Academia.eduAcademia.edu
ĐỀ CƯƠNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Câu 1: Phân tích Những điều kiện cơ bản quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, liên hệ giai cấp công nhân việt nam 1. định nghĩa sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là toàn bộ những nhiệm vụ lịch sử khách quan mà giai cấp công nhân cần phải thực hiện và có thể  thực hiện nhằm thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa  lỗi thời, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, hình thái kinh tế – xã hội mới, tiến bộ hơn, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử xã hội và phù hợp với lợi ích chính trị căn bản của giai cấp công nhân, được quy định bởi địa vị kinh tế – xã hội và địa vị chính trị – xã hội căn bản của giai cấp giai cấp công nhân. 2. Những điều kiện chủ quan và khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Để hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trước hết cần làm rõ khái niệm giai cấp công nhân K/n: Giai cấp công nhân là tập đoàn xã hội hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tỉnh chất xã hội hóa ngày càng cao, là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp tham gia vào sản xuất, tái sản xuất ra vật chất và cải tạo các mối quan hệ xã hội, là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ CNTB lên CNXH Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới là sự nghiệp xác lập một hình thái kinh tế xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Trong lịch sử, sự nghiệp này được trao cho một giai cấp tiến bộ đương thời, đại diện cho một phương thức sản xuất mới của nhân loại. Chẳng hạn giai cấp chủ nô với việc xác lập hình thía kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ; giai cấp phong kiến với việc xác lập hình thía xã hội phong kiến; giai cấp tư sản với việc xác lập hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa và hiện nay là giai cấp công nhân với việc xác lập hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Sứ mệnh lịch sử thường xuất hiện ở điểm giao thời – quá độ giữa một hình thái cũ đang suy tàn và một hình thái mới đang xuất hiện  Điều kiện cơ bản để một giai cấp đảm nhận sứ mệnh lịch sử trước tiên giai cấp đó phải là một giai cấp đại diện cho tiến bộ xã hội mà cụ thể là đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ với nâng suất lao động cao hơn , cách tổ chức lao động xã hội phù hợp  và tiến bộ hơn. Ban rthaan giai cấp đố cuãng có được một hệ tư tưởng riêng phản ánh nhận thức về quy luật lịch sử và có được hạt nhân chính trị của gai cấp mình ( chính đảng)  Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là những nhiệm vụ cần phải thực hiện trong quá trình xây dựng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, gồm các nội dung cơ bản là kinh tế, chính trị-xã hội, văn hóa, tư tưởng.  Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân: Thứ nhất, do sự quy định của địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân gắn kiền với phương thức sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại, mang tính xã hội hóa cao. Phương thức sản xuất quy định phương thức tư tưởng, giai cấp công nhân vì vậy có được những đặc điểm của một giai cấp cách mạng : tính tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp, tinh thần triệt để cách mạng , tính đoàn kết quốc tế , tính dân tộc… những phẩm chất này khách quan xác định giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất, cách mạng nhất và có năng lực lãnh đạo các giai cấp khác trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Thứ hai : những tiền đề vất chất của chủ nghĩa tư bản và sự vận động của mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Xã hội hóa sản xuất là tiền đề quan trọng nhất đã thúc đẩy sự vận động của mâu thuẫn cơ bản trong lòng phương thức sản xuất TBCN. Mâu thuẫn cơ bản đó là xung đột giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất với tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Quy luật chung là quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Công hữu những tư liệu SX chủ yếu là yêu cầu khách quan và đã được quá trình SX hiện đại vạch ra. Xã hội hiện đại với xu thế xã hội háo, dân chủ hóa mạnh mẽ hiện nay cũng đang làm chín muồi những tiền đề khách quan cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Thứ ba: mẫu thuẫn về lợi ích cơ bản giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản tất yếu dẫn đến sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Chế độ bóc lột giá trị thặng dư đã khiến cho lợi ích cơ bản của hai giai cấp này đối lập nhau : một bên là giai cấp bị bóc lột sức lao động, một bên là đi bóc lột sức lao động . Mâu thuẫn đó là không thể điều hòa và là động lực chính cho cuộc đấu tranh giai cấp hiện đại  Giải quyết mâu thuẫn về lợi ích cơ bản giữa hai giai cấp này theo hướng xóa bỏ chế độ bóc lột giá trị thặng dư là yếu tố khách quan. Muốn thực hiện được điều đó phải xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhưng muốn xóa bỏ nó thì phải xóa bỏ chế độ chính trị là cái đang bảo vệ quan hệ sản xuất ấy. Lật đổ chế độ tư sản, nhà nước của giai cấp tư sản, xác lập nhà nước giai cấp công nhân là tất yếu trong quá trình cách mạng kinh tế. Hiện nay, yêu cầu phát triển nhanh, nhân bản và bền vững của thế giới hiện đại cũng khách quan coi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân như một giải pháp mới cho phát triển. Thông qua việc phân tích tính chất khách quan của sứ mệnh lịch sử cúa giai cấp công nhân chúng ta thấy được tất yếu kinh tế - chính trị xã hội của cách mạng XHCN và ý nghĩa nhân đạo lớn lao của sứ mệnh này. Nó là một sự nghiệp của giải phóng và phát triển được nảy sinh từ chính những nhân tố hiện thực của xã hội hiện đại chứ không phải là mong muốn chủ quan như sự xuyên tạc của các kẻ thù tư tưởng  *Điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử toàn thế giới .  Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là tất yếu khách quan, tức là không phụ thuộc vào ý muốn của bất kỳ ai. Nhưng cũng như các quy luật xã hội khác, nó không “ tự động” diễn ra như các qui luật tự nhiên mà nó cần có những yếu tố chủ quan . Những nhân tố chủ quan đó là : Thứ nhất : là sự phát triển của giai cấp công nhân, là kết quả của quá trình phát triển tự thân , tự giác , chủ động. Với tư cách là chủ thế thực hiện sứ mệnh lịch sử, sự phát triển giai cấp công nhân là yếu tố chủ quan quy định chất lượng và quy mô, tốc độ của quá trình này. Sự phát triển giai cấp công nhân được thể hiện ở sự phát triển về lượng và phát triển về chất. Phát triển về lượng của giai cấp công nhân thể hiện sự tăng trưởng về số lượng cũng như tỷ lệ lao động công nghiệp trong nền kinh tế. Sự phát triển về chất của giai cấp công nhân được thể hiện ở năng lực làm chủ công nghệ hiện đại và ý thức giác ngộ giai cấp, giác ngộ dân tộc. Thứ hai : là có  Đảng cộng sản, nhân tố chủ quan cơ bản để thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân  Giai cấp công nhân coi Đảng cộng sản là hạt nhân chính trị của mình và sự ra đời của Đảng là mốc đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp. Chủ nghĩa Mac- Lenin khẳng định việc giai cấp công nhân có tổ chức được chính đảng trưởng thành về chính trị, tư tưởng và tổ chức là dấu hiệu đã trở thành giai cấp tự giác và đủ năng lực để thực hiện sứ mệnh lịch sử.  Đảng coi giai cấp công nhân là cơ sở xã hội hàng đầu của mình. Quan hệ giữa Đảng cộng sản và giai cấp công nhân là quan hệ “máu thịt”. Tính chất tiền phong thực tiến và lý luận, tính tổ chức khoa học và chặc chẽ xác định Đảng là người lãnh đạo, là hạt nhân của giai cấp công nhân.  Đảng cộng sản là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân. không có lý luận thì phong trào công nhân không đi được xa.  Đảng cộng sản là bộ tham mưu của giai cấp công nhân. Bằng hiểu biết lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, Đảng cộng sản định ra cương lĩnh, đường lối, chiến lược, chính sách đấu tranh. Đảng cũng là người tổ chức, động viên các sức mạnh, nguồn lực chính trị xã hội trong phong ttraof công nhân. Đảng cộng sản là đội tiên phong đấu tranh cho lợi ích của giai cấp công nhân và của dân tộc. Đây là sự nghiệp cách mạng vĩ đại của những người lao động bị áp bức, bóc lột đứng lên giải phóng bản thân và thoát khỏi áp bức giai cấp. Để làm tròn nhiệm vụ trên Đảng của giai cấp công nhân cần phải: nắm vững và trung thành với chủ nghĩa Mac lenin; giữ vững và không ngững tăng cường tính chất giai cấp công nhân; giữ vững quyền lãnh đạo của Đảng , xây dựng Đảng mạnh về chính trị , tư tưởng và tổ chức  Thứ ba: là phải có sự thống nhất của phong trào công nhân (phong trào công nhân trong từng nước với phong trào công nhân quốc tế),  từng bước xây dựng ý thức đoàn kết quốc tế.  *Liên hệ với thực tiễn giai cấp công nhân ở nước ta hiện nay: Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội  to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất, kinh doanh và dịch vụ công nghiệp hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính công nghiệp. Giai cấp công nhân ta có sứ mệnh lịch sử to lớn : là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản Việt Nam, là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, là lực lượng tiên phong trong sự nghiệp xây dựng CNXH, là lực lượng đí đầu trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, là lực lượng nòng cốt trong liên ming công – nông – trí. Thực hiện thành công sứ mệnh đó là đảm bảo cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đẩy mạnh CNH-HĐH là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Thực trạng thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công  nhân Việt Nam hiện nay : Cùng với sự nghiệp đổi mới và quá trình đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước giai cấp công nhân nước ta đã có bước chuyển biến quan trọng tăng nhanh về số lượng , đa dạng về cơ cấu , chất lượng được nâng lên đã hình thành ngày càng đông đảo công nhân trí thức, đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản Việt Nam. Tuy vậy, sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu về số lượng, cơ cấu, trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật nghề nghiệp của sự nghiệp CNH-HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Địa vị chính trị của giai cấp công nhân còn chưa thể hiện đầy đủ.  Đối với vai trò lãnh đạo đất nước đi lên CNXH đang có mâu thuẫn trong yêu cầu tiền phong đi đầu với những bất cấp về trình độ văn hóa , tay nghề và giác ngộ chính trị của một bộ phận lớn của công nhân nước ta. Đối với vai trò đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH-HĐH găn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế của giai cấp công nhân nước ta cũng còn nhiều bất cập, hạn chế. Năng lực làm chủ khoa học công nghệ của công nhân , năng lục lãnh đạo tổ chức, quản lý  và kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa hoàn thiện … Đối vơi vai trò hạt nhân của khối kiên minh công- nông – trí thức và đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp công nhân nước ta cũng còn nhiều bất cập trước hai lực cản lớn là mặt trái cơ chế thị trường và năng lực tố chức quản lý cúa bản thân Trước thực trạng nêu trên Đảng ta đã đưa ra quan điểm và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt nam hiện nay  Quan điểm :  Kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản Việt Nam. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết hữu cơ với xây dựng và phát huy sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và ddoooij ngũ tri thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn chặc chẽ với chiến lược phát triển kinh tế xã hội, CNH-HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng trí thức hóa giai cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến lược. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và nổ lực vương lên của bản thân công nhân, sự tham gia đống góp tích cực của người sử dụng lao động, trong đó sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước có vai trò quyết định, công đoàn có vai trò quan trọng trực tiếp trong chăm lo xây dựng giai cấp công nhân. Phương hướng và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt nam Phương hướng : - Hình thành và triển khai thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh gắn với chiến lược phát triển kinh tế -xã hội, CNH-HĐH, hội nhập quốc tế. - Giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc , cấp bách của giai cấp công nhân, tạo được chuyển biến thật sự mạnh mẽ và rệt trong nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân. - Có bước tiến về đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, nhất là ngành công nghiệp mới. Tăng nhanh tỷ lệ lao động qua đào tạo, chú trọng tạo nghề cho công nhân từ nông dân và nữ công nhân. - Nâng cao hơn về giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, hiểu biết pháp luật, tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động, xây dựng loios sống lành mạnh trong công nhân, nhất là công nhân trẻ. - Tăng tỷ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất thân từ công nhân. - Đẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ chức công đoàn , đoàn thanh niên cộng sản Hồ chí minh Giải pháp thực hiện - Tiếp tục nghiên cứu tổng kết thực tiến , phát triển lý luận về giai cấp công nhân trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. - Đẩy mạnh nâng cao chất lượng đào tạo nghề , từng bước trí thức hóa giai cấp công nhân - Quan tâm bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp , tinh thân dân tộc cho giai cấp công nhân - Bổ sung, sửa đổi xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật đẻ đảm bảo quyền, lợi ích hợp phá, chính đáng của công nhân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân. - Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức công đoàn và các tỏ chức chính triij – xã hội khác trong xây dựng giai cấp công nhân. Câu 2: Chứng minh rằng ĐCS là nhân tố chủ yếu, quyết định thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN, liên hệ vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân do địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp này quy định, nhưng để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực thì phải thông qua nhân tố chủ quan của giai cấp công nhân. Trong những nhân tố chủ quan đó thì việc thành lập đảng cộng sản, một đảng trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tộc, vững mạnh về chính trị, tư tuởng và tổ chức là nhân tố giữ vai trò quyết định nhất bảo đảm cho giai cấp công nhân hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình. a) Tính tất yếu của sự hình thành, phát triển chính đảng của giai cấp công nhân Trong thực tế lịch sử, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản đã nổ ra ngay từ khi chủ nghĩa tư bản hình thành và phát triển, theo quy luật có áp bức có đấu tranh. Mặc dù phong trào công nhân có thể phát triển về số lượng, quy mô cuộc đấu tranh có thể được mở rộng nhưng cuối cùng đều bị thất bại vì thiếu một lý luận khoa học và cách mạng soi đường. Chỉ khi nào giai cấp công nhân đạt đến trình độ tự giác bằng cách tiếp thu lý luận khoa học và cách mạng thì lúc đó phong trào đấu tranh của giai cấp này mới thật sự là phong trào mang tính chất chính trị. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ khi đi vào phong trào công nhân mới được biến thành sức mạnh vật chất để lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội mới. Như vậy, đảng cộng sản là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Khi đảng cộng sản ra đời, thông qua sự lãnh đạo của đảng, giai cấp công nhân nhận thức được vai trò, vị trí của mình trong xã hội, hiểu được con đường, biện pháp đấu tranh cách mạng, từ đó tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân lao động, thực hiện việc lật đổ chủ nghĩa tư bản, giải phóng giai cấp mình, giải phóng toàn xã hội và tổ chức xây dựng xã hội mới về mọi mặt. Đảng cộng sản muốn hoàn thành vai trò lãnh đạo cách mạng thì trước hết phả luôn luôn chăm lo xây dựng về tư tưởng và tổ chức, phải luôn luôn làm cho đảng vững mạnh về chính trị, không ngừng nâng cao về trí tuệ, gắn bó với quần chúng nhân dân, có năng lực lãnh đạo và hoạt động thực tiễn. b) Mối quan hệ giữa đảng cộng sản và giai cấp công nhân Đảng cộng sản là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích và trí tuệ của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: "Những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các đảng công nhân khác. Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản" . Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội của đảng cộng sản, là nguồn bổ sung lực lượng phong phú cho đảng cộng sản. Những đảng viên của đảng là những người công nhân giác ngộ lý tưởng cách mạng, được trang bị lý luận cách mạng, tự giác gia nhập đảng và được các tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân giới thiệu cho đảng. Trong hàng ngũ của đảng có những đảng viên không phải là công nhân, nhưng phải là người giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và luôn luôn phải đứng trên lập trường, trên lợi ích của giai cấp công nhân. Với một đảng cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của đảng cũng chính là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình thông qua đảng cộng sản. Tuy nhiên, không thể đồng nhất đảng cộng sản với giai cấp công nhân. Đảng là một tổ chức chính trị chỉ tập trung những công nhân tiên tiến, giác ngộ lý tưởng cách mạng, được trang bị lý luận cách mạng, do vậy đảng trở thành đội tiên phong chiến đấu, lãnh tụ chính trị và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân. Là đội tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đảng cộng sản có sự tiên phong về lý luận và hành động. Trên cơ sơ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, căn cứ vào thực tiễn của đất nước trong mỗi giai đoạn cách mạng, đảng cộng sản phải đưa ra được cương tĩnh, đường lối cách mạng phù hợp với mỗi giai đoạn cách mạng. Cán bộ, đảng viên phải nắm được quan điểm, đường lối của đảng để phổ biến tuyên truyền tới quần chúng nhân dân, phải thông qua hành động tiên phong gương mẫu mà lôi kéo quần chúng và các phong trào cách mạng. Đảng cộng sản là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng viên là những người được trang bị lý luận, nắm được quan điểm, đường lối của đảng, do vậy "họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản" . Cán bộ, đảng viên phải tuyên truyền phổ biến quan điểm, đường lối của đảng tới các tầng lớp nhân dân làm cho quần chúng nhân dân hiểu và phải bằng hành động gương mẫu của mình để tập hợp, lôi cuốn quần chúng nhân dân vào các phong trào cách mạng. Đảng cộng sản có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động, vì thế đảng có thể thực hiện giác ngộ quần chúng nhân dân, đưa họ tham gia các phong trào cách mạng. Có tập hợp được quần chúng nhân dân, huy động được quần chúng tham gia các phong trào cách mạng thì những chủ trương, đường lối của đảng mới được thực hiện và khi đó đảng mới có sức mạnh, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mới thực hiện được.\ Lãnh đạo Bồi đào tạo bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ Đề ra phương hướng nhiệm vụ chiến lược phát triển Đảng cộng sản là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và cả dân tộc. Khi nói tới vai trò tham mưu chiến đầu của đảng là muốn nói tới vai trò đưa ra những quyết định của đảng, nhất là trong những thời điểm lịch sử quan trọng. Những quyết định đúng đắn sẽ tạo điều kiện đưa phong trào cách mạng tiên lên, ngược lại có thể gây ra những tổn thất cho cách mạng. Sở dĩ đảng cộng sản trở thành đội tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân vì đảng bao gồm những người tiên tiến trong giai cấp công nhân, được trang bị lý luận khoa học, cách mạng và là những người được tôi luyện từ trong thực tiễn phong trào cách mạng. *Liên hệ vai trò ĐCS Việt Nam. Câu 3: Phân tích những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản nên chủ nghĩa xã hội. Định nghĩa của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội………………………… *Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải từ các căn cứ sau đây: Một là, bất kỳ quá trình chuyển biến từ một xã hội này lên một xã hội khác đều nhất định phải trải qua một thời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Đó là thời kỹ còn có sự đan xen lẫn nhau giữa các yếu tố mới và cũ trong cuộc đấu tranh với nhau. Có thể nói đây là thời kỳ của cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa cái cũ và cái mới mà nói chung theo tính tất yếu phát triển lịch sử thì cái mới thường chiến thắng cái cũ, cái lạc hậu. Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội không là ngoại lệ lịch sử. Hơn nữa, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một bước nhảy lớn và căn bản về chất so với các quá trình thay thế từ xã hội cũ lên xã hội mới đã từng diễn ra trong lịch sử thì thời kỳ quá độ lại càng là một tất yếu, thậm chí có thể kéo dài. Nhất là đối với những nước còn ở trình độ tiền tư bản thực hiện thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì “những cơn đau đẻ” này còn có thể rất dài với nhiều bước quanh co. Hai là, sự ra đời của một xã hội mới bao giờ cũng có những sự kế thừa nhất định từ những nhân tố do xã hội cũ tạo ra. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là sự kế thừa đối với chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là trên phương diện kế thừa cơ sở vật chất kỹ thuật đã được tạo ra bởi sự phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội mặc dù cũng là nền sản xuất đại công nghiệp nhưng đó là nền sản xuất đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa chứ không phải là nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Do đó nó cũng cần phải có thời kỳ quá độ của bước cải tạo, kế thừa và tái cấu trúc nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Đối với những nước chưa từng trải qua quá trình công nghiệp hóa tiến lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội càng có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đó là một nhiệm vụ vô cùng to lớn và đầy khó khăn, không thể “đốt cháy giai đoạn” được. Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ nghĩa, đo vậy cũng cần phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển những quan hệ đó. Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn và phức tạp. Với tư cách là người chủ của xã hội mới, giai cấp công nhân và nhân dân lao động không thể ngay lập tức có thể đảm đương được công việc ấy, nó cần phải có thời gian nhất dịnh. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau có thể diễn ra khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau. Đối với những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình độ cao khi tiến lên chủ nghĩa xã hội thì thời kỳ quá độ có thể tương đối ngắn. Những nước đã trải qua giai đoạn phát triển chĩ nghĩa tư bản ở trình độ trung bình, đặc biệt là những nước còn ở trình độ phát triển tiền tư bản, có nền kinh tế lạc hậu thì thời kỳ quá độ thường kéo dài với rất nhiều khó khăn, phức tạp. *     Những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá dộ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. + Trên lĩnh vực kinh tế: Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần trong một hệ thống kinh tế quốc dân thông nhất. Đây là bước quá độ trung gian tất yếu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thể dùng ý chí để xóa bỏ ngay kết cấu nhiều thành phần của nền kinh tế, nhất là đối với những nước còn ở trình độ chưa trải qua sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được xác lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp và tương ứng với nó là những hình thức phân phối khác nhau, trong đó hình thức phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trò là hình thức phân phối chủ đạo. Nội dung: Nội dung cơ bản trên lĩnh vực kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thực hiện việc sáp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của xã hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, bảo đảm phục vụ ngày càng tốt đời sống nhân dân lao động. Việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất của xã hội nhất địnk không thể theo ý muốn nóng vội chủ quan mà phải tuân theo tính tất yếu khách quan của các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đối với những nước chưa trải qua quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra được cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đối với những nước này, nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ phải là tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa diễn ra ở các nước khác nhau với những điều kiện lịch sử khác nhau có thể được tiến hành với những nội dung cụ thể và hình thức, bước đi khác nhau. Đó cũng là quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể trong việc xác định những nội dung, hình thức và bước đi trong tiến trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. + Trên lĩnh vực chính trị: Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp, nên kết cấu giai cấp của xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức tạp. Nói chung, thời kỳ này thường bao gồm: giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản và một số tầng lớp xã hội khác tuỳ theo từng điều kiện cụ thể của mỗi nước. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. Nội dung: Nội dung cơ bản trong lĩnh vực chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tiến hành cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; tiến hành xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, bảo đảm quvền làm chủ trong hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhân dân lao động: xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động; xây dựng Đảng Cộng sản ngày càng trong sạch, vững mạnh ngang tầm với các nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử. + Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá - xã hội: Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn hoá khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông, V.V.. Theo V.I. Lênin, tính tự phát tiểu tư sản là “kẻ thù giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn so với nhiều bọn phản cách mạng công khai”. Trên lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại các yếu tố văn hoá cũ và mới, chúng thường xuyên đấu tranh với nhau. Thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại không còn là giai cấp thống trị và những thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới là giai cấp công nhân đã nắm được chính quyền nhà nước, quản lý tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức mới, diễn ra trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng - văn hóa, bằng tuyên truyền vận động là chủ yếu, bằng hành chính và luật pháp. *Nội dung Nội dung cơ bản trong lĩnh vực tư tưởng - văn hóa của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là: thực hiện tuyên truyền phổ biến những tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân trong toàn xã hội; khắc phục những tư tưởng và tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị tinh hoa của các nền văn hóa trên thế giới. Nội dung cơ bản trong lĩnh vực xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là phải thực hiện việc khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại; từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người theo mục tiêu lý tưởng tự do của người này là điều kiện, tiền đề cho sự tự do của người khác. Tóm lại, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỹ lịch sử tất yếu trên con đường phát triển của hình chái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là thời kỳ lịch sử có đặc điểm riêng với những nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội đặc thù mà giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa chỉ có thể có được trên cơ sở hoàn thành các nội dung đó. Tóm lại, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỹ lịch sử tất yếu trên con đường phát triển của hình chái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là thời kỳ lịch sử có đặc điểm riêng với những nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội đặc thù mà giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa chỉ có thể có được trên cơ sở hoàn thành các nội dung đó. *Liên hệ với đặc điểm thời kỳ quá độ ở Việt Nam Thời kì quá độ là thời kì lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên CNXH cũng đều phải trải qua ngay cả đối với những nước có nền kinh tế phát triển. Con đường phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam mà chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn là con đường phát triển rút ngắn theo phương thức quá độ gián tiếp. Đó là con đường phát triển tất yếu khách quan, hợp quy luật theo tiến trình phát triển lịch sử tự nhiên của Cách mạng Việt Nam vì: Thứ nhất là do bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ: thế giới bước vào thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) lên CNXH. CNTB lúc đó là xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay bằng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa. CNTB không phải là tương lai của loài người, nó không vượt qua những mâu thuẫn mà mâu thuẫn cơ bản nhất là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; mâu thuẫn này càng ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc hơn; CNXH mà con người đang vươn tới là hình thái kinh tế xã hội cao hơn CNTB đó là xã hội vì sự nghiệp giải phóng con người, sự phát triển tự do và toàn diện của loài người. Chúng ta quá độ thẳng lên CNXH nghĩa là đi theo dòng chảy của thời đại nghĩa là đi theo quy luật tự nhiên của lịch sử. Thứ hai là do sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc của Đảng. Ngay khi ra đời Đảng ta đã xác định con đường phát triển của dân tộc là quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ. Từ sau khi Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo đã thành công thì chúng ta đã cởi bỏ được hai vòng xích, đã thoát khỏi cảnh một cổ hai tròng, Đảng và Nhà nước thêm vững mạnh, nhân dân đã thêm niềm tin vào Đảng, quyết tâm đi theo Đảng. Thành quả của cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cần được giữ vững, cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân phải được cải thiện, nâng cao nhiều so với những năm chiến đấu hy sinh. Có hàng loạt vấn đề kinh tế, xã hội và chính trị cần được giải quyết cấp bách sau khi Cách mạng dân tộc dân chủ thành công. Nhưng điều đó không ngăn cản việc tiến lên CNXH; hơn nữa, việc giải quyết nó chỉ có thể bằng con đường xây dựng CNXH. Việc đưa miền Bắc tiến lên CNXH có ý nghĩa rất lớn lao trong những năm đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Chính điều đó  được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong hội nghị cán bộ văn hoá ngày 30/10/1958 “ Miền Bắc tiến lên CNXH để làm cơ sở vững chắc cho việc đấu tranh thống nhất nước nhà. Muốn đấu tranh thống nhất nước nhà thắng lợi thì nhất định phải xây dựng miền Bắc tiến lên CNXH”. Trong thời đại ngày nay chỉ có độc lập dân tộc gắn liền với CNXH mới đem lại nhiều lợi ích và hạnh phúc thực sự cho toàn thể nhân dân lao động. Vì những lẽ đó, Đảng tất yếu lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến thẳng lên CNXH không trải qua giai đoạn phát triển TBCN. Câu 4; chứng minh rằng cách mạng XHCN là cuộc cách mạng toàn diện diện triệt để và mang bản chất quốc tế * Khái niệm Cách mạng xã hội: là sự cải biến căn bản chế độ xã hội, là sự thay thế hình thái KT- XH này bằng hình thức KT-XH khác tiến bộ hơn, thông qua cách mạng chính trị trong đó vấn đề chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc CMXH. Cách mạng XHCN: Là cuộc CMXH do GCCN lãnh đạo thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản nhằm xóa bỏ chế độ TBCN xây dựng thành công CNXH & CNCS trên phạm vi toàn thế giới. Cách mạng XHCN được hiểu theo 2 nghĩa: - Nghĩa rộng: Cách mạng XHCN là một quá trình cải biến cách mạng toàn diện, triệt để, lâu dài, bắt đầu từ lúc GCCN giành được chính quyền, tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới - XHCN và CSCN. - Nghĩa hẹp: Cách mạng XHCN là cao trào đấu tranh chính trị của quần chúng lao động mà lực lượng tiên phong là GCCN, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản nhằm lật đổ ách thống trị của GCTS thiết lập CCVS *Đây là một cuộc cách mạng toàn diện và triệt để và mang bản chất quốc tế Đó là một cuộc cách mạng xuất phát từ những mâu thuẫn tất yếu của xã hội, với mục tiêu giải quyết tất cả các mâu thuẫn đó, được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực đa dạng của đời sống một cách sâu sắc và cuối cùng, mang lại quyền lợi và sự giải phóng cho tất cả những lực lượng cáchmạng tham gia. Nếu như các cuộc cách mạng từng xảy ra ở giai đoạn trước như cách mạng xã hội lật đổ chế độ chiếm hữu nô lệ để xây dựng chế độ phong kiến, cách mạng tư sản…chưa tiến hành đấu tranh toàn diện ở mọi mặt của đời sống; chưa giải quyết được hay giải quyết chưa triệt để mọi nhiệm vụ và yêu cầu về lợi ích kinh tế, chính trị, văn hóa…mà những lực lượng tham gia đặt ra thì đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhờ đấu tranh toàn diện mà mọiquyền lợi trong các lĩnh vực của đời sống – xã hội đều được giải quyết thỏa đáng. Nguyên nhân hay điều kiện dẫn tới sự toàn diện và triệt để này là do cách mạng xã hội chủ nghĩa có tiền đề khách quan là những mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất tiến bộ, ngày càng xã hội hóa cao và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa lạc hậu, mang đậm tính chất tư nhân; giữa giai cấpcông nhân và giai cấp tư sản… Thêm vào đó, mục tiêu cao nhất của cuộc cách mạng là giải phóng xã hội, giải phóng con người, lật đổ chính quyền của giai cấp bóc lột, xây dựng chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, tiến tới xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa. Con đường duy nhất để cải biến xã hội, giải quyết tận gốc mâu thuẫn trong lòngxã hội tư bản và thực hiện đến cùng mục tiêu cách mạng chỉ có thể là đấu tranh trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội một cách triệt để, sâu sắc nhất. Động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa là liên minh của giai cấp côngnhân và giai cấp nông dân, trên cơ sở đó, đoàn kết rộng rãi các lực lượngtiến bộ trong các tầng lớp nhân dân lao động khác. Vì thế, sau thắng lợi của cách mạng, yêu cầu bức thiết đặt ra là phải đáp ứng một cách toàn diện và triệt để mọi lợi ích của những giai tầng này. Tính toàn diện và triệt để của cách mạng xã hội chủ nghĩa được biểu hiện rõ nét nhất ở nội dung đấu tranh. Cuộc cách mạng vĩ đại này được thựchiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trên lĩnh vực chính trị, cuộc cách mạng đập tan Nhà nước của giai cấp bóc lột, giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, nhân dân lao động,từ đó, làm thay đổi địa vị của người dân từ người nô lệ lên là người làm chủbản thân, làm chủ Nhà nước, làm chủ quá trình xây dựng xã hội mới. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa từng bước được tạo điều kiện làm sâu rộng themđể mọi tầng lớp nhân dân đều có thể tham gia vào tổ chức và quản lý bộ máyNhà nước. Trên lĩnh vực kinh tế, khác với các cuộc cách mạng trước đây – về thực chất, chỉ mang tính chính trị, thì cách mạng xã hội chủ nghĩa đã thực sựcó tính chất kinh tế. Cách mạng xã hội chủ nghĩa đã làm thay đổi địa vị củangười lao động bằng cách trao vào tay người lao động quyền làm chủ tư liệusản xuất chủ yếu nhất của xã hội, làm chủ quá trình sản xuất, làm chủ quátrình phân phối giá trị thặng dư do sức lao động của mình tạo ra. được nâng cao. Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa, cuộc cách mạng đã đem lại sự giải phóng về mặt tinh thần cho đại đa số con người bằng cách từng bước xây dựng hệ tư tưởng tiến bộ - một hệ tư tưởng khoa học và cách mạng cùng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong điều kiện xã hội mới –xã hội xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân cùng với các tầng lớp nhân dân lao động là chủ thể sáng tạo ra các giá trị văn hóa, tinh thần của xã hội chứ không còn phải chịu sự áp đặt của giai cấp thống trị như trước đây nữa. Trên cơ sở kế thừa một cách có chọn lọc và nâng cao các giá trị văn hóa truyềnthống của dân tộc, tiếp thu các giá trị văn hóa tiên tiến của thời đại, cáchmạng xã hội chủ nghĩa đã hoàn toàn giải phóng con người về mặt tinh thần,hình thành nên con người mới xã hội chủ nghĩa với những phấm chất tốt đẹp. Thực tiễn cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trong lịch sử nhân loại – Cách mạng Tháng Mười Nga là một minh chứng tiêu biểu cho tính toàn diện và triệt để của Cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ngày 7-11-1917, đông đảo công - nông - binh và quần chúng bị áp bức, bóc lột ở nước Nga, dưới sự lãnh đạo của Đảng Bôn-sê-vích Nga do V.I. Lê-nin đứng đầu, đã vùng lên lật đổ chế độ chuyên chế Nga hoàng, đập tan ách thống trị của giai cấp địa chủ và tư sản, giành lấy ruộng đất và bánh mì, giành chính quyền về tay mình. Trước Cách mạng Tháng Mười, nhân loại đã chứng kiến nhiều cuộc cách mạng có vai trò đặc biệt trong số phận của các dân tộc, trong sự tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, tất cả các cuộc cách mạng đó chỉ dẫn đến sự thay thế hình thức tư hữu này bằng hình thức tư hữu khác, sự thống trị của giai cấp bóc lột này bằng giai cấp bóc lột khác. Nhưng khác với các cuộc cách mạng trước đó, Cách mạng Tháng Mười đã thủ tiêu mọi hình thức người bóclột người, giải phóng triệt để giai cấp vô sản và nhân dân lao động nước Nga khỏi ách áp bức, bóc lột phong kiến và tư sản, thiết lập nền chuyên chính vô sản, xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa, chưa từng có ở nước Nga và trên thế giới. Những thập kỷ sau khi Liên bang Xô-viết được thành lập, Liên Xô đã đạt những thành tựu vĩ đại cả về kinh tế, chính trị, văn hóa… Đặc biệt, nền khoa học Xô-viết đã tiến tới những đỉnh cao trong nhiều lĩnh vực: khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn… Những tuyên ngôn của Cách mạng Tháng Mười đã được thực hiện trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước Xô-viết, tạo ra không gian rộng lớn cho khả năng sáng tạo và phát triển con người Xô-viết, nhân cách Xô-viết. Liên Xô đã trở thành trụ cột của hòa bình thế giới, trở thành một thực thể không thể thiếu trong đời sống chính trị thế giới và các quan hệ quốc tế, một tiếng nói đầy trọng lượng trong những quyết định quan trọng nhất của thế giới ở thế kỷ XX. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười đã sáng tạo ra kỷ nguyên mới của lịch sử nước Nga, đồng thời đã vạch mốc thờiđại, mở ra kỷ nuyên mới trong lịch sử nhân loại: kỷ nguyên hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, Cách mạng Tháng Mười có tầm vóc vượt khỏi không gian và thời gian, trở thành biểu tượng lớn của thời đại.Như vậy, có thể thấy, cách mạng xã hội chủ nghĩa thực sự là một cuộccách mạng toàn diện và triệt để nhất từ trước đến nay. Đó là một cuộc cách mạng tiến hành trên mọi lĩnh vực nhằm giải quyết tận gốc những nguyên nhân sinh ra nó trên cơ sở tập hợp mọi lực lượng tiến bộ nhất, cách mạng nhất của xã hội. Bởi vậy mà cách mạng xã hội chủ nghĩa còn được coi là “bước nhảy vọt vĩ đại trong quá trình phát triển của xã hội loài người” Câu 5. Trình bày những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; liên hệ với quá trình đổi mới nền dân chủ ở nước ta hiện nay. Khái niệm: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là hình thức tồ chức nhà nước của giai cấp công nhân với hệ thống chính trị tương ứng mà đặc trưng cơ bàn là thừa nhận quyền lực chính trị của giai cấp công nhân, của quáng đại quần chúng nhân dân lao động. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một tập hợp các thiết chế nhà nước, xã hội được xác lập, vận hành và từng bước hoàn thiện nhằm đảm bào thực hiện trên thực tế, ngày càng đầy đù các quyền lực chính trị của giai cấp công nhân, cùa các giai cấp và các tầng lớp nhân dân khác và của toàn xã hội. * Đặc trưng Cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa: * Đặc trưng của nền dân chủ XHCN Thứ nhất:nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ mang tính lịch sử. Mọi nền dân chủ đều mang tính lịch sừ, bởi nó ra đời trong những điều kiện và tiền đề chính trị xác định, tồn tại biến đổi trong mối quan hệ biện chứng với những cơ sờ kinh tế - xã hội, chính trị - xã hội xác định. Trong đó, những lợi ích chính trị cơ bàn của giai cấp công nhân giữ vai trò chi phối, quyết định đến bản chất, các hình thức rà phương thức thực thi quyền lực chính trị chủ yếu cùa nền dân chủ. Nen dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời là sàn phẩm tất yếu của cuộc đấu tranh về tay giai cấp công nhân, xác lập bộ máy nhà nước của giai cấp công nhân do đảng cộng sản lãnh đạo, hình thành và xác lập hệ thống các thiết chế chính trị chủ yếu, báo đảm quyền lực chính trị thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tất yếu trải qua các giai đoạn cơ bản như sau: thời kỳ quá độ từ chủ nghTa tư bàn lên chủ nghĩa xã hội; trong thời kỳ xây dựng chủ nghTa xã hội, các diều kiện, tiền đề của chủ nghĩa cộng sản được từng bước xác lập và cùng cố, theo đó, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng từng bước tự phủ định rrùnh, từng bước tự tiêu vong. Thứ hai, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ mang bản chất giai cấp của giai cấp công nhân, dồng thời là nền dân chú dại chúng, dân chủ cho đại đa số. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chù mang bản chất giai cấp công nhân, là nền dân chủ đại chúng, cho đại đa số nhân dân lao động. Nen dân chủ xã hội chủ nghĩa có sứ mệnh thủ tiêu chủ nghTa tư bản, xây dựng chủ nghTa cộng sản, được xây dựng trên cơ sờ phát huy, thể hiện ngày càng đầy đủ, trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân mà nòng cốt là liên minh của giai cấp công nhân với quảng đại quần chúng nhân dân lao động. Cùng với quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa rà quá trinh xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, khối liên minh này ngày càng đông đào, ngày càng trờ thành nền tàng của giai cấp công nhân.Đó chính là động lực xã hội cơ bàn của cách mạng xã hội chủ nghĩa rà là chủ thể của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thứ ba, nền dẫn chủ xã hội chú nghĩa là nền dân chủ có tính chất dân tộc, dồng thòi lại mang tính nhăn loại. Nen dân chủ có tính dân tộc bởi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng trước hết trong long từng quốc gia dân tộc, trên cơ sở Nần hóa xã hội chủ nghĩa với nội dung tiên tiến, đậm dà bản sắc dân tộc. Nen dân chủ xã hội chủ nghĩa còn cần trở thành phổ biến trong mọi quốc gia dân tộc, ngay từ khi ra đời trong từng quốc gia dân tộc, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã là nền dân chù mang tính phổ biến, tính nhân loại. Điều đó thể hiện trước hết ờ chỗ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên các lập trường, nguyên tắc cơ bàn của chủ nghĩa Mac - Leenin, hệ thống lý luận cách mạng - khoa học, phán ánh một cách đúng đắn, chính xác vai trò sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công n Thứ tư, nền dân chủ xã hội chú nghĩa là nền dân chủ cuối cùng trong lịch sử - là nền dân chủ tự tiêu vong. Nền dân chủ là sản phẩm của cuộc cách mạng xã hội, mang bản chất cùa giai cấp thống trị là những giai cấp đại diện cho chế độ sở hữu tư nhân, có lợi ích chính trị cơ bàn đối lập với lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân lao động, với lợi ích chính trị chính đáng của dân tộc và cùa toàn xã hội. Do vậy, sự phát triển khách quan của sản xuất, kinh tế kéo theo những phát triển tương ứng trong chính trị...tất yếu dẫn đến sự bị diệt vong của những nền dân chủ ấy. Nen dân chủ xã hội chủ nghĩa là sản phẩm tất yếu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa do chính đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo Nen dân chủ xã hội ấy thống nhất về lợi ích chính trị cơ bàn của giai cấp công nhân với lợi ích chính trị cùa nhân dân lao động, với dân tộc và toàn xã hội. Trong nền dân chù xã hội chủ nghĩa, nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước ngày càng nhiều và càng có hiệu quà. Tóm lại: Các đặc trưng chế độ dân chủ XHCN là một thể thống nhất quan hệ biện chứng với nhau. Tuy nhiên, trong thời kỳ quá độ lên CNXH, các đặc trưng trên chưa thể hiện đầy đủ; phải từng bước xây dựng, hoàn thiện và bổ sung. Đó là một quá trình đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt, phức tạp, lâu dài Liên hệ việt nam Nền dân chủ ờ nước ta quá trinh đổi mới nền dân chủ có những đặc điểm sau: Thứ nhất, chế độ dân chủ xã hội chù nghĩa hiện nay là chế độ dân chủ đầu tiên trong lịch sử chính trị cùa Việt Nam. Bời trước đó các chế độ phong kiến và thực dân nữa phong kiến đã kéo dài trong đời sống chính trị- kinh tế- xã hội Việt Nam.Trong thời kỳ này người dân không có quyền tham gia dời sống chính trị cùa đất nước và không thể áp đặt ý chí, nguyện vọng sống cùa minh vào hệ thống chính trị phong kiến và thực dân nữa phong kiến. Đến ngày 2 tháng 9 năm 1945 chế độ dân chủ đầu tiên ấy của Việt Nam dã mang lại cho con người nhũng quyền cơ bán nhất như quyền sống. Đó là quyền làm công dân cùa một nước độc lập tự do, quyền tham gia vào đời sống chính trị và nhiều quyền lợi khác,... Thứ hai, chế độ dân chủ đầu tiên cùa Việt Nam được xác lập thông qua quá trình đấu tranh giành và giữ độc lập dân tộc với xương máu, trí tuệ cùa nhiều thế hệ người Việt Nam chứ không phải thông qua con đường dân chủ nghị trường như nhiều nước khác trên thế giới. Trên thực tế cùa lịch sử chính trị Việt Nam thế kỷ XX, đất nước có độc lập, tự do thi con người, xã hội mới có dân chủ, cộng hòa. Nhiều thế hệ của người Việt Nam hiểu được rằng điều quan trọng nhất là độc lập, tự do- không có gl quý hơn độc lập, tự do. Vì thế, những quan niệm về quyền và nghĩa vụ của công dân, nhũng thiết chế và cơ chế thực thi dân chủ cùa Việt Nam đều được triền khai trên tinh thần ấy. Việt Nam chi có thề đạt được tự do, dân chủ khi đất nước hòa bình, thống nhất, độc lập và công dân thoát khỏi số phận của người nô lệ mất nước. Thứ ba, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trình độ cao cùa quá trình phát triển dân chù.Quá trinh xây dựng và phát triền nền dân chủ ở Việt Nam phải luôn hoàn thiện, phải kết hợp giũa tiêu chí và thực tế để nền dân chủ của ta được trọn vẹn. Bời Việt Nam xây dựng chế độ dân chủ XHCN trong bối cảnh đặc thù cùa nền kinh tế sản xuất nhỏ, chậm phát triền, phải khắc phục hậu quả chiến tranh,...hiền nhiên Việt Nam chưa thể có ngay một nền dân chù hoàn thiện. Thứ tư, nguyên tắc nhất nguyên chi có một giai cấp lãnh đạo nền dân chủ thông qua chính đảng của nó, là phù hợp với quá trinh phát triền cùa Việt Nam.Với nguyên tắc tập trung trong chế dộ dân chù là điều kiện cần để thực hiện dân chủ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng nhiều giá trị của dân chủ được hiện thực hóa: người dân có quyền mưu cầu giàu có, hạnh phúc, được tạo điều kiện phát triển mọi mặt theo hướng dân chủ, công bằng, văn minh. Tuy nhiên Đảng ta cũng thấy rõ những nguy cơ tha hóa, biến chất nên dân chủ XHCN trong diều kiện một đảng cầm quyền. Thứ năm, quá trình phát triền dân chủ ờ Việt Nam là kết quả của toàn bộ hệ thống chính trị, toàn dân cùng tham gia. Các chủ trương, chính sách liên quan tới quá trinh dân chủ hóa đời sống chính trị - xã hội Đàng ta là người khởi xướng. Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động cùa hệ thống chính trị được đặt trọng tâm vào đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, đấy mạnh dân chủ hóa trong Đàng, cải cách hành chính Nhà nước và cải cách tư pháp. Như vậy, Việt Nam phát triển dân chủ với những sắc thái và cách làm riêng cùa mình; chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt cũng là một nguyên tắc của dân chủ hiện đại. Có thề, chính từ những cái riêng này, Việt Nam sẽ có đóng góp tích cực vào cái chung của nền dân chủ của nhân loại. Câu 6: Phân tích nội dung liên minh của giai cấp công nhân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở việt nam 1. Nội dung chính trị của liên minh: Liên minh công- nông- trí thức trên lĩnh vực chính trị cần thể hiện ở những điểm sau đây: Một là: mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản nhất của GCCN, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và của cả dân tộc ta là: Độc lập dân tộc và CNXH. Nhưng để đạt được mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản đó khi thực hiện liên minh lại không thể dung hòa lập trường chính trị của 3 giai tầng mà phải trên lập trường tư tưởng chính trị của GCCN. Bởi vì, chỉ có phấn đấu thực hiện mục tiêu lý tưởng của GCCN thì mới thực hiện được đồng thời cả nhu cầu lợi ích chính trị cơ bản của công nhân, nông dân, trí thức và của dân tộc là lập dân tộc và CNXH. Hai là: Khối liên minh chiến lược này phải đo Đảng của GCCN lãnh đạo thì mới có đường lối chủ trương đúng đắn để thực hiện liên minh, thực hiện quá trình giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng CNXH thành công. Do đó, Đảng Cộng sản từ trung ương đến cơ sở phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để lãnh đạo khối liên minh và lãnh đạo xã hội là vấn đề có ý nghĩa như 1 nguyên tắc về chính trị của liên minh. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, liên minh công- nông- trí thức ở nước ta còn làm nòng cốt cho liên minh chính trị rộng lớn nhất là Mặt trận Tổ quốc, là cơ sở để xây dựng nền dân chủ XHCN, đồng thời là nền tảng cho nhà nước XHCN ngày càng được củng cố lớn mạnh để bảo vệ tổ chức và xây dựng CNXH. Ba là: nội dung chính trị của liên minh không tách rời nội dung, phương thức đổi mới hệ thống chính trị trên phạm vi cả nước. Dưới góc độ của liên minh, cần cụ thể hóa việc đổi mới về nội dung tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị trong GCCN, nông dân và trí thức. Nội dung chính trị cấp thiết nhất hiện nay là triển khai thực hiện “Quy chế dân chủ ở cơ sở”, nhất là ở nông thôn. 2. Nội dung kinh tế của liên minh: Nội dung kinh tế là nội dung cơ bản, quyết định nhất, là cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc của liên minh trong thời kỳ quá độ. Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta trong thời kỳ quá độ được cụ thể hóa ở những điểm sau đây: - Phải xác định đúng thực trạng, tiềm năng kinh tế của cả nước và của sự hợp tác quốc tế, từ đó mà xác định đúng cơ cấu kinh tế gắn liền với những nhu cầu kinh tế của công nhân, nông dân, trí thức và của toàn xã hội. Đảng ta xác định cơ cấu kinh tế chung của nước ta là “Công- nông nghiệp- dịch vụ”. Trong điều kiện hiện nay, Đảng ta còn xác định “Từng bước phát triển kinh tế tri thức, từ đó ma tăng cường liên minh công- nông- trí thức” - Trên cơ sở kinh tế, các nhu cầu kinh tế phát triển dưới nhiều hình thức hợp tác, liên kết, giao lưu… trong sản xuất, lưu thông phân phối giữa công nhân, nông dân, trí thức; giữa các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, khoa học công nghệ và các lĩnh vực khác; giữa các địa bàn, vùng, miền dân cư trong cả nước, giữa nước ta và các nước khác. - Từng bước hình thành QHSX XHCN trong quá trình thực hiện liên minh. Việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải được thể hiện qua việc đa dạng và đổi mới các hình thức hợp tác kinh tế, hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình, trang trại, dịch vụ ở nông thôn. Trong quá trình hình thành QHSX phải trên cơ sở công hữu hóa các TLSX chủ yếu, kinh tế nhà nước vươn lên giữ vai trò chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nền tảng cho nền kinh tế cả nước, theo định hướng XHCN. - Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta còn thể hiện ở vai trò của Nhà nước. Nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện liên minh. Vai trò của Nhà nước đối với nông dân thể hiện qua chính sách khuyến nông, các tổ chức khuyến nông, các cơ sở kinh tế Nhà nước, Nhà nước có những chính sách hợp lý thể hiện quan hệ của mình với nông dân, tạo điều kiện cho liên minh phát triển. Nông nghiệp và nông thôn không chỉ là một ngành kinh tế, một khu vực kinh tế mà còn là một lĩnh vực mang ý nghĩa sinh thái xã hội. Đối với tri thức, Nhà nước cần phải đổi mới và hoàn chỉnh các luật, chính sách có liên quan trực tiếp đến sở hữu trí tuệ như chính sách phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, về bản quyền tác giả, về báo chí, xuất bản, về văn học nghệ thuật… Hướng các hoạt động của trí thức vào việc phục vụ công- nông, gắn với cơ sở sản xuất và đời sống toàn xã hội. 3. Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh: Liên minh về văn hóa, xã hội thể hiện qua các nội dung cụ thể sau đây: - Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái. - Nội dung xã hội mang ý nghĩa kinh tế và chính trị cấp thiết trước mắt của liên minh là tạo nhiều việc làm có hiệu quả, đồng thời kết hợp các giải pháp cứu trợ, hỗ trợ để xóa đói, giảm nghèo cho công nhân, nông dân và trí thức. - Đổi mới và thực hiện tốt các chính sách xã hội, đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ xã hội trong công nhân, nông dân, trí thức cũng là nội dung xã hội cần thiết, đồng thời còn mang ý nghĩa giáo dục truyền thống, đạo lý, lối sống… cho toàn xã hội và thế hệ mai sau. - Nâng cao dân trí là nội dung cơ bản, lâu dài. Trước mắt tập trung vào việc củng cố thành tựu xóa mù chữ, trước hết là đối với nông dân, nhất là ở miền núi. Nâng cao kiến thức về khoa học công nghệ, về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Khắc phục các tệ nạn xã hội, các hủ tục lạc hậu, các biểu hiện tiêu cực như tham nhũng, quan liêu. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. - Gắn quy hoạch phát triển công nghiệp, khoa học công nghệ với quy hoạch phát triển nông thôn, đô thị hóa, công nghiệp hóa nông thôn với kết cấu hạ tầng ngày càng thuận lợi và hiện đại.Xây dựng các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, các công trình phúc lợi công cộng 1 cách tương xứng, hợp lý ở các vùng nông thôn, đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Có như vậy, nội dung liên minh mới toàn diện và đạt mục tiêu của định hướng XHCN và mới làm cho công- nông- trí thức cũng như các vùng, miền, dân tộc xích lại gần nhau trên thực tế. Câu 7: Phân tích những đặc điểm cơ bản của văn hóa xã hội chủ nghĩa, liên hệ với xây dựng thực tiễn nền xây dựng văn hóa xã hội chủ nghĩa ở việt nam Khái niệm: - Qua những phân tích trên,có thể hiểu Văn hóa theo hai nghĩa Theo nghĩa rộng, văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống của con người Văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật chất. + Văn hóa tinh thần là tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con người. + Việc phân loại đó, tùy thuộc vào tiêu chí cơ bản mục đích của việc sáng tạo ra các giá trị văn hóa ấy là nhằm mục đích thỏa mãn loại nhu cầu tiêu dùng nào (vật chất hay tinh thần) của con người. Tuy nhiên, sự phân loại này cũng hoàn toàn có tính chất tương đối. Bởi chính các hoạt động tiêu dùng để thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người, tự nó đã mang tính chất tinh thần, tính nhân văn. Trong khi các hoạt động tiêu dùng thỏa mãn các nhu cầu tinh thần cũng được xem xét không tách rời và chịu sự chi phối, tác động của các nhu cầu tiêu dùng có tính vật chất. Với ý nghĩa ấy, chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu văn hóa XHCN chủ yếu với tính cách là các giá trị văn hóa tinh thần. Theo nghĩa hẹp, văn hóa là sản phẩm tinh thần của con người, văn hóa tinh thần bao gồm các lĩnh vực: văn hóa nghệ thuật, khoa học giáo dục, triết học, đạo đức, quan niệm thẩm mỹ. Theo UNESCO - Văn hóa là tổng thể các hệ thống giá trị bao gồm các mặt tình cảm, tri thức, vật chất, tinh thần của xã hội. Văn hóa không thuần túy bó hẹp trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật, mà còn bao hàm cả phương thức sống, những quyền cơ bản của con người, truyền thống, tín ngưỡng -   Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách sống động mọi mặt của cuộc sống, của mỗi cá nhân và các cộng đồng, đã diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mính” [Thông tin UNESCO, tháng 8/1998]. Nói tóm lại, nói tới văn hóa là nói tới con người, là nói tới việc phát huy những năng lực thuộc bản chất của con người nhằm hoàn thiện con người. Do đó, văn hóa có mặt trong mọi hoạt động của con người, trên mọi lĩnh vực hoạt động thực tiễn và sinh hoạt tinh thần của xã hội. K/n: + Nền văn hóa XHCN: là nền văn hóa được xây dựng và phát triển thỏa mãn nhu cầu không ngừng tăng nên về đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Trên nền văn hóa XHCN nhân dân lao động là chủ thể của quá trình sáng tạo và hưởng thụ mọi giá trị văn hóa. Theo nghĩa này, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa ra đời, tồn tại và phát triển là sự phủ định biện chứng đối với các nền văn hóa đã xuất hiện trong lịch sử, đối với các giá trị văn hóa và nền văn hóa của từng quốc gia dân tộc, mà ở đó diễn ra cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự ra đời, phát triển của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, theo đó, còn là sản phẩm của quá trình tiếp biến sáng tạo đối với các giá trị văn hóa chung, phổ biến của nhân loại hướng vào mục đích xây dựng, phát triển nền văn hóa xã hội chủ nghĩa và của chế độ xã hội chủ nghĩa nói chung… trong mỗi quốc gia dân tộc trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của quốc gia dân tộc đó. *Những đặc trưng văn hóa XHCN + Nền văn hóa XHCN có những đặc trưng cơ bản sau đây: Một là, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là nội dung cốt lõi, giữ vai trò chủ đạo, quyết định phương hướng phát triển nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác Lênin với tư cách là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, giữ vai trò chủ đạo, là nền tảng tư tưởng và quyết định phương hướng phát triển nội dung của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng, ý thức hệ là cốt lõi của mọi nền văn hoá. Do đó, giai cấp công nhân sau khi giành thắng lợi lật đổ sự thống trị của CNTB, thiết lập nhà nước XHCN, giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền thì ý thức hệ của nó trở thành nhân tố giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội – đó chính là chủ nghĩa Mác Lênin. Vai trò chủ đạo của chủ nghĩa Mác Lênin đối với nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là điều kiện quyết định đưa nhân dân lao động thực sự trở thành chủ thể tự giác và hưởng thụ văn hoá của xã hội mới. Đặc trưng này phản ánh bản chất giai cấp công nhân và tính đảng của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa  Hai là, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. Trong xã hội tư bản, giai cấp tư sản đã "tước đoạt" các giá trị văn hoá của quần chúng lao động, biến những giá trị văn hoá ấy thành tài sản của giai cấp thống trị. Chính điều này đã khiến cho quần chúng tách biệt với văn hoá. Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá không còn là đặc quyền, đặc lợi của thiểu số giai cấp bóc lột. Công cuộc cải biến cách mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội từng bước tạo ra tiền đề vật chất và tinh thần để đông đảo nhân dân tham gia xây dựng nền văn hoá mới và hưởng thụ những giá trị của nền văn hoá đó. Vì vậy, nền văn hoá xã hội chủ nghĩa mang tính nhân dân rộng rãi. Nền văn hóa XHCN là nền văn hóa của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Nền văn hóa XHCN là nền văn hóa của dân, do dân, vì dân.  Xây dựng nền văn hóa XHCN là một lĩnh vực trong sự nghiệp chung của giai cấp công nhân và cả dân tộc. Phát triển văn hóa phải gắn liền và phục vụ sự nghiệp xây dựng CNXH, phát triển con người vì lợi ích của nhân dân lao động. Nó phản ánh, bảo vệ và thống nhất biện chứng với nền kinh tế và nền dân chủ XHCN. Trong CNXH, nhân dân lao động không chỉ là người chủ tập thể của mọi giá trị văn hóa, mà còn là người chủ chân chính sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần, những giá trị đó nhằm mục đích hoàn thiện nhân cách con người, thúc đẩy họ vươn tới chân – thiện – mỹ. Trong XHCN, giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Công cuộc cải biến cách mạng toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội tạo tiền đề vật chất, tinh thần để đông đảo nhân dân tham gia xây dựng nền văn hóa mới. Nền văn hóa XHCN còn đảm bảo tính dân tộc sâu sắc; văn hóa XHCN một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho từng dân tộc bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc mình mặt khác cũng tiếp nhận những tinh hoa văn hóa thế giới làm cho nền văn hóa của dân tộc mình trở nên  phong phú, đa dạng hơn. Ngoài ra, các nước có nhiều dân tộc anh em cũng tạo điều kiện để văn hóa riêng của từng dân tộc được bảo tồn, thể hiện tính dân tộc trong nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Ba là, Văn hóa của bất kỳ dân tộc nào cũng phát triển theo quy luật kế thừa. Tính kế thừa là biểu hiện cụ thể của quy luật phủ định của phủ định trong văn hóa. Không kế thừa không có sự phát triển của văn hóa. Văn hóa XHCN mang tính kế thừa, tính kế thừa của mỗi dân tộc bao gồm kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời cũng bao hàm sự kế thừa đối với các giá trị văn hóa của các dân tộc khác trên thế giới thông qua giao lưu và hội nhập văn hóa. Sự kế thừa và sáng  tạo của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa luôn mang tính giai cấp công nhân với tư tưởng chính trị tiên tiến của thời đại và hướng tới nhân dân, dân tộc. Bốn là, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa được hình thành, phát triển một cách tự giác, đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua tổ chức Đảng Cộng sản, có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa không hình thành một cách tự phát mà được hình thành một cách tự giác, có sự quản lý của nhà nước và có sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công nhân. Trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa XHCN phải bảo đảm phạm vi hết sức rộng lớn cho sáng tạo cá nhân, cho tư tưởng và sức tưởng tượng, cho hình thức và nội dung phong phú, đa dạng… Đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lại các quan điểm lạc hậu, phản động phá hoại hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và sự nghiệp xây dựng CNXH.  Cần phải có sự lãnh đạo, định hướng của Đảng trong quá trình xây dựng văn hóa XHCN và đấu tranh chống lại những biểu hiện lạc hậu, lệch lạc trong văn hóa. Theo quan điểm của Đảng nền văn hóa mới mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và giữ vị trí, vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội. Trên cơ sở đó xây dựng và hình thành các mặt, các lĩnh vực, các yếu tố hợp thành đời sống tư tưởng, văn hóa ở nước ta như: nền khoa học, giáo dục, nền đạo đức, văn hóa nghệ thuật…phù hợp và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội mang lại đời sống văn hóa tinh thần phong phú, văn minh và lành mạnh cho nhân dân lao động. Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa ở nước là nền văn hóa của nhân dân, vì nhân dân, kế thừa các giá trị truyền thống, mang đậm bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại và chứa đựng các giá trị mới của Chủ nghĩa xã hội. Đề cương văn hóa Việt Nam (năm 1943) đã xác định phương hướng và đặc trưng của văn hóa Việt Nam là : Dân tộc, khoa học, đại chúng. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 3 (năm 1960) xác định: Cách mạng tư tưởng văn hóa là một trong ba cuộc cách mạng (cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học – kỹ thuật, cách mạng văn hóa – tư tưởng). Đại hội lần thức VII (năm 1991) Đảng ta lại xác định: “Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, là một trong sáu đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong quá trình đổi mới, hội nhập để giải quyết mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế, đồng thời tránh nguy cơ “diễn biến hòa bình”, “tụt hậu xa hơn về kinh tế”. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) ra đời thể hiện rõ nhận thức và quyết tâm, trách nhiệm của Đảng ta về việc xây dựng chấn hưng nền văn hóa nước nhà. Nghị quyết Trung ương 5 xác định năm quan điểm lớn chỉ đạo quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, đó là: -   Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. -   Nền văn hóa của chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. -    Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. -   Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức đóng vai trò quan trọng. -   Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, cần có ý thức cách mạng và sự kiên trì, thận trọng. Tại Đại hội lần thứ XI Đảng ta khẳng định: “phát triển văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển là thể hiện rõ nhất tính ưu việt của chế độ ta. Tăng đầu tư của Nhà nước, đồng thời tăng cường huy động các nguồn lực xã hội cho phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vừa kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội. Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính; xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; thực hiện bình đẳng giởi, chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Tiếp tục củng cố và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả… Như vậy, một lần nữa tại Đại hội lần thứ XI Đảng ta đã khẳng đinh rõ hơn về bản chất của nền văn hóa Việt Nam cũng như mục tiêu, động lực, nội dung xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Câu 8: Phân tích các quan điểm cơ bản của quá trình xây dựng và phát huy nhân tố con người ở Việt Nam; liên hệ với thực tiễn của quá trình xây dựng và phát huy nhân tố con người ở địa phương hiện nay. * Định nghĩa nhân tố con người và phát huy nhân tố con người. Nhân tố con người là toàn bộ những yếu tố nói lên vai trò còn tiềm ẩn hay tiềm lực, khả năng có thể huy động… của một cộng đồng người xác định, cụ thể vào các hoạt động thực tiễn nhằm hoàn thành các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội… thực hiện các mục tiêu cụ thể, xác định. Phát huy nhân tố con người là toàn bộ hoạt động của chủ thể lãnh đạo, quản lý trong quá trình đề ra, tổ chức thực hiện một hệ thống chính sách, cơ chế quản lý… nhằm bồi dưỡng nâng cao chất lượng nhân tố con người, khai thác sử dụng một cách hiệu quả vai trò của nhân tố con người vào việc thực hiện các nhiệm vụ của xã hội… Phát huy nhân tố con người là toàn bộ hoạt động tạo ra, phát triển các điều kiện, môi trường và hoàn cảnh… cho hoạt động tích cực sáng tạo của con người nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển xã hội theo hướng tiến bộ. * Quan điểm cơ bản của quá trình xây dựng và phát huy nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay. - Giải quyết đúng đắn, hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội được thể hiện là chính sách kinh tế phải hướng tới mục tiêu xã hội, tạo ra những điều kiện vật chất để giải quyết các vấn đề xã hội, tìm cho được động lực từ các nhân tố xã hội, lấy hiệu quả phục vụ xã hội là một trong những thước đo cao nhất để đánh giá kết quả của chính sách kinh tế. - Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là khai thác sử dụng mọi tiềm năng kinh tế trong các giai tầng xã hội, khai thác sử dụng mọi tiềm năng của con người. Phát triển kinh tế nhiều thành phần làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh, tiềm năng của con người được phát huy Phải nâng cao vị thế của người lao động trong quá trình sản xuất. Cần nhanh chóng khắc phục tình trạng tách người lao động ra khỏi tư liệu sản xuất. Thực hiện giao đất, giao rừng cho nông dân, tạo điều kiện cho mọi người dân làm chủ cụ thể những tư liệu sản xuất của toàn xã hội, ở mọi thành phần kinh tế. Huy động rộng rãi nhân dân đóng góp ý kiến xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của địa phương, đóng góp ý kiến xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, của đơn vị. Động viên mọi người dân bỏ vốn ra sản xuất kinh doanh, khai thác thế mạnh của các địa phương, phát triển ngành nghề truyền thống, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy trình độ tay nghề, năng lực quản lý kinh doanh của mỗi thành viên trong xã hội, để cùng với Nhà nước giải quyết những khó khăn của đất nước. - Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hướng vào nông nghiệp và nông thôn nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng, thu hút lao động nông nghiệp chuyển sang lao động công nghiệp, dịch vụ, tạo điều kiện cho người nông dân tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại để thay đổi dần lối suy nghĩ cách làm ăn theo hướng tiến bộ. Công nghiệp hóa còn tạo ra nhiều cơ hội để giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, tạo điều kiện để tăng cường khối liên minh công nông trí trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. - Phát triển khoa học và công nghệ gắn với phát triển giáo dục và đào tạo nhằm phát triển nhanh nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao, đi đôi vói sử dụng và phát huy nhân tố con người. Phát huy sáng kiến của người lao động, chăm lo đời sống vật chất tinh thần của họ, thực hiện phân phối công bằng, công khai, dân chủ. Tăng cường giáo dục đạo đức, khơi dậy lương tâm nghề nghiệp, nêu cao trách nhiệm của mỗi người trong hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Cần làm cho mọi người thấy được trách nhiệm của mình phải lao động nghiêm túc, có chất lượng, có hiệu quả, tạo ra hàng hoá tốt, nâng cao chất lượng dịch vụ. Điều đó vừa tạo điều kiện cho xã hội phát triển, vừa là điều cho hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả. Phê phán mạnh mẽ thói lười biếng, làm bừa, làm ẩu; ngăn chặn làm ăn phi pháp, phi đạo lý. - Kế thừa và phát huy các giá trị con người Việt Nam truyền thống, hình thành và xây dựng con người Việt Nam mới. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Đảng ta đã khẳng định, văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Văn hoá nghệ thuật nước ta trước đây đã phục vụ tốt cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; đã động viên được nhân dân tích cực tham gia trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Những năm đổi mới vừa qua văn học, nghệ thuật nước ta đã có những đổi mới về nội dung, hình thức, đã động viên được nhân dân tích cực tham gia sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước... * Liên hệ với thực tiễn xây dựng nhân tố con người ở địa phương hiện nay. Ở các địa phương hiện nay đã chú trọng xây dựng nhân tố con người phát triển ngày càng toàn diện, hướng tới chân - thiện - mỹ; xây dựng và phát huy lối sống “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”... Nhiều địa phương, đơn vị trong tỉnh chú trọng việc đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng đến xây dựng nền văn hóa tiên tiến… Thông qua phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, mừng thọ đã đạt những kết quả tích cực. Nếp sống mới đã và đang từng bước thấm sâu vào mọi mặt của đời sống, được đông đảo các tầng lớp nhân dân đồng tình hưởng ứng; nhận thức của người dân đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số về việc cưới, việc tang theo nếp sống mới đã có chuyển biến rõ rệt, giảm thiểu đáng kể những hủ tục lạc hậu. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” luôn có sức lan tỏa nhanh, được các cấp, các ngành và nhân dân tích cực hưởng ứng. Phong trào đã mang lại hiệu quả thiết thực, làm thay đổi bộ mặt nông thôn; kinh tế không ngừng phát triển, đời sống của nhân dân không ngừng được nâng cao, hiện nay toàn tỉnh không còn hộ đói, số hộ giàu tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể. Kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư, chính sách an sinh xã hội tiếp tục được phát triển; các thiết chế văn hóa được quan tâm xây dựng; tình làng nghĩa xóm được củng cố, việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội ngày càng tiến bộ. Xây dựng cảnh quan môi trường được xây dựng khang trang xanh - sạch - đẹp; nhân dân tự nguyện đóng góp tiền, của, ngày công lao động để cải tạo, nâng cấp các tuyến đường giao thông liên thôn, liên xóm và các công trình phúc lợi khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt, vui chơi, giải trí tại địa phương. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, ý thức của người dân về chấp hành các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ngày càng nâng cao. Hoạt động văn hóa, văn nghệ tiếp tục gắn với thực hiện chủ trương đưa thông tin về cơ sở theo chương trình mục tiêu quốc gia; trên cơ sở phát huy hiệu quả các thiết chế văn hóa đã làm chuyển biến tích cực các hoạt động phong trào. Hoạt động tuyên truyền, cổ động đã kịp thời chuyển tải các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân. Phong trào thể dục thể thao quần chúng được duy trì và đẩy mạnh. Ở các địa phương, số người tham gia thể dục thể thao ngày các nhiều. Tổ chức thành công nhiều giải thể thao cấp tỉnh, khu  vực và  toàn quốc, thu hút hàng chục ngàn lượt vận động viên tham gia. Câu 9: Phân tích cương lĩnh dân tộc của CNXHKH. Liên hệ chính sách dân tộc của đảng và nhà nước Việt Nam hiện nay 1.Khái niệm dân tộc: Dân tộc là một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người. Trước khi dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phỏ biến nhất. Một là: dân tộc chỉ mọt cộng đồngngười có mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù, Xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc. Với nghĩa này, dân tộc là bộ phận của quốc gia- Quốc gia có nhiều dân tộc. Hai là: dân tộc chỉ cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong cuộc suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, dân tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó- Quốc gia dân tộc. *Dưới góc độ môn chủ nghĩa xã hội khoa học dân tộc hiểu theo nghĩa thứ nhất. 2.Nội dung cơ bản: “Cương lĩnh dân tộc” Nội dung cơ bản: “Cương lĩnh dân tộc” có 3 vấn đề sau. Thứ nhất, Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là: Các dân tộc lớn hay nhỏ (kể cả bộ tộc và chủng tộc) không phân biệt trình độ cao thấp đèu có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau, không một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và đi áp bức bóc lột dân tộc khác. Trong các quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ như nhau, khắc phục chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá giữa các dân tộc do lịch sư để lại. Trên phạm vi giữa các quốc gia dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẵng giữa các dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ ngiã phân biệt chủng tộc, gắn với cuộc đáu tranh xây dựng một trật tự kinh tế thế giới mới, chống sự áp bức bóc lột của các nước tư bảnphát triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tê.Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc. Thứ hai: các dân tộc được quyền tự quyết định Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnhcủa dân tộc mình: quyền tự quyết định chế độ chính trị xã hội và con đường phát triển của dân tộc mình, quyền tự do độc lập về chính trị tách ra thành mổ quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc, quyền tự nguyện liên hiệp lại các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quốc gia-dân tộc. Khi giải quyết quyền tự quyết của mỗi dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân ủng hộ phong trào đấu tranh tiến bộ phù hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Kiên quyết đấu tranh chống những âm mưu thủ đoạn của các thế lực đế quốc, lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để cam thiệp vào công việc nội bộ của các nước. Thứ ba, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc đoàn kết lại. Đây là tư tưởng cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của Lênin: nó phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất  giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp. Nó đảm bảo cho dân tộc có đủ sực mạnh để giành thắng lợi. Nó quy định mục tiêu hướng tới; quy định đường lối, phương pháp xem xét cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc, đồng thời nó là yếu tố sức mạnh bảo đảm cho giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức chiến thắng kẻ thù của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:”Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” Đây là cơ sở vững chắc để đoàn kết nhân dân lao động trong các dân tộc để đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy , nội dung liên hiệp công nhân các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể. Tóm lại:”Cương lĩnh dân tộc” của chủ nghĩa Mác-Lênin (của Đảng cộng sản) là một bộ phận trong cương lĩnh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, là cơ sở lý luận của đường lối, chính sách dân tộc của Đảng cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa. *Liên hệ chính sách dân tộc của đảng và nhà nước Việt Nam hiện nay Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc và thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam cũng như dựa vào tình hình thế giới trong giai đoạn hiện nay,Đảng và Nhà nước ta ngay từ khi thành lập cho đến nay luôn luôn coi vấn đề dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, đồng bào các dân tộc đều là anh em ruột thịt, là con cháu một nhà, thương yêu đoàn kết giúp đỡ nhau là nghĩa vụ thiêng liêng của các dân tộc. Ngườicòn  khẳng  định:  “Đoàn  kết,  đoàn  kết,  đại  đoàn  kết.  Thành  công,  thành công, đại thành công”. Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước coi việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là nhiệm vụ có tính chiến lược nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, cũng như tiềm năng riêng của từng dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã nêu rõ: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng” Thực hiện  tốt  chính  sách  các  dân  tộc  bình  đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển sản xuất hàng hoá, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần đi đôi với “giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế – xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng”2, kiên quyết “Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc; chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc” *Những chính sách dân tộc cơ bản của Đảng và Nhà nước ta được biểu hiện cụ thể như sau: + Có chính sách phát triển kinh tế hàng hoá ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng để khắc phục sự chênh lệch về kinh tế, văn hoá, bảo đảm sự bình đẳng thực sự giữa các dân tộc. Đi đôi với phát huy tiềm lực kinh tế của các vùng dân tộc cần chú trọng bảo vệ môi trường thiên nhiên, ổn định đời sống của đồng bào, phát huy mối quan hệ tốt đẹp, gắn bó giữa đồng bào tại chỗ và đồng bào từ nơi khác đến, chống tư tưởng dân tộc hẹp hòi. + Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hoá, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của đồng bào các dân tộc; từng bước nâng cao dân trí đồng bào các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số ở vùng núi cao, hải đảo. Đây là vấn đề quan trọng và rất tế nh, cần lắng nghe ý kiến của đồng bào và có chính sách thật cụ thể nhằm làm cho nền văn hoá chung vừa hiện đại vừa đậm đà bản sắc dân tộc, ngày càng phong phú và rực rỡ. + Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh kiên cường của các dân tộc vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, nghiêm cấm mọi hành vi miệt thị và chia rẽ dân tộc. + Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; đồng thời giáo dục tinh thần đoàn kết hợp tác cho cán bộ các dân tộc. Bởi  vì, chỉ tinh thần đó mới phù hợp với đòi hỏi khách quan của công cuộc phát triển dân tộc và xây dựng đất nước. Trong công cuộc đó, không dân tộc nào có thể chỉ sử dụng đội ngũ cán bộ xuất thân từ dân tộc mình, ngược lại, cần sự  hỗ  trợ  lẫn  nhau  giữa  các  đội  ngũ  cán  bộ  thuộc  mọi  dân  tộc  trong  cả nước. Như vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước mang tính toàn diện, tổng hợp, quán xuyến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến mỗi dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc trong cả cộngđồng  quốc gia. Phát triển kinh tế – xã hội của các dân tộc là nền tảng để tăng cường đoàn kết và thực hiện quyền bình đẳng dân tộc, là cơ sở để từng bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc. Do đó, chính sách dân tộc còn mang tính cách mạng và tiến bộ, đồng thời còn mang tính nhân đạo, bởi vì, nó không bỏ sót bất cứ dân tộc nào, không cho phép bất cứ tư tưởng khinh miệt, kỳ thị, chia rẽ dân tộc; nó tôn trọng quyền làm chủ của mỗi con người và quyền tự quyết của các dân tộc. Mặt khác, nó còn nhằm phát huy nội lực của mỗi dân tộc kết hợp với sự giúp đỡ có hiệu quả của các dân tộc anh em trong cả nước. Nhận thức đúng đắn bản chất, nội dung, tính chất của chính sách dân tộc có ý nghĩa quyết định tới việc định hướng và đổi mới các biện pháp thực hiện chính sách dân tộc, làm cho chính sách dân tộc đi vào cuộc sống. Câu 10: Trình bầy những nguyên tắc cơ bản của CNXHKH trong giải quyết các vấn đề tôn giáo. Liên hệ chính sách tôn giáo của đảng và nhà nước Việt Nam hiện nay Tôn giáo là gì:  Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hoang đường và hư ảo hiện thực khách quan. Qua sự phản ánh của tôn giáo mọi sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội đều trở thành thần bí. - Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội xác định. Do đó xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội. *Những nguyên tắc cơ bản của CNXHKH trong giải quyết các vấn đề tôn giáo Tín ngưỡng, tôn giáo là những vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Do đó, những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải được xem xét, giải quyết hết sức thận trọng, cụ thể và chuẩn xác có tính nguyên tắc với những phương thức linh hoạt theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin. Giải quyết vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần dựa trên những nguyên tắc sau đây: . Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đó là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội Khi tín ngưỡng, tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân thì nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tôn trọng và bao đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của mọi công dân. Công dân có tôn giáo hay không có tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Cần phát huy những giá trị tích cực của tôn giáo, nghiêm cấm mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân. Thực hiện đoàn kết những người có tôn giáo với những người không có tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết những người theo tôn giáo với những người không theo tôn giáo, đoàn kết toàn dân tộc xây dựn và bảo vệ đất nước. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ cộng đồng vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong vấn đề tôn giáo. Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, khắc phục mặt này là việc làm thường xuyên, lâu dài. mặt chính trị là sự lợi dụng tôn giáo của những phần tử phản động nhằm chống lại sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động trong lĩnh vực tôn giáo là nhiệm vụ thường xuyên, vừa phải khẩn trương, kiên quyết, vừa phải thận trọng và phải có sách lược phù hợp với thực tế. Phải có quan điểm lịch sủ - cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò và sự tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội cũng khác nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực, các vấn đề của xã hội có sự khác biệt. Do đó, cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể khi xem xét, đánh giá và giải quyết những vấn ssề liên quan đến tôn giáo. “người Macxit phải biết chú ý đến toàn bộ tình hình cụ thể” – đó là điều mà Lênin đã từng nhắc nhở khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải có quan điểm và phương thức ứng xử phù hợp với từng trường hợp cụ thể khi giải quyết các vấn đề tôn giáo. *Liên hệ chính sách tôn giáo của đảng và nhà nước Việt Nam hiện nay a. Khái quát tình hình tôn giáo ở nước ta: Nước ta có nhiều tôn giáo khác nhau. Trong đó có 6 tôn giáo (Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo) với khoảng 20 triệu tín đồ. Đồng bào các tôn giáo trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong sự nghiệp xây dựng cnxh, nhiều tín đồ và các giáo sĩ đã nhận thức đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, làm tố cả “việc đạo” và “việc đời”. Trong những năm gần đây, sinh hoạt tôn giáo có phát triển nhiều hơn trước, số người tham gia các hoạt động tôn giáo tăng lên, các chùa đình, miếu mạo, nhà thờ … xây cất, tu sửa lại. Các hoạt động lễ hội mang màu sắc tôn giáo nhiều lên, mang nhiều màu sắc khác nhau, tất nhiên cũng xuất hiện nhiều hiện tượng mê tín dị đoan. Thực trạng trên, một mặt phản ánh nhu cầu tinh thần của quần chúng, mặt khác cũng nói lên điều không bình thường vì đó không chỉ có sự ính hoạt tôn giáo thuần túy, mà còn biểu hiện lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho mưu đồ chính trị và hoạt động mê tín dị đoan. b. Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay: Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I, Đảng ta khẳng định: “Tín ngưởng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tính ngưỡng theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật ... chống mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng đồng thơi chống việc lợi dụng tín ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”. Trên quan điểm đó, Đảng ta đã nêu ra chính sách tôn giáo cụ thể sau: - Thực hiện quyền tự do tín ngưỡng không tín ngưỡng của công dân trên cơ sở pháp luật. - Tích cực vận động đồng bào tôn giáo tăng cường đoàn kết toàn dân nhằm xây dựng một cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo” góp phần vào công cuộc đổi mới kt – xã hội. - Hướng các chức sắc giáo hội hoạt động tôn giáo theo đúng pháp luật, làm cho các giáo hội ngày càng gắn bó với dân tộc và sự nghiệp cách mạng toàn dân. - Luôn luôn cảnh giác, kịp thời chống lại những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cm của nhân dân. - Những quan hệ quốc tế và đối ngoại về tôn giáo hoặc có liên quan đến tôn giáo phải theo chế độ, chính sách chung về quan hệ quốc tế và đối ngoại của Nhà nước ta.