Academia.eduAcademia.edu
VNH3.TB6.798 BI N Đ I XÃ H I VI T NAM QUA H N 20 NĔM Đ I M I GS.TS Hoàng Chí Bảo Hội đồng Lý luận TW 1. Dẫn luận Tính đến th i điểm hiện nay (2008), đổi mới Việt Nam đã tr i qua hơn 20 năm, hơn 1/5 thế kỷ. Trong kho ng th i gian đó, Việt Nam đã diễn ra r t nhiều biến đổi trên các lĩnh vực của đ i sống. Trong những biến đổi đó, có biến đổi xã hội, tức là biến đổi về mặt xã hội, phương diện xã hội của xã hội tổng thể. Có thể nói, đã đủ th i gian cho việc tổng kết, đánh giá những biến đổi này. Nó cần thiết chẳng những cho nhận thức mà còn cho việc hoạch định đư ng lối của Đ ng, xây dựng và điều chỉnh chính sách, luật pháp, cơ chế qu n lý của Nhà nước, hướng tới phát triển và theo đuổi các mục tiêu phát triển bền vững. Nghiên cứu biến đổi xã hội Việt Nam qua hơn 20 năm đổi mới là nghiên cứu những biến đổi th i kỳ đương đại, nó đã và đang diễn ra, nó sẽ còn tiếp tục diễn ra, cùng với tiến trình đổi mới. Biến đổi xã hội Việt Nam, một mặt là hệ qu trực tiếp của đổi mới xã hội nói chung, trong tổng thể, chỉnh thể của nó, nh t là từ đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, cùng với những tác động vừa trực tiếp vừa sâu xa của những đổi mới, những biến đổi về văn hoá, về môi trư ng và hoàn c nh xã hội. Và điều này cũng không kém phần quan trọng, những biến đổi xã hội đã tác động tr lại đối với những biến đổi kinh tế, chính trị và văn hoá. Tác nhân xã hội là điều không thể không tính đến trong sự nhận diện, phân tích và đánh giá về đổi mới, phát triển và tiến bộ xã hội Việt Nam nói chung. Mặt khác, đổi mới Việt Nam còn gắn liền với m cửa và hội nhập quốc tế. Đây chẳng những là sự thay đổi căn b n về tư duy, nhận thức đối với phát triển mà còn thay đổi c về cách thức và mô hình phát triển của Việt Nam trong bối c nh mới của thế giới toàn cầu. Thế giới mà t t c chúng ta đang sống và đang hoạt động trong đó là một thế giới đang diễn ra những biến đổi vô cùng nhanh chóng, phức tạp, với không ít những đ o lộn, những đột biến thật khó lư ng. Trong thế giới y, sự tồn tại và phát triển của các nước, các quốc gia - dân tộc trong thế phụ thuộc và tùy thuộc lẫn nhau. Đó thực sự là một thế giới thống nh t trong những khác biệt, thống nh t bao hàm c những mâu thuẫn và xung đột. B i thế, ổn định sóng đôi cùng những b t định, hợp tác đi liền với cạnh tranh, đồng thuận sẽ lớn lên mà đ u tranh cũng gia tăng, thậm chí có những th i điểm tr nên gay gắt và quyết liệt. Đó cũng là một thế giới phát triển trong đa dạng, phát triển luôn là một quá trình phức tạp, thời cơ lớn để phát triển đan xen cùng những thách thức nghiệt ngã trên con đường phát triển. 1 Phát triển và hiện đại hoá thông qua đổi mới, c i cách, m cửa và hội nhập, đó là một cơ hội, một kh năng to lớn luôn m ra những triển vọng tích cực. Nó cũng đồng th i ph i đối mặt với những cạm bẫy và nguy cơ rơi vào những tình huống x u của ph n phát triển, ph n văn hoá một cách tồi tệ. Thành hay bại trong việc xử lý mối quan hệ phức tạp này tùy thuộc vào tầm nhìn và hành động của các nhà nước, các chính phủ khi gi i quyết các v n đề phát triển trong nước, không tách r i sự chế ước và tính quy định của quốc tế, khu vực và thế giới toàn cầu. Với đổi mới, ngay trong những năm đầu tiên kh i động sự nghiệp này, Việt Nam mong muốn là bạn của t t c các nước. Việt Nam thực hiện m rộng hợp tác song phương và đa phương, cùng tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, cùng có lợi, cùng nhau ph n đ u cho hoà bình, hữu nghị, hợp tác, ổn định và phát triển. Việt Nam chủ động m rộng các quan hệ bạn bè, đối tác, hội nhập ngày càng sâu vào đ i sống quốc tế, không để những khác biệt về ý thức hệ và chế độ chính trị c n tr hợp tác và phát triển. Khai thác và phát huy c nội lực và ngoại lực vì phát triển, Việt Nam đồng th i nỗ lực thực hiện các nghĩa vụ và các cam kết quốc tế, với tư cách là một thành viên của cộng đồng thế giới nhân loại. Đó là tinh thần cơ b n của thông điệp đổi mới và phát triển mà Việt Nam gửi tới các bạn bè đối tác, đó hàm chứa một nhận thức rằng, trong thế giới ngày nay, sự phát triển đơn tuyến (theo tiêu chí ý thức hệ và thể chế chính trị như kiểu mô hình Xô Viết trước đây) là không thực tế và thiếu tính triển vọng. Phát triển trong trạng thái khép kín, tự biến mình thành một ốc đ o, biệt lập với thế giới bên ngoài là điều không thể. Trong "một thế giới phẳng", đã hình thành và trong "một xã hội m " như một đặc tính, một thuộc tính tự nhiên, t t yếu và phổ biến1, phát triển chỉ có thể thực hiện được bằng cách m cửa ra bên ngoài, hội nhập với thế giới, thư ng xuyên đổi mới và không ngừng tìm kiếm bạn bè, m rộng đoàn kết và hợp tác trong tiếp xúc - giao lưu - đối thoại văn hoá. Hội nhập để cùng phát triển, tiếp biến để phát triển trong hội nhập, nh đó mà thực hiện tự phát triển với nghĩa là tự khẳng định mình trong phát triển. Nhà văn hoá lớn của n Độ và của thế giới - Nê Ru, trong một diễn văn về văn hoá tại diễn đàn Liên hợp quốc, hai mươi năm về trước đã từng nói, văn hoá là một kh năng nỗ lực hiểu biết ngư i khác và nỗ lực làm cho ngư i khác hiểu mình. Triết lý y thật là sâu sắc. Đổi mới của Việt Nam càng th m nhuần triết lý y; nó có lực đẩy từ sức mạnh của gi i phóng, hướng vào gi i phóng sức s n xu t và gi i phóng tinh thần, ý thức xã hội để gi i phóng và phát huy mọi tiềm năng của xã hội. Đổi mới còn được nuôi dưỡng từ mọi mạch nguồn sáng tạo, làm hiển lộ để phát huy và quy tụ mọi kh năng sáng tạo, từ sáng tạo của nhà lãnh đạo, các chính khách, các trí thức, học gi , chuyên gia đến sáng tạo và sáng kiến của mọi ngư i dân, khắp mọi vùng, miền đ t nước, trong nước cũng như nước ngoài... Đó là nguồn trữ năng của xã hội, nguồn vốn xã hội giúp ích cho công cuộc ch n hưng dân tộc, phát triển đ t nước để phát triển cá nhân và cộng đồng, vì tự do và hạnh phúc của con ngư i. 1 Xem: Thomas L. Friedman, Thế giới phẳng, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2006. Manrice Corn Forth, Triết học mở và xã hội mở, KHXH, H, 2002. 2 Biến đổi xã hội cũng như biến đổi các lĩnh vực khác của đ i sống Việt Nam được nhìn nhận từ tầm vóc và ý nghĩa như thế của đổi mới, của phát triển, của m cửa và hội nhập quốc tế. Vậy biến đổi xã hội Việt Nam hơn 20 năm đổi mới là biến đổi cái gì? đây, cần ph i nhận diện những v n đề xã hội của biến đổi. Chúng biến đổi như thế nào? nghĩa là ph i mô t những biến đổi đó để đánh giá tính ch t biến đổi của chúng, trong những biến đổi y có c mặt tích cực và hợp lý đồng th i có c mặt tiêu cực, những hệ lụy của phát triển cần ph i khắc phục. Cũng cần ph i th y những nhân tố nào tham dự vào việc tạo ra tính hai mặt của những biến đổi này, tức là cắt nghĩa những nguyên nhân của nó. Những biến đổi xã hội sẽ còn diễn ra với những xu hướng và động thái nào cần được dự báo? Đây là v n đề đặt ra cần thiết cho qu n lý các v n đề biến đổi và phát triển xã hội. Cuối cùng, nghiên cứu biến đổi xã hội để đem lại những cứ liệu xã hội thực tiễn được tổng kết và khái quát thành lý luận làm cơ s cho việc đề xu t các gi i pháp qu n lý, đặc biệt là những bổ sung hoặc điều chỉnh chính sách xã hội, hệ thống chính sách an sinh xã hội trong th i kỳ mới - th i kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đẩy mạnh hội nhập quốc tế của Việt Nam. Rõ ràng, nghiên cứu biến đổi xã hội Việt Nam trong hơn 20 năm đổi mới đã qua và hiện nay, có thể từ cách nhìn triết học xã hội về xã hội và con ngư i mà góp phần vào việc lý gi i phát triển xã hội và qu n lý sự phát triển xã hội. Phương diện này trong lý luận đổi mới Việt Nam còn ít được nghiên cứu, tổng kết cũng như dự báo. Do đó, biến đổi xã hội có thể và cần phải được nghiên cứu như một đối tượng đặc thù, một phân hệ hợp thành hệ thống đối tượng và khách thể của khoa học qu n lý phát triển xã hội. Đó là khoa học về phát triển, khoa học lãnh đạo và khoa học qu n lý phát triển xã hội với hạt nhân của nó là lý luận đổi mới, lý luận phát triển và hiện đại hoá. Các khoa học này đang dần hình thành và từng bước định hình Việt Nam, từng bước chuẩn bị cho sự chín muồi khoa học về chủ thuyết phát triển Việt Nam với sự kết hợp hữu cơ phát triển học và đổi mới học. Đây sẽ là những môn khoa học chẳng những r t cần thiết mà còn r t có triển vọng trong hội nhập quốc tế của Việt Nam. Có thể nói, cùng với Hồ Chí Minh học, các khoa học nêu trên sẽ góp phần làm phong phú và sâu sắc hơn Việt Nam học hiện đại và đương đại. Nghiên cứu biến đổi xã hội với tư cách là nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn đổi mới Việt Nam hơn 20 năm qua sẽ góp một tiếng nói, một l i bình, tuy khiêm tốn nhưng cần thiết để hiểu thêm đ t nước, con ngư i, dân tộc và xã hội Việt Nam vừa với tính hiện thực vừa với tính triển vọng của nó trong phát triển. 2. Nhận di n những bi n xã h i nhận thức lý luận Vi t Nam qua h n 20 nĕm đ i m i - những Phương diện hay chiều cạnh xã hội của những biến đổi Việt Nam qua hơn 20 năm đổi mới là một tập hợp lớn, bao gồm vô số nhiều những v n đề liên quan tới đ i sống của con ngư i và xã hội, của cá nhân và cộng đồng. 3 Đó chính là một tập hợp các vấn đề xã hội của tồn tại và phát triển của con người và xã hội. Dù đã khu biệt, giới hạn biến đổi xã hội theo nghĩa hẹp của phạm trù "xã hội" như vậy mà v n đề vẫn rất rộng lớn và phức tạp. Có những căn cứ để gi i thích quy mô rộng lớn và tính ch t phức tạp của những biến đổi xã hội, cũng đồng th i là phát triển xã hội Việt Nam th i đổi mới, m cửa và hội nhập, với các tác nhân quan trọng nổi bật là kinh tế thị trư ng, dân chủ hoá, xây dựng nhà nước pháp quyền, tổ chức đ i sống xã hội dân sự, xây dựng xã hội dân chủ, trên một đư ng hướng chiến lược là ổn định - đoàn kết - hợp tác - đồng thuận để phát triển dân tộc và hiện đại hoá xã hội Việt Nam. Sự tác động của những nhân tố nêu trên cũng đồng th i là những nội dung và nhiệm vụ xây dựng đ t nước, xã hội và con ngư i Việt Nam trong toàn bộ tiến trình đổi mới, mà hơn 20 năm qua mới chỉ là một chặng đầu. Hệ mục tiêu của đổi mới là định hướng cho việc gi i quyết các nhiệm vụ đó, cũng là chỗ đi đến, là tính hướng đích phát triển của Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Hệ mục tiêu này trùng hợp với những tiêu chí và điều kiện đ m b o phát triển, những giá trị phát triển theo tư tư ng Hồ Chí Minh. Ngư i ghi trong Di chúc điều mong muốn cuối cùng của Ngư i là, xây dựng thành công một nước Việt Nam hoà bình, thống nh t, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Ngư i theo đuổi nh t quán một hệ giá trị của phát triển vì con ngư i, cho con ngư i, c nghĩa hẹp và nghĩa rộng, c nghĩa rộng nh t. Đó là: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Thụ hư ng và làm chủ những giá trị y là mỗi ngư i, mỗi nhà, mỗi nước cho đến c loài ngư i. Các v n đề xã hội xem ra đều liên quan tới t t c những nội dung của cuộc sống, của hoạt động sống, trước hết là lao động và s n xu t, của tổ chức qu n lý, của đ u tranh để tạo dựng và gìn giữ chế độ. Rộng lớn và phức tạp là b i thế, từ biến đổi đến phát triển, từ biến đổi, phát triển trong nước đến biến đổi và phát triển của thế giới với những tác động phổ biến của toàn cầu hoá, của cách mạng khoa học - công nghệ, sự hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức, khi trật tự thế giới đã thay đổi. Biến đổi xã hội là rộng lớn và phức tạp còn b i chỗ, đó không chỉ là những biến đổi do tác nhân kinh tế gây ra mà còn chịu tác động r t mạnh mẽ từ chính trị và những biến đổi của thể chế chính trị lẫn môi trư ng xã hội. Như đã nói, biến đổi xã hội còn chịu nh hư ng từ văn hoá và hoàn c nh lịch sử - xã hội, trong đó con ngư i sinh sống. Hơn nữa, phương diện xã hội c u thành xã hội tổng thể và đ i sống xã hội hiện thực của cá nhân và cộng đồng là sự đan kết c hoạt động sống lẫn cơ c u tổ chức với các thiết chế và thể chế, tác động tới hoạt động sống của con ngư i; đó là c một mạng lưới các mối quan hệ và liên hệ xã hội, thông qua đó những biến đổi xã hội diễn ra cùng với những biến đổi của các lĩnh vực khác như kinh tế, chính trị và văn hoá. Đó là chưa nói đến những khía cạnh xã hội, những hệ qu xã hội có trong những biến đổi của kinh tế, chính trị hay văn hoá. Rõ nh t là tác động của chính sách tới hoạt động và cuộc sống của ngư i dân, của những nhóm xã hội - dân cư, 4 nhóm xã hội - nghề nghiệp khác nhau, miền, địa phương và cơ s ). các c p độ, phạm vi khác nhau (c nước, vùng, Nhận diện những biến đổi xã hội, ngoài việc xem xét quy mô rộng lớn và tính phức tạp của những biến đổi đó, gắn liền với những nhân tố tác động tới biến đổi xã hội, cần ph i xác định cụ thể nội dung của những biến đổi này. đây, c một tập hợp hay hệ thống lĩnh vực xã hội - các v n đề xã hội - các chính sách xã hội và hệ thống an sinh xã hội gắn liền mật thiết với nhau, có quan hệ với những biến đổi xã hội. Trong tập hợp và hệ thống này, có thể nhận th y: Cái biến đổi là lĩnh vực xã hội, tức là cái xã hội trong tương tác biện chứng với cái kinh tế. Biểu hiện trực tiếp của biến đổi xã hội, trước hết là những vấn đề xã hội đặt ra một cách trực tiếp trong đ i sống hàng ngày, gắn với những nhu cầu và lợi ích của con ngư i (cá nhân, nhóm, giới, lứa tuổi, thế hệ, cộng đồng...) hoặc là những hệ quả xã hội phái sinh từ những tác động, vận động của kinh tế, của chính trị. Công cụ, phương thức tác động tới biến đổi xã hội là thể chế, thiết chế, chính sách gắn với chủ thể qu n lý là nhà nước. Đối tượng tiếp nhận biến đổi, hoặc được thụ hư ng lợi ích từ những biến đổi tích cực hoặc ph i chịu những thiệt hại từ những biến đổi tiêu cực là con ngư i và cuộc sống của họ, là xã hội và cộng đồng xã hội. Song con ngư i, thông qua hoạt động, cùng với thể chế và thiết chế ràng buộc, nó lại chính là chủ thể tạo ra biến đổi đồng th i, một cách t t yếu lại tiếp nhận chính những biến đổi do mình tạo ra, kể c những biến đổi của môi trư ng. Xem xét những biến đổi xã hội từ phương diện con người - hoạt động và chính sách là xem xét sự vận động, tác động qua lại giữa chủ thể - đối tượng và đối tượng - chủ thể. Để có cơ s xem xét những biến đổi xã hội, từ sự phân tích trên đây, có thể khái quát như sau: Mặt xã hội là một tập hợp lớn, một hệ thống các v n đề xã hội trong phát triển, liên quan trực tiếp tới đ i sống của con ngư i như lao động và việc làm, mức sống, tình trạng đói nghèo, dân số, sức khoẻ và y tế cộng đồng, nhà , giáo dục, vệ sinh môi trư ng, an ninh giao thông, văn hoá tinh thần... nói tóm lại là t t c những v n đề của đ i sống cá nhân và cộng đồng, có tính chất và hệ quả xã hội mà xã hội và nhà nước ph i gi i quyết bằng chính sách. Đó là hệ thống chính sách xã hội và hệ thống chính sách an sinh xã hội1. Báo cáo của Chính phủ Việt Nam về phát triển xã hội tại Hội nghị Thượng đỉnh các quốc gia bàn về phát triển xã hội tại Capenhagen (Đan Mạch) từ 6-12/3/1995 đã đề cập tới 10 v n đề xã hội trong phát triển, đó là: 1) gi i quyết việc làm (một v n đề tổng hợp kinh tế - xã hội); 2) xoá đói gi m nghèo; 3) hoà nhập xã hội (chú trọng vào các nhóm xã hội quan trọng bị thua thiệt trong phát triển, dễ bị tổn thương); 4) gia đình (tăng cư ng vai trò của gia Xem Hoàng Chí B o, Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong tiến trình đổi mới, Lý luận chính trị, 10/08, tr.26. 1 5 đình như một thiết chế xã hội điển hình); 5) phát triển giáo dục; 6) dân số, kế hoạch hoá gia đình; 7) chăm sóc sức khoẻ cộng đồng; 8) b o trợ xã hội (b o hiểm xã hội và trợ giúp xã hội); 9) môi trư ng; 10) hạn chế và ngăn ngừa các hành vi phạm tội: ma túy, mại dâm, buôn lậu, tham nhũng, làm giàu b t chính. Xác định 10 v n đề xã hội đó thể hiện một cái nhìn toàn diện, làm cơ s xây dựng hệ thống chính sách phát triển. Thực tiễn đổi mới Việt Nam, gắn liền với hoàn c nh lịch sử đặc thù, còn cho th y 10 v n đề khác cần ph i quan tâm gi i quyết trong tầm nhìn qu n lý và hoạch định chính sách. Đó là: 1) gi i quyết hậu qu xã hội của chiến tranh; 2) sự di chuyển dân cư từ nông thôn ra đô thị và hiện tượng nhân khẩu thư ng trú nông thôn, làm việc tại các khu công nghiệp; 3) ngư i Việt Nam kết hôn với ngư i nước ngoài; 4) ngư i nước ngoài làm ăn sinh sống tại Việt Nam; 5) nhà và gi i quyết nhà cho ngư i nghèo; 6) giao thông đô thị và trật tự an toàn giao thông; 7) an toàn lương thực thựcphẩm trong một nền nông nghiệp bẩn (do ô nhiễm môi trư ng, do sử dụng các hoá ch t kích thích sinh trư ng thực vật, động vật); 8) mê tín dị đoan - một biến thái tiêu cực của đ i sống tâm linh; 9) các bệnh xã hội trong xã hội công nghiệp và trong điều kiện kinh tế thị trư ng; 10) hiện tượng lệch lạc về cơ c u xã hội, kèm theo những biến đổi của phân tầng xã hội... và nhiều v n đề khác1. Xem xét biến đổi xã hội cần ph i làm rõ những biến đổi từ những v n đề đó. Tuy nhiên, để làm nổi bật những v n đề xã hội cốt yếu nh t trong phát triển, nhằm gi i quyết những v n đề vừa bức xúc trước mắt vừa cơ b n lâu dài, liên quan tới hoạch định và thực thi các chính sách xã hội trong phát triển, có thể tập trung vào những v n đề sau đây trong vô số nhiều các v n đề thuộc lĩnh vực xã hội. Những v n đề đó là: Cơ c u xã hội, các thiết chế xã hội, các nhu cầu của đ i sống con ngư i trong xã hội và các quan hệ xã hội của con ngư i2. Mỗi v n đề đó thực ch t là mỗi nhóm vấn đề, đều có liên quan tới việc làm, đ i sống và mức sống, tổ chức đ i sống, điều kiện và môi trư ng phát triển, từ đó diễn ra những thay đổi về mặt xã hội trong phát triển con ngư i và các quan hệ xã hội của nó, có thể được xem xét, đánh giá bằng phương pháp phân tích định tính và định lượng. Mặt khác, tính xác định lịch sử - cụ thể của những biến đổi xã hội nêu trên Việt Nam lại diễn ra trong bối c nh và thực tiễn đổi mới và hội nhập quốc tế, đặc biệt là có tác động đồng th i của kinh tế thị trường (kinh tế) và dân chủ hoá đời sống (chính trị) lên tâm lý, ý thức, lối sống của con ngư i, lên các chủ thể lãnh đạo và qu n lý (các quyết sách phát triển tầm cương lĩnh, đư ng lối, chiến lược, ban hành chính sách và chế định luật pháp). Do đó, phân tích và đánh giá biến đổi xã hội cần ph i làm rõ những khái quát phổ biến, những căn nguyên gốc quy định sự biến đổi và những sắc thái cụ thể, những nghiên cứu trư ng hợp tiêu biểu, những hệ qu phái sinh. Một trong những căn cứ phương pháp luận chủ đạo trong nghiên cứu biến đổi xã hội là quan hệ nhân - qu giữa biến đổi kinh tế và biến đổi xã hội, giữa biến đổi chính trị và biến đổi xã hội, là tương tác biện chứng giữa các mặt 1 2 Tài liệu đã dẫn, tr.27-28. Xem: Phạm Xuân Nam, Xã hội, phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, Lý luận chính trị, 9-2008, tr.30-31. 6 kinh tế - chính trị - văn hoá với mặt xã hội trong quá trình phát triển. Dưới đây sẽ trình bày biến đổi xã hội Việt Nam trên một số v n đề xã hội, hiện tượng xã hội cụ thể, điển hình, có ý nghĩa phổ biến. 3. Bi n đ i xã h i Vi t Nam qua h n 20 nĕm đ i m i - hi n trạng và chính sách 3.1. Sự hình thành nhận thức mới về lĩnh vực xã hội và chính sách xã hội trong quản lý Khi đi vào đổi mới, áp dụng cơ chế thị trư ng và từng bước phát triển nền kinh tế thị trư ng, tư duy lãnh đạo và qu n lý về lĩnh vực xã hội, về vai trò và tầm quan trọng của chính sách xã hội trong qu n lý đã có sự thay đổi về căn b n. Bước tiến này trong nhận thức xã hội và phát triển xã hội được tạo ra từ thực tiễn đổi mới kinh tế. Trước đổi mới (từ 1985 tr về trước), Việt Nam chỉ có kinh tế kế hoạch hoá tập trung với vai trò tuyệt đối của Nhà nước trong qu n lý kinh tế mà thực ch t là Nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt động s n xu t, kinh tế, từ Trung ương tới địa phương, bằng phương thức mệnh lệnh hành chính. Đó là nền kinh tế hiện vật và bao c p, đi liền với phương thức phân phối bình quân, không thể hiện tính khách quan của quy luật giá trị, quy luật thị trư ng. Trên thực tế, Nhà nước độc quyền s n xu t - kinh doanh. Trong quan hệ s hữu chỉ có s hữu Nhà nước (đại diện cho s hữu xã hội) và s hữu tập thể. Không có kinh tế tư nhân, không có thị trư ng và càng không có cạnh tranh. Cơ c u kinh tế biểu hiện tập trung công nghiệp và nông nghiệp do Nhà nước chi phối. Mô hình kinh tế này cùng với phương thức phân phối bình quân chia đều đã không thể phát triển trong điều kiện bình thường, nó thiếu hụt động lực nội tại để phát triển. Sau chiến tranh, sự trì trệ, lạm phát và khủng ho ng đã x y ra như một t t yếu. Đổi mới đã tìm th y lối thoát cho cuộc khủng ho ng kinh tế - xã hội trầm trọng giữa thập kỷ 80. Với việc phát triển mạnh mẽ nền s n xu t hàng hoá và kinh tế hàng hoá, thừa nhận sự tồn tại lâu dài của nhiều thành phần kinh tế, chú trọng phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân, chú trọng lợi ích cá nhân của ngư i lao động, xã hội đã nhanh chóng chuyển trạng thái từ trì trệ sang năng động. Khoán s n phẩm và khoán tới hộ gia đình nông dân nông thôn là một đột phá quan trọng của đổi mới kinh tế. Đòn bẩy lợi ích kinh tế và sự thừa nhận lợi ích cá nhân là cơ sở để thực hiện lợi ích xã hội đã nhanh chóng tỏ rõ tác dụng tích cực, đóng vai trò là động lực của phát triển. Nh đó, kinh tế không biệt lập, tách r i khỏi xã hội, trái lại gắn liền với xã hội. Những quan niệm trừu tượng về xã hội được khắc phục như ng chỗ cho những quan tâm cụ thể, thiết thực về lợi ích thư ng nhật, nhu cầu thư ng nhật, hợp lý, chính đáng của con ngư i với tư cách là chủ thể s n xu t - kinh doanh, vị trí, vị thế của cá nhân, cá thể được coi trọng, nh t là khi đi vào kinh tế thị trư ng. Quan tâm tới các v n đề xã hội trong phát triển kinh tế đã dẫn đến một bước tiến tiếp theo là đặt đúng vị trí của các vấn đề xã hội trong phát triển và th y rõ sự cần thiết ph i đầu tư cho việc giải quyết các vấn đề xã hội, làm thay đổi quan niệm về chính sách xã hội. Đây là đầu tư cho phát triển kinh tế, vì mục đích trực tiếp phát triển kinh tế và mục đích sâu xa là phát triển con ngư i - nguồn lực quan trọng và quyết định nh t của phát triển xã hội. Đầu tư cho các v n đề xã hội để gi i quyết việc làm, nâng cao mức sống dân cư, phát triển giáo 7 dục, y tế, các dịch vụ xã hội và phúc lợi công cộng... chính là đầu tư theo chiều sâu, đầu tư cho phát triển. Nó không còn là một thứ "phụ gia" đi kèm theo kinh tế, coi như đầu tư cho không, không sinh lợi, chỉ đầu tư sau khi đã đầu tư cho kinh tế như quan niệm trước đây. Chính sách xã hội không thụ động đi sau chính sách kinh tế, trái lại nó gắn liền với kinh tế, thúc đẩy kinh tế trong khi vẫn chịu sự chi phối từ tiềm lực vật ch t của kinh tế. Với đổi mới và kinh tế thị trư ng, chính sách kinh tế và chính sách xã hội gắn liền với nhau trong một thể thống nh t, tạo ra sự thống nh t kinh tế - xã hội với xã hội - kinh tế vì mục tiêu phát triển con ngư i và xã hội, cá nhân và cộng đồng. Biến đổi xã hội này có tầm quan trọng chiến lược, b i nó làm thay đổi nhận thức từ chủ thể lãnh đạo, qu n lý, có thẩm quyền ra các quyết sách, đư ng lối và chính sách. Chú trọng tới lợi ích và nhu cầu trong đ i sống của con ngư i là chú trọng tới nhân tố quan trọng hàng đầu của lực lượng s n xu t và của phát triển xã hội nói chung. Biến đổi xã hội này còn có ý nghĩa sâu xa và to lớn hơn nữa, chỗ, mọi chính sách ph i hướng tới phục vụ lợi ích và phát triển các tiềm năng sáng tạo của con ngư i, coi con ngư i là mục tiêu và động lực của đổi mới và phát triển, do đó con ngư i tr thành tiêu điểm của mọi chính sách. Đây là định hướng nhân văn của phát triển xã hội. 3.2. Biến đổi cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế thị trường dẫn đến biến đổi cơ cấu xã hội Biến đổi cơ c u xã hội là một trong những biến đổi xã hội điển hình nh t trong đổi mới. Việt Nam Đi vào kinh tế thị trư ng và áp dụng cơ chế thị trư ng trong qu n lý kinh tế đã tạo ra sự thay đổi căn b n không chỉ mô hình phát triển kinh tế và qu n lý kinh tế mà còn tạo ra cái giá đỡ vật ch t cho những biến đổi xã hội, trong đó có biến đổi cơ c u xã hội. Do phát triển s n xu t hàng hoá và kinh tế hàng hoá nên hoạt động s n xu t - kinh doanh, hoạt động kinh tế t t yếu ph i tuân theo quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật thị trư ng. Đây là phương thức cần thiết và là động lực mạnh mẽ để phát triển lực lượng s n xu t, giải phóng sức sản xuất, đẩy mạnh phân công lao động, vị thế và vai trò của ngư i lao động, các chủ hộ lao động, của doanh nghiệp và doanh nhân được khẳng định. Với tư cách chủ thể, họ có quyền chủ động trong s n xu t - kinh doanh, quyền đó đi liền với quyền tự chịu trách nhiệm trước kết qu s n xu t và hiệu qu kinh doanh, chịu trách nhiệm trước pháp luật. Nhà nước trong nền kinh tế thị trư ng chỉ thực hiện quyền qu n lý hành chính trong kinh tế, theo luật pháp hiện hành, không can thiệp tùy tiện vào hoạt động s n xu t kinh doanh vốn là thẩm quyền của ngư i lao động (cá thể, tư nhân), của các doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp (doanh nhân). Vai trò của nhà nước là tạo ra khung khổ luật pháp như một hành lang pháp lý và sử dụng kế hoạch tầm vĩ mô để điều tiết, cùng với những điều tiết bằng luật pháp, chính sách, cơ chế và các chế tài. Với kinh tế thị trư ng, nền kinh tế quốc dân là một chỉnh thể thống nh t các thành phần kinh tế, các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, đa dạng hoá các hình thức s hữu (nhà nước, tập thể, tư nhân) dẫn đến đa dạng hoá các hình thức tổ chức s n xu t - kinh doanh, đa dạng hoá các hình thức phân phối. Mọi công dân có quyền làm t t c những gì mà pháp luật không c m, trong khi công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Đây là d u hiệu căn b n của dân chủ hoá kinh tế, tạo ra cơ s xã hội - pháp lý để phát triển kinh tế 8 thị trư ng. Tập trung quan liêu bao c p được xoá bỏ, thay thế bằng cơ chế thị trư ng, thừa nhận cạnh tranh, phân hoá và sự phát triển vượt trội của những ngư i có lợi thế so sánh về năng lực, trình độ, nguồn vốn, cơ hội làm ăn. Do đó Nhà nước khuyến khích mọi ngư i làm giàu chính đáng theo luật pháp. Chính sách của nhà nước bao quát nhiều đối tượng, có chú ý thích đáng sự quan tâm của Nhà nước và cộng đồng tới các đối tượng yếu thế, thua thiệt trong phát triển, bằng các biện pháp điều tiết lợi ích, các chính sách thuế, kể c thuế thu nhập từ bộ phận có thu nhập cao. Các thể chế pháp lý đ m b o cho sự phát triển kinh tế định hướng vào phát triển một xã hội có tăng trư ng cao đi liền với công bằng xã hội: Luật Lao động, Luật Đ t đai, Luật Đầu tư, Luật thuế và nhiều luật khác. Cơ c u kinh tế cũng thay đổi mà Việt Nam gọi là "chuyển dịch". Trong cơ c u đó, nông nghiệp gi m đáng kể tỷ trọng, công nghiệp hướng nhiều vào các ngành công nghiệp hiện đại, công nghệ cao, lao động trí óc, ch t xám gia tăng tỷ lệ, hàm lượng của nó trong các s n phẩm, hàng hoá s n xu t ra. Thương mại, dịch vụ ngày càng được chú trọng. Đã diễn ra sự biến đổi cơ c u tổng thể nền kinh tế và cơ c u trong nội bộ một ngành kinh tế, cơ c u vùng, miền, địa phương, phù hợp với kh năng, thế mạnh từng nơi, từng loại hình đồng th i chú trọng đến c tiềm lực của s n xu t - kinh doanh nước ngoài do những cá nhân và cộng đồng ngư i Việt Nam nước ngoài thực hiện. Cơ c u lao động, bố trí nguồn lực lao động cũng thay đổi trên cơ s phân công lao động xã hội mới. Vậy cơ c u kinh tế như đã nêu trên có nh hư ng như thế nào tới những biến đổi cơ c u xã hội? Thử so sánh biến đổi cơ c u trước đổi mới và trong đổi mới hơn 20 năm qua để th y rõ những biến đổi quan trọng này. Đó không chỉ là biến đổi nhận thức mà còn là biến đổi thực tế. Một cơ c u kinh tế đơn gi n, mang nặng nh hư ng giáo điều về s hữu, về một chế độ s hữu công hữu thuần khiết, một quan hệ s n xu t mới (XHCN) tư ng như đã hoàn toàn trư ng thành trong khi lực lượng s n xu t còn r t lạc hậu, chậm phát triển thì đương nhiên, cơ c u xã hội đã hình thành theo một lược đồ duy ý chí, chủ quan, không ph i ánh đúng thực tế. Đó là cơ c u chỉ gi n lược vào cơ c u giai c p, xã hội - giai c p, chỉ với sự hiện diện của hai giai c p, một tầng lớp là: công nhân - nông dân - trí thức. Gi n lược trong cơ c u xã hội dẫn đến hệ qu tiêu cực là trong chính sách xã hội đã không tính đủ các thành phần, giai tầng xã hội. Một cơ c u xã hội hiện thực vốn phong phú, đa dạng đã bị khuôn vào một khung cơ c u cứng nhắc, tĩnh mà không động, một hệ chính sách gi n đơn và có phần tách biệt đã dẫn tới một xã hội trì trệ, thụ động, không có sức sống b i cạnh tranh và hợp tác. Không tính đủ các thành phần, các chủ thể trong cơ c u sẽ dẫn tới sự thiếu hụt trong chính sách thụ hư ng lợi ích và thực hiện nghĩa vụ xã hội, đối với con ngư i, những ngư i lao động, s n xu t kinh doanh và qu n lý và những đối tượng xã hội khác. Do đó làm hạn chế động lực phát triển, n y sinh nhiều tiêu cực trong qu n lý xã hội, trong các mối quan hệ giữa ngư i và ngư i. Khắc phục tình trạng này, cơ c u xã hội trong nền kinh tế thị trư ng, trong đổi mới và hội nhập đã mang một diện mạo khác. Ngoài cơ c u xã hội - giai c p như một bộ phận 9 cốt yếu còn có cơ c u xã hội - dân tộc, cơ c u xã hội - tôn giáo, cơ c u xã hội - lao động nghề nghiệp, cơ c u xã hội - nhân khẩu, nói tóm lại, ph i nhìn cơ c u xã hội như một hệ thống đa dạng hợp thành b i các nhóm xã hội lớn và nhỏ, nh t là theo nghề nghiệp, ngoài ra còn có cơ c u giới, thực hiện bình đẳng giới, cơ c u nhóm tuổi, cơ c u thế hệ... Đặc biệt là trong cơ c u xã hội đã diễn ra sự biến đổi trong nội bộ cơ c u: giai c p, tầng lớp, giai tầng, phân tầng xã hội. Hiện nay, cơ c u xã hội Việt Nam là một tập hợp bao gồm các nhóm xã hội sau đây: 1) công nhân; 2); nông dân; 3) trí thức; 4) doanh nhân; 5) thanh niên; 6) phụ nữ; 7) quân đội; 8) ngư i cao tuổi; 9) ngư i về hưu; 10) tôn giáo; 11) dân tộc (các tộc ngư i thiểu số); 12) công chức, viên chức; 13) ngư i Việt Nam nước ngoài... Đáng lưu ý là biến đổi cơ c u xã hội Việt Nam cho th y tính phong phú đa dạng của sự kết hợp giữa lao động - nghề nghiệp, giới tính, lứa tuổi, thế hệ, dân tộc, tôn giáo, trong nước và ngoài nước. Trong nền kinh tế thị trư ng, sự hình thành tầng lớp (hay đội ngũ) doanh nhân là một t t yếu tự nhiên và là một xu hướng tích cực đối với phát triển. Tầng lớp này có vị trí và vị thế quan trọng c về kinh tế và xã hội, nh t là trong hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã khách quan hoá vai trò quan trọng vốn có của công nhân và trí thức, nh t là trong xu hướng tiến tới kinh tế tri thức, xã hội thông tin và nền kinh tế dựa trên công nghệ cao trong thế giới toàn cầu hoá. Hướng tới một nhà nước pháp quyền càng ph i chú trọng tới thành phần công chức chuyên nghiệp, hiện đại, đề cao đạo đức công chức và kỷ luật công vụ trong quan hệ với dân. Để tăng cư ng đại đoàn kết dân tộc, hoà hợp và đồng thuận xã hội ph i đặc biệt quan tâm tới dân tộc, đa dân tộc, tôn giáo, đa tôn giáo trong cơ c u xã hội, chú trọng tới chính sách xoá đói gi m nghèo, chăm lo cho những đối tượng dân cư bị thua thiệt trong phát triển nông thôn, miền núi và những vùng đặc biệt khó khăn. Nhận thức mới về dân tộc đòi hỏi ph i tính tới cộng đồng ngư i Việt Nam nước ngoài với số lượng đông đ o hơn 3 triệu ngư i, có mặt nhiều nước, trong đó có không ít những tài năng khoa học, nghệ thuật, qu n lý và qu n trị doanh nghiệp, những ngư i có trình độ cao, có tiềm lực mạnh, lại có tinh thần dân tộc, muốn đầu tư vào trong nước, đóng góp vào công cuộc phát triển kinh tế và ch n hưng dân tộc. Các tầng lớp, các nhóm xã hội đó, trong hoạt động kinh tế, hoạt động xã hội và tham gia vào đ i sống chính trị (tham chính) lại thư ng đan xen và giao thoa lẫn nhau, nh t là giới lứa tuổi - thế hệ. Do đặc thù của Việt Nam tr i qua liên tiếp các cuộc chiến tranh kéo dài, hậu qu xã hội của chiến tranh r t nặng nề nên đối tượng cựu chiến binh, các nạn nhân chiến tranh, những ngư i có công với nước ph i được nhà nước và cộng đồng xã hội đặc biệt quan tâm. Nhìn cơ c u xã hội theo lát cắt thế hệ, không nên quên rằng, thế hệ sinh ra sau gi i phóng miền Nam (1975) và thế hệ sinh ra trong đổi mới (1986) có những biến đổi đặc thù r t quan trọng. Họ đang là lực lượng nòng cốt trong cơ c u lao động, trong cơ c u dân số dân cư, chiếm một tỷ lệ lớn làm cho Việt Nam là một dân tộc trẻ. Họ lại sinh ra và lớn lên trong đổi mới, m cửa, hội nhập, thích ứng nhanh với kinh tế thị trư ng, công nghệ thông tin, tư duy năng động, sáng tạo, là đại diện cho xu hướng đổi mới, hiện đại hoá xã hội. 10 Cũng đáng lưu ý là trong cơ c u xã hội đang biến đổi này, lực lượng cơ b n là công nhân, nông dân, trí thức. Các nhóm xã hội này đang thay đổi. Với 87 triệu dân (kể c nước ngoài), công nhân nước ta hiện có kho ng 9-10 triệu ngư i, trong đó bộ phận công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước không nhiều nhưng là nòng cốt. Công nhân làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân, nh t là trong các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư là nước ngoài đang đứng trước r t nhiều tình huống: lao động với cư ng độ cao, điều kiện sống r t khó khăn, nh t là nhà , đ i sống văn hoá tinh thần th p kém, việc b o vệ quyền và lợi ích cho họ không được quan tâm đúng mức, kịp th i, tình trạng đình công, bãi công đang tăng lên các khu công nghiệp, quan hệ chủ - thợ đang có những tranh ch p, mâu thuẫn, xung đột đòi hỏi ph i gi i quyết. Đó là chưa nói tới trình độ hạn chế của công nhân và lao động về học v n, chuyên môn, nghiệp vụ. Ch t lượng nguồn nhân lực không đ m b o là một tr ngại lớn trong cạnh tranh và phát triển. Nước ta đang còn là một nước nông nghiệp, nông dân chiếm đa số tới 60 triệu ngư i, trên 12 triệu hộ gia đình. 70% dân số và 60% lao động đang trên địa bàn nông thôn, trong lao động nông nghiệp. Đây là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi nh t trong những năm đổi mới và phát triển kinh tế thị trư ng. Đói nghèo, phân hoá giàu nghèo diễn ra chủ yếu nông thôn, đối với nông dân. Một bộ phận trong số họ đã m t đ t s n xu t, do phát triển công nghiệp và đô thị hoá. Nơi tái định cư không ổn định, nghề nghiệp mới (sau khi m t đ t) chưa có, chưa qua đào tạo. Đây là đối tượng dễ rơi vào tái nghèo khổ hoặc đói nghèo. Nhiều nghịch lý xu t hiện nông thôn: nông dân c đ i gắn với ruộng đ t nay m t đ t và cũng không còn thiết tha với nghề nông, họ tr lại ruộng khoán vì không có lợi ích đ m b o trong nghề nông, thuần nông, di cư ra đô thị tìm kiếm mọi việc làm để mưu sinh. Thiên tai, dịch bệnh làm cho nhiều hộ nông dân phá s n, không có kh năng thanh toán các kho n vay ngân hàng. Được mùa nhưng m t giá, s n phẩm không tiêu thụ được, giá bán không đủ bù đắp chi phí s n xu t, nông dân làm ra lúa gạo và đưa nước ta vào vị trí một trong những nước xu t khẩu gạo hàng đầu thế giới nhưng b n thân họ, trong một bộ phận vẫn đói nghèo, vẫn tái nghèo đói, không chỉ đói nghèo kinh tế mà còn đói nghèo thông tin và văn hoá. Con em họ và b n thân họ khó có điều kiện tiếp cận dịch vụ giáo dục, y tế, văn hoá. Đội ngũ trí thức, công chức gần đây đang xu t hiện tình huống bỏ việc cơ quan nhà nước và đi tìm kiếm việc làm khu vực tư nhân. Họ không tìm th y những đ m b o cho cuộc sống và triển vọng phát triển trong khu vực công. Đó là tình huống có v n đề từ chính sách, cơ chế. B n thân đội ngũ tri thức với cơ c u về trình độ, chuyên môn, nghề nghiệp... cũng đang phân hoá. Đang ngày càng gay gắt vì sự hẫng hụt giữa các thế hệ khoa họ. Thiếu nghiêm trọng đội ngũ chuyên gia, khoa học chậm phát triển, giáo dục đang suy thoái về ch t lượng, nh t là chịu tác động tiêu cực của thương mại hoá. Ngoài những điều nói trên, trong biến đổi cơ c u xã hội còn có hiện tượng phân tầng xã hội, diễn ra trong chỉnh thể hệ thống cơ c u mà cũng diễn ra trong từng bộ phận, từng tiểu hệ thống. Nó bắt nguồn từ mức chênh lệch trong tiền lương, thu nhập, từ phân hoá giàu - nghèo. Trong xã hội, từ cơ c u đã mô t trên, đã hình thành những nhóm giàu có, rất giàu (tỷ phú, triệu phú), nhóm trung lưu khá giả, nhóm nghèo và nhóm đói nghèo. Đó là tiếp cận cơ c u từ thu nhập, mức sống và phân hoá giàu - nghèo. Đáng lưu ý là, hiện tượng phân tầng xã hội Việt Nam có tính hai mặt: 11 hợp lý và b t minh, tích cực và tiêu cực. Đó là phân tầng hợp thức và phân tầng b t hợp thức1. Bên cạnh một bộ phận giàu lên nh tài trí, tháo vát, sáng tạo và lao động chân chính, hợp pháp đang xu t hiện ngày một nhiều những hiện tượng làm giàu b t chính, phi pháp, bòn rút của công, xâm phạm công quỹ, tham ô tham nhũng, lợi dụng chức quyền và các kẽ h trong qu n lý vốn yếu kém của nhà nước để làm giàu, trục lợi. Nó dẫn tới tình trạng b t bình đẳng, b t công trong xã hội, dẫn tới tiêu cực, tệ nạn và tội phạm, gây b t ổn xã hội và b t an cho chế độ. Đó là những mặt trái của biến đổi xã hội, tiềm ẩn những ph n phát triển. 3.3. Biến đổi các thiết chế, thể chế xã hội và các quan hệ xã hội Thiết chế cổ truyền tồn tại từ hàng ngàn năm trong lịch sử xã hội Việt Nam truyền thống là Nhà - Làng - Nước. Mối quan hệ này đã định hình bền vững trong đ i sống xã hội, đó là sự gắn bó, sự m rộng và phát triển của cộng đồng xã hội từ điểm xu t phát, cái tế bào của xã hội là Nhà, mô hình vật thể của đ i sống gia đình, tiến đến là cộng đồng Làng, đặc trưng cho đ i sống xã hội nông thôn và m rộng Nhà và Làng dẫn tới Nước, quốc gia - dân tộc Việt Nam. đây, ngoài tính ch t và ý nghĩa xã hội, thiết chế truyền thống Nhà - Làng - Nước còn có nội dung lịch sử, tính ch t lịch sử và chính trị. Tính liên kết cộng đồng và chủ nghĩa yêu nước, tinh thần khoan dung, bao dung văn hoá đã tr thành những giá trị văn hoá, nơi kết tinh và thể hiện b n sắc văn hoá Việt Nam, sức sống của truyền thống dân tộc, truyền thống văn hoá Việt Nam. Bước vào th i kỳ đổi mới, thiết chế xã hội này đã biến đổi, vừa b o tồn và phát huy được các giá trị tốt đẹp, vừa có những thay đổi cho hợp với yêu cầu phát triển mới, trong đó có c tác động của tiếp biến văn hoá do m cửa, hội nhập quốc tế, thông tin toàn cầu, các quá trình dân chủ hoá, công nghiệp hoá và đô thị hoá tác động và nh hư ng. Trong kinh tế thị trư ng, gia đình Việt Nam vẫn tiếp tục chức năng kinh tế của nó, c nông thôn và thành thị. Biến đổi các quan hệ và định hướng giá trị trong gia đình bắt nguồn từ những biến đổi kinh tế trong xã hội, tác động vào hoạt động kinh tế của gia đình, nh t là các gia đình s n xu t kinh doanh, làm thương mại, dịch vụ. nông thôn, bắt đầu từ khoán mà gia đình cũng biến đổi với hiện tượng tách hộ, không ít nơi còn tái sinh c hiện tượng t o hôn để tăng thêm ruộng khoán. Tính đa dạng các thành phần kinh tế và hoạt động s n xu t kinh doanh đã dẫn tới đa dạng các mô hình gia đình. Mô hình gia đình truyền thống nhiều thế hệ đã dư ng như bị gi i thể, như ng chỗ cho gia đình hạt nhân, hai thế hệ tr nên phổ biến, ưu trội (vợ chồng, cha mẹ - con cái). Với tác động của kinh tế thị trư ng, lợi nhuận được đề cao, kiếm tiền và làm giàu có sức lôi cuốn, cá nhân được khẳng định nhưng cũng phát triển thái quá chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, vị kỷ nên đ i sống gia đình biến đổi r t nhanh, có không ít sự biến động và đ o lộn. Gia tăng của sự phát triển s n xu t - kinh doanh, của tăng trư ng và sự giàu có cũng đồng th i là Xem Nguyễn Đình T n, Một số vấn đề về phân tầng xã hội hợp thức ở Việt Nam hiện nay, Thông tin KHXH, 7-2008, tr.10-17. 1 12 gia tăng những tình huống gia đình xung đột, tan vỡ, ly hôn, ly thân mức cao với tốc độ nhanh. Điều đó dẫn tới những gia đình không đầy đủ, tác động tiêu cực tới sự trư ng thành nhân cách, sự bình yên và hạnh phúc cuộc sống của trẻ em. Gần đây, xã hội đã ph i c nh báo về sự suy đồi đạo đức, nạn bạo hành đối với phụ nữ và trẻ em, đã x y ra những trư ng hợp phi nhân và phi luân r t đáng lo ngại. Cùng với kinh tế thị trư ng là xã hội công nghiệp, lối sống công nghiệp, tác động vào gia đình, tính hiện đại do bên ngoài thâm nhập vào tăng lên nhưng cũng làm suy gi m các nét đẹp của truyền thống, các chuẩn mực giá trị của truyền thống. Sự ràng buộc, cố kết các thành viên trong gia đình tr nên lỏng lẻo hơn. Th i gian sum họp gia đình trong một ngày giữa vợ và chồng, giữa bố mẹ với con cái ngày càng ít đi. Cuộc sống gia đình như là một tiểu môi trư ng văn hoá, nh t là văn hoá tinh thần, đạo đức, nơi trau dồi đạo đức, lối sống, hình thành nhân cách đang có khuynh hướng bị những cuốn hút kinh tế làm cho suy gi m. Trong gia đình, rộng ra là trong xã hội, những khác biệt thế hệ, nh t là về tư duy, lối sống, lựa chọn giá trị có xu hướng tăng lên và gay gắt. Nó có thể tr thành những mâu thuẫn, xung đột thế hệ. Vì thế để ch n hưng đạo đức, tinh thần, lối sống, gây dựng văn hoá, cần thiết ph i xây dựng và thực hiện chiến lược gia đình, văn hoá gia đình, làm tiền đề cho ch n hưng, phát triển dân tộc. Tự nó, điều đó đã nâng cao vai trò, vị trí của phụ nữ, của ngư i mẹ. Làng th i cổ truyền đã bị mai một, thậm chí bị "đánh m t" trong th i kỳ tập thể hoá nông nghiệp và có chiến tranh phá hoại. Nh có đổi mới, làng cổ truyền còn gọi là làng tiểu nông được làm cho hồi sinh sống lại. Nó tr lại đúng với nghĩa của nó là một thiết chế xã hội, một mô hình văn hoá truyền thống với t t c nét đặc sắc của văn hoá làng, cái gốc rễ, căn b n của văn hoá dân tộc với sức sống, sức sáng tạo của dân gian. Đi liền với sự tái lập làng tiểu nông là quá trình biến đổi làng xã nông thôn, điển hình là đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng sông Hồng dưới tác động của kinh tế hàng hoá, dân chủ hoá, công nghiệp hoá, đô thị hoá. Có sự phục hồi lại lễ hội văn hoá và hương ước ( miền núi là luật tục) đan xen c mặt tốt và x u, hay và d . Trong không gian xã hội - văn hoá này, "tính lưỡng diện văn hoá" của ngư i Việt Nam1 - tư duy và lối sống, ứng xử và hành xử bộc lộ r t đậm nét và nó cũng đang diễn ra sự biến đổi, vừa có sự mất đi vừa có sự thêm vào những yếu tố, sắc thái văn hoá, r t phức tạp, cần được nghiên cứu cặn kẽ. Nước trong tư duy truyền thống là mô hình làng m rộng. Đó là Tổ quốc, đ t nước, là quốc gia, dân tộc - đa tộc ngư i cùng chung một dòng tiến hoá, thăng trầm lịch sử. Ngày nay, với đầu óc thực tế, quan điểm thực tiễn, nước không chỉ là quốc gia - dân tộc, là đ t nước, là Tổ quốc thiêng liêng mà còn là một phức hợp rộng lớn của không gian kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Đó là địa bàn và thị trư ng rộng lớn nh t để s n xu t kinh doanh và giao lưu, tiếp xúc văn hoá. Nó cũng là thị trư ng làm ăn của các đối tác đến với 1 Xem: Phạm Xuân Nam, Văn hoá vì phát triển, CTQG, 2005. 13 Việt Nam, là tiếp xúc văn hoá đi liền với cạnh tranh kinh tế, nơi có thể diễn ra những thẩm th u của diễn biến hoà bình, gây m t ổn định, rối loạn, khủng ho ng, suy thoái. Nước gắn liền với dân và dân tộc và trong xã hội hiện đại ngày nay, ý thức dân tộc, niềm tự hào dân tộc, khát vọng phát triển dân tộc tới văn minh và hiện đại ngày một lớn lên. Đ t nước trong đổi mới đã m rộng, m i đón hợp tác và cạnh tranh chứ không đóng kín, không biến mình thành một ốc đ o biệt lập ngăn c n phát triển. Sự khác nhau về ý thức hệ không c n tr Việt Nam và bạn bè của Việt Nam đến với nhau. Cùng với sự đổi thay nhanh chóng về kinh tế, xây dựng hạ tầng cơ s theo hướng hiện đại văn minh, sự tiếp thu các giá trị văn hoá bên ngoài, trên lĩnh vực xã hội, Nước cũng đang đứng trước không ít những tình huống phức tạp. Một trong những điều đáng lo ngại là hiểm hoạ môi trư ng sinh thái, nguy cơ đe doạ an toàn xã hội của những thế lực mafia, xã hội đen, kinh tế ngầm liên kết với chính trị thoái hoá. Biến đổi xã hội chỉ diễn ra lành mạnh khi cùng với xung lực phát triển của kinh tế thị trư ng ph i hết sức chú trọng các đ m b o xã hội, các giá trị văn hoá, những định hướng nhân văn của phát triển. Đó là chú trọng nền tảng đạo đức và sức mạnh luật pháp cùng với ra sức gây dựng chiều hướng phát triển lành mạnh của dân chủ. Kinh tế thị trư ng - Nhà nước pháp quyền - xã hội dân sự, đó là một tổ hợp đ m b o cho dân chủ, cho sự lành mạnh của những biến đổi xã hội. Các quan hệ giữa cá nhân - tập thể và xã hội cũng chỉ có thể lành mạnh nếu chú trọng những kích thích không chỉ thuần kinh tế hay chính trị mà còn là đạo đức, văn hoá, luật pháp. Tôn trọng cá nhân và nhân cách, tôn trọng luật pháp theo các chuẩn mực trọng dân, trọng pháp, đó là đ m b o thuận chiều cho sự khẳng định vai trò cá nhân, sự hài hoà cá nhân xã hội, tránh rơi vào chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, vụ lợi, cực đoan, chủ nghĩa phư ng hội, cục bộ - những biến dạng ph n văn hoá, ph n dân chủ. 3.4. Biến đổi nhu cầu và lối sống Đổi mới, nh t là đổi mới kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế đã làm do Việt Nam vượt ra khỏi khủng ho ng, bước vào giai đoạn "c t cánh" để phát triển. Việt Nam đang nỗ lực khắc phục lạm phát do khủng ho ng tài chính quốc tế dội vào, đang gia tăng sự ổn định tích cực và l y lại đà tăng trư ng tốc độ cao trước đây. Việt Nam cũng đang quyết tâm sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển. Sự tăng trư ng và phát triển kinh tế đã giúp cho Việt Nam xoá đói gi m nghèo thành công, đang ra sức khắc phục tái nghèo khổ, hướng tới tăng giàu, trung lưu hoá mức sống dân cư xã hội. So với th i trước đổi mới mà bình quân có nghĩa là chia đều sự nghèo khổ, những năm qua ngư i dân thuộc nhiều đối tượng khác nhau đã có sự tăng tiến rõ rệt về nhu cầu, do đó cũng có những biến đổi mạnh mẽ về lối sống. Đó là sự biến đổi xã hội quan trọng, với những biểu hiện sau: 14 - Từ nhu cầu vật ch t hướng sang nhu cầu tinh thần, văn hoá tinh thần. - Từ mặt lượng của nhu cầu hướng tới nâng cao ch t lượng nhu cầu, c nhu cầu cho tồn tại và nhu cầu cho phát triển sáng tạo. - Biến đổi nhu cầu diễn ra mạnh mẽ và ưu trội lớp trẻ, từ nhu cầu dân chủ và tự do, khẳng định cá tính, nhân cách đến nhu cầu thông tin, giao tiếp, thụ hư ng văn hoá với xu hướng hướng ngoại, bị lôi cuốn b i mốt, thị hiếu, giá trị mới. - Nhu cầu phát triển các thuộc tính của nguồn nhân lực: thể lực, tâm lực, trí lực. - Cũng có sự khác biệt, thậm chí là khác biệt lớn về nhu cầu giữa các thế hệ, do đó n y sinh c những mâu thuẫn, xung đột về nhu cầu. - Có sự chênh lệch khá lớn giữa nhu cầu của cộng đồng dân cư các vùng miền, rõ nh t là nhu cầu trong các gia đình khá gi , giàu có đô thị với nhu cầu trong các gia đình nghèo khổ nông thôn, miền núi. Những lệch lạc trong thể hiện và thực hiện nhu cầu thư ng bắt đầu từ sự lệch lạc trong lựa chọn định hướng giá trị sống, sự yếu kém, phát triển chậm trong giáo dục nhu cầu, giáo dục giá trị đối với lớp trẻ, từ gia đình, nhà trư ng đến xã hội. Biến đổi lối sống của con ngư i Việt Nam có thể coi là tổng hợp những biến đổi xã hội dưới tác động của đổi mới, của hội nhập. Bên cạnh những nhân tố lành mạnh, tích cực trong lối sống với các đức tính cần cù, trung thực, khiêm tốn, gi n dị, vị tha, nhân ái cũng đang xu t hiện những lệch lạc trong lối sống: hư ng thụ, thực dụng, tôn th vật ch t, tiền của, khoái lạc, sự phát triển chủ nghĩa cá nhân cực đoan, th ơ với xã hội, lãnh c m xã hội một bộ phận dân cư, trong đó có lớp trẻ, sự suy đồi đạo đức, gây ph n c m từ những ngư i lớn với con em họ, thói cơ hội, tùy th i, thói đạo đức gi của những quan chức và công chức thoái hoá trong bộ máy công quyền. Đó là những mặt trái, gây c n tr đối với giáo dục đạo đức, lối sống cho lớp trẻ. * * * Trên đây là một số biến đổi xã hội có tính điển hình và phổ biến điều kiện kinh tế thị trư ng, m cửa, hội nhập. Việt Nam trong Biến đổi xã hội là ph n ánh những biến đổi kinh tế, chính trị và văn hoá. Những biến đổi trong các lĩnh vực này không ph i là tương dung mà trong không ít trư ng hợp lại mâu thuẫn với nhau. Rõ nh t là kinh tế tăng trư ng và có những biến đổi tích cực nhưng không tự động, dẫn tới những biến đổi xã hội tương ứng như đã nêu trên. Chính điểu y cho th y, lĩnh vực xã hội là hết sức phức tạp, b i nó gắn liền với đ i sống con ngư i, các quan hệ xã hội của con ngư i. Cũng chính vì thế, cần ph i chú trọng 15 qu n lý phát triển xã hội bằng một hệ gi i pháp đồng bộ từ giáo dục nhận thức, hoàn thiện thể chế và chính sách, đ m b o môi trư ng lành mạnh, tạo ra một không gian văn hoá - đạo đức - pháp lý cho sự lành mạnh của biến đổi xã hội. 16