CÂU L C B TRĂNG NON
TÀI LI U THAM KH O
VÌ SAO TÂM LÝ TR LI U C N Đ N
NHÃN QUAN H U HI N Đ I?
Nguyên tác: Bogdan de Barbaro - Department of Family Therapy, The Jagiellonian University Collegium Medicum,
Cracow, Poland, 21a Kopernika Str. 31-501 Kraków, Poland; E-mail: bogdandebarbaro@wp.pl
Nguồn:“Why does psychotherapy need postmodernism?”, Archives of Psychiatry and Psychotherapy,2008; 3:43–50
Nhóm dịch thuật: Tăng Thị Thanh Thảo, Nguyễn Thúy Oanh, Nguyễn Đức Tài, Trần Anh Vũ, Đặng Thị Kiều Giang
Hiệu đính: Nguyễn Minh Tiến
TÓM T T
Tác giả trình bày những yếu tố của nhãn quan hậu hiện đại đang hiện diện trong tâm lý trị liệu đương
đại. Ngoài ra, ông cũng chỉ ra sự hữu dụng của một số kỹ thuật trị liệu phản ảnh khuynh hướng đặc trưng
cho nhãn quan hậu hiện đại. Nhãn quan kiến tạo xã hội (social constructionist) cùng tính hữu dụng của
nó trong liệu pháp gia đình cũng được miêu tả song song khi đề cập đến những tiện ích cũng như những
mối nguy khi áp dụng nhãn quan hậu hiện đại trong tâm lý trị liệu.
H u hi n đ i / Ki n t o xã h i (postmodernism /social constructionism)
Trong lúc công trình này vẫn còn đang chưa hoàn thành, tôi đã được tin Tom Andersen, một
người bạn và cũng là trưởng một nhóm trị liệu gia đình người Ba Lan, cũng được nhắc đến trong
bài viết này, đã qua đời vào ngày 15/5/2007, và ông cũng chính là người mà tôi mong muốn dâng
tặng công trình này.
1
H U HI N Đ I
Khi nói đến hậu hiện đại, mọi ngư i đều nhất trí về một điều như sau: Không có một định nghĩa
duy nhất nào th a đáng cho cái khái niệm đã được chấp nhận rộng rãi này, và thậm chí th i điểm
kh i nguyên của nó cũng vẫn còn chưa chắc chắn, mặc dù khái niệm “hậu hiện đại” gần như rất
tương đồng với tư duy đương đại vì nó được sử dụng lần đầu tiên mãi từ thế kỷ 19 b i họa sĩ
ngư i Anh John Watkins Chapman [1]. Tuy nhiên, chỉ đến cu i thập niên 1960, ngư i ta mới
thư ng xuyên xem đây là th i điểm đánh dấu bước kh i đầu rõ rệt của xu hướng hậu hiện đại.
Theo thuật ngữ được hiện sử dụng thông dụng nhất mà chúng ta chấp nhận cho mục đích của bài
viết này, hậu hiện đại là một sự phát triển về văn hóa và triết lý, mà từ đó nó đặt ra các câu h i về
khả năng và độ xác tín của một cách thức lý giải bao quát và mạch lạc về thực tại. Một sự lý giải
đầy đủ về thực tại được hiểu như là có tính phân đoạn một cách tự nhiên, trong đó bao gồm cả
những phân đoạn khá hỗn độn và thiếu mạch lạc, và vì thế những ngư i theo chủ nghĩa hoài nghi
đã làm xói mòn công trình của kỷ nguyên Ánh Sáng, và m ra khuynh hướng đa nguyên nổi trội
trong bầu khí trí tuệ của tư duy hậu hiện đại. Tính đa nguyên, liên quan đến văn học, đã được
biết đến qua luận thuyết của Barthes cho rằng những tác phẩm văn học mang tính sang tạo sẽ tr
nên nhiều hơn khi có nhiều độc giả, vì mỗi độc giả có một kiểu đọc khác nhau.
Cách nhìn này có thể gây bất ổn cho những ngư i xem lý lẽ là cội nguồn của sự trật tự và hài
hòa, nhưng lại có thể khơi cảm hứng cho những ai đã tr nên chán nản với lập luận này; những
ngư i mà đ i với họ thế kỷ 20 là th i kỳ suy sụp của quyền năng về luân lý và sự đổ vỡ hy vọng
về một cách thức lý giải bao quát, mạch lạc và hữu lý về thực tại.
TH NÀO LÀ “H U HI N Đ I”?
Trung tâm Pompidou, với hình dáng phá vỡ kiểu kiến trúc truyền th ng và sự hiện diện của
những cấu trúc ng đầy sắc màu trong các khu ph xa hoa theo kiểu cổ điển, đó chính là kiến
trúc có tính chất hậu hiện đại.
Bộ điều khiển từ xa của ti-vi là kiểu thiết bị hậu hiện đại, với ý nghĩa nó là công cụ cho phép
chúng ta, trong vòng vài giây, chuyển cảnh từ trận đấu quyền Anh sang đại lễ của Đức Giáo
Hoàng, rồi qua tư liệu về những đứa trẻ chết đói Châu Phi hay cả những cuộc thảo luận về các
vấn đề kinh tế.
Tổng th ng Sarkozy là một chính trị gia hậu hiện đại. Như Aleksander Smolar nói trong t
Gazeta Wyborcza s ra ngày 12 và 13 tháng 5/2007 rằng (Sarkozy) “không quan tâm nhiều đến ý
thức hệ. ng ấy đã lựa chọn ngẫu nhiên bất kỳ điều gì miễn có thể chứng minh rằng chúng hữu
ích để ông duy trì quyền lực.”
Cuộc đời thứ hai, tên một trò chơi điện tử phổ biến, là một trò chơi mang tính hậu hiện đại –
Những ngư i tham gia trò chơi này có thể di chuyển giữa thế giới thực và thế giới mạng – những
2
không gian ảo và dù cho nó không có tính chính xác rõ ràng đ i với suy nghĩ của những nhà đạo
đức và các luật gia thì một ngư i vẫn phải chịu trách nhiệm nếu như ngư i đó phạm tội trên
không gian mạng.
Một s quy tắc chính tả, ví dụ chữ cái đầu tiên của tên riêng thì viết thư ng (ví dụ như “iPod”)
hay đặt một dấu chấm than giữa tên (chẳng hạn như “Ha!Art” – tên của một nhà xuất bản)
cũng có tính hậu hiện đại.
Sau cùng thì, bản thân danh sách này cũng có xu hướng hậu hiện đại, nghĩa là nó hoàn toàn
phóng khoáng, minh họa cho bản chất nhiều tầng lớp của cái thế giới mà chúng ta đang s ng.
Tính đa dạng được phát họa ra đây, thậm chí còn có thể gọi là mớ hỗn độn, dư ng như có vẻ
mơ hồ và đáng ng hơn thay vì có thể được xem là hữu ích cho các nhà tâm lý trị liệu. Tuy
nhiên, tôi sẽ c gắng thể hiện điều đó với tất cả sự hoài nghi (đ i với cả chủ nghĩa hoài nghi hậu
hiện đại) rằng hướng đi này có thể được minh chứng là một thứ nhãn quan có thể mang đến
nhiều cảm hứng cho các nhà trị liệu.
Đến lúc này, cần phải làm rõ về một sự khác biệt giữa hai cách hiểu về khái niệm hậu hiện đại:
Theo cách thứ nhất, khái niệm hậu hiện đại được hiểu như là một tổng thể các xu hướng trí tuệ
đương đại, là “những điều kiện trong th i đại của chúng ta”, những đặc trưng về tập quán và lĩnh
vực văn hoá nói chung; và một mặt khác, theo cách thứ hai, hậu hiện đại được hiểu như là một
xu hướng trong triết học, tâm lý học và nghệ thuật. Đ i với các nhà tâm lý trị liệu, m i liên quan
giữa hai lĩnh vực này là đặc biệt thú vị, không những thế nó còn là m i liên quan giữa con ngư i
“hậu hiện đại”, điều kiện văn hóa của ngư i ấy và xu hướng phát triển trong tâm lý trị liệu và trị
liệu gia đình.
Tôi sẽ bàn về sự hiện diện của những “sợi chỉ xuyên su t” mang tính chất hậu hiện đại, hầu hết
là trong b i cảnh trị liệu gia đình, nhưng nó cũng có thể truyền cảm hứng cho các mô hình trị
liệu khác. Điều quan trọng là phải nhận ra rằng các thuật ngữ chuyên môn, khi xem xét trong
m i liên quan với những xu hướng này, vẫn không đồng nhất về ý nghĩa, dù chúng ít nhiều đều
gián tiếp chịu ảnh hư ng b i xu hướng hậu hiện đại. Một s ngư i dùng thuật ngữ “liệu pháp
dựa trên thuyết kiến tạo xã hội” (social constructionism based therapy) [3], trong khi một s
nguồn trích dẫn mới lại sử dụng thuật ngữ làm nổi bật lên tính chất đồng cộng tác giữa thân chủ
hoặc bệnh nhân với nhà trị liệu, chẳng hạn như các tên gọi “liệu pháp đồng cộng tác”
(collaborative therapy) [4], hoặc mô hình trị liệu dựa-trên-ngôn-ngữ-đồng-cộng-tác
(collaborative language-based model) [5].
Tuy nhiên, mục đích của nghiên cứu này là nhằm tóm lược lại những biến thể trong thuật ngữ và
thay vào đó sẽ tập trung vào bản chất của xu hướng hậu hiện đại và sự hiện diện của nó trong
việc trị liệu.
3
XU H
NG H U HI N Đ I MANG L I ĐI U GÌ?
Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn về một s nguyên lý hậu hiện đại cơ bản và xem chúng có được
phản ánh lại bằng cách nào đó trong thực hành trị liệu hay không:
1. Tính đa nguyên (Pluralism)
Như đã nêu trên, tính đa nguyên (về các chủ thuyết, quan điểm, học thuyết, văn hóa vv…), là
một trong các thành t đặc trưng chủ yếu của tư duy hậu hiện đại. Kiến thức không có được
những nền tảng hằng định, nó không phải là một kiểu công trình có thể liên tục được m rộng, có
thể lắp thêm vào những mặt bằng khám phá mới và những lý thuyết mới có thể khám phá hết
những chiều sâu kỳ vĩ của nó1. Cũng gi ng như khi nhãn quan hiện đại (modernism) đi sâu vào
những ngành khoa học liên quan đến sự kiện thực tế, nhãn quan hậu hiện đại cũng xem kiến thức
của con ngư i được dựa trên những sơ cấu diễn giải có thể thay đổi được, mà từ đó những b i
cảnh chính trị, lịch sử và kinh tế sẽ mang lại sự trật tự, những cảm nhận và ý nghĩa cho những
trải nghiệm của chúng ta. Không có một chân lý duy nhất, mà chỉ có những sự thật khác nhau mà
thôi. Cách đặt vấn đề truy vấn về sự tồn tại của một chân lý khả tri và các lý thuyết diễn tả nó
(được biết như tình trạng sụp đổ của những “siêu trần thuật” – metanarration) đã tạo nên một
bầu khí hoài nghi và không tin tư ng mang tính lập trình đ i với bất kỳ chủ thuyết nào có liên
quan đến các công trình trong kỷ nguyên Ánh Sáng2, những chủ thuyết đã đoan chắc rằng chúng
chứa đựng sẵn những tri thức.
Trong lĩnh vực tâm lý trị liệu, chúng ta có thể trải nghiệm và nhận ra được tính chất đa nguyên
này thông qua sự đa dạng, phong phú của các trư ng phái, phương pháp tiếp cận và mô hình trị
liệu khác nhau. Một vài trư ng phái trong s này, theo tinh thần thực sự của hậu hiện đại, có thể,
hoặc xem như có thể, đã mô tả hoạt động tâm trí của con ngư i theo một cách thức đầy đủ và
bao quát; trong khi một s trư ng phái khác lại có tính chất khá r i rạc. Những ngôn ngữ được
sử dụng, những phương pháp và mục đích của nhiều trư ng phái vẫn rất khác nhau; chúng tạo
nên một thứ hỗn hợp từ đó có thể gây lo lắng cho một s ngư i, nhưng lại hoàn toàn có tính tự
nhiên với những ngư i khác. Xu hướng hậu hiện đại khuyến khích chúng ta hãy từ b cảm nhận
về tính ưu việt đ i với những nền “văn hóa trị liệu” khác, để thay bằng những lợi ích có được từ
các phương thức tiếp cận có tính hiếu kỳ, gây ngạc nhiên và thân thiện [6].
Tính đa nguyên này cũng phù hợp trong lĩnh vực trị liệu gia đình. Trái ngược với nhãn quan hiện
đại (modernist view), không có lý do gì để chúng ta phải chấp nhận duy nhất một học thuyết về
1
Đối với một nhà tâm lý trị liệuàđượcàđ oàtạo theo kiểu y khoa, bài khảo luận này, ít nhất,àcũ gàcóàthể mang tính
ơàhồ khi so sánh với những thành công tuyệt vờiàđược ghi nhậ àtro gàlĩ hàvực sinh – y học, mộtàlĩ h vực chẳng
dựaàtrê àđiều gì khác ngoài những sự kiện thực tế chắc chắn. Tuy nhiên, trong cách tiếp cận làm việc có tính nhân
bản (bao gồm cả tâm lý trị liệu),àtí hàđaà gu ê phảiàl àđiều nổi bật.
2
Kỷ nguyên Ánh Sáng (Enlightenment): Mộtàtr oàlưuàtriàthức ở Châu Âu vào khoảng thế kỷ 17 và 18, nhấn mạnh
vào lý lẽ và chủ ghĩaàc à h à hiềuàhơ àl àtru ền thống. Nó chịu ả hàhưở gàs uàđậm bởi các triết gia thế kỷ 17
hưàDescartes, Locke, and Newton, cùng những gười xuất chúng đ àtriển khaià uàhướng này hưàKant, Goethe,
Voltaire, Rousseau, và Adam Smith. (N.D.)
4
gia đình hoặc chấp nhận chỉ một trong s các hệ chuẩn mực về gia đình. Những gì đang xảy ra
ngày càng nhiều hơn trong văn hóa của chúng ta, những quan sát về những hiện tượng khác
nhau, sẽ cung cấp cho thêm chúng ta nhiều lý lẽ để tranh luận. Ý tư ng về một gia đình có hai
hoặc ba thế hệ, với ông bà, cha mẹ và con cái, không còn là một chuẩn mực phổ biến nữa (cả về
mặt th ng kê lẫn như một điều lý tư ng). Cũng sẽ không có được những định nghĩa rõ rệt về thế
nào là “lành mạnh” và “bệnh hoạn”, hoặc thế nào là “đúng chức năng” và “loạn chức năng”.
Điều có thể được xem là “t t” vào lúc này, nơi này, lại có thể tr thành “bệnh” hoặc “tệ” vào lúc
khác, nơi khác. Cách đây không lâu, khi diễn ra những cuộc cách mạng về tập quán và công
nghệ vào khoảng đầu thế kỷ, những quan sát này, dù là khá rõ ràng, đã được xem như thể là
những tình trạng vô tổ chức hoặc phi chuẩn mực một cách thiếu căn cứ. Những lý thuyết v n
được xem như là nguồn để rút ra những phán xét hợp lý lúc ấy đã tr nên không đáng tin nữa. Từ
quan điểm lý thuyết – nhận thức, việc này làm cho thực tại càng tr nên mập m hơn thay vì là
làm rõ nó. Tom Andersen, khi gợi lại một s kiểu thành kiến và mê tín, đã chỉ ra rằng những kỹ
năng then ch t khi tiếp xúc với các gia đình phải là khả năng “đi vào bên trong câu chuyện của
gia đình”, trong lúc đó phải b qua hoặc đặt những lý thuyết của nhà trị liệu sang một bên, những
lý thuyết hóa ra lại che đậy chứ không giúp chúng ta hiểu được gia đình ấy. Đáng lưu ý là nửa
thế kỷ trước đây, một bác sĩ tâm thần nổi tiếng của Ba Lan, Antoni Kępiński, đã cảnh báo về
những m i nguy hiểm tiềm tàng khi chúng ta quá bám dính vào các khái niệm trong lý thuyết.
Xin trích dẫn l i của ông: “Sẽ không t t cho cả nhà tâm thần học lẫn bệnh nhân khi họ để cho
chính mình chịu ảnh hư ng quá mạnh b i những giả thuyết có tính chắc chắn hoặc bị ảnh hư ng
b i những điều được rút ra từ kết quả của những nghiên cứu khoa học quan trọng. Cách này thực
sự có thể dẫn đến những diễn giải sai lầm về tình trạng thực của bệnh nhân.” [9]
Chủ đề này có thể được làm rõ hơn trong các sơ đồ trình bày bên dưới đây.
Vấn đề này cũng được tóm tắt rõ trong một trích dẫn từ żaston Bachelard: “Để có thể suy nghĩ,
ngư i ta cần phải quên đi thật nhiều những gì mà mình đã được học…”
2. Vai trò c a ngôn ng và thuy t ki n t o xã h i (social constructionism).
Điểm then ch t thứ hai của chủ thuyết hậu hiện đại là vai trò của ngôn ngữ trong sự diễn ngôn xã
hội (social discourse). Theo lẽ thư ng tình thì ngôn ngữ phản ánh thực tại, nhưng những ngư i
theo chủ thuyết hậu hiện đại lại đưa ra những ý kiến xa hơn đó là: ngôn ngữ cũng góp phần kiến
tạo thực tại thay vì chỉ đơn giản là miêu tả nó. Thực tại là một “kiến tạo xã hội” (social construct)
được tạo nên b i ngôn ngữ. Sự diễn ngôn về thế gian không chỉ là một bức bản đồ của thế gian
mà còn là hiệu ứng có được từ sự trao đổi bằng ngôn ngữ trong xã hội. Thực tại được mô tả, hay
nói cách khác là được “định dạng bằng ngôn ngữ” (linguisticated), để sử dụng một thuật ngữ có
tính r i rắm về triết học nhưng theo nhiều cách lại có thể chỉ ra được điểm chính yếu của nó, và
chính những tiêu chí xã hội hoặc chính trị mới có thể làm cho một phương pháp nào đó tr nên
có tính chính đáng, hợp lệ. Những ngư i hiện đang nắm giữ quyền lực (không nhất thiết theo
nghĩa chính trị và trực tiếp) và hành xử bên trong khuôn khổ ấy – sử dụng thuật ngữ cổ điển của
trư ng phái Foucault [11] – đã dự phần vào sự diễn ngôn và diễn nghĩa cho thực tại. Ví dụ,
5
những gì mà theo cách diễn ngôn kiểu thần học th i Trung Cổ gọi là “bị ma quỷ ám” thì ngày
nay được gọi tên là “r i loạn phân ly”, theo cách diễn ngôn của y khoa.
Vai trò của nhà trị liệu đang thay đổi trong một b i cảnh như thế. Theo các mô hình hiện đại,
một nhà trị liệu không chỉ phải biết rõ những gì đang gây ra vấn đề nơi bệnh nhân (hoặc trong
một gia đình), những gì mà bệnh nhân đang cần để tr nên lành mạnh hơn và làm thế nào để đạt
được điều ấy, mà (để sử dụng ngôn ngữ của lý thuyết trị liệu của mình) nhà trị liệu còn phải đề
xuất nên một thực tại có tính chuyên biệt. Chẳng hạn như một nhà trị liệu gia đình theo trư ng
phái cấu trúc sẽ suy nghĩ và phát biểu ý nghĩ một cách trực tiếp trong tiến trình trị liệu sao cho
gia đình có thể hồi phục lại chức năng vận hành của mình nếu nó được cấu trúc lại một cách
đúng đắn (nó giúp bảo tồn những đư ng biên giới chức năng giữa các thế hệ, b trí lại những
m i quan hệ bộ ba và giới thiệu cho gia đình những cách thức phân chia quyền hành vv…).
Trong khi đó, theo cách tiếp cận hậu hiện đại, nhà trị liệu không vin vào những hiểu biết có trước
của mình, ông ta không phải là một “chuyên gia”, hoặc nếu là chuyên gia, ông ta chỉ là một
“chuyên gia nói chuyện t t” mà thôi. Không có một mô hình gia đình nào, cũng không có một
phương thức trị liệu được định rõ nào khác hơn là những gì nẩy sinh ra trong cuộc đ i thoại giữa
các bên tham gia vào tiến trình đầy sang tạo này. Một phần trong chương trình làm việc của nhà
trị liệu là phải biết “không tin vào lý thuyết”, mà điều đó có nghĩa là những giả thuyết của nhà trị
liệu phải được duy trì trong một “trạng thái can thiệp” (state of intervention) (gợi nhớ một phạm
trù của Gianfranco Cecchino [12]), nghĩa là những giả thuyết ấy có thể được dùng đến hoặc b đi
cũng được. Việc kiểm định các giả thuyết và tìm kiếm những câu chuyện kể theo cách mới
không thể xảy ra trong một bầu khí tiêu cực thiếu tính hỗ trợ, mà như là (lại sử dụng đến một từ
quan trọng đ i với những nhà trị liệu theo xu hướng hậu hiện đại) một sự “sáng tạo” chung giữa
nhà trị liệu và các thành viên trong gia đình [13].
Một ví dụ t t có thể được đơn cử đây đó là phương pháp “nhóm phản ảnh” (reflective team
method), thư ng được dẫn ra như một thể thức kinh điển của xu hướng hậu hiện đại, được dựa
trên sự hợp tác bằng ngôn ngữ (linguistic cooperation). Sự hiện diện một cách tự nhiên của
những phiên bản đa dạng trong cách nhận thức về thế giới, nhất là trong b i cảnh trị liệu gia
đình, là điều đặc biệt đáng lưu ý đây. Với rất nhiều những ý kiến phản ảnh đến từ những “bình
luận viên” khác nhau sẽ khiến không ai “bị che mắt” trước vấn đề và sự mô tả câu chuyện sẽ
được m rộng dần dần thông qua sự chấp nhận của bệnh nhân (gia đình hoặc bất cứ thành viên
tham dự nào trong phiên trị liệu “theo kiểu Andersen”) về những phát biểu có tính chất “hết sức
khác biệt” so với “bức bản đồ” đã được lập ra cho đến lúc đó.
3. Tính thực d ng (pragmatism)
Phương pháp được trình bày trong phần trên đã minh họa một khía cạnh c t lõi khác của nhãn
quan hậu hiện đại. Kiến thức (dù là các học thuyết cao cấp, trừu tượng, hoặc sự hiểu biết trình
độ thấp hơn của một gia đình cụ thể nào đó) cũng chỉ như phiên bản của một bản tư ng trình,
của một khái niệm được khái quát hóa về những loại phương thức nào có thể được áp dụng thành
công. Chúng ta không đòi h i phải nhận biết được chân lý, mà chỉ cần biết được một bản tư ng
6
trình về nó – cái mà từ đó sẽ hướng dẫn chúng ta đến một phương thức có thể chứng minh là
thành công. Không cần nói ta cũng thấy rằng phương thức ấy không nhất thiết cần được mô tả là
“đúng”, mà chỉ đơn giản là “phù hợp” và mang lại những kết quả đáng kể cho việc trị liệu tâm
lý.
4. Làm vi c theo bối c nh (contextualism)
Các hiện tượng cần được quan sát trong b i cảnh của chúng. Không có b i cảnh, chúng sẽ tr
nên phiến diện, chẳng hạn như ( đây ta sử dụng một ví dụ được ưa thích b i những nhà trị liệu
theo trư ng phái chiến lược) ngư i ta không thể hiểu được sự chuyển động của những chiếc
mang của một con cá đã giúp rửa sạch b biển như thế nào, nếu như xem xét chúng bên ngoài
môi trư ng tự nhiên của chúng. Cách tư duy theo b i cảnh trong liệu pháp gia đình là cách nghĩ
không thể tránh kh i vì ta bắt buộc phải xem xét đến bản chất của việc (một cá nhân) là một
phần của gia đình. Một con ngư i là một phần của hệ th ng gia đình và việc trị liệu hệ th ng gia
đình dựa trên thực tế đơn giản ấy. Kết quả là, cách trả l i cho câu h i “bệnh lý là gì?” đang thay
đổi. Trái ngược với cách hiểu theo truyền th ng về bệnh lý, nó “không được nhận thấy trong một
ngư i bệnh” mà, có thể nói, là được thấy trong những mô hình tương tác của gia đình. Bệnh
nhân chỉ định (I.P.) chỉ là một ngư i “mang bệnh lý”. Những triệu chứng có thể chứa đựng
những đặc trưng mang tính ẩn dụ cho sự giao tiếp bên trong gia đình. Sự phân tích các m i quan
hệ xoay vòng và các phản hồi sẽ dẫn đến sự chuyển đổi từ dạng ngôn ngữ đánh giá và phê phán
sang thể loại ngôn ngữ có tính mô tả, hoặc với rất nhiều kiểu cách mô tả, về những câu chuyện
được trần thuật có liên quan qua lại với nhau. Các cá nhân sẽ cùng cộng tác trong một mạng lưới
có tính b i cảnh (contextual network).
Hình III.1. Nếu nhà trị liệu vẫn để tâm trí rộng m , không có bất cứ thành kiến nào về “bức bản đồ” (hoặc “văn
bản”) của thân chủ đang tìm đến để được giúp đỡ, nhà trị liệu sẽ nhận được sự miêu tả có tính chất “nguyên vẹn” và
“thanh khiết” b i chính lý thuyết của mình (những mũi tên vẫn còn trong sáng)
Bên trái: “Bản đồ” của bệnh nhân, thân chủ, gia đình…
Bên phải: “Bản đồ” của nhà trị liệu (chẩn đoán)
7
Học thuy t c a nhà tr li u
Hình III.2. Tuy nhiên, nếu học thuyết của nhà trị liệu tạo nên một khuôn mẫu nhận thức rõ ràng, việc này sẽ ảnh
hư ng đến các thông tin mà nhà trị liệu nhận được từ thân chủ (các mũi tên bị sẫm màu một phần)
Học thuy t đ ợc mở r ng c a nhà tr li u
Hình III.3. Khi học thuyết càng được m rộng (tấm “màn lọc lý thuyết” càng dày hơn), hình ảnh về thân chủ sẽ càng
bị bóp méo b i học thuyết ấy (những mũi tên đậm lên một cách rõ rệt)
8
Học thuy t đ ợc nhà tr li u khai triển m t cách đáng kể
Hình III.4. Khi học thuyết được nhà trị liệu triển khai một cách đáng kể, việc đó sẽ tạo nên một tấm màn che phủ lên
hình ảnh của thân chủ đang tìm kiếm sự giúp đỡ, đến một mức độ khi nhà trị liệu nếu cứ “ trong học thuyết của
mình” thì sẽ không thể nhìn thấy được hình ảnh có thật về thân chủ.
Hình III.5. Bức “bản đồ” về thân chủ (bệnh nhân, gia đình…), đó là sự nhận thức một cách chủ quan về thực tại
(dưới dạng những hình ảnh, mô tả…)
9
Hình III.6. Sự phản ảnh từ nhà trị liệu, chuyên viên tư vấn và các thành viên trong nhóm phản ảnh (những dấu sao *
trong hình). mỗi th i điểm, những phản ảnh này có thể xa hay gần so với những nhận thức của gia đình.
Theo nguyên tắc có sự đa dạng về phiên bản, chúng rất khác nhau, đặc biệt là không gắn kết hoặc nhất trí với nhau
lắm. Đ i với “chủ nhân của bức bản đồ”, những phản ảnh được xem là hữu ích nhất sẽ là những phản ảnh gần với
bức “bản đồ” của ngư i ấy và tạo nên một “trư ng khác biệt t i ưu” (field of optimal difference).
Hình III.7. Những đư ng biên giới mới của bức “bản đồ” (về nhận thức). Bản đồ nay đã được m rộng (nói theo
cách của Michael White [15] là từ m ng tr nên dày hơn)
10
NH NG TI N Đ KHÁC C A XU H
TÂM LÝ TR LI U
NG H U HI N Đ I HI N DI N TRONG
Không thể nào bàn luận một cách chi tiết hết tất cả những ứng dụng của tư duy hậu hiện đại vào
tâm lý trị liệu. Tuy nhiên, trong s những chủ đề xuất hiện trong các tài liệu nói về xu hướng hậu
hiện đại, những ví dụ sau đây đáng được đề cập đến:
Nh ng câu chuy n kể (narratives)
Phạm trù này đã từng được đề cập đến. Từ “chuyện kể” là điểm then ch t của chủ thuyết hậu
hiện đại và nó cũng làm sáng t phương pháp làm việc của các nhà trị liệu [16]. Từ sách Sáng
Thế Ký cho đến những sản phẩm của Hollywood đều là những câu chuyện mà chúng ta suy nghĩ
về thế giới. Các nhà trị liệu hậu hiện đại tập trung rất nhiều vào thực tế đó, b i vì đúng là việc
tư ng thuật câu chuyện có thể “áp chế” [17] tr lại đ i với tác giả của nó, trị liệu có thể giải thoát
bệnh nhân của sự áp chế này và làm cho họ có thể s ng theo những ý định của riêng mình.
Không có nghĩa là (như tôi đã chỉ ra trước đó) nhà trị liệu có một quyền năng nào đó để cho rằng
sự diễn giải của mình, các tư duy kiến tạo của mình về thực tại là t t hơn hoặc “đúng hơn” của
bệnh nhân hay của gia đình bệnh nhân. Tuy nhiên, nhà trị liệu có thể tạo ra sự phản ảnh mức
độ nhất định lên câu chuyện của bệnh nhân, thông qua thay đổi hệ quy chiếu, và, kết quả là, thay
đổi ý nghĩa của câu chuyện và làm bật lên những “ẩn ý” bị cho là không quan trọng. Kết quả của
sự bình giải một câu chuyện gây bế tắc là tác giả/bệnh nhân có thể tìm kiếm một câu chuyện mới
giúp họ vượt qua bế tắc này. Trong b i cảnh này, liệu pháp sử dụng câu chuyện kể (narrative
therapy) tự nó đã có tính hậu hiện đại, xét trên khía cạnh nó nhấn mạnh ngôn ngữ như là tác
nhân tạo nên thực tại.
V n đ v quy n lực
Từ nhãn quan lịch sử, Michael Żoucault đã phân tích những hiện tượng như là sự điên rồ và bản
năng tình dục và mô tả m i quan hệ giữa quyền lực và kiến thức [19, 20]. Những kiểu mẫu giao
tiếp và sử dụng ngôn ngữ trong gia đình đều có liên quan đến quyền lực. Gi ng như trong th i
tiền hiện đại, kiến thức được quy kết với tuổi tác (câu tục ngữ “sự thông thái của ngư i cao
tuổi”), trong th i hậu hiện đại, thế hệ trẻ được đánh giá cao hơn, vì họ học h i t t hơn từ những
thành tựu của cách mạng công nghệ - kỹ thuật s . Hậu quả là, sự căng thẳng giữa những ngư i
có quyền lực thực sự và ngư i có “quyền lực về mặt ngôn ngữ” là không tránh kh i. Đây là một
trong những cách lý giải cho khủng hoảng v n có trong các gia đình hiện đại.
V n đ v sự lo i trừ (exclusion)
Quan điểm bảo vệ nữ quyền, bắt rễ sâu xa từ xu hướng hậu hiện đại, đã chỉ ra ảo tư ng về sự tồn
tại của những “lý thuyết khách quan” [21]. Có nhiều lý thuyết, mà rất nhiều câu chuyện v n
được cho là có tính phổ quát ấy lại không thư ng được chấp nhận, b i vì chúng được viết ra từ
một quan điểm có động cơ chính trị (các nhà phê bình theo chủ nghĩa bảo vệ nữ quyền cho rằng
quan điểm này là của nam giới và đã gạt những điều liên quan đến nữ giới ra ngoài). Việc lưu ý
11
đến quan điểm của những ngư i bị loại trừ dư ng như đã gây ra sự cảm hứng khác thư ng giúp
vượt qua được vấn đề liên quan đến định kiến về tính ưu việt của nam giới và đặc tính phụ quyền
về mặt kiến thức, mà từ đó dẫn đến việc nắm giữ quyền lực của nam giới. rất nhiều nơi và tại
nhiều th i điểm khác nhau, những ngư i bị loại trừ không chỉ là phụ nữ mà còn là những ngư i,
mà theo ngôn ngữ y khoa, đang được điều trị như bệnh nhân tâm thần, ngư i già, những cộng
đồng thiểu s về chủng tộc, tôn giáo hay xu hướng tình dục. Tính nhạy cảm trong xu hướng hậu
hiện đại đã giúp nhận ra sự cần thiết phải hoài nghi những lý thuyết đang thịnh hành và xác định
xem chúng đang đại diện cho lợi ích của ai (của nam giới? của tầng lớp trung lưu? hay của ngư i
da trắng?). Tinh thần c i m đón nhận những lý thuyết khác là một trong những tiền đề trung
tâm của xu hướng hậu hiện đại, một thứ đạo lý hướng đến từng cá nhân.
NH NG PHÊ BÌNH DÀNH CHO XU H
NG H U HI N Đ I
Hậu hiện đại không phải là một quan điểm được chia sẻ một cách phổ biến. Những lý lẽ ch ng
lại chủ nghĩa hậu hiện đại có thể được tóm tắt trong ba điểm:
Những người theo chủ nghĩa hậu hiện đại bác bỏ những thành tựu của khoa học hiện đại,
tự đặt họ ra khỏi lĩnh vực khoa học. Đ i với ý kiến chỉ trích này, những ngư i theo chủ
nghĩa hậu hiện đại thư ng hồi đáp rằng họ không bác b những thành tựu của khoa học
tự nhiên và công nghệ kỹ thuật (đúng là họ sử dụng máy tính để viết những luận án và
nếu không có công nghệ thì không có máy tính), nhưng họ chú ý đến phương pháp tiếp
cận mang tính tự phụ và những ảnh hư ng tiêu cực của cách thức diễn ngôn mang tính
hàn lâm. Safran và Messer [17], những ngư i ủng hộ chủ nghĩa hậu hiện đại, kết luận,
tính đa nguyên vận hành hơi gi ng với một phương thu c trong y khoa: nếu được sử
dụng đúng liều, nó sẽ giải độc một cách hiệu quả cho sự áp chế của chủ nghĩa duy lý
nhưng nếu dùng quá liều sẽ dẫn đến tính tương đ i. Một đại diện hàng đầu của chủ nghĩa
hậu hiện đại, Kenneth Gergen, cho rằng [22] sự hoài nghi có tính lập trình của xu hướng
hậu hiện đại cũng được áp dụng cho chính xu hướng hậu hiện đại.
Những lý lẽ liên quan đến đạo đức dường như là những ý kiến chủ đạo chống lại chủ
nghĩa hậu hiện đại, và mối quan tâm chủ đạo là tính tương đối và sự hư vô về luân lý.
Nếu chúng ta cho phép tính tương đ i – và thực sự là khi càng có nhiều ngư i tham gia
diễn ngôn thì càng có nhiều phiên bản – chúng ta sẽ tr nên khoan dung với tất cả, bao
gồm cả những điều xấu. Lẽ nào mà tình c một khẩu hiệu hậu hiện đại nổi tiếng “mọi
chuyện đều qua đi” (“everything goes”) lại không dùng biện minh cho tội ác sao? Liệu có
phải một tội ác rõ ràng lại có thể được hợp pháp hóa theo quan điểm nhân văn nói chung
hoặc trong lúc đang trị liệu, khi lập quan hệ với một bệnh nhân hay gia đình nào đó mà
những tình trạng lạm dụng thể chất, tình dục hay văn hóa đang diễn ra? Những ngư i
theo chủ nghĩa hậu hiện đại cho rằng chủ đề đạo đức không nên dựa trên các bộ luật và
điều luật, mà đầu tiên là phải dựa trên ý thức và trách nhiệm thư ng xuyên mỗi con
12
ngư i theo quan điểm có tính nhân bản: đó cũng chính là trách nhiệm của nhà trị liệu đ i
với bệnh nhân/thân chủ của họ [23, 24]. Nhà trị liệu phải chịu trách nhiệm đ i với những
ảnh hư ng mà họ tạo nên. Tuy nhiên, trong vài năm tr lại đây, ngay cả những ngư i
theo chủ nghĩa hậu hiện đại cũng đã gia tăng nhận thức rằng thực sự khó mà s ng được
trong một thế giới nếu không có những chuẩn mực đạo đức phổ quát.
Một luận điểm cuối cùng đáng được đề cập đến là luận điểm dường như thường được xây
dựng để tấn công bất cứ phương pháp tiếp cận mới nào: xu hướng hậu hiện đại thường
bị cáo buộc là chẳng có gì mới mặc dù ra vẻ là độc đáo. Những ngư i theo chủ nghĩa
hậu hiện đại ít lo lắng về luận điểm này nhất, b i vì họ sẵn lòng chấp nhận bất cứ những
điều gì mới mẻ, khác lạ, ngoại lai, có thể được trích dẫn hoặc vay mượn. Sự phân chia thế
giới thành những mảnh nh (như trong nghệ thuật cắt dán) là một trong những đặc điểm
giúp nhận diện xu hướng hậu hiện đại. Có rất nhiều câu chuyện hiện diện trong chúng ta
mà không phải lúc nào cũng xác định được nguồn g c của chúng.
K T LU N
Nhãn quan hậu hiện đại vẫn còn bị chỉ trích vì nhiều lý do [so sánh với 25]. Tuy nhiên, dù thích
hay không, chúng ta, với tư cách những nhà trị liệu đang dự phần trong nền văn hóa, vẫn “bị ném
vào” trào lưu hậu hiện đại cùng với những bệnh nhân và thân chủ của chúng ta. Với ý nghĩa ấy,
nhiều ngư i trong chúng ta, khi sử dụng các b i cảnh văn hóa và ngôn ngữ như một phần quan
trọng của tiến trình trị liệu, hẳn sẽ nên nhạy bén hơn với xu hướng hậu hiện đại và nhận biết về
những biểu hiện của xu hướng ấy. Với tư cách là những nhà trị liệu, chúng ta hẳn nhiên sẽ không
xem xét đến chuyện thuyết hậu hiện đại có “đúng” hay không; tuy nhiên, chúng ta có quyền và
có cơ hội t t để rút ra từ thuyết hậu hiện đại những gì mà chúng ta xem là hữu ích cho bệnh nhân
và thân chủ của chúng ta.
Vậy tại sao những nhà tâm lý trị liệu lại cần đến chủ thuyết hậu hiện đại? Tôi nghĩ rằng
với tất cả những tính chất khiêu khích, cực đoan, bế tắc, cùng những nguy cơ nghiêm
trọng của sự vô tổ chức về học thuật và phi chuẩn mực về văn hóa của nó, nhãn quan này
vẫn có thể mang đến một thông điệp quan trọng cho những nhà trị liệu:
Hãy thận trrọng, và thậm chí là không nên tin tư ng vào những tư tư ng, những phán xét
của chính các bạn và cả những học thuyết mà bạn đang dựa vào. Đừng nghĩ rằng bạn biết
nhiều hơn về những gì mà ngư i khác cần có trong đ i s ng của họ.
Hãy xem xét b i cảnh (quan hệ liên cá nhân, các yếu t văn hóa, kinh tế và chính trị).
Không xét đến b i cảnh, bạn sẽ không thể tiếp cận đến những “ý nghĩa” ẩn bên dưới
những điều được xem là “sự kiện thực tế”.
Hãy nhớ rằng ngôn ngữ có vai trò đồng th i tạo nên thực tại. Đây là lý do giải thích cho
điều rất quan trọng là bạn cần nhận biết về những gì bạn nói, bạn nói những điều đó trong
13
hoàn cảnh như thế nào và những thành kiến đã bộc lộ ra khi bạn nói sẽ có thể gây nên
những hệ quả đ i với thân chủ đang cần đến sự giúp đỡ của bạn.
Hãy nhận thức rõ về tính phức tạp của những cách thức giải trình về cuộc s ng cùng vô
s những câu chuyện kể và đừng tự cho rằng câu chuyện kể theo cách của bạn mới là
đúng hơn, là quan trọng hơn, là thật hơn.
Hãy tính đến trách nhiệm và luân lý của của chính bạn hơn là những bộ luật và điều luật.
Đ i với một s ngư i, những điều chỉ dẫn này có thể là tầm thư ng và hiển nhiên, nhưng đ i với
những ngư i khác, có thể họ sẽ kh i lên những phản bác. Những tính chất mơ hồ này có lẽ là sự
phản ảnh lại bản chất của th i đại mà chúng ta đang s ng, của tinh thần hậu hiện đại.
14
REFERENCES
1. Appignanesi R, Garratt Ch. Introducing postmodernism. Royston: Icon Boos; 2004.
2. Bauman Z. Ponowoczesność jako ĺródờo cierpień. Warszawa: Wydawnictwo Sic; 2000.
3. Pierce F, Sprenkle D, Wetchler J. Family therapy sourcebook. 2nd edition. New York: The Guilford Press; 1996.
4. Anderson H, Gehart D. Collaborative therapy. Relationships and conversations that make a difference. New York:
Routledge; 2007.
5. Rambo A. The collaborative language-based model. In: Hecker LL, Wetchler JL.eds. Introduction to marriage and family
therapy. New York: The Haworth Clinical Practice Press; 2003.
6. Safran JD, Messer SB. Psychotherapy integration: A postmodern critique. Clin. Psychol. Sc. Pract. 1997; 4: 140–152.
7. Andersen T. The reflecting team: Dialogues and dialogues about the dialogues. Broadstairs: Borgman; 1990.
8. Gadamer H.-G. Prawda i metoda. Zarys hermeneutyki filozoficznej. Kraków: Wydawnictwo inter esse; 1993.
9. Kępiński A. Podstawowe zagadnienia wspóờczesnej psychiatrii. Warszawa: PZWL; 1978. p. 128–129.
10. Skarga B. Czờowiek to nie jest piękne zwierzę. Kraków: Znak; 2007.
11. Foucault M. Archeologia wiedzy. Warszawa: PIW; 1977.
12. Cecchin G. Budowanie moļliwości terapeutycznych i ichlekcewaļenie. In: Cecchin ż. ed. Mediolańska szkoờa terapii rodzin.
Wybór prac. Kraków: Wyd. Collegium Medicum UJ; 1995.
13. Deissler K. Terapia systemowa jako dialog. Odkrywanie samego siebie? Kraków: Wydawnictwo Uniwersytetu
Jagiellońskiego; 1998.
14. de Barbaro M, de Barbaro B. Tom Andersen i jego koncepcja teamu reflektującego. Psychoter. 1998, 4, 107: 65–76.
15. White M. Reflections on narrative practices: Essays and interviews. Adelaide, Australia: Dulwich Centre Publications; 2000.
16. Monk G, Winslade J, Crocket K, Epston D. Narrative therapy in practice. The archeology of hope. San Francisco: JosseyBass; 1997.
17. Parry A, Doan R. Story re-vision. Narrative therapy in the postmodern world. New York: The Guilford Press; 1994.
18. de Barbaro B. Narracje rodzinne: terapia poprzez szukanie nowych opowieści. Psychol. Jakości Ļycia 2006, 5, 2:257–271.
19. Żoucault M. Historia szaleństwa w dobie klasycyzmu. Warszawa: PIW; 1987.
20. Foucault M. Historia seksualności. Warszawa: Czytelnik; 1995.
21. Józefik B, de Barbaro B. eds. Terapia rodzin a perspektywa feministyczna. Kraków: Wydawnictwo Uniwersytetu
Jagiellońskiego; 2004.
22. Gergen K. Psychological science in a postmodern context. Am. Psychol. 2001, 56, 10: 800–813.
23. Donovan M. Family therapy beyond postmodernism: some considerations on the ethical orientation of contemporary practice.
J. Fam. Ther. 2003, 25: 285–306.
24. Gergen K. Social construction as an ethics of infinitude: Reply to Brinkmann. J. Hum. Psychol. 2006, 46, 2: 119–125.
25. Locke E. The dead end of postmodernism. Am. Psychol. 2002, 57, 6.
15