Academia.eduAcademia.edu
QUYỀN LAO ĐỘNG CHO CÁC NHÓM DỄ BỊ TỔN THƯƠNG THEO BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2019 CỦA VIỆT NAM Quyền lao động và việc làm là tổ hợp các quyền được được ghi nhận trong pháp luật quốc tế về quyền con người, đặc biệt là Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế về các Quyền kinh tế, xã hội và văn hoá năm 1966 của Liên hiệp quốc và một số công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Ở Việt Nam, quyền lao động và việc làm của công dân đều được các bản Hiến pháp ghi nhận. Điều 5 Bộ luật lao động 2019 xác định quyền và nghĩa vụ của người lao động. 1. Người lao động có các quyền sau đây: a) Làm việc; tự do lựa chọn việc làm, nơi làm việc, nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp; không bị phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, quấy rối tình dục tại nơi làm việc; b) Hưởng lương phù hợp với trình độ, kỹ năng nghề trên cơ sở thỏa thuận với người sử dụng lao động; được bảo hộ lao động, làm việc trong điều kiện bảo đảm về an toàn, vệ sinh lao động; nghỉ theo chế độ, nghỉ hằng năm có hưởng lương và được hưởng phúc lợi tập thể; c) Thành lập, gia nhập, hoạt động trong tổ chức đại diện người lao động, tổ chức nghề nghiệp và tổ chức khác theo quy định của pháp luật; yêu cầu và tham gia đối thoại, thực hiện quy chế dân chủ, thương lượng tập thể với người sử dụng lao động và được tham vấn tại nơi làm việc để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình; tham gia quản lý theo nội quy của người sử dụng lao động; d) Từ chối làm việc nếu có nguy cơ rõ ràng đe dọa trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe trong quá trình thực hiện công việc; đ) Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; e) Đình công; g) Các quyền khác theo quy định của pháp luật. Điều 4. Chính sách của Nhà nước về lao động 1. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, người làm việc không có quan hệ lao động; khuyến khích những thỏa thuận bảo đảm cho người lao động có điều kiện thuận lợi hơn so với quy định của pháp luật về lao động. 2. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, quản lý lao động đúng pháp luật, dân chủ, công bằng, văn minh và nâng cao trách nhiệm xã hội. 3. Tạo điều kiện thuận lợi đối với hoạt động tạo việc làm, tự tạo việc làm, dạy nghề và học nghề để có việc làm; hoạt động sản xuất, kinh doanh thu hút nhiều lao động; áp dụng một số quy định của Bộ luật này đối với người làm việc không có quan hệ lao động. 4. Có chính sách phát triển, phân bố nguồn nhân lực; nâng cao năng suất lao động; đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ, kỹ năng nghề cho người lao động; hỗ trợ duy trì, chuyển đổi nghề nghiệp, việc làm cho người lao động; ưu đãi đối với người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 5. Có chính sách phát triển thị trường lao động, đa dạng các hình thức kết nối cung, cầu lao động. 6. Thúc đẩy người lao động và người sử dụng lao động đối thoại, thương lượng tập thể, xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định 7. Bảo đảm bình đẳng giới; quy định chế độ lao động và chính sách xã hội nhằm bảo vệ lao động nữ, lao động là người khuyết tật, người lao động cao tuổi, lao động chưa thành niên. Sự quan tâm của người dân tới các quyền về lao động được thể hiện qua sự tìm kiếm từ khóa “luật lao động” trên Internet. Google trend cho thấy xu hướng tìm từ khóa “luật lao động” trên các websites từ 18/6/2012 đến 18/6/2020 (Hình dưới). Tháng 5/2013 khi Bộ luật Lao động 2012 có hiệu lực số người tìm kiếm từ khóa luật lao động đạt đỉnh điểm (100). Hình 1. Xu hướng tìn kiếm từ khóa “luật lao động” trên Internet 2012-2020 Hình dưới cho thấy sự quan tâm của người dân tới luật lao động phân theo các tỉnh: Hòa Bình có số lượt người tìm kiếm từ khóa “luật lao động” cao nhất (100), tiếp đó là Hà Nam, Cao Bằng, Tuyên Quang, Điện Biên v.v… Hình 2. Sự quan tâm của người dân tới luật lao động phân theo tỉnh Vấn đề dễ bị tổn thương đã trở nên nổi bật giữa các nhà khoa học xã hội và các nhà hoạch định chính sách vì tác động tiềm tàng của nó đối với hạnh phúc cá nhân và hiệu quả kinh tế, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Một chủ đề chung cho các định nghĩa về tính dễ bị tổn thương trong các ngành khoa học xã hội dường như là tính dễ bị tổn thương liên quan đến cảm giác bất an, về tác hại tiềm tàng mà mọi người phải cảm thấy cảnh giác - điều gì đó tồi tệ có thể xảy ra và gây tai họa. Báo cáo phát triển thế giới 2000/01 xác định tính dễ bị tổn thương là khả năng một cú sốc sẽ dẫn đến suy giảm hạnh phúc. Cùng với các định nghĩa này và áp dụng vào bối cảnh cụ thể của việc làm, Ủy ban về việc làm dễ bị tổn thương TUC định nghĩa việc làm dễ bị tổn thương là việc làm bấp bênh, khiến mọi người có nguy cơ đói nghèo liên tục và bất công dẫn đến mất cân bằng quyền lực trong mối quan hệ giữa người lao động và người lao động. ILO định nghĩa việc làm dễ bị tổn thương được coi là tổng số nhóm lao động tự làm việc và lao động trong các hộ gia đình. Họ ít có khả năng sắp xếp công việc chính thức, và do đó nhiều khả năng thiếu điều kiện làm việc đàng hoàng, an sinh xã hội đầy đủ và tiếng nói thông qua đại diện hiệu quả của các tổ chức công đoàn và các tổ chức tương tự. Việc làm dễ bị tổn thương thường được đặc trưng bởi thu nhập không đầy đủ, năng suất thấp và điều kiện làm việc khó khăn làm suy yếu các quyền cơ bản của người lao động. Hình 3. Status in employment (%) 2010-2020 120.0 100.0 17.2 16.1 15.6 14.9 14.3 13.7 40.6 39.9 39.5 39.7 39.8 39.9 2.9 2.8 2.0 2.0 2.0 2.1 35.7 39.3 41.2 42.8 43.4 43.9 44.4 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 19.4 18.5 17.5 17.2 21.4 43.3 44.0 45.1 45.5 40.8 3.4 2.9 2.7 2.5 2.1 33.9 34.7 34.8 34.9 2010 2011 2012 2013 80.0 60.0 40.0 20.0 0.0 Employees Employers Own-account workers Contributing family workers Source: ILO Data Explorer Tại Việt Nam, tỉ lệ lao động làm công ăn lương đã tăng từ khoảng 34% lên 44,4% trong hơn 10 năm qua (2010-2020), tỉ lệ người lao động dễ bị tổn thương (tự làm việc và lao động hộ gia đình) đã giảm đáng kể, từ khoảng 63% xuống 54% tổng số lao động kể từ năm 2010 tới nay, theo tính toán của ILO dựa trên số liệu của Tổng cục thống kê. Thế nhưng, đây chỉ là một mặt của bức tranh, khi 54% tỉ lệ người lao động dễ bị tổn thương vẫn là con số rất lớn, tương đương khoảng 30,9 triệu người lao động đang làm những công việc dễ bị tổn thương và đòi được ưu tiên tại Việt Nam. “Đây là một chiều hướng đáng lo ngại. Nhiệm vụ tăng cường hệ thống an sinh xã hội và thúc đẩy quá trình chuyển đổi từ các việc làm gia đình sang việc làm chính thức là rất cần thiết, giúp hỗ trợ giảm nghèo, tăng cầu trong nước và tăng trưởng kinh tế”, Giám đốc ILO Việt Nam Gyorgy Sziraczki nhận định. Nếu như Bộ luật Lao động 2012 quy định tiêu chuẩn lao động; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động... trong quan hệ lao động và các quan hệ khác liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động thì Bộ luật Lao động 2019 mở rộng thêm đối tượng là người làm việc không có quan hệ lao động cùng một số tiêu chuẩn riêng. BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2012 Điều 2. Đối tượng áp dụng 1. Người lao động Việt Nam, người học nghề, tập nghề và người lao động khác được quy định tại Bộ luật này. 2. Người sử dụng lao động. 3. Người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. 4. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động. BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2019 Điều 2. Đối tượng áp dụng 1. Người lao động, người học nghề, người tập nghề và người làm việc không có quan hệ lao động. 2. Người sử dụng lao động. 3. Người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. 4. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động. Đây là những thay đổi đáng chú ý trong khái niệm lao động và hợp đồng lao động mở rộng phạm vi bảo vệ cho nhiều nhóm lao động khác nhau của thị trường .... Sự thay đổi trong khái niệm về lao động và hợp đồng lao động nghe có vẻ rất nhỏ nhưng rất lớn, mở rộng phạm vi cho hàng triệu lao động, đảm bảo rằng tất cả lao động có quan hệ lao động đều được bảo vệ, ngay cả với những người không có quan hệ lao động - vốn là nhóm dễ bị tổn thương nhất, cần được bảo vệ nhiều nhất. Hình 4. Vulnerable employment (%) 2010-2020 80.0 70.0 60.0 69.8 62.7 56.2 69.5 62.4 56.0 69.2 62.5 56.4 69.1 62.7 56.7 68.2 62.2 56.7 2010 2011 2012 2013 2014 50.0 63.9 57.8 52.1 62.4 55.9 50.0 61.2 55.1 49.5 60.9 54.6 48.8 60.6 54.1 48.1 60.3 53.6 47.4 2015 2016 2017 2018 2019 2020 40.0 30.0 20.0 10.0 0.0 Total Male Female Source: ILO Data Explorer Việc làm dễ bị tổn thương ở Việt Nam đang suy giảm, nhờ xu hướng công nghiệp hóa và tăng việc làm từ 62,7% năm 2010 xuống 53,6% vào năm 2020. Nhóm việc làm này thường không có sự bảo vệ và thu nhập thường rất thấp. Tỷ lệ lao động dễ bị tổn thương của nữ cao hơn so với tỷ lệ này của nam. Nâng cao chất lượng việc làm trong nhóm việc làm này của thị trường lao động nên trở thành ưu tiên của Chính phủ Việt Nam, nếu Việt Nam muốn đạt được mục tiêu hiện đại hóa kinh tế xã hội. Bộ luật Lao động sửa đổi 2019 cho phép thành lập các công đoàn độc lập, tức là không thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - công đoàn duy nhất hiện có. Quy định này góp phần thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của việc đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động trong quan hệ lao động, theo các Công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế ILO. Tính dễ bị tổn thương là sự tồn tại và mức độ rủi ro tại nơi làm việc; sự nguy hiểm của các điều kiện làm việc bất lợi có thể đe dọa đến sức khỏe của người lao động. Rủi ro có thể xuất phát từ các thành phần công việc khác nhau và sự tích lũy của chúng càng làm trầm trọng thêm dễ bị tổn thương của người lao động. Tính dễ bị tổn thương không bị giới hạn trong một số loại lao động (ví dụ: người lao động khuyết tật, người lao động nhập cư, lao động trẻ em hoặc người già, phụ nữ) và cũng không giới hạn ở một số khía cạnh liên quan đến phạm vi công việc (ví dụ: sắp xếp công việc, tiền lương) hoặc đặc trưng công việc (làm việc trong khu vực chính thức hoặc không chính thức, ngành sản xuất so với dịch vụ). Nó mở rộng cho mọi lao động trong tất cả các loại công việc. Theo luật quốc tế về quyền con người, các nhóm dễ bị tổn thương bao gồm người khuyết tật, trẻ em, phụ nữ, người già, người nhiễm HIV, người di cư, người không quốc tịch, người lao động nhập cư, dân tộc thiểu số, nạn nhân chiến tranh, bị tước đoạt tự do. Bộ luật Lao động của Việt Nam quy định tiêu chuẩn lao động; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động, tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở, tổ chức đại diện người sử dụng lao động trong quan hệ lao động và các quan hệ khác liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động; quản lý nhà nước về lao động, trong đó có những quy định riêng đối với một số nhóm lao động cụ thể như lao động nữ, lao động chưa thành niên, lao động là người khuyết tật, lao động giúp việc gia đình. Lao động nữ. Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nữ tham gia vào lực lượng lao động cao nhất thế giới. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động trung bình giai đoạn 2010-2020 của lao động nữ là 72,9% thấp hơn so với tỷ lệ này của lao động nam 82,5%. Chênh lệch giữa 2 tỷ lệ này chỉ là 9,6 điểm phần trăm. Không thua kém nam giới, lao động nữ tham gia rất tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hình5. Labour force participation rate by sex (%) 20102020 85.0 80.0 75.0 70.0 65.0 81.4 76.3 71.4 82.0 77.2 72.6 81.9 77.3 72.8 83.0 78.3 73.7 83.1 78.4 73.9 Total Source: ILO Data Explorer 83.3 78.2 73.3 82.6 77.7 72.9 Male 82.7 77.8 73.0 82.5 77.5 72.8 Female 82.4 77.4 72.7 82.2 77.3 72.6 82.5 77.6 72.9 Lao động nữ khi tham gia quan hệ lao động có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người lao động, đồng thời, được pháp luật lao động dành cho những quy định áp dụng riêng. Nhà nước bảo đảm quyền làm việc của phụ nữ bình đẳng về mọi mặt với nam giới, có chính sách khuyến khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để người lao động nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn ngày, trọn tuần, giao việc làm tại nhà. Bộ luật lao động với Chương X đã dành những quy định riêng đối với lao động nữ. Các cơ quan nhà nước được giao trách nhiệm mở rộng nhiều loại hình đào tạo thuận lợi cho lao động nữ để ngoài nghề đang làm, người lao động nữ còn có thêm nghề dự phòng và để việc sử dụng lao động nữ được dễ dàng, phù hợp với đặc điểm về cơ thể, sinh lí và chức năng làm mẹ của phụ nữ. Nhà nước có chính sách ưu đãi, xét giảm thuế đối với những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ. BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2012 Chương X. NHỮNG QUY ĐỊNH RIÊNG ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ Điều 153. Chính sách của Nhà nước đối với lao động nữ Điều 154. Nghĩa vụ của người sử dụng lao động đối với lao động nữ. Điều 155. Bảo vệ thai sản đối với lao động nữ. Điều 156. Quyền đơn phương chấm dứt, tạm hoãn hợp đồng lao động của lao động nữ mang thai. Điều 157. Nghỉ thai sản Điều 158. Bảo đảm việc làm cho lao động nữ nghỉ thai sản Điều 159. Trợ cấp khi nghỉ để chăm sóc con ốm, khám thai, thực hiện các biện pháp tránh thai. Điều 160. Công việc không được sử dụng lao động nữ BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2019 Chương X. NHỮNG QUY ĐỊNH RIÊNG ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ VÀ BẢO ĐẢM BÌNH ĐẲNG GIỚI Điều 135. Chính sách của Nhà nước như Điều 153 Bộ luật 2012, làm rõ hơn quyền bình đẳng của lao động nữ, lao động nam, thực hiện các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới và phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Điều 136. Trách nhiệm của người sử dụng lao động - không có sửa đổi bổ sung mới. Điều 137. Bảo vệ thai sản – không có thay đổi lớn. Điều 138. Quyền đơn phương chấm dứt, tạm hoãn hợp đồng lao động của lao động nữ mang thai – làm rõ trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động. Điều 139. Nghỉ thai sản bổ sung 5. Lao động nam khi vợ sinh con, người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi, lao động nữ mang thai hộ và người lao động là người mẹ nhờ mang thai hộ được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội. Điều 140. Bảo đảm việc làm cho lao động nghỉ thai sản mà không bị cắt giảm tiền lương và quyền, lợi ích so với trước khi nghỉ thai sản. Điều 141. Trợ cấp trong thời gian chăm sóc con ốm đau, thai sản và thực hiện các biện pháp tránh thai – không sửa đổi, bổ sung. Điều 142. Nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản và nuôi con quy định 2. Người sử dụng lao động phải cung cấp đầy đủ thông tin về tính chất nguy hiểm, nguy cơ, yêu cầu của công việc để người lao động lựa chọn và phải bảo đảm điều kiện an toàn, vệ sinh lao động cho người lao động theo quy định khi sử dụng họ làm công việc thuộc danh mục quy định tại khoản 1 Điều này. Người sử dụng lao động phải ưu tiên nhận phụ nữ vào làm việc khi người đó đủ tiêu chuẩn tuyển chọn công việc phù hợp với cả nam và nữ mà doanh nghiệp đang cần. Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động nữ vì lí do kết hôn, có thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Trong thời gian có thai, nghỉ thai sản, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, người lao động nữ được tạm hoãn việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, kéo dài thời hiệu xem xét xử lí kỉ luật... Người sử dụng lao động không được sử dụng người lao động nữ làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh đẻ và nuôi con, theo danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành. Pháp luật cấm người sử dụng lao động ban hành những quy định không có lợi hơn những quy định của pháp luật cho lao động nữ; cấm những hành vi làm hạn chế khả năng được tiếp nhận lao động nữ vào làm việc; cấm mạt sát, đánh đập... xúc phạm đến danh dự và nhân phẩm của người lao động nữ trong khi làm việc. Trong trường hợp người sử dụng lao động vi phạm các điều cấm quy định trên, tuỳ theo tính chất, mức độ vì phạm sẽ bị xử lí theo quy định của pháp luật. Mặc dù Việt Nam xếp hạng cao trên toàn cầu về tỷ lệ tham gia lao động nữ, nhưng sẽ cần nhiều hơn để mang lại cơ hội việc làm bình đẳng cho phụ nữ. Những thách thức mà phụ nữ Việt Nam phải đối mặt bao gồm quan niệm xã hội và văn hóa về phụ nữ là người nội trợ. Hình 6. Tỷ lệ lao đông nữ so với tổng số lao động (%) 2010-2019 56.0 54.0 52.0 50.0 53.6 51.6 48.4 51.7 48.3 51.6 51.5 48.4 48.5 51.3 48.7 51.6 48.4 51.6 48.4 48.0 48.1 52.3 51.9 48.1 47.7 46.4 46.0 44.0 42.0 Male Source: ILO Data Explorer 51.9 Female Tỷ lệ lao động nữ trên tổng số lao động chiếm khoảng 48%, thấp hơn tỷ lệ này của nam 4 điểm phần trăm. Điều đó chứng tỏ vẫn còn sự bất bình đẳng về giới giữa nam và nữ về cơ hội việc làm. Hình 7. Mean weekly hours actually worked per employed person by sex 2007-2019 46.0 44.9 44.0 42.0 42.9 43.1 41.5 41.5 40.0 38.0 0.0 43.6 43.9 -1.8 36.0 -2.1 40.6 -2.3 -2.4 34.0 42.5 42.1 42.6 42.2 41.6 41.8 42.4 41.1 -0.5 -1.0 -1.5 40.1 40.2 -2.0 39.8 -2.0 39.6 39.1 39.1 39.6 38.3 -2.4 -2.5 -2.6 -2.5 -2.7 -2.7 -2.8 -2.8 -3.0 Total Male Female Gender gap Source: ILO Data Explorer Thời gian làm việc thực tế của lao động nữ thường thấp hơn của nam giới. Giờ làm việc thực tế trong tuần của lao động nữ trung bình 40,2 giờ trong khi của lao động nam là 42,6 giờ. Khoảng cách chênh lệch giờ làm việc giữa nữ và nam có xu hướng giảm rồi lại tăng. Hình 8. Female share of employment in managerial positions (%) 2000-2019 30.0 25.0 23.4 23.3 23.9 24.4 22.9 22.2 20.0 15.0 27.2 27.3 24.9 20.5 20.8 19.1 19.3 19.9 16.8 25.8 26.1 16.3 10.0 5.0 0.0 Source: ILO Data Explorer Tỷ lệ phụ nữ làm việc trong các vị trí quản lý có xu hướng gia tăng nhưng vẫn còn thấp: năm 2000 là 16,8% năm 2019 tăng lên 24,9%. Tỷ lệ phụ nữ đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo chính trị từ trung ương đến địa phương trong những năm qua chỉ tăng rất chậm, tới nay mới đạt mức khoảng một phần tư. Có thể nói rằng, sự mất cân đối về tỷ lệ phụ nữ trong các cơ quan nhà nước then chốt có thể ảnh hưởng tới khả năng Chính phủ Việt Nam thực sự hoạch định được các chính sách đáp ứng giới. Các doanh nghiệp cũng không nằm ngoài xu hướng này. Hình 9. Mean nominal monthly earnings of employees by sex (VND) 2007-2019 8000000 7000000 6000000 5000000 4000000 3000000 2000000 1000000 0 900000 2019, 7002465 800000 2019, 6216681 700000 600000 500000 400000 300000 200000 100000 0 2007 2009 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 Total Male Female Wage gap Source: ILO Data Explorer Thu nhập bình quân tháng của lao động nữ cũng thấp hơn so với của nam giới. Năm 2019 thu nhập danh nghĩa bình quân tháng của nữ là 6.216.681 đồng trong khi của lao động nam là 7.002.465 đồng. Khoảng cách thu nhập giữa nam và nữ có xu hướng ngày một gia tăng. 2007, 81.5 90.0 80.0 70.0 60.0 50.0 40.0 30.0 20.0 10.0 0.0 Hình 10. Informal employment as a percent of employment by sex (%) 2007-2019 2007, 82.4 2007 2009 2.0 1.0 2019, 63.70.0 -1.0 -2.0 -3.0 -4.0 -5.0 -6.0 -7.0 -8.0 2019 2019, 70.5 2013 Total 2014 Male 2015 2016 Female 2017 2018 Gender gap Source: ILO Data Explorer Tỷ lệ lao đông nữ trong khu vực phi chính thức giảm từ 82,4% năm 2007 xuống 63,7% năm 2019. Cách biệt giữa tỷ lệ này giữa lao động nữ và nam có xu hướng giảm, từ cao hơn vào năm 2007 đến thấp hơn vào năm 2019. Tuy nhiên tỷ lệ 63,7% nữ làm việc trong khu vực phi chính thức vẫn là cao mà đây là loại hình việc làm được coi là dễ bị tổn thương nhất. Chế độ hỗ trợ thai sản với vai trò đảm bảo vai trò sinh sản của phụ nữ không đồng nghĩa với việc mang lại cơ hội bình đẳng cho họ, mà cũng không phải ai cũng được hưởng chế độ này. Những phụ nữ thuộc đối tượng được tham gia chương trình bảo hiểm xã hội theo luật định được hưởng chế độ hỗ trợ thai sản khá tốt. Ngược lại, phụ nữ không thuộc đối tượng được bảo vệ bởi chương trình bắt buộc bao gồm cả người lao động phi chính thức thì không được hưởng chế độ hỗ trợ thai sản. Bộ Luật Lao động mới đã có những bước đi đúng hướng. Bộ Luật Lao động đã bỏ các điều khoản ngăn cản phụ nữ tham gia một số công việc nhất định và đã có những sắp xếp để dần dần thu hẹp khoảng cách tuổi nghỉ hưu giữa phụ nữ và nam giới mặc dù không hoàn toàn xóa bỏ khoảng cách này. Thái độ bảo vệ này thể hiện sự nhạy cảm giới và cần thiết, xét đến những trách nhiệm gấp đôi mà phụ nữ phải gánh vác. Tuy vậy, còn quá ít hành động được thực hiện nhằm giảm gánh nặng cho phụ nữ ngay từ đầu để đảm bảo rằng khoảng thời gian 35 giờ mỗi tuần cần dành để làm việc nhà được chia đều giữa phụ nữ và nam giới, và loại bỏ tư tưởng phụ nữ được sinh ra với thiên chức chăm sóc gia đình. Đây là tư tưởng lỗi thời đối với một quốc gia ngày càng tham gia nhiều hơn vào quá trình hiện đại hóa kinh tế xã hội và việc đầu tư trọn vẹn vào công tác đánh giá tương lai việc làm sẽ mang lại tiến bộ bao trùm và bền vững. Phụ nữ Việt Nam đã và đang giữ một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Bộ Luật Lao động sửa đổi hướng tới đảm bảo rằng phụ nữ có thể nhận được thành quả xứng đáng cho những đóng góp của mình, thông qua giải quyết các vấn đề liên quan đến bình đẳng giới và phân biệt đối xử tại nơi làm việc. Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động: là bảo đảm bình đẳng trong các quy định tỷ lệ nam, nữ được tuyển dụng lao động; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho lao động nữ; người sử dụng lao động tạo điều kiện vệ sinh an toàn lao động cho lao động nữ làm việc trong một số ngành, nghề nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại. Các điều khoản trong Bộ Luật Lao động sửa đổi cũng giúp giải quyết vấn đề quấy rối tình dục tại nơi làm việc, chênh lệch tiền lương giữa nam và nữ, bảo vệ tốt hơn người lao động nữ trong quá trình mang thai và nuôi con nhỏ. Nhiều nghề hoặc công việc lúc trước cấm sử dụng lao động nữ với mục đích bảo vệ họ thì giờ đây đã mở cửa với nữ giới và cho họ quyền lựa chọn làm hoặc không làm. Bộ Luật Lao động sửa đổi cũng cho phép người lao động tại doanh nghiệp thành lập tổ chức đại diện do họ lựa chọn, điều này có thể mang lại nhiều lợi ích cho phụ nữ. Trong khi nhiều điểm của Bộ Luật Lao động có tác động như nhau tới mọi người lao động – cả nữ và nam, thì một số điểm mang yếu tố giới, trong đó, nhiều điểm đã được cải thiện theo hướng phù hợp hơn với các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động, bao gồm chống phân biệt đối xử trong lao động việc làm. Tuy nhiên vẫn còn một khoảng cách lớn để người lao động nữ tại Việt Nam – cũng như tại nhiều quốc gia khác – có thể bình đẳng với nam giới. Gần một nửa lực lượng lao động của Việt Nam là nữ giới. Đã đến lúc cần tận dụng những tiềm năng của họ trong công việc cũng như đền đáp cho họ một cách xứng đáng. Lao động là người giúp việc gia đình. Các cuộc Khảo sát mức sống hộ gia đình ở Việt Nam cho thấy phụ nữ vẫn phải gánh vác phần nhiều việc nhà so với nam giới. Và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Trên thế giới, phụ nữ tiếp tục là người phải làm nhiều công việc gia đình không được trả lương. Trong bối cảnh đó, người giúp việc gia đình, phần lớn là phụ nữ, đóng một vai trò quan trọng không chỉ trong mỗi gia đình của chúng ta, mà còn đối với nền kinh tế và thị trường lao động. Bản thân người giúp việc gia đình cũng tham gia vào thị trường lao động. Họ đồng thời giúp những người phụ nữ khác trong độ tuổi lao động có thể làm những công việc đáng ra họ không thể đảm đương nổi nếu vẫn phải gánh vác toàn bộ trách nhiệm gia đình. Bộ luật Lao động 2012 và 2019 đều xác định lao động là người giúp việc gia đình là người lao động làm thường xuyên các công việc trong gia đình của một hoặc nhiều hộ gia đình. Các công việc trong gia đình bao gồm công việc nội trợ, quản gia, chăm sóc trẻ em, chăm sóc người bệnh, chăm sóc người già, lái xe, làm vườn và các công việc khác cho hộ gia đình nhưng không liên quan đến hoạt động thương mại. Người lao động sống tại gia đình người sử dụng lao động; người lao động không sống tại gia đình người sử dụng lao động. Đây là một trong những lao động chiếm tỷ trọng khá cao và ngày càng có xu hướng gia tăng. Lao động là người giúp việc thuộc nhóm đối tượng lao động dễ bị tổn thương theo định nghĩa của ILO về lao động dễ bị tổn thương. Việt Nam đã có một bước tiến lớn trong việc tăng cường bảo vệ về pháp lý cho người giúp việc gia đình thông qua Bộ Luật Lao động và các Nghị định. Các văn bản này có quy định rõ điều khoản về hợp đồng lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, an toàn vệ sinh lao động, kỷ luật lao động và trách nhiệm giải quyết các vấn đề lao động cho những người lao động trong nhóm này. BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2012 Mục 5. LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH Điều 179. Lao động là người giúp việc gia đình Điều 180. Hợp đồng lao động đối với lao động là người giúp việc gia đình Điều 181. Nghĩa vụ của người sử dụng lao động BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2019 Mục 5. LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH Điều 161. Lao động là người giúp việc gia đình Điều 162. Hợp đồng lao động đối với lao động là người giúp việc gia đình Điều 163. Nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi sử dụng lao động là người giúp việc gia đình Điều 182. Nghĩa vụ của lao động là người Điều 164. Nghĩa vụ của lao động là người giúp việc gia đình giúp việc gia đình Điều 183. Những hành vi bị nghiêm cấm đối Điều 165. Các hành vi bị nghiêm cấm đối với người sử dụng lao động với người sử dụng lao động Việt Nam cũng đang xem xét phê chuẩn Công ước về Lao động giúp việc gia đình của ILO (Công ước 189) vào năm 2020. Tuy nhiên, trên thực tế phần lớn người sử dụng lao động cũng như người lao động chưa hiểu hết hoặc chưa nắm hết những quy định của pháp luật đối với lao động. Lao động giúp việc gia đình mà hầu hết là phụ nữ thực hiện, đóng một vai trò quan trọng không chỉ trong mỗi gia đình cần họ, mà còn đối với nền kinh tế và thị trường lao động. Bởi, khi tham gia vào thị trường lao động họ đồng thời giúp những người phụ nữ khác có thể vừa làm tốt những công việc ở cơ quan, doanh nghiệp, bệnh viện, trường học…vừa yên tâm việc nhà – những công việc đáng ra những phụ nữ đó không thể đảm đương nổi nếu vẫn phải gánh vác toàn bộ trách nhiệm gia đình. Bên cạnh đó, giúp việc gia đình còn mang lại việc làm, thu nhập tương đối ổn định cho nhiều lao động nữ ở nông thôn có trình độ học vấn thấp, không có nghề nghiệp ổn định. Mặc dù công việc giúp việc gia đình có thu nhập cao hơn làm nông nghiệp và một số công việc tự do khác song vẫn không đáp ứng được mức sống cơ bản vì việc làm phi chính thức hiếm khi đi kèm với tiền lương đầy đủ, điều kiện làm việc tốt và an sinh xã hội. Bên cạnh đó, định kiến xã hội về nghề và lao động làm giúp việc gia đình vẫn còn khá nặng nề. Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Việt Nam dự kiến sẽ có khoảng 350.000 lao động giúp việc gia đình vào năm 2020. Không chỉ ở trong nước, nhiều người còn nhận thấy ngày càng nhiều những cơ hội đi làm giúp việc ở nước ngoài tại nhiều điểm đến khác nhau, như Đài Loan và Ma Cao (Trung Quốc), đảo Síp, Malaysia hoặc Ả-rập Xê-út. Hình11. Contributing family workers by sex 2010-2020 (thousands) 14000 12000 10000 11633 9837 9538 9159 9200 8000 6000 6368 6145 5831 9372 8330 8039 7746 5811 5697 5503 5325 5143 3277 2990 2943 2827 2714 2603 2015 2016 2017 2018 2019 2020 6096 5831 8802 8640 6944 4000 2000 3469 3393 3328 3369 2010 2011 2012 2013 4689 0 Male 2014 Female Total Source: ILO Data Explorer Theo thống kê của Trung tâm Nghiên cứu Giới, Gia đình và Phát triển cộng đồng (GFCD), lao động giúp việc gia đình tại Việt Nam có tới trên 98% là phụ nữ, trong đó khoảng 75% là người di cư (từ địa phương khác tới) và có tới trên 96% lao động giúp việc chưa qua đào tạo. Lao động giúp việc cũng có trình độ học vấn khá thấp (77% lao động chỉ học từ tiểu học đến THCS). Đây là nguyên nhân chính dẫn đến việc đa số người giúp việc gia đình chưa tiếp cận được với các thông tin pháp luật nên chưa hiểu hết về quyền lợi của mình. Kết quả là, có đến 97% lao động giúp việc không tham gia bảo hiểm xã hội; trên 91% không có lương hưu hoặc trợ cấp thường xuyên và chỉ có 19,5% có bảo hiểm y tế. Các khảo sát liên quan đến nhóm lao động này cũng đã chỉ ra gần 90% lao động giúp việc gia đình đang làm việc mà không ký kết hợp đồng lao động bằng văn bản với người sử dụng lao động, nên không có cơ sở để đòi quyền lợi. Theo bà Ngô Thị Ngọc Anh, Giám đốc Giám đốc GFCD, định kiến giúp việc gia đình tại Việt Nam còn nặng nề, chưa xem đây là nghề. Bản thân người lao động giúp việc gia đình không muốn ký hợp đồng lao động do thiếu hiểu biết, thiếu thông tin. Về phía chủ sử dụng lao động không muốn ký vì cho rằng các quy định hiện giờ chỉ tập trung lợi ích của người lao động và không muốn tăng chi phí cho bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... Do không hiểu luật, không ký hợp đồng lao động nên giúp việc gia đình có nguy cơ phải đối mặt với những rủi ro lớn trong quá trình làm việc như: bị phân biệt đối xử, bị nợ lương, bị đánh đập, bị cưỡng bức… hay các hình thức lạm dụng khác. Theo một báo cáo khác của ILO, hơn 40% người lao động giúp việc gia đình trên thế giới không được hưởng mức lương tối thiểu cho dù lương tối thiểu được áp dụng cho những nhóm lao động khác ở nước họ. Mặc dù tình hình ở Việt Nam khá hơn, nhưng vẫn tồn tại sự khác biệt lớn – chỉ 86,5% người lao động giúp việc gia đình được nhận lương tương đương mức lương tối thiểu trở lên, trong khi tỷ lệ này trên tổng số người lao động nói chung ở mức 95,2%. Lao động giúp việc gia đình (LĐGVGĐ) đã trở thành lực lượng lao động không thể thiếu trong xã hội công nghiệp, họ là những người có đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Việc công nhận GVGĐ là một nghề là tất yếu trong mối quan hệ lao động đã được đề cập trong Bộ luật Lao động năm 2012 và năm 2019. Song để thực hiện các quy định này cần có những hướng dẫn cụ thể, chi tiết hơn. Bên cạnh đó, công tác quản lý LĐGVGĐ còn hạn chế. Các cơ sở giới thiệu việc làm còn khá mờ nhạt trong vai trò cung ứng nguồn LĐGVGĐ có chất lượng cho thị trường lao động. Hiện nay, kênh tìm việc làm cho người LĐGVGĐ cũng như kênh tuyển dụng người LĐGVGĐ của các gia đình vẫn là sự giới thiệu của người thân quen, họ hàng. Việc thực thi và đảm bảo quyền của người LĐGVGĐ còn là một khoảng trống khá lớn. Vẫn còn một bộ phận không nhỏ người giúp việc phải làm việc không đúng với thỏa thuận ban đầu. Người sử dụng lao động cần chi trả một phần tiền để người giúp việc tự mua bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Nhưng đây là một thách thức rất lớn. Nếu không có hướng dẫn cụ thể thì người giúp việc vẫn phải chịu thiệt thòi về quyền lợi của mình. Dĩ nhiên, Chính phủ cần nỗ lực hơn nữa để bảo vệ tốt hơn những người lao động giúp việc gia đình. Nhưng đó cũng là trách nhiệm của chúng ta, của mỗi công dân và “người sử dụng lao động” giúp việc gia đình. Lao động trẻ em Lao động trẻ em đề cập đến vấn đề sử dụng trẻ em trong bất kỳ công việc gì mà tước đi thời thơ ấu của trẻ, cản trở việc đi học thường xuyên, và gây tác hại về tinh thần, thể chất, xã hội hay đạo đức, nguy hiểm và độc hại. Nhiều tổ chức quốc tế coi lao động trẻ em là bóc lột. Pháp luật tại nhiều nước trên thế giới cấm lao động trẻ em. Không phải mọi dạng lao động trẻ em đều là không thể chấp nhận, vì vậy cần xác định mức độ nào thì lao động trẻ em là không thể chấp nhận được (ví dụ lao động trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm) và mức độ nào vẫn có thể chấp nhận được. Một vấn đề của lao động tẻ em đó là trẻ khó tiếp cận với trường học và giáo dục. Cần quan tâm đúng mức đến các chương trình giáo dục bổ sung thể tiếp cận được khi không lao động. Việt Nam đã đặt nền tảng cho hành động hiệu quả và bền vững chống lại lao động trẻ em. Vào tháng 11 năm 2000, Chính phủ Việt Nam đã phê chuẩn Công ước về lao động trẻ em tồi tệ nhất năm 1999 (số 182) và năm 2003, Chính phủ đã phê chuẩn Công ước về tuổi tối thiểu, năm 1973 (số 138). Các phê chuẩn đã báo hiệu cho cộng đồng quốc tế Việt Nam Cam kết và quyết tâm khẩn trương thực hiện các biện pháp giới hạn thời gian để loại bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất trong nước. Hiến pháp nghiêm cấm việc làm của lao động trẻ em dưới độ tuổi tối thiểu. Độ tuổi lao động tối thiểu là 15 tuổi. Việt Nam hiện có tới 1,75 triệu lao động là trẻ em, chiếm gần 10% trẻ em trên cả nước, một con số đáng giật mình mà Bộ Lao động, thương binh và xã hội vừa công bố. Trẻ em bắt đầu làm việc sớm phổ biến ở tuổi từ 12 cho đến dưới 17 tuổi, tuy nhiên vẫn có tới hơn 15% lao động trẻ em ở nhóm 5 - 11 tuổi, đây là nhóm trẻ em nhỏ tuổi cần phải loại bỏ mọi hình thức được coi là cưỡng bức hoặc không kiểm soát được1. Tổ chức Lao động Quốc tế; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Tổng cục thống kê, Điều tra quốc gia về Lao động trẻ em 2012 - Các kết quả chính, Hà Nội, tháng 3/2014. 1 Hình 12. Children in employment aged 7-14 by sex 16 14 12 10 13.5 12.5 13 11.7 10.1 8 10.9 6 4 2 0 2011 2012 Female (% of female children) Male (% of male children) Total (% of children) Source: https://data.worldbank.org/ Tỷ lệ lao động trẻ em là trẻ em trai trên tổng số trẻ em trai tuổi từ 7 đến 14 là 11,7% và tỷ lệ này đối với trẻ em gái là 10,1%, tỷ lệ trẻ em trai thuộc nhóm lao động trẻ em cao hơn trong khi tỷ lệ trẻ em gái thuộc nhóm lao động trẻ em giảm nhẹ. Hình 13. Child employment aged 7-14 by economically active 2012 16.2 5.9 77.1 Child employment in agriculture (%) Child employment in manufacturing (%) Child employment in services (%) Source: https://data.worldbank.org/ Đa số lao động trẻ em làm việc trong nhóm ngành nông nghiệp chiếm hơn 77% lao động trẻ em; lao động trẻ em làm việc trong nhóm ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 16,2% và lao động trẻ em làm việc trong nhóm ngành dịch vụ chiếm 5,9%. Đa số lao động trẻ em làm việc trong khu vực nông nghiệp, là khu vực thâm dụng lao động và tạo ra giá trị thặng thấp hơn so với khu vực công nghiệp và khu vực dịch vụ. Do vậy, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông thôn, nông nghiệp có vai trò rất lớn trong việc giảm qui mô và mức độ trầm trọng của lao động trẻ em. Sự mở cửa của nền kinh tế thị trường cũng đã đem đến những hình thức và khuôn mẫu mới gây tổn thương tới trẻ em Việt Nam. Nhiều em nhỏ phải chịu nguy cơ bị bóc lột lao động và lạm dụng tình dục. Trẻ em và thanh, thiếu niên làm việc ở khu vực kinh tế phi chính thức, trong môi trường lao động không được quản lý và điều chỉnh. Trong hoàn cảnh này, trẻ em không được giáo dục đầy đủ, phát triển một cách lành mạnh. Dân di cư, đồng bào dân tộc thiểu số và trẻ em gái là nhóm cần được quan tâm đặc biệt đến. Hình 14. Children in employment aged 7-14 by wage and unpaid 2011-2012 100.0 87.489.285.5 Children in employment, wage workers (%) 84.382.486.7 80.0 60.0 Children in employment, wage workers, male (%) 40.0 Children in employment, wage workers, female (%) 20.0 9.7 7.811.6 Children in employment, unpaid family workers (%) 7.5 7.8 7.3 Children in employment, unpaid family workers, male (%) 0.0 2011 2012 Source: https://data.worldbank.org/ Trên 84% lao động trẻ em là lao động hộ gia đình không được hưởng tiền công, tiền lương, đóng góp vào thu nhập chung của hộ. Do vậy các biện pháp phòng ngừa, can thiệp về lao động trẻ em cần hướng vào đối tượng chính là các hộ gia đình và cha mẹ trẻ em. Hình 15. Children in employment aged 7-14 by work 2012 Children in employment, work only, male (%) 20.9 Children in employment, work only, female (%) 16.6 Children in employment, work only (%) 19.0 Children in employment, study and work, male (%) 79.1 Children in employment, study and work, female (%) 83.4 Children in employment, study and work (%) Children in employment, self-employed, male (%) Children in employment, self-employed, female (%) Children in employment, self-employed (%) 81.0 9.9 6.0 8.2 Source: https://data.worldbank.org/ Bộ luật lao động quy định cấm nhận trẻ em dưới 15 tuổi vào làm việc trong các cơ sở sử dụng lao động, trừ một số nghề và công việc do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định, Đối với những nghề và công việc được nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc, học nghề, tập nghề thì việc nhận và sử dụng phải có sự đồng ý và theo dõi của cha mẹ hoặc người đỡ đầu. Người lao động trẻ em dưới 15 tuổi được giảm thời giờ làm việc tiêu chuẩn; không phải làm thêm giờ hoặc làm đêm trừ một số ngành nghề và công việc do pháp luật quy định; được người sử dụng lao động sắp xếp vào những công việc phù hợp với sức khoẻ, được quan tâm, chăm sóc về các mặt lao động, tiền lương, sức khoẻ, học tập trong quá trình lao động. BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2012 Chương XI. NHỮNG QUY ĐỊNH RIÊNG ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN VÀ MỘT SỐ LOẠI LAO ĐỘNG KHÁC Mục 1. LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN Điều 161. Lao động chưa thành niên quy định là người lao động dưới 18 tuổi. BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2019 Chương XI. NHỮNG QUY ĐỊNH RIÊNG ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN VÀ MỘT SỐ LAO ĐỘNG KHÁC Mục 1. LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN Điều 143. Lao động chưa thành niên chia theo các độ tuổi: 1. chưa đủ 18 tuổi, 2. từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, 3. từ đủ 13 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi, 4. chưa đủ 13 tuổi. Điều 163. Nguyên tắc sử dụng lao động là Điều 144. Nguyên tắc sử dụng lao động người chưa thành niên chưa thành niên + Điều 146. Thời giờ làm việc của người chưa thành niên. Điều 162. Sử dụng người lao động chưa Điều 145. Sử dụng người chưa đủ 15 tuổi thành niên + Điều 164. Sử dụng lao động làm việc. dưới 15 tuổi. Điều 165. Các công việc và nơi làm việc Điều 147. Công việc và nơi làm việc cấm sử cấm sử dụng lao động là người chưa thành dụng người lao động từ đủ 15 tuổi đến chưa niên. đủ 18 tuổi Sử dụng lao động chưa thành niên bị cấm trong các công việc sau: mang, vác các vật nặng vượt quá thể trạng của người chưa thành niên; sản xuất và sử dụng, vận chuyển các hoá chất, khí gas, chất nổ; bảo trì, bảo dưỡng thiết bị, máy móc; phá dỡ công trình xây dựng; nấu, thổi, đúc, cán, dập, và hàn kim loại; lặn biển, đánh bắt cá xa bờ; và các công việc khác gây tổn hại cho sức khoẻ, an toàn hoặc đạo đức của người chưa thành niên. Tuyển dụng lao động chưa thành niên bị cấm làm việc ở nơi sau đây: dưới nước, dưới lòng đất, trong hang động, trong đường hầm; công trường xây dựng; cơ sở giết mổ gia súc; sòng bạc, quán bar, vũ trường, phòng hát karaoke, khách sạn, nhà nghỉ, phòng tắm hơi và phòng xoa bóp; và nơi làm việc khác gây tổn hại đến sức khoẻ, sự an toàn hoặc đạo đức của người chưa thành niên. Thời gian làm việc của người lao động chưa thành niên (dưới 15 tuổi) không được vượt quá 04 giờ trong một ngày và 20 giờ trong một tuần. Không sử dụng lao động chưa thành niên làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm. Không được sử dụng lao động chưa thành niên để sản xuất và kinh doanh cồn, rượu, bia, thuốc lá, các chất tác động đến tinh thần và các chất gây nghiện khác. Người sử dụng lao động phải tạo cơ hội để người lao động chưa thành niên và người dưới 15 tuổi tham gia lao động và được học tập văn hóa. Mặc dù vấn đề lao động trẻ em đã được quan tâm và được luật hóa bằng các văn bản pháp luật của nhà nước cũng như thể hiện sự quyết tâm chính trị cao trên trường quốc tế, tuy nhiên vấn đề lao động trẻ em vẫn còn khá cao ở Việt Nam, từ góc độ chính sách cần phải quan tâm đến một số vấn đề cụ thể như sau: a. Tiếp tục rà soát số lao động trẻ em hiện đang làm các công việc mà các công việc này có các công đoạn, điều kiện rất dễ CÓ NGUY CƠ thuộc nhóm cấm sử dụng lao động trẻ em hoặc điều kiện lao động có hại, để bảo việc các em tốt hơn. b. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách về bảo vệ, chăm sóc trẻ em cập nhật với điều kiện thực tế của quốc gia và hội nhập luật pháp quốc tế trong công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em nói chung và vấn đề lao động trẻ em nói riêng. Tăng cường chế tài xử lý các trường hợp vi phạm sử dụng lao động trẻ em trái với quy định của pháp luật. c. Lồng ghép giải quyết vấn đề lao động trẻ em với các chính sách phát triển kinh tế và xã hội (phát triển nông thôn, hiện đại hóa nông nghiệp, phát triển kinh tế hàng hóa, giáo dục, đào tạo nghề, giảm nghèo) trong khu vực nông thôn để thực hiện xóa bỏ lao động trẻ em trên diện rộng. d. Xây dựng các chương trình quốc gia về bảo vệ trẻ em, thực hiện hệ thống bảo vệ trẻ em đa cấp: phòng ngừa, can thiệp và hỗ trợ giải quyết đặc biệt đối với trẻ em làm việc trong khu vực công nghiệp và dịch vụ, trẻ em thành thị, trẻ em dưới 11 tuổi. Tăng cường mối liên kết giữa trẻ em - gia đình - nhà trường - cán bộ xã hội để bảo vệ trẻ em. e. Đẩy mạnh công tác lãnh đạo, chỉ đạo, truyền thông vận động phòng chống sử dụng lao động trẻ em; huy động được sự tham gia mạnh mẽ của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, cộng đồng và cá nhân có liên quan vào việc ngăn ngừa và xoá bỏ lao động trẻ em. Hiện nay, Việt Nam đang triển khai xây dựng một Kế hoạch hành động quốc gia giai đoạn 2019-2025 để thực hiện mục tiêu xóa bỏ lao động cưỡng bức, nô lệ thời hiện đại, buôn bán người và lao động trẻ em, theo đó, tập trung vào giải quyết vấn đề lao động trẻ em trên các lĩnh vực như phòng ngừa lao động trẻ em trên lĩnh vực nông nghiệp, phòng ngừa lao động trẻ em liên quan đến kinh tế và chuỗi cung ứng, phòng ngừa di cư buôn bán trẻ em vì mục đích bóc lột kinh tế, phòng ngừa lao động trẻ em liên quan đến lĩnh vực giáo dục. Lao động là người khuyết tật Lao động là người khuyết tật là lao động của người bị khiếm khuyết trong một hay một số chức năng tâm sinh lý của cơ thể làm suy giảm khả năng lao động nhưng vẫn còn sức lao động và có nhu cầu làm việc. Quyền lao động và việc làm của người khuyết tật cũng tiếp tục được nhấn mạnh trong Công ước về Quyền của người khuyết tật năm 2006 (Điều 27). Người lao động tàn tật có khả năng lao động thấp hơn mức bình thường, được ưu đãi làm những ngành nghề phù hợp và được hưởng các ưu đãi khác trong hoạt động lao động như trợ giúp về vốn , đào tạo v.v, và được miễn giảm các nghĩa vụ của người lao động. Nguồn: Điều tra quốc gia người khuyết tật năm 2016 Kết quả điều tra quốc gia người khuyết tật năm 2016 cho thấy 7,06% dân số từ 2 tuổi trở lên là người khuyết tật (hơn 6.199.048 người khuyết tật), trong đó tỷ lệ khuyết tật trẻ em từ 2 đến 17 tuổi là 2,83% (663.964 trẻ em) và người lớn là 8,67% (5.535.084 người từ 18 tuổi trở lên). Nếu kết hợp với kết quả của Tổng rà soát NKT đang thực tế thường trú tại các trung tâm thì tỷ lệ khuyết tật của dân số từ 2 tuổi trở lên là 7,09% (6.225.519 người khuyết tật), trong đó trẻ em 2-17 tuổi là 2,83% (671.659 trẻ em) và người lớn là 8,67% (5.553.860 người). Tổng số người khuyết tật trên thực tế sẽ cao hơn số liệu suy rộng từ kết quả điều tra trên đây. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, ước tính cả nước có 7,2 triệu người khuyết tật, trong đó có khỏang 5 triệu người trong độ tuổi lao động (15 - 60 tuổi) và gần 1,5 triệu người trong độ tuổi lao động còn khả năng lao động. Vấn đề khuyết tật có liên quan chặt chẽ đến tình trạng việc làm, đa số người khuyết tật rất khó khăn để tiếp cận với thị trường lao động do những thiếu hụt trầm trọng về vốn nhân lực, vốn tài chính và vốn xã hội xuất phát từ nguyên nhân khuyết tật. Vì vậy, số đông người khuyết tật không có việc làm, không có nguồn thu nhập ổn định, bản thân và gia đình rơi vào tình trạng nghèo khó, cuộc sống khó khăn, phải trông chờ nhiều vào sự trợ giúp của nhà nước, của cộng đồng2. Có sự chênh lệch rất lớn giữa người khuyết tật và người không khuyết tật trong tham gia lực lượng lao động. Có thể thấy trong Bảng 9.1, có 83,20% người không khuyết tật tham gia lực lượng lao động, so với chỉ 32,76% người khuyết tật. Nguồn: Điều tra quốc gia người khuyết tật năm 2016 Người khuyết tật có nhu cầu làm việc để có thu nhập và sống độc lập, nhưng chỉ chưa đầy 1/3 người khuyết tật có việc làm. Người khuyết tật ít có cơ hội việc làm so với người không khuyết tật. Tỷ lệ người khuyết tật 15 tuổi trở lên có việc làm là 31,7%, tỷ lệ này ở người không khuyết tật cao gấp 2,5 lần, lên tới 82,4%. Nguồn: Điều tra quốc gia người khuyết tật năm 2016 ỦY BAN QUỐC GIA VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT VIỆT NAM, BÁO CÁO NGHIÊN CỨU, ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT LAO ĐỘNG VÀ CÁC VĂN BẢN CÓ LIÊN QUAN VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT, Hà nội, tháng 1/2018. 2 Hình 9.1 cho thấy lý do tại sao người khuyết tật không làm việc hoặc cũng không tìm kiếm việc làm. Có 3 lý do nổi bật là, họ còn nhỏ, đang đi học hoặc già yếu (60,40%), do bị khuyết tật (14,07%), hoặc do không có khả năng làm việc (19,48%). Không may là với 2 lý do sau, bản chất của rào cản đối với việc làm không rõ ràng. “Bị khuyết tật” có thể ngăn cản tìm kiếm việc làm bởi phân biệt đối xử, bởi công trình giao thông không hỗ trợ người khuyết tật, hay nơi làm việc không có lối đi cho người khuyết tật, hoặc một số rào cản khác. Nguồn: Điều tra quốc gia người khuyết tật năm 2016 Thái độ kỳ thị đối với người khuyết tật là một rào cản nghiêm trọng đối với sự tham gia vào xã hội của họ. Chỉ có 42,7% người trả lời cho rằng trẻ khuyết tật nên đi học với trẻ em khác. Khoảng 55% số người trả lời tin là nhà tuyển dụng không muốn thuê lao động là người khuyết tật. Nguồn: Điều tra quốc gia người khuyết tật năm 2016 Người khuyết tật gặp nhiều khó khăn và các rào cản. Nhà nước, gia đình và xã hội có trách nhiệm tạo môi trường thuận tiện để người khuyết tật nỗ lực vươn lên làm chủ cuộc sống. Bộ luật Lao động có những quy định thể hiện sự tôn trọng, bảo đảm quyền lao động và việc làm đối với người khuyết tật - nhóm lớn nhất trong số các nhóm dễ bị tổn thương. Bộ Luật Lao động nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi năm 2012, tại Mục 4, chương XI đã có các quy định về lao động là người khuyết tật, bao gồm: Chính sách nhà nước đối với lao động là người khuyết tật (Điều 176); quy định vể sử dụng lao động là người khuyết tật (Điều 177) và Quy định các hành vi bị cấm khi sử dụng lao động là người khuyết tật (Điều 178). Những quy định này nhằm tạo điều kiện và hỗ trợ lao động là người khuyết tật tham gia thị trường lao động, bảo vệ lao động là người khuyết tật trong quá trình lao động và các lợi ích chính đáng của lao động là người khuyết tật BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2012 Mục 4. LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT Điều 176. Chính sách của Nhà nước đối với lao động là người khuyết tật Điều 177. Sử dụng lao động là người khuyết tật Điều 178. Các hành vi bị cấm khi sử dụng lao động là người khuyết tật BỘ LUẬT LAO ĐỘNG 2019 Mục 4. LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT Điều 158. Chính sách của Nhà nước đối với lao động là người khuyết tật Điều 159. Sử dụng lao động là người khuyết tật Điều 160. Các hành vi bị nghiêm cấm khi sử dụng lao động là người khuyết tật –bổ sung trừ trường hợp người lao động là người khuyết tật đồng ý. Cùng với Luật Người khuyết tật, Bộ luật Lao động, Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật như Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Việc làm, Luật Xây dựng, Luật Giao thông đường bộ, Luật Bảo hiểm y tế, Luật An toàn, vệ sinh lao động... ghi nhận, bảo đảm quyền lao động và việc làm của người khuyết tật. Nhà nước cũng đã triển khai những đề án, kế hoạch nhằm trợ giúp người khuyết tật trong tiếp cận việc làm. Trên cơ sở sự ghi nhận của pháp luật về quyền lao động và việc làm của người khuyết tật, Nhà nước bảo trợ quyền lao động, tự tạo việc làm của người khuyết tật, khuyến khích và ưu đãi người sử dụng lao động (SDLĐ) tạo ra việc làm và nhận người lao động (NLĐ) khuyết tật vào làm việc. Giải quyết việc làm cho người khuyết tật không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà là của toàn xã hội. Pháp luật quy định các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân không được từ chối tuyển dụng người khuyết tật có đủ điều kiện vào làm việc hoặc hạn chế cơ hội làm việc của họ bằng cách đặt ra tiêu chuẩn tuyển dụng trái pháp luật. Cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân SDLĐ là người khuyết tật có trách nhiệm bố trí, sắp xếp công việc, đảm bảo môi trường và điều kiện làm việc phù hợp đối với người khuyết tật. Người SDLĐ phải tham khảo ý kiến lao động là người khuyết tật khi quyết định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của họ. Tổ chức giới thiệu việc làm có trách nhiệm tư vấn, giới thiệu việc làm cho người khuyết tật. Bên cạnh đó, các cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng từ 30% trở lên tổng số lao động là người khuyết tật được hỗ trợ cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp, được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, được vay vốn với lãi suất ưu đãi theo dự án phát triển sản xuất, kinh doanh; được ưu tiên cho thuê đất, mặt bằng, mặt nước và miễn, giảm tiền thuê đất, mặt bằng, mặt nước phục vụ sản xuất kinh doanh theo tỷ lệ lao động là người khuyết tật, mức độ khuyết tật của NLĐ và quy mô doanh nghiệp. Quỹ việc làm cho người khuyết tật được thành lập để cấp hỗ trợ cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh nhận người khuyết tật làm việc, điều kiện vay, thời hạn vay, mức vốn vay và mức lãi suất vay thực hiện theo quy định hiện hành áp dụng đối với dự án vay vốn giải quyết việc làm. Pháp luật còn quy định doanh nghiệp có sử dụng từ 10 người khuyết tật làm việc ổn định sẽ được hưởng ưu đãi về cải tạo điều kiện, môi trường làm việc; ưu đãi về vay vốn ưu đãi theo dự án phát triển kinh doanh từ ngân hàng chính sách xã hội. Các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp sử dụng từ 10 người khuyết tật làm việc ổn định được hưởng chính sách về cải tạo điều kiện, môi trường làm việc. Khi tham gia vào quan hệ lao động, người khuyết tật cũng có các quyền, nghĩa vụ như mọi người trong tất cả các lĩnh vực. Tuy nhiên, xuất phát từ tính chất đặc thù của lao động là người khuyết tật, pháp luật quy định NLĐ là người khuyết tật có đủ 12 tháng làm việc cho một người SDLĐ thì được nghỉ 14 ngày làm việc (12 ngày làm việc đối với lao động không khuyết tật)[6]. Họ không phải làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quy định. Người khuyết tật bị suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên không phải làm thêm giờ, làm việc ban đêm. Ngoài ra, hàng năm người SDLĐ phải tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho NLĐ là người khuyết tật ít nhất 6 tháng một lần. Triển khai các quy định của Bộ luật lao động về lao động là người khuyết tật, nhiều doanh nghiệp sử dụng lao động là người khuyết tật đã tiếp cận được với nguồn vốn vay ưu đãi, được miễn thuế thu nhâp doanh nghiệp theo quy định; ưu tiên cho thuê đất, mặt bằng, mặt nước phục vụ sản xuất kinh doanh; nhiều người khuyết tật và gia đình đã tiếp cận được vốn vay ưu đãi để tạo việc làm; được hỗ trợ bao tiêu sản phẩm …nhờ vậy trong những năm gần đây số người khuyết tật có việc làm mới hàng năm đã gia tăng đáng kể, theo báo cáo của các địa phương ước tính mỗi năm trên cả nước có hàng ngàn người khuyết tật có việc làm mới với thu nhập ổn định. Trên thực tế hiện nay, việc bảo đảm quyền lao động và việc làm của người khuyết tật tuy đã có nhiều tiến bộ nhưng do những nguyên nhân khác nhau mà tình trạng người khuyết tật không có việc làm vẫn còn phổ biến, phân biệt đối xử với lao động là người khuyết tật vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi. Phần lớn công việc của lao động là người khuyết tật đang đảm nhiệm là những vị trí không thuộc diện chính thức của thị trường lao động, không đòi hỏi trình độ chuyên môn, tay nghề cao, có thu nhập thấp, khó đảm bảo cuộc sống, ít hoặc không có cơ hội thăng tiến. Chính sách pháp luật bảo đảm quyền lao động và việc làm của người khuyết tật vẫn còn những điểm chưa thực sự hợp lý. Chẳng hạn, đơn vị sử dụng ổn định từ 10 lao động là người khuyết tật trở lên được hỗ trợ, còn đơn vị SDLĐ là người khuyết tật làm việc ổn định dưới con số đó lại không được hưởng bất kỳ sự ưu đãi nào. Khoảng cách giữa 10 lao động là người khuyết tật và 30% tổng số lao động là người khuyết tật quá xa trong một số trường hợp. Có doanh nghiệp sử dụng số lượng lớn lao động là người khuyết tật nhưng chưa đạt tỷ lệ 30% không được hưởng chính sách ưu đãi, trong khi đó có doanh nghiệp SDLĐ là người khuyết tật ít hơn nhưng do tổng số lao động trong doanh nghiệp ít nên vẫn chiểm tỷ lệ 30% thì lại được hưởng chính sách ưu đãi. Điều này sẽ thiếu công bằng đối với các cơ sở, doanh nghiệp, đơn vị và không khuyến khích được người SDLĐ trong việc SDLĐ là người khuyết tật. Một số quy định mang tính hỗ trợ, ưu đãi đối với người khuyết tật có thể gây phản tác dụng, tạo nên rào cản đối với chính người khuyết tật. Những quy định riêng biệt đối với lao động là người khuyết tật làm cho người SDLĐ có xu hướng tâm lý né tránh SDLĐ là người khuyết tật. Như vậy từ thực tế tổ chức triển khai các quy định của Bộ luật lao động đối với lao động là người khuyết tật có thể dễ dàng nhận thấy hiệu quả của chính sách chưa đạt được như mong muốn, chưa tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy khả năng tham gia thị trường lao động của lao động là người khuyết tật. Các quy định của Bộ luật lao động về lao động là người khuyết tật còn tồn tại những bất cập, khó khăn triển khai trong thực tế đòi hỏi có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung phù hợp để có thể tổ chức triển khai có hiệu quả trong thực tiễn, thúc đẩy sự tham gia thị trường lao động của lao động là người khuyết tật. Việc này đặt ra yêu cầu nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích các nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần hoàn thiện chính sách lao động đối với lao động là người khuyết tật và các giải pháp tăng cường sự tham gia thị trường lao động của lao động là người khuyết tật.