« Home « Kết quả tìm kiếm

Phân tích so sánh quốc tế "Tham nhũng và chống tham nhũng "


Tóm tắt Xem thử

- THAM NHŨNG VÀ CHỐNG THAM NHŨNG Phân tích so sánh quốc tế.
- Theo quan điểm chung, tham nhũng là việc quan chức chính phủ sử dụng quyền lực công cho lợi ích tư.
- Tham nhũng khá phổ biến trên thế giới, đặc biệt là tại các nền kinh tế đang chuyển đổi..
- Tham nhũng lan tỏa theo cơ chế nào?.
- (2) Nó tác động gì tới tăng trưởng kinh tế? và (3) Giải pháp chống lại sự lây lan của tham nhũng là gì?.
- Cơ chế lan truyền của nạn tham nhũng.
- Hãy xét trường hợp đơn giản nhất, khi viên chức chính phủ kiểm soát việc cung cấp chỉ một dịch vụ công, như quota xuất nhập khẩu, hay giấy phép mở trường học hay bệnh viện tư.
- Trên thực tế, ngừơi viên chức có quyền trì hoãn hoặc chối từ việc cung cấp những loại giấy phép đó.
- Vì vậy, họ có thể đòi hỏi cá nhân hay tổ chức kinh doanh trả một khoản phí “bôi trơn” nhằm đẩy nhanh những thủ tục cấp giấy phép.
- Ở loại hình thứ nhất, viên chức thu một khoản phí chính thức cho việc cung cấp giấy phép, và đem nộp khoản đó vào công quỹ.
- Trong trường hợp thứ hai, viên chức chẳng nộp cái gì vào công quỹ hết, và chỉ đơn giản là ém luôn khoản giao dịch..
- Vì vậy, về thực chất khoản tiền mà cá nhân trả cho viên chức chỉ còn là phí bôi trơn.
- Nó có thể thấp hơn phí chính thức quy định bởi luật lệ.
- Chính vì vậy, dạng hình tham nhũng này rất hấp dẫn đối với cá nhân hay tổ chức kinh doanh..
- Cần phải nói rằng, việc viên chức cho phép mình thu phí bôi trơn là do có sự nhập nhằng giữa quyền được ủy thác với việc sử dụng quyền đó trên thực tế.
- Chính vì vậy, ở các nền kinh tế chuyển đổi, khi tiền lương không tương xứng với trách nhiệm.
- và trách nhiệm không được quy định rõ ràng bởi luật lệ, thì tham nhũng có cơ lan tràn.
- Việc trừng phạt viên chức tham nhũng có thể làm thay đổi mức họ đòi hối lộ, nhưng về cơ bản sẽ không làm thay đổi tình hình.
- Hơn nữa, nếu việc trừng phạt kẻ tham nhũng chỉ có tính thí điểm, thì rủi ro bị trừng phạt sẽ rơi nhiều nhất vào những kẻ quá lộ liễu.
- Vì vậy, nó sẽ thúc đẩy hoạt động tham nhũng trở nên tinh vi hơn, ẩn ngầm hơn.
- Nhưng tuyệt nhiên, sự trừng phạt làm gương đó sẽ không loại trừ được nạn tham nhũng..
- Nếu sự nhập nhằng giữa quyền được ủy thác với việc sử dụng quyền đó trên thực tế cho phép người giữ quyền có thể kiếm lời từ phí bôi trơn, thì trên thực tế, sẽ có một cuộc cạnh tranh giữa các viên chức nhằm được bổ nhiệm vào các vị trí đó.
- Sự cạnh tranh giữa các viên chức, do vậy,có xu hướng đẩy nạn tham nhũng gia tăng.
- Vì thế, một trong các cách chống tham nhũng là làm rõ các chỉ tiêu khách quan, minh bạch, nhằm đánh giá đúng chất lượng công chức.
- Và ràng buộc sự thăng tiến của cá nhân viên chức với những thành tích cụ thể mà anh ta đã đạt được..
- Trên thực tế, cơ chế thúc đẩy sự lan truyền của tham nhũng không chỉ xuất phát từ sự cạnh tranh giữa các viên chức vào những vị trí béo bở.
- Nếu hầu hết các doanh nghiệp phải trốn thuế, thì ai không làm như vậy sẽ không thể tồn tại trên thương trường.
- Chính ở điểm này, có sự khác biệt giữa tham nhũng không chiếm dụng và dạng có chiếm dụng..
- Rõ ràng là dạng hình tham nhũng có chiếm dụng này khó loại trừ hơn dạng hình không chiếm dụng.
- Hơn thế nữa, ở dạng không chiếm dụng, giao dịch được ghi lại trong sổ sách, nên nó sẽ làm dễ dàng cho việc thẩm tra lại, nếu có sự tố cáo với cơ quan luật pháp về tệ tham nhũng.
- Điều này gợi ý rằng, tạo lập các cơ chế kiểm toán đơn giản, hữu hiệu nhằm giảm bớt việc chiếm dụng các khoản nộp vào quỹ công sẽ cho phép làm giảm tham nhũng..
- Gợi ý nêu trên càng có ý nghĩa, khi tham nhũng có chiếm dụng còn thể hiện dưới dạng bòn rút nguồn quỹ công đưa vào tài khoản tư.
- Nhưng vụ PMU18 ở Việt Nam, với việc quan chức Bộ giao thông sử dụng hàng triệu dollars tiền vay ODA để đánh bạc cho thấy tham nhũng đã ảnh hưởng thế nào tới việc phát triển hạ tầng cho nền kinh tế, và làm tăng gánh nặng nợ nần cho thế hệ tương lai.
- Hiện tại, mỗi năm nền kinh tế Việt Nam phải trả nợ nước ngoài khoảng 2 tỷ dollars (theo báo Tuổi trẻ)..
- Tác động của tham nhũng tới phát triển kinh tế.
- Những phân tích trên đây gợi ý rằng, tham nhũng có tác động trực tiếp làm tăng phí tổn sản xuất do các doanh nghiệp phải trả phí bôi trơn.
- Tham nhũng làm chi phí sản xuất hàng hóa và dịch vụ ở Nga bị đội lên từ 5 đến 15%.
- Mỗi năm ở đó có khoảng 3000 vụ tham nhũng bị lôi ra ánh sáng.
- Hầu hết các doanh nghiệp ở Nga khi được hỏi đều trả lời rằng họ phải trả tiền hối lộ cho đăng ký kinh doanh, cho kiểm dịch vệ sinh, và thanh tra thuế.
- Một trong những nguyên lý cơ bản nhất trong kinh tế học là doanh nghiệp sẽ không đầu tư nếu họ không giữ lại được thành quả từ nỗ lực của mình.
- Sử dụng dữ liệu điều tra doanh nghiệp năm 2000 ở Nga, Balan, Rumani, và Slovakia, Mcmillan (Stanford) đã chỉ ra rằng, ý nguyện đầu tư từ lợi nhuận để lại của doanh nghiệp có mối liên hệ rõ ràng tới sự nhạy cảm của họ đối với tham nhũng.
- Những doanh nghiệp chịu rủi ro bị đòi tiền mãi lộ cao nhất có mức đầu tư thấp hơn nơi ít rủi ro nhất tới 40%.
- Ở Trung Quốc vào những năm 1980, người ta cũng nhận thấy tình hình tương tự.
- Quan chức các cấp thường “thăm viếng” các doanh nghiệp tư nhân và đòi phí phụ trội.
- Một điều tra vào năm 1988 tại tỉnh Liaoning cho thấy, chỉ riêng thuế và phí phụ trội đã chiếm tới 63% lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Gánh nặng thuế khóa đó làm doanh nghiệp tư nhân khó mà tồn tại, trừ phi là trốn thuế hoặc che dấu hoạt động kinh doanh và thu nhập của họ (China Economic Almanac, 1989, p.
- Sử dụng dữ liệu liên quốc gia, Barro (Harvard) đã chỉ ra rằng tham nhũng càng nhiều, thì đầu tư càng ít, tăng trưởng càng thấp.
- Indonesia dưới thời Suharto đã tăng trưởng rất nhanh trong 3 thập kỷ liên tục, cho dù tham nhũng lan tràn.
- Và Việt Nam hiện nay, mức tăng trưởng cao trên 8% đã kéo dài cả thập kỷ và không có dấu hiệu gì cho thấy xu hướng này sẽ bị chậm lại, cho dù tham nhũng đã trở thành vấn đề nổi cộm.
- Liệu sự phát triển thị trường và tăng trưởng có thể cùng tồn tại với tham nhũng hay không? Hãy nhìn lại bài học từ Indonesia..
- “lạm dụng quyền hành một cách tùy tiện để lập nên những công ty độc quyền, thao túng các hợp đồng chính phủ, và sử dụng doanh nghiệp nhà nước cho lợi ích của riêng mình.”.
- Nhân viên thuế vụ, cán bộ hải quan, nhân viên ngân hàng nhà nước, người cấp chứng chỉ kinh doanh, tất cả đều có quyền lực riêng biệt trong việc đòi doanh nghiệp phải nộp phí bôi trơn.
- Khiến cho sau khi trả xong hối lộ, cá nhân doanh nghiệp vẫn thấy tiếp tục bị nhũng nhiễu.
- Khi mà quan chức các cấp đều tìm cách vắt kiệt hầu bao của nó, doanh nghiệp bị mất đi ý nguyện đầu tư.
- Các doanh nghiệp lớn mua sự bảo hộ bằng việc thuê những sĩ quan về hưu vào làm, mà họ có thể tố cáo những quan chức quá nhũng nhiễu.
- Nhưng ở cấp cao, Suharto thường xuyên cách chức những quan chức mà tham nhũng của họ đã trở nên quá tai tiếng.
- Một dẫn chứng điển hình là ông ta sa thải toàn bộ bộ máy hải quan vào năm 1985 do sự tham nhũng quá mức của nó.
- Như đã gợi ý, việc làm của Suharto không thể và không nhằm loại trừ tham nhũng.
- Tiền hối lộ sau đó được chia một cách tương xứng cho các quan chức có liên quan, mà họ đồng ý không đòi hỏi gì thêm nữa từ doanh nghiệp.
- Tham nhũng được kiểm soát chặt chẽ, do vậy, không cản trở đầu tư.
- Khi giới kinh doanh được bảo đảm rằng không ai có quyền chiếm đoạt thêm nữa lợi nhuận của mình, thì họ đầu tư và nền kinh tế phát triển.
- Bài học từ Indonesia là, không thể có một sự phát triển bền vững dựa trên nền tảng chính trị bị chi phối bởi tham nhũng.
- Quyền lợi của các doanh nghiệp phải dần được đảm bảo bởi luật pháp.
- Doanh nghiệp không thể dựa vĩnh viễn vào việc mua sự bảo hộ từ quyền lực của một cá nhân hay nhóm lợi ích cấu kết với nó.
- Nói khác đi, quan hệ vương triều phải dần được thay thế bởi các thể chế kinh tế và chính trị tích cực, như là nền tảng cơ bản cho hoạt động kinh tế..
- Tạo lập thể chế công quyền cho phát triển kinh tế.
- Trung Quốc là một trường hợp khác về việc củng cố và phát triển hệ thống hành chính và chính trị..
- Trong tiến trình cải cách và tăng trưởng đầy ngoạn mục của nó từ cuối những năm 1970, viên chức chính quyền địa phương ở Trung Quốc ngày càng đóng vai trò tích cực trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, thúc đẩy kinh doanh địa phương, và thu hút đầu tư nước ngoài.
- Vai trò đó của họ đối ngược lại với tệ tham nhũng của quan chức ở các nền kinh tế chuyển đổi và đang phát triển.
- Điều gì đã xảy ra ở Trung Quốc?.
- Trung Quốc là một quốc gia tập quyền, với Trung ương Đảng cộng sản là đầu não của hệ thống chính trị nhiều cấp, mà nó có quyền lực tối cao trong việc bổ nhiệm và bãi miễn các viên chức thuộc hệ thống đó.
- Tỉnh thành là đơn vị hành chính cấp hai trong hệ thống thứ bậc chính trị ở Trung Quốc.
- Ngoại trừ Đài loan, Hong Kong, và Macau, Trung Quốc có 31 đơn vị cấp tỉnh – 4 trung tâm hành chính và kinh tế là Bắc kinh, Thượng hải, Thẩm quyến (Tianjing), và Chongqing, 22 tỉnh và 5 khu tự trị.
- Điều đó thể hiện tính song trùng giữa đảng cộng sản và tổ chức chính phủ ở mỗi bậc trong hệ thống đẳng cấp chính trị ở Trung Quốc..
- Như ở hầu hết các nền kinh tế chuyển đổi, cải cách đặt ra một mâu thuẫn cơ bản giữa một bên là các đơn vị hành chính và kinh tế đòi hỏi quyền tự chủ cao hơn, với bên kia là nhà nước trung ương, bị mất quyền kiểm soát, và muốn hạn chế nhịp độ tự do hóa.
- Trong hoàn cảnh như vậy, việc đẩy quá nhanh nhịp độ tự do hóa tất yếu sẽ dẫn đến nạn cướp bóc tài sản công trên mức độ rộng khắp như ở nước Nga, hay việc quan chức địa phương tùy tiện ức hiếp doanh nghiệp tư nhân như ở tỉnh Liaoning, Trung Quốc..
- Phi tập trung hóa cho phép cấp tỉnh ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong quản lý kinh tế so với cấp bộ ở trung ương, thể hiện tầm quan trọng chiến lược của lãnh đạo cấp tỉnh trong cải cách.
- Theo Qian (giám đốc trung tâm nghiên cứu Trung Quốc, đại học Berkely), cán bộ cấp tỉnh được trao quyền tự chủ ngày càng cao trong việc điều tiết nguồn lực kinh tế ở địa phương của họ.
- Những quyết định chính trị và kinh tế của họ ảnh hưởng quan trọng đến thành tựu kinh tế của những địa phương đó.
- Bước ngoặt quan trọng nhất trong quản lý nhân sự là sự thay đổi toàn diện chỉ tiêu đánh giá viên chức nhà nước.
- Sự trung thành chính trị, mà nó là chỉ tiêu duy nhất trước cải cách cho sự thăng tiến, nhường bước cho năng lực quản lý kinh tế và các chỉ tiêu đo lường khác về nghiệp vụ.
- Mặc dù rằng sự trung thành chính trị vẫn hết sức quan trọng, ba yếu tố mới được đưa vào quá trình đánh giá: Viên chức phải trẻ về độ tuổi, có trình độ học vấn đích thực, và thể hiện được sự thành thạo trong quản lý hành chính.
- Trên tất cả, thành tựu kinh tế địa phương trở thành chỉ tiêu quan trọng bậc nhất cho việc cán bộ cấp cao đánh giá nhân viên cấp dưới.
- Mặc dù vậy, cải cách kinh tế và chính trị đã buộc lãnh đạo cấp tỉnh phải làm việc trong một khung khổ về chuẩn mực nghề nghiệp, được xác định một cách rõ ràng trong lòng cấu trúc chính trị nhiều cấp ở Trung Quốc.
- Sử dụng dữ liệu thống kê, một nghiên cứu gần đây của khoa kinh tế, đại học Stanford, kết hợp với trường quản trị Thanh Hoa (Guanghua school of management), đại học Bắc Kinh, đã chỉ ra rằng, cơ hội thăng tiến của lãnh đạo cấp tỉnh ở Trung Quốc tăng cùng với thành tựu kinh tế của địa phương họ.
- và khả năng bị thôi việc giảm đi cùng với thành tựu kinh tế đó.
- Điều này có phần trùng hợp với nghiên cứu của Besley và Case, theo đó, thành tựu kinh tế của từng tiểu bang so với các bang kế cận ở Mỹ có ảnh hưởng tích cực tới triển vọng được bầu lại của thống đốc bang..
- Mối quan hệ giữa sự thăng tiến của các cấp lãnh đạo với thành tựu kinh tế của địa phương đã được nêu lên sớm nhất bởi Tiebout (đại học Chicago) từ năm 1956.
- Nếu sự thăng tiến chính trị được ràng buộc với thành tựu kinh tế, thì có nghĩa là sẽ có sự cạnh tranh giữa các bang hoặc tỉnh thành, nhằm thu hút nguồn lực cho phát sự phát triển kinh tế của địa phương mình.
- Khi đó, nếu viên chức địa phương của một bang tìm cách nhũng nhiễu đòi hối lộ, thì cá nhân nhà kinh doanh sẽ tìm đến bang khác, mà quyền sở hữu của họ được bảo vệ hữu hiệu hơn bởi luật pháp tiểu bang.
- Kết quả là kinh doanh phát triển lên theo cùng nhịp với sự tiến bộ về thể chế.
- Sức mạnh kinh tế đem lại sức mạnh chính trị cho lãnh đạo địa phương..
- Ở Trung Quốc, sự thi đua giữa các cá nhân và tổ chức nhà nước bao hàm rằng, nếu một viên chức tìm cách đòi hối lộ, thì viên chức hay tổ chức khác, hoặc địa phương khác, có thể sẽ cung cấp cùng một dịch vụ tốt hơn, nhằm thu hút nhiều “người mua” hơn đến với mình.
- Vốn đầu tư có thể tự do chảy vào Trung Quốc, nhưng không dễ dàng chảy ra.
- Một khi đã nằm trong nền kinh tế, nguồn vốn đó có thể tự do chảy tới nơi, mà nhà đầu tư cho là có triển vọng lợi nhuận tốt nhất.
- Cũng hệt như vậy, lao động ở Trung Quốc có thể dịch chuyển khá năng động tùy thuộc vào khả năng của cá nhân đáp ứng cơ hội về việc làm.
- Như vậy, ở địa phương mà tham nhũng hoành hành, thì vốn và lao động năng suất cao có xu hướng bị “đuổi” khỏi đó, và chảy về nơi, mà cơ sở hạ tầng và pháp lý cho kinh doanh phát triển hơn.
- Mà chủ yếu là do những yếu tố kích thích, gắn kết bên trong những thể chế về quản lý và tổ chức, cho phép thúc đẩy đầu tư và phát triển.
- Một sự phát triển lâu bền không thể dựa trên một thể chế quản lý bị lũng đoạn bởi tham nhũng.
- Và một nền kinh tế lạc hậu không phải là không bao giờ có thể đuổi kịp các nước tiên tiến

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt