QUYỀN LAO ĐỘNG CHO CÁC NHÓM DỄ BỊ TỔN THƯƠNG THEO BỘ LUẬT
LAO ĐỘNG 2019 CỦA VIỆT NAM
Quyền lao động và việc làm là tổ hợp các quyền được được ghi nhận trong pháp luật quốc tế
về quyền con người, đặc biệt là Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền năm 1948, Công
ước quốc tế về các Quyền kinh tế, xã hội và văn hoá năm 1966 của Liên hiệp quốc và một số
công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Ở Việt Nam, quyền lao động và việc làm của
công dân đều được các bản Hiến pháp ghi nhận.
Điều 5 Bộ luật lao động 2019 xác định quyền và nghĩa vụ của người lao động.
1. Người lao động có các quyền sau đây:
a) Làm việc; tự do lựa chọn việc làm, nơi làm việc, nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình độ
nghề nghiệp; không bị phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, quấy rối tình dục tại nơi làm
việc;
b) Hưởng lương phù hợp với trình độ, kỹ năng nghề trên cơ sở thỏa thuận với người sử dụng
lao động; được bảo hộ lao động, làm việc trong điều kiện bảo đảm về an toàn, vệ sinh lao
động; nghỉ theo chế độ, nghỉ hằng năm có hưởng lương và được hưởng phúc lợi tập thể;
c) Thành lập, gia nhập, hoạt động trong tổ chức đại diện người lao động, tổ chức nghề nghiệp
và tổ chức khác theo quy định của pháp luật; yêu cầu và tham gia đối thoại, thực hiện quy chế
dân chủ, thương lượng tập thể với người sử dụng lao động và được tham vấn tại nơi làm việc
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình; tham gia quản lý theo nội quy của
người sử dụng lao động;
d) Từ chối làm việc nếu có nguy cơ rõ ràng đe dọa trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe trong
quá trình thực hiện công việc;
đ) Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;
e) Đình công;
g) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Điều 4. Chính sách của Nhà nước về lao động
1. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, người làm việc không
có quan hệ lao động; khuyến khích những thỏa thuận bảo đảm cho người lao động có điều
kiện thuận lợi hơn so với quy định của pháp luật về lao động.
2. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, quản lý lao động đúng
pháp luật, dân chủ, công bằng, văn minh và nâng cao trách nhiệm xã hội.
3. Tạo điều kiện thuận lợi đối với hoạt động tạo việc làm, tự tạo việc làm, dạy nghề và học
nghề để có việc làm; hoạt động sản xuất, kinh doanh thu hút nhiều lao động; áp dụng một số
quy định của Bộ luật này đối với người làm việc không có quan hệ lao động.
4. Có chính sách phát triển, phân bố nguồn nhân lực; nâng cao năng suất lao động; đào tạo,
bồi dưỡng và nâng cao trình độ, kỹ năng nghề cho người lao động; hỗ trợ duy trì, chuyển đổi
nghề nghiệp, việc làm cho người lao động; ưu đãi đối với người lao động có trình độ chuyên
môn, kỹ thuật cao đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp, sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
5. Có chính sách phát triển thị trường lao động, đa dạng các hình thức kết nối cung, cầu lao
động.
6. Thúc đẩy người lao động và người sử dụng lao động đối thoại, thương lượng tập thể, xây
dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định
7. Bảo đảm bình đẳng giới; quy định chế độ lao động và chính sách xã hội nhằm bảo vệ lao
động nữ, lao động là người khuyết tật, người lao động cao tuổi, lao động chưa thành niên.
Sự quan tâm của người dân tới các quyền về lao động được thể hiện qua sự tìm kiếm từ khóa
“luật lao động” trên Internet. Google trend cho thấy xu hướng tìm từ khóa “luật lao động”
trên các websites từ 18/6/2012 đến 18/6/2020 (Hình dưới). Tháng 5/2013 khi Bộ luật Lao
động 2012 có hiệu lực số người tìm kiếm từ khóa luật lao động đạt đỉnh điểm (100).
Hình 1. Xu hướng tìn kiếm từ khóa “luật lao động” trên Internet 2012-2020
Hình dưới cho thấy sự quan tâm của người dân tới luật lao động phân theo các tỉnh: Hòa Bình
có số lượt người tìm kiếm từ khóa “luật lao động” cao nhất (100), tiếp đó là Hà Nam, Cao
Bằng, Tuyên Quang, Điện Biên v.v…
Hình 2. Sự quan tâm của người dân tới luật lao động phân theo tỉnh
Vấn đề dễ bị tổn thương đã trở nên nổi bật giữa các nhà khoa học xã hội và các nhà hoạch
định chính sách vì tác động tiềm tàng của nó đối với hạnh phúc cá nhân và hiệu quả kinh tế,
đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Một chủ đề chung cho các định nghĩa về tính dễ bị tổn thương trong các ngành khoa học xã
hội dường như là tính dễ bị tổn thương liên quan đến cảm giác bất an, về tác hại tiềm tàng mà
mọi người phải cảm thấy cảnh giác - điều gì đó tồi tệ có thể xảy ra và gây tai họa.
Báo cáo phát triển thế giới 2000/01 xác định tính dễ bị tổn thương là khả năng một cú sốc sẽ
dẫn đến suy giảm hạnh phúc. Cùng với các định nghĩa này và áp dụng vào bối cảnh cụ thể
của việc làm, Ủy ban về việc làm dễ bị tổn thương TUC định nghĩa việc làm dễ bị tổn thương
là việc làm bấp bênh, khiến mọi người có nguy cơ đói nghèo liên tục và bất công dẫn đến mất
cân bằng quyền lực trong mối quan hệ giữa người lao động và người lao động.
ILO định nghĩa việc làm dễ bị tổn thương được coi là tổng số nhóm lao động tự làm việc và
lao động trong các hộ gia đình. Họ ít có khả năng sắp xếp công việc chính thức, và do đó
nhiều khả năng thiếu điều kiện làm việc đàng hoàng, an sinh xã hội đầy đủ và tiếng nói thông
qua đại diện hiệu quả của các tổ chức công đoàn và các tổ chức tương tự. Việc làm dễ bị tổn
thương thường được đặc trưng bởi thu nhập không đầy đủ, năng suất thấp và điều kiện làm
việc khó khăn làm suy yếu các quyền cơ bản của người lao động.
Hình 3. Status in employment (%) 2010-2020
120.0
100.0
17.2
16.1
15.6
14.9
14.3
13.7
40.6
39.9
39.5
39.7
39.8
39.9
2.9
2.8
2.0
2.0
2.0
2.1
35.7
39.3
41.2
42.8
43.4
43.9
44.4
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
19.4
18.5
17.5
17.2
21.4
43.3
44.0
45.1
45.5
40.8
3.4
2.9
2.7
2.5
2.1
33.9
34.7
34.8
34.9
2010
2011
2012
2013
80.0
60.0
40.0
20.0
0.0
Employees
Employers
Own-account workers
Contributing family workers
Source: ILO Data Explorer
Tại Việt Nam, tỉ lệ lao động làm công ăn lương đã tăng từ khoảng 34% lên 44,4% trong hơn
10 năm qua (2010-2020), tỉ lệ người lao động dễ bị tổn thương (tự làm việc và lao động hộ
gia đình) đã giảm đáng kể, từ khoảng 63% xuống 54% tổng số lao động kể từ năm 2010 tới
nay, theo tính toán của ILO dựa trên số liệu của Tổng cục thống kê.
Thế nhưng, đây chỉ là một mặt của bức tranh, khi 54% tỉ lệ người lao động dễ bị tổn thương
vẫn là con số rất lớn, tương đương khoảng 30,9 triệu người lao động đang làm những công
việc dễ bị tổn thương và đòi được ưu tiên tại Việt Nam.
“Đây là một chiều hướng đáng lo ngại. Nhiệm vụ tăng cường hệ thống an sinh xã hội và thúc
đẩy quá trình chuyển đổi từ các việc làm gia đình sang việc làm chính thức là rất cần thiết,
giúp hỗ trợ giảm nghèo, tăng cầu trong nước và tăng trưởng kinh tế”, Giám đốc ILO Việt
Nam Gyorgy Sziraczki nhận định.
Nếu như Bộ luật Lao động 2012 quy định tiêu chuẩn lao động; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm
của người lao động, người sử dụng lao động... trong quan hệ lao động và các quan hệ khác
liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động thì Bộ luật Lao động 2019 mở rộng thêm đối tượng
là người làm việc không có quan hệ lao động cùng một số tiêu chuẩn riêng.
BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2012
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Người lao động Việt Nam, người học
nghề, tập nghề và người lao động khác được
quy định tại Bộ luật này.
2. Người sử dụng lao động.
3. Người lao động nước ngoài làm việc tại
Việt Nam.
4. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên
quan trực tiếp đến quan hệ lao động.
BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2019
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Người lao động, người học nghề, người
tập nghề và người làm việc không có quan
hệ lao động.
2. Người sử dụng lao động.
3. Người lao động nước ngoài làm việc tại
Việt Nam.
4. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên
quan trực tiếp đến quan hệ lao động.
Đây là những thay đổi đáng chú ý trong khái niệm lao động và hợp đồng lao động mở rộng
phạm vi bảo vệ cho nhiều nhóm lao động khác nhau của thị trường .... Sự thay đổi trong khái
niệm về lao động và hợp đồng lao động nghe có vẻ rất nhỏ nhưng rất lớn, mở rộng phạm vi
cho hàng triệu lao động, đảm bảo rằng tất cả lao động có quan hệ lao động đều được bảo vệ,
ngay cả với những người không có quan hệ lao động - vốn là nhóm dễ bị tổn thương nhất,
cần được bảo vệ nhiều nhất.
Hình 4. Vulnerable employment (%) 2010-2020
80.0
70.0
60.0
69.8
62.7
56.2
69.5
62.4
56.0
69.2
62.5
56.4
69.1
62.7
56.7
68.2
62.2
56.7
2010
2011
2012
2013
2014
50.0
63.9
57.8
52.1
62.4
55.9
50.0
61.2
55.1
49.5
60.9
54.6
48.8
60.6
54.1
48.1
60.3
53.6
47.4
2015
2016
2017
2018
2019
2020
40.0
30.0
20.0
10.0
0.0
Total
Male
Female
Source: ILO Data Explorer
Việc làm dễ bị tổn thương ở Việt Nam đang suy giảm, nhờ xu hướng công nghiệp hóa và tăng
việc làm từ 62,7% năm 2010 xuống 53,6% vào năm 2020. Nhóm việc làm này thường không
có sự bảo vệ và thu nhập thường rất thấp. Tỷ lệ lao động dễ bị tổn thương của nữ cao hơn so
với tỷ lệ này của nam.
Nâng cao chất lượng việc làm trong nhóm việc làm này của thị trường lao động nên trở thành
ưu tiên của Chính phủ Việt Nam, nếu Việt Nam muốn đạt được mục tiêu hiện đại hóa kinh tế
xã hội.
Bộ luật Lao động sửa đổi 2019 cho phép thành lập các công đoàn độc lập, tức là không thuộc
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - công đoàn duy nhất hiện có. Quy định này góp phần
thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của việc đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động
trong quan hệ lao động, theo các Công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế ILO.
Tính dễ bị tổn thương là sự tồn tại và mức độ rủi ro tại nơi làm việc; sự nguy hiểm của các
điều kiện làm việc bất lợi có thể đe dọa đến sức khỏe của người lao động. Rủi ro có thể xuất
phát từ các thành phần công việc khác nhau và sự tích lũy của chúng càng làm trầm trọng
thêm dễ bị tổn thương của người lao động. Tính dễ bị tổn thương không bị giới hạn trong một
số loại lao động (ví dụ: người lao động khuyết tật, người lao động nhập cư, lao động trẻ em
hoặc người già, phụ nữ) và cũng không giới hạn ở một số khía cạnh liên quan đến phạm vi
công việc (ví dụ: sắp xếp công việc, tiền lương) hoặc đặc trưng công việc (làm việc trong khu
vực chính thức hoặc không chính thức, ngành sản xuất so với dịch vụ). Nó mở rộng cho mọi
lao động trong tất cả các loại công việc.
Theo luật quốc tế về quyền con người, các nhóm dễ bị tổn thương bao gồm người khuyết tật,
trẻ em, phụ nữ, người già, người nhiễm HIV, người di cư, người không quốc tịch, người lao
động nhập cư, dân tộc thiểu số, nạn nhân chiến tranh, bị tước đoạt tự do.
Bộ luật Lao động của Việt Nam quy định tiêu chuẩn lao động; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm
của người lao động, người sử dụng lao động, tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở, tổ
chức đại diện người sử dụng lao động trong quan hệ lao động và các quan hệ khác liên quan
trực tiếp đến quan hệ lao động; quản lý nhà nước về lao động, trong đó có những quy định
riêng đối với một số nhóm lao động cụ thể như lao động nữ, lao động chưa thành niên, lao
động là người khuyết tật, lao động giúp việc gia đình.
Lao động nữ.
Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nữ tham gia vào lực lượng lao động cao nhất thế
giới. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động trung bình giai đoạn 2010-2020 của lao động nữ là
72,9% thấp hơn so với tỷ lệ này của lao động nam 82,5%. Chênh lệch giữa 2 tỷ lệ này chỉ là
9,6 điểm phần trăm. Không thua kém nam giới, lao động nữ tham gia rất tích cực vào sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hình5. Labour force participation rate by sex (%) 20102020
85.0
80.0
75.0
70.0
65.0
81.4
76.3
71.4
82.0
77.2
72.6
81.9
77.3
72.8
83.0
78.3
73.7
83.1
78.4
73.9
Total
Source: ILO Data Explorer
83.3
78.2
73.3
82.6
77.7
72.9
Male
82.7
77.8
73.0
82.5
77.5
72.8
Female
82.4
77.4
72.7
82.2
77.3
72.6
82.5
77.6
72.9
Lao động nữ khi tham gia quan hệ lao động có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người lao
động, đồng thời, được pháp luật lao động dành cho những quy định áp dụng riêng. Nhà nước
bảo đảm quyền làm việc của phụ nữ bình đẳng về mọi mặt với nam giới, có chính sách khuyến
khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để người lao động nữ có việc làm thường xuyên,
áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn ngày, trọn
tuần, giao việc làm tại nhà.
Bộ luật lao động với Chương X đã dành những quy định riêng đối với lao động nữ. Các cơ
quan nhà nước được giao trách nhiệm mở rộng nhiều loại hình đào tạo thuận lợi cho lao động
nữ để ngoài nghề đang làm, người lao động nữ còn có thêm nghề dự phòng và để việc sử
dụng lao động nữ được dễ dàng, phù hợp với đặc điểm về cơ thể, sinh lí và chức năng làm
mẹ của phụ nữ. Nhà nước có chính sách ưu đãi, xét giảm thuế đối với những doanh nghiệp
sử dụng nhiều lao động nữ.
BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2012
Chương X. NHỮNG QUY ĐỊNH RIÊNG
ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ
Điều 153. Chính sách của Nhà nước đối với
lao động nữ
Điều 154. Nghĩa vụ của người sử dụng lao
động đối với lao động nữ.
Điều 155. Bảo vệ thai sản đối với lao động
nữ.
Điều 156. Quyền đơn phương chấm dứt, tạm
hoãn hợp đồng lao động của lao động nữ
mang thai.
Điều 157. Nghỉ thai sản
Điều 158. Bảo đảm việc làm cho lao động
nữ nghỉ thai sản
Điều 159. Trợ cấp khi nghỉ để chăm sóc con
ốm, khám thai, thực hiện các biện pháp tránh
thai.
Điều 160. Công việc không được sử dụng
lao động nữ
BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2019
Chương X. NHỮNG QUY ĐỊNH RIÊNG
ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ VÀ BẢO ĐẢM
BÌNH ĐẲNG GIỚI
Điều 135. Chính sách của Nhà nước như
Điều 153 Bộ luật 2012, làm rõ hơn quyền
bình đẳng của lao động nữ, lao động nam,
thực hiện các biện pháp bảo đảm bình đẳng
giới và phòng, chống quấy rối tình dục tại
nơi làm việc.
Điều 136. Trách nhiệm của người sử dụng
lao động - không có sửa đổi bổ sung mới.
Điều 137. Bảo vệ thai sản – không có thay
đổi lớn.
Điều 138. Quyền đơn phương chấm dứt, tạm
hoãn hợp đồng lao động của lao động nữ
mang thai – làm rõ trường hợp đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động hoặc tạm hoãn
thực hiện hợp đồng lao động.
Điều 139. Nghỉ thai sản bổ sung 5. Lao động
nam khi vợ sinh con, người lao động nhận
nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi, lao động
nữ mang thai hộ và người lao động là người
mẹ nhờ mang thai hộ được nghỉ việc hưởng
chế độ thai sản theo quy định của pháp luật
về bảo hiểm xã hội.
Điều 140. Bảo đảm việc làm cho lao động
nghỉ thai sản mà không bị cắt giảm tiền
lương và quyền, lợi ích so với trước khi nghỉ
thai sản.
Điều 141. Trợ cấp trong thời gian chăm sóc
con ốm đau, thai sản và thực hiện các biện
pháp tránh thai – không sửa đổi, bổ sung.
Điều 142. Nghề, công việc có ảnh hưởng
xấu tới chức năng sinh sản và nuôi con quy
định 2. Người sử dụng lao động phải cung
cấp đầy đủ thông tin về tính chất nguy hiểm,
nguy cơ, yêu cầu của công việc để người lao
động lựa chọn và phải bảo đảm điều kiện an
toàn, vệ sinh lao động cho người lao động
theo quy định khi sử dụng họ làm công việc
thuộc danh mục quy định tại khoản 1 Điều
này.
Người sử dụng lao động phải ưu tiên nhận phụ nữ vào làm việc khi người đó đủ tiêu chuẩn
tuyển chọn công việc phù hợp với cả nam và nữ mà doanh nghiệp đang cần. Người sử dụng
lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao
động nữ vì lí do kết hôn, có thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Trong thời gian
có thai, nghỉ thai sản, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, người lao động nữ được tạm hoãn việc
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, kéo dài thời hiệu xem xét xử lí kỉ luật...
Người sử dụng lao động không được sử dụng người lao động nữ làm những công việc nặng
nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh đẻ
và nuôi con, theo danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành.
Pháp luật cấm người sử dụng lao động ban hành những quy định không có lợi hơn những quy
định của pháp luật cho lao động nữ; cấm những hành vi làm hạn chế khả năng được tiếp nhận
lao động nữ vào làm việc; cấm mạt sát, đánh đập... xúc phạm đến danh dự và nhân phẩm của
người lao động nữ trong khi làm việc. Trong trường hợp người sử dụng lao động vi phạm các
điều cấm quy định trên, tuỳ theo tính chất, mức độ vì phạm sẽ bị xử lí theo quy định của pháp
luật.
Mặc dù Việt Nam xếp hạng cao trên toàn cầu về tỷ lệ tham gia lao động nữ, nhưng sẽ cần
nhiều hơn để mang lại cơ hội việc làm bình đẳng cho phụ nữ. Những thách thức mà phụ nữ
Việt Nam phải đối mặt bao gồm quan niệm xã hội và văn hóa về phụ nữ là người nội trợ.
Hình 6. Tỷ lệ lao đông nữ so với tổng số lao động (%)
2010-2019
56.0
54.0
52.0
50.0
53.6
51.6
48.4
51.7
48.3
51.6
51.5
48.4
48.5
51.3
48.7
51.6
48.4
51.6
48.4
48.0
48.1
52.3
51.9
48.1
47.7
46.4
46.0
44.0
42.0
Male
Source: ILO Data Explorer
51.9
Female
Tỷ lệ lao động nữ trên tổng số lao động chiếm khoảng 48%, thấp hơn tỷ lệ này của nam 4
điểm phần trăm. Điều đó chứng tỏ vẫn còn sự bất bình đẳng về giới giữa nam và nữ về cơ
hội việc làm.
Hình 7. Mean weekly hours actually worked per
employed person by sex 2007-2019
46.0
44.9
44.0
42.0
42.9
43.1
41.5 41.5
40.0
38.0
0.0
43.6 43.9
-1.8
36.0
-2.1
40.6
-2.3
-2.4
34.0
42.5 42.1 42.6
42.2 41.6 41.8 42.4
41.1
-0.5
-1.0
-1.5
40.1 40.2 -2.0
39.8 -2.0
39.6 39.1 39.1 39.6
38.3
-2.4
-2.5
-2.6 -2.5 -2.7
-2.7
-2.8
-2.8
-3.0
Total
Male
Female
Gender gap
Source: ILO Data Explorer
Thời gian làm việc thực tế của lao động nữ thường thấp hơn của nam giới. Giờ làm việc thực
tế trong tuần của lao động nữ trung bình 40,2 giờ trong khi của lao động nam là 42,6 giờ.
Khoảng cách chênh lệch giờ làm việc giữa nữ và nam có xu hướng giảm rồi lại tăng.
Hình 8. Female share of employment in managerial
positions (%) 2000-2019
30.0
25.0
23.4 23.3 23.9 24.4 22.9
22.2
20.0
15.0
27.2 27.3
24.9
20.5 20.8
19.1 19.3 19.9
16.8
25.8 26.1
16.3
10.0
5.0
0.0
Source: ILO Data Explorer
Tỷ lệ phụ nữ làm việc trong các vị trí quản lý có xu hướng gia tăng nhưng vẫn còn thấp: năm
2000 là 16,8% năm 2019 tăng lên 24,9%. Tỷ lệ phụ nữ đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo chính
trị từ trung ương đến địa phương trong những năm qua chỉ tăng rất chậm, tới nay mới đạt mức
khoảng một phần tư. Có thể nói rằng, sự mất cân đối về tỷ lệ phụ nữ trong các cơ quan nhà
nước then chốt có thể ảnh hưởng tới khả năng Chính phủ Việt Nam thực sự hoạch định được
các chính sách đáp ứng giới. Các doanh nghiệp cũng không nằm ngoài xu hướng này.
Hình 9. Mean nominal monthly earnings of employees by
sex (VND) 2007-2019
8000000
7000000
6000000
5000000
4000000
3000000
2000000
1000000
0
900000
2019, 7002465
800000
2019, 6216681
700000
600000
500000
400000
300000
200000
100000
0
2007 2009 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019
Total
Male
Female
Wage gap
Source: ILO Data Explorer
Thu nhập bình quân tháng của lao động nữ cũng thấp hơn so với của nam giới. Năm 2019 thu
nhập danh nghĩa bình quân tháng của nữ là 6.216.681 đồng trong khi của lao động nam là
7.002.465 đồng. Khoảng cách thu nhập giữa nam và nữ có xu hướng ngày một gia tăng.
2007, 81.5
90.0
80.0
70.0
60.0
50.0
40.0
30.0
20.0
10.0
0.0
Hình 10. Informal employment as a percent of
employment by sex (%) 2007-2019
2007, 82.4
2007
2009
2.0
1.0
2019, 63.70.0
-1.0
-2.0
-3.0
-4.0
-5.0
-6.0
-7.0
-8.0
2019
2019, 70.5
2013
Total
2014
Male
2015
2016
Female
2017
2018
Gender gap
Source: ILO Data Explorer
Tỷ lệ lao đông nữ trong khu vực phi chính thức giảm từ 82,4% năm 2007 xuống 63,7% năm
2019. Cách biệt giữa tỷ lệ này giữa lao động nữ và nam có xu hướng giảm, từ cao hơn vào
năm 2007 đến thấp hơn vào năm 2019. Tuy nhiên tỷ lệ 63,7% nữ làm việc trong khu vực phi
chính thức vẫn là cao mà đây là loại hình việc làm được coi là dễ bị tổn thương nhất. Chế độ
hỗ trợ thai sản với vai trò đảm bảo vai trò sinh sản của phụ nữ không đồng nghĩa với việc
mang lại cơ hội bình đẳng cho họ, mà cũng không phải ai cũng được hưởng chế độ này.
Những phụ nữ thuộc đối tượng được tham gia chương trình bảo hiểm xã hội theo luật định
được hưởng chế độ hỗ trợ thai sản khá tốt. Ngược lại, phụ nữ không thuộc đối tượng được
bảo vệ bởi chương trình bắt buộc bao gồm cả người lao động phi chính thức thì không được
hưởng chế độ hỗ trợ thai sản.
Bộ Luật Lao động mới đã có những bước đi đúng hướng. Bộ Luật Lao động đã bỏ các điều
khoản ngăn cản phụ nữ tham gia một số công việc nhất định và đã có những sắp xếp để dần
dần thu hẹp khoảng cách tuổi nghỉ hưu giữa phụ nữ và nam giới mặc dù không hoàn toàn xóa
bỏ khoảng cách này. Thái độ bảo vệ này thể hiện sự nhạy cảm giới và cần thiết, xét đến những
trách nhiệm gấp đôi mà phụ nữ phải gánh vác. Tuy vậy, còn quá ít hành động được thực hiện
nhằm giảm gánh nặng cho phụ nữ ngay từ đầu để đảm bảo rằng khoảng thời gian 35 giờ mỗi
tuần cần dành để làm việc nhà được chia đều giữa phụ nữ và nam giới, và loại bỏ tư tưởng
phụ nữ được sinh ra với thiên chức chăm sóc gia đình. Đây là tư tưởng lỗi thời đối với một
quốc gia ngày càng tham gia nhiều hơn vào quá trình hiện đại hóa kinh tế xã hội và việc đầu
tư trọn vẹn vào công tác đánh giá tương lai việc làm sẽ mang lại tiến bộ bao trùm và bền
vững.
Phụ nữ Việt Nam đã và đang giữ một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Bộ Luật Lao
động sửa đổi hướng tới đảm bảo rằng phụ nữ có thể nhận được thành quả xứng đáng cho
những đóng góp của mình, thông qua giải quyết các vấn đề liên quan đến bình đẳng giới và
phân biệt đối xử tại nơi làm việc. Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động: là bảo đảm bình
đẳng trong các quy định tỷ lệ nam, nữ được tuyển dụng lao động; đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao năng lực cho lao động nữ; người sử dụng lao động tạo điều kiện vệ sinh an toàn lao động
cho lao động nữ làm việc trong một số ngành, nghề nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với
các chất độc hại.
Các điều khoản trong Bộ Luật Lao động sửa đổi cũng giúp giải quyết vấn đề quấy rối tình
dục tại nơi làm việc, chênh lệch tiền lương giữa nam và nữ, bảo vệ tốt hơn người lao động nữ
trong quá trình mang thai và nuôi con nhỏ. Nhiều nghề hoặc công việc lúc trước cấm sử dụng
lao động nữ với mục đích bảo vệ họ thì giờ đây đã mở cửa với nữ giới và cho họ quyền lựa
chọn làm hoặc không làm.
Bộ Luật Lao động sửa đổi cũng cho phép người lao động tại doanh nghiệp thành lập tổ chức
đại diện do họ lựa chọn, điều này có thể mang lại nhiều lợi ích cho phụ nữ.
Trong khi nhiều điểm của Bộ Luật Lao động có tác động như nhau tới mọi người lao động –
cả nữ và nam, thì một số điểm mang yếu tố giới, trong đó, nhiều điểm đã được cải thiện theo
hướng phù hợp hơn với các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động, bao gồm chống phân
biệt đối xử trong lao động việc làm. Tuy nhiên vẫn còn một khoảng cách lớn để người lao
động nữ tại Việt Nam – cũng như tại nhiều quốc gia khác – có thể bình đẳng với nam giới.
Gần một nửa lực lượng lao động của Việt Nam là nữ giới. Đã đến lúc cần tận dụng những
tiềm năng của họ trong công việc cũng như đền đáp cho họ một cách xứng đáng.
Lao động là người giúp việc gia đình.
Các cuộc Khảo sát mức sống hộ gia đình ở Việt Nam cho thấy phụ nữ vẫn phải gánh vác phần
nhiều việc nhà so với nam giới. Và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Trên thế giới, phụ nữ
tiếp tục là người phải làm nhiều công việc gia đình không được trả lương. Trong bối cảnh đó,
người giúp việc gia đình, phần lớn là phụ nữ, đóng một vai trò quan trọng không chỉ trong
mỗi gia đình của chúng ta, mà còn đối với nền kinh tế và thị trường lao động. Bản thân người
giúp việc gia đình cũng tham gia vào thị trường lao động. Họ đồng thời giúp những người
phụ nữ khác trong độ tuổi lao động có thể làm những công việc đáng ra họ không thể đảm
đương nổi nếu vẫn phải gánh vác toàn bộ trách nhiệm gia đình.
Bộ luật Lao động 2012 và 2019 đều xác định lao động là người giúp việc gia đình là người
lao động làm thường xuyên các công việc trong gia đình của một hoặc nhiều hộ gia đình. Các
công việc trong gia đình bao gồm công việc nội trợ, quản gia, chăm sóc trẻ em, chăm sóc
người bệnh, chăm sóc người già, lái xe, làm vườn và các công việc khác cho hộ gia đình
nhưng không liên quan đến hoạt động thương mại. Người lao động sống tại gia đình người
sử dụng lao động; người lao động không sống tại gia đình người sử dụng lao động. Đây là
một trong những lao động chiếm tỷ trọng khá cao và ngày càng có xu hướng gia tăng. Lao
động là người giúp việc thuộc nhóm đối tượng lao động dễ bị tổn thương theo định nghĩa của
ILO về lao động dễ bị tổn thương.
Việt Nam đã có một bước tiến lớn trong việc tăng cường bảo vệ về pháp lý cho người giúp
việc gia đình thông qua Bộ Luật Lao động và các Nghị định. Các văn bản này có quy định rõ
điều khoản về hợp đồng lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, thời gian làm
việc, thời gian nghỉ ngơi, an toàn vệ sinh lao động, kỷ luật lao động và trách nhiệm giải quyết
các vấn đề lao động cho những người lao động trong nhóm này.
BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2012
Mục 5. LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI GIÚP
VIỆC GIA ĐÌNH
Điều 179. Lao động là người giúp việc gia
đình
Điều 180. Hợp đồng lao động đối với lao
động là người giúp việc gia đình
Điều 181. Nghĩa vụ của người sử dụng lao
động
BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2019
Mục 5. LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI GIÚP
VIỆC GIA ĐÌNH
Điều 161. Lao động là người giúp việc gia
đình
Điều 162. Hợp đồng lao động đối với lao
động là người giúp việc gia đình
Điều 163. Nghĩa vụ của người sử dụng lao
động khi sử dụng lao động là người giúp
việc gia đình
Điều 182. Nghĩa vụ của lao động là người Điều 164. Nghĩa vụ của lao động là người
giúp việc gia đình
giúp việc gia đình
Điều 183. Những hành vi bị nghiêm cấm đối Điều 165. Các hành vi bị nghiêm cấm đối
với người sử dụng lao động
với người sử dụng lao động
Việt Nam cũng đang xem xét phê chuẩn Công ước về Lao động giúp việc gia đình của ILO
(Công ước 189) vào năm 2020. Tuy nhiên, trên thực tế phần lớn người sử dụng lao động cũng
như người lao động chưa hiểu hết hoặc chưa nắm hết những quy định của pháp luật đối với
lao động.
Lao động giúp việc gia đình mà hầu hết là phụ nữ thực hiện, đóng một vai trò quan trọng
không chỉ trong mỗi gia đình cần họ, mà còn đối với nền kinh tế và thị trường lao động. Bởi,
khi tham gia vào thị trường lao động họ đồng thời giúp những người phụ nữ khác có thể vừa
làm tốt những công việc ở cơ quan, doanh nghiệp, bệnh viện, trường học…vừa yên tâm việc
nhà – những công việc đáng ra những phụ nữ đó không thể đảm đương nổi nếu vẫn phải gánh
vác toàn bộ trách nhiệm gia đình. Bên cạnh đó, giúp việc gia đình còn mang lại việc làm, thu
nhập tương đối ổn định cho nhiều lao động nữ ở nông thôn có trình độ học vấn thấp, không
có nghề nghiệp ổn định. Mặc dù công việc giúp việc gia đình có thu nhập cao hơn làm nông
nghiệp và một số công việc tự do khác song vẫn không đáp ứng được mức sống cơ bản vì
việc làm phi chính thức hiếm khi đi kèm với tiền lương đầy đủ, điều kiện làm việc tốt và an
sinh xã hội. Bên cạnh đó, định kiến xã hội về nghề và lao động làm giúp việc gia đình vẫn
còn khá nặng nề.
Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Việt Nam dự kiến sẽ có khoảng 350.000 lao
động giúp việc gia đình vào năm 2020. Không chỉ ở trong nước, nhiều người còn nhận thấy
ngày càng nhiều những cơ hội đi làm giúp việc ở nước ngoài tại nhiều điểm đến khác nhau,
như Đài Loan và Ma Cao (Trung Quốc), đảo Síp, Malaysia hoặc Ả-rập Xê-út.
Hình11. Contributing family workers by sex 2010-2020
(thousands)
14000
12000
10000
11633
9837
9538
9159
9200
8000
6000
6368
6145
5831
9372
8330
8039
7746
5811
5697
5503
5325
5143
3277
2990
2943
2827
2714
2603
2015
2016
2017
2018
2019
2020
6096
5831
8802
8640
6944
4000
2000
3469
3393
3328
3369
2010
2011
2012
2013
4689
0
Male
2014
Female
Total
Source: ILO Data Explorer
Theo thống kê của Trung tâm Nghiên cứu Giới, Gia đình và Phát triển cộng đồng (GFCD),
lao động giúp việc gia đình tại Việt Nam có tới trên 98% là phụ nữ, trong đó khoảng 75% là
người di cư (từ địa phương khác tới) và có tới trên 96% lao động giúp việc chưa qua đào tạo.
Lao động giúp việc cũng có trình độ học vấn khá thấp (77% lao động chỉ học từ tiểu học đến
THCS). Đây là nguyên nhân chính dẫn đến việc đa số người giúp việc gia đình chưa tiếp cận
được với các thông tin pháp luật nên chưa hiểu hết về quyền lợi của mình. Kết quả là, có đến
97% lao động giúp việc không tham gia bảo hiểm xã hội; trên 91% không có lương hưu hoặc
trợ cấp thường xuyên và chỉ có 19,5% có bảo hiểm y tế.
Các khảo sát liên quan đến nhóm lao động này cũng đã chỉ ra gần 90% lao động giúp việc gia
đình đang làm việc mà không ký kết hợp đồng lao động bằng văn bản với người sử dụng lao
động, nên không có cơ sở để đòi quyền lợi.
Theo bà Ngô Thị Ngọc Anh, Giám đốc Giám đốc GFCD, định kiến giúp việc gia đình tại Việt
Nam còn nặng nề, chưa xem đây là nghề. Bản thân người lao động giúp việc gia đình không
muốn ký hợp đồng lao động do thiếu hiểu biết, thiếu thông tin.
Về phía chủ sử dụng lao động không muốn ký vì cho rằng các quy định hiện giờ chỉ tập trung
lợi ích của người lao động và không muốn tăng chi phí cho bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế...
Do không hiểu luật, không ký hợp đồng lao động nên giúp việc gia đình có nguy cơ phải đối
mặt với những rủi ro lớn trong quá trình làm việc như: bị phân biệt đối xử, bị nợ lương, bị
đánh đập, bị cưỡng bức… hay các hình thức lạm dụng khác.
Theo một báo cáo khác của ILO, hơn 40% người lao động giúp việc gia đình trên thế giới
không được hưởng mức lương tối thiểu cho dù lương tối thiểu được áp dụng cho những nhóm
lao động khác ở nước họ. Mặc dù tình hình ở Việt Nam khá hơn, nhưng vẫn tồn tại sự khác
biệt lớn – chỉ 86,5% người lao động giúp việc gia đình được nhận lương tương đương mức
lương tối thiểu trở lên, trong khi tỷ lệ này trên tổng số người lao động nói chung ở mức 95,2%.
Lao động giúp việc gia đình (LĐGVGĐ) đã trở thành lực lượng lao động không thể thiếu
trong xã hội công nghiệp, họ là những người có đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế
xã hội của đất nước. Việc công nhận GVGĐ là một nghề là tất yếu trong mối quan hệ lao
động đã được đề cập trong Bộ luật Lao động năm 2012 và năm 2019. Song để thực hiện các
quy định này cần có những hướng dẫn cụ thể, chi tiết hơn. Bên cạnh đó, công tác quản lý
LĐGVGĐ còn hạn chế. Các cơ sở giới thiệu việc làm còn khá mờ nhạt trong vai trò cung ứng
nguồn LĐGVGĐ có chất lượng cho thị trường lao động. Hiện nay, kênh tìm việc làm cho
người LĐGVGĐ cũng như kênh tuyển dụng người LĐGVGĐ của các gia đình vẫn là sự giới
thiệu của người thân quen, họ hàng. Việc thực thi và đảm bảo quyền của người LĐGVGĐ
còn là một khoảng trống khá lớn. Vẫn còn một bộ phận không nhỏ người giúp việc phải làm
việc không đúng với thỏa thuận ban đầu. Người sử dụng lao động cần chi trả một phần tiền
để người giúp việc tự mua bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Nhưng đây là một thách thức rất
lớn. Nếu không có hướng dẫn cụ thể thì người giúp việc vẫn phải chịu thiệt thòi về quyền lợi
của mình.
Dĩ nhiên, Chính phủ cần nỗ lực hơn nữa để bảo vệ tốt hơn những người lao động giúp việc
gia đình. Nhưng đó cũng là trách nhiệm của chúng ta, của mỗi công dân và “người sử dụng
lao động” giúp việc gia đình.
Lao động trẻ em
Lao động trẻ em đề cập đến vấn đề sử dụng trẻ em trong bất kỳ công việc gì mà tước đi thời
thơ ấu của trẻ, cản trở việc đi học thường xuyên, và gây tác hại về tinh thần, thể chất, xã hội
hay đạo đức, nguy hiểm và độc hại. Nhiều tổ chức quốc tế coi lao động trẻ em là bóc lột. Pháp
luật tại nhiều nước trên thế giới cấm lao động trẻ em. Không phải mọi dạng lao động trẻ em
đều là không thể chấp nhận, vì vậy cần xác định mức độ nào thì lao động trẻ em là không thể
chấp nhận được (ví dụ lao động trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm) và mức độ
nào vẫn có thể chấp nhận được. Một vấn đề của lao động tẻ em đó là trẻ khó tiếp cận với
trường học và giáo dục. Cần quan tâm đúng mức đến các chương trình giáo dục bổ sung thể
tiếp cận được khi không lao động.
Việt Nam đã đặt nền tảng cho hành động hiệu quả và bền vững chống lại lao động trẻ em.
Vào tháng 11 năm 2000, Chính phủ Việt Nam đã phê chuẩn Công ước về lao động trẻ em tồi
tệ nhất năm 1999 (số 182) và năm 2003, Chính phủ đã phê chuẩn Công ước về tuổi tối thiểu,
năm 1973 (số 138). Các phê chuẩn đã báo hiệu cho cộng đồng quốc tế Việt Nam Cam kết và
quyết tâm khẩn trương thực hiện các biện pháp giới hạn thời gian để loại bỏ các hình thức lao
động trẻ em tồi tệ nhất trong nước. Hiến pháp nghiêm cấm việc làm của lao động trẻ em dưới
độ tuổi tối thiểu. Độ tuổi lao động tối thiểu là 15 tuổi.
Việt Nam hiện có tới 1,75 triệu lao động là trẻ em, chiếm gần 10% trẻ em trên cả nước, một
con số đáng giật mình mà Bộ Lao động, thương binh và xã hội vừa công bố. Trẻ em bắt đầu
làm việc sớm phổ biến ở tuổi từ 12 cho đến dưới 17 tuổi, tuy nhiên vẫn có tới hơn 15% lao
động trẻ em ở nhóm 5 - 11 tuổi, đây là nhóm trẻ em nhỏ tuổi cần phải loại bỏ mọi hình thức
được coi là cưỡng bức hoặc không kiểm soát được1.
Tổ chức Lao động Quốc tế; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Tổng cục thống kê, Điều tra quốc gia về
Lao động trẻ em 2012 - Các kết quả chính, Hà Nội, tháng 3/2014.
1
Hình 12. Children in employment aged 7-14 by sex
16
14
12
10
13.5
12.5
13
11.7
10.1
8
10.9
6
4
2
0
2011
2012
Female (% of female children)
Male (% of male children)
Total (% of children)
Source: https://data.worldbank.org/
Tỷ lệ lao động trẻ em là trẻ em trai trên tổng số trẻ em trai tuổi từ 7 đến 14 là 11,7% và tỷ lệ
này đối với trẻ em gái là 10,1%, tỷ lệ trẻ em trai thuộc nhóm lao động trẻ em cao hơn trong
khi tỷ lệ trẻ em gái thuộc nhóm lao động trẻ em giảm nhẹ.
Hình 13. Child employment aged 7-14 by economically
active 2012
16.2
5.9
77.1
Child employment in agriculture (%)
Child employment in manufacturing (%)
Child employment in services (%)
Source: https://data.worldbank.org/
Đa số lao động trẻ em làm việc trong nhóm ngành nông nghiệp chiếm hơn 77% lao động trẻ
em; lao động trẻ em làm việc trong nhóm ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 16,2% và lao
động trẻ em làm việc trong nhóm ngành dịch vụ chiếm 5,9%. Đa số lao động trẻ em làm việc
trong khu vực nông nghiệp, là khu vực thâm dụng lao động và tạo ra giá trị thặng thấp hơn so
với khu vực công nghiệp và khu vực dịch vụ. Do vậy, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
nông thôn, nông nghiệp có vai trò rất lớn trong việc giảm qui mô và mức độ trầm trọng của
lao động trẻ em.
Sự mở cửa của nền kinh tế thị trường cũng đã đem đến những hình thức và khuôn mẫu mới
gây tổn thương tới trẻ em Việt Nam. Nhiều em nhỏ phải chịu nguy cơ bị bóc lột lao động và
lạm dụng tình dục. Trẻ em và thanh, thiếu niên làm việc ở khu vực kinh tế phi chính thức,
trong môi trường lao động không được quản lý và điều chỉnh. Trong hoàn cảnh này, trẻ em
không được giáo dục đầy đủ, phát triển một cách lành mạnh. Dân di cư, đồng bào dân tộc
thiểu số và trẻ em gái là nhóm cần được quan tâm đặc biệt đến.
Hình 14. Children in employment aged 7-14 by wage and unpaid
2011-2012
100.0
87.489.285.5
Children in employment, wage
workers (%)
84.382.486.7
80.0
60.0
Children in employment, wage
workers, male (%)
40.0
Children in employment, wage
workers, female (%)
20.0
9.7 7.811.6
Children in employment, unpaid
family workers (%)
7.5 7.8 7.3
Children in employment, unpaid
family workers, male (%)
0.0
2011
2012
Source: https://data.worldbank.org/
Trên 84% lao động trẻ em là lao động hộ gia đình không được hưởng tiền công, tiền lương,
đóng góp vào thu nhập chung của hộ. Do vậy các biện pháp phòng ngừa, can thiệp về lao
động trẻ em cần hướng vào đối tượng chính là các hộ gia đình và cha mẹ trẻ em.
Hình 15. Children in employment aged 7-14 by work 2012
Children in employment, work only, male (%)
20.9
Children in employment, work only, female (%)
16.6
Children in employment, work only (%)
19.0
Children in employment, study and work, male (%)
79.1
Children in employment, study and work, female (%)
83.4
Children in employment, study and work (%)
Children in employment, self-employed, male (%)
Children in employment, self-employed, female (%)
Children in employment, self-employed (%)
81.0
9.9
6.0
8.2
Source: https://data.worldbank.org/
Bộ luật lao động quy định cấm nhận trẻ em dưới 15 tuổi vào làm việc trong các cơ sở sử dụng
lao động, trừ một số nghề và công việc do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định,
Đối với những nghề và công việc được nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc, học nghề,
tập nghề thì việc nhận và sử dụng phải có sự đồng ý và theo dõi của cha mẹ hoặc người đỡ
đầu. Người lao động trẻ em dưới 15 tuổi được giảm thời giờ làm việc tiêu chuẩn; không phải
làm thêm giờ hoặc làm đêm trừ một số ngành nghề và công việc do pháp luật quy định; được
người sử dụng lao động sắp xếp vào những công việc phù hợp với sức khoẻ, được quan tâm,
chăm sóc về các mặt lao động, tiền lương, sức khoẻ, học tập trong quá trình lao động.
BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2012
Chương XI. NHỮNG QUY ĐỊNH RIÊNG
ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH
NIÊN VÀ MỘT SỐ LOẠI LAO ĐỘNG
KHÁC
Mục 1. LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN
Điều 161. Lao động chưa thành niên quy
định là người lao động dưới 18 tuổi.
BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2019
Chương XI. NHỮNG QUY ĐỊNH RIÊNG
ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH
NIÊN VÀ MỘT SỐ LAO ĐỘNG KHÁC
Mục 1. LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN
Điều 143. Lao động chưa thành niên chia
theo các độ tuổi: 1. chưa đủ 18 tuổi, 2. từ đủ
15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, 3. từ đủ 13 tuổi
đến chưa đủ 15 tuổi, 4. chưa đủ 13 tuổi.
Điều 163. Nguyên tắc sử dụng lao động là Điều 144. Nguyên tắc sử dụng lao động
người chưa thành niên
chưa thành niên + Điều 146. Thời giờ làm
việc của người chưa thành niên.
Điều 162. Sử dụng người lao động chưa Điều 145. Sử dụng người chưa đủ 15 tuổi
thành niên + Điều 164. Sử dụng lao động làm việc.
dưới 15 tuổi.
Điều 165. Các công việc và nơi làm việc Điều 147. Công việc và nơi làm việc cấm sử
cấm sử dụng lao động là người chưa thành dụng người lao động từ đủ 15 tuổi đến chưa
niên.
đủ 18 tuổi
Sử dụng lao động chưa thành niên bị cấm trong các công việc sau: mang, vác các vật nặng
vượt quá thể trạng của người chưa thành niên; sản xuất và sử dụng, vận chuyển các hoá chất,
khí gas, chất nổ; bảo trì, bảo dưỡng thiết bị, máy móc; phá dỡ công trình xây dựng; nấu, thổi,
đúc, cán, dập, và hàn kim loại; lặn biển, đánh bắt cá xa bờ; và các công việc khác gây tổn hại
cho sức khoẻ, an toàn hoặc đạo đức của người chưa thành niên. Tuyển dụng lao động chưa
thành niên bị cấm làm việc ở nơi sau đây: dưới nước, dưới lòng đất, trong hang động, trong
đường hầm; công trường xây dựng; cơ sở giết mổ gia súc; sòng bạc, quán bar, vũ trường,
phòng hát karaoke, khách sạn, nhà nghỉ, phòng tắm hơi và phòng xoa bóp; và nơi làm việc
khác gây tổn hại đến sức khoẻ, sự an toàn hoặc đạo đức của người chưa thành niên.
Thời gian làm việc của người lao động chưa thành niên (dưới 15 tuổi) không được vượt quá
04 giờ trong một ngày và 20 giờ trong một tuần. Không sử dụng lao động chưa thành niên
làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm. Không được sử dụng lao động chưa thành niên để sản
xuất và kinh doanh cồn, rượu, bia, thuốc lá, các chất tác động đến tinh thần và các chất gây
nghiện khác. Người sử dụng lao động phải tạo cơ hội để người lao động chưa thành niên và
người dưới 15 tuổi tham gia lao động và được học tập văn hóa.
Mặc dù vấn đề lao động trẻ em đã được quan tâm và được luật hóa bằng các văn bản pháp
luật của nhà nước cũng như thể hiện sự quyết tâm chính trị cao trên trường quốc tế, tuy nhiên
vấn đề lao động trẻ em vẫn còn khá cao ở Việt Nam, từ góc độ chính sách cần phải quan tâm
đến một số vấn đề cụ thể như sau:
a. Tiếp tục rà soát số lao động trẻ em hiện đang làm các công việc mà các công việc này có
các công đoạn, điều kiện rất dễ CÓ NGUY CƠ thuộc nhóm cấm sử dụng lao động trẻ em
hoặc điều kiện lao động có hại, để bảo việc các em tốt hơn.
b. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách về bảo vệ, chăm sóc trẻ em cập nhật với
điều kiện thực tế của quốc gia và hội nhập luật pháp quốc tế trong công tác bảo vệ, chăm sóc
trẻ em nói chung và vấn đề lao động trẻ em nói riêng. Tăng cường chế tài xử lý các trường
hợp vi phạm sử dụng lao động trẻ em trái với quy định của pháp luật.
c. Lồng ghép giải quyết vấn đề lao động trẻ em với các chính sách phát triển kinh tế và xã hội
(phát triển nông thôn, hiện đại hóa nông nghiệp, phát triển kinh tế hàng hóa, giáo dục, đào
tạo nghề, giảm nghèo) trong khu vực nông thôn để thực hiện xóa bỏ lao động trẻ em trên diện
rộng.
d. Xây dựng các chương trình quốc gia về bảo vệ trẻ em, thực hiện hệ thống bảo vệ trẻ em đa
cấp: phòng ngừa, can thiệp và hỗ trợ giải quyết đặc biệt đối với trẻ em làm việc trong khu vực
công nghiệp và dịch vụ, trẻ em thành thị, trẻ em dưới 11 tuổi. Tăng cường mối liên kết giữa
trẻ em - gia đình - nhà trường - cán bộ xã hội để bảo vệ trẻ em.
e. Đẩy mạnh công tác lãnh đạo, chỉ đạo, truyền thông vận động phòng chống sử dụng lao
động trẻ em; huy động được sự tham gia mạnh mẽ của các cơ quan nhà nước, các tổ chức
chính trị xã hội, cộng đồng và cá nhân có liên quan vào việc ngăn ngừa và xoá bỏ lao động
trẻ em.
Hiện nay, Việt Nam đang triển khai xây dựng một Kế hoạch hành động quốc gia giai đoạn
2019-2025 để thực hiện mục tiêu xóa bỏ lao động cưỡng bức, nô lệ thời hiện đại, buôn bán
người và lao động trẻ em, theo đó, tập trung vào giải quyết vấn đề lao động trẻ em trên các
lĩnh vực như phòng ngừa lao động trẻ em trên lĩnh vực nông nghiệp, phòng ngừa lao động trẻ
em liên quan đến kinh tế và chuỗi cung ứng, phòng ngừa di cư buôn bán trẻ em vì mục đích
bóc lột kinh tế, phòng ngừa lao động trẻ em liên quan đến lĩnh vực giáo dục.
Lao động là người khuyết tật
Lao động là người khuyết tật là lao động của người bị khiếm khuyết trong một hay một số
chức năng tâm sinh lý của cơ thể làm suy giảm khả năng lao động nhưng vẫn còn sức lao
động và có nhu cầu làm việc. Quyền lao động và việc làm của người khuyết tật cũng tiếp tục
được nhấn mạnh trong Công ước về Quyền của người khuyết tật năm 2006 (Điều 27). Người
lao động tàn tật có khả năng lao động thấp hơn mức bình thường, được ưu đãi làm những
ngành nghề phù hợp và được hưởng các ưu đãi khác trong hoạt động lao động như trợ giúp
về vốn , đào tạo v.v, và được miễn giảm các nghĩa vụ của người lao động.
Nguồn: Điều tra quốc gia người khuyết tật năm 2016
Kết quả điều tra quốc gia người khuyết tật năm 2016 cho thấy 7,06% dân số từ 2 tuổi trở lên
là người khuyết tật (hơn 6.199.048 người khuyết tật), trong đó tỷ lệ khuyết tật trẻ em từ 2 đến
17 tuổi là 2,83% (663.964 trẻ em) và người lớn là 8,67% (5.535.084 người từ 18 tuổi trở lên).
Nếu kết hợp với kết quả của Tổng rà soát NKT đang thực tế thường trú tại các trung tâm thì
tỷ lệ khuyết tật của dân số từ 2 tuổi trở lên là 7,09% (6.225.519 người khuyết tật), trong đó
trẻ em 2-17 tuổi là 2,83% (671.659 trẻ em) và người lớn là 8,67% (5.553.860 người). Tổng
số người khuyết tật trên thực tế sẽ cao hơn số liệu suy rộng từ kết quả điều tra trên đây.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, ước tính cả nước có 7,2 triệu người khuyết tật, trong đó
có khỏang 5 triệu người trong độ tuổi lao động (15 - 60 tuổi) và gần 1,5 triệu người trong độ
tuổi lao động còn khả năng lao động. Vấn đề khuyết tật có liên quan chặt chẽ đến tình trạng
việc làm, đa số người khuyết tật rất khó khăn để tiếp cận với thị trường lao động do những
thiếu hụt trầm trọng về vốn nhân lực, vốn tài chính và vốn xã hội xuất phát từ nguyên nhân
khuyết tật. Vì vậy, số đông người khuyết tật không có việc làm, không có nguồn thu nhập ổn
định, bản thân và gia đình rơi vào tình trạng nghèo khó, cuộc sống khó khăn, phải trông chờ
nhiều vào sự trợ giúp của nhà nước, của cộng đồng2.
Có sự chênh lệch rất lớn giữa người khuyết tật và người không khuyết tật trong tham gia lực
lượng lao động. Có thể thấy trong Bảng 9.1, có 83,20% người không khuyết tật tham gia lực
lượng lao động, so với chỉ 32,76% người khuyết tật.
Nguồn: Điều tra quốc gia người khuyết tật năm 2016
Người khuyết tật có nhu cầu làm việc để có thu nhập và sống độc lập, nhưng chỉ chưa đầy
1/3 người khuyết tật có việc làm. Người khuyết tật ít có cơ hội việc làm so với người không
khuyết tật. Tỷ lệ người khuyết tật 15 tuổi trở lên có việc làm là 31,7%, tỷ lệ này ở người
không khuyết tật cao gấp 2,5 lần, lên tới 82,4%.
Nguồn: Điều tra quốc gia người khuyết tật năm 2016
ỦY BAN QUỐC GIA VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT VIỆT NAM, BÁO CÁO NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC
HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT LAO ĐỘNG VÀ CÁC VĂN BẢN CÓ LIÊN QUAN VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI
KHUYẾT TẬT, Hà nội, tháng 1/2018.
2
Hình 9.1 cho thấy lý do tại sao người khuyết tật không làm việc hoặc cũng không tìm kiếm
việc làm. Có 3 lý do nổi bật là, họ còn nhỏ, đang đi học hoặc già yếu (60,40%), do bị khuyết
tật (14,07%), hoặc do không có khả năng làm việc (19,48%). Không may là với 2 lý do sau,
bản chất của rào cản đối với việc làm không rõ ràng. “Bị khuyết tật” có thể ngăn cản tìm kiếm
việc làm bởi phân biệt đối xử, bởi công trình giao thông không hỗ trợ người khuyết tật, hay
nơi làm việc không có lối đi cho người khuyết tật, hoặc một số rào cản khác.
Nguồn: Điều tra quốc gia người khuyết tật năm 2016
Thái độ kỳ thị đối với người khuyết tật là một rào cản nghiêm trọng đối với sự tham gia vào
xã hội của họ. Chỉ có 42,7% người trả lời cho rằng trẻ khuyết tật nên đi học với trẻ em khác.
Khoảng 55% số người trả lời tin là nhà tuyển dụng không muốn thuê lao động là người khuyết
tật.
Nguồn: Điều tra quốc gia người khuyết tật năm 2016
Người khuyết tật gặp nhiều khó khăn và các rào cản. Nhà nước, gia đình và xã hội có trách
nhiệm tạo môi trường thuận tiện để người khuyết tật nỗ lực vươn lên làm chủ cuộc sống.
Bộ luật Lao động có những quy định thể hiện sự tôn trọng, bảo đảm quyền lao động và việc
làm đối với người khuyết tật - nhóm lớn nhất trong số các nhóm dễ bị tổn thương. Bộ Luật
Lao động nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi năm 2012, tại Mục 4, chương
XI đã có các quy định về lao động là người khuyết tật, bao gồm: Chính sách nhà nước đối với
lao động là người khuyết tật (Điều 176); quy định vể sử dụng lao động là người khuyết tật
(Điều 177) và Quy định các hành vi bị cấm khi sử dụng lao động là người khuyết tật (Điều
178). Những quy định này nhằm tạo điều kiện và hỗ trợ lao động là người khuyết tật tham gia
thị trường lao động, bảo vệ lao động là người khuyết tật trong quá trình lao động và các lợi
ích chính đáng của lao động là người khuyết tật
BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2012
Mục 4. LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT
TẬT
Điều 176. Chính sách của Nhà nước đối với
lao động là người khuyết tật
Điều 177. Sử dụng lao động là người khuyết
tật
Điều 178. Các hành vi bị cấm khi sử dụng
lao động là người khuyết tật
BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2019
Mục 4. LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT
TẬT
Điều 158. Chính sách của Nhà nước đối với
lao động là người khuyết tật
Điều 159. Sử dụng lao động là người khuyết
tật
Điều 160. Các hành vi bị nghiêm cấm khi sử
dụng lao động là người khuyết tật –bổ sung
trừ trường hợp người lao động là người
khuyết tật đồng ý.
Cùng với Luật Người khuyết tật, Bộ luật Lao động, Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều
văn bản quy phạm pháp luật như Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Việc làm, Luật Xây dựng,
Luật Giao thông đường bộ, Luật Bảo hiểm y tế, Luật An toàn, vệ sinh lao động... ghi nhận,
bảo đảm quyền lao động và việc làm của người khuyết tật. Nhà nước cũng đã triển khai những
đề án, kế hoạch nhằm trợ giúp người khuyết tật trong tiếp cận việc làm.
Trên cơ sở sự ghi nhận của pháp luật về quyền lao động và việc làm của người khuyết tật,
Nhà nước bảo trợ quyền lao động, tự tạo việc làm của người khuyết tật, khuyến khích và ưu
đãi người sử dụng lao động (SDLĐ) tạo ra việc làm và nhận người lao động (NLĐ) khuyết
tật vào làm việc. Giải quyết việc làm cho người khuyết tật không chỉ là trách nhiệm của Nhà
nước mà là của toàn xã hội. Pháp luật quy định các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp,
cá nhân không được từ chối tuyển dụng người khuyết tật có đủ điều kiện vào làm việc hoặc
hạn chế cơ hội làm việc của họ bằng cách đặt ra tiêu chuẩn tuyển dụng trái pháp luật. Cơ
quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân SDLĐ là người khuyết tật có trách nhiệm bố trí,
sắp xếp công việc, đảm bảo môi trường và điều kiện làm việc phù hợp đối với người khuyết
tật. Người SDLĐ phải tham khảo ý kiến lao động là người khuyết tật khi quyết định những
vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của họ. Tổ chức giới thiệu việc làm có trách nhiệm tư
vấn, giới thiệu việc làm cho người khuyết tật. Bên cạnh đó, các cơ sở sản xuất kinh doanh sử
dụng từ 30% trở lên tổng số lao động là người khuyết tật được hỗ trợ cải tạo điều kiện, môi
trường làm việc phù hợp, được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, được vay vốn với lãi suất
ưu đãi theo dự án phát triển sản xuất, kinh doanh; được ưu tiên cho thuê đất, mặt bằng, mặt
nước và miễn, giảm tiền thuê đất, mặt bằng, mặt nước phục vụ sản xuất kinh doanh theo tỷ lệ
lao động là người khuyết tật, mức độ khuyết tật của NLĐ và quy mô doanh nghiệp. Quỹ việc
làm cho người khuyết tật được thành lập để cấp hỗ trợ cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh
nhận người khuyết tật làm việc, điều kiện vay, thời hạn vay, mức vốn vay và mức lãi suất vay
thực hiện theo quy định hiện hành áp dụng đối với dự án vay vốn giải quyết việc làm. Pháp
luật còn quy định doanh nghiệp có sử dụng từ 10 người khuyết tật làm việc ổn định sẽ được
hưởng ưu đãi về cải tạo điều kiện, môi trường làm việc; ưu đãi về vay vốn ưu đãi theo dự án
phát triển kinh doanh từ ngân hàng chính sách xã hội. Các cơ quan hành chính, đơn vị sự
nghiệp sử dụng từ 10 người khuyết tật làm việc ổn định được hưởng chính sách về cải tạo
điều kiện, môi trường làm việc.
Khi tham gia vào quan hệ lao động, người khuyết tật cũng có các quyền, nghĩa vụ như mọi
người trong tất cả các lĩnh vực. Tuy nhiên, xuất phát từ tính chất đặc thù của lao động là người
khuyết tật, pháp luật quy định NLĐ là người khuyết tật có đủ 12 tháng làm việc cho một
người SDLĐ thì được nghỉ 14 ngày làm việc (12 ngày làm việc đối với lao động không khuyết
tật)[6]. Họ không phải làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất
độc hại theo danh mục công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm do Bộ Lao động, Thương
binh và Xã hội quy định. Người khuyết tật bị suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên
không phải làm thêm giờ, làm việc ban đêm. Ngoài ra, hàng năm người SDLĐ phải tổ chức
khám sức khỏe định kỳ cho NLĐ là người khuyết tật ít nhất 6 tháng một lần.
Triển khai các quy định của Bộ luật lao động về lao động là người khuyết tật, nhiều doanh
nghiệp sử dụng lao động là người khuyết tật đã tiếp cận được với nguồn vốn vay ưu đãi, được
miễn thuế thu nhâp doanh nghiệp theo quy định; ưu tiên cho thuê đất, mặt bằng, mặt nước
phục vụ sản xuất kinh doanh; nhiều người khuyết tật và gia đình đã tiếp cận được vốn vay ưu
đãi để tạo việc làm; được hỗ trợ bao tiêu sản phẩm …nhờ vậy trong những năm gần đây số
người khuyết tật có việc làm mới hàng năm đã gia tăng đáng kể, theo báo cáo của các địa
phương ước tính mỗi năm trên cả nước có hàng ngàn người khuyết tật có việc làm mới với
thu nhập ổn định.
Trên thực tế hiện nay, việc bảo đảm quyền lao động và việc làm của người khuyết tật tuy đã
có nhiều tiến bộ nhưng do những nguyên nhân khác nhau mà tình trạng người khuyết tật
không có việc làm vẫn còn phổ biến, phân biệt đối xử với lao động là người khuyết tật vẫn
còn diễn ra ở nhiều nơi. Phần lớn công việc của lao động là người khuyết tật đang đảm nhiệm
là những vị trí không thuộc diện chính thức của thị trường lao động, không đòi hỏi trình độ
chuyên môn, tay nghề cao, có thu nhập thấp, khó đảm bảo cuộc sống, ít hoặc không có cơ hội
thăng tiến. Chính sách pháp luật bảo đảm quyền lao động và việc làm của người khuyết tật
vẫn còn những điểm chưa thực sự hợp lý. Chẳng hạn, đơn vị sử dụng ổn định từ 10 lao động
là người khuyết tật trở lên được hỗ trợ, còn đơn vị SDLĐ là người khuyết tật làm việc ổn định
dưới con số đó lại không được hưởng bất kỳ sự ưu đãi nào. Khoảng cách giữa 10 lao động là
người khuyết tật và 30% tổng số lao động là người khuyết tật quá xa trong một số trường hợp.
Có doanh nghiệp sử dụng số lượng lớn lao động là người khuyết tật nhưng chưa đạt tỷ lệ 30%
không được hưởng chính sách ưu đãi, trong khi đó có doanh nghiệp SDLĐ là người khuyết
tật ít hơn nhưng do tổng số lao động trong doanh nghiệp ít nên vẫn chiểm tỷ lệ 30% thì lại
được hưởng chính sách ưu đãi. Điều này sẽ thiếu công bằng đối với các cơ sở, doanh nghiệp,
đơn vị và không khuyến khích được người SDLĐ trong việc SDLĐ là người khuyết tật. Một
số quy định mang tính hỗ trợ, ưu đãi đối với người khuyết tật có thể gây phản tác dụng, tạo
nên rào cản đối với chính người khuyết tật. Những quy định riêng biệt đối với lao động là
người khuyết tật làm cho người SDLĐ có xu hướng tâm lý né tránh SDLĐ là người khuyết
tật.
Như vậy từ thực tế tổ chức triển khai các quy định của Bộ luật lao động đối với lao động là
người khuyết tật có thể dễ dàng nhận thấy hiệu quả của chính sách chưa đạt được như mong
muốn, chưa tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy khả năng tham gia thị trường lao động của lao
động là người khuyết tật. Các quy định của Bộ luật lao động về lao động là người khuyết tật
còn tồn tại những bất cập, khó khăn triển khai trong thực tế đòi hỏi có sự điều chỉnh, sửa đổi,
bổ sung phù hợp để có thể tổ chức triển khai có hiệu quả trong thực tiễn, thúc đẩy sự tham
gia thị trường lao động của lao động là người khuyết tật. Việc này đặt ra yêu cầu nghiên cứu,
tìm hiểu, phân tích các nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, đưa ra cơ sở lý luận và thực
tiễn góp phần hoàn thiện chính sách lao động đối với lao động là người khuyết tật và các giải
pháp tăng cường sự tham gia thị trường lao động của lao động là người khuyết tật.