« Home « Kết quả tìm kiếm

Tiểu luận “Nghiên cứu máy móc và lao động trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư”


Tóm tắt Xem thử

- V iệc ứng dụng những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại đã thúc đẩy lực lượng sản xuất ở những nước tư bản chủ nghĩa phát triển, nhờ đó không những các tập đoàn tư bản độc quyền thu được lợi nhuận siêu ngạch cao mà đời sống của những người lao động tại nghiệp cũng được cải thiện và hình thành tầng lớp trung lưu trong xã hội..
- Phê phán những luận điểm đó, chúng ta tập trung vào việc nghiên cứu máy móc và lao động trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư để giải thích quan niệm trên..
- MÁY MÓC VÀ LAO ĐỘNG.
- Về thực chất, đó là cuộc cách mạng kỹ thuật thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật.
- Phải chăng máy móc tạo ra giá trị thặng dư?.
- giá trị của hàng hoá trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bao gồm giá trị của những tư liệu sản xuất đã được tiêu dùng chuyển sang sản phẩm mới c và lượng giá trị mới do lao động sống thêm vào trong đó để bù lại tư bản khả biến đã được dùng để mua sức lao động (ngang với giá trị sức lao động và m là giá trị thặng dư dôi ra ngoài giá trị sức lao động).
- Như vậy, nguồn gốc của giá trị thặng dư chỉ là lao động sống..
- Những người phản bác học thuyết giá trị thặng dư cho rằng điều đó chỉ đúng trong thời C.Mác còn sống khi lao động thủ công chiếm ưu thế, còn ngày nay trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ, máy móc là nguồn gốc chủ yếu của giá trị thặng dư.
- nhau theo một tỷ lệ nhất định vì chúng đều là sản phẩm của lao động, có cơ sở chung là sự hao phí sức lao động của con người.
- Lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá là giá trị của hàng hoá.
- Lượng giá trị của hàng hoá được xác định như thế nào? Nếu giá trị hàng hoá là lao động xã hội kết tinh trong hàng hoá thì lượng giá trị của hàng hoá là số lượng lao động xã hội hao phí để sản xuất hàng hoá (gồm lao động sống và lao động vật hoá thể hiện ở tư liệu sản xuất).
- Vì lao động sản xuất hàng hoá có tính hai mặt : lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định..
- Mỗi lao động cụ thể có một mục đích riêng, phương pháp hoạt động riêng, công cụ lao động riêng, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng.
- Thí dụ: lao động của người thợ xây, thợ mộc, thợ may là những lao động cụ thể.
- Kết quả của lao động cụ thể là tạo ra một công dụng nhất định, tức là tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá..
- Lao động trừu tượng: là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá không kể đến hình thức cụ thể của nó.
- Các loại lao động cụ thể có điểm chung giống nhau là sự tiêu hao cơ bắp, thần kinh sau một quá trình lao động.
- Đó chính là lao động trừu tượng, nó tạo ra giá trị của hàng hoá..
- Tất nhiên, không phải có hai thứ lao động kết tinh trong hàng hoá mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hoá có tính chất hai mặt mà thôi..
- Trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá là sự biểu hiện của mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội của những người sản xuất hàng hoá.
- biểu hiện ở lao động cụ thể với lao động trừu tượng, ở giá trị sử dụng với giá trị hàng hoá..
- Bất cứ quá trình lao động nào cũng là sự kết hợp ba nhân tố chủ yếu: lao động có mục đích của con người, đối tượng lao động, tư liệu lao động (quan trọng hơn cả là công cụ lao động, nhất là công cụ cơ khí hay máy móc).
- Sử dụng máy móc càng hiện đại thì sức sản xuất của lao động càng cao, càng làm ra nhiều giá trị sử dụng (nhiều của cải) trong một đơn vị thời gian..
- Nhưng khi xét quá trình tạo ra và làm tăng giá trị thì những hàng hoá tham gia vào đây không còn được xét với tư cách là những nhân tố vật thế nữa, mà chỉ được coi là những lượng lao động đã vật hoá nhất định.
- Chính lao động sống đã “cải tử hoàn sinh” cho các tư liệu sản xuất, trong đó có mày móc, chuyển giá trị của chúng sang sản phẩm mới theo mức độ đã tiêu dùng trong quá trình lao động sản xuất.
- Kẻ thắng nhận được phần thưởng là lợi nhuận siêu ngạch, kẻ thua bị trừng phạt, không thu lại đủ số lao động (sống và quá khứ) đã hao phí.
- Cũng cần lưu ý rằng máy móc là phương tiện giảm nhẹ nỗi cực nhọc của người lao động, tiết kiệm lao động sống nhưng không phải bao giờ máy móc cũng là đIều kiện để thu được nhiều lợi nhuận hơn là sử dụng lao động thủ công..
- Khi nói về giới hạn sử dụng máy móc trong chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã chỉ ra rằng nhà tư bản “không trả cho lao động đã sử dụng, mà chỉ trả cho giá trị sức lao động đã sử dụng.
- Cho nên, việc sử dụng máy móc bị giới hạn bởi số chênh lệch giữa giá trị của chiếc mày và giá trị của sức lao động bị máy đó thay thế..
- Do đó, tiền công thấp sẽ ngăn cản việc sử dụng máy móc, bởi vì lợi nhuận bắt nguồn không phải từ việc giảm bớt lao động được trả công.
- 2) Lao động với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa:.
- Sức lao động là tổng hợp thể lực và trí lực của con người dùng để sản xuất ra của cải vật chất.
- Trong bất cứ chế độ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất.
- Nhưng sức lao động chỉ biến thành hàng hoá trong những điều kiện lịch sử nhất định..
- Một là, người lao động phải là người có tự do về thân thể, do đó được tự do sử dụng sức lao động của mình, kể cả tự do bán sức lao động của mình cho người khác..
- Hai là, người lao động hoàn toàn mất hết mọi tư liệu sản xuất, chỉ còn lại sức lao động là tài sản duy nhất.
- Hai điều kiện đó vạch ra khả năng và tính tất yếu của sự chyển biến sức lao động thành hàng hoá.
- Hàng hoá sức lao động ra đời đánh dấu một giai đoạn mới trong sự phát triển của xã hội- giai đoạn mà sản xuất hàng hoá phát triển cao nhất và chiếm địa vị thống trị trong nền kinh tế, đó là sản xuất tư bản chủ nghĩa..
- Do đó, hàng hoá sức lao động là một phạm trù lịch sử đặc thù của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nó sinh ra và mất đi cùng với phương thức sản xuất đó.
- Cũng như mọi hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng..
- Giá trị của hàng hoá sức lao động: là thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động.
- Nói cách khác cụ thể thì giá trị của hàng hoá sức lao động bằng giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người công nhân và gia đình họ, và những chi phí để đào tạo người công nhân có một trình độ chuyên môn nhất định phù hợp với yêu cầu của sản xuất tư bản chủ nghĩa.
- Giá trị sức lao động còn có tính lịch sử và xã hội, do đó tuỳ theo điều kiện cụ thể từng nước và từng thời kỳ mà giá trị sức lao động có thể cao hay thấp khác nhau..
- Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động: là ở chỗ nó thoả mãn nhu cầu nào đó cuat người mua.
- Nhưng khác với hàng hoá thông thường khác, hàng hoá sức lao động có một giá trị sử dụng đặc biệt là khi đem tiêu dùng thì nó tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó.
- Quá trình tiêu dùng sức lao động là quá trình lao động diễn ra trong lĩnh vực sản xuất.
- đều quan niệm của cải được lao động sáng tạo ra là của cải dạng vật thế.
- Khi nói giá trị hàng hoá được đo bắng thời gian lao động trung bình cần thiết hay thời gian lao động xã hội cần thiết.
- Tức là thời gian đòi hỏi để sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó trong những đIều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội đó.
- C.Mác đồng thời cũng đề cập đến lao động phức tạp coi lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn.
- Nói đúng hơn là lao động giản đơn nhân bội lên , thành thử một lao động phức tạp nhỏ hơn thì tương đương với một lượng lao động giản đơn lớn hơn..
- “từ nay về sau, để cho sự trình bày được đơn giản, chúng tôi sẽ trực tiếp coi mọi loại sức lao động như là một sức lao động giản đơn.
- Điều đó, sẽ tránh cho chúng ta khỏi phải quy lao động phức tạp ra lao động giản đơn trong từng trường hợp một”.
- chỉ quy công tạo ra giá trị cho lao động đơn giản cho lao động thể lực.
- NỘI DUNG GÍA TRỊ THẶNG DƯ 1) Lao động thặng dư:.
- Mác nói: “Nếu không có một năng suất nào đó của lao động thì sẽ không có một thời gian rỗi như thế cho ngươì lao động, nếu không có một thời gian rỗi.
- như thế thì cũng không có lao động thặng dư.
- Vậy lao động phải có một mức độ năng suất nào đó, trước khi nó có thể bị kéo dài ra quá thời gian tất yếu cần cho người sản xuất để nuôi sống mình..
- Nguyên nhân đó bao giờ cũng là lao động thặng dư, vô luận phương thức bóp nặn lao động thặng dư là như thế nào chăng nữa..
- 1) Giá trị thặng dư:.
- Nếu việc coi giá trị chỉ là thời gian lao động đã cô đọng lại, chỉ là lao động đã vật hoá là rất quan trọng để nhận thức được giá trị nói chung thì việc coi giá trị thặng dư chỉ là thời gian lao động thặng dư đã cô đọng lại.
- Chỉ là lao động thặng dư đã vật hoá, cũng quan trọng như để nhận thức giá trị thặng dư..
- Vì giá trị của tư bản khả biến bằng giá trị sức lao động mà tư bản đã mua, vì giá trị sức lao động ấy lại quyết định phần cần thiết của ngày lao động.
- Còn giá trị thặng dư thì lại do phần thặng ra trong ngày lao động quyết định cho nên giá trị thặng dư so với tư bản khả biến cũng bằng lao động thặng dư so với lao động cần thiết hay tỷ suất giá trị thặng dư..
- m lao động thặng dư v lao động cần thiết.
- Nếu quá trình tạo ra giá trị chỉ kéo dài đến cái đIểm mà ở đó giá trị sức lao động do tư bản trả được hoàn lại bằng một vật ngang giá mới thì đó là quá trình giản đơn tạo ra giá trị mà thôi..
- Với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất hàng hoá.
- Với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình làm tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hoá..
- QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ:.
- 1) Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: là cái giá trị thặng dư do chỉ đơn thuần kéo dài ngày lao động ra mà có được.
- Kéo dài ngày lao động ra quá thời gian tất yếu mà người công nhân dùng để cung cấp một vật ngang giá cần cho người đó sống và đem lao động thặng dư đó cho tư bản, như thế là sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối.
- Trong việc sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối đó, ngày lao động chia thành hai phần: lao động tất yếu và lao động thặng dư.
- Để kéo dài lao động thặng dư ra, lao động tất yếu tất sẽ bị rút ngắn lại bằng những phương pháp khiến người ta sản xuất một vật ngang giá với tiền công mà lại mất ít thời gian hơn.
- Việc sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối chỉ ảnh hưởng đến thời gian lao động mà thôi, còn việc sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối thì lại làm biến đổi hoàn toàn các biện pháp kỹ thuật và các kết hợp xã hội của lao động.
- 2) Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối: là cái giá trị thặng dư mà trái lại có được là do rút ngắn thời gian lao động tất yếu và do sự thay đổi tương xứng trong lượng tương đối của hai phần hợp thành ngày lao động..
- Ví dụ có một ngày lao động mà chúng ta đã biết giới hạn và ngày lao động đó chia thành lao động tất yếu và lao động thặng dư.
- đại biểu chẳng hạn cho một ngày lao động 12 giờ, phần ab là 10 giờ lao động tất yếu và phần bc là 2 giờ lao động thặng dư.
- Giả dụ trong đường thẳng bb’ bằng một nửa bc nghĩa là bằng một giờ lao động.
- Nếu bây giờ trong ac, điểm b bị đẩy lùi về phía b’ thì lao động thặng dư.
- Tuy nhiên, việc kéo dài lao động thặng dư ra như thế từ bc thành b’c, từ 2 giờ lên đến 3 giờ cũng không sao thực hiện được, nếu không rút ab thành ab’, rút lao động tất yếu từ 10 giờ xuống 9 giờ..
- Như vậy là việc rút ngắn lao động tất yếu tương xứng với việc kéo dàI lao động thặng dư hay là một phần thời gian lao động mà tư trước đến nay người công nhân vẫn dùng trong thực tế cho bản thân mình, sẽ biến thành thời gian lao động cho nhà tư bản.
- Thế là giới hạn của nhà tư bản sẽ không thay đổi, nhưng sự phân chia lao động thành lao động tất yếu và lao động thặng dư sẽ thay đổi..
- Sự tăng lên của sức sản xuất hay năng suất của lao động chúng ta hiểu nói chung là sự thay đổi trong cách thức lao động.
- Một sự thay đối làm rút ngắn thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá sao cho một số lượng lao động ít hơn mà lại còn được một sức sản xuất ra nhiều giá trị sử dụng hơn..
- Khi chúng ta nghiên cứu giá trị thặng dư do kéo dài lao động ra mà có, thì chúng ta giả định là đã biết phương thức sản xuất rồi..
- Nhưng nếu muốn kiếm giá trị thặng dư bằng cách biến lao động tất yếu thành lao động thặng dư mà tư bản vẫn cứ giữ y nguyên những cách thức lao động cổ truyền và chỉ biết có đơn thuần kéo dài thời gian lao động ra thôi thì không đủ nữa.
- Chỉ có thế thì tư bản mới tăng năng suất lao động lên được, do đó mà hạ giá thấp giá trị của sức lao động xuống và cũng do đó mà rút ngắn thời gian cần thiết để tái sản xuất ra giá trị sức lao động đó..
- Muốn cho việc nâng cao năng suất lên làm cho giá trị sức lao động hạ thấp xuống, thì việc đó phải được thực hiện trong những ngành công nghiệp sản xuất ra những sản phẩm quyết định giá trị của sức lao động đó.
- Việc tăng năng suất lao động, trong khi làm cho giá cả những hàng hoá đó hạ xuống, thì đồng thời cũng làm cho giá trị của sức lao động hạ xuống.
- Ngược lại, trong những ngành công nghiệp không cung cấp những tư liệu sinh hoạt, cũng không cung cấp những yếu tố vật chất của những tư liệu sinh hoạt đó, thì năng suất tăng lên cũng không làm ảnh hưởng gì đến giá trị của sức lao động cả..
- Một hàng hoá mà giá rẻ đi, thì chỉ làm giảm giá trị sức lao động theo tỷ lệ nhiều ít mà hàng hoá đó được dùng để tái sản xuất ra sức lao động đó.
- Giá trị của từng hàng hoá thuộc loại đó là một phần của giá trị sức lao động, toàn bộ phần giảm đi của giá trị sức lao động đó thì được đo bằng tổng số thời gian mà lao động tất yếu đã được rút ngắn đi trong tất cả các ngành sản xuất đặc biệt.
- Khi một nhà tư bản hạ thấp giá áo sơ mi xuống, chẳng hạn bằng cách nâng cao năng suất lao động lên thì không nhất thiết nhà tư bản có ý định làm giảm bớt giá trị của sức lao động và do đó rút ngắn ngày lao động mà người công nhân dùng để làm việc cho bản thân..
- Việc quy định giá trị theo thời gian lao động là một quy luật bắt buộc đối với nhà tư bản dùng những phương pháp cải tiến vì quy luật đó buộc anh ta phải bán hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá đó.
- Vậy là tỷ suất chung của giá trị thặng dư rút cục chỉ bị ảnh hưởng, khi việc nâng cao năng suất lao động làm hạ thấp giá cả của những hàng hoá nằm trong phạm vi những tư liệu sinh hoạt cấu thành những yếu tố của giá trị sức lao động..
- QUY LUẬT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ.
- Nội dung của quy luật là tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản bằng cách tăng cường các phương tiện kỹ thuật và quản lý để bóc lột ngày càng nhiều lao động làm thuê.
- Mà tư bản thì chỉ có một xu hướng tự nhiên, một động cơ duy nhất, nó cố tăng lên, cố tạo ra giá trị thặng dư, cố dùng phần bất biến của nó tức là những tư liệu sản xuất để thu hút cho được một khối lượng lao động thặng dư nhiều nhất..
- Khi xã hội ở vào hình thái mà về mặt kinh tế không phải giá trị trao đổi mà là giá trị sử dụng chiếm ưu thế, thì lao động thặng dư ít nhiều bị hạn chế bởi phạm.
- Nhưng tính cách của chính ngay nền sản xuất thì không gây nên một sự thèm khát cao độ về lao động thặng dư

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt