. Trong
thâm tâm, ông tự nghĩ, tại sao kế hoạch đã được quyết định vắng mặt ông, thì nay người ta lại đột
ngột lôi cuốn ông vào để làm gì.
Vả lại, ông cũng tự ái khi thấy người ta coi thường tiểu đoàn dù Bảo an số 5 do ông chỉ
huy. Mọi người đã quên rằng hồi mới thành lập, cái tiểu đoàn mang tên lính dù người Việt này có
tới hai phần ba quân số thuộc tiểu đoàn lính dù thuộc địa số 3 cũ. Những lính dù của đơn vị này đã
có thâm niên tới sáu hoặc bảy năm chiến đấu. Riêng về phần ông, có lẽ ông là sĩ quan dù lâu năm
nhất so với các đơn vi khác tại Điện Biên Phủ. Từ mùa hè năm 1944, lúc còn là một thiếu uý, ông
đã nhảy dù xuống vùng địch chiếm đóng ở Bretagne, miền Bắc trong khu rừng Duault, ông đã
chiến đấu một chọi năm mươi để thoát khỏi vòng vây của Đức. Bị thương nặng ở chân, Botella từ
chối di tản, đòi ở lại trận địa. Nhờ một sự may mắn kỳ lạ, ông đã được dân chúng địa phương cứu
thoát, che giấu, chữa trị, cuối cùng đã bình phục. Từ đó ông bước đi hơi thọt một chút, nhưng vẫn
bước nhanh và bước kịp anh em trong đơn vị. Ông chỉ hỏi:
- Thế tiến đến Gabrielle như thế nào?
Guiraud đáp:
- Chúng ta dẫn đầu cuộc phản kích. Anh sẽ có người dẫn đường để vượt qua những lối
đi ngoằn ngoèo qua các cụm Huguette.
Hai đại đội này của tiểu đoàn dù lê dương vừa tách ra nay lại được sắp xếp gần nhau,
đóng quân gần sở chỉ huy tiểu đoàn. Ngược lại, tiểu đoàn dù Bảo an số 5 phải vựot gần một
kilômét mới tới điểm tập trung xuất kích.
6 giờ sáng. Những lính dù lê dương tiến về phía bắc cùng với những xe tăng của đại uý
Hervouet. Các trưởng xe ngồi lọt thỏm trong tháp pháo.
Dẫn đầu hang quân là chiếc xe tăng Conti do chính đại uý Hervouet chỉ huy. Chiếc thứ
hai mang tên Smolensk của Gunt. Chiếc thứ ba của Ney, mang tên Ettlingen đi cuối cùng. Tất cả
đều là những chiếc xe tăng quen thuộc và thân thiết của lính dù lê dương đã từng yểm trợ cho họ
trong mọi cuộc tiến công.
Lúc vượt qua cứ điểm Anne Marie 4, Luoloi Martin nói với Hervouet:
- Ta còn hai kilômét nữa. Sau đó sẽ quyết định xem đặt chân ở đâu. Tôi rất ngạc nhiên
nếu Việt Minh không dự đoán trước cuộc hành quân cứu viện của chúng ta.
Domigo bàn:
- Cần xiết chặt đội hình. Nếu Việt Minh đón đợi chúng ta thì chúng sẽ phục kích ở
quãng cầu phao qua sông Nậm Rốm, ở phía bản Khe Phai.
Hervouet cắt ngang:
- Nghe này! Gabrielle đang kêu cứu.
Điện đài trên xe tăng vừa thu được tiếng nói của đại uý Gendre:
- Nhanh lên. Chúng tôi đang rất gay. Việt Minh đã chiếm được đỉnh núi. Chúng tôi
đang bị kẹt dưới hai luồng đạn.
Tiếng nói rất yếu như là sắp hết pin.
Domigo lại kêu to:
- Cẩn thận! Chúng ta đang tới cầu phao…
Điều mà hai đại đội trưởng nghi ngờ đã thành sự thật. Việt Minh đã thiết lập trên bờ
sông một điểm chốt kiên cố như chiếc nút chai.
Domigo dẫn các trung đội tiến lên phía trước, miệng làu bàu:
- Chúng có ít nhất là một tiểu đoàn.
Trời đổ mưa. Thiếu uý Boisbouvier đã vượt qua cầu phao, nhanh chóng tản đội hình,
phát huy mọi hoả lực. Trung uý Bertrand tiến theo sau, với nhiệm vụ kìm chân địch để Martin dẫn
quân lên, bám sát xe tăng.
Đã 7 giờ 30 phút. Mặt trời đã mọc nhưng rất tiếc vòm trời nặng trĩu, phủ đầy mây thấp
màu xám xịt. Cảnh vật chỉ có màu đen và màu xám. Cây đen, cỏ đên, nước suối cũng đen ngòm.
Đất màu xám, trời màu xám, mặt người màu xám. Bộ đồ trận cũng biến thành màu xám dính chặt
vào cánh tay, bắp đùi.
Ngay từ những loạt đạn đầu tiên, lính lê dương đã nhảy vọt lên phía trước, không cần
ẩn nấp, không cần né tránh. Chỉ xung phong tiến lên cho vừa tầm súng, tầm ném lựu đạn.
Các xe tăng yểm trợ bộ binh bắn pháo với nhịp độ cấp tập, kể cả trọng liên, dệt thành
một hàng rào sắt và lửa.
Đến lượt Martin dẫn quân vượt qua cầu phao. Đơn vị ông chỉ còn cách chân đồi
Gabrielle non một cây số. Ngước mắt nhìn lên. Không còn gì hết!
Việt Minh đã chiếm được đỉnh đồi, đang quan sát cuộc phản kích và đã phát hiện được
lính lê dương đẩy lùi đơn vị phục kích gần cầu phao.
Pháo Việt Minh lập tức bắn tới. Những khẩu pháo 105 từ điểm cao Gabrielle bắn thẳng
xuống những chiếc xe tăng và lính lê dương tạo thành một bức tường của những tiếng nổ. Đất
ruộng bắn tung tóe vọt lên cao. Martin hét to:
- Nhanh lên!
Ông nhảy từ hố này sang hố khác luôn luôn dẫn đầu trung đội đi đầu do thiếu uý
Touchet chỉ huy. Ông thúc đẩy Navak chỉ huy trung đội trợ chiến, thúc giục các binh lính tiến lên.
Phía sau là tiếng gầm rú của xe tăng. Martin nói:
- Chúng ta đã tới nơi, chúng ta phải đánh thắng!
Bắn tỉa
23 tháng 3 năm 1954
Hôm qua, một cánh quân mở đường liên lạc từ phân khu Trung tâm đến phân khu Nam
Isabelle đã vấp phải một tiểu đoàn Việt Minh bố trí tại chiến hào cắt ngang cánh đồng từ phía
Đông sang phía Tây. Tiểu đoàn dù số 6 của Bigeard có xe tăng yểm trợ. Phải mất một ngày chiến
đấu mới chiếm được trận địa, đến đêm lại phải rút lui mà không hoàn toàn thực hiện trót lọt được
nhiệm vụ. Binh lính ở Isabelle đi đón, đến nửa đường đã phải quay lại.
Tối hôm nay, Điện Biên Phủ cố lấy lại sức. Trong tập đoàn cứ điểm, suốt ngày tiến
hành việc thu nhặt và phân phối lương thực đạn dược tới các cứ điểm, chuẩn bị đề phòng ban
đêm.
Không ai nghỉ ngơi. Những người không làm việc ở bên ngoài thì đào các giao thông
hào mới, mở rộng các chiến hào, sửa sang các hầm trú ẩn. Từ ngày 13 tháng 3 đã đào rất nhiều ở
Điện Biên Phủ và sẽ còn tiếp tục đào không ngừng. Chưa có hố hào nào được coi là đủ sâu, đủ
kín, đủ bảo vệ cho người.
Trung sĩ Bertin Dubois nhận xét:
- Chúng ta đang sống trong hoàn cảnh có nhiều bất ngờ: đạn pháo ở trên đầu, đất cát ở
chung quanh và chúng ta sống ở giữa. Chúng ta là những con chuột chũi bị kẻ mưu sát năng nổ
săn lùng…
Trung sĩ Bauchet im lặng tỏ vẻ tán thành. Đây là một chàng trai lực lưỡng tóc vàng hoe
rất Âu, trong khi Dubois ngăm ngăm đen đượm màu châu Á. Hai người gặp nhau tại một chỗ
ngoặt của chiến hào. Bauchet đeo khệ nệ trên lưng một máy ngắm của xạ thủ có đèn chiếu và kính
hồng ngoại để bắn đêm. Dubois vác giúp hòm ắc-quy. Ông tỳ súng vào bệ ngắm và nhích mũi
súng ra bờ hào, nói một cách bình thản:
- Tôi không nghĩ rằng người ta có thể chịu được nhiều quả đạn như vậy mà không phát
điên. Đúng là đạn rơi liên tục và tôi không điên …
Một tiếng rít lớn dần, lớn dần, vang vọng cả khoảng không gian gần kề. Rồi tiếng rít
trở thành tiếng rú, chuyển đổi giọng để vang to mãi, được trợ lực bởi không khí bị dồn ép, dày đặc
như tiếng vang của thác lũ. Bauchet lại nhảy vào chiến hào. Quả đạn pháo nổ ngay chỗ anh vừa
đứng. Anh làu bàu:
- Nó rơi không xa. Mình còn nghe thấy những tiếng vang …
Bertin Dubois hỏi:
- Cậu có nhận xét là lỗ tai đã học được cách phân biệt những tiếng động? Những ngày
đầu, nghe thấy tiếng rít của quả đạn nào mình cũng cúi đầu chào. Bây giờ, mình đã phân biệt được
những quả rơi trúng mõm…
- Đúng vậy. MÌnh vừa biết, chính mình cũng không phân biệt được những quả rơi quá
xa hoặc quá gần nữa,
Bauchet không phải là người duy nhất. Dần dà, phần lớn những người ở Điện Biên Phủ
có vẻ như không bị tác động nhiều lắm trước những loạt đạn đang không ngừng cày xới đất. Đôi
lúc, họ cũng tạm lơi lỏng công việc để tìm một nơi ẩn nấp, nhưng phần lớn thời gian bắn pháo họ
chỉ cúi đầu xuống để tránh né. Tuy nhiên, họ cũng cố thu xếp để không bao giờ phải đứng quá xa
chiến hào khi làm việc ngoài trời.
Bauchet tiếp tục nói với Dubois:
- Này, nếu đêm nay tớ đưa cậu cùng đi.
- Để làm gì?
- Đi bắn bia sống. Dĩ nhiên. Tớ đã có một tay trợ thủ nhưng hắn đã bị trúng một mảnh
đạn không đúng chỗ. Trung uý cho mình được mang theo một dân phu để mang vác thiết bị. Tớ
không tin tưởng ở thằng này.
Bauchet nhổ toẹt một bãi nước bọt ngay trước mặt rồi chữa lại:
- Cũng không hẳn là tớ không tin. Tớ chỉ nghĩ rằng thằng này không thạo việc.
Dubois tán thành:
- Cậu có lý. Nhưng bây giờ chiến tranh đã bắt đầu. Ai định nghĩa được cái gì là công
việc của dân phu, cái gì không phải. Đạn pháo cũng như mặt trời, thuộc về tất cả mọi người.
- Không sao cả. Nếu tớ là một thằng tù, tớ cũng không thích tiếp tay cho Việt Minh.
Dubois quay trở về với đề nghị của Dubois:
- Mình đồng ý với cậu để thay đổi không khí, vì được ra khỏi hang chuột. Sáng mai
mình không phải trực công vụ.
Chiếc xe Jeep từ từ lăn bánh, nẩy trên những vết bánh xe cũ trên con đường mang tên
Pavie (dẫn tới Lai Châu) ngược về phía Bắc. Về phía tay phải là bãi đỗ, các xe tải và xe cứu
thương đang tập trung, chờ chiếc máy bay Dakota y tế một lần nữa, cố hạ cánh thử đậu qua đêm.
Bauchet nói nhỏ vào tai Dubois cũng ngồi trên chiếc ghế dài phía sau:
- Tụi phi công cũng táo bạo đấy!
- Ừ! Cậu có biết rằng họ đã áp dụng một mẹo để đánh lừa Việt Minh không? Họ bay
đôi trên vùng trời này. Một chiếc bay ở độ cao 200 mét, nổ máy to hết cỡ để Việt Minh tưởng là
thả dù. Trong khi chiếc thứ hai cắt ga, nhẹ nhàng hạ cánh xuống đường băng.
- Thoát chứ?
- Cho tới nay thì rất thông suốt. Miễn là tiếp tục kéo dài.
Bauchet suy nghĩ một lát rồi nói:
- Mình vẫn tự hỏi, làm thế này thì nguy hiểm cho phi công quá, việc hạ cánh biến thành
mục tiêu di động để Việt Minh nhằm bắn.
Dubois khẽ cười:
- Cậu đi mà hỏi phi công.
- Này! Cậu là sĩ quan quân báo, nắm được bí mật của cả thần thánh. Cho mình biết mỗi
đêm di tản được bao nhiêu thương binh?
- Không nhất định. Cái đó còn tuỳ ở nhiều yếu tố: sự can đảm của các phi công, những
phản ứng của Việt Minh, sự nhanh nhạy của bọn tải thương khiêng cáng. Cậu biết không? Hôm
kia mình phải giúp một tay. Không đẹp mắt lắm. Máy bay đã lăn bánh sẵn sàng cất cánh, vẫn còn
có những thằng cố đuổi theo, bám chặt lấy cửa máy bay. Tối hôm đó, chỉ di tản được 15 thương
binh toàn loại nhẹ. Mình còn nhớ: có một trung uý thuộc tiểu đoàn dù lê dương nằm trên cáng.
Lúc nhìn thấy cảnh hỗn loạn như chợ vỡ, tất cả lũ chạy theo sẵn sàng đánh nhau để leo lên chiếc
máy bay Dakota, ông ấy đã nói với mình: “Thà tan xác ở Điện Biên Phủ còn hơn là rời khỏi đây
cùng với cái lũ hèn đốn này!”. Thế là ông ấy tụt xuống cáng, chống nạng quay về. Đó là trung uý
Domigo, bị thương trong trận phản kích đánh lên Gabrielle.
Chiếc xe Jeep đã vượt qua cứ điểm Huguette 2 đi về hướng Bắc. Bauchet thuộc lòng lộ
trình. Sau khi vượt qua vật chướng ngại ở Huguette 6, họ xuống xe, đi bộ khoảng 800 mét để tới
Huguette 7.
Bertin Dubois hỏi:
- Thực chất là làm nhiệm vụ gì?
- Ta cùng đi với một tổ báo động của lính Bảo an. Bọn nó nghe thấy có tiếng địch đào
hào.
Họ đi tới con đường chữ chi ở phía Đông Nam. Lính gác lặng lẽ dẫn họ đi qua những
đường hào ngoằn ngoèo cho tới hầm của đại đội trưởng. Trung uý Rondeaux đang ngồi trong hầm,
khuỷu tay tỳ lên chiếc bàn khập khiễng, nét mặt bị chiếu sáng xiên xẹo bởi một bóng đèn bấm tiếp
nói với cục pin của điện đài. Ông có những nét mặt mệt mỏi căng thẳng, ngồi vặn vẹo trên chiếc
ghế đẩu, sức nặng của toàn thân dồn về phía đùi bên trái. Qua kẽ hở của chiếc áo nhảy dù lộ ra
những mẩu băng thấm máu. Sáng hôm nay, Rondeaux dẫn đầu trung đội, thử tiến hành một cuộc
thăm dò đồi Anne Marie do lính Việt Minh vừa chiếm đóng, đang tu sửa. Ông đã phải rút quân
dưới hoả lực dày đặc của các vũ khí nặng. Một số lính trong trung đội bị thương. Rondeaux cũng
bị trúng một loạt đạn, nhưng từ chối di tản về phía sau. Ông nói:
- Bắt liên lạc với thiếu uý Thélot hiện đang ở mỏm Bắc của điểm tựa.
Bauchet khoác khẩu các-bin ngang vai, chỉ đáp một câu đơn giản:
- Rõ!
Thiếu uý Thélot mỉm nụ cười đáng yêu chào đón những người mới đến. Anh vui vẻ
nói:
- Hoan nghênh các bạn đến cái hang của tôi.
Anh di chuyển một chút để có chỗ và ngồi sát một thiếu uý khác. Anh này cũng biểu lộ
một cử chỉ nhã nhặn và tự giới thiệu:
- Tôi là Latanne.
Rồi anh lấy mũi dao chỉ vào một khối màu trắng, đặt trên hòm đạn. Ánh sáng yếu ớt
của ngọn nến làm cho mọi người nhìn thấy cái khối màu trằng này có vẻ như một tảng thạch cao
mềm.
Dubois hỏi:
- Cái gì thế này?
Latanne cười:
- Đặc sản của sếp đấy! Ông ấy gọi, đây là món “patê đóng đinh”.
Rồi anh nói tiếp như một tay đầu bếp trình bày chi tiết các khoản thu của mình: đơn
giản và không đắt; thuần tuý chỉ dựa vào cốt lõi của khẩu phần đồ hộp cá nhân. Trước hết, lấy 12
chiếc bánh bích quy vụn dã chiến hoà với nước và sữa đặc thành bột nhão. Cho vào vỏ đồ hộp
khẩu phần đã lắng dầu cá sardin ở bên trong. Cho thêm thịt bò tẩm gia vị, thịt lợn đông và ba con
cá sardin hộp. Liên kết với nhau trong vỏ đồ hộp, đưa lên đun khoảng 15 phút và ăn nóng.
Latanne lại cười rồi kết luận:
- Kết quả đây! Mời các bạn nếm thử, nếu thấy hấp dẫn. Còn tôi, dù sinh trưởng ở
Lourdes, tôi vẫn không tin vào những điều huyền hoặc.
Bauchet trả lời nghiêm chỉnh:
- Xin cảm ơn bạn. Tôi xin một chút cà phê sữa Nescafe là đủ.
Mặc dù ánh sáng trong hầm lô cốt của trung đội rất yếu nhưng khi bước ra chiến hào,
Bauchet và Dubois vẫn khó chịu với bóng tối bên ngoài. Cánh đồng Điện Biên Phủ giống như một
cái chảo bật nắp vung. Trời đen mượt như nhung và nếu ở trên cao, có thể phán đoán được có
những chiếc máy bay Dakota đang lượn sát các ngọn đồi như những con chim mồi, thì vẫn không
nhìn thấy được những ánh đèn màu xanh phát ra từ phía động cơ.
Thiếu uý Thélot vỗ vai hai trung sĩ ra hiệu cho họ bước theo mình. Anh đi nhanh, dễ
dàng như đã thực hành từ lâu. Anh biết rõ từng kẽ hẻm của cứ điểm. Anh dừng lại trước đường
vào cửa hầm và gọi:
- Tournayre, đi thôi, đến giờ rồi.
Một bóng sáng xuất hiên, theo sau có ba nóng nữa, nhỏ bé hơn:
- Bọn “tia hồng ngoại” có đấy không?
Bauchet trả lời:
- Có!
Họ bắt tay nhau trong tối đen. Sau đó, trung sĩ Tournayre trườn ra ngoài chiến hào bắt
đầu bò đi và báo trước:
- Cấn thận rắn rết, tôi chỉ đặt một mẩu gỗ để cách ly chúng từ mặt đất. Theo đúng bước
đi của tôi để tránh vấp phải mìn.
Từng người một, đội tuần tiễu theo hàng dọc ra khỏi điểm tựa. Dubois đi sau cùng. Khi
đến lượt trèo lên khỏi hào, anh thấy ống tay áo bị kéo lại. Có tiếng thiếu uý Thélot nói nhỏ:
- Chúc chuyến đi săn đạt kết quả.
Lúc trèo lên bờ hào, chiếc mũ sắt của Dubois vấp phải gót ủng nhảy dù của người đi
trước. Anh hất đầu ra, leo lên theo đoàn người đang dính chặt trong bùn như những con cua bất
động. Đi ngang hai trung sĩ, anh dừng lại, ghé mặt sát họ.
Bauchet hỏi nhỏ:
- Tránh được hứ? Đi thôi. Đã có tụi lính Bảo an bảo vệ, hai chúng ta kiếm lấy một chỗ
đứng.
Anh đặt tay lên vai bạn:
- Nghe này!
Dubois vểnh tai lên nghe và giật thót tim. Bất chợt anh có một cảm giác kỳ lạ, vừa kích
thích vừa sợ hãi. Anh cảm thấy đột ngột không còn ở mảnh đất mang tên Điện Biên Phủ nữa để
như phải chèo chống trên một cái mảng giữa biển. Cách chỗ đứng khoảng 50 mét, anh nghe rất rõ
tiếng xẻng nạo đất vang vọng lại.
Bauchet bắt đầu chuẩn bị dụng cụ bắn tỉa. Mặc dù đêm tối, Dubois cũng đoán biết bạn
mình hành động một cách dũng cảm, tự chủ, chính xác. Bauchet đã lắp đèn chiếu trên nòng súng,
thử các nấc điều chỉnh của máy ngắm, trải dài dây điện rồi đưa cho Dubois:
- Cậu cẩn thận, đừng nhầm ổ cắm. Những phích cắm có kích cỡ khác nhau đấy.
Dubois cắm giây điện. Đột nhiên, anh cảm thấy đang phơi mình trước địch như một kẻ
bị lột trần truống. Anh đang đứng giữa trận địa địch, vừa tầm ném lựu đạn của một “bộ đội” đang
căng thẳng thần kinh hoặc đang minh mẫn, thế mà lại không nghĩ đến chuyện đem súng theo.
Đành rằng, ở trong lô cốt thông tin liên lạc thì khẩu súng chẳng làm được điều gì cả.
Bauchet đã ở trong vị trí như một vận động viên bắn súng, nằm sát mặt đất, soải chân,
quai súng cuộn vào cổ tay. Dubois đến sát, chỉ cách vài centimét:
- Có nhìn thấy gì không?
- Có! Bốn đứa! Chắc là tụi lính gác. Vấn đề là, nếu tớ bắn một thằng, thì ba thằng còn
lại sẽ nằm xuống và ném lựu đạn về phía chúng mình. Cách tốt nhất là nhằm bắn được hai đứa
liền và chờ.
Bauchet cần thận tỳ chặt báng súng vào vai rồi bấm cò. Hai phát đạn nổ sát nhau tới
mức Dubois tưởng chừng như chỉ nghe thấy một tiếng nổ. Bauchet vẫn áp sát mắt vào kính ngắm
để quan sát kết quả rồi mới lăn sang bên cạnh, nói với Dubois:
- Cậu muốn thử không?
Dubois cầm súng, ngồi xuống, hướng ống nhòm về phía Việt Minh. Qua ống kính anh
nhìn thấy mọi chi tiết đắm chìm trong bóng tối hiện lên rõ lạ lùng. Dubois thấy một thế giới kỳ lạ,
màu xanh lục, trong đó các vật chuyển động có màu sáng, như một phim ảnh âm bản. Dubois nói,
như tự thốt ra “
- Một đứa.
Bóng người nhìn qua kính hồng ngoại mờ nhạt, chuyển động, biến dạng, nhưng vẫn
phân biệt được rõ những đường viền của cái đầu và đôi vai, có vẻ như một bóng ma màu xanh
nhạt.
Dubois gần như tự động bấm cò súng, nẩy người lên khi phát ra tiếng nổ, trong khi
cách đó khoảng 50 mét, bóng người biến mất như bị nuốt chửng trong cái bẩy. Anh kêu lên:
- Hỏng rồi!
- Không phải!
Bauchet kêu to rồi giơ tay nắm lấy khẩu súng cáca-bin, nói với Dubois:
- Đừng ở lại đây. Nhất định chúng ta bị phát hiện rồi. Địch sẽ bắn trả ngay lập tức.
Bauchet biết rõ con mồi của mình. Hai người vừa quay về chỗ đội tuần tiễu đang đứng
đợi thì nghe thấy những tiếng “lốp đốp “của quả đạn cối vừa được bắn ra khỏi nòng. Việt Minh đã
được báo động. Nhưng đạn pháo rơi khá xa về phía phải.
Tournayre và Dubois đứng sát gần Bauchet:
- Ta về chứ?
- Không. Ta chỉ đổi chỗ bắn thôi.
Cuộc bắn tỉa kéo dài cho tới rạng đông. Khi vòm trời hửng sáng, đội tuần tra được thay
thế bằng một trung đội ứng cứu có nhiệm vụ lấp lại đoạn hào Việt Minh vừa đào.
Lập tức, pháo địch lại ập xuống lính dù. Lại tiếp tục có thêm người chết, người bị
thương, trong đó có thiếu uý Thélot. Latanne nói với Thélot:
- Thôi, phải ghi tên anh vào danh sách những người cần di tản khẩn cấp. Sáng mau, anh
sẽ về Hà Nội.
Nếu đây là lời chúc, thì lời chúc này không thành. Latanne có lý khi anh nói không tin
vào những điều kỳ diệu. Chiếc máy bay đêm nay hạ cánh xuống Điện Biên Phủ là chiếc cuối
cùng. Vừa mới đáp xuống đường băng, máy bay đã bị những mảnh đạn pháo phá thủng ống đựng
dầu của một bên động cơ. Đến sáng rõ pháo binh Việt hoàn thành việc phá huỷ máy bay.
Từ đêm hôm đó, doanh trại Điện Biên Phủ lại có thêm hai người nữa. Đó là thiếu tá
Blanchet, trưởng phi cơ của chiếc Dakota Delta Coc 434 và cô tiếp viên hàng không Genevieve de
Galard.
Thảm hoạ
Từ 26 đến 28 tháng 3 năm 1954
Không còn dữ dội như những ngày đầu, khi tập đoàn cứ điểm bị pháo bắn giã giò, súng
bắn liên tục, chìm trong kinh hoàng, khiếp sợ. Lúc này Việt minh đang nín hơi, nhưng vẫn có mặt,
càng ngày càng sát gần, càng ngày càng hoạt động tích cự dù chưa xung phong tiến công ào ạt
bằng bộ binh.
Từ cứ điểm này đến cứ điểm khác, những binh lính trên cánh đồng Điện Biên Phủ, một
khi đã quen với tiếng pháo bắn, tiếng đạn nổ, tiếng rít của những mảnh đạn, có thể gần như trở lại
với thời kỳ đầu cuộc chiến. Họ đang tồn tại. Họ đã có thời gian để ngủ, để sửa sang công sự, thậm
chí còn có thể ra bờ sông Nậm Rốm, vục đầu xuống nước, hưởng một sự im ắng trong vòng lửa
đạn của địch.
Tuy nhiên, tất cả đều cảm thấy, sự nghỉ ngơi tương đối này vẫn chứa đựng những nguy
cơ to lớn nhất. Đó là trận địa bao vây, mỗi sáng bừng mắt dậy lại thấy sát gần hơn, xiết chặt hơn.
Gần như thường lệ, ngày nào các đơn vị ứng cứu như lính dù, lính lê dương, lính thuộc
địa đều chạm trán với địch ở ngay vành ngoài các vị trí. Ngày 26 tháng 3, tiểu đoàn dù lê dương
đã phải tiến hành một cuộc chiến đấu khó khăn ở phía Bắc Huguette 6, chỉ cách cuối đường băng
sân bay chưa đầy 300 mét. Mặc dù tìm đủ mọi cách, mãi đến trưa tiểu đoàn này vẫn chưa nhích
lên được một mét. Cuối cùng phải sử dụng đến xe tăng của Hervouet bắn pháo vào những ụ súng
mà Việt Minh xây dựng kiên cố như những lô cốt để bố trí súng không giật và trọng liên.
Ngày hôm đó, xe tăng không được nghỉ ngơi lấy một phút. Sau trận chiến đấu ở
Huguette 6 thì lại phải đi ứng cứu cho tiểu đoàn dù thuộc địa xung kích số 8 đang ở Dominique 1
bên bờ trái sông Nậm Rốm, một phần vị trí đã bị Việt Minh từ một mỏm đồi ngay trước các vị trí
Pháp đánh chiếm.
Đối với lính bộ binh Pháp cũng như lính lái xe tăng, cuộc chiến này gần như là chuyện
quen thuộc. Một sự quen thuộc chết chóc vì không ngày nào là không có người chết vì bị thương
trong đội ngũ.
Sáng 25 tháng 3, một cuộc hành quân mở đường xuống cụm Isabelle đã có hai sĩ quan
là trung uý Bertrand và Lecoq thuộc tiểu đoàn dù lê dương số 1, là đơn vị đã phải chiến đấu bốn
giờ chống lại một tiểu đoàn địch, cách trung tâm Điện Biên Phủ bốn kilômét.
Hạ sĩ Issert không nản chí hơn các đồng đội tiểu đoàn xung kích số 8. Anh chỉ hơi ngỡ
ngàng vì thực tế hằng ngày mà anh đã nhìn thấy tận mắt, trong khi đài phát thanh mang tên Con
nhạn ở Hà Nội trong những bản thông cáo chiến sự cứ lải nhải đây là “tập đoàn cứ điểm phòng
ngự”, là “thành trì”. Issert nói:
- Ngày nào cũng như vậy. Chúng tôi phải đi từ Nam tới Bắc, từ Đông sang Tây và mỗi
ngày lại đi ngắn hơn một chút. Nhưng mà - anh giải thích cho đồng đội Le Brenn, cựu võ sĩ quyền
Anh - tôi đã nhìn thấy các thành trì như thế nào rồi. Nó như là Carcassonne hoặc Montlouis mà tôi
đã từng học. Ở đây thì lại hoàn toàn khác.
Issert suy nghĩ một lát rồi tiếp tục phát triển sự so sánh:
- Điện Biên Phủ cũng có thể là một thành trì pháo đài vì ở đây người ta chỉ xây các đồn
canh mà không xây tường… Rồi lại đào cả những hố sâu giữa các vị trí. Nếu tôi là quân Việt, tôi
sẽ lẻn vào giữa những cái “tháp canh” này để lọt sâu vào căn cứ, cù vào bàn chân các vị chỉ huy
cấp cao.
- Đừng nói chuyện gở.
Việt Minh không chờ Issert nhắc mới nghĩ đến chuyện này. Bốn đêm trước, một đội
đặc công Việt Minh đã từ đường 41 lọt qua hai cứ điểm Dominique, tiến vào trong, phá huỷ một
đầu đường băng sân bay. Đội lính này không gây thiệt hại nặng mà chỉ chứng mình Điện Biên Phủ
không phải là một thành trì không thể xâm phạm.
Ngày hôm sau, trung tá Langlais lệnh cho một đại đội thuộc tiểu đoàn dù lính Việt số 5
đi chặn kẻ hở nguy hiểm này. Dưới làn đạn pháo 105 Việt Minh, lính Bảo An đã đào chiến hào,
chôn mìn, rào dây kẽm gai ngay chỗ đêm trước Việt Minh thâm nhập để thiết lập một vị trí mới.
Issert bình luận:
- Công việc này quả là công cốc! Nhưng đó không phải lỗi của bọn nhà nghèo. Chúng
nó không kiếm được một mẩu gỗ nào, chỉ có cọc rào.
- Thế thì Việt Minh vẫn lọt vào được, nếu muốn.
Thượng sĩ Carre tham gia cuộc tranh cãi:
- Không thành vấn đề! - Anh vừa nói vừa cười chế nhạo - Bây giờ chúng ta lại có một
“điểm tựa” nữa, bởi vì cái hang chuột mà lính Bảo an vừa xây dựng từ nay được đặt tên là cứ
điểm “Dominique 6”.
Anh lấy tay vê râu, nói thêm:
- Nếu Việt Minh tiến công, tớ không thích đóng giữ ở cái vị trí này. Cậu có biết tụi lính
ở Dominique 1 và Dominique 2 có bố trí dưới lớp hàng rào kẽm gai những thùng phuy 200 lít
không?
- Đựng gì?
- Napalm. Cậu vừa nói về thành Carcassone à? Ngày xưa, lính phòng ngự giữ thành
bằng dầu đun sôi. Ngày nay, chúng mình có ét-xăng khô gọi là Napalm. Nếu Việt Minh xông tới,
ta sẽ cho nổ thùng phuy đựng napalm và thế là… Có điều, tụi lính Bảo an đóng ở khe núi giữa hai
cứ điểm tựa rất có nguy cơ bị thiêu cháy như trận đánh ở núi Pù Tạo năm trước.
Một chiếc Dakota bay tới làm gián đoạn cuộc nói chuyện. Máy bay bay rất thấp, rất
đúng trục đường băng, thả những kiện hàng xuống bãi cỏ ghi rõ chữ T làm chỉ điểm.
- Một quán quân!
Issert lại bình luận, ca ngợi sự dũng cảm của các phi công thả dù ban ngày và cố hạ
cánh ban đêm.
Bay đến đầu cánh đồng, chiếc máy bay hai động cơ quay một vòng hẹp chuẩn bị trở lại
khu Trung tâm.
Issert cắn móng tay, văng tục và nói:
- Nó trúng đạn mất!
Chiếc Dakota kéo theo sau một dải khói đen, lớn dần, to dần, trải dài sát mặt đất. Hình
như nó muốn ngóc đầu lên như một con chim bị đập vào đầu. Mũi máy bay đã vểnh lên, nhưng
đuôi lại chạm đất. Rồi máy bay bị rơi, lao xuống những thửa ruộng, rung chuyển vì vấp trong khi
có thêm một đám bụi xám và bẩn hoà vào đám khói.
Từ chỗ đỗ ở gần đường băng, một chiếc xe Jeep lao vội ra, chở theo ba người đứng
trong xe, cúi lom khom bám vào thành xe.
Thượng sĩ Carre nói:
- Mình biết tay này. Nó là Peyrac, trung sĩ đội bảo vệ an toàn.
Trung sĩ Peyrac và đồng đội hối hả tới chỗ máy bay rơi, hy vọng có mặt kịp thời để
giúp đội phi hành ra khỏi khoang lái trước khi lửa lan tới. Chiếc xe Jeep vẫn tiến thẳng, leo qua
các bờ ruộng khô cạn, vặn vẹo khi vượt qua những hố hào rồi dính chặt trên mặt đất như con ốc
sên vụng về.
Chiếc Dakota bốc khói chỉ còn cách 300 mét. Trung sĩ cố thúc giục người lính lái xe.
Vô ích. Máy bay bốc cháy lúc chiếc xe Jeep còn cách hai trăm mét.
Hạ sĩ Issert gầm lên:
- Thật là một thảm hoạ!
Issert nói lên điều mà tất cả binh lính ở Điện Biên Phủ đều nghĩ như vậy. Đúng là một
thảm hoạ. Từ hôm qua, đây là chiếc DC-3 bị trúng đạn cao xạ Việt Minh bố trí trên những sườn
đồi trước kia là cứ điểm Gabrielle, và cả trong cánh đồng dưới lớp cây của những bản cũ người
Thái.
De Castries đã được báo tin về việc chiếc DC-3 số 267 của đội vận tải 2/63 Sénegal bụi
huỷ diệt. Ông biết, ở Hà Nội, các vị tướng lĩnh phụ trách lực lượng không quân sẽ nhân dịp này đề
nghị Tổng tư lệnh Navarre đình chỉ các chuyến bay để tránh bị tàn sát. Và thế là Điện Biên Phủ
cũng đi đứt vì cuộc sống ở đây hoàn toàn phụ thuộc vào máy bay tiếp tế. Chỉ huy trưởng báo động
cho Langlais. Chỉ huy phân khu Trung tâm trả lời:
- Bigeard là người chỉ huy các lực lượng ứng cứu. Chính Bigeard mới là người cần chỉ
thị phải làm gì.
Trong hầm chỉ huy, Tourret đang ngủ thì có người đánh thức:
- Đại uý đấy ạ? “Bruno” cần gặp đại uý tại sở chỉ huy.
- Mấy giờ rồi?
- Mười hai giờ đêm.
Tourret đứng dậy. Thật ra, ông không ngủ vì bị chiếc bóng đèn điện treo bằng một sợi
dây ngay trên đầu làm chói mắt. Bộ mặt hốc hác vì mỏi mệt của ông có những nét vàng võ của
ngà voi dùng lâu. Cũng như phần lớn đồng đội tiểu đoàn trưởng, Tourret ngủ rất ít. Nhưng, nếu
Botella chịu đựng được nhờ sức khỏe rắn chắc như bê tông, Guiraud nhờ sự chăm sóc của binh
lính lê dương thì Tourret chỉ có một mình để chống chọi lại bằng tinh thần và ý thức trách nhiệm.
Không phải vì niềm tin vào lối thoát của cuộc chiến đã làm ông như vậy. Mỗi người lính của ông
bị thương, mỗi người ính của ông bị chết ông đều cảm thấy như là nỗi đâu của mình. Nhưng
không phải như kiểu cách của Bigeard thường nhìn một cách buồn rầu như xót xa trước việc một
dụng cụ mà ông rèn đúc bị phá huỷ, khi có một người mà ông thương yêu như ruột thịt bị thương
vong. Tourret tượng trưng cho trách nhiệm được nhân cách hoá. Ông tự mình bắt buộc mình,
cưỡng bức mình, gò ép mình phải chăm sóc từng lính dù, tốt hơn nữa. Ông cho rằng người chỉ huy
không được ngủ khi những binh lính của mình, những sĩ quan của mình còn thức hoặc chiến đấu.
Trong khi đó, những cấp dưới luôn luôn không hề biết ý chí chứa đựng dưới vóc dáng gầy guộc và
bộ mặt hốc hác của ông chủ.
Tối hôm ấy, Bigeard tới làm việc tại một trong những hầm chỉ huy “phòng ngự” cách
hầm Langlais vài bước chân. Ông trải bản đồ và những sơ đồ tác chiến mà thư ký của ông là
Martial Chevalier vừa phác hoạ căn cứ vào những mệnh lệnh của cấp trên, lên một chiếc bàn thảm
hại làm bằng bốn cọc rào cắm xuống đất, trên đặt một tấm ván gỗ dán.
- De Castries vừa yêu cầi tôi mở một cuộc hành quân phá huỷ các khẩu cao xạ đang
quấy rầy máy bay.
Ông đặt một bàn tay lên bản đồ, che lấp một mảng màu vàng tượng trưng cho ruộng
nương ở phía Tây các cụm Huguette rồi nhìn chằm chằm vào các sĩ quan vây quanh đang chăm
chú nhìn nghe như các học trò. Có mặt Thomas là người ngày hôm kia vừa được cử thay ông chỉ
huy tiểu đoàn dù số 6; Tourret, chỉ huy tiểu đoàn dù xung kích số 8; Clémenson chỉ huy tiểu đoàn,
trung đoàn bộ binh lê dương số 2 và các cụm Huguette đang bị thương, ông cử phó tiểu đoàn
trưởng là Vieules đi họp thay; một sĩ quan có bộ mặt hình tam giác, cái nhìn trong sáng, nụ cười
cởi mở.
Dựa lưng vào thành hầm đối diện, tay cầm sổ ghi chép là chỉ huy các đơn vị “yểm trợ
hoả lực” có: thiếu tá Guerin sĩ quan liên lạc với không quân, có nhiệm vụ phối hợp hoả lực từ máy
bay; trung tá Vaillant vừa tới thay Piroth chỉ huy cụm pháo binh. Trung tá Valliant là một người
khác thường. Nhỏ bé, mảnh khảnh, giọng nói dịu hiền, cử chỉ ung dung từ tốn, giống như một
giáo sư trường đại học với cặp mắt thông minh, vầng trán trí thức hơn là một chiến binh tình
nguyện nắm trong tay một tình huống mà mọi người đều coi là tuyệt vọng, trong một cứ điểm bị
vây hãm.
Vaillant không lạ gì cái tổ ong vò vẽ mà ông tình nguyện chui đầu vào, một vị trí mà
không ai nghĩ đến chuyện tranh giành với ông. Ông không ngần ngại và ngày hôm kia, khi ông tới
nhậm chức dưới làn đạn pháo đã đem lại cho các lính pháo một nghị lực mới. Tươi cười, nhã
nhặn, chính xác, ông đã giải đáp các vấn đề, các thắc mắc, các lo toan của cấp dưới. Ông không
hứa hẹn điều gì về sự kỳ diệu sẽ tới, về vinh quang sẽ đạt được, và cả khôn ngoan, tức là sẽ đè bẹp
pháo Việt Minh. Ông chỉ giản đơn đảm bảo là các khẩu pháo sẽ phát huy mọi khả năng có thể.
Một dịp may chợt đến khi Vaillant vừa nhận chức chỉ huy cụm pháo binh ở Điện Biên
Phủ. Khẩu đội 155 của ông đã phá huỷ được ba khẩu 75 của địch bố trí cách phía đông Isabelle
vài kilômét, bằng những phát đạn bắn trúng đích.
Bertin Dubois khi biết tin này qua việc nghe lén những thông tin của pháo binh, đã
bình luận:
- Thật là thích thú!
Trước khi các tiểu đoàn trưởng bộ binh tới họp, Bigeard đã vắn tắt giải thích với
Guerin và Vaillant, điều gì ông đang mong đợi ở họ. Hai người vắng mặt vài phút để truyền đạt
các mệnh lệnh rồi sau đó lại trở về phòng họp để khẳng định với lính dù là tất cả sẽ diễn biến theo
kế hoạch đã ấn định.
Bigeard nói bằng một giọng nồng nhiệt mang lại sự hưởng ứng và neo trong trái tim
người nghe niềm tin chắc thắng:
- Đây là giải trình: có hai cụm pháo cao xạ Việt Minh cách đây ba kilômét về phía Tây,
bố trí trong hai làng bản: bản Ong Pet, xa nhất ở phía Nam giao cho Thomas và tiểu đoàn 6 tiến
đánh; Bản Pe, xa nhất ở phía Bắc là thuộc Tourret và tiểu đoàn 8 xử lý. Tiểu đoàn dù lê dương làm
lực lượng ứng cứu dự bị, bố trí phía sau lực lượng tiến công.
Thật là rõ ràng, chính xác. Không có những câu chuyện vô ích. Cả Tourret lẫn Thomas
đều không phải cúi nhìn bản đồ. Từ Bắc tới Nam, từ Đông sang Tây họ đều thật sự biết rõ mỗi
hàng rào, mỗi bờ đất, mỗi con đường mòn.
Bigeard bẻ đôi điều thuốc lá, nhét một nửa điều vào trong tẩu:
- Tôi muốn việc bố trí binh lực phải tiến hành hết sức bí mật. Đánh vỗ mặt các khẩu
trọng liên của địch, có nghĩa là phải tới gần mục tiêu mà không bị phát hiện với khoảng cách
nhiều nhất là 300 mét. Nếu trong khi chuyển vận mà gặp địch thì cứ để cho chúng đi. Phải làm
cho địch tưởng rằng đây chỉ là những đội tuần tra như thường lệ.
Tiến trình tiến công:
- Chậm nhất là 5 giờ 30 phút phải chiếm lĩnh xong vị trí xuất phát tiến công. 6 giờ pháo
bắn chuẩn bị. Mười lăm phút đầu nhằm vào nơi đặt pháo cao xạ. Mười lăm phút sau nhằm vào các
vị trí ở trước mặt tiểu đoàn 6 và tiểu đoàn 8 ở phía Tây. 6 giờ 30 phút các máy bay khu trục và
máy bay ném bom B-26 của không quân sẽ can thiệp để ngăn chặn quân cứu viện của địch.
Rồi ông quay về phía Vaillant, hỏi:
- Ông dành cho chúng tôi bao nhiêu khẩu yểm trợ?
Vaillant liếc nhanh cuốn sổ ghi chép:
- Mười hai pháo 105 và mười hai cối 120. Pháo và cối sẽ bắn từng loạt năm phút một,
khoảng cách giữa hai đợt là ba phút. Thời gian này để Việt Minh tưởng rằng chúng ta đã thôi bắn
và sẽ ra khỏi hào…
Guerin nói thêm:
- Về phía không quân, không có vấn đề gì. Nhưng mọi trường hợp đều phải chấp hành
đúng nguyên tắc: tất cả đều phụ thuộc vào thời tiết.
Bigeard rút tẩu thuốc ra khỏi miệng:
- Không được chậm trễ một giây. Nào, mời các ông bước vào cuộc chơi.
Ngồi trong hầm, trung uý Singland tính đi tính lại tới ba lần, từ lúc nửa đêm, tổng số
đạn cối 120 chất đống trong các hầm của trung đội dù. Chỉ có chưa đầy 1500 quả, tức là chỉ đảm
bảo được hai phần ba số yểm trợ đòi hỏi ngày mai.
Singland mới đến Điện Biên Phủ. Việc điều động ông vào lực lượng pháo nhẹ đổ bộ
đường không chỉ tiến hành trong vòng chưa đầy 24 giờ, sau khi Hà Nội nhận được tin trung uý
Turcy tử trận ngày 15 tháng 3 cùng với phó của mình trong hầm. Singland đã nói với ban tham
mưu của Sauvagnac, Tư lệnh các lực lượng đổ bộ đường không Bắc Đông Dương:
- Tôi biết sử dụng cối 120.
- Rất tốt. Ông sẽ nhảy dù ngay chiều nay, cùng với tiểu đoàn Bigeard.
Chính vì vậy mà Singland đã tới Điện Biên Phủ. Ông đã gặp các hạ sĩ quan và lính lê
dương đang hoang mang bối rối. Khi những người này nhìn thấy bóng dáng nặng nề của người chỉ
huy mới, họ có vẻ thiếu tin tưởng. Trong con người Singland, tất cả đều tròn lẳn; từ bộ mặt, giọng
nói đến cử chỉ. Ông không có một chút gì giống sự khô khan đặc biệt của các sĩ quan tiểu đoàn dù
lê dương là những người cứng rắn, tôi luyện, khắc khổ, căng thẳng. Còn Singland thì tươi cười,
nhã nhặn, người ta cho rằng ông thích sự thân tình.
Các hạ sĩ quan và lính lê dương trong đơn vị đã thử thách Singland. Nhưng, họ không
cần phải thử nghiệm một thời gian dài để thấy rằng, đây là một chỉ huy có trọng lượng, cả nghĩa
đen lẫn nghĩa bóng. Cùng với thời gian, họ đã nhận xét Singland đang thiết lập trong trung đội
một kiểu cách mới trong quan hệ; dựa trên cơ sở của tinh thần, của tính lạc quan và nụ cười.
Singland gọi Eckell, chỉ thị:
- Eckell, anh chuẩn bị cho tôi 1500 quả đạn trước 6 giờ sáng mai.
Eckell phụ trách tiếp tế. Đây là một chàng trai có tính phớt đời và hay càu nhàu, không
bao giờ nhận nhiệm vụ mà không kêu ca:
- Có lẽ, tốt hơn là gửi thông điệp xin Việt Minh…
Singland nhún vai. Ông nhẫn nại chờ. Ông biết, binh nhất Eckell sẽ tìm được 1500 quả
đạn cối vào đúng giờ đã ấn định. Eckell làu bàu bước ra khỏi hầm. Đi theo sau là Trọng, một nông
dân có tuổi ở vùng châu thổ sông Hông, nhuộm răng đen bị bắt trong một trận càn quét, trở thành
dân phu, một tù binh tạm thời và không chính thức.
- Báo cáo trung uý! Đã đến giờ rồi.
Singland nhỏm dậy. Ông có cảm giác mới chợp mắt được một giây. Thế mà đã 3 giờ
sáng rồi. Ông càu nhàu, vươn vai, nắm lấy tay người lính cần vụ Flohr đón cốc cà phê sữa nóng.
- Cậu đã có tin tức gì của Eckell chưa?
Có tiếng người lính lê dương nói:
- Có! Đã kiếm được 2400 quả đạn cho các khẩu cối.
- Rất tốt.
Eckell trả lời với một vẻ khiêm tốn:
- Ồ! Tôi có làm được gì đâu. Đó là công của thượng sĩ Robert, chỉ huy trung đội phòng
vệ của Langlais, chính ông ta mới là người làm được phần lớn công việc này. Ông đã dùng một
chiếc xe tải chạy khắp Điện Biên Phủ để thu gom mang về số hàng này.
Dominique
Từ 23 đến 30 tháng 3 năm 1954
- Trung uý đâu?
Tiếng nói thều thào. Chuẩn uý Canton chống khuỷu tay nhỏm dậy nhìn vào trung sĩ
Ducloux là người vừa gọi. Ducloux chỉ tay vào máy điện thoại PRC.10. Trong ánh sáng mờ nhạt
của buổi bình minh, cỗ máy hiện ra lờ mờ. Canton lăn người tới một mô đất, cầm lấy ống nghe.
Có tiếng Gaven;
- Canton đấy à? Có thể rút tổ báo động.
- Canton nghe đây. Rõ!
Từ ngày 15 tháng 3, đêm nào cũng có một trung đội tiểu đoàn dù lính Bảo an số 5 luân
phiên làm nhiệm vụ cảnh giới trên núi Hói, là một trong hai mỏm đất trọc nằm chếch 130° về phía
đỉnh Éliane 2. Do thiếu quân nên không thể chiếm đóng thường xuyên mỏm núi này, vì thế các
tiểu đoàn ở Điện Biên Phủ đành phải theo nhau điều động một bộ phận nhẹ, cứ bắt đầu chập tối là
lên gác ở đây để dò xét hoạt động của địch, đến rạng sáng mới rút.
Nếu một ngày nào đó, Việt Minh quyết định tiến công Éliane 2 thì việc đầu tiên là địch
phải chiếm quả núi trọc mà Pháp đặt tên là núi Hói (mont Chauve) và mỏm đất thứ hai như cái
bướu của con lạc đà, gọi là núi Giả (mont Fictif). Chính Bigeard đã chọn cái tên này để đặt cho
điểm tựa giả đặt trên đỉnh núi.
Canton bí mật truyền lệnh rút lui cho Nghiêm, một hạ sĩ quan người Việt, tổ trưởng tổ
trinh sát. Nghiêm có khuôn mặt vuông, nhiều nếp nhăn, không bao giờ cười. Canton nói nhỏ:
- Dẫn toàn tổ rút lui. Dặn tụi lính đừng để lộ…
Nghiêm gật đầu rồi đi về vị trí cũ. Đây là một vị trí vừa mới thiết lập đêm hôm trước,
như một cái bao lơn khống chế khe núi rậm rạp mà đêm nào Việt Minh cũng đào chiếm hào tiếp
cận. Thỉnh thoảng lính Bảo an lại ném lựu đạn xuống đó.
Ba phút sau, Nghiêm lặng lẽ quay trở lại. Canton giật nẩy mình vì không nghe thấy
tiếng bước chân;
- Báo cáo sếp, toàn tổ đã rút.
Canton nhấc ống nói:
- Tổ báo động đã rút. Tôi cũng rút đây!
Canton là người rút sau cùng. Trước mặt ông là trung sĩ Ducloux đang bò xa dần, bộ
máy điện đàm đeo ngang vai. Canton chậm chạp đứng dậy. Ông muốn kiểm tra bằng mắt lần cuối
cùng, xem binh lính của mình có để quên vật gì trên trận địa không.
Trung sĩ không nghe thấy tiếng súng nổ. Có thể là một viên đạn lạc chăng? Trung sĩ chỉ
cảm giác như nghe chuẩn uý thốt ra một tiếng thở dài. Lúc quay lại thì thấy chuẩn uý Canton đã
nằm vật xuống, một viên đạn găm giữa trán.
Ducloux, sau khi báo cáo với trung uý Gaven, đã đi tới quyết định:
- Tôi đưa xác ông ấy về.
Chuẩn uý Guy Canton được chôn ở chân cao điểm Éliane 4, nơi đóng quân của tiểu
đoàn lính dù Bảo an số 5. Toàn trung đội dưới sự chỉ huy của Canton đứng dàn hai bên huyệt,
bồng súng chào. Một lễ tang đặc biệt trong chiến tranh. Lúc này, pháo Việt Minh cũng đang ngừng
bắn. Botella chỉ huy đám lính dù Bảo an có mặt cùng với các sĩ quan đơn vị. Nhiều trung uý thuộc
tiểu đoàn 6 của Bigeard là nơi Canton đã từng phục vụ nhiều tháng cũng tới dự.
Tất cả đều trang nghiêm, thầm lặng, nhận thức rõ trách nhiệm vĩnh biệt một đồng đội,
cũng là tưởng niệm tất cả những người đã chết, chôn lấp vội vã dưới chiến hào hoặc chôn chung
trong một hố do xe ủi đất đào vội.
Datin nhận xét:
- Canton đã đi một chặng đường dài trước khi tới chết ở đây.
Thật vậy. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Canton đã bị phát xít Đức bắt đi đày biệt
xứ lúc mới 17 tuổi. Thật là kỳ lạ, ông bị giam trong trại tập trung Buchenwald nhưng vẫn sống và
trở về được sau ngày chiến thắng, từ đó ai cũng nghĩ không gì có thể làm gục ngã một con người
như thế.
Allaire nhớ lại:
- Ngài bộ trưởng cũng rất chú ý tới Canton.
Đúng là khi ngài De Chevigné tới gắn huân chương cho tiểu đoàn Bigeard sau chiến
thắng Tú Lệ, ông cũng muốn tặng thưởng Canton một Huân chương nhà binh. Nhưng Canton đã
có rồi. Một điều mỉa mai nữa là, Canton là chuẩn uý ngạch thường trực, nhưng do giấy tờ quan
liêu, đã không được phong cấp hàm thiếu uý.
Gaven nói:
- Đây là trung đội trưởng xuất sắc nhất của tôi.
Botella gật đầu hưởng ứng, không trả lời. Canton là sĩ quan thứ hai của Botella tử trận.
Chỉ cách đây vài giờ trước khi tới đây dự đám ma Canton, ông đã được tin trung uý Rondeaux bị
thương tại Huguette 7, vừa mới chết tại trạm xá phẫu thuật.
Langlais khi tới gặp Botella tại Éliane 4 đã nói;
- Tôi biết tiểu đoàn của anh vừa mới trải qua một thử thách. Nhưng tôi vẫn đề nghị anh
có thêm một nỗ lực nữa.
Hai người cùng ngồi sát bên nhau trong hầm đào ở dưới sườn điểm tựa. Đó là một thứ
hang chuột, chui vào trong đó phải ngồi trên những hòm đạn chứ không đứng thẳng được. Thiếu
tá Botella nhìn trung tá Langlais. Trên gương mặt ông có nhiều nếp nhăn kéo dài, dưới làn da
mỏng như giấy nhô lên những mố xương, giống như một cái đầu lâu tạc vào gỗ cây ô-liu.
Botella mở nắp chai rượu cuối cùng, mời Langlais nhấp một ngụm. Langlais uống rồi
nói:
- Tôi vừa mới đi kiểm tra các công trình phòng ngự.
Ông nhăn mặt, nói tiếp:
- Không ra sao cả…
Cũng như De Castries và toàn ban tham mưu binh đoàn tác chiến Tây Bắc. Langlais là
nạn nhân của sự ưa chuộng những nhãn hiệu. Cho tới lúc này, ông vẫn nghĩ rằng những mẩu cờ
nhỏ xíu găm trên bản đồ ở điểm tựa, tượng trưng cho các đơn vị đầy đủ đang chôn sâu dưới những
chiến hào, nhất là đang bị vây chặt.
Trước việc Việt Minh sắp tiến công đến các cứ điểm phía Đông, một trực giác đột ngột
đã thúc đẩy ông làm một việc mà trước đó chưa ai làm. Ông đã tới thị sát tại chỗ, và những gì tận
mắt nhìn thấy đã khiến ông hoàn toàn lo sợ.
Botella chăm chú nhìn Langlais. Rõ ràng, Langlais chưa hết bàng hoàng. Ông cần phải
nói ra. Đây không phải là chuyện bộc lộ với cấp dưới mà là với một sĩ quan dù như ông:
- Tôi được báo cáo, tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn 3 lính thuộc địa Algerie đóng giữa
Dominique, tiểu đoàn 1 trung đoàn 4 lính Marroc đóng giữ Éliane. Tôi đã tới đó. Thật là điên rồ!
Không bao giờ bọn lính này có thể chống chọi nghiêm chỉnh được với Việt Minh. Tôi đã yêu cầu
Guiraud cho một đại đọi lính dù lê dương tới Éliane 2 trợ lực cho lính Marốc. Bây giờ, tôi yêu cầu
anh cho một đại đội tới Dominique 1 thay bọn lính Algerie. Những đơn vị lính dù này phải có mặt
tại vị trí lúc trước 6 giờ.
- Rõ! Tôi sẽ chỉ thị cho Martinais. Chỉ có đại đội 4 của Martinas là có quân số đầy đủ.
Hơn nữa, đại đội này biết rõ trận địa. Họ vừa mới đóng tại Dominique 6, cái nút cổ chai trên
đường 41, cho tới sáng nay.
Langlais đã trở lại bình tĩnh.
- Cũng là lính thuộc địa cả thôi!
- Thưa trung tá, tôi biết rõ chúng. Tôi đã từng tham dự chiến dịch ở Bỉ với các đơn vị
lính thuộc địa. Chừng nào bọn chúng có đủ số sĩ quan chỉ huy (Theo quy định có tính nguyên tắc,
chỉ huy các đơn vị lính thuộc địa từ trung đội trưởng trở lên, đều là sĩ quan Pháp hoặc quốc tịch
Pháp) và các chỉ huy đều có mặt bên cạnh thì chúng là những người lính xuất sắc. Bọn chúng có
một triết lý rất đơn giản: thánh Allah bao giờ cũng đi với người chiến thắng. Vì vậy khi người chỉ
huy tử trận thì chúng cho rằng thánh Allah đã đi với đối phương. Vậy thì chống lại thánh Allah
làm gì?
Langlais thở dài rồi gượng một nụ cười nhăn nhúm:
- Tôi nghĩ, tôi đã quát mắng chúng quá lời…
Tại Dominique 2, trung sĩ Pierre Antonin có vẻ khó chịu. Một sự khó chịu ít thấy đối
với một thượng sĩ của tiểu đoàn. Thông thường, vị trí này vẫn do một hạ sĩ thâm niên về tuổi đời
cũng như về cấp bậc đảm nhiệm. Nhưng với trung sĩ Antonin mới 20 tuổi đã phải gánh vác nhiệm
vụ một thượng sĩ chỉ vì không còn ai hơn.
Tiểu đoàn 3 trung đoàn 3 lính bộ binh Algerie là một đơn vị nghèo, đã lê gót giày trên
lãnh thổ Đông Dương từ ba năm nay. Binh lính đều mỏi mệt, bệnh tật, nhớ quê hương. Hơn nữa,
trong suốt ba năm ở Đông Dương, họ thật sự không có được bốn ngày nghỉ, trước khi mở cuộc
hành quân Mouette và Castor. Những người chỉ huy đều thiếu hụt, tán loạn, một nửa số chỉ huy
phải nằm bệnh viện vì sốt rét, kiết lỵ hoặc vì những vết thương. Ở Điện Biên Phủ thật sự chỉ còn
một chục sĩ quan, kể cả trung uý bác sĩ Fayolle và khoảng chưa đầt hai chục hạ sĩ quan là thật sự
khỏe mạnh. Còn thượng sĩ cuối cùng thì hiện đang ở Hà Nội, ở hậu phương…
Chính vì vậy mà Antonin đã được nâng lên cấp thượng sĩ. Cũng do đó Antonin đã phản
ứng trước sự quát mắng của trung tá Langlais lúc nãy.
Thật ra Langlais chỉ quát mắng một người có cấp bậc mà ông gặp khi đi kiểm tra. Đại
uý Garandeau chỉ huy tiểu đoàn 3 thuộc trung đoàn 3 Algerie đang bị ốm và mặc dù ông từ chối
lui về phía sau, ông vẫn không có khả năng hoạt động.
Mà ông còn làm gì được nữa? Tiểu đoàn của ông đã bị xé lẻ từng mảng để đóng giữ
các điểm tựa trong cụm cứ điểm được đặt tên là Dominique. Đại đội 11 của trung uý Chataigner
chôn chân ở Dominique 1 bên kia đường 41, cùng với một đại đội súng cối của trung đoàn bộ binh
lê dương số 2. Từ ngày 14 tháng 3 sau khi Béatrice bị Việt Minh chiếm, Dominique 1 trở thành
tiền đồn ở tuyến phòng ngự thứ nhất. Để chống lại một cuộc tiến công mới của địch, Chataigner
chỉ có khoảng 80 lính bộ binh chỉ huy bởi các trung sĩ tầm thường.
Đại đội thứ hai là đại đội số 12 của trung uý Filaudeau từ hồi đầu tháng 3 tới nay vẫn
đang chôn chân ở hữu ngạn sông Nậm Rốm, cách đại đội 11 khoảng 400 mets. Trung uý
Filaudeau có nhiệm vụ ngăn chặn địch từ phía Bắc và phía Đông thâm nhập vào đường băng sân
bay. Ông cũng có nhiệm vụ bảo vệ một cụm pháo vừa mới bố trí ở đây vài ngày theo lệnh của
trung uý Brunebroucke. Filandeau chỉ có một thuận lợi hơn các đơn vị khác là quân số khá đầy đủ
và được chỉ huy rất sang trọng, bởi phó đại đội trưởng là Alix cũng là trung uý.
Ngược lại, để trấn giữ Dominique 2 là vị trí chính khống chế toàn bộ trung tâm Điện
Biên Phủ ở điểm cao 80 mét, Garandeau chỉ có hai đại đội nhỏ gồm lính trinh sát. Đó là đại đội 9
thiếu quân số, do Lentsch, một thiếu uý ngạch dự bị chỉ huy, và đại đội 10 của trung uý Marie.
Cả hai đại đội này cùng hướng về phía đông. Phần còn lại được “trấn giữ” bởi một đại
đội lính không chính quy, gọi là lính bổ sung, mà không ai biết do một sự tính toán sai lầm kỳ cục
nào đã được máy bay đưa lên Điện Biên Phủ. Không có đại đội trưởng cũng không có những chỉ
huy cấp dưới, đại đội này gồm toàn những thanh niên công giáo mới 17 tuổi, do giám mục Lê
Hữu Từ tuyển mộ ở Phát Diệm.
Có lẽ đám thanh niên mới lớn này đã bị cưỡng bức đi lính, họp thành một đơn vị đại
diện cho lớp công giáo ở đồng bằng miền Nam xứ Bắc Kỳ. Dù sao, họ cũng đã cạo trọc đầu theo
kiểu các tu sĩ dòng Thánh François. Phần còn lại, chẳng có chút gì tiêu biểu cho tư thế nhà binh.
Bởi vì, họ chỉ được trang bị loại súng trường cũ kỹ “303” của Anh, loại súng mà ngay đến Việt
Minh cũng đã loại bỏ.
Trung sĩ Pierre Antonin đã chịu đựng những lời trách mắng của trung tá Langlais, phẫn
nộ vì Dominique không tương xứng với tư tưởng phòng ngự.
Trung sĩ Antonin biện bạch:
- Trong lực lượng viễn chinh Pháp, chúng tôi bị coi như những con nhà nghèo. Lính
của chúng tôi quần áo cũ rách, vũ khí đã tới mức phải cải thiện. Mỗi lô cốt của chúng tôi chỉ có
một khẩu trọng liên, mà lại là súng máy kiểu Reibel, một vật đáng xếp vào nhà bảo tàng. Chúng
tôi chỉ có một máy lắp đạn dùng chung cho hai khẩu súng máy.
Một thông báo tốt lành duy nhất do trung tá Langlais truyền đạt là đại đội 11 của
Chataigner sẽ chuyển tới Dominique 2:
- Nói với Chataigner chuẩn bị sẵn sàng chuyển quân vào 5 giờ chiều.
Nếu lệnh này mang lại đôi chút nhẹ nhõm cho đại uý Garandeau, được đảm bảo vì có
thể dựa vào một số quân ít khốn khổ hơn, thì điều này càng tăng thêm những khó khăn cho
Antonin. Chưa có gì được chuẩn bị để tiếp nhận thêm một đại đội nữa tới đóng tại cứ điểm.
Không có chiến hào, không có hầm hố, không có lô cốt, ngoài những công sự và đã có người đóng
giữ.
Thiếu uý Lentsch nói:
- Đóng xen kẽ, chật chội với nhau vậy.
17 giờ đúng. Qua ống nhòm, trung sĩ Antonin quan sát đại đội 9 từ Dominique 1 ở cách
đó 300 mét về phía Bắc, đang chuẩn bị chuyển quân. Lính chiến xếp hàng trong chiến hào. Các
trọng liên đã chuyển ra khỏi lô cốt. Chataigner đã sắp xếp không bỏ lỡ một thời gian nhỏ nhất.
Việc thay quân là rất phức tạp, nhất là ở tuyến đầu. Cần phải tránh tập trung quân để các trinh sát
của địch phát hiện, gọi pháo bắn.
Cũng cần phải dọn quang các vị trí chiến đấu để quân bạn tới thay thế chiếm lĩnh được
ngay trận địa phòng ngự, súng máy sẵn sàng nhả đạn từ các ụ súng.
Antonin chuyển tầm nhìn của ống nhòm. Anh quan sát thấy đại đội của lính dù Bảo an
đang đi ngoằn ngoèo theo đường chữ chi xuống cao điểm Dominique 1.
Vài phút nữa việc thay quân sẽ xong.
Một tiếng pháo nổ làm Antonin nghẹn thở. Anh bị vùi lấp nửa người, phủ đầy đất đá và
sỏi, hai tai ù đặc. Anh nhìn lờ mờ thấy những bóng người đi qua phía trước, trong đám sương mù
màu hồng nhạt. Anh thấy những cái miệng mở to, những lời nói không vọng tới tai anh. Anh có
cảm giác kỳ cục và khó chọi, như đang xem một cuốn phim kích động bỗng bị cắt đứt tiếng nói.
Nền đất như nẩy lên không ngừng và trên bờ dốc từ sườn núi tới những khe rãng rậm rạp trên
thung lũng chạy dài về phía Đông, những quả mìn cá nhân do công binh chôn giấu để ngăn chặn
cuộc tiến công của địch, nổ loạn xạ do chấn động. Hàng rào dây kẽm gai bị cắt đứt từng đoạn,
cuốn thành hình chôn ốc bay lên rồi lại rơi xuống, làm cho cảnh vật trước đó của trật tự vụt
chuyển thành quang cảnh đầy tai hoạ của một trận địa mơ hồ. Chỉ vài giây đồng hồ sau trận bắn
pháo chuẩn bị tiến công của địch, vành đai phòng ngự của Dominique 2 đã bị xoá bỏ.
Dần dà, những tiếng động trở lại với quy mô bình thường. Những tiếng rít nối tiếp
nhau đi trước những tiếng nổ. Trong bầu trời hỗn loạn, những tiếng gầm rú này có vẻ như một
đoàn xe lửa khổng lồ tiến vào vòm nhà ga. Tiếng vang bị bão hoà.
Cảnh tượng thật khó tả.
Trung sĩ Antonin cố thoát ra khỏi cái hố mà mỗi quả đạn pháo lại vùi anh sâu thêm một
chút. Anh chạy vội đến hầm chỉ huy tiểu đoàn để nhận lệnh của đại uý tiểu đoàn trưởng
Garandeau hoặc đại uý tiểu đoàn phó Cizeau. Anh thấy hai sĩ quan này đang vật lôn với bộ máy
điện thoại bị nhiễu. Khắp mọi nơi, vang lên những tiếng kêu cứu. Một giọng nói the thé gần như
hoảng loạn:
- Éliane 1 đang bị pháo bắn dữ dội.
Một tiếng nói khác chen vào:
- Éliane 2 đang bị một trận bắn kinh khủng…
- Alô! Dominique 2 đâu? Dominique 1 đây! Lính trong cứ điểm đã nhìn thấy quân bạn
tới thay thế. Họ bắt đầu rút đây.
Garandeau gào lên:
- Lạy Chúa tôi! Đây không phải lúc rút quân! Tôi huỷ bỏ lệnh rút. Hãy giữ vững! Lính
dù không tới thay nữa! Nhưng quân cứu viện sẽ tới.
Antonin bước ra khỏi chiến hào. Cảnh tượng trước mắt thật là khủng khiếp. Tất cả
những quả đồi phía Đông đều làm mồi cho sự phẫn nộ của sắt thép. Các mỏm đồi biến mất trong
đám khói bụi. Gần đó là Dominique 1, lính dù trên những sườn đồi bị đắm chìm trong lửa và khói,
phơi mình ra chỗ trống, đang hối hả tìm nơi ẩn nấp.
Pháo Việt Minh tiếp tục công việc tàn phá suốt nửa giờ. Tại Dominique 2, những tiếng
nổ của đạn pháo dựng lên một bức tường đất đỏ sẫm liên tục thay nhau nổi lên. Lính bộ binh ngồi
trong hố lấy cánh tay ôm đầu, chịu đựng cảnh bắn phá, không dám động đậy. Những binh lính
khác, bất chợt bị pháo bắn giữa lúc đang lao động hằng ngày ngoài trời vội chui vào lô cốt. Nhiều
người không có mũ sắt. Rất ít người có vũ khí trong tay.
Nguy hiểm hơn nữa, bọn lính không chính quy gọi là thân binh đóng ở sườn phía Tây
cứ điểm bắt đầu tuồn ra khỏi vị trí, bò lết trên mặt đất, rời bỏ mỏm đồi điểm tựa.
Tại Dominique 1, mọi việc xảy ra còn nhanh hơn nữa. Khi tiếng pháo địch vừa ngừng,
lính dù lập tức tập hợp, rồi leo lên sườn đồi, chỉ vài mét nữa là tới đỉnh, có những chiến hào của
lính bộ binh Algerie. Nhưng khi sắp tới nơi, họ nhìn thấy lính Algerie đang bị Việt Minh tiến
đánh, phải rời bỏ vị trí chiến đấu. Việt Minh đã tiến quân ăn khớp với pháo bắn, và khi pháo
ngừng bắn thì cũng là lúc vừa tới cự ly xung phong. Những trung đội đi đầu của Việt Minh xuất
hiện ngay trước mũi lính phòng ngự đúng lúc họ vừa ra khỏi cơn khiếp sợ vì pháo bắn.
Cảnh tháo chạy diễn ra ngay tức khắc. Một đại đội khốn khổ chỉ có 80 binh lính còn có
thể làm gì khác được trước một trung đoàn đang sát cánh tiến lên đỉnh núi? Thế là lính Algerie bỏ
chạy và vấp luôn phải lính dù Bảo an tới thay thế.
Đại uý Martinas lập tức có hành động kịp thời. Ông lệnh cho các trung đội trinh sát
chiếm lĩnh những vị trí lính Algerie vừa bỏ, và dùng súng máy bắn vào bọn lính đang tháo chạy.
Bị kẹt giữa hai làn đạn, lính Algerie chững lại, do dự. Một số quay trở lại phía sau, một số khác
liều chạy thục mạng trên những sườn dốc. Một số chạy thoát. Bọn đào ngũ này chui rúc hai bên
bờ sông, họp thành những hạt nhân đầu tiên của cái gọi là “những con chuột ở bờ sông Nậm
Rốm”.
Martinas đã nắm được tình hình trong tay. Ngoài đại đội của mình, ông có thêm khoảng
ba chục lính bộ binh Algerie và khoảng bốn chục lính lê dương của trung uý Poirier chỉ huy đại
đội súng cối hỗn hợp số 2 của binh đoàn lê dương (gồm các khẩu 120 và 81). Số lính này đã để lại
súng cối để chiến đấu giáp lá cà, tại mặt Bắc Dominique.
Nếu tại Dominique 2, lính Algerie định dựa vào các bãi mìn và những lớp rào kẽm gai
để ngăn chặn địch, tạo điều kiện cho việc tổ chức phòng ngự, thì rõ ràng họ đã thất vọng. Trận bắn
pháo chuẩn bị đã diễn ra với cường độ mạnh và dày đặc, phá huỷ tất cả các vật cản khiến cho Việt
Minh không cần phải mang theo thang, ván để vượt các sườn đồi. Không có gì có thể ngăn chặn
được bước tiến của địch.
Không có gì, nghĩa là không tính đến những ụ súng trọng liên của đại đội 9 do thiếu uý
Lentsch chỉ huy. Chỉ tại đây, những trung đội tiến công của Việt Minh mới chịu dừng lại để tiến
hành theo cách đã làm ở Béatrice và Gabrielle, nghĩa là tìm chỗ yếu để tạo cửa mở thọc sâu đánh
quặt vào lực lượng phòng thủ.
Khi pháo vừa mới ngừng bắn, trung sĩ Antonin lập tức chạy vào hầm chỉ huy để điều
khiển các vũ khí nặng của tiểu đoàn. Ông chỉ thấy có một người trong hầm là trung sĩ Chalamont,
một người lai Âu, 18 tuổi, vừa mới qua một khoá đào tạo cán bộ chỉ huy.
- Những đứa khác đâu?
- Chúng nó chuồn hết rồi!
Thế là, hai trung sĩ mỗi người một khẩu trọng liên, nổ súng bắn thẳng vào bộ đội Việt
đang tiến ở khoảng trống giữa hai đại đội.
Nhưng, Chalamont đột nhiên giơ tay làm hiệu, chỉ về phía sau, nơi Việt Minh từ bên
ngoài đang tiến về phía sở chỉ huy.
- Chúng ở đâu ra thế này?
Rất dễ đoán biết. Việt Minh đã men theo sườn phía Nam Dominique 2 thâm nhập vào
điểm tựa qua những vị trí mà bọn thân binh Phát Diệm vừa bỏ chạy. Lính phòng ngự ỏ Dominique
2 bị kẹt giữa hai gọng kìm, không còn lối thoát, chỉ có vài người lính chạy được từ mặt Bắc cứ
điểm, leo xuống chân đồi, tới đường cái rồi hoà mình trong đám hoang tàn của Dominique 1.
Với những người khác, trận đánh thế là đã kết thúc. Họ đặt súng xuống bờ chiến hào,
ngồi thụp trong hố, tay ôm lấy đầu.
Chỗ này chỗ khác chỉ có vài tiểu đội còn chiến đấu lẻ tẻ cho tới khi bắn hết đạn. Nhưng
đến nửa đêm thì hoàn toàn chấm dứt. Bộ đội Việt Minh bắt đầu tập hợp tù binh trên sườn đồi phía
Đông Dominique, tách các sĩ quan ra khỏi binh lính, đưa những người này ra đường cái trước tiên.
Vỡ tổ chức, mất tinh thần, đám lính tập hợp lại như đàn gia súc hoảng hốt, trên bãi đất vài mét
vuông, giữa hai lớp rào dây kẽm gai. Không ai nói một câu. Thảm hoạ quá phũ phàng.
Trung sĩ Antonin vẫn còn bàng hoàng, nói thầm với Chalamont đứng bên cạnh:
- Cậu xem, tớ đã tưởng tượng mọi việc: chết, bị thương, hoặc là cả chiến thắng nữa.
Nhưng chưa bao giờ tớ nghĩ đến cảnh này sẽ xảy ra một ngày nào đó. Bị bắt làm tù binh, đối với
tớ thật là sự bêu riếu nhục nhã… và, hơn nữa còn…
Chalamont muốn trả lời nhưng không kịp. Trong tiếng ầm ầm như sấm rền, một loạt
đạn pháo rơi xuống Dominique 2, đúng giữa đám người đang túm tụm vào nhau trên bờ dốc,
không có gì bảo vệ. Lần này, không phải pháo Việt Minh mà là pháo của cụm pháo binh phân khu
Trung tâm Điện Biên Phủ bước vào hoạt động.
Rất nhanh, bộ đội Việt Minh nhảy vào các chiến hào không có người, giương súng
ngăn doạ các tù binh, không cho ai chạy trốn.
Pháo đã ngừng. Bộ đội Việt Minh lại đi lên khỏi các chiến hào, thúc đẩy đám tù binh đi
ra đường cái số 41.
Antonin nói với Chalamont:
- Cậu cùng đi với tớ!
Anh nhìn bạn rồi nói thêm:
- Hình như vài lần cậu tự hỏi mình là người lại, nhưng thuộc về chủng tộc nào? Rồi cậu
sẽ rõ… Vì cậu sẽ có dịp được chọn lữa giữa châu Âu và châu Á.
Chalamont trả lời:
- Mình đã chọn rồi!
Trung uý Brunebroucke
30 tháng 3 năm 1954
Trung uý Brunebroucke dựng các bao cát, đắp một hầm vòm cho pháo 105 mm, mũ sắt
úp chụp xuống tận lông mày, dáng vẻ chăm chủ nhìn trong bóng tối, ông vừa lao động vừa huýt
sáo một khúc quân hành. Đã nửa đêm. Từ 21 giờ 30, điện đài từ Dominique 1 ngừng phát tín hiệu.
Đại đội 4 thuộc tiểu đoàn dù Bảo an số 5 đã bị tiêu diệt. Brunebroucke hình dung tới cảnh đám
lính còn sống sót bàng hoàng ngơ ngác, bị báng súng thúc vào lưng, đi về hướng Bắc.
Trên vòm trời cách cụm đồi Éliane 300 mét về phía Nam, chiếc Dakota vẫn lượn vòng,
thả pháo sáng không hề mệt mỏi. Những tiếng động cơ lúc vang lúc mất, cắt đứt bầu không khí
yên lặng vừa ập xuống Dominique như lưỡi dao của chiếc máy chém.
Những quả pháo sáng - được gọi là đom đóm - buộc dù từ máy bay rơi xuống, chiếu
một luồng ánh sáng vàng nhạt vì phải lọt qua đám bụi và khói còn bao phủ những mỏm đồi
Éliane.
Brunebroucke vẫn tiếp tục thổi sáo điệp khúc nghe rất khó chịu. Ông nhìn chăm chú
vào bóng tối, nhưng không hiểu được tất cả chuyện gì đang xảy ra phía tay phải, ở vùng đất phía
Nam cứ điểm. Ông chỉ biết, từ nay vị trí của ông đã nằm ở tuyến thứ nhất đúng trên trục đường 41
giữa hai cứ điểm Dominique. Nếu Việt Minh quyết định kết liễu số phận Điện Biên Phủ thì sẽ phải
tiến quân theo hướng này. Brunebroucke đoán, bộ đội Việt Minh đang xuống núi, tự hào vì chỉ vài
tiếng đồng hồ đã chiếm được hai cứ điểm quan trọng nhất mà không cần phải giao tranh ác liệt
như ỏ Gabrielle và Béatrice, hẳn đang bàn tán về chiến thắng dễ dàng này.
Ông hình dung thấy các cán bộ Việt Minh đang tập hợp các tiểu đoàn, chấn chỉnh các
trung đoàn, di tản binh lính chết và bị thương, thống kê chiến lợi phẩm. Ông thử đặt địa vị của
mình vào đối phương để tính toán xem bao giờ thì những công việc kể trên kết thúc, và địch sẽ
tiến đánh vào lúc nào. Brunebroucke tin chắc là địch sẽ tiến công, và đến khi trời sáng chỉ có dòng
sông Nậm Rốm mới cản trở Việt Minh thu được toàn thắng. Thể thức sẽ diễn biến như vậy.
Tuy nhiên, trước khi đánh chiếm được cụm cứ điểm Éliane, Việt Minh phải vượt qua
một vật cản nhỏ nhưng đáng gờm. Đó là Dominique 4 như một nút chai bịt chặt lối đi. Nút chai
này có thể mang tên trung uý Brunebroucke.’
Brunebroucke là sĩ quan pháo binh. Ông chỉ huy một cụm bốn khẩu lựu pháo 105 mà
trước đó, người tiền nhiệm là Vaillant đã “đẩy” ra tận bờ sông, để bảo vệ tuyến hành quân dọc
theo đường 41. Chung quanh ông là lính Algerie thuộc đại đội Filaudeau. Đây là những binh lính
đã bị đánh bại, theo thuyết định mênh, vừa mới cách đây ít lâu đã nhìn thấy cảnh tán loạn khi
đồng đội rút chạy xuống sườn đồi.
Brunebroucke nói với Filaudeau:
- Tôi muốn bọn này không có mặt ở đây. Bởi vì sự hoảng loạn là một chứng bệnh
truyền nhiễm. Nếu chúng bỏ chạy thì sẽ làm mất tinh thần bọn lính châu Phi khác của tôi.
Filaudeau nói:
- Chúng sẽ giữ vững. Các trung đội trưởng đã có mặt ở vị trí. Anh không có gì lo ngại
cả.
Quả thật, đại đội 12 hãy còn có quân số đầy đủ nhất tiểu đoàn. Một trường hợp đặc
biệt. Bên cạnh đại đội trưởng, còn có cả đại đội phó là trung uý Alix và có cả một trung sĩ nhất, là
Jean Claude Herviou.
Filaudeau nói tiếp:
- Dù bất cứ trường hợp nào, phía sau lưng chúng ta vẫn có con sông. Binh lính bắt buộc
phải đối mặt với địch, không thể rút chạy.
Buổi chiều, Filaudeau cử một đội lao công đi đào một chiến hào thẳng tắp chắn ngang
cánh đồng, ngay trước mặt cứ điểm. Hạ sĩ Coulombel và hai binh nhì Mohamed Chouader và
Larbi Seguini đặt trong chiến hào này những khối thuốc nổ “dẹt”. Nhìn từ xa có vẻ như đây là
những nắp đậy các thùng giặt quần áo, nhưng bên trong là thuốc nổ. Hiệu quả sẽ rất ghê gớm.
Filaudeau nói thêm:
- Dominique 4 đã bảo vệ tốt.
Ông đi về phía những chiến hào vặn vẹo chung quanh các nhà vòm đặt pháo. Điệp
khúc hành quân của Brunebroucke vẫn không ngừng phát ra từ những tiếng thổi sáo qua kẽ răng
làm cho Filaudeau càng bực tức.
Trung uý Alix đã theo kịp Brunebroucke:
- Anh nghĩ bọn chúng có tiến đánh không?
Brunebroucke lắc đầu và vẫn thổi sáo
- Tình hình các vị trí khác thế nào? - Alix hỏi tiếp.
Brunebroucke tạm ngừng thổi sáo.
- Tôi nghĩ Éliane 1 sẽ bị chiếm. Éliane 2 sẽ không ổn. Nhưng điều đó không quan
trọng. Chúng ta vẫn còn ở đây.
Ông tròn môi và lại thổi sáo.
- Cậu không thay đĩa à?
Brunebroucke liếc nhìn bạn và cười một cách mỉa mai cay độc:
- Cậu có biết tớ thổi sáo bài gì không? Một bài hát mà bố tớ đã dạy. Đó là bài mà bọn
lính chạy thoát bên đường Đức Bà đã hát năm 1917. Lời ca có ghi trong cuốn Bàn tay bị chặt. Cậu
muốn nghe không?
Alix gật đầu.
Brunebroucke đọc lời bài hát:
“Tướng Marchand không buôn bán chúng ta
Nivelle đã san bằng tất cả
Chúng ta bị tướng Foch chém ngang
Rồi Pétain đem nhào thành bột
Để Mangin ăn thịt chúng ta…”
Alix cố nhịn cười:
- Tôi cá cược: anh đang hiện đại hoá bài hát
- Đúng! Nghe đây.
“ Tướng De Lattre tôn vinh chúng ta
Và Salan đem ta ướp muối
Tướng Navarre nuốt chửng chúng ta
Và Cogny lôi ta ra nện!
(Bài hát chế giễu đả kích những chỉ huy “nướng quân” trong chiến tranh thế giới thứ
nhất và chiến tranh Việt Nam theo kiểu chơi chữ)
- Thế anh có vấn đề gì với Castries không?
Brunebroucke cười, không trả lời. Ông áp mặt vào sát mặt kính đồng hồ dạ quang. Đã
22 giờ 15 phút. Bóng tối dày đặc, có lẽ còn tối đen hơn trước sau khi tắt pháo sáng ở bên kia mỏm
Éliane. Tại đây, dưới chân cụm đồi Dominique, Brunebroucke không còn phân biệt được gì, ngoài
con đường 41 in hằn một vệt sáng nhạt hơn vùng đất chung quanh.
Alix nói:
- Có cái gì chuyển động ở phía trước.
Brunebroucke nheo mắt, hướng mắt nhìn. Ông biết rằng nếu nhìn lâu vào một vật gì đó
thì sẽ bị hoa mắt. Từ hướng nhìn do Alix chỉ, ông thấy có vài bóng người mờ ảo trên nền đêm.
Bên cạnh ông, Alix nên cò súng các-bin, vang lên một tiếng khô khốc. Brunebroucke
giơ tay ngăn, nói thầm:
- Chờ một tý đã. Nếu là Việt Minh, chúng sẽ không di chuyển như vậy. Và số quân
cũng đông hơn.
Những bóng đen đã tới rất gần. Có lẽ tới một chục người.
Một lính gác của đại đội 12 quát to (bằng tiếng Ả rập):
- Chkoun enta? (Ai đấy?)
- Krib (quân bạn).
Thế là chiếc lò xo căng thẳng đã được giải toả. Theo chỉ dẫn của lính canh, những bóng
người vừa phát hiện không lần mò đi thận trọng nữa mà chạy nhanh vượt qua vật cản của hàng rào
kẽm gai, rồi nhảy xuống chiến hào. Trung uý Filaudeau dẫn đầu. Ông nói với Brunebroucke
- Hầu hết là những binh lính bị thương. Có cả lính bộ binh Algerie, lính dù người Việt
và một hạ sĩ quan Pháp. Chính anh ta đã dẫn những người chạy thoát từ Dominique tới đây.
Brunebroucke cúi nhìn người trung sĩ Pháp và kêu lên một tiếng kinh ngạc. Bộ mặt anh
ta như bao bọc bởi một lớp bột đen, có thể đoán ngay là máu đã khô.
Filaudeau giải thích:
- Nó bị một quả lựu đạn làm vỡ mặt.
Trung sĩ gật đầu. Rồi anh lục tìm trong túi, lấy ra một cuốn sổ nhỏ, cố mò mẫm đọc vài
chữ. Brunebroucke cúi xuống bấm đèn pin nhìn đọc:
- Trung sĩ Bellencontre, đại đội 4, tiểu đoàn dù Bảo an số 5.
- Tốt, Bellencontre này. Tôi không thể giữ anh ở lại đây được. Việt Minh sắp tiến công.
Anh có thể dẫn số lính này đến trạm quân y được không?
Một tiếng thều thào phát ra từ đống máu đông đặc trên gương mặt Bellecontre. Trung sĩ
giơ tay chào rồi quay về chiến hào, tập hợp những người vừa chạy thoát khỏi Dominique 1.
Brunebroucke tiếp tục đứng trực bên cạnh khẩu pháo 105 của mình.
Chợt một loạt đạn vang lên trong tai ông, và lập tức diễn ra hoả ngục. Việt Minh từ
đường 41 đã thâm nhập vào trận tuyến và xung phong tiến đánh cứ điểm cuối cùng chặn đường
tiến quân vào cánh đồng. Quân địch tiến công ngay trên bãi trống lộ thiên, không cần pháo bắn
chuẩn bị. Trên thực tế, lúc này pháo Việt Minh chưa bố trí ở cự ly có thể bắn tới đây. Việt Minh
chỉ có chủ bài là quân số đông, đêm tối và hy vọng vào sự mất tinh thần của đối phương. Nhưng
họ đã lầm.
Bởi vì khẩu pháo 105 của Brunebroucke đã bắn ở số không, nghĩa là nếu có thể nhìn
qua nòng pháo thì mới thấy địch. Lần đầu tiên kể từ khi chiến dịch mở màn, bộ đội Việt Minh
phơi ngực trước họng pháo 105, bắn không cần bảng ngắm.
Hai trung đoàn thuộc sư đoàn 312 Việt minh, say sưa trước chiến thắng mới đây trên
dãy đồi Dominique, sát cánh xung phong. Brunebroucke và đám lính pháo Algerie ra sức bắn.
Một khẩu đội trưởng can:
- Nòng pháo quá nóng rồi!
Trung uý hét to át tiếng động chung quanh.
- Không sao cả. Đái vào nòng!
Việt Minh đã chững lại. Rồi ngay lập tức, họ còn bị những khẩu trọng liên bốn nòng
mà Langlais bố trí ở trục đường, từ bên kia sông Nậm Rốm, bắn tạt sườn. Đây là bốn khẩu 12,7
bắn với tốc độ tối đa, lia những làn đạn tạt ngang vào quân Việt Minh đàng túm tụm trước những
bờ dốc ở Dominique 4.
Bị hoả lực quét, các đơn vị trung đội, đại đội Việt tan tác, xé lẻ, toan rút lui trong đêm
tối. Nhưng Brunebroucke với các khẩu pháo và Jourdonneau với các khẩu trọng liên không cho họ
có cơ hội đó. Việt Minh chỉ còn có một giải pháp là nhảy xuống đoạn chiến hào chạy thẳng trước
mặt vị trí Pháp để tránh đạn, chen chúc, chất đống trong đó, với số quân khoảng 200.
Khi anh lính Algerie Mohamed Chonader quan sát thấy tất cả đã chui hết vào trong
chiến hào, lúc đó mới bấm nút pin kích động những khối thuốc nổ dẹt.
Không nghe thấy tiếng nổ. Chỉ thấy như có làn sóng chấn động của động đất dưới chân
những người lính Algerie. Đó là những sóng chấn động phát đi từ chất nổ dẻo, mềm, đặt sẵn dưới
chiến hào.
Đêm Éliane
Từ 30 đến 31 tháng 3 năm 1954
Trung sĩ Bellecontre bước thật nhanh trên con đường hẻm vây quanh dãy đồi ở phía
Tây. Trong suốt trận đánh cản địch ở Dominique 4, Bellecontre nấp kín một chỗ, vì cảm thấy vô
ích, thụ động, không có vũ khó trong tay. Anh hiểu rõ không thể lội qua sông dưới làn đạn liên hồi
của các pháo thủ Việt Minh, hy vọng ngăn cản quân tăng viện cho Éliane mà sư đoàn 316 đang
tiến đánh.
Bellecontre không còn khái niệm về thời gian nữa. Vết thương còn chưa lành, nỗi đau
lan toả, ý nghĩ mơ hồ. Anh chỉ còn một ý định duy nhất là quyết trở về tiểu đoàn của mình, tức là
tiểu đoàn dù số 5 hồi nãy còn đóng giữ Éliane 4. Anh nghĩ là “hồi nãy” nhưng lại tưởng tượng là
“trước kia”. Dường như có một khoảng thời gian vô tận đã kéo dài từ trận đánh buổi tối đến lúc
này là giữa đêm. Biết bao sự việc đã dồn dập xảy đến trong khoảng thời gian này, nhiều như có
thể tràn ngập cả một đời người. Bellecontre không nhận thức được nữa. Anh bước đi như một cơ
thể còn sống trong khi đã chết một nửa.
Cách đây mười phút, một giờ, một thế kỷ, không còn nhớ nữa, một trung uý to lớn đã
khuyên Bellecontre phải tiến về trạm quân y. Anh không còn đủ can đảm và sức lực nữa. Điều anh
mong mỏi, điều anh ước muốn là kịp về được trạm xá tiểu đoàn, ngã vào cánh tay của Roualt,
người thầy thuốc có cử chỉ dịu dàng, được mọi người cói như một lính “Bảo an”, một người thân
thuộc trong gia đình tiểu đoàn dù số 5.
Éliane không còn xa nữa. Trên bản đồ, vị trí quần thể các điểm tựa nom như một cái
bánh hình lưỡi liềm, sừng phía Nam chính là Éliane 4. Hiện nay, Bellecontre và những thương
binh đang rên rỉ bước theo anh mới chỉ vừa qua đầu sừng phía Bắc. Họ bước vào một bãi đất
phẳng thuôn dài giữa dãy đồi, giống như một đấu trường cổ, có những bậc thang.
Bellecontre đang đi trong bóng tối bỗng nhiên thấy bừng sáng. Đó là những quả pháo
sáng quét màn đêm, quầng sáng màu vàng khiến cho cảnh vật có những đường nét kỳ lạ, viền một
màu nâu ánh vàng. Bụi thường xuyên hầu như không ta bởi vì tiếng nổ của đạn pháo khi rơi
xuống đất liên tục bốc bụi lên cao. Cho tới lúc này, Bellecontre vẫn chỉ nghe thấy những tiếng
động mơ hồ. Anh có cảm giác như vừa mới đẩy một cánh cửa để lọt vào trung tâm đấu trường,
vào địa ngục.
Không còn vấn đề gặp lại tiểu đoàn nữa, mặc dù đơn vị cũ chỉ cách đó có 200 mét, trên
quả đồi trước mặt. Quá tầm vì không còn đủ sức leo lên.
Bellecontre đi dọc theo đường mòn, ngắm nhìn một vòm hàm ếch đào ở thành đất rồi
ngã luôn vào đó. Số lính bị thương vẫn bám sát theo gót.
Lúc này, Bellecontre mới nhận thấy đã có tới một chục người khác ở trong hầm. Phần
lớn là lính dù. Bellecontre không quen biết một ai vì đám lính này thuộc tiểu đoàn 6 do Bigeard
chỉ huy. Một trung uý cao gầy đang gọi điện:
- Alô! Bruno đâu? Herve đây. Rõ!
(Bruno là mật danh khi gọi điện của Bigeard. Herve là mật danh của trung uý Trapp,
chỉ huy đại đội 2. Pierre là mật danh của Langlais)
Bellecontre nằm bệt ở một góc hầm. Anh cảm thấy lạc lõng giữa những người đang sẵn
sàng chiến đấu. Một bàn tay nhẹ nhàng đặt trên vai Bellecontre. Ánh đèn bấm làm anh chói mắt.
Một tiếng nói như rít lên:
- Trời ơi, câu biến dạng nhiều quá.
Bị chói mắt, Bellecontre không trả lời. Tiếng nói tiếp tục:
- Tôi là hạ sĩ trưởng Lecoq, y tá đại đội. Tình hình xấu lắm, anh biết rồi đấy. Tụi lính
Maroc đã bỏ chạy khỏi Éliane 1 ở ngay trên đầu chúng ta, và hiện nay vị trí của lính Bảo an đang
nhô ra phía trước. Không thể đưa anh về phía sau trước sáng mai được. Nếu ngày mai bao giờ
cũng đến.
Vừa nói, Lecoq vừa vén tay áo vấy bẩn lên. Anh rửa cánh tay cho Bellecontre, thắt dây
nịt cho mạch máu đen nổi lên:
- Tôi tiêm cho anh một ống morphine để dịu cơn đau vừa mới tái phát. Rồi tiêm thêm
một ống thuốc chống uốn ván nữa. Anh đừng lo…
Bellecontre để yên cho người y tá làm việc. Đạn pháo vẫn nổ, mảnh đạn bay ào ào
ngay trên đầu. Thỉnh thoảng, vách đất lại lở rơi xuống những người trong hầm vòm. Đôi lúc nghe
thấy cả tiếng kêu thét, tiếng súng trường, tiếng lựu đạn. Và xa hơn nữa về phía Tây là tiếng súng
của những khẩu pháo bắn trả từ phân khu Trung tâm. Bellecontre đã dịu cơn đau. Anh có cảm giác
kỳ lạ, toàn thân chỉ còn như một chiếc nút chai nổi bồng bềnh trong bão lũ. Anh đã làm tất cả
những gì cần phải làm. Anh có thể nghỉ ngơi.
Bên tai Bellecontre, các điện đài vẫn hoạt động. Những tiếng gọi, tiếng nói chen lẫn
nhau, cắt ngang nhau.
- Bruno đâu? Pierre đây! Việt Minh đã chiếm đỉnh đồi Éliane 2. Tôi đã gọi pháo bắn
vào đó. Anh có thể tổ chức một cuộc phản kích được không?
Những tiếng nói từ từ lọt vào tiềm thức của Bellecontre. Nếu Việt Minh chiếm được
đỉnh đồi Éliane 2, có nghĩa là Điện Biên Phủ đã đi đứt…
Trước mặt Bellecontre hiện ra một gương mặt quen thuộc. Đó là trung uý Bergot đã
từng là chỉ huy của Bellecontre trong tiểu đoàn xung kích số 11. Bergot đang nói trong điện đài
qua máy 694 nối liền với kênh pháo binh.
- Zoulou Kilo 50. Rõ. Sẽ bắn một loạt đạn vào điểm Saxo 411.
Từ máy nói của Bergot, một tiếng kêu vọt ra:
- Đừng bắn! Đừng bắn! Chúng tôi vẫn còn giữ được Éliane 2…
Trong hầm chỉ huy của mình, trung tá Langlais không bắt được sóng điện đài pháo
binh. Chỉ vài giây nữa, thảm hoạ sẽ diễn ra: quân Pháp bắn vào quân Pháp. Trung uý Trapp vội sử
dụng luôn hệ thống điện đài của chính đơn vị mình:
- Bruno đâu? Herve đây! Tôi vừa nghe đài “bạn” xác nhận vẫn còn giữ được Éliane 2.
- “Bạn” nào?
- Trung uý Luciani thuộc tiểu đoàn lê dương số 1 đây.
Tiếng nói lanh lảnh cất lên rất rõ, không có vẻ gì đang trong tình trạng căng thẳng như
mọi người đoán:
- Yêu cầu bắn yểm hộ mặt Đông Nam ở bãi Champs Élysées.
Hệ thống thông tin đã được thiết lập qua đài 694 của Trapp. Có tiếng Bigeard rồi đột
nhiên tiếng Langlais nói:
- Pierre đây. Tôi muốn liên lạc với trung uý Luciani. Tôi đã hiểu rõ các anh. Bây giờ tôi
sẽ đáp ứng yêu cầu của các anh. Cần gì cứ đề nghị. Anh được ưu tiên. Mật danh của anh là 100,
của chúng tôi là “quân bạn”.
Trung sĩ Bellecontre không nghe được đoạn tiếp theo. Trong giọng nói của Langlais có
thoáng qua một thứ lạc quan, một niềm hy vọng điên rồ. Bellecontre sau khi hiểu rằng Điện Biên
Phủ chưa bị mất, đã lăn vào một góc hầm, chìm trong giấc ngủ dưới đôi cánh của liều thuốc
morphine an thần.
Đã nửa đêm. Trên cứ điểm Éliane 2, lính lê dương và lính Maroc vẫn chiến đấu không
ngừng. Họ đã chiến đấu suốt 7 tiếng đồng hồ.
Tại Éliane 2, tất cả mọi việc đã bắt đầu như trên mọi quả đồi khác bị các sư đoàn của
tướng Giáp tiến công đồng loạt. Từ 5 giờ chiều pháo địch đang dội xuống Dominque cũng bắt đầy
bắn phá các cứ điểm Éliane và các vị trí pháo, cối nặng, khu vực chỉ huy, các điểm ở bên ngoài
trạm xá quân y. Từ giờ phút đó, từng vị trí, từng điểm tựa, từng lô cốt đều bị cô lập, phơi mình
đơn độc trước làn pháo kéo dài của địch. Không còn vấn đề yêu cầu một sự giúp đỡ nào, một sự
yểm trợ nào, dù nhỏ nhất. Mọi người đều phải tự xử, làm mồi cho sự sợ hãi, sự kích động và làm
mồi cho thần chết.
Giờ phút khủng khiếp bắt đầu từ một sự hoang mang, một chút thiếu kiên định bởi vì
mọi người đều nghĩ, cơn bão lửa sẽ ập xuống ngay đầu mình. Ngay từ quả pháo đầu tiên, mọi vật
đã đen sẫm. Có những người nhắm nghiền mắt, có những người bịt chặt tai. Còn những người
khác thì há hốc mồm, chờ đợi quả đạn nổ sẽ chấm dứt nỗi khắc khoải của họ và quét sạch mọi thứ.
Thể xác trở nên nặng nề như đá tảng. Riêng cái bụng lại mềm nhũn, sôi ùng ục, thở phập phồng.
Không phải đó là do sức bật của sự hưng phấn say sưa, mà trái lại, như có một cục gì đó đông đặc
chèn lên phía trên dạ dày, dính chặt lấy cổ họng, bóp chặt hai thái dương. Mặt mũi tái mét, cặp
mắt đờ đẫn, đám lính này bám vào vách đất rồi lại tự để rơi tuột xuống, đôi cẳng chân không giữ
nổi thân hình nữa. Họ nhìn vào bàn tay, đôi tay trở nên nặng trĩu, sưng phồng, nhợt nhạt, nhẫy
nhụa dính mồ hôi. Cái sợ dâng lên tận cổ như có một vật nóng, dính và mặn trong cuống họng.
Với những người đã trải qua thử thách này thì một trận pháo nện trên đầu là cả một cơn
hấp hối dài. Không bao giờ người ta có thể quên được cảnh tượng này. Thử thách sau lại tồi tệ hơn
thử thách trước, cứ y như một cảnh đầy đoạ không ngừng. Cái chết giễu cợt, cười đùa, hành hạ
cong người đang ngồi thụp dưới đất. Cái chết lướt nhẹ qua từng người sau mỗi tiếng nổ, như trả
lời câu hỏi “Bao giờ đến lượt tôi?”.
Cái chết đã quay ngoắt đi và cười. Tiếng pháo xa dần để rồi lại đến gần. Cái chết cũng
quay trở lại cùng với đạn pháo. Nó len lỏi trong chiến hào, xé rách một ít quần áo, phả hơi thở và
hất bụi đất vào mặt người. Thỉnh thoảng nó lại xé xác một người ngồi gần, vặt chân, vặt tay, moi
ruột… một cách rất ghê tởm.
Người nào dù thoát chết cũng vẫn không yên tâm. Không ai có thể an ủi được người
khác vì không thể đảm bảo chút nào là cái chết không sờ đến họ. Và nếu hôm nay không chết, thì
chỉ đơn giản có nghĩa là ngày mai, mọi việc lại tái diễn cho đến khi… Bởi vì, cái chết của người
khác là báo hiệu cái chết của chính mình.
Đại đội 1 lính dù lê dương tới Éliane 2 khi pháo địch bắt đầu bắn chuẩn bị. Tại đây,
tình hình cũng diễn biến như đã xảy ra trên cứ điểm Dominique 1, binh lính đang rời bỏ vị trí vì
nghĩ là thay quân. Nhưng nếu tại Dominique 1, Martinais chỉ có lính Bảo an và nếu lính Algerie
đã cản trở hoạt động của cánh quân tới thay thế, thì tại đây Luciani chỉ huy đơn vị lính dù lê
dương đã chặn đứng được bọn lính Maroc yếu kém định tháo chạy.
Luciani biết rõ địa hình ở đây. Lần lượt các đơn vị lính dù thay phiên nhau bố trí những
“cái chuông” (Tức những tổ canh gác từ xa, gồm khoảng vài người, khi phát hiện Việt Minh tiến
đến sẽ báo động) trên núi Hói, bên kia thung lũng rậm rạp dưới chân Champs Élysées, tạo thành
một bãi phẳng kéo dài từ Elian 2 về phía Đông - Nam. Trước tiên, Luciani cẩn thận chiếm lĩnh lô
cốt, khống chế bãi Champs Élysées, và giao lô cốt này cho Schmidt, một hạ sĩ chỉ có thể có trong
binh đoàn lê dương, tức là rất kỷ luật tới mức kỳ cục.
- Schdmit, giữ lô cốt này, không một lính Việt nào được tới gần.
Để có thể nghe được trong khi pháo bắn, Schdmit phải đứng thẳng người, hét rất to.
Năm binh lính dưới quyền chỉ huy của Schdmit cũng không thể làm gì hơn là cùng đứng và nghe.
Được đảm bảo có những công sự kiên cố ở mặt sau, Luciani đã bố trí bốn trung đội
chiếm lĩnh các điểm trọng yếu ngay dưới làn đạn pháo địch. Trung đội của Rolin đóng ở điểm cao
chế ngự thung lũng, đối mặt với núi Hói. Lemahieu đóng quân dọc chiến hào phía trước lô cốt.
Falsetti ở mặt Nam Champs Élysées. Lính lê dương cúi gập mình nhảy đi chiếm lĩnh các vị trí
dưới pháo đạn, di chuyển dưới giao thông hào, đặt súng máy tại các ngã tư, ngăn không cho lính
Maroc tháo chạy, từ khi chúng băng mình trên khoảng trống. Nhưng ai dám làm như vậy khi pháo
đang bắn.
Ngồi trong những hố quá chật hẹp, mông chạm gót, đầu rụt xuống vai, mũ sắt úp chụp
tận lông mày, lính bộ binh Maroc chỉ còn một cách là: ở lại đó!
Cũng như trận Dominique, tại đây Việt Minh tiến quân dưới làn đạn pháo cho tới cự ly
xung phong và khi pháo ngừng bắn lập tức xông lên tiến công từ những chiến hào ở núi Hói,
ngoằn ngoèo giữa đồng ruộng cho tới tận những lớp rào dây kẽm gai ở chân bãi Champs Élysées.
Thoạt đầu lính Maroc cũng định rút nhưng không được vì lính lê dương đã bịt các ngả
đường, do đó, họ đành phải chiến đấu cùng với sự động viên của vài người lính lê dương bên
cạnh, vì không còn cách nào khác.
Luciani chạy từ vị trí này sang vị trí khác. Ông đến mọi nơi. Ông nhìn mọi chỗ. Ông
đặt vị trí chỉ huy tại hầm dinh thự của viên quan cai trị cũ, xây dựng như một hầm cố thủ bê-tông,
là một kiểu nhà độc đáo ở Điện Biên Phủ, có cửa sắt chống lại được đạn pháo 105. Ông đã cải tạo
nơi đây thành một pháo đài ngầm rất lợi hại. Chính trung đội dự bị cuối cùng do Dumont chỉ huy,
một thiếu uý mới ra trận, đã liên tục tổ chức phản kích, xuất phát từ hầm ngầm cố thủ này.
Việt Minh tung một trung đoàn đầy đủ để đánh Éliane 2. Đó là trung đoàn 98. Để xông
lên đỉnh đồi, ba ngàn bộ đội Việt Minh bắt buộc phải chen lấn nhau vì trận địa rất hẹp, chưa đầy
800 mét vuông. Bộ đội Việt Minh lúc nhúc xông lên, tiến công từ khắp các phía. Nhưng, phía tay
phải vấp phải trung đội Rondin, nấp trong đống hoang tàn của pháo đài cũ đã đổ nát hoặc trong
những mẩu chiến hào. Lính lê dương kêu ca vì không được ẩn nấp đầy đủ. Họ lấy những xác chết
để đắp thành bờ luỹ che chở.
Ở phía trái, dọc theo con đường mòn chạy dài như một vết bút vẽ lên tới đỉnh Éliane 2,
Việt Minh vấp phải trung đội Falseti. Falsetti không phải là kẻ mới vào nghề. Vừa chỉ huy trung
đội, ông vừa chỉnh đốn hoả lực cho các khẩu cối 81 và 120 “bắn sát ria mép”, như ông thường nói.
Và thế là Việt Minh phải rút lui. Bộ đội Việt Minh tập trung tại thung lũng giữa Éliane
và núi Hói.
Đến 11 giờ đêm, trung đoàn 98 lại tiến công. Có lẽ, trung đoàn trưởng đơn vị này đã
biết tin tất cả các mục tiêu khác đều đã đánh chiếm được, trừ mục tiêu dành cho trung đoàn 98.
Ông ta muốn chứng minh tất cả quyết tâm, dũng cảm, ý chí của mình. Những đợt xung phong lại
tiếp tục sau đợt pháo bắn mãnh liệt. Từ núi Hói và núi Giả ở phía Bắc, những khẩu pháo không
giật và khẩu cối của Việt Minh nã đạn vào đỉnh đồi Éliane 2. Chính cách đánh này đã tiêu diệt các
ổ kháng cự của Béatrice và Gabrielle khi các vị trí chỉ huy trong cụm cứ điểm đã bị vô hiệu hoá.
Chung quanh Luciani đạn pháo rơi như mưa. Nhiều người gục ngã. Trước tiên là trung
uý Nicod và một số lính bộ binh. Rồi đến Falsetti. Cuối cùng là Luciani. Ông bị trúng một mảnh
đạn vào đầu. Rất nhanh chíng, chính xác, Wagenfuhr là y tá của đại đội 2 đã băng bó cho ông,
quấn một cuộn băng qua trán khiến cho ông có vẻ như một tên cướp biển.
Giữa những tiếng lựu đạn nổ và tiếng súng máy, có cả những tiếng hô, tiếng thét rất
gần. Bộ đội Việt Minh đã thâm nhập vào khoảng cách giữa các trung đội và đã tới vị trí của trung
đội Falsetti. Nhảy từ hố này sang hố khác, tiến như cua bò, lính Việt Minh tuần tự quét sạch các ổ
kháng cự và tiến dần lên tới các lô cốt trên đỉnh Éliane 2 ở cự ly có thể nghe thấy tiếng nói.
Chính trong lúc đó Luciani bắt được sóng điện yêu cầu pháo ở khu trung tâm bắn vào
vị trí của ông.
Luciani rất bực tức. Chẳng lẽ Langlais lại thoáng có một giây nghĩ rằng đại đội 1 thuộc
tiểu đoàn 1 lính dù lê dương lại rút khỏi vị trí chiến đấu hay sao? Đây là một vấn đề thuộc lĩnh
vực cá nhân, hay sự xúc phạm, một sự thách thức cần phải thanh toán. Trước mặt Luciani, vẫn là
bóng hình của Schdmit đang nhảy từ ụ súng này sang ụ súng khác, trợ lực cho ổ kháng cự, tập hợp
vài ba người lính để cố đánh bật địch ra khỏi vị trí. Ở phía tay phải Luciani, Lemahieu đã chậm
chạp nhưng chắc chắn, đẩy lùi được Việt Minh ra khỏi vị trí của mình. Luciani ghi nhận tất cả, ghi
nhớ từng tình huống một như đang diễu hành chậm rãi trước mắt. Đó là một sự nhìn nhận trong
cơn ác mộng, trong ánh sáng vàng vọt của pháo sáng. Trên những sườn đồi, hàng trăm bộ đội Việt
Minh vẫn đang xô dần lên như những đợt sóng. Ngay phía dưới, tại một nơi ô uế nhưng lại đặt tên
là Champs Élysées có thể hình dung thấy cuộc chiến đấu giáp lá cà giữa lính lê dương với bộ đội
Việt Minh, họ nã súng thẳng vào nhau ở cự ly gần, đâm chém nhau bằng dao găm, lưỡi lê, mắng
chửi nhau…
Đã hai lần, những đơn vị đi đầu của trung đoàn 98 tiến được tới đỉnh Éliane 2, cả hai
lần đều bị đơn vị của Lemahieu đánh bật xuống khe núi. Thời gian lặng lẽ trôi. Luciani và binh
lính của mình đã chiến đấu được năm giờ.
Thỉnh thoảng lại có một người lính bị thương dìu một người lính khác cũng bị thương
đi qua. Tất cả bọn họ đều có bộ mặt dính đầy đất và máu, cử chỉ mơ hồ, cái nhìn ngây dại. Cũng
thỉnh thoảng, từ cánh đồng dưới chân đồi lại xuất hiện những bóng người khác, còng lưng dưới
sức nặng của các thùng đạn. Luciani khẽ mỉm cười. Đó là những viên phi hành của đại uý
Charnod. Từ ngày những chiếc máy bay của họ bị phá huỷ trên sân bay Điện Biên Phủ, những
người này không còn việc gì để làm nữa. Và thế là, các phi công, hoa tiêu, thợ máy, lính bắn pháo
sáng, nhân viên khí tượng đều lập tức hợp thành một đại đội phu khuân vác.
Charnod nói:
- Khi có những người chiến đấu có hiệu quả như lính lê dương thì ít nhất họ cũng có
quyền được có đạn.
Số người khuân vác này hoạt động trong hoàn cảnh ít được ẩn náu. Dưới làn đạn súng
trường, súng máy và đạn pháo, họ phơi mình ở những khoảng trống trải, trên các lối đi ở Điện
Biên Phủ. Họ vượt sông Nậm Rốm, đi dọc theo con đường mòn đất trắng lên đến tận đỉnh Éliane,
nặng trĩu các hòm đạn vác trên vai hoặc treo ở đầu gậy. Họ cũng rách rưới bẩn thỉu như những
lính dù, thường chỉ mặc một chiếc quần cộc và một chiếc áo sơ-mi rách tả tơi. Một số người bị
thương, cẳng chân bê bết bùn và máu.
Dĩ nhiên, không gì bắt buộc họ hoàn thành những công việc này. Trong mọi trường
hợp, cũng không ai ngăn cản được họ.
Đã hai giờ sáng, Việt Minh vẫn tiến công. Ý chí quyết thắng giúp họ vượt qua tất cả
mọi sự suy yếu. Họ phải chiếm bằng được Éliane 2, điểm tựa quái lạ, nhỏ nhất, bé nhất, trước khi
trời sáng. Phải cố chiếm. Họ đã hứa với cấp trên như vậy. Và thế là, liên tục không ngừng, như
một guồng nước không gì ngăn cản được, họ trèo lên, trèo lên nữa, kiên quyết, vượt qua mọi trở
ngại, đi vòng, tiến thẳng, chiếm lĩnh một mét, hai mét đất. Có những người ngã xuống. Những
người khác vượt lên, nhặt khẩu súng đồng đội bỏ lại, giương súng tiểu liên, ném quả lựu đạn, gặm
nhấm dần các vị trí của đại đội 1, đánh bật những gì còn lại của đám lính Maroc đang bám vào vị
trí, bị kích động bởi các mệnh lệnh của Nicolas là người chỉ huy vẫn đang giữ vững vị trí liên tục
thúc đẩy họ chiến đấu.
Nhưng, còn có thể làm gì được để chống lại sự năng nổ, quyết tâm của Việt Minh?
Không có một pháo đài nào có thể gọi là bất khả xâm phạm khi họ quyết tâm đánh chiếm bằng
mọi giá. Có thể trước khi trời sáng trung đoàn 98 Việt Minh sẽ phải hy sinh, nhưng họ vẫn sẽ
chiếm được Éliane 2.
Cả Nicolas lẫn Luciani đều hiểu điều đó. Hai người tức giận đầy ruột, quyết không lùi
bước. Họ ở lại vị trí chiến đấu với một quyết tâm ít nhất cũng ngang kẻ địch. Ở thế cân bằng này,
cả hai bên đều bị thương vong ghê gớm. Lính Maroc, lính lê dương gục ngã ngay trên xác địch.
Những viên đạn vẫn còn liên tiếp bắn vào những xác chết của cả hai bên, rất điên cuống, phát ra
tiếng nổ hút hồn. Máu tuôn trào từ những vết thương mới. Không khí đắc sệt mùi thuốc đạn và
xác chết.
Đột nhiên, tình hình lắng dịu. Sức ép của địch có vẻ giảm. Luciani nói:
- Việt Minh đã đụng vào một vật rắn như xương.
Nhưng không phải là “một khúc xương”. Mười phút trước, hai đại đội lính dù đã tới
trận địa. Ở mặt Bắc là đại đội Le Boudec của tiểu đoàn dù xung kích số 6 do Bigeard chỉ huy. Ở
mặt Nam, là hai đại đội thuộc tiểu đoàn dù lê dương của Loulou Martin. Lính dù thuộc địa và lính
dù lê dương thi nhau trổ tài gan góc. Họ không nghĩ đến chuyện dùng mưu kế. Họ chống chọi với
những đợt tiến công đầu tiên của địch theo kiểu chơi bóng. Cuộc đụng độ thật kinh khủng. Các
sườn đồi, các chiến hào, một lần nữa tràn ngập các chiến binh vật lộn với nhau.
Mọi thứ đối với họ đều tốt và một khi không còn vũ khí nữa họ đánh nhau bằng tay
trần. Mọi người nhìn thấy rõ một lính Việt Minh xông lên, giơ hai bàn tay về phía trước, sẵn sàng
bóp cổ đối phương. Nhưng anh ta đã vấp phải một lính Pháp biết võ Judo. Cũng nhìn thấy rõ một
“bộ đội” một tay cầm súng cắm lưỡi lê, tay kia giơ quả lựu đạn ngăn cản đối thủ bỏ chạy.
Không phải sự hằn thù đã đẩy những người này bắn giết nhau. Sự hằn thù là một thứ
tình cảm đã trôi qua, không còn ở lại Éliane 2, và lúc này chỉ còn lại một hình thức tôn trọng danh
dự nào đó. Bởi vì nếu là hằn thù thì trong hằn thù thường xuất hiện cả sự sợ hãi đối thủ, mà sự sợ
hãi thì từ lâu đã không tồn tại trong những chiến binh. Tính mạng của họ lúc này quá đơn giản để
có thể biểu lộ một chút tình cảm tâm hồn.
Và sau đó, chỉ sau đó mới rõ…
Huguette 7
Từ 30 đến 31 tháng 3 năm 1954
- Huguette bị tiến đánh. Đề nghị cứu viện ngay lập tức.