intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tính giá trị và vai trò của Nho học trong triết lý giáo dục Việt Nam

Chia sẻ: ViJijen ViJijen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

48
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong lịch sử tồn tại của mình, Nho học trải qua quá nhiều thăng trầm, lúc được đề cao đến tận mây xanh, lúc bị vùi dập không thương tiếc. Về chủ quan, có mâu thuẫn trong việc xác định tính giá trị của Nho học có nguồn gốc từ sự đa dạng phức tạp về các biến thể của Nho học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tính giá trị và vai trò của Nho học trong triết lý giáo dục Việt Nam

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 73 (01/2021) No. 73 (01/2021) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: http://sj.sgu.edu.vn/ TÍNH GIÁ TRỊ VÀ VAI TRÒ CỦA NHO HỌC TRONG TRIẾT LÝ GIÁO DỤC VIỆT NAM Validity and role of Confucianism in Vietnam’s educational philosophy GS. TSKH. Trần Ngọc Thêm Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM TÓM TẮT Trong lịch sử tồn tại của mình, Nho học trải qua quá nhiều thăng trầm, lúc được đề cao đến tận mây xanh, lúc bị vùi dập không thương tiếc. Về chủ quan, có mâu thuẫn trong việc xác định tính giá trị của Nho học có nguồn gốc từ sự đa dạng phức tạp về các biến thể của Nho học. Về khách quan, mâu thuẫn này có nguồn gốc từ sự đa dạng các nhu cầu của đối tượng sử dụng. Đề cao hay hạ thấp thì cũng đều bắt nguồn từ bản chất hướng đến sự ổn định của Nho học. Để phục vụ cho mục tiêu ổn định do loại hình văn hóa quy định, triết lý giáo dục truyền thống nhằm đào tạo ra những người thừa hành mà phẩm chất quan trọng là biết vâng lời chứ không phải là sáng tạo. Nho học với chủ trương coi trọng lễ nghĩa thái quá chính là công cụ đắc lực để hiện thực hóa triết lý giáo dục này. Muốn thoát khỏi sự trì trệ để phát triển cần chuyển đổi hệ giá trị theo hướng văn hóa thiên về dương tính, thay đổi triết lý giáo dục từ đào tạo người thừa hành sang đào tạo người sáng tạo. Từ khóa: loại hình văn hóa, tính giá trị của Nho học, triết lý giáo dục Việt Nam ABSTRACT In its history of existence, Confucianism underwent many vicissitudes, at times praised to the skies, and at times crushed mercilessly. Subjectively, the inconsistencies in determining the value of Confucianism originated from the complex diversity of variants of Confucianism. Objectively, this contradiction is derived from the diversity of the needs of the users. Promoting or disparaging it also has its root in the stability-oriented nature of Confucianism. To serve the objective of stability, shaped by the cultural type, the traditional educational philosophy aims to train people with important qualities of obedience and less creativity. Confucianism which advocates excessive respect for hierarchy and morality is an effective tool to realize this educational philosophy. It is necessary to convert the value system towards a positive culture, and change the educational philosophy from training the executive to training the creator. Keywords: cultural type, the value of Confucianism, Vietnam's educational philosophy 1. Nguồn gốc sự mâu thuẫn trong này không chỉ diễn ra trên trường chính trị, việc xác định tính giá trị của Nho học mà cả trong giới học thuật. Cuộc tranh Trong lịch sử tồn tại của mình, Nho luận về tính giá trị của Nho học (cao hay học trải qua quá nhiều thăng trầm, lúc thấp, tích cực hay tiêu cực) có vẻ như được đề cao đến tận mây xanh, lúc thì bị không có hồi kết. vùi dập không thương tiếc. Sự thăng trầm Sự mâu thuẫn này có hai nguồn gốc: Email: ngocthem@gmail.com 3
  2. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 73 (01/2021) chủ quan và khách quan. tôn sùng để trở thành Nho giáo – một tôn 1.1. Nguồn gốc chủ quan: sự đa dạng giáo theo đúng nghĩa với đầy đủ kinh kệ các biến thể của Nho học (Ngũ kinh), giáo chủ (Thánh Khổng Tử), 1.1.1. Về chủ quan, sự mâu thuẫn giáo đường (Văn miếu) và đội ngũ tăng lữ trong việc xác định tính giá trị của Nho học hùng hậu (vua quan). có nguồn gốc từ chính sự đa dạng phức tạp 1.1.3. Ngoài ra, theo không gian, tư về các biến thể của Nho học. tưởng Nho học Trung Quốc khi đi vào Việt Tuy gọi là “Nho học”, nhưng nó Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, đều được biến không phải là một hệ thống chặt chẽ có sự đổi phù hợp với truyền thống văn hóa và thống nhất cao, mà là một thế giới phức nhu cầu từng giai đoạn lịch sử của mỗi tạp gồm nhiều tiểu hệ với sự khác biệt quốc gia, tạo nên các biến thể Việt Nho, theo thời gian, theo nguồn gốc chủ thể và Hàn Nho, Nhật Nho. Du nhập vào ba quốc theo không gian. gia này, mỗi quốc gia có thể đề cao một 1.1.2. Theo thời gian, có ba tiểu hệ lớn khía cạnh khác nhau, tùy theo đặc trưng là Khổng Nho, Hán Nho, Tống Nho và một văn hóa của mình. số tiểu hệ nhỏ như Đường Nho, Minh Nho, Do tính đa dạng phức tạp như vậy, cho Thanh Nho, v.v. Theo nguồn gốc chủ thể, nên khi xác định tính giá trị của Nho học, trong Khổng Nho có sự tham gia của các tư không những khó đạt được sự thống nhất tưởng văn hóa phương Nam và phương mà còn có thể dẫn đến những quan điểm Bắc, thể hiện qua hai nguyên tắc cơ bản là mâu thuẫn đôi khi trái ngược. nhân trị và chính danh. Chính vì chứa đựng 1.2. Nguồn gốc khách quan: sự đa những yếu tố phương Nam khác lạ nặng về dạng các nhu cầu của đối tượng sử dụng tình cảm như vậy nên lúc Khổng Tử còn Nho học sinh thời, nhiều quân vương muốn gặp gỡ 1.2.1. Về khách quan, sự mâu thuẫn để nghe ông thuyết trình, nhưng nghe xong trong việc xác định tính giá trị của Nho học thì đều xa lánh. Thời Tần bạo tàn, Khổng có nguồn gốc từ sự đa dạng các nhu cầu Nho còn bị đàn áp nặng nề. Xa lánh và đàn của đối tượng sử dụng. áp đều do triết lý của Nho gia xa lạ, Tuy là một thế giới phức tạp gồm phương pháp của Nho gia không phù hợp. nhiều tiểu hệ, nhưng bao trùm lên tất cả, có Đến Hán Nho, những tư tưởng dân chủ của thể nói Nho học có chung bản chất là văn hóa phương Nam bị loại bỏ, thay vào hướng đến sự ổn định. Ngay cả khi từ phạm đó là sự bổ sung tư tưởng Pháp gia và được vi “quốc gia” mở rộng ra “thiên hạ” thì mục mềm hóa bằng nguyên tắc lễ trị. Đến Tống tiêu của việc mở rộng vẫn là quốc gia phải Nho, có sự bổ sung thêm tư tưởng Phật học được “trị” và thiên hạ phải được “bình”. và Đạo học qua cách lý giải của Chu Hy. Bởi vậy mà ở trong vùng văn hóa Nhờ được điều chỉnh thích hợp như vậy mà Đông Á, những thời đại nào, những đối Hán Nho, Tống Nho được đề cao. Cái Nho tượng sử dụng nào đã giành được chính học được đề cao này đã khác xa so với Nho quyền và muốn ổn định, muốn giữ yên ngai học tiên Tần (Trần Ngọc Thêm, 1996, vàng, duy trì sự thống trị thì thường đều đề tr.504-515). Từ Nho học và Nho gia, nó đã cao Nho học. Mà trong lịch sử Đông Á thì được thiêng liêng hóa, được chính quyền loại đối tượng này chiếm đa số. 4
  3. TRẦN NGỌC THÊM TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 1.2.2. Phủ định Nho học vì lý do khách lần thứ hai là vào đầu thời kỳ Đổi mới gần quan chỉ có một trường hợp là khi người ta đây. Có ý kiến cho rằng Nho học với tính có nhu cầu phá bỏ sự ổn định truyền thống, bảo thủ, hướng đến sự ổn định là nguyên cần làm cách mạng để thay đổi xã hội. Ở nhân dẫn đến bi kịch hai lần “bỏ lỡ cơ hội” Trung Quốc việc này xảy ra hai lần. này. Chúng tôi cho là không phải. Có thể Lần thứ nhất là cuộc “cách mạng văn nêu ra ba câu hỏi để phản bác: hóa” đầu thế kỷ XX dưới ảnh hưởng của Thứ nhất, cùng chịu ảnh hưởng của phong trào “Ngũ Tứ” với lãnh tụ là Lỗ Nho học, tại sao trong khi Việt Nam trên Tấn. Tháng 4/1918, ông công bố tiểu một lần bỏ lỡ cơ hội, thì Nhật Bản lại canh thuyết “Nhật ký người điên” với câu nói tân được sớm thế? gây ấn tượng nhất là: “Lịch sử... trang nào Thứ hai, tại sao ở chính cái nôi của cũng có mấy chữ “nhân nghĩa đạo đức”... Nho học, người Trung Quốc cũng đã tiến cầm đọc kỹ... mới thấy từ đầu chí cuối, ở hành những cải cách mạnh mẽ từ cuối giữa các hàng, là ba chữ ăn thịt người”. đời Thanh? Lên án tư tưởng Khổng-Mạnh là lễ giáo Thứ ba, tại sao trên cùng một bán đảo “ăn thịt người” thì đúng là không thể nặng mà trong khi Hàn Quốc ở phía Nam tiếp hơn, nhưng đó là cách lấy văn chương làm tục bảo tồn các di sản Nho học thì đất nước vũ khí, nói quá lên để đạp đổ cái cũ nhằm phát triển rực rỡ, nhân dân hạnh phúc; còn kêu gọi quần chúng làm cách mạng; nó Triều Tiên ở phía Bắc từ bỏ Nho học thì không thể được đánh giá theo kiểu một lạc hậu, đói nghèo? công trình khoa học rằng “Những níu kéo, 2.1.2. Như vậy, do mang bản chất cản trở của Nho giáo trong xã hội hiện đại hướng đến sự ổn định, Nho học có thể góp được phân tích, phải nói là, khó có thể sâu phần gây nên sự trì trệ, nhưng nó không sắc hơn” (Hồ Sĩ Quý, 2009, tr.49). phải là nguyên nhân chính. Trì trệ hay phát Lần thứ hai là cuộc “cách mạng văn triển, nguyên nhân chính nằm ở loại hình hóa” do Mao Trạch Đông cầm đầu, mà một văn hóa. Xét theo không gian, phương Tây trong những nội dung cơ bản là “Phê Lâm thuộc loại hình văn hóa thiên về dương tính, đấu Khổng” với lý do Khổng giáo là thế lực Đông Nam Á thuộc loại hình văn hóa thiên phong kiến bảo thủ, triệt tiêu sự tiến bộ, về âm tính, còn Đông Bắc Á thuộc loại khiến dân tộc Trung Hoa rơi vào trì trệ suốt hình văn hóa trung gian trọng thế tục (khác hai ngàn năm. Nằm sâu xa bên trong là mục với Tây Nam Á thuộc loại hình văn hóa tiêu của Mao Trạch Đông muốn giành lại trung gian trọng tâm linh) (Trần Ngọc địa vị bị lung lay sau hàng loạt sai lầm Thêm, 2013, tr.85-90; 2016, tr.103-116). trong đường lối quản lý đất nước vào cuối Phương Tây thuộc loại hình văn hóa những năm 1950, đầu những năm 1960. thiên về dương tính, nên sự thay đổi giá trị 2. Vai trò của Nho học, văn hóa và trong lịch sử diễn ra khá thường xuyên. Từ triết lý giáo dục trong sự phát triển thế kỷ XV trở lại đây, mọi sự biến động hệ 2.1. Nho học hay là văn hóa? giá trị đều khởi đầu từ phương Tây hoặc là 2.1.1. Trong lịch sử cận hiện đại, Việt hậu quả của các sự kiện xảy ra ở phương Nam đã hai lần đã bỏ lỡ cơ hội canh tân đất Tây: các cuộc phát kiến lớn về địa lý vào nước. Lần thứ nhất là vào thời nhà Nguyễn, cuối thế kỷ XV; những thành tựu về văn 5
  4. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 73 (01/2021) hóa và khoa học – giáo dục thời Phục định làm đầu nên bất kỳ ai, mỗi khi đạt đến hưng và Khai sáng; các cuộc cách mạng được một thành công nào đó, một sự ổn công nghiệp, cách mạng xã hội và sự hình định nào đó thì đều chỉ muốn “dĩ hòa vi thành chủ nghĩa tư bản phương Tây; sự quý” để giữ lấy sự ổn định ấy, không muốn phát triển của chủ nghĩa thực dân và chủ tiếp tục đổi mới để khỏi phải mạo hiểm hy nghĩa đế quốc; sự ra đời của phong trào sinh thành quả đã đạt được của mình. cộng sản và sự đối đầu giữa hai phe; Đây chính là lý do giải thích vì sao những thành tựu về viễn thông và công Nguyễn Ánh khi còn phải chống lại Tây nghệ tin học; sự sụp đổ của phe xã hội chủ Sơn thì hăng hái mở cửa, tích cực hướng nghĩa và quá trình toàn cầu hoá, v.v. về phương Tây, còn khi có được đất nước Phương Tây thay đổi trước, thay đổi một trong tay, trở thành Gia Long thì nhanh cách thành công, và kéo theo sự thay đổi chóng chuyển sang chính sách ngược lại là của phần thế giới còn lại. Dễ hiểu là trong bế quan tỏa cảng, xa lánh phương Tây, trở quá trình thay đổi, phần thế giới còn lại sẽ về lấy Nho giáo làm chỗ dựa. Sự chi phối lấy phương Tây làm hình mẫu. của cách sống này đã dẫn đến việc Vua Gia Đông Bắc Á thuộc loại hình văn hóa Long quyết định sẽ truyền ngôi cho con trung gian trọng thế tục, nên tuy có biến thứ là Nguyễn Phúc Đảm (Minh Mạng), động khá mạnh, nhưng nhìn chung là thuận người ra sức đề cao Nho giáo và ra mặt lợi và nhẹ nhàng. Nhật Bản, Hàn Quốc, chống lại phương Tây để giữ ổn định, chứ Đài Loan chuyển đổi sớm và rất thành không phải cho dòng đích là Nguyễn Phúc Mỹ công chính là nhờ tính trung gian trọng thế Đường – con trai cả của hoàng tử Cảnh, người tục này. Do có phần lớn dân số là người chịu nhiều ảnh hưởng của phương Tây. gốc Hoa nên Singapore thực chất là một Những người có tư tưởng đổi mới, quốc gia Đông Bắc Á ở Đông Nam Á. Loại thân phương Tây đều bị thất sủng: bản hình văn hóa chính là khái niệm “cần” và thân Hoàng tử Cảnh được công bố là chết “đủ” cho việc lý giải sự thành công của vì bệnh đậu mùa, nhưng theo các thừa sai Đông Bắc Á (Trần Ngọc Thêm, 2013, trong triều đình (trong báo cáo về Hội tr.331-341). truyền giáo Paris) thì thực chất là ông bị Trong khi đó thì Đông Nam Á, do đầu độc; hai Tổng trấn Nguyễn Văn Thành mang bản chất âm tính (trái ngược hẳn với và Lê Văn Duyệt từng ủng hộ Nguyễn phương Tây), nên hệ giá trị truyền thống có Phúc Mỹ Đường thì một bị bức tử, một bị độ ổn định rất cao. Bởi vậy, đến lúc tiếp phá hoại lăng mộ sau khi mất. Bản xúc giao lưu với phương Tây và hội nhập thân Nguyễn Phúc Mỹ Đường bị vu oan là quốc tế, đây là nơi hệ giá trị có biến động thông dâm với mẹ và hai mẹ con bị trói mạnh nhất và trong quá trình biến đổi gặp dìm nước cho đến chết. khó khăn nhiều nhất. Triều đình Minh Mạng, sau đó là Tự 2.1.3. Bên cạnh sự khác biệt về loại Đức, với những quan văn mang nặng tư hình văn hóa, sự khác biệt về cách thức tưởng Tống Nho luôn khăng khăng bài quản lý và tổ chức xã hội là nguyên nhân xích mọi ý tưởng Âu hóa và chống đối thứ hai. quyết liệt mọi sáng kiến cải cách. Hệ quả Văn hóa Việt Nam do âm tính, lấy ổn là, những đề xuất cải cách toàn diện, khoa 6
  5. TRẦN NGỌC THÊM TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN học và tiến bộ (như của Nguyễn Trường cao những giá trị nhân bản của con người, Tộ) đã không được tiếp thu. Nho học quá coi trọng lễ nghĩa; mà lễ 2.2. Văn hóa và triết lý giáo dục nghĩa thì trói buộc con người, kiềm chế sự 2.2.1. Văn hóa Việt Nam trồng lúa sáng tạo. Không sáng tạo, thì không thể có nước mang bản chất trọng âm, hướng đến phát triển. ổn định, sinh ra tính cộng đồng làng xã, Chữ Lễ đòi hỏi sự phục tùng, cho nên nên nền giáo dục Việt Nam truyền thống nhiều người nói rất đúng rằng chữ Lễ bắt có sứ mệnh xây dựng một xã hội ổn định đầu ở đâu thì tinh thần tự do sáng tạo và và mục tiêu đào tạo ra những con người có lòng tự tin kết thúc ở đó. Nhà nghiên cứu những phẩm chất và năng lực đáp ứng nhu triết học Hà Thúc Minh nhận xét rất đúng cầu ổn định này. rằng “Lễ là phục tùng, là nói theo, cho nên Một xã hội ổn định cần những con không ít học giả cho rằng nền giáo dục chữ người với phẩm chất hàng đầu phải là Lễ đào tạo ra đa phần là “nô tài” chứ không ngoan ngoãn, biết vâng lời – đó là những phải là “nhân tài” (Hà Thúc Minh, 2014, con người thừa hành, con người công cụ. tr.99). Học giả Nguyễn Hiến Lê nhận xét Bởi vậy, triết lý giáo dục dân gian Việt rằng triết lý của Khổng Tử “rất thích hợp Nam truyền thống có thể tóm gọn trong với một quốc gia cần thoát khỏi cảnh hỗn bốn chữ cửa miệng mà mọi người Việt loạn nhu nhược để lập lại trật tự... nhưng Nam, mọi trường học Việt Nam thường đối với một quốc gia cần cải tiến hoài để dùng, là “con ngoan, trò giỏi”. Về câu chữ ganh đua trên trường quốc tế thì triết lý đó thì cụm từ “con ngoan, trò giỏi” có thể xem là một trở ngại. Ưu điểm và nhược điểm là rất tốt, nhưng về nghĩa thì “ngoan” của Khổng học ở đó” (Nguyễn Hiến Lê, thường được hiểu là biết vâng lời (… Con 1995, tr.230). cãi cha mẹ trăm đường con hư), “giỏi” 3. Triết lý nào cho giáo dục Việt Nam? thường được hiểu là học thuộc bài (câu cửa 3.1. Xã hội Việt Nam cần gì? miệng cha mẹ hỏi con cái khi đang học Xã hội Việt Nam hiện đại cần thoát hoặc sau khi học thường là “Con đã học khỏi sự trì trệ để phát triển. Muốn thoát khỏi thuộc bài chưa?”) – thành ngữ “con ngoan, sự trì trệ thì cần thoát khỏi vòng kim cô của trò giỏi” chính là biểu hiện của một triết lý văn hóa âm tính, thực hiện sự chuyển đổi hệ giáo dục hướng đến ổn định. Triết lý giáo giá trị theo hướng thiên về dương tính. Điều dục này khuyến khích tâm lý háo danh chứ đó có nghĩa là xã hội phải thực sự dân chủ không phải là hiếu học, hành động làm và hoạt động theo pháp quyền, con người theo người khác chứ không phải là bản lĩnh phải thay chủ nghĩa cộng đồng làng xã bằng để suy nghĩ độc lập, sáng tạo; sinh ra thói bản lĩnh cá nhân và ý thức công dân (cộng cào bằng, không chấp nhận người giỏi hơn đồng xã hội). Phải coi trọng sự trung thực mình, có tư tưởng tiến bộ hơn mình. hơn là khôn khéo; ý thức trách nhiệm thay 2.2.2. Với bản chất văn hóa sẵn có là cho thói dựa dẫm; tinh thần hợp tác vì việc ưa ổn định bằng mọi giá, tư tưởng Nho chung thay cho bệnh phe nhóm, thói sĩ diện; học hướng đến xây dựng một xã hội ổn tính khoa học và sáng tạo thay cho lối làm định trở thành công cụ rất thích hợp phục việc đối phó, tùy tiện (Trần Ngọc Thêm, vụ mục tiêu này. Bên cạnh mặt tốt là đề 2016, tr.468-497). 7
  6. SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 73 (01/2021) Triết lý giáo dục cần phải thay đổi từ (Luận Ngữ, VII, 8). hướng đến ổn định chuyển sang hướng Chỉ có điều những tư tưởng này của đến phát triển, từ đào tạo người thừa hành Khổng Tử không phù hợp với mục tiêu đào (“con ngoan trò giỏi” theo nghĩa “biết vâng tạo con người biết vâng lời để phục vụ cho lời” và “học thuộc bài”) sang đào tạo con văn hóa hướng đến ổn định nên vua các người của xã hội hiện đại có bản lĩnh và nước cùng thời không ai dùng Khổng Tử, sáng tạo. khiến thầy trò ông phải lang thang phiêu 3.2. Vai trò của Nho học trong triết lý bạt khắp nơi như “chó không nhà” (táng giáo dục Việt Nam mới gia cẩu, 丧 家 狗 ). Những tư tưởng khai 3.2.1. Triết lý giáo dục hướng đến sứ phóng của Khổng Tử cũng chưa bao giờ mệnh xây dựng xã hội phát triển và mục được coi trọng, đề cao trong Hán Nho, tiêu đào tạo người sáng tạo không phủ Tống Nho. Chúng thường chỉ được nhắc nhận vai trò của tư tưởng Nho học, bởi lẽ đến trong các khảo cứu hàn lâm theo kiểu tư tưởng Nho học, như đã nói ở mục 1.1, “khai quật khảo cổ học”. Nói đến Nho giáo rất đa dạng và phong phú. Trong đó, triết lý (Hán Nho, Tống Nho) mà trích dẫn những giáo dục của Khổng Tử vốn mang đầy đủ tư tưởng này của Khổng Tử (như thường tính dân chủ và khai phóng. gặp trong không ít sách vở, luận văn, luận Khổng Tử cho con được can cha, chứ án) là một sự nhầm lẫn nghiêm trọng. không bắt con phải tuyệt đối phục tùng cha 3.2.2. Bên cạnh mục tiêu tạo nên xã mẹ. Ông chủ trương đề cao tự do tư tưởng, hội ổn định, Nho học hướng đến xây dựng chấp nhận sự khác biệt khi nói: “Người con người với những phẩm chất nhân bản quân tử hòa hợp mà không nhất thiết phải rất cần cho xã hội hiện đại thiên về vật cùng quan điểm; kẻ tiểu nhân ngay cả khi chất. Như thế, việc khai thác và sử dụng tư cùng quan điểm mà vẫn không hòa hợp” tưởng Nho học cần đi vào chiều sâu, tùy (Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng thuộc vào mục tiêu cụ thể của từng quốc nhi bất hòa) (Luận ngữ, XIII, 231). Ông gia, trong từng giai đoạn. yêu cầu học trò học thì phải suy nghĩ chứ Những quốc gia đang trong giai đoạn không được học thuộc lòng: “Học mà phát triển quá nhanh, có nguy cơ thiếu ổn không suy nghĩ thì tăm tối; suy nghĩ mà định thì có thể đề cao Nho học; còn những không học thì nguy hại” (Học nhi bất tư tắc quốc gia đang trong giai đoạn chuyển đổi võng, tư nhi bất học tắc đãi) (Luận ngữ, II, từ ổn định sang phát triển (như Việt Nam) 15). Ông đòi hỏi ở học trò bản lĩnh và sáng thì việc đề cao Nho học sẽ làm chậm sự tạo chứ không phải là sự ngoan ngoãn rập phát triển. Không nên xem những phong khuôn: “Ta vén cho một góc rồi mà [kẻ trào văn hóa đại chúng ồn ào kiểu như hiện nào] không tự suy nghĩ tìm ra ba góc kia, tượng Vu Đan ở Trung Quốc thời gian thì ta không dạy cho nữa” (Cử nhất ngung, 2006-2013 (Yu Dan, 2014; Hải Lan, 2012) bất dĩ tam ngung phản, tắc bất phục dã) là hình mẫu cho mọi quốc gia. Nghiên cứu được tài trợ bởi Chương trình Khoa học và Công nghệ cấp Quốc gia giai đoạn 2016- 2020 trong khuôn khổ Đề tài “Triết lý giáo dục Việt Nam từ truyền thống đến hiện tại”, mã số KHGD/16-20.ĐT.011 8
  7. TRẦN NGỌC THÊM TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN Chú thích: 1 Số La-mã là chương, số A-rập sau đó là đoạn TÀI LIỆU THAM KHẢO Hà Thúc Minh. (2014). Chữ Lễ và giáo dục thời xưa. Tạp chí Khoa học xã hội TP.HCM, số 6, tr.94-99. Hải Lan. (2012). Vu Đan đưa “Luận ngữ”, “Trang Tử” đến thế giới hiện đại. Khai thác từ: vnexpress.net/vu-dan-dua-luan-ngu-trang-tu-den-the-gioi-hien-dai-2390705.html. Hồ Sĩ Quý. (2009). Về số phận của Nho giáo. Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 8, tr.48-53. Khổng Tử. (2002). Luận ngữ. Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê. NXB Văn học, 173 trang. Nguyễn Hiến Lê. (1995). Khổng Tử. Hà Nội: NXB Văn hóa - Thông tin, 268 trang. Trần Ngọc Thêm. (1996). Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. NXB TP.HCM, 670 trang. Trần Ngọc Thêm. (2013). Những vấn đề văn hóa học lý luận và ứng dụng. TP.HCM: NXB Văn hóa - Văn nghệ, 675 trang. Trần Ngọc Thêm. (2016). Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai. TP.HCM: NXB Văn hóa - Văn nghệ, 589 trang. Yu Dan. (2014). 文 明 之 旅 [ 文 明 之 旅 ] 于 丹 话 清 明 (20130401). Khai thác từ: youtube.com/watch?v=a-NAyV_cu8s (CCTV). Ngày nhận bài: 03/11/2020 Biên tập xong: 15/01/2021 Duyệt đăng: 20/01/2021 9
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2