BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP HỒ CHÍ MINH
BÙI DIỆU ANH
QUẢN TRỊ DANH MỤC CHO VAY
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ
TP HỒ CHÍ MINH - NĂM 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP HỒ CHÍ MINH
BÙI DIỆU ANH
QUẢN TRỊ DANH MỤC CHO VAY
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ
Chuyên ngành: Kinh tế tài chính, Ngân hàng
Mã số: 62. 31. 12. 01
Người hướng dẫn khoa học:
1. Tiến sĩ Hồ Diệu
2. Tiến sĩ Lê Thị Hiệp Thương
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận án có lời cam đoan danh dự về công trình khoa học này của mình, cụ
thể:
Tôi tên là: Bùi Diệu Anh
Sinh ngày 17 tháng 03 năm 1962 – Tại: Hà Nội
Quê quán: Hà Nội
Hiện công tác tại: Khoa Tín dụng Trường Đại học Ngân hảng TP. HCM – 36 Tôn
Thất Đạm – Quận 1 – TP. HCM
Là Nghiên cứu sinh khóa 10 của Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM
Mã số học viên: 010110050001
Cam đoan đề tài:
QUẢN TRỊ DANH MỤC CHO VAY TẠI CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học:
- Hướng dẫn 1: TS. Hồ Diệu
- Hướng dẫn 2: TS. Lê Thị Hiệp Thương
Luận án được thực hiện tại Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM.
Đề tài này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả nghiên cứu có tính
độc lập riêng, không sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa được công bố toàn bộ
nội dung này bất kỳ ở đâu (hoặc đã công bố phải nói rõ ràng các thông tin của tài
liệu đã công bố); các số liệu, các nguồn trích dẫn trong luận án được chú thích
nguồn gốc rõ ràng, minh bạch.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của tôi.
TP.HCM, ngày 31/12/2010
Tác giả
Bùi Diệu Anh
ii
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
TIẾNG VIỆT
ACB:
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu
CSH:
Chủ sở hữu
DONG A BANK:
Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á
EXIMBANK:
Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu
GTVT:
Giao thông vận tải
HĐQT:
Hội đồng quản trị
HSBC:
Ngân hàng Hồng kong- Thượng Hải
MB:
Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội
NHNN:
Ngân hàng Nhà nước
OCB:
Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Đông
SACOMBANK:
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn Thương Tín
SCB:
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn
SOUTHERNBANK:
Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam
SHB:
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn – Hà nội
SHNN:
Sở hữu Nhà nước
SAIGONBANK:
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Công thương
TECHCOMBANK:
Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương
TNHH:
Trách nhiệm hữu hạn
TMCP:
Thương mại cổ phần
TMNN:
Thương mại Nhà nước
TCTC:
Tổ chức tài chính
iii
VND:
Việt Nam đồng
XHTD:
Xếp hạng tín dụng
XHTN:
Xếp hạng tín nhiệm
TIẾNG NƯỚC NGOÀI
ATTF:
Agence de Transfert de Technologie Financière
ALCO:
Asset Liability
BIS:
Bank for International Settlements
CDS:
Credit Default Swaps
CDOs:
Collateralized Debt Obligations
CLOs:
Collateralized Loan Obligations
CLOs:
Collateralized Loan Obligations
CMOs:
Collateralized Mortgage Obligations
CIC:
Credit Information Center
EL:
Expected Loss
EAD:
Exposure at Deafault
GDP:
Gross Domestic Product
IMF:
International Monetary Fund
LGD:
Loss given at Deafaut
PD:
Possibility of Deafault
ROA:
Return on Assets
ROE:
Return on Equity
SPV:
The Special Purpose Vehicle
USD:
United State Dollar
UL:
Unexpected Loss
iv
VaR:
Value at Risk
WTO:
World Trade Organization
WB:
World Bank
v
DANH MỤC BẢNG BIỂU & PHỤ LỤC
BẢNG BIỂU
BẢNG 1.1: CƠ CẤU DANH MỤC CHO VAY CỦA NHTM ................................ 4
BẢNG 1.2: CÁC PHƯƠNG ÁN PHÂN BỐ LỢI NHUẬN VÀ TỔN THẤT.......22
BẢNG 2.1: MỘT SỐ CHỈ TIÊU HOẠT ĐỘNG NGÀNH NGÂN HÀNG……...61
BẢNG 2.2: TỐC ĐỘ PHÁT TRIỂN QUY MÔ TÀI SẢN, VỐN………………..70
BẢNG 2.3: CÁC CHỈ SỐ PHẢN ÁNH NĂNG LỰC TÀI CHÍNH ..................... 72
BẢNG 2.4: THỊ PHẦN HOẠT ĐỘNG CỦA NHTMCP ................................….75
BẢNG 2.5: CƠ CẤU DANH MỤC CHO VAY THEO NGÀNH KINH TẾ ........ 78
BẢNG 2.6: CƠ CẤU DANH MỤC CHO VAY THEO NGÀNH KINH TẾ ...... ..81
BẢNG 2.7: CƠ CẤU DANH MỤC CHO VAY THEO LĨNH VỰC ĐẦU TƯ ...85
BẢNG 2.8: MỘT SỐ CHỈ TIÊU GIỚI HẠN TRÊN DANH MỤC CHO VAY ... 93
BẢNG 2.9: XẾP HẠNG KHÁCH HÀNG ......................................................... ..100
BẢNG 2.10: XẾP HẠNG TÀI SẢN BẢO ĐẢM ................................................ 100
BẢNG 2.11: TỔNG HỢP KẾT QUẢ XẾP HẠNG RỦI RO ............................. ..101
BẢNG 3.1: TÍNH TOÁN TỔN THẤT KỲ VỌNG CHO KHOẢN VAY .......... 146
BẢNG 3.2: XÁC XUẤT CHUYỂN HẠNG CỦA KHOẢN VAY……………..150
BẢNG 3.3: SUẤT CHIẾT KHẤU VÀ PHÍ RỦI RO…………………………...155
BẢNG 3.4: GIÁ TRỊ THỊ TRƯỜNG CỦA TỪNG KHOẢN VAY .................. ..155
BẢNG 3.5: TÍNH GIÁ TRỊ TRUNG BÌNH KỲ VỌNG ………………………153
BẢNG 3.6: MA TRẬN TRẠNG THÁI TÍN DỤNG CHUNG…………………155
BẢNG 3.7: MA TRẬN KẾT HỢP XÁC XUẤT CHUYỂN HẠNG ................... 160
vi
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 01: CÁC LOẠI VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
PHỤ LỤC 02: CÁCH TÍNH LỢI NHUẬN VÀ TỔN THẤT DANH MỤC
PHỤ LỤC 03: PHÂN NHÓM NGÂN HÀNG TMCP CUỐI NĂM 2010
PHỤ LỤC 04: TỶ TRỌNG THU LÃI TÍN DỤNG TRÊN TỔNG THU NHẬP
PHỤ LỤC 05: TỶ TRỌNG DƯ NỢ SO VỚI TỔNG TÀI SẢN
PHỤ LỤC 06: MỘT SỐ CHỈ TIÊU HOẠT ĐỘNG TỪ 2006-2010 (nhóm 7 ngân
hàng TMCP quy mô lớn)
PHỤ LỤC 07: MỘT SỐ CHỈ TIÊU HOẠT ĐỘNG TỪ 2006-2010 (nhóm 5 ngân
hàng TMCP quy mô trung bình)
PHỤ LỤC 08: MỘT SỐ CHỈ TIÊU HOẠT ĐỘNG TỪ 2006-2010 (nhóm 6 ngân
hàng TMCP quy mô nhỏ)
PHỤ LỤC 09: MỘT SỐ CHỈ TIÊU HOẠT ĐỘNG TỪ 2006-2010 (nhóm 7 ngân
hàng TMCP quy mô cực nhỏ)
PHỤ LỤC 10: CƠ CẤU DANH MỤC CHO VAY THEO NGÀNH KINH TẾ
PHỤ LỤC 11: CƠ CẤU DANH MỤC CHO VAY THEO THỜI HẠN
PHỤ LỤC 12: CƠ CẤU DANH MỤC CHO VAY THEO ĐỐI TƯỢNG KHÁCH
HÀNG
PHỤ LỤC 13: CÁC CHỈ TIÊU PHẢN ÁNH CHẤT LƯỢNG NỢ
PHỤ LỤC14: TÍNH GÍA TRỊ TRUNG BÌNH CHO DANH MỤC CHO VAY
vii
DANH MỤC HÌNH VẼ & ĐỒ THỊ
HÌNH VẼ
HÌNH 1.1: CƠ CẤU CÁC LOẠI RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
CỦA
NHTM………………………………………………………………………..10
HÌNH 1.2: CÁC LOẠI TỔN THẤT TRÊN DANH MỤC CHO VAY...................20
HÌNH 1.3: SƠ ĐỒ HOÁN ĐỔI RỦI RO TÍN DỤNG……………………………33
HÌNH 1.4: SƠ ĐỒ MỘT CLO CẤU TRÚC TRUYỀN THỐNG...........................37
HÌNH 2.1: SƠ ĐỒ TỔ CHỨC THỨC HIỆN VÀ GIÁM SÁT DANH MỤC........97
HÌNH 3.1: TỔNG QUAN VỀ MÔ HÌNH ĐO LƯỜNG RỦI RO………………158
ĐỒ THỊ
ĐỒ THỊ 2.1: TĂNG TRƯỞNG GDP, TỐC ĐỘ LẠM PHÁT VÀ TĂNG TD.......62
ĐỒ THỊ 2.2: TỐC ĐỘ PHÁT TRIỂN QUY MÔ HỆ THỐNG NHTMCP……….71
viii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN…………………………………………………………………...i
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT……………………………………………ii
DANH MỤC BẢNG BIỂU & PHỤ LỤC………………………………………....iv
DANH MỤC HÌNH VẼ & ĐỒ THỊ……………………………………………...vi
MỤC LỤC...............................................................................................................vii
MỞ
ĐẦU………………………………………………………………………….xiv
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ DANH MỤC CHO VAY
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI……………………………………………..1
1.1. Danh mục cho vay tại các Ngân hàng thương mại…………………………….1
1.1.1. Hoạt động cho vay và danh mục cho vay của Ngân hàng.........................1
1.1.1.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại……………………..1
1.1.1.2. Danh mục cho vay của Ngân hàng thương mại.................................3
1.1.2. Rủi ro danh mục cho vay của Ngân hàng thương mại…………………...8
1.1.2.1. Cơ cấu rủi ro danh mục cho vay của ngân hàng thương mại……….8
1.1.2.2. Hậu quả của rủi ro danh mục cho vay…………………………….11
1.2. Quản trị danh mục cho vay tại các ngân hàng thương mại…………………...12
1.2.1. Khái niệm và ý nghĩa quản trị danh mục cho vay đối với NHTM..........12
1.2.1.1. Khái niệm quản trị danh mục cho vay tại NHTM…………………12
1.2.1.2. Ý nghĩa của quản trị danh mục cho vay……………………………12
1.2.2. Các phương pháp quản trị danh mục cho vay…………………………..14
ix
1.2.2.1. Phương pháp quản trị danh mục thụ động.......................................13
1.2.2.2. Phương pháp quản trị danh mục chủ động………………………...17
1.2.3. Nội dung quản trị danh mục cho vay theo phương pháp chủ động.........18
1.2.3.1. Hoạch định………………………………………………………..18
1.2.3.2. Tổ chức thực hiện và giám sát danh mục cho vay………………...26
1.2.3.3. Điều chỉnh danh mục cho vay……………………………………..29
1.2.4. Các công cụ hiện đại điều chỉnh cơ cấu danh mục cho vay……………..31
1.2.4.1. Hoán đổi rủi ro tín dụng…………………………………………...31
1.2.4.2. Chứng khoán hóa khoản nợ………………………………………..35
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản trị danh mục cho vay……39
1.2.5.1. Các nhân tố chủ quan từ phía ngân hàng thương mại…………….39
1.2.5.2. Các nhân tố thuộc về môi trường…………………………………42
1.3. Quản trị danh mục cho vay trong nền kinh tế hiện đại.....................................46
1.3.1. Kinh nghiệm quản trị danh mục cho vay trong nền kinh tế hiện đại.......46
1.3.1.1. Xu hướng quản trị danh mục cho vay trước những năm 90.............45
1.3.1.2. Xu hướng quản trị danh mục cho vay sau những năm 90…………47
1.3.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam……………………………...53
Kết luận chương 1…………………………………………………………………59
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ DANH MỤC CHO VAY TẠI CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM………………………61
2.1. Tổng quan về tình hình hoạt động của ngành ngân hàng…………………….61
x
2.1.1. Một số nét nổi bật trong hoạt động của ngành ngân hàng……………...61
2.1.1.1 Sự phát triển mạnh mẽ trên phương diện gia tăng số lượng…………..59
2.1.1.2. Tốc độ tăng trưởng tín dụng, huy động vốn……………………….60
2.1.1.3. Phát triển mạnh các dịch vụ ngân hàng sử dụng công nghệ.............63
2.1.1.4. Hiệu quả kinh doanh của hệ thống ngân hàng……………………..64
2.1.1.5. Quy mô vốn của các NHTM.............................................................66
2.1.2. Tổng quan về hoạt động của hệ thống ngân hàng TMCP………………69
2.1.2.1. Về tăng trưởng quy mô tài sản, vốn điều lệ và lợi nhuận................68
2.1.2.2. Về năng lực tài chính.......................................................................71
2.1.2.3. Về tăng trưởng thị phần hoạt động...................................................73
2.2. Thực trạng danh mục cho vay tại các ngân hàng TMCP……………………..77
2.2.1. Cơ cấu danh mục cho vay theo ngành kinh tế………………………….77
2.2.2. Cơ cấu danh mục cho vay theo lĩnh vực đầu tư………………………...85
2.2.3. Cơ cấu danh mục cho vay theo thời hạn………………………………..87
2.2.4. Cơ cấu danh mục cho vay theo đối tượng khách hàng…………………89
2.2.5. Cơ cấu danh mục cho vay theo các tiêu thức khác……………………..90
2.3. Thực trạng quản trị danh mục cho vay tại các ngân hàng TMCP…………….91
2.3.1. Những kết quả đạt được………………………………………………...91
2.3.1.1. Hàng năm, một số ngân hàng TMCP đã dự kiến các chỉ tiêu……..89
2.3.1.2. Phần lớn các ngân hàng TMCP đã tổ chức bộ máy……………….93
2.3.1.3 Một số ít các ngân hàng TMCP đã vận hành hệ thống xếp hạng…..95
2.3.1.4. Hầu hết các ngân hàng đã sử dụng biện pháp nội bảng…………...99
2.3.2. Những hạn chế………………………………………………………...103
xi
2.3.2.1. Hầu hết các ngân hàng TMCP chưa thực hiện quản trị danh mục.101
2.3.2.2. Các ngân hàng chưa xây dựng được mô hình đo lường rủi ro…...113
2.3.2.3. Việc điều chỉnh danh mục cho vay ít được chú ý………………..108
2.3.2.4. Cơ cấu tổ chức ở các ngân hàng TMCP chưa thực sự phù hợp….112
2.3.3. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong quản trị danh mục cho vay……..116
2.3.3.1. Nguyên nhân chủ quan của ngân hàng thương mại……………...116
2.3.3.2. Các nguyên nhân khách quan…………………………………….121
Kết luận chương 2………………………………………………………………..126
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ DANH
MỤC CHO VAY TẠI CÁC NGÂN HÀNG TMCP VIỆT NAM…………….128
3.1. Định hướng hoàn thiện quản trị danh mục cho vay…………………………128
3.1.1. Định hướng hoạt động ngành ngân hàng đến năm 2020……………...128
3.1.2. Định hướng hoàn thiện hoạt động quản trị danh mục cho vay..............126
3.1.2.1. Mục tiêu hoàn thiện………………………………………………126
3.1.2.2 Định hướng hoàn thiện……………………………………………127
3.2. Các giải pháp hoàn thiện hoạt động quản trị danh mục cho vay……………133
3.2.1. Giải pháp có tính chiến lược…………………………………………..133
3.2.1.1. Nhận thức đầy đủ về sự cần thiết phải thay đổi………………….130
3.2.1.2. Những nội dung có tính định hướng chiến lược…………………131
3.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức hoạt động quản trị danh mục……………135
3.2.2.1. Thành lập ủy ban chiến lược và ủy ban quản lý rủi ro…………...135
xii
3.2.2.2. Đảm bảo tính độc lập và tập trung của bộ phận quản lý rủi ro…..136
3.2.2.3. Xây dựng hệ thống thông tin quản trị hoạt động hiệu quả……….138
3.2.3. Nhóm giải pháp xây dựng và ứng dụng các kỹ thuật quản trị danh mục
hiện đại……………………………………………………………………….140
3.2.3.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ………….140
3.2.3.2. Xây dựng mô hình đo lường rủi ro danh mục cho vay………….162
3.2.3.3. Nghiên cứu sử dụng các công cụ điều chỉnh danh mục.................158
3.2.4. Các biện pháp hỗ trợ khác…………………………………………….164
3.2.4.1. Hoàn thiện hoạt động kiểm soát và kiểm toán nội bộ……………165
3.2.4.2. Các ngân hàng TMCP nhỏ cần sát nhập hợp nhất……………….166
3.2.4.3. Đào tạo đội ngũ nhân sự có chuyên môn về quản trị…………….167
3.3. Các khuyến nghị đối với ngân hàng Nhà nước……………………………...168
3.3.1. Xây dựng hành lang pháp lý…………………………………………..168
3.3.2. Tiếp tục nghiên cứu và ban hành các văn bản………………………...171
3.3.3. Hoàn thiện các quy định về giám sát theo chuẩn mực quốc tế………..172
3.3.4. Xây dựng các quy định pháp lý và hình thành thị trường……………..168
3.3.5. Củng cố hoạt động của trung tâm CIC..................................................171
3.4. Các kiến nghị khác…………………………………………………………..171
3.4.1. Kiến nghị với Chính phủ………………………………………………171
3.4.2. Kiến nghị với doanh nghiệp...................................................................173
Kết luận chương 3………………………………………………………………..178
KẾT LUẬN………………………………………………………………………180
xiii
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
PHỤ LỤC
xiv
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và ý nghĩa thực tiễn, khoa học của đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, sự cạnh tranh
trên thị trường tài chính tiền tệ trở nên khốc liệt hơn bao giờ hết. Với nỗ lực giữ
vững thị phần, ổn định và tăng trưởng lợi nhuận, các ngân hàng thương mại cổ
phần Việt Nam đã từng bước đưa ra nhiều sản phẩm dịch vụ mới, nhằm đa dạng
hóa các họat động sinh lời của mình. Tuy nhiên, với một danh mục sử dụng vốn
trong đó hơn phân nửa là cho vay có thể thấy rằng với hầu hết các ngân hàng
thương mại cổ phần tại Việt Nam hiện nay, cho vay vẫn đang là họat động sử dụng
vốn có tầm quan trọng bậc nhất. Với thực trạng đó, quản trị danh mục cho vay
được xem là biện pháp quan trọng nhằm đạt được các mục tiêu kinh doanh của
ngân hàng thương mại.
Trong thời gian qua, các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung, hệ thống
ngân hàng cổ phần Việt Nam nói riêng đã có một số thành công trong việc vận
dụng các kỹ thuật quản trị vào hoạt động cho vay, tuy nhiên chủ yếu vẫn là quản trị
trong từng giao dịch cho vay riêng biệt. Vì nhiều lý do khác nhau quản trị danh
mục cho vay chưa được quan tâm đúng mức. Danh mục cho vay của nhiều ngân
hàng thiếu sự đa dạng hóa, tập trung rủi ro cao. Hiện tượng dồn vốn cho vay một
khách hàng vượt giới hạn an toàn cho phép của luật vẫn xảy ra, dư nợ cho vay một
số ngành nhạy cảm như kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bất động sản chiếm
tỷ trọng khá cao trong tổng dư nợ cho vay của một ngân hàng … Những rủi ro tiềm
ẩn này đã trở thành tổn thất nguy hiểm khi nền kinh tế biến động, khách hàng thua
lỗ phá sản, thị trường chứng khoán sụt giảm cùng với sự đóng băng của thị trường
bất động sản trong nửa đầu năm 2008. Tình trạng đó là hậu quả của một quá trình
thiếu/ ít quan tâm đến quản trị danh mục cho vay, chỉ chú ý đến quản trị từng giao
dịch. Thiết nghĩ, nếu vận dụng các phương pháp, kỹ thuật quản trị danh mục cho
xv
vay theo xu hướng hiện đại các ngân hàng sẽ giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa
rủi ro và lợi nhuận trong hoạt động cho vay, góp phần nâng cao năng lực cạnh
tranh của mình.
Với mong muốn hiểu rõ về thực trạng quản trị danh mục cho vay tại các ngân
hàng TMCP Việt Nam, từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động quản trị
danh mục cho vay theo xu hướng của nền kinh tế hiện đại, tác giả chọn chủ đề
“QUẢN TRỊ DANH MỤC CHO VAY TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM” làm đề tài nghiên cứu của luận án.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan bổ sung
Quản trị danh mục nói chung trong đó có quản trị danh mục cho vay là đề tài
đã được một số tác giả, nhà nghiên cứu các nước đề cập. Cụ thể:
Sách “Credit Portfolio Management” của tác giả Charles W. Smithson do
nhà xuất bản John Wiley & Sons, Inc phát hành năm 2002. Đây là cuốn sách
đề cập khá đầy đủ các vấn đề liên quan đến quản trị danh mục tài sản của
ngân hàng. Nội dung cuốn sách bao gồm tiến trình quản trị danh mục, các
mô hình đo lường và quản trị danh mục, các công cụ kỹ thuật sử dụng trong
điều chỉnh danh mục. Do được viết trong bối cảnh chủ yếu là hệ thống tài
chính Mỹ, nên phạm vi bàn luận của cuốn sách gần như không/ít liên quan
đến hệ thống tài chính của các nước ngoài Mỹ. Mặt khác, cuốn sách chủ yếu
tập trung cho danh mục đầu tư chứng khoán, liên quan đến danh mục cho
vay chỉ có một phần rất nhỏ.
Sách “Credit Risk Measurement” của tác giả Anthony Saunders & Linda
Allen do nhà xuất bản John Wiley & Sons, Inc phát hành năm 2002. Đây là
cuốn sách đề cập chủ yếu về đo lường rủi ro danh mục, một nội dung nằm
trong quản trị danh mục tài sản của ngân hàng thương mại. Đặc biệt cuốn
sách này tập trung vào phương pháp đo lường rủi ro thông qua các mô hình
xvi
sử dụng thống kê toán. Hạn chế của cuốn sách là không bàn luận đến toàn bộ
các nội dung thuộc quản trị danh mục/ quản trị danh mục cho vay, mà chỉ
tập trung cho rủi ro và đo lường rủi ro, một nội dung trong toàn bộ các vấn
đề về quản trị danh mục.
Bài báo khoa học “Do banks diversify loan portfolios? A tentative answer
based on individual bank loan portfolios” do nhóm Andreas Kamp
(University of Munster), Andreas Pfingsten (Unversity of Munster), Danek
Prath (Deutsche Bundesbank) thực hiện năm 2005. Bài báo tập trung nghiên
cứu về mức độ đa dạng hóa danh mục các khoản vay tại các ngân hàng của
Đức và ảnh hưởng của nó đến danh mục cho vay của ngân hàng.
Bài báo khoa học “How loan portfolio diversification affects risk, efficiency
and capitalization: A managerial behavior model for Austrian banks” của
Stefania P.S. Rossi, Markus S. Schwaiger và Gerhard Winkler thực hiện
năm 2009. Bài báo nghiên cứu về mức độ ảnh hưởng của việc đa dạng hóa
danh mục cho vay đến rủi ro, tính hiệu quả và khả năng vốn hóa của các
ngân hàng Úc.
Nội dung hai bài nghiên cứu trên đề cập đến đa dạng hóa danh mục cho vay,
xem xét nó dưới góc độ là một cách thức/ phương tiện để giảm thiểu rủi ro trên
danh mục cho vay của ngân hàng thương mại. Mặc dù nội dung gần với quản trị
danh mục cho vay hơn là hai cuốn sách đã đề cập trên đây, tuy nhiên trong khuôn
khổ một bài báo nên cả hai ấn phẩm này không nghiên cứu toàn diện về quản trị
danh mục cho vay, mà chỉ là một nội dung trong đó.
Một điểm nổi bật dễ nhận thấy trong các tài liệu nói trên là các nghiên cứu
đó đều xuất phát từ các nước phát triển (Mỹ, Anh, Úc và Đức) nên không gắn với
thực tiễn Việt Nam. Từ trước đến nay, tại Việt Nam có một số công trình nghiên
cứu như:
xvii
Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Lê Thị Huyền Diệu “Luận cứ khoa học về
xác định mô hình quản lý rủi ro tín dụng tại hệ thống ngân hàng thương mại
Việt Nam” bảo vệ tại Học viện Ngân hàng, tháng 9 năm 2010; Nội dung đề
tài này chủ yếu xem xét rủi ro và quản trị rủi ro tín dụng dưới góc độ rủi ro
giao dịch, chưa đề cập đến rủi ro danh mục.
Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Đào Thị Chinh “Quản trị tài sản có tại
ngân hàng Công thương VN” bảo vệ tại Học Viện Ngân hàng năm 2009.
Nội dung của đề tài đề cập đến quản trị trong hoạt động ngân hàng nhưng là
quản trị chung về tài sản có. Tín dụng với góc độ là một trong các loại tài
sản có được luận án đề cập ở mức độ nhất định, hầu như không liên quan
đến danh mục cho vay của ngân hàng.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành do tiến sĩ Phạm Huy Hùng chủ nhiệm
“Phương pháp quản trị rủi ro thị trường tại các NHTM Việt Nam”, bảo vệ
ngày 10/11/2009 tại Hội đồng khoa học và công nghệ ngân hàng. Nội dung
đề tài có đề cập rủi ro trong hoạt động của ngân hàng thương mại, nhưng
không luận bàn đến danh mục và rủi ro danh mục.
Tất cả các đề tài nghiên cứu mà tác giả tìm hiểu trong điều kiện Việt Nam,
đều chưa thấy đề cập tới danh mục cho vay của ngân hàng thương mại. Theo đánh
giá của tác giả, bản thân khái niệm danh mục cho vay trong hoạt động tín dụng
của ngân hàng thương mại cũng là một thuật ngữ khá mới mẻ tại Việt Nam tính
đến thời điểm năm 2005 (là thời điểm đề tài được chọn) kể cả trong thực tiễn và
trong lý thuyết nghiên cứu, giảng dạy. Vì vậy, có thể khẳng định rằng đề tài của
luận án nghiên cứu về danh mục cho vay không có sự trùng lắp với bất kỳ công
trình nghiên cứu khoa học nào đã xuất hiện tại Việt Nam trong khoảng thời gian từ
năm 2005 cho đến thời điểm này.
3. Mục đích, mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
xviii
Mục đích nghiên cứu của luận án là đưa ra các giải pháp hoàn thiện hoạt động
quản trị danh mục cho vay tại các ngân hàng TMCP Việt Nam. Căn cứ vào mục
đích đã xác định, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án bao gồm những nội dung chính
sau đây:
Thứ nhất: Tập hợp những lý luận căn bản nhất về quản trị danh mục cho vay theo
xu hướng hiện đại đang áp dụng tại ngân hàng thương mại các nước trên thế giới.
Thứ hai: Phân tích thực trạng danh mục cho vay của các ngân hàng TMCP Việt
Nam trong khoảng thời gian từ 2006 - 2010, từ đó chỉ ra những ưu điểm cũng như
những hạn chế trong hoạt động quản trị danh mục cho vay của các ngân hàng
TMCP Việt Nam
Thứ ba: Đề xuất các nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động quản trị danh
mục cho vay theo xu hướng hiện đại trong điều kiện của các ngân hàng TMCP Việt
Nam.
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu tổng quát trên đây, mục tiêu
của luận án được thể hiện thông qua việc giải quyết các câu hỏi sau đây:
Thứ nhất: Về mặt lý luận làm rõ các khái niệm danh mục cho vay, quản trị danh
mục cho vay, các phương pháp quản trị danh mục cho vay. Nội dung của phương
pháp quản trị danh mục cho vay chủ động gồm những vấn đề gì? Những nhân tố
nào ảnh hưởng đến hoạt động quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng thương
mại?
Thứ hai: Về mặt thực tiễn danh mục cho vay của các ngân hàng TMCP Việt Nam
trong giai đoạn 2006 - 2010 có những biểu hiện như thế nào? Ưu điểm cũng như
nhược điểm? Những biểu hiện đó có phải xuất phát từ hạn chế của công tác quản trị
danh mục cho vay hay không? Những nguyên nhân chủ quan/ khách quan nào gây
xix
ra những hạn chế trong hoạt động quản trị danh mục cho vay tại các ngân hàng
TMCP Việt Nam?
Thứ ba: Về mặt giải pháp hoàn thiện hoạt động quản trị danh mục cho vay theo xu
hướng hiện đại. Khi xây dựng lộ trình cho việc thực thi giải pháp, cần phải làm rõ
định hướng hoàn thiện bao gồm mục tiêu, nội dung các giải pháp là gì? Bên cạnh
các giải pháp đề xuất đối với ngân hàng TMCP, có các kiến nghị nhằm tạo hành
lang pháp lý cho việc hoàn thiện hoạt động quản trị danh mục cho vay của các
ngân hàng TMCP, nội dung, cơ sở của các kiến nghị?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu:
Thứ nhất: Luận án tập trung vào danh mục cho vay, một bộ phận chiếm tỷ trọng
lớn trong danh mục tài sản của ngân hàng. Trên bảng cân đối kế toán của các ngân
hàng thương mại hiện nay, khoản mục Lending – Cho vay bao gồm tất cả các loại
hình cấp tín dụng như cho vay ứng trước, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh
toán. Luận án giới hạn đối tượng nghiên cứu trong danh mục các loại hình cấp tín
dụng nêu trên, không đề cập đến danh mục đầu tư chứng khoán hoặc là danh mục
các loại tài sản khác của ngân hàng.
Thứ hai: Luận án đặt chú trọng vào hoạt động quản trị danh mục cho vay. Đây là
một trong các phương thức quản trị hoạt động cho vay của ngân hàng. Vì là một
phương thức quản trị hoạt động, nên quản trị danh mục cho vay có các bước thực
hiện về cơ bản giống như quản trị kinh doanh ngân hàng, không tránh khỏi những
trùng lắp, tương tự như trong hoạt động quản trị kinh doanh ngân hàng. Tuy nhiên
luận án tập trung, nhấn mạnh vào những nội dung mang tính đặc thù của hoạt động
quản trị danh mục cho vay.
Về phạm vi nghiên cứu
xx
Thứ nhất: Luận án chỉ tập trung vào loại hình ngân hàng TMCP thuộc sở hữu
ngoài Nhà nước, không đề cập đến loại hình ngân hàng thương mại SHNN (dưới
hình thức công ty TNHH một thành viên sở hữu Nhà nước); các ngân hàng liên
doanh/ nước ngoài cũng như không đề cập đến hai ngân hàng thương mại SHNN
đã được cổ phần hóa là ngân hàng Ngoại thương và ngân hàng Công thương. Mặc
dù không có những khác biệt lớn trong quản trị danh mục cho vay của ngân hàng
TMCP với các loại hình ngân hàng thương mại khác. Nhưng do những hạn chế
trong việc thu thập, khảo sát số liệu nên đối tượng khảo sát chính của luận án là các
ngân hàng TMCP sở hữu ngoài nhà nước (gồm 37 ngân hàng tính đến cuối năm
2010). Sở dĩ hai ngân hàng TMCP thuộc SHNN là ngân hàng Ngoại thương và
ngân hàng Công thương không thuộc đối tượng khảo sát là vì thực chất cả hai ngân
hàng này vẫn do nhà nước nắm quyền chi phối điều hành, nên về tính chất sở hữu
khác với 37 ngân hàng TMCP còn lại. Mặt khác trong tất cả các văn bản, số liệu
báo cáo của ngân hàng Nhà nước trên phương tiện thông tin đại chúng tính đến nay
(cụ thể trên trang Web http://www.sbv.gov.vn, giới thiệu hệ thống các tổ chức tín
dụng, công bố danh sách các ngân hàng thương mại Nhà nước vào ngày
15/06/2012) vẫn xếp hai ngân hàng này vào nhóm các ngân hàng thương mại Nhà
nước.
Do đó để thuận tiện cho việc phân tích và đánh giá từ các số liệu thu thập
(nhất là trong so sánh giữa các nhóm ngân hàng) luận án tách hai ngân hàng Công
thương và Ngoại thương ra khỏi nhóm các ngân hàng TMCP nghiên cứu trong luận
án, đưa vào trong nhóm ngân hàng TMNN khi khảo sát chung.
Thứ hai: Để phục vụ cho nội dung nghiên cứu, số liệu khảo sát trong luận án được
thu thập trong khoảng thời gian từ 2006 – 2010, định hướng nghiên cứu đến năm
2020 (phù hợp với mốc thời gian quy định trong “Đề án phát triển ngành ngân
hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”, do Ngân hàng Nhà
nước công bố năm 2006). Giai đoạn 2006 - 2010 là khoảng thời gian không dài,
xxi
nhưng bao gồm cả thời kỳ phát triển mạnh mẽ (trong các năm 2006-2007) và thời
kỳ giảm sút (từ năm 2008 cho đến 2010) của nền kinh tế Việt Nam. Đây cũng là
khoảng thời gian hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung, ngân hàng
TMCP nói riêng có những bước thăng trầm trong hoạt động. Vì vậy, tác giả cho
rằng nhìn nhận hoạt động quản trị danh mục cho vay của ngân hàng trong bối cảnh
như vậy sẽ có những đánh giá khách quan và đầy đủ hơn.
5. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các mục tiêu và nội dung nghiên cứu đặt ra, luận án sử dụng
các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
Phương pháp tổng hợp sử dụng nhằm kế thừa lý luận về quản trị danh mục cho
vay đang được áp dụng tại các nước phát triển, từ đó hình thành cơ sở lý thuyết cho
đề tài luận án.
Phương pháp thống kê sử dụng để thu thập số liệu về (i) tổng quan tình hình hoạt
động của hệ thống ngân hàng TMCP (ii) thực trạng danh mục cho vay tại các ngân
hàng thương mại cổ phần Việt Nam.
Trong phần tổng quan, luận án chia 37 ngân hàng TMCP thành 4 nhóm theo
quy mô vốn chủ sở hữu (tính đến cuối năm 2010) để thuận lợi cho việc đánh giá.
Cụ thể như sau:
Nhóm ngân hàng quy mô lớn: gồm 7 ngân hàng TMCP đứng đầu về quy
mô vốn điều lệ (tối thiểu trên 5,000 tỷ đồng).
Nhóm ngân hàng có quy mô trung bình: gồm 5 ngân hàng có mức vốn
dao động từ 4,000 tỷ đến dưới 5,000 tỷ đồng. Sở dĩ các ngân hàng này
tác giả không ghép chung nhóm với các ngân hàng quy mô lớn, vì về tài
sản, kết quả kinh doanh và các yếu tố nội lực … thấp hơn so với các ngân
hàng lớn;
Nhóm ngân hàng quy mô nhỏ gồm 15 ngân hàng TMCP có mức vốn điều
lệ tối thiểu đạt mức quy định là 3,000 tỷ đồng đến dưới 4,000 tỷ đồng.
xxii
Nhóm ngân hàng có quy mô cực nhỏ gồm 10 ngân hàng TMCP có mức
vốn thấp hơn quy định (< 3000 tỷ đồng).
Trong phần đánh giá tổng quan, luận án thu thập số liệu của 25/37 ngân hàng
TMCP (chiếm tỷ lệ 68% tổng số ngân hàng TMCP).
Riêng đối với phần thực trạng danh mục cho vay, luận án sử dụng phương
pháp thống kê chọn mẫu. Do số liệu công bố chính thức trên Website của các ngân
hàng không đầy đủ, không liên tục, nhất là các ngân hàng TMCP quy mô nhỏ và
cực nhỏ (có khoảng trên 50% các ngân hàng trong nhóm này mới chuyển lên từ
ngân hàng cổ phần nông thôn), không công bố công khai số liệu về danh mục, vì
vậy luận án chỉ chọn khoảng 10 ngân hàng TMCP để tìm hiểu về danh mục cho
vay. Trong đó chủ yếu tập trung thu thập và phân tích số liệu của 5 ngân hàng
TMCP lớn. Năm ngân hàng này có thể xem như đại diện tiêu biểu cho các ngân
hàng TMCP với tài sản, vốn điều lệ và dư nợ chiếm tỷ trọng lần lượt là 81.4%,
81.3% và 86.2% trong tổng tài sản, vốn điều lệ và dư nợ của nhóm 7 ngân hàng
TMCP quy mô lớn, tính đến cuối năm 2010. Hai ngân hàng TMCP quy mô lớn còn
lại là TMCP Đông Nam Á và TMCP Hàng hải số liệu về danh mục không được
công bố đầy đủ và liên tục trong thời gian 2006 - 2010, vì vậy luận án không thu
thập được số liệu của hai ngân hàng này. Ngoài ra số liệu về danh mục của 5 ngân
hàng khác trong nhóm quy mô trung bình, nhỏ và cực nhỏ cũng bổ sung cho phần
phân tích đánh giá thực trạng trong luận án.
Phương pháp diễn dịch và quy nạp: được sử dụng chủ yếu trong chương 2 của
luận án. Cụ thể, luận án sử dụng phương pháp diễn dịch để đặt ra giả thuyết nghiên
cứu về thực trạng hoạt động quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng TMCP, sau
đó thu thập và phân tích các số liệu liên quan để kiểm định lại giả thuyết đã nêu,
đưa ra những kết luận về hoạt động quản trị danh mục cho vay của ngân hàng
TMCP Việt Nam.
Bên cạnh phương pháp diễn dịch, từ quan sát thực trạng danh mục cho vay
của các ngân hàng TMCP (dựa trên số liệu của các ngân hàng được chọn làm mẫu
xxiii
quan sát), luận án đã sử dụng phương pháp quy nạp để tổng quát hóa thành những
điểm chung nhất, đặc trưng nhất trong hoạt động quản trị danh mục cho vay của
các ngân hàng TMCP Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010.
Các phương pháp toán học được sử dụng trong đề xuất ở chương 3. Trong
chương này, tác giả đề xuất áp dụng 2 mô hình phân phối tổn thất của danh mục
cho vay, cụ thể phân phối nhị thức (Binomial Distribution) và phân phối không
chuẩn (đối xứng lệch - Skewed Distribution)
Về nguồn thu thập số liệu trình bày trong luận án, tác giả thực hiện như sau:
Đối với các số liệu trình bày trong chương 1 cơ sở lý luận, tác giả sử dụng
nguồn số liệu thu thập được trong các sách, tài liệu của nước ngoài (đều
được liệt kê trong danh mục tài liệu tham khảo). Trong số này có các số liệu
sơ cấp, nhưng cũng có số liệu là thứ cấp. Điều này được tác giả chú thích cụ
thể khi trích dẫn.
Đối với các số liệu phản ánh tình hình chung của ngành ngân hàng và của hệ
thống ngân hàng TMCP trong chương 2, tác giả lấy trên báo cáo của ngân
hàng Nhà nước Việt Nam đăng trên trang Web http://www.sbv.gov.vn; số
liệu báo cáo hàng năm của Tổng cục thống kê trên trang Web
http://www.gso.gov.vn; báo cáo của ngân hàng Nhà nước chi nhánh thành
phố Hồ Chí Minh (từ tìm hiểu của cá nhân tác giả, thông qua phòng kế
hoạch tổng hợp của ngân hàng Nhà nước, chi nhánh thành phố HCM); Riêng
đối với các số liệu phân tích chi tiết về danh mục cho vay, tác giả tự tổng
hợp từ báo cáo thường niên của các ngân hàng TMCP công bố trên Website
của từng ngân hàng được chọn lấy số liệu. Ngoài ra cũng có một ít số liệu,
tác giả thu thập trong kế hoạch, báo cáo nội bộ của ngân hàng
Techcombank, ngân hàng SCB hoặc trong sổ tay tín dụng của ngân hàng
ACB. Tất cả các số liệu nói trên đều là nguồn số liệu sơ cấp.
Bên cạnh nguồn thông tin sơ cấp được thu thập trực tiếp, tác giả cũng sử
dụng thêm các số liệu từ nguồn thứ cấp như trong báo cáo của CIC, trong
xxiv
các bài phỏng vấn các quan chức cấp cao, nhà quản trị ngân hàng Việt Nam,
trong các bài viết của các nhà nghiên cứu đã được thông báo trên các
phương tiện thông tin đại chúng như trong tạp chí, kỷ yếu hội thảo, trên các
diễn đàn hội nghị … Tất cả các nguồn này đều được liệt kê trong danh mục
tài liệu tham khảo của luận án.
6. Cơ sở lý luận và giả thuyết nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận án dựa trên nền tảng lý thuyết về quản trị danh mục
và quản trị danh mục cho vay tại các nước phát triển là Mỹ và Anh quốc, ngoài ra
còn có Đức và Úc, trong giai đoạn từ những năm 90 của thế kỷ 20 cho đến nay.
Những lý thuyết này chủ yếu thể hiện trong hai cuốn sách Credit Portfolio
Management của tác giả Charles W. Smithson (2002) và cuốn Credit Risk
Measurement của tác giả Anthony Saunders & Linda Allen (2002), được phát triển,
mở rộng dựa trên Lý thuyết quản trị danh mục hiện đại của nhà kinh tế học Harry
Markowitz. Ngoài ra, khi đề xuất các giải pháp, tác giả tuân thủ theo những quy
định trong Hiệp ước Basel 1 và 2 và Các nguyên tắc quản trị rủi ro tín dụng do Ủy
ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking Supervision) ban
hành vào tháng 9/2000, xem đó như là khung pháp lý cho các đề xuất của luận án.
Về giả thuyết nghiên cứu, để tìm hiểu thực trạng quản trị danh mục cho vay
của các ngân hàng TMCP Việt Nam, trên cơ sở đó có các giải pháp thích hợp, luận
án dựa trên giả thuyết tổng quát: hầu hết các ngân hàng TMCP Việt Nam hiện nay
chưa thực sự quan tâm đến quản trị danh mục cho vay, chưa áp dụng cách thức và
nội dung quản trị danh mục cho vay phù hợp với xu hướng của nền kinh tế hiện
đại. Các giả thuyết cụ thể :
Chưa chủ động xây dựng danh mục cho vay với cơ cấu các loại vay dự kiến
hàng năm. Tại một số ít các ngân hàng TMCP lớn mới chỉ đưa ra định
hướng cho hoạt động cho vay, vì vậy trong quá trình cho vay, cơ cấu danh
mục thường bị thả nổi, có xu hướng chạy theo thị trường, bị dẫn dắt bởi thị
xxv
trường. Tình trạng này đã dẫn đến những hậu quả xấu, ảnh hưởng đến kết
quả kinh doanh của ngân hàng trong dài hạn.
Trong tổ chức thực hiện danh mục các ngân hàng chưa xây dựng được bộ
máy cũng như quy trình thích hợp, hiệu quả.
Chưa có một cách tính đúng/chính xác tổn thất danh mục cho vay phù hợp
thông lệ quốc tế và gắn với thực tế rủi ro thực tế tại mỗi ngân hàng.
Chưa có những biện pháp/ cách thức điều chỉnh danh mục cho vay mang
tính linh hoạt, phù hợp với điều kiện thay đổi của thị trường, tuân thủ quy
định của luật pháp và đảm bảo đạt mục tiêu kinh doanh của ngân hàng.
Xuất phát từ các giả thuyết nghiên cứu như trên, luận án sử dụng các phương
pháp nghiên cứu thích hợp để kiểm chứng giả thuyết đã nêu ra, trên cơ sở đó đề
xuất các nhóm giải pháp phù hợp, đảm bảo các mục tiêu nghiên cứu.
7. Những đóng góp mới của luận án
Nội dung của luận án có một số điểm mới như sau:
Thứ nhất: Trên cơ sở tập hợp lý luận nền tảng về phương pháp quản trị danh mục
chủ động trong nền kinh tế hiện đại, sau khi so sánh với thực trạng quản trị danh
mục cho vay tại Việt Nam, luận án đề xuất áp dụng phương pháp quản trị danh
mục chủ động tại các ngân hàng TMCP Việt Nam nhằm hạn chế những tác động
xấu của phương pháp quản trị thụ động đang được áp dụng tại một số ngân hàng
TMCP Việt Nam hiện nay. Phương pháp quản trị chủ động không có nghĩa là quản
trị một cách chủ quan, duy ý chí, thoát ly khỏi thị trường, mà đề cao tính chủ động
do kết hợp các yếu tố dự báo kinh tế, thị trường…bên ngoài với nội lực của ngân
hàng. Tính chủ động thể hiện ngay từ khâu thiết lập danh mục, cho đến khi giám
sát và điều chỉnh danh mục nhằm đạt mục tiêu đã hoạch định. Phương pháp quản
trị danh mục cho vay chủ động có nhiều điểm khác biệt với phương pháp hiện tại
xxvi
của các ngân hàng Việt Nam: nặng về thụ động và chủ yếu xem xét trên khía cạnh
định tính. Có thể nói quản trị chủ động là xu thế khách quan trong hoạt động ngân
hàng, xuất phát từ yêu cầu hội nhập quốc tế mạnh mẽ và môi trường cạnh tranh
ngày càng khốc liệt. Chính vì vậy, cần một sự thay đổi căn bản từ phía các ngân
hàng TMCP, không thể duy trì mãi phương pháp quản trị thụ động như hiện tại
được.
Thứ hai: Luận án đề xuất xây dựng mô hình đo lường rủi ro danh mục cho vay tại
các ngân hàng TMCP. Hiện tại chưa có bất kỳ một ngân hàng TMCP nào tại Việt
Nam xây dựng hoàn chỉnh mô hình này (được biết vào thời điểm cuối năm 2010,
ngân hàng Công thương Việt Nam/Vietinbank đang xúc tiến xây dựng mô hình đo
lường /quản trị rủi ro mà các nước đang áp dụng). Mô hình đo lường rủi ro mà luận
án đề xuất sẽ giúp các ngân hàng TMCP định lượng chính xác mức độ rủi ro trên
danh mục cho vay của ngân hàng mình, trên cơ sở đó tính toán tổn thất để trích lập
dự phòng rủi ro, cũng như duy trì vốn tự có sát đúng với mức độ rủi ro riêng biệt
của từng ngân hàng. Cách tính toán của các mô hình đề xuất khác biệt với cách tính
theo quy định hiện tại của ngân hàng Nhà nước (chỉ là phương pháp tính áp dụng
chung cho tất cả các ngân hàng thương mại và chưa đề cập đến rủi ro của toàn danh
mục). Cho đến nay kiến thức lý luận về xây dựng mô hình đo lường rủi ro danh
mục chưa được đề cập trong các tài liệu giảng dạy chính thống tại các trường đại
học về tài chính ngân hàng ở Việt Nam. Vì vậy đề xuất này của luận án trước hết
nhằm hệ thống hóa về mặt lý luận, sau đó từng bước đưa vào vận dụng phù hợp
điều kiện thực tế của Việt Nam trong giai đoạn tới. Mô hình đo lường rủi ro danh
mục mà luận án đề xuất gồm có hai dạng, có thể áp dụng cho các ngân hàng khác
nhau tùy thuộc vào điều kiện và năng lực quản trị của mỗi ngân hàng. Đây là 2
trong số nhiều mô hình đã từng áp dụng tại ngân hàng các nước phát triển. Sở dĩ
luận án lựa chọn và đề xuất các mô hình này là vì chúng có những điểm tương
thích với điều kiện hoạt động của các ngân hàng TMCP Việt Nam.
xxvii
Thứ ba: Luận án đề xuất áp dụng chứng khoán hóa và công cụ phái sinh tín dụng
với ý nghĩa hai công cụ này được sử dụng để điều chỉnh ngoại bảng đối với danh
mục cho vay của ngân hàng. Thông qua việc sử dụng các công cụ này, rủi ro danh
mục cho vay của ngân hàng sẽ được giảm thiểu. Hiện nay khi cần điều chỉnh danh
mục cho vay, chủ yếu các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và ngân
hàng TMCP nói riêng sử dụng phương pháp điều chỉnh nội bảng (còn gọi là
phương pháp truyền thống). Đặc điểm của phương pháp này là có độ trễ về thời
gian phát huy hiệu quả, mặt khác nó làm thay đổi cấu trúc danh mục, ảnh hưởng
đến mối quan hệ khách hàng, nhiều khi ngoài mong muốn của ngân hàng. Vì vậy,
đề xuất áp dụng phương pháp ngoại bảng nhằm làm đa dạng hoá các biện pháp
điều chỉnh danh mục cho vay của các ngân hàng TMCP Việt Nam, phù hợp với các
tình huống diễn biến khác nhau trong quản trị. Tính đến thời điểm năm 2010, đây
là đề xuất mới, vì chứng khoán hoá và công cụ phái sinh tín dụng chưa được áp
dụng trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam (các ngân hàng mới chỉ áp dụng phái
sinh vàng và phái sinh tiền tệ trong kinh doanh ngoại hối). Mặc dù lý luận về
chứng khoán hoá và phái sinh tín dụng có được nhắc đến trong tài liệu giảng dạy
hoặc trong các bài báo, công trình nghiên cứu tại Việt Nam, nhưng vận dụng chúng
dưới góc độ là công cụ quản trị danh mục cho vay thì chưa được chú trọng đến. Do
đó, đề xuất này nhằm làm sáng tỏ về lý luận, sau đó từng bước ứng dụng vào thực
tiễn tại Việt Nam trong thời gian tới.
8. Nội dung của luận án được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng
thương mại.
Chương 2: Thực trạng quản trị danh mục cho vay tại các ngân hàng
thương mại cổ phần Việt Nam
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động quản trị danh mục cho vay tại
các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
1
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ DANH MỤC CHO VAY TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. DANH MỤC CHO VAY TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Hoạt động cho vay và danh mục cho vay của Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Theo cách hiểu chung nhất thì cho vay là hành vi cho người khác sử dụng
một khoản tiền nhất định, trong một thời hạn xác định với nguyên tắc hoàn trả cả
gốc và lãi khi đáo hạn. Hoạt động cho vay được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác
nhau trong nền kinh tế, trong xã hội, như Chính phủ, doanh nghiệp, các tổ chức tài
chính, cá nhân … Trong đó ngân hàng thương mại được biết như là một tổ chức
chuyên thực hiện cho vay với lực lượng khách hàng đông đảo nhất.
Hoạt động cho vay của ngân hàng được hình thành từ rất sớm. Chỉ một thời
gian ngắn sau khi các hoạt động thu nhận tiền gửi đầu tiên hình thành, các ngân
hàng sơ khai đã ý thức được việc sử dụng những khoản tiền gửi của khách hàng để
cho những người thiếu tiền mượn lại, từ đó mà hình thành nên hoạt động cho vay
của ngân hàng.
Trong giai đoạn từ thế kỷ thứ V cho đến thế kỷ XVII, giai đoạn phát triển và
hoàn thiện các nghiệp vụ của một ngân hàng thương mại, do nhu cầu vốn trong xã
hội đòi hỏi, hành vi cho vay của các ngân hàng càng ngày càng có điều kiện phát
triển và trở thành một hoạt động chủ yếu của hệ thống các ngân hàng trung gian
trong suốt hơn 4 thế kỷ qua (từ thế kỷ thứ 17 cho đến đầu thế kỷ 20). Ở đây cũng
cần lưu ý rằng theo thời gian và sự phát triển lớn mạnh của hệ thống ngân hàng,
bản thân hoạt động cho vay cũng trở nên hết sức đa dạng, thông qua nhiều hình
thức/ phương thức phong phú về hình thái giá trị, về thời hạn, về lãi suất, về cách
2
thức thực hiện. Từ hình thức cho vay truyền thống dưới hình thái tiền tệ với cách
thức chuyển giao trực tiếp cho khách hàng (loans), đã xuất hiện những hình thức
cho vay khác như cho vay gián tiếp (chiết khấu - Discount) cho vay dưới hình
thức cho thuê đặc biệt (thuê tài chính - Financial Lease) ...
Một cách khái quát, hoạt động cho vay của ngân hàng có thể hiểu là hoạt
động kinh doanh thông qua sự chuyển giao có thời hạn một lượng giá trị từ phía
ngân hàng cho người đi vay, với sự cam kết hoàn trả cả gốc và lãi từ phía người đi
vay khi đáo hạn.
Trên bảng cân đối tài chính của ngân hàng thương mại, khoản mục cho vay
(lending) được tồn tại song song cùng với các khoản mục sử dụng vốn khác của
ngân hàng như: khoản mục tiền/ ngân quỹ; khoản mục đầu tư chứng khoán; khoản
mục bất động sản ...Trong đó, toàn bộ các khoản tiền ngân hàng cung ứng cho các
chủ thể trong nền kinh tế, trong xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau đều bao
hàm trong khoản mục cho vay. Đối với nhiều ngân hàng thương mại, khoản mục
cho vay có thể chiếm trên 1/2 giá trị tài sản và tạo ra trên 2/3 tổng số thu nhập của
ngân hàng [6].
Theo thời gian, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, xu hướng hoạt động
của các ngân hàng có những thay đổi rất đáng kể: từ những ngân hàng với chức
năng đơn giản “đi vay để cho vay lại”, vào cuối thập niên 90 của thế kỷ 20, các
ngân hàng từng bước chuyển sang mô hình hoạt động kinh doanh tổng hợp, hình
thành các tập đoàn tài chính đa năng thay thế cho mô hình ngân hàng truyền
thống. Ngân hàng thương mại hiện đại được xem như một siêu thị /tập đoàn tài
chính, với sản phẩm là các dịch vụ đa dạng liên quan đến tiền tệ. Ngoài việc thu
nhận tiền gửi và cho vay, các ngân hàng còn thực hiện kinh doanh ngoại hối, tư
vấn tài chính, đầu tư chứng khoán, cho thuê két sắt, bảo quản vật có giá, kinh
doanh vàng, thanh toán trong nước và quốc tế, mua bán nợ, cung ứng các dịch vụ
phái sinh …Lợi nhuận của ngân hàng vì thế gia tăng nhanh chóng, vị trí của các
3
ngân hàng trở nên quan trọng thiết yếu trong nền kinh tế và trong xã hội. Hoạt
động cho vay của các ngân hàng cũng ngày càng mở rộng và phong phú hơn.
1.1.1.2. Danh mục cho vay của Ngân hàng thương mại
Theo từ điển kinh tế Anh Việt thì danh mục - portfolio là tập hợp các loại
chứng khoán, tài sản do một cá nhân hoặc một tổ chức tài chính sở hữu bao gồm
các loại cổ phiếu, chứng khoán, chứng chỉ ký thác, hàng hóa, tiền mặt và bất động
sản để hạn chế rủi ro trong đầu tư [5]. Như vậy, trong lĩnh vực tài chính, bản thân
thuật ngữ danh mục đã thể hiện trong đó sự đa dạng các loại tài sản dưới nhiều
hình thức khác nhau nhằm giảm thiểu rủi ro của sự tập trung. Ngân hàng thương
mại là một tổ chức kinh doanh, cung ứng nhiều dạng sản phẩm tài chính tiền tệ, vì
vậy danh mục tài sản của các ngân hàng rất phong phú, nhưng với đặc thù trung
gian tín dụng, các khoản cho vay của ngân hàng vẫn luôn chiếm một tỷ trọng lớn
trên danh mục tài sản của họ. So với lợi nhuận thu được từ những hoạt động dịch
vụ, hoạt động đầu tư, thì lợi nhuận do khoản mục cho vay mang lại vẫn đang
chiếm một tỷ lệ rất đáng kể. Chính vì lẽ đó, danh mục cho vay có một vị trí cực kỳ
quan trọng trong danh mục tài sản của bất kỳ một ngân hàng thương mại nào. Có
thể hiểu về danh mục cho vay của ngân hàng thương mại thông qua khái niệm sau:
Danh mục cho vay của ngân hàng là một tập hợp các loại cho vay thuộc sở
hữu của ngân hàng, được sắp xếp theo các tiêu thức khác nhau, được cơ cấu theo
một tỷ lệ nhất định, phục vụ cho các mục đích quản trị của ngân hàng.
Danh mục cho vay là công cụ để nhà quản trị định hướng cho hoạt động cấp
tín dụng, nhằm đảm bảo tính lành mạnh, mức độ chuyên môn hóa, tính đa dạng
của tài sản cho vay, giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro ở mức độ tối đa và đạt được
lợi nhuận như mong muốn. Với ý nghĩa đó, danh mục cho vay tồn tại dưới dạng
kế hoạch (định hướng thực hiện) và được quản lý thực hiện trong suốt quá trình
hoạt động của ngân hàng. Thông qua thiết kế danh mục cho vay kế hoạch, các nhà
4
quản trị đưa ra con số dự kiến tỷ trọng dư nợ của từng ngành kinh tế/ khu vực địa
lý ... chiếm trong tổng thể danh mục. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc
định hướng cho vay của ngân hàng. Một danh mục cho vay kế hoạch thể hiện sự
đa dạng phù hợp với thực lực, tiềm năng, tuân thủ quy định của luật pháp và định
hướng phát triển của ngân hàng là tiền đề quan trọng để ngân hàng có thể đạt mục
tiêu, khẳng định vị thế của mình trên thị trường kinh doanh tiền tệ. Báo cáo thực
hiện danh mục cho vay là công cụ để nhà quản trị nhìn nhận, phân tích các khoản
cho vay đã thực hiện dưới các góc nhìn khác nhau, tạo điều kiện để đánh giá tổng
thể chất lượng của toàn danh mục, từ đó mà có các biện pháp điều chỉnh hợp lý
theo diễn biến thị trường nhằm đạt mục tiêu đã hoạch định của ngân hàng.
Dưới đây là một số tiêu thức các ngân hàng có thể sử dụng khi xây dựng/
thiết kế danh mục cho vay phục vụ cho công tác quản trị nội bộ.
BẢNG 1.1
CƠ CẤU DANH MỤC CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Khoản mục
1. DANH MỤC CHO VAY THEO THỜI HẠN
1.1 Cho vay ngắn hạn
1.2 Cho vay trung hạn
1.3 Cho vay dài hạn
Tổng cộng
2. DANH MỤC CHO VAY THEO NGÀNH KINH TẾ
2.1 Cho vay ngành công nghiệp
2.2 Cho vay ngành nông nghiệp
2.3 Cho vay ngành xây dựng
2.4 Cho vay ngành giao thông vận tải
2.5 Cho vay tiêu dùng
…
Tổng cộng
3. DANH MỤC CHO VAY THEO KHU VỰC ĐỊA LÝ
Số tiền
Tỷ
trọng
100%
100%
5
3.1 Khu vực miền Bắc
3.2 Khu vực miền Trung
3.3 Khu vực miền Nam
Tổng cộng
4. DANH MỤC CHO VAY THEO ĐỐI TƯỢNG KHÁCH
HÀNG
4.1 Doanh nghiệp sở hữu Nhà nước
4.2 Công ty TNHH & cổ phần
4.3 Công ty 100% vốn nước ngoài
4.4 Công ty liên doanh
4.5 Hợp tác xã
4.6 Cá nhân
Tổng cộng
5. DANH MỤC CHO VAY THEO LOẠI TIỀN TỆ
5.1 Cho vay nội tệ
5.2 Cho vay ngoại tệ
Tổng cộng
6. DANH MỤC CHO VAY LĨNH VỰC ĐẦU TƯ
6.1 Cho vay sản xuất
Trong đó - Cho vay nông nghiệp
- Cho vay công nghiệp
- Cho vay thương mại
- Cho vay giao thông vận tải
- …
6.2 Cho vay phi sản xuất
Trong đó - Cho vay kinh doanh chứng khoán
- Cho vay kinh doanh địa ốc
- Cho vay tiêu dùng
- ….
Tổng cộng
7. DANH MỤC CHO VAY THEO TÍNH CHẤT ĐẢM
BẢO
7.1 Cho vay có đảm bảo
Trong đó - Cho vay có thế chấp tài sản
- Cho vay có cầm cố tài sản
- Cho vay có bảo lãnh
- …
100%
100%
100%
100%
6
7.2 Cho vay không có đảm bảo
Tổng cộng
8. DANH MỤC CHO VAY THEO HÌNH THỨC/
PHƯƠNG THỨC THỰC HIỆN
8.1 Cho vay ứng trước
8.2 Chiết khấu giấy tờ có giá
8.3 Cho thuê tài chính
8.4 ….
Tổng cộng
100%
100%
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
Danh mục cho vay theo thời hạn:
Danh mục cho vay của ngân hàng có thể được xây dựng theo tiêu chí thời
hạn, trong đó tỷ trọng các loại cho vay ngắn hạn; trung hạn và dài hạn được thiết
kế hợp lý, thể hiện mối quan hệ giữa cơ cấu thời hạn của sử dụng vốn và cơ cấu
thời hạn của nguồn vốn, nhằm hạn chế các loại rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất,
đảm bảo tuân thủ quy định của luật pháp.
Danh mục cho vay theo ngành kinh tế:
Danh mục cho vay theo tiêu thức này có ý nghĩa rất lớn đối với các ngân
hàng thương mại, kể cả trong khâu hoạch định kế hoạch cũng như trong tổ chức
thực hiện. Danh mục cho vay theo ngành kinh tế hình thành một định hướng cần
thiết cho quá trình đầu tư tín dụng của ngân hàng. Những ngành nào cần tập trung,
mở rộng, những ngành nào cần tiết giảm ... sẽ được thể hiện thông qua tỷ trọng
xác định của từng ngành trong tổng thể dư nợ của danh mục. Danh mục cho vay
theo ngành kinh tế bộc lộ rõ quan điểm của ngân hàng: tập trung vào các lĩnh vực
ưu tiên chuyên môn hóa hay là đa dạng hóa cho vay. Đứng trên quan điểm hạn
chế rủi ro thì danh mục cho vay theo ngành càng đa dạng càng tốt. Tuy nhiên điều
này đôi khi đi ngược lại chủ trương chuyên môn hóa để chiếm lĩnh thị trường của
một số ngân hàng.
7
Danh mục cho vay theo khu vực địa lý
Việc xây dựng tỷ trọng khoản mục cho vay theo khu vực địa lý thể hiện quan
điểm của ngân hàng trong việc hình thành thị trường mục tiêu, phù hợp với điều
kiện về cơ sở vật chất, mạng lưới hoạt động cũng như năng lực kiểm soát của đội
ngũ nhân viên cho vay. Trong quá trình giám sát danh mục cho vay theo khu vực
địa lý, ngân hàng sẽ đánh giá hiệu quả đầu tư của từng khu vực trong tương quan
so sánh với các khu vực khác, từ đó sẽ đưa ra những điều chỉnh thích hợp, đảm
bảo mục tiêu đã hoạch định.
Danh mục cho vay theo đối tượng khách hàng:
Mỗi một đối tượng khách hàng sẽ có những đặc điểm khác nhau (về cơ cấu
tổ chức, về năng lực chịu trách nhiệm trước pháp luật ...) vì vậy để định hướng
cho việc đầu tư an toàn và hiệu quả, các ngân hàng luôn có sự phân chia hợp lý tỷ
trọng các khoản mục cho vay theo đối tượng khách hàng, đảm bảo sự an toàn cần
thiết ở góc độ toàn danh mục.
Danh mục cho vay theo loại tiền tệ:
Cũng giống như danh mục cho vay theo ngành kinh tế, danh mục cho vay
theo loại tiền tệ không những thể hiện quan điểm, định hướng của ngân hàng trong
việc tìm kiếm thị trường mục tiêu trong / ngoài nước, mà còn giúp ngân hàng đánh
giá mức độ rủi ro tiềm ẩn khi có sự biến động của đồng ngoại tệ so với nội tệ.
Danh mục cho vay theo lĩnh vực đầu tư:
Danh mục cho vay theo lĩnh vực đầu tư thường được phân chia thành hai lĩnh
vực lớn là lĩnh vực sản xuất và phi sản xuất. Trong đó mỗi lĩnh vực lại chia nhỏ
thành nhiều loại. Chẳng hạn như trong sản xuất thì có ngành nông nghiệp, công
nghiệp, thương mại ... trong phi sản xuất thì có cho vay kinh doanh chứng khoán,
8
kinh doanh địa ốc, cho vay tiêu dùng ... Đây là cách thiết kế danh mục nhằm định
hướng đầu tư cho vay theo những lĩnh vực lớn, phù hợp sự phát triển trong các
giai đoạn khác nhau của nền kinh tế, đảm bảo tuân thủ quy định của luật pháp.
Ngoài các tiêu chí nêu trên, ngân hàng còn sử dụng một số tiêu chí khác
trong xây dựng / thiết kế danh mục cho vay, chẳng hạn như: danh mục cho vay
xây dựng theo tính chất đảm bảo của khoản nợ (bao gồm cho vay có bảo đảm
bằng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh ... ; cho vay không có bảo đảm), danh mục cho
vay xây dựng theo tính chất sở hữu (chẳng hạn cho vay doanh nghiệp SHNN;
công ty cổ phần; doanh nghiệp liên doanh; tư nhân cá thể ...) ...
1.1.2. Rủi ro danh mục cho vay của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Cơ cấu rủi ro danh mục cho vay của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tài chính,
tiền tệ - một lĩnh vực đa dạng và có độ nhạy cảm cao, nên rủi ro trong kinh doanh
ngân hàng rất đa dạng. Rủi ro có thể phát sinh từ bất kỳ giao dịch hoặc hoạt động
kinh doanh nào có chứa đựng yếu tố không chắc chắn. Trong khi mọi giao dịch /
hoạt động của ngân hàng đều tiềm ẩn một mức độ nhất định của yếu tố không
chắc chắn. Do vậy, tất cả các giao dịch/ hoạt động mà ngân hàng thực hiện đều
góp phần hình thành nên rủi ro tổng thể của ngân hàng.
Trong các loại rủi ro của kinh doanh ngân hàng, rủi ro của hoạt động cho vay
được xem là loại rủi ro chính yếu, xuất phát từ vị trí quan trọng của cho vay trong
tổng tài sản cũng như trong nguồn lợi nhuận thu được của ngân hàng.
Về cấu trúc thành phần, rủi ro của hoạt động cho vay có thể được chia thành
hai loại căn bản: rủi ro giao dịch cho vay và rủi ro danh mục cho vay (hình 1.1,
trang 9). Rủi ro giao dịch liên quan đến sự hoàn trả của từng giao dịch cho vay cá
biệt, còn rủi ro danh mục là rủi ro gắn liền với một danh mục cho vay đang hiện
hữu của ngân hàng thương mại. Rủi ro danh mục bao gồm hai thành phần là rủi ro
nội tại và rủi ro tập trung như phân tích dưới đây:
9
Rủi ro nội tại
Xuất phát từ những đặc điểm riêng biệt của mỗi chủ thể vay vốn, mỗi ngành
kinh tế, mỗi hình thức, phương thức cấp tín dụng. Chẳng hạn cho vay ngành nông
nghiệp có thể gặp phải rủi ro xuất phát từ thiên tai bất khả kháng, cho vay ngành
công nghiệp có thể gặp phải tình trạng sản xuất thừa, thị trường tiêu thụ bị thu
hẹp, hàng hóa bán không được ... Có thể nói rủi ro nội tại rất đa dạng phong phú
và có tính tất yếu, không thể triệt tiêu vì nó thuộc về bản tính vốn có của đối tượng
mà ngân hàng đầu tư. Các biện pháp của ngân hàng chỉ có thể giúp kiểm soát từ
đó hạn chế nó mà thôi. Việc thẩm định kỹ lưỡng, quyết định cho vay chính xác,
tránh cho vay đối với những chủ thể /ngành/ hình thức cho vay có độ rủi ro nội tại
cao, quan tâm cho vay nhiều hơn với những đối tượng có độ rủi ro nội tại thấp, có
thể giúp ngân hàng tăng mức độ an toàn cho danh mục cho vay của mình.
HÌNH 1.1
CƠ CẤU CÁC LOẠI RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA
NHTM
RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG
CHO VAY
RỦI RO GIAO DỊCH
RỦI RO
LỰA
CHỌN
RỦI RO
BẢO
ĐẢM
RỦI RO
NGHIỆP
VỤ
RỦI RO DANH MỤC
RỦI RO
NỘI TẠI
RỦI RO
TẬP
TRUNG
10
Nguồn: Tham khảo từ sách Quản trị ngân hàng [2]
Rủi ro tập trung
Đây là loại rủi ro xuất phát từ sự thiếu đa dạng trong danh mục cho vay của
ngân hàng, đi ngược lại nguyên tắc phân tán rủi ro trong kinh doanh tiền tệ. Đánh
giá về tầm quan trọng của rủi ro tập trung, ủy ban Basel về giám sát ngân hàng
(Basel Committee on Banking Supervision) nhận định “Hoạt động cho vay là hoạt
động cơ bản của hầu hết các ngân hàng nên rủi ro tập trung trên danh mục cho vay
cũng là loại rủi ro cơ bản nhất trong phạm vi một ngân hàng”
Theo định nghĩa của Ủy ban Basel “rủi ro tập trung là bất kỳ rủi ro đơn lẻ
hoặc nhóm rủi ro nào có khả năng tạo ra tổn thất đủ lớn liên quan đến mức vốn
của ngân hàng, tài sản có của ngân hàng hoặc tổng tổn thất của ngân hàng”[3].
Chính vì quan niệm này, nên khi định hướng xây dựng danh mục cho vay, ngoài
việc thiết kế tỷ trọng hợp lý của các khoản vay đảm bảo tính đa dạng, ngân hàng
còn đưa ra các giới hạn an toàn so với mức vốn tự có, so với tổng dư nợ hoặc so
với giá trị tổn thất của toàn danh mục, sao cho thiệt hại tài chính nếu xảy ra vẫn
nằm trong khả năng chịu đựng của từng ngân hàng.
Trong lý thuyết về danh mục hiện đại, sự đa dạng hóa được xem là chìa khóa
quan trọng để giảm thiểu rủi ro tập trung. Đa dạng hóa phải thỏa mãn hai điều
kiện cơ bản:
Thứ nhất danh mục bao gồm một số lượng lớn những khoản vay có giá trị tương
đối nhỏ, sao cho biến cố rủi ro nếu xảy ra thì tổn thất mà một khoản vay mang lại
không tác động quá lớn đến giá trị danh mục.
Thứ hai những khoản vay trên danh mục phải có tính độc lập, ít phụ thuộc với
nhau, tức là khả năng vỡ nợ của một khoản vay trên danh mục không ảnh hưởng
tới khả năng vỡ nợ của các khoản vay còn lại.
11
Có thể thấy rằng, hạn chế rủi ro giao dịch là công việc bắt buộc của tất cả các
ngân hàng trong quá trình cho vay, nhằm giảm thiểu hiện tượng không thu hồi
được gốc và lãi của từng khoản cho vay. Tuy nhiên đứng ở góc độ toàn danh mục
cho vay, rủi ro danh mục không chỉ phụ thuộc vào rủi ro cá biệt của từng khoản
vay với tư cách tồn tại độc lập mà còn phụ thuộc vào sự tương quan giữa các
khoản cho vay trên danh mục. Độ tương quan giữa các khoản vay trên danh mục
càng cao, thì mức độ rủi ro của sự tập trung càng lớn, khả năng tổn thất xảy ra có
thể đem lại hậu quả hết sức nặng nề cho ngân hàng. Do vậy trong hoạt động cho
vay, bên cạnh rủi ro giao dịch các ngân hàng thương mại đồng thời phải quan tâm
đến rủi ro danh mục cho vay.
1.1.2.2. Hậu quả của rủi ro danh mục cho vay
Như phần trên đã đề cập, rủi ro danh mục cho vay có thể biểu hiện trong mức
độ tập trung cho vay vào các ngành/ lĩnh vực có độ rủi ro nội tại cao, hoặc là sự
thiếu đa dạng hóa trên danh mục, mức độ phân tán thấp. Hậu quả của rủi ro danh
mục cho vay không chỉ ảnh hưởng xấu tới hiệu quả kinh doanh mà còn quyết định
sự tồn tại của một ngân hàng.
Lịch sử thế giới từng chứng kiến sự thất bại của nhiều ngân hàng cùng với
ngành dầu mỏ vào thập niên 80. Những ngân hàng này trước đó đã tập trung rất
lớn những khoản cho vay trong ngành dầu mỏ nên hậu quả tổn thất không thể
tránh khỏi khi dầu xuống giá. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trong năm 2008
cũng cho thấy khá nhiều ngân hàng trên thế giới (phải kể đến đầu tiên là các ngân
hàng nước Mỹ ) trước đó đã đầu tư quá nhiều vào thị trường bất động sản ở thời
điểm thị trường này đang “nóng”, giá trị cho vay dựa trên giá “ảo”, đến khi thị
trường này nguội lạnh, đóng băng, giá sụt giảm thì hậu quả là những khoản cho
vay trong lĩnh vực này đã trở thành những khoản nợ khó đòi khổng lồ, thậm chí
không thể đòi được. Tại Việt Nam vào cuối những năm 90, việc ngân hàng Công
thương cho vay đối với nhóm công ty Minh Phụng với tổng dư nợ và bảo lãnh lớn
12
hơn nhiều lần vốn tự có của ngân hàng. Khi công ty này mất khả năng thanh toán,
ngân hàng Công thương đã phải xử lý một khối lượng nợ rất lớn, mất khả năng
thu hồi ... Tất cả những ví dụ trên là minh chứng rất rõ cho hậu quả mà ngân hàng
phải gánh chịu từ việc thiếu/ ít quan tâm đúng mức đến quản trị rủi ro tập trung
trên danh mục cho vay của mình.
1.2. QUẢN TRỊ DANH MỤC CHO VAY TẠI CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm và ý nghĩa quản trị danh mục cho vay đối với NHTM
1.2.1.1. Khái niệm quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng thương mại
Trong hoạt động cho vay của các ngân hàng, quản trị giao dịch xuất hiện từ
khá sớm, tuy nhiên quản trị danh mục mới được ứng dụng trong khoảng vài thập
niên gần đây. Theo ủy ban Basel nhận định một trong những nguyên nhân chính
yếu của những bất cập trong hoạt động cho vay là kỹ năng quản trị yếu kém, nhất
là quản trị rủi ro tập trung [41]. Đây là một trong các nội dung quan trọng của hoạt
động quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng thương mại.
Một cách khái quát có thể hiểu về quản trị danh mục cho vay như sau:
Quản trị danh mục cho vay là một phương thức quản trị kinh doanh ngân
hàng, bao gồm các nội dung: thiết kế danh mục cho vay, xây dựng các chính sách,
tổ chức thực hiện, tái xét và điều chỉnh danh mục cho vay nhằm đạt các mục tiêu
kinh doanh đã hoạch định của ngân hàng.
Nếu như đối tượng của quản trị giao dịch cho vay là từng khoản cho vay mà
mục tiêu quản trị giao dịch là tối đa hóa lợi nhuận, tối thiểu hóa rủi ro của từng
khoản vay cá biệt, thì đối tượng của quản trị danh mục cho vay là cơ cấu và tỷ
trọng của các loại cho vay trong tổng thể danh mục. Hoạt động quản trị danh mục
phải kiểm soát được rủi ro tập trung, nhằm giảm thiểu tổn thất, tối đa hóa lợi
nhuận ở góc độ toàn danh mục.
13
1.2.1.2. Ý nghĩa của quản trị danh mục cho vay trong hoạt động kinh doanh
của NHTM
Đối với ngân hàng thương mại, quản trị danh mục cho vay mang lại các ý
nghĩa sau đây:
Góp phần quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu của hoạt động cho
vay nói riêng và hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung
Trước hết, mục tiêu cụ thể mà quản trị danh mục cho vay hướng tới là xây
dựng một danh mục cho vay tối ưu, có khả năng tối đa hóa lợi nhuận hoặc là tối
thiểu hóa rủi ro/tổn thất, kiểm soát nó trong mức độ chấp nhận được của ngân
hàng. Vì vậy quản trị danh mục cho vay tốt sẽ tạo điều kiện để ngân hàng giảm dự
phòng rủi ro, song song với tiết kiệm nguồn lực do có thể hoạt động với mức vốn
thấp hơn. Ngoài ra, quản trị danh mục cho vay tốt cũng giúp ngân hàng tiết giảm
các chi phí không hiệu quả (liên quan đến giám sát, xử lý nợ xấu), từ đó gia tăng
lợi nhuận. Bởi vì cho vay là khoản mục chiếm tỉ phần quan trọng trong tổng tài
sản của một ngân hàng thương mại, nên hiệu quả của công tác quản trị danh mục
cho vay có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu kinh doanh chung
của ngân hàng. Ngược lại, nếu quản trị danh mục cho vay không hiệu quả, tiềm ẩn
rủi ro tập trung lớn thì hậu quả tổn thất xảy ra có thể vượt sức chịu đựng của ngân
hàng, dẫn đến phá sản.
Cải thiện khả năng chống đỡ các cú “Shock” từ bên ngoài, từ đó nâng
cao năng lực cạnh tranh trong môi trường hội nhập quốc tế
Bằng việc xây dựng danh mục cho vay kế hoạch và giám sát thực hiện trong
suốt quá trình hình thành và phát triển danh mục cho vay, các ngân hàng có thể
tạo ra một danh mục tài sản cho vay tối ưu, có đủ sức mạnh nội tại để chống lại
những tác động từ phía môi trường bên ngoài. Ngoài ra, quản trị danh mục cho
vay là phương thức quản trị hiện đại, việc thực hiện nó sẽ giúp ngân hàng trong
14
nước tiệm cận với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Đó là những tiền đề thiết yếu
để ngân hàng có thể tham gia hội nhập và khẳng định vị thế của mình trên thị
trường kinh doanh tiền tệ trong và ngoài nước.
1.2.2. Các phương pháp quản trị danh mục cho vay
Có hai phương pháp quản trị danh mục cho vay mà ngân hàng có thể lựa
chọn, đó là phương pháp quản trị thụ động hoặc là phương pháp quản trị chủ
động.
1.2.2.1. Phương pháp quản trị danh mục thụ động
Trong phương pháp quản trị thụ động, ngân hàng có thể định hướng ưu tiên
cho một vài loại tài sản cho vay nào đó, mà không cơ cấu hóa tỷ trọng của các loại
tài sản cho vay, không xây dựng các hạn mức cho từng ngành, từng khu vực, từng
dòng sản phẩm ... làm cơ sở giám sát thực hiện danh mục cho vay. Do đó, cơ cấu
của danh mục cho vay được hình thành một cách ngẫu nhiên, tỷ trọng các loại cho
vay không được xác định trước hoặc là chỉ tập trung cho một số loại tài sản cho
vay được ưu tiên, ví dụ tập trung cho xuất nhập khẩu, kinh doanh bất động sản ...
chẳng hạn. Cũng vì thiếu tính chủ động trong hình thành cơ cấu danh mục ngay từ
đầu nên ngân hàng khó kiểm soát được rủi ro tổng thể của danh mục trong quá
trình thực hiện. Cơ cấu danh mục cho vay của ngân hàng có thể thiếu sự đa dạng
cần thiết, rủi ro tập trung trong một số ngành/ lĩnh vực với mức độ cao.
Một số biểu hiện thiếu sự đa dạng hóa và tập trung rủi ro trên danh mục cho
vay trong phương pháp quản trị danh mục thụ động có thể được nhận dạng thông
qua các dấu hiệu sau:
Thiếu đa dạng về chủ thể vay
Trong trường hợp này danh mục có thể tập trung dư nợ vào một số ít các
khách hàng vay, tỷ trọng dư nợ cho những khách hàng này có thể vượt quá giới
hạn cho phép của sự an toàn (chẳng hạn nếu ngân hàng quy định cho vay một
15
khách hàng/ một nhóm khách hàng không quá 10% vốn tự có của ngân hàng thì
trên mức này được xem là tập trung rủi ro, thiếu đa dạng chủ thể vay vốn). Điều
này là cực kỳ nguy hiểm khi khách hàng vay/ nhóm khách hàng vay đó gặp khó
khăn và phá vỡ các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng. Hậu quả tổn thất ngân
hàng gánh chịu có thể vượt quá khả năng chịu đựng, dẫn ngân hàng đến bờ vực
phá sản.
Thiếu đa dạng về ngành kinh tế
Tình trạng này xảy ra khi ngân hàng chỉ tập trung vào một số ngành kinh tế
nhất định, đang có thuận lợi để phát triển như kinh doanh bất động sản, kinh
doanh chứng khoán... Dư nợ cho vay các ngành này chiếm một tỷ trọng rất lớn
trong tổng dư nợ của toàn danh mục. Khi nền kinh tế phát triển không thuận lợi
làm cho các ngành này suy thoái, thì hậu quả chắc chắn ngân hàng gánh chịu sẽ là
những món nợ xấu, nợ khó đòi khổng lồ. Để hạn chế sự thiếu đa dạng theo ngành
kinh tế, các ngân hàng hoặc cơ quan giám sát ngân hàng tại một quốc gia thường
đưa ra các giới hạn an toàn, căn cứ vào quy mô vốn tự có hoặc là giá trị dư nợ trên
danh mục cho vay của ngân hàng, chẳng hạn quy định dư nợ cho vay một ngành
kinh tế không vượt 20% vốn tự có, hoặc 30% tổng dư nợ … Đây được xem là các
ngưỡng an toàn phải tuân thủ, nếu vượt qua các ngưỡng này thì cơ quan giám sát
ngân hàng quốc gia sẽ áp dụng các biện pháp chế tài, bởi vì đó là dấu hiệu của rủi
ro tập trung cao quá mức cho phép.
Thiếu đa dạng về khu vực địa lý
Thay vì cho vay nhiều khu vực địa lý khác nhau để phân tán rủi ro, ngân
hàng có thể chỉ tập trung vào một khu vực nhất định. Điều này cũng dễ dẫn đến sự
thiếu đa dạng ngành kinh tế, nhất là đối với các khu vực mang tính địa phương rõ
rệt, chỉ có một vài ngành kinh tế đặc thù.
Thiếu đa dạng về lĩnh vực đầu tư
16
Đây cũng là một biểu hiện của rủi ro tập trung, theo đó ngân hàng có thể đầu
tư cho vay vào các ngành thuộc lĩnh vực phi sản xuất với một tỷ trọng cao, bên
cạnh tỷ trọng thấp tương ứng cho các ngành thuộc lĩnh vực sản xuất. Tình trạng
này có thể gây mất cân đối cung cầu ở góc độ toàn nền kinh tế, châm ngòi cho lạm
phát, do những ngành phi sản xuất như kinh doanh bất động sản, kinh doanh
chứng khoán, tiêu dùng … thường không trực tiếp tạo ra của cải cho xã hội, sự
phát triển của nó không làm tăng thêm tài sản cho quốc gia. Hậu quả của sự thiếu
đa dạng, tập trung rủi ro trong lĩnh vực đầu tư thường rất nghiêm trọng xét ở góc
độ vĩ mô toàn bộ nền kinh tế.
Nhìn chung, phương pháp quản trị thụ động có ưu điểm là đơn giản trong
khâu hoạch định, thiết kế danh mục cho vay. Đặc trưng của phương pháp này là
ngân hàng chủ yếu phản ứng sau khi giám sát và phát hiện được các biểu hiện bất
thường của danh mục, chứ ít/không có các hành động đi trước. Vì vậy, điều chỉnh
cơ cấu danh mục sau giám sát được xem là nội dung chính yếu trong công việc
của các ngân hàng theo đuổi phương pháp quản trị này.
Phương pháp quản trị thụ động khá phổ biến ở ngân hàng các nước đang phát
triển, các nước nhỏ, các nước có nền kinh tế chủ yếu dựa vào một vài ngành sản
xuất kinh doanh đặc thù nào đó, như nông nghiệp, xuất khẩu... mức độ hội nhập
của nền kinh tế chưa cao, ít chịu biến động bởi môi trường quốc tế bên ngoài.
Trong những thời kỳ kinh tế còn ổn định, những hạn chế của phương pháp quản
trị thụ động không được bộc lộ rõ nét. Tuy vậy, sẽ cực kỳ nguy hiểm cho ngân
hàng nếu nền kinh tế biến động theo chiều hướng bất lợi, những ngành/ khu vực
mà ngân hàng tập trung cho vay có dấu hiệu giảm sút hoạt động. Trong tình thế đó
để giảm thiểu tổn thất của danh mục, các ngân hàng thường phải sử dụng các biện
pháp điều chỉnh nội bảng nhằm thay đổi quy mô, cấu trúc lại cơ cấu dư nợ. Những
biện pháp ngân hàng sử dụng thường là đẩy mạnh thu hồi nợ, để giảm dư nợ ở
những ngành có dấu hiệu tập trung cho vay quá mức, bán những khoản cho vay
17
thuộc ngành/ khu vực có độ rủi ro tập trung cao, gia tăng cho vay những ngành
mới, ngành còn tiềm năng phát triển để cấu trúc lại danh mục... Tuy nhiên, những
biện pháp điều chỉnh danh mục như vậy không phải lúc nào cũng có hiệu quả
ngay do tác động của nó thường có độ trễ về thời gian, đôi khi ảnh hưởng đến
quan hệ lâu dài giữa ngân hàng và khách hàng. Còn những công cụ điều chỉnh
ngoại bảng linh hoạt như chứng khoán hóa, phái sinh tín dụng ...có tác dụng nhanh
chóng, thì thường chỉ xuất hiện trong những nền kinh tế phát triển, có hệ thống tài
chính mạnh.
1.2.2.2. Phương pháp quản trị danh mục chủ động
Những hạn chế khiếm khuyết của quản trị thụ động được thay thế và bổ sung
bởi phương pháp quản trị chủ động. Sự ra đời của phương pháp quản trị chủ động
xuất phát từ đòi hỏi khách quan trong nền kinh tế hiện đại. So sánh với quản trị
thụ động, phương pháp quản trị chủ động có những đặc trưng nổi bật như sau:
Sự chủ động thể hiện ngay từ khi thiết kế hình thành danh mục để
định hướng cho việc thực hiện cấp tín dụng.
Ngược lại với quản trị thụ động, phương pháp quản trị danh mục chủ động đòi
hỏi ngân hàng phải có một định hướng chiến lược ngay từ khi các khoản cho vay
chưa được phê duyệt, trên cơ sở đó thiết kế một danh mục cho vay với cơ cấu dự
kiến trước. Tỷ trọng của các ngành/ khu vực kinh tế/ đối tượng khách hàng được
xác định dựa trên mục tiêu về lợi nhuận và thị phần của ngân hàng, kết hợp với
các yếu tố dự báo về phát triển kinh tế địa phương và khu vực, phù hợp với khả
năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng thông qua mức vốn tự có ... Theo phương
pháp quản trị này, mặc dù ngân hàng không thể tác động làm thay đổi nhu cầu vay
của từng khách hàng, từng giao dịch cụ thể, nhưng hoàn toàn có thể thiết kế được
một danh mục cho vay mà rủi ro trên danh mục được kiểm soát thông qua tỷ trọng
dự kiến của các loại tài sản cho vay.
18
Sử dụng mô hình định lượng để ước tính tổn thất cho toàn danh mục
cho vay.
Đây là đặc trưng nổi bật của phương pháp quản trị chủ động. Nếu như trong
phương pháp quản trị thụ động, ngân hàng không/ít quan tâm đến rủi ro ở góc độ
toàn bộ danh mục, thì với phương pháp quản trị danh mục chủ động, theo khuyến
nghị của ủy ban Basel, các ngân hàng có thể sử dụng các mô hình nội bộ để lượng
hóa tổn thất của riêng ngân hàng mình. Từ đó ngân hàng sẽ xác định lượng vốn
tương xứng để trang trải cho tổn thất toàn danh mục.
Vận dụng linh hoạt các công cụ kỹ thuật điều chỉnh danh mục.
Trong quản trị danh mục chủ động, mục tiêu sử dụng các công cụ này không
chỉ nhằm đối phó, hạn chế tác động của rủi ro, mà còn tiến tới chủ động biến rủi
ro tiềm ẩn thành cơ hội gia tăng giá trị cho ngân hàng.
Một danh mục cho vay hình thành chủ động theo kế hoạch, trong đó các loại
hình cho vay được sắp xếp một cách có hệ thống, có chủ đích với các tỷ trọng nhất
định, được thiết kế phù hợp với mục tiêu và điều kiện của ngân hàng, được xem là
một danh mục cho vay tối ưu. Danh mục cho vay tối ưu sẽ là tiền đề để ngân hàng
thực hiện tốt mục tiêu kinh doanh đã hoạch định. Tuy nhiên trong quá trình thực
hiện, do bị ảnh hưởng bởi chu kỳ kinh tế, các điều kiện kinh doanh thay đổi, có
thể xuất hiện các dấu hiệu bất ổn trên danh mục, rủi ro vượt quá khả năng chịu
đựng của ngân hàng, khi đó ngân hàng cần thiết phải sử dụng các biện pháp và
công cụ điều chỉnh để cấu trúc lại danh mục.
1.2.3. Nội dung quản trị danh mục cho vay theo phương pháp chủ động
1.2.3.1. Hoạch định
Hoạch định là công việc đầu tiên trong tiến trình quản trị danh mục cho vay
theo hướng chủ động tại ngân hàng thương mại. Hoạch định bao gồm các nội
19
dung cụ thể, đó là hoạch định mục tiêu quản trị danh mục, thiết kế danh mục cho
vay và xây dựng các chính sách thực thi.
Hoạch định mục tiêu quản trị danh mục cho vay
Cũng như mục tiêu của hầu hết các hoạt động kinh doanh khác, mục tiêu
quản trị danh mục cho vay của ngân hàng liên quan đến việc giải quyết hợp lý mối
quan hệ giữa lợi nhuận và rủi ro của danh mục cho vay. Một danh mục không có
rủi ro cũng có nghĩa là không tạo ra lợi nhuận, vì vậy trong quản trị danh mục cho
vay, mục tiêu của ngân hàng thương mại hoặc là (i) hướng tới một danh mục đạt
lợi nhuận kỳ vọng cao nhất (tối đa hóa lợi nhuận) cùng với mức độ rủi ro danh
mục xác định; (ii) hoặc là một danh mục có lợi nhuận xác định (có thể chưa phải
là cao nhất) và rủi ro danh mục ở mức thấp nhất (tối thiểu hóa rủi ro).
Bên cạnh đó, một mục tiêu đặc trưng khác mà quản trị danh mục cho vay cần
thiết phải hướng tới đó là giới hạn tổn thất của toàn danh mục trong khả năng chịu
đựng của mỗi ngân hàng, nói khác đi là ngân hàng phải xác định tổn thất mục tiêu
cho danh mục cho vay của mình.
Liên quan tới danh mục cho vay của ngân hàng thương mại, có hai loại tổn
thất cần phân biệt sau đây:
Thứ nhất: Tổn thất dự kiến được hay còn gọi là tổn thất kỳ vọng - Expected Loss
(EL). Loại tổn thất này được xác định từ xác suất vỡ nợ của người vay
(Probability at Default - PD), tỷ lệ không thu hồi được của khoản vay khi vỡ nợ
(Loss given at Default - LGD) và giá trị của khoản vay tại thời điểm vỡ nợ
(Exposure at Default - EAD).
Công thức xác định căn cứ vào quy định của ủy ban Basel [3] như sau:
EL = PD * LGD * EAD .
20
Muốn tính toán được loại tổn thất này, các ngân hàng phải căn cứ vào hệ
thống xếp hạng tín dụng nội bộ để có được các yếu tố PD và LGD. Theo quan
điểm ngân hàng hiện đại, tổn thất kỳ vọng (EL) được xem là một loại chi phí kinh
doanh, nó được ngân hàng tính toán và đưa vào trong lãi suất cho vay khi thực
hiện giao dịch với khách hàng. Đây là cách để ngân hàng có thể bù đắp những tổn
thất mà ngân hàng đã xác định được. Quỹ dự phòng mà ngân hàng trích lập chính
là để đối phó với loại tổn thất này.
Thứ hai: Tổn thất không kỳ vọng còn gọi là tổn thất không dự tính được/ tổn thất
ngoài dự kiến (Unexpected Loss – UL) là hậu quả của biến cố rủi ro phát sinh
ngoài dự kiến. Do xác suất xảy ra biến cố cũng như mức độ thiệt hại của biến cố
không xác định được, nên tổn thất không kỳ vọng không được xem là chi phí
trong kinh doanh. Nói một cách chính xác, tổn thất không kỳ vọng là rủi ro, tức là
biến cố thiệt hại nhưng không chắc chắn có xảy ra hay không.
Có thể thấy sự khác biệt giữa tổn thất kỳ vọng (EL) và tổn thất không kỳ
vọng (UL) trong hoạt động cho vay của ngân hàng qua hình 1.2. trang 20. Sơ đồ
hình vẽ cho thấy tổn thất kỳ vọng (EL) được biểu diễn bằng một đường thẳng, nó
là giá trị trung bình (mean) của phân phối xác suất tổn thất. Nhưng tổn thất thực tế
xảy ra thì không ổn định như vậy, nó dao động xung quanh đường tổn thất trung
bình. Tổn thất không kỳ vọng (UL) thực chất là giá trị khác biệt (giá trị chênh
lệch) thực tế so với giá trị trung bình của phân phối xác suất tổn thất. Chính vì
không tính toán được một cách chính xác nên ngân hàng không có cơ sở để trích
dự phòng như đối với tổn thất kỳ vọng (EL) mà chúng được bù đắp bởi giá trị vốn
kinh tế (Economic Capital) của ngân hàng.
HÌNH 1.2
CÁC LOẠI TỔN THẤT TRÊN DANH MỤC CHO VAY CỦA NHTM
21
Giá trị tổn thất
Tổn thất không kỳ vọng
Tổn thất kỳ vọng
-----------
Thời gian
Tổn thất thực tế
Nguồn: tham khảo từ sách Modern Banking [44]
Khái niệm vốn kinh tế được sử dụng khá phổ biến trong quản trị ngân hàng
hiện đại. Thực chất vốn kinh tế là một phiên bản khác của vốn tự có trong ngân
hàng, được ngân hàng tự xác định từ các giao dịch sử dụng vốn (trong đó có cho
vay). Vốn kinh tế được hiểu là con số ước tính về nguồn phải có để trang trải cho
các tổn thất không dự tính được, trong một khoảng thời gian xác định (thường là
một năm đối với danh mục cho vay) [42]. Nếu tổn thất không dự tính được (UL)
càng cao thì yêu cầu về vốn kinh tế càng phải lớn để có thể bù đắp tương xứng.
Nói khác đi vốn kinh tế thể hiện khả năng chịu đựng rủi ro của một NHTM, nếu
mức vốn kinh tế của ngân hàng bằng hoặc lớn hơn tổn thất ngoài dự kiến (UL) mà
ngân hàng gánh chịu thì ngân hàng được đánh giá là có đủ khả năng chịu đựng rủi
ro. Trường hợp ngược lại, ngân hàng có thể rơi vào trạng thái mất khả năng thanh
toán và phá sản.
22
Như vậy với mức vốn tự có xác định, các ngân hàng phải giới hạn tổn thất
trên danh mục cho vay của họ sao cho tương xứng. Mức tổn thất dự kiến phù hợp
với khả năng chịu đựng bằng vốn tự có của ngân hàng được gọi là tổn thất mục
tiêu. Con số này phải được xác định ngay từ khi hoạch định mục tiêu quản trị danh
mục cho vay của ngân hàng, bên cạnh con số mục tiêu về lợi nhuận.
Thiết lập danh mục cho vay phù hợp với mục tiêu xác định
Theo các tài liệu nghiên cứu về lý thuyết quản trị danh mục hiện đại của nhà
kinh tế học Harry Markowitz có đề cập, thì mỗi một cách kết hợp khác nhau của
các loại tài sản /cho vay sẽ mang lại một cơ cấu danh mục khác nhau, nếu nhà đầu
tư hoặc ngân hàng biết kết hợp nhiều loại tài sản/cho vay khác nhau trên một danh
mục, hay nói khác đi là có sự đa dạng hóa trong đầu tư tài sản/cho vay, thì rủi ro
của cả danh mục sẽ thấp hơn so với rủi ro của các loại tài sản/cho vay riêng biệt
tổng hợp lại [40]. Lý thuyết này cũng được nhiều nhà nghiên cứu tại các quốc gia
phát triển khẳng định khi nhận định về ảnh hưởng của đa dạng hóa đến danh mục
cho vay của ngân hàng [51],[53]. Vấn đề đặt ra cho ngân hàng là làm sao để lựa
chọn được một kiểu kết hợp tài sản đem lại hiệu quả tối ưu nhất, phù hợp với nội
lực của ngân hàng, với tổn thất mục tiêu mà ngân hàng đã dự kiến. Do vậy, nội
dung cơ bản của việc thiết lập danh mục cho vay là xác định quy mô và tỷ trọng
hợp lý của từng loại cho vay chiếm trong tổng thể danh mục.
Ví dụ dưới đây minh họa cho việc thiết kế những danh mục khác nhau dẫn
đến mức lợi nhuận và tổn thất khác nhau. Giả sử ngân hàng đồng thời cho vay 4
ngành kinh tế độc lập với nhau là A; B; C và D. Trong đó tỷ suất lợi nhuận (tỷ
suất LN, căn cứ vào lãi suất cho vay) thu được từ khoản vay của mỗi ngành lần
lượt là 10%; 12%; 14% và 16%, xác suất vỡ nợ tương ứng với mỗi ngành là
0.15%; 0.3%; 0.6% và 1.1%. Khả năng thiệt hại khi khoản vay bị vỡ nợ của tất cả
các ngành đều ở mức 50% (do tùy thuộc vào giá trị thu hồi của khoản vay). Giả sử
có 5 phương án danh mục (là A;B;C;D và E) được thiết kế với tỷ trọng cho vay
23
mỗi ngành khác nhau, ta sẽ có kết quả lợi nhuận và tổn thất của từng phương án
như trong bảng 1.2 và phụ lục số 02.
BẢNG 1.2: CÁC PHƯƠNG ÁN PHÂN BỔ LỢI NHUẬN VÀ
TỔN THẤT TRÊN DANH MỤC CHO VAY
PHƯƠNG ÁN
A
Xác
Dư
Tỷ
Tỷ suất
trọng
nợ suất vỡ
dư nợ (triệu LN nợ
Ngành (%) đồng) (%) (%)
A
100 1000
10 0.15
B
0
12 0.30
C
0
14 0.60
D
0
16 2.00
Tổng
cộng
1000
PHƯƠNG ÁN B
Tỷ
Dư
Tỷ
nợ suất
trọng
dư nợ (triệu LN
đồng) (%)
Ngành (%)
A
0
10
B
0
12
C
0
14
D
100 1000
16
Tổng
1000
PHƯƠNG ÁN
Lợi
nhuận
Tổng
kỳ
tổn
Tỷ
vọng trọng EL
UL
thất
(triệu
LN (triệu (triệu (triệu
đồng) (%) đồng) đồng) đồng)
99.85
100
0.75 19.35
20.1
99.85
100
0.75
19.35
Tỷ
trọng
CL
tổn
thất
ròng
(triệu (triệu
đồng) đồng)
100 79.75
20.1
100
79.75
Lợi
Xác nhuận
Tổng
Tỷ
kỳ
suất
tổn
vọng trọng EL
UL
vỡ
thất
nợ (triệu
LN (triệu (triệu (triệu
(%) đồng) (%) đồng) đồng) đồng)
0.15
0.30
0.60
1.10 158.24
100
5.5
52
57.5
158.24
100
5.5
52
57.5
Tỷ
trọng
tổn
thất
(triệu
đồng)
CL
ròng
(triệu
đồng)
100 100.74
100 100.74
C
Xác
Tỷ
Dư
Tỷ suất
nợ suất vỡ
trọng
dư nợ (triệu LN nợ
đồng) (%) (%)
Ngành (%)
A
25
250
10 0.15
B
25
250
12 0.30
Lợi
nhuận
Tổng
kỳ
tổn
Tỷ
vọng trọng EL
thất
UL
(triệu
LN (triệu (triệu (triệu
đồng) (%) đồng) đồng) đồng)
24.96 19.32
0.19
4.84
5.03
29.91 23.15
0.38
6.84
7.21
Tỷ
trọng
tổn
CL
thất
ròng
(triệu (triệu
đồng) đồng)
13.58 19.94
19.49 22.70
24
C
D
Tổng
25
25
100
PHƯƠNG ÁN
250
250
1000
14 0.60
16 1.10
26.92
30.61
100
0.75
1.38
2.69
9.65
13.00
34.33
10.40
14.38
37.01
28.10
38.84
100
24.39
25.19
92.21
D
Tỷ
Dư
Tỷ
nợ suất
trọng
dư nợ (triệu LN
Ngành (%)
đồng) (%)
A
40
400
10
B
30
300
12
C
20
200
14
D
10
100
16
Tổng
100 1000
cộng
PHƯƠNG ÁN
34.79
39.56
129.22
Xác
Tổng
Tỷ
suất
tổn
trọng EL
UL
vỡ
thất
nợ LN kỳ LN (triệu (triệu (triệu
(%) đồng) đồng) đồng)
(%) vọng
0.15 39.94 33.43
0.3
7.74
8.04
0.30 35.89 30.04
0.45
8.21
8.66
0.60 27.83 23.29
0.6
7.72
8.32
1.10 15.82 13.24
0.55
5.2
5.75
119.49
100
1.90
28.87
30.77
Tỷ
trọng
tổn
CL
ròng
thất
(triệu (triệu
đồng) đồng)
26.13 31.90
28.13 27.24
27.04 19.51
18.69 10.07
100
88.72
E
Tỷ
Dư
Tỷ
nợ suất
trọng
dư nợ (triệu LN
đồng) (%)
Ngành (%)
A
10
100
10
B
20
200
12
C
30
300
14
D
40
400
16
Tổng
100 1000
Xác
Tổng
suất
tổn
Tỷ
vỡ
thất
trọng EL
UL
nợ LN kỳ LN (triệu (triệu (triệu
(%) vọng
(%) đồng) đồng) đồng)
0.15
9.99
7.19
0.08 1.935
2.01
0.30 23.93 17.22
0.3
5.47
5.77
0.60 41.75 30.04
0.9 11.58 12.48
1.10 63.30 45.55
2.2
20.8 23.00
138.96
100
3.48 39.79 43.26
Tỷ
trọng
tổn
CL
thất
ròng
(triệu (triệu
đồng) đồng)
4.65
7.98
13.34 18.16
28.85 29.27
53.17 40.30
100 95.70
Nguồn: tác giả tự tính toán
Phương án A và B là các phương án chuyên môn hóa ngành cho vay, thiếu
tính đa dạng vì vậy hai phương án này có hai thái cực về lợi nhuận (LN kỳ vọng)
và tổn thất. Cụ thể phương án A lợi nhuận và tổng tổn thất đều ở mức thấp, nên
chênh lệch ròng (CL ròng - hiệu số của lợi nhuận kỳ vọng và tổng tổn thất) cũng ở
mức thấp nhất. Ngược lại phương án B có lợi nhuận và tổn thất đều ở mức cao,
nên chênh lệch ròng ở mức cao nhất. Cả hai phương án này ngân hàng không nên
ưu tiên lựa chọn vì tính chuyên môn hóa cao, khó phù hợp với thị trường. Mặt
25
khác do chuyên môn hóa nên tổn thất tập trung vào một ngành duy nhất, nếu
ngành này phá sản, ngân hàng sẽ gánh chịu toàn bộ hậu quả nặng nề, vì vậy rủi ro
tiềm ẩn là rất cao. Các phương án C; D và E thể hiện sự đa dạng hóa trong thiết kế
cơ cấu danh mục, vì vậy lợi nhuận và tổn thất được phân tán cho đồng thời cả 4
ngành. Tuy nhiên, phương án E có độ tập trung rủi ro lớn hơn trong số 3 phương
án này, biểu hiện ở tỷ trọng tổn thất (% tổn thất) và tỷ trọng lợi nhuận (% LN) cho
ngành D lần lượt ở mức 45.55 % và 53.17% (trong khi dư nợ chiếm 40% tổng dư
nợ). Vì vậy đây cũng không phải là phương án tối ưu. Còn lại, phương án C và D
có độ phân tán rủi ro tốt hơn (thể hiện tỷ trọng dư nợ, tỷ trọng lợi nhuận, tỷ trọng
tổn thất của các ngành được phân bổ đồng đều hơn). Trong hai phương án này,
phương án C có hiệu quả (CL ròng) lớn hơn, nhưng phương án D có tổng tổn thất
là thấp nhất. Lựa chọn phương án nào trong số hai phương án trên tùy thuộc vào
quan điểm của ngân hàng.
Trong thực tế, để thiết kế danh mục cho vay, ngân hàng phải đồng thời dựa
vào nhiều yếu tố nội sinh và ngoại sinh. Tập hợp các yếu tố đó tạo nên những kịch
bản khác nhau, tác động tới hoạt động của ngân hàng. Các ngân hàng sẽ tùy thuộc
mục tiêu, các yếu tố dự báo và điều kiện riêng của mình để lựa chọn những
phương án danh mục theo ngân hàng là tối ưu. Không nhất thiết chỉ có một
phương án danh mục nhất định, mà ngân hàng có thể có những phương án danh
mục khác nhau thích hợp với những kịch bản khác nhau.
Xây dựng các chính sách thực thi
Phần tiếp theo sau khi thiết kế danh mục là khâu xây dựng các chính sách
để quản lý và tổ chức thực hiện danh mục. Các chính sách phải do Ban điều hành
soạn thảo và được Hội đồng quản trị ngân hàng thông qua. Chính sách được hiểu
là hệ thống các văn bản mang tính pháp quy của ngân hàng, có ý nghĩa “dẫn
đường” trong tổ chức thực hiện danh mục cho vay. Hay nói khác đi chính sách chỉ
26
ra cách thức để ngân hàng với các nguồn lực hiện tại, đạt tới mục tiêu là một danh
mục cho vay tối ưu trong tương lai.
Thông thường các chính sách trong quản trị danh mục cho vay gồm có: chính
sách đa dạng hóa danh mục, chính sách phân loại nợ và trích lập dự phòng, chính
sách giới hạn/ hạn chế cấp tín dụng … Đây là những chính sách nhằm thực hiện
phân tán rủi ro tập trung và đồng thời quy định việc trích lập dự phòng thích hợp
để đối phó với tổn thất dự kiến của danh mục. Dựa trên chính sách đã phê duyệt,
việc tổ chức thực hiện và giám sát danh mục sẽ có cơ sở để tiến hành.
1.2.3.2. Tổ chức thực hiện và giám sát danh mục cho vay.
Để đảm bảo cho danh mục được hình thành một cách hiệu quả, thì phần
việc tiếp sau khâu hoạch định là tổ chức thực hiện và giám sát danh mục.
Về bộ máy tổ chức
Nguyên tắc chung cho việc tổ chức hoạt động quản trị danh mục cho vay
hiệu quả là phải thực hiện tách biệt giữa các chức năng hoạch định chiến lược (của
Hội đồng quản trị), chức năng tổ chức điều hành (của Ban điều hành) và chức
năng kiểm tra giám sát (của Ban kiểm soát). Mặt khác phải hình thành và củng cố
hoạt động chuyên môn hóa về quản trị rủi ro danh mục. Dựa trên nguyên tắc này,
trong bộ máy tổ chức cần phải tuân thủ các vấn đề sau:
Phải thiết lập được một hệ thống quản lý rủi ro tập trung và độc lập. Trong mô
hình tổ chức quản trị danh mục, không thể thiếu được bộ phận quản lý rủi ro. Bộ
phận này trực thuộc sự chỉ đạo của ban điều hành, cùng cấp với các phòng ban tác
nghiệp khác, tuy nhiên hoạt động của bộ phận này tách biệt, không tham gia vào
quá trình tác nghiệp để đảm bảo tính độc lập. Ngoài yêu cầu về tính độc lập, do
mối liên hệ tác động giữa các loại hình rủi ro trong hoạt động ngân hàng, nên bộ
phận quản lý rủi ro cần phải có tính tập trung cao, có nghĩa là tất cả các loại rủi ro
27
(rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động ...) cần phải thuộc trách nhiệm
quản lý của bộ phận này. Điều này sẽ giúp cho việc đánh giá và kiểm soát tổng thể
các rủi ro ở toàn phạm vi ngân hàng được thuận lợi hơn. Về màng lưới tổ chức, bộ
phận quản lý rủi ro có thể bao gồm “các chân rết” được hình thành tại các chi
nhánh, để đảm bảo việc truyền đạt các quyết định, chuyển giao báo cáo liên quan
được thông suốt kịp thời. Về nội dung công việc, bộ phận quản lý rủi ro là nơi trực
tiếp xây dựng và tư vấn cho ban điều hành các quy định nhằm cụ thể hóa các
chính sách quản trị danh mục, chuyển giao cho các bộ phận tác nghiệp thực hiện.
Mặt khác, bộ phận quản lý rủi ro cũng là đầu mối giám sát việc thực hiện danh
mục, phát hiện những dấu hiệu vi phạm, vượt giới hạn của bộ phận tác nghiệp, tư
vấn cho ban điều hành biện pháp điều chỉnh khi cần thiết.
Phải có sự hỗ trợ của hệ thống kiểm toán nội bộ nhằm giám sát sự tuân thủ trong
thực thi các chính sách liên quan đến quản trị danh mục và phát hiện các dấu hiệu
cảnh báo rủi ro tiềm tàng liên quan đến danh mục. Hoạt động của hệ thống kiểm
toán do Ban kiểm soát của ngân hàng chịu trách nhiệm, vì vậy có tính độc lập cao
(do Ban kiểm soát trực thuộc thẳng Đại hội đồng cổ đông). Về chức năng, kiểm
toán nội bộ không chỉ giám sát công tác điều hành mà giám sát cả công tác hoạch
định chiến lược của Hội đồng quản trị.
Về tổ chức thực hiện danh mục
Để có căn cứ cho việc giám sát quá trình thực hiện danh mục, các chính
sách sau khi được Hội đồng quản trị thông qua, cần phải được Ban điều hành cụ
thể hóa bằng các giới hạn cho vay được xác định cho từng loại đối tác, từng giao
dịch, từng loại sản phẩm, chẳng hạn giới hạn cho vay một khách hàng, một nhóm
khách hàng, giới hạn cho vay một ngành, một khu vực …Các mức phán quyết cho
vay cũng được quy định cụ thể theo cấp độ quản trị, tạo thuận lợi cho việc triển
khai danh mục được thông suốt. Quá trình hình thành danh mục cho vay luôn tuân
thủ theo một trình tự nhất định: nhân viên cho vay là những người thẩm định xét
28
duyệt đầu tiên đối với khoản vay, sau đó cấp quản trị trung gian (cán bộ phụ trách
phòng) là người xét duyệt lại, sau cùng là nhà quản trị cấp cao (giám đốc hoặc
người được ủy quyền) thông qua. Đối với những khoản vay được xem là vượt
mức phán quyết bên dưới, hoặc có những phát sinh ngoài dự kiến thì Hội đồng
quản trị sẽ là người có quyền quyết định cuối cùng. Trong quá trình thực hiện
danh mục, những nguyên tắc của kiểm soát nội bộ như: quy tắc “bốn mắt” (người
đề xuất cho vay không phải là người xét duyệt), quy tắc “bất kiêm nhiệm” (tách
biệt các chức năng có xung đột quyền lợi)… cần phải được tôn trọng triệt để.
Về giám sát thực hiện danh mục
Quá trình giám sát danh mục cho vay được thực hiện thường xuyên tại cơ sở
và do bộ phận quản lý rủi ro thực hiện, sau đó trình lên ban điều hành, để từ đó có
các quyết sách hợp lý, đúng thời điểm.
Giám sát danh mục cho vay được thực hiện khi danh mục cho vay thực tế đã
hình thành. Giám sát danh mục có các ý nghĩa sau:
Thứ nhất nhằm phát hiện kịp thời những khách hàng xin vay vượt quá tỷ trọng của
loại tài sản cho vay đã được xây dựng, có biện pháp loại bỏ những khoản vay đó
mà không ảnh hưởng đến mối quan hệ của ngân hàng đối với khách hàng xin vay.
Mặt khác, giám sát cũng nhằm phát hiện kịp thời những dấu hiệu cảnh báo của
một danh mục cho vay có mức độ rủi ro cao, tạo điều kiện cho nhà quản trị nhận
định đúng về chất lượng tổng thể danh mục cho vay, từ đó có các biện pháp điều
chỉnh thích hợp. Mục tiêu của các điều chỉnh này là giảm thiểu rủi ro tập trung,
thay đổi cơ cấu danh mục theo hướng có lợi nhất, đảm bảo mục tiêu kinh doanh
mà ngân hàng đã chọn lựa.
Thứ hai giám sát để điều chỉnh cơ cấu danh mục do các yếu tố xây dựng kịch bản
thay đổi. Như đã đề cập trong phần thiết kế danh mục, những kịch bản khác nhau
cần có những phương án danh mục khác nhau. Khi môi trường và các điều kiện
29
hoạt động của ngân hàng thay đổi, tức là kịch bản thay đổi, buộc ngân hàng phải
có phương án điều chỉnh thích hợp, nhưng vẫn đảm bảo đạt mục tiêu đã hoạch
định.
Trong giai đoạn giám sát, ngoài các yếu tố định tính được nhận dạng, ngân
hàng nhất thiết phải tính toán đo lường mức độ rủi ro danh mục thông qua các
công cụ định lượng, đó là các mô hình đo lường nội bộ mà ngân hàng đã sử dụng
ngay từ khi thiết kế danh mục. Đây cũng là một nội dung mà ủy ban Basel khuyến
khích các ngân hàng thực hiện. Trên thế giới hiện có nhiều loại mô hình đo lường
rủi ro do các ngân hàng, tổ chức tài chính áp dụng. Tất cả các mô hình đo lường
rủi ro này đều bắt đầu từ độ tin cậy cho trước, xác định dạng phân phối xác suất
tổn thất, sau đó sử dụng mô hình thống kê toán để mô tả phân phối xác suất tổn
thất, trên cơ sở đó sẽ tính được chính xác mức độ tổn thất mà ngân hàng phải
đương đầu gánh chịu. Việc định lượng chính xác mức tổn thất trên danh mục cho
vay, sẽ giúp ban điều hành tìm biện pháp điều chỉnh cơ cấu danh mục, đảm bảo
tổn thất không vượt quá khả năng giới hạn của ngân hàng.
1.2.3.3. Điều chỉnh danh mục cho vay
Trong quản trị danh mục cho vay theo phương pháp chủ động, mục tiêu và
cơ cấu danh mục cho vay của ngân hàng được hoạch định và xây dựng từ trước,
điều này hình thành một định hướng hết sức cần thiết đối với hoạt động cho vay
của ngân hàng. Tuy nhiên, thực tế môi trường hoạt động của ngân hàng luôn có
nhiều biến động, kịch bản thiết kế danh mục thay đổi, cho nên danh mục cho vay
của ngân hàng cũng phải được điều chỉnh thích hợp. Mặt khác, hoạt động cho vay
của ngân hàng là một dạng dịch vụ vì vậy không tránh khỏi việc cho vay hướng
tới thỏa mãn các nhu cầu của thị trường. Xét trên khía cạnh này, thì sự lệch hướng
danh mục cho vay rất dễ xảy ra, ngân hàng khó tránh khỏi những “cám dỗ” nhất
thời từ một khu vực/ một ngành kinh doanh thời thượng nào đó. Ngoài ra, ngân
hàng cũng có thể muốn tận dụng sự hiểu biết chuyên sâu của các chuyên gia trong
30
một số lĩnh vực cho vay nhất định. Những điều này đôi khi mâu thuẫn với yêu cầu
đa dạng hóa để phân tán rủi ro, về lâu dài gây bất lợi cho sự an toàn trên danh mục
cho vay của ngân hàng.
Với tất cả những lý do trên, việc điều chỉnh danh mục sau giám sát là công
việc hết sức quan trọng và cần thiết với các ngân hàng. Để điều chỉnh danh mục
các ngân hàng có thể áp dụng hướng điều chỉnh nội bảng hoặc là điều chỉnh ngoại
bảng.
Điều chỉnh nội bảng
Trong hướng điều chỉnh nội bảng, ngân hàng sẽ tác động trực tiếp lên quy mô
hoặc cơ cấu danh mục cho vay của ngân hàng. Chẳng hạn như biện pháp tích cực
thu hồi nợ của các ngành/ khu vực mà dư nợ đang có chiều hướng tập trung rủi ro
cao, tăng dư nợ cho vay các khu vực còn tiềm năng, để cải thiện cơ cấu danh mục
và cân bằng rủi ro trên phạm vi toàn danh mục; thực hiện mua bán nợ để trực tiếp
thay đổi cơ cấu danh mục …Ngoài các biện pháp điều chỉnh trực tiếp trên danh
mục như trên, ngân hàng cũng có thể gia tăng khả năng chống đỡ rủi ro danh mục
bằng cách tăng vốn tự có để tăng khả năng chịu đựng rủi ro; tăng trích lập dự
phòng rủi ro.
Dưới đây sẽ mô tả về cách thức sử dụng mua bán nợ (Loans Sale &
Trading) trong điều chỉnh danh mục cho vay.
Mua bán nợ được xem là một công cụ điều chỉnh danh mục truyền thống (do xuất
hiện từ những năm cuối của thập niên 60 tại Mỹ) và thực hiện thông qua một
trong những cách thức sau [42]:
Dự phần cho vay tức là người bán chỉ chuyển giao một phần giá trị khoản vay
trong hợp đồng cho người mua. Chẳng hạn ngân hàng A có khoản vay giá trị 10 tỷ
đồng, do e ngại tổn thất quá lớn nếu xảy ra rủi ro vỡ nợ nên nhượng bán 50% giá
trị khoản vay (tương đương 5 tỷ đồng) cho một ngân hàng khác trên thị trường,
31
chỉ giữ lại số dư nợ 5 tỷ đồng của khoản vay trên danh mục. Biện pháp này sau
khi thực hiện mang dáng dấp của cho vay hợp vốn, tức là một số ngân hàng cùng
tham gia tài trợ cho một khoản vay. Ngân hàng bán khoản vay trở thành ngân
hàng đầu mối, nắm giữ theo dõi khoản vay, riêng số tiền tài trợ thì được chia sẻ
cho các ngân hàng chấp nhận mua nợ.
Dự phần thời đoạn tức là khoản vay có thời hạn dài được chia thành nhiều thời
hạn ngắn hơn và được bán theo những kỳ hạn ngắn đó. Chẳng hạn ngân hàng A có
khoản vay trong thời hạn 5 năm, được chia thành 2 giai đoạn: giai đoạn đầu 2 năm
và giai đoạn sau 3 năm. Ngân hàng có thể nắm giữ khoản vay trong thời hạn 2
năm đầu, sau đó do muốn cấu trúc lại danh mục, nên nhượng bán cho ngân hàng
B. Như vậy danh mục cho vay của ngân hàng A giảm đi số tiền tương đương giá
trị khoản vay, trong khi danh mục của ngân hàng B thì tăng dư nợ tương ứng. Đây
cũng là một trong những cách thức để ngân hàng có thể thay đổi cơ cấu dư nợ trên
danh mục cho vay của mình.
Chuyển nhượng là biện pháp chuyển giao toàn bộ trái quyền của khoản vay cho
người mua, khoản nợ chấm dứt trên bảng cân đối của người bán (nếu thỏa thuận
miễn truy đòi trong hợp đồng bán). Đây được xem là biện pháp chuyển giao rủi ro
tương đối phổ biến trong hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên với biện pháp này, ngân
hàng bán khoản vay không còn lưu giữ mối liên hệ với khách hàng vay vốn ban
đầu, vì vậy nhiều khi bất lợi cho chiến lược thu hút và lưu giữ khách hàng của
ngân hàng.
Như vậy, đứng ở góc độ toàn danh mục, mua bán nợ có thể giúp cho ngân
hàng bán giảm dư nợ trên bảng cân đối, hoặc là thay đổi tỷ trọng của một số loại
hình cho vay nào đó, điều này giúp tái cơ cấu lại danh mục cho vay của ngân hàng
theo hướng thuận lợi hơn. Ngược lại ngân hàng mua sẽ gia tăng số dư nợ cho vay
vào những khu vực, loại hình phù hợp, thông qua đó mà đa dạng hóa danh mục
cho vay đồng thời với tăng trưởng dư nợ.
32
Mặc dù các biện pháp điều chỉnh nội bảng được xem là khá đơn giản về
mặt kỹ thuật, tuy nhiên một số biện pháp này thường có độ trễ về thời gian, tính
khả thi không cao (như biện pháp thu hồi nợ), hoặc là ảnh hưởng đến quan hệ với
khách hàng như biện pháp mua bán nợ... Vì vậy, xu hướng phổ biến của các ngân
hàng hiện đại là sử dụng cả điều chỉnh ngoại bảng trên thị trường tài chính, đồng
thời với các biện pháp nội bảng, để tận dụng các ưu, nhược điểm của mỗi loại bổ
sung cho nhau.
Điều chỉnh ngoại bảng
Điều chỉnh ngoại bảng không can thiệp vào quy mô, cơ cấu của danh mục
cho vay mà chủ yếu làm giảm độ rủi ro tập trung trên danh mục. Những kỹ thuật
hiện đại mà các ngân hàng thương mại sử dụng để điều chỉnh cơ cấu danh mục
bao gồm hoán đổi rủi ro tín dụng, chứng khoán hóa các khoản nợ ... Phần lớn
trong số các công cụ này xuất hiện khá muộn (từ đầu thập niên 80 đối với chứng
khoán hóa nợ; trong những năm 90 đối với hoán đổi rủi ro tín dụng) và phát triển
mạnh từ sau những năm 2000, vì vậy chúng được xem là những công cụ hiện đại
tham gia vào điều chỉnh danh mục, để phân biệt với các công cụ truyền thống như
mua bán nợ (xuất hiện từ cuối thập niên 60). Phần 1.2.4 tiếp sau đây sẽ đi sâu vào
đặc tính của các công cụ này và sự vận dụng chúng trong quản trị danh mục cho
vay của ngân hàng thương mại.
1.2.4. Các công cụ hiện đại điều chỉnh cơ cấu danh mục cho vay
1.2.4.1. Hoán đổi rủi ro tín dụng – Credit Default Swaps- CDS
Hoán đổi rủi ro tín dụng nằm trong nhóm các công cụ phái sinh tín dụng
(Credit Derivatives). Khác với các loại phái sinh hàng hóa, trong các giao dịch
phái sinh tín dụng, chủ thể tham gia chủ yếu là các ngân hàng /tổ chức tài chính,
những người luôn phải đối mặt với rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của
mình vì vậy tác dụng chủ yếu của phái sinh tín dụng là giúp ngân hàng/ tổ chức tài
chính cấu trúc lại danh mục của mình. Với chức năng kinh doanh tín dụng, các
33
ngân hàng thu nhận rủi ro từ nhiều chủ thể đi vay khác nhau, do đó chuyển giao
rủi ro để giảm thiểu sự tập trung rủi ro trên danh mục là mục tiêu hàng đầu của các
ngân hàng khi sử dụng các công cụ phái sinh tín dụng. Rủi ro tín dụng ở đây bao
gồm tất cả những biến cố về việc không thu được nợ từ các khoản cho vay, đầu tư.
Trong số các loại phái sinh tín dụng, công cụ được sử dụng nhiếu nhất
trong quản trị danh mục cho vay là hoán đổi rủi ro tín dụng. Hoán đổi rủi ro tín
dụng có cơ chế hoạt động tương tự như bảo hiểm tín dụng, trong đó một công ty
bán bảo hiểm cam kết sẽ chi trả cho người mua bảo hiểm (ngân hàng/ công ty tài
chính ..) khi xảy ra biến cố rủi ro tín dụng đối với tài sản tham chiếu, với điều kiện
người mua bảo hiểm phải trả phí. Khi ngân hàng mua bảo hiểm cũng có nghĩa là
ngân hàng cần bảo vệ trước rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào liên quan đến tài
sản tham chiếu trên danh mục tài sản của họ (xem hình 1.3 trang 32).
HÌNH 1.3
SƠ ĐỒ HOÁN ĐỔI RỦI RO TÍN DỤNG
Thanh toán phí bảo hiểm
NGÂN HÀNG
MUA
BẢO HIỂM
Bồi thường
thiệt hại
Thanh lý
Hợp đồng
Biến cố xảy ra
NGƯỜI BÁN
BẢO HIỂM
Không xảy
ra biến cố
Nguồn: Tham khảo từ sách Credit Portfolio Management [42]
Khi sử dụng các công cụ hoán đổi rủi ro tín dụng, mặc dù dư nợ của khoản
cho vay được bảo hiểm vẫn tồn tại trên danh mục cho vay của ngân hàng nhưng
rủi ro vỡ nợ của nó đã được một tổ chức là đối tác trong giao dịch hoán đổi đảm
trách. Hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng là một hợp đồng song phương giữa ngân
34
hàng mua bảo hiểm và người bán. Trong hợp đồng có 3 yếu tố cần phải thỏa thuận
gồm có:
Tài sản tham chiếu
Tài sản tham chiếu được xem là đối tượng được bảo hiểm. Đây có thể là khoản
cho vay, hoặc tập hợp các trái phiếu…đang tồn tại trên bảng cân đối tài sản của
ngân hàng. Kỳ hạn của hợp đồng hoán đổi không nhất thiết trùng với kỳ hạn của
tài sản tham chiếu mà có thể ngắn hơn. Đối với ngân hàng mua bảo hiểm, ban đầu
tài sản tham chiếu có thể chỉ là một khoản cho vay đơn lẻ, sau đó mở rộng cho
một nhóm các khoản cho vay (trong phương thức hoán đổi gói rủi ro tín dụng Basket Default Swaps) rồi tiến tới hoán đổi cho cả danh mục cho vay - Portfolio
Default Swaps mà trong đó số lượng tài sản tham chiếu có thể lên tới vài trăm
khoản vay đang tồn tại trên danh mục của ngân hàng.
Biến cố rủi ro tín dụng
Đây là sự kiện xảy ra có liên quan đến khoản vay (tức đối tượng được bảo
hiểm trong hợp đồng). Sự kiện này có thể là phá sản, mất khả năng thanh toán,
ngừng hoạt động, xuống hạng, không có ý muốn trả nợ, tái cấu trúc…của người
vay nợ. Tùy hình thức hoán đổi thỏa thuận, biến cố rủi ro có thể chỉ liên quan đến
một tài sản đầu tiên trong nhóm tài sản tham chiếu, hoặc có thể toàn bộ các tài sản
trên danh mục hoán đổi. Tuy nhiên, hoán đổi rủi ro tín dụng chỉ liên quan đến giá
trị gốc (danh nghĩa) của tài sản tham chiếu, không tính đến lợi tức thu được từ tài
sản đó. Cũng tương tự như hợp đồng bảo hiểm, trong hợp đồng hoán đổi rủi ro tín
dụng phải có những điều khoản loại trừ việc trả tiền, hay nói cách khác là quy
định về những nguyên nhân dẫn đến biến cố rủi ro xảy ra nhưng người bán bảo
hiểm không có trách nhiệm phải chi trả. Ngoài ra cũng có những quy định về điều
khoản giới hạn nghĩa vụ trả tiền của người bán bảo hiểm. Đổi lấy sự cam kết của
35
người bán, ngân hàng mua bảo hiểm sẽ phải thanh toán phí một lần hoặc định kỳ
đều đặn theo sự thỏa thuận giữa hai bên.
Phương thức thanh toán:
Trong hợp đồng thường quy định người bán phải thanh toán cho người mua
phần chênh lệch giữa giá trị danh nghĩa của tài sản tham chiếu (ghi trong hợp
đồng hoán đổi) và giá trị có thể thu hồi của nó khi biến cố rủi ro tín dụng xảy ra.
Giá trị có thể thu hồi của khoản nợ được xác định thông qua một quá trình xử lý
sau biến cố vỡ nợ. Trong trường hợp không xác định được giá trị thu hồi thì có thể
tham khảo từ giá của một tài sản khác tương đương về chất lượng và kỳ hạn.
Do hoạt động theo cơ chế bảo hiểm nên hoán đổi rủi ro tín dụng thực chất là
sự chia sẻ rủi ro giữa các ngân hàng/ tổ chức tài chính tham gia mua bảo hiểm.
Còn ngân hàng hoặc công ty bảo hiểm, tức người bán bảo hiểm hoạt động theo
nguyên tắc “lấy số đông bù cho số ít”, cam kết chi trả dựa trên việc thu phí bảo
hiểm.
Ví dụ sau đây sẽ minh họa cho việc sử dụng hoán đổi rủi ro tín dụng trong
quản trị danh mục cho vay của ngân hàng thương mại. Ngân hàng A có một tập
hợp khoảng 100 khoản cho vay tiêu dùng với giá trị danh nghĩa của mỗi khoản
vay là 100 triệu đồng, thời hạn cho vay đồng nhất là 2 năm. Do e ngại rủi ro vỡ nợ
xảy ra cho danh mục cho vay này sẽ dẫn đến tổn thất lớn, ngân hàng A ký hợp
đồng hoán đổi rủi ro tín dụng với công ty bảo hiểm B. Hợp đồng thỏa thuận như
sau: Định kỳ hàng quý ngân hàng A sẽ phải đóng phí bảo hiểm cho công ty B với
tỷ lệ phí là 3.6%/ năm tính trên giá trị khoản vay được bảo hiểm, trong thời hạn 2
năm. Trường hợp xảy ra biến cố vỡ nợ công ty bảo hiểm B sẽ hoàn trả cho ngân
hàng A một số tiền bằng giá trị danh nghĩa của danh mục cho vay trừ đi giá trị thu
hồi được của các khoản vay. Như vậy mỗi quý ngân hàng A sẽ phải đóng phí là
(100*100 tr)*3.6%*0.25 = 90 triệu đồng. Có hai khả năng xảy ra:
36
Trường hợp thứ nhất không xảy ra biến cố vỡ nợ trong suốt thời gian hợp
đồng, như vậy tổng số tiền mà ngân hàng A bỏ ra là 720 triệu đồng
(=90tr/quý*8 quý) được xem là chi phí “mua sự bảo đảm”
Trường hợp thứ hai xảy ra vỡ nợ. Nếu căn cứ vào giá trị thu hồi của các
khoản vay là 30% thì số tiền mà công ty bảo hiểm B trả cho ngân hàng A là
7,000 triệu đồng (=100tr*100*70%).
Như vậy, với việc sử dụng hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng, ngân hàng A
một mặt vẫn duy trì được quan hệ với khách hàng, vì các khoản vay vẫn được lưu
giữ trên danh mục, ngân hàng vẫn có thể thu lãi từ các khoản vay này, nhưng phải
chấp nhận mất một khoản phí đóng theo định kỳ. Điều này làm cho lợi ích thu
được từ khoản vay giảm đi nếu không xảy ra biến cố vỡ nợ. Tuy nhiên trường hợp
vỡ nợ xảy ra thì số tiền ròng mà ngân hàng A thu được ngoài tiền lãi từ khoản vay
(cho khoảng thời gian chưa xảy ra vỡ nợ) chính là giá trị bảo hiểm được đền bù,
cộng với giá trị thu hồi của các khoản vay, sau khi trừ đi tiền phí đã đóng. Trong
trường hợp vỡ nợ trên đây, giả sử thời điểm xảy ra vỡ nợ là sau một năm (sau lần
đóng phí thứ 4), với số tiền 7,000 triệu đồng nhận được từ công ty bảo hiểm thì
tổng cộng số tiền ròng mà ngân hàng A thu được là 9,640 triệu đồng (=10,000 tr –
90tr*4), không tính tiền lãi thu được từ khoản vay trong năm thứ nhất. Nếu ngân
hàng A không tham gia hoán đổi rủi ro thì khi vỡ nợ xảy ra ngân hàng A sẽ chỉ thu
được số tiền 3,000 triệu đồng, bằng giá trị thu hồi của các khoản vay mà thôi.
Như vậy, thông qua hoán đổi thì khả năng phải hứng chịu tổn thất khi rủi ro
vỡ nợ xảy ra trên danh mục cho vay sẽ giảm đi, mặc dù dư nợ trên danh mục cho
vay vẫn được giữ nguyên. Đó chính là lợi ích ngân hàng thu được khi sử dụng
hoán đổi rủi ro trong quản trị danh mục cho vay.
1.2.4.2. Chứng khoán hoá khoản nợ- Securitizations
37
Chứng khoán hóa là việc phát hành chứng khoán trên cơ sở giá trị của các
khoản phải thu mà một ngân hàng/ tổ chức tài chính đang sở hữu. Các khoản phải
thu này có thể hình thành từ các khoản cho vay có thế chấp tài sản (Collateralized
Loan Obligations-CLOs) hoặc từ các trái phiếu có thế chấp (Collateralized Bond
Obligations - CBOs). Trong trường hợp nghĩa vụ nợ bắt nguồn từ cho vay có thế
chấp, một CLO có thể gồm một loạt các dạng cho vay khác nhau như khoản cho
vay trung dài hạn, tín dụng tuần hoàn, khoản vay có bảo đảm, không có bảo đảm,
đồng tài trợ hoặc là song phương, khoản vay đang hoạt động nhưng cũng có thể là
các khoản nợ vay không hoạt động/ nợ xấu ….
Về cấu trúc, có hai loại chứng khoán hóa căn bản là chứng khoán hóa theo
cấu trúc truyền thống (Traditional Securitizations) và chứng khoán hóa theo cấu
trúc nhân tạo (Synthetic Securitizations). Sự khác nhau căn bản giữa hai loại này
là ở chỗ: chứng khoán hóa theo cấu trúc nhân tạo là sự phát triển ở một mức cao
hơn so với chứng khoán hóa theo cấu trúc truyền thống. Chính vì vậy, chức năng
ý nghĩa của nó không chỉ đơn thuần gói gọn trong việc thay đổi cơ cấu dư nợ,
nhằm giảm thiểu rủi ro tập trung trên danh mục mà nó còn là phương tiện đầu cơ
của các nhà ngân hàng. Cách thức thực hiện chứng khoán hóa theo cấu trúc nhân
tạo có sự kết hợp của chứng khoán hóa truyền thống và hoán đổi rủi ro tín dụng.
Chính vì lợi ích của chứng khoán hóa nhân tạo không liên quan trực tiếp
đến quản trị danh mục cho vay, nên phần dưới đây luận án chỉ tập trung vào
chứng khoán hóa theo cấu trúc truyền thống xét ở khía cạnh ích lợi và cách thức
sử dụng nó trong quản trị danh mục cho vay của ngân hàng.
Chứng khoán hóa theo cấu trúc truyền thống (xem hình 1.4) còn gọi là
chứng khoán hóa dạng tiền mặt. Điểm đặc trưng của nó là quyền sở hữu các khoản
cho vay có thế chấp được chuyển nhượng một cách hợp pháp từ người khởi tạo
giao dịch (ngân hàng thực hiện cho vay) sang cho một tổ chức chuyên môn hóa
(còn gọi là tổ chức mục đích đặc biệt - The Special Purpose Vehicle, viết tắt là
SPV). Sau đó tổ chức này phát hành các chứng khoán dựa trên tập hợp những
38
khoản vay nợ, rồi phân phát cho các nhà đầu tư. Số tiền mà SPV thu được do bán
chứng khoán cho nhà đầu tư được chuyển trả cho ngân hàng cho vay ban đầu/
ngân hàng khởi tạo.
HÌNH 1.4
SƠ ĐỒ MỘT CLO CẤU TRÚC TRUYỀN THỐNG
Chứng
khoán phát
hành
Bán khoản
cho vay
NGƯỜI
ĐI VAY
cho
vay
NH
KHỞI TẠO
SPV
Tiền
mua nợ
Thanh toán khoản vay
Quản lý & thanh
toán
Tiền
bán
CK
NHÀ
ĐẦU TƯ
Thanh toán gốc và lãi CK
Nguồn: Tham khảo từ Credit Risk Measurement [40]
Do các khoản cho vay được chuyển ra khỏi bảng cân đối tài sản của ngân
hàng cho vay ban đầu, nên sẽ làm giải phóng một lượng vốn của ngân hàng khởi
tạo. Điều này cũng cho phép ngân hàng sử dụng nguồn quỹ mới được giải phóng
để tài trợ cho những ngành/ khu vực kinh doanh có lợi nhuận cao, phát triển
những dòng sản phẩm mới nhằm đa dạng hóa danh mục. Hơn thế nữa rủi ro không
hoàn trả của những khoản cho vay sẽ được chuyển sang cho các nhà đầu tư, từ đó
giảm thiểu rủi ro tập trung trên danh mục cho vay của ngân hàng.
Cơ chế sử dụng chứng khoán hóa trong quản trị danh mục cho vay có thể
được diễn giải như sau: giả sử ngân hàng A có một danh mục cho vay với dư nợ
tập trung khá nhiều trong lĩnh vực bất động sản. Tuy nhiên, theo dự báo tình hình
thị trường trong thời gian tới, thì điều này bất lợi cho ngân hàng, vì vậy nhà quản
trị ngân hàng quyết định giảm rủi ro tập trung vào bất động sản bằng cách nhượng
bán một phần dư nợ trong lĩnh vực này. Khoản nhượng bán là 100 khoản cho vay
39
mua nhà ở với thời hạn 5 năm, giá trị danh nghĩa của các khoản vay này là 1,000
triệu đồng/ khoản vay. Tổ chức SPV là người mua lại các khoản nợ này, sau đó tổ
chức SPV phát hành 100,000 chứng khoán đồng hạng, mỗi chứng khoán mệnh giá
1 triệu đồng để bán cho các nhà đầu tư trên thị trường. Số tiền thu được sẽ trả cho
ngân hàng A (gọi là tiền mua nợ). Lúc này ngân hàng A chỉ còn làm dịch vụ quản
lý khoản vay, thu lãi từ các khách hàng, chuyển cho tổ chức SPV, để tổ chức này
thanh toán cho các nhà đầu tư đã mua chứng khoán. Như vậy với ngân hàng A, dư
nợ trên danh mục cho vay giảm đi 100,000 triệu đồng, ngân hàng có thể dùng số
vốn này đầu tư cho vay lĩnh vực khác thích hợp hơn. Trên danh mục, tỷ trọng cho
vay bất động sản cùng với rủi ro tập trung trong lĩnh vực này đã giảm xuống theo
ý đồ tái cấu trúc danh mục của ngân hàng.
Nhìn chung, sử dụng công cụ chứng khoán hóa các khoản nợ có ý nghĩa
khác nhau đối với các loại hình định chế tài chính. Đối với ngân hàng khởi tạo
(ngân hàng cho vay ban đầu), tùy thuộc vào loại hình chứng khoán hóa thực hiện
sẽ đem đến cho ngân hàng một trong những lợi ích như: chuyển rủi ro tín dụng ra
khỏi danh mục, giải phóng lượng vốn từ đó tái cấu trúc lại danh mục, giảm yêu
cầu về vốn pháp lý, gia tăng nguồn quỹ, giảm thấp chi phí và cuối cùng là nâng
cao các hệ số phản ánh năng lực tài chính của ngân hàng. Xét ở góc độ quản trị
danh mục cho vay, chứng khoán hoá là biện pháp tái cấu trúc lại khoản nợ, giảm
rủi ro tập trung trên danh mục cho vay của ngân hàng.
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản trị danh mục cho vay của
NHTM
1.2.5.1. Các nhân tố chủ quan từ phía Ngân hàng thương mại
Nhận thức và quan điểm của ngân hàng về vấn đề quản trị danh mục
cho vay
Đây được xem là yếu tố quan trọng vì nó quyết định ý thức chủ động của các
ngân hàng trong việc sử dụng quản trị danh mục cho vay như là một trong các
40
công cụ để đạt mục tiêu kinh doanh. Điều này không phải ngân hàng nào cũng
nhận thức được, nhất là những ngân hàng hoạt động trong môi trường nội địa, có
tính truyền thống, lâu nay quen với việc quản trị đơn giản theo từng giao dịch cụ
thể. Bên cạnh đó, trong những nền kinh tế có tính cạnh tranh thấp hoặc được bao
cấp bởi Chính phủ thông thường các chủ thể kinh doanh, kể cả các ngân hàng,
không bị đòi hỏi gắt gao trong việc phải đổi mới để tồn tại và phát triển. Tình
trạng đó lâu dần hình thành thói quen bảo thủ khó chấp nhận cái mới. Tuy nhiên,
quản trị danh mục cho vay là một phương thức quản trị hiện đại, thích hợp với nền
kinh tế mở, có tính cạnh tranh cao. Mặt khác áp dụng quản trị danh mục cho vay
là biểu hiện của khả năng tiếp cận các chuẩn mực, thông lệ quốc tế của ngân hàng,
vì vậy nó là xu hướng tất yếu của các ngân hàng đang trên đà hội nhập quốc tế.
Ngoài nhận thức về sự cần thiết phải thực hiện quản trị danh mục cho vay,
thì quan điểm của nhà quản trị cũng là vấn đề quan trọng, sẽ chi phối hành động
của họ. Theo lý thuyết tài chính hiện đại, các nhà quản trị nói chung và nhà quản
trị ngân hàng nói riêng được chia thành hai trường phái có quan điểm trái ngược
nhau (i) Trường phái phòng thủ có các hành động mang tính bị động, thông
thường họ nghiêng về hướng xử lý sau, nhằm giảm thiểu tác động của rủi ro đến
kết quả kinh doanh của ngân hàng; (ii) Trường phái tấn công, luôn có các hành
động đi trước, không chờ đến khi danh mục hình thành và rủi ro xuất hiện mới
hành động. Một trong các biểu hiện của trường phái này là họ sử dụng đa dạng
hóa các loại tài sản cho vay trên danh mục như là một biện pháp chính để ngăn
chặn, giảm thiểu sự xuất hiện của rủi ro. Ngoài ra nhà quản trị theo trường phái
này cũng rất có ý thức chủ động trong việc điều chỉnh cơ cấu danh mục để tìm
kiếm cơ hội gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
Khả năng lập kế hoạch, thiết kế danh mục cho vay
Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động quản trị danh mục
cho vay của ngân hàng. Muốn vậy, việc lập kế hoạch và thiết kế danh mục phải
41
được dựa trên những dự báo chính xác về các điều kiện của nền kinh tế, các diễn
biến của thị trường trong thời gian xây dựng danh mục cho vay và đồng thời xuất
phát từ các điều kiện thực tế của ngân hàng tại thời điểm lập kế hoạch. Nếu ngân
hàng có bộ phận dự báo thông tin kinh tế hoạt động hiệu quả, sẽ đảm bảo cho tính
khả thi của danh mục mà ngân hàng xây dựng. Như đã đề cập trong phần 1.2.3 nội
dung quản trị danh mục cho vay (tiểu mục 1.2.3.1 Hoạch định) việc thiết kế danh
mục đòi hỏi sự linh hoạt uyển chuyển, không cứng nhắc, phù hợp với những thay
đổi có thể xảy ra trong nền kinh tế. Do vậy, có thể có nhiều phương án danh mục
được xây dựng, phù hợp với các kịch bản khác nhau. Điều này sẽ dễ dàng hơn cho
ngân hàng trong quá trình giám sát và điều chỉnh cơ cấu danh mục sau giám sát,
đảm bảo thực hiện mục tiêu kinh doanh đã hoạch định.
Khả năng điều hành quản trị danh mục cho vay
Yếu tố này biểu hiện năng lực của nhà quản trị ngân hàng, trong việc tổ
chức thực hiện và giám sát danh mục cho vay. Bộ máy tổ chức gọn nhẹ nhưng
hiệu quả, quy định cơ chế giám sát chặt chẽ, phù hợp với mô hình tổ chức và năng
lực của nhân viên thực thi, có tác động rất lớn đến hiệu quả của công tác quản trị
danh mục cho vay tại ngân hàng. Bởi lẽ kế hoạch có thể lập sát đúng, tính khả thi
cao nhưng nếu quản trị điều hành không tốt, thì khả năng thất bại vẫn có thể xảy
ra. Những giới hạn an toàn đặt ra có thể không được tuân thủ chặt chẽ, khiến cho
cơ cấu danh mục cho vay thực tế đi chệch với kế hoạch ban đầu, chạy theo thị
trường và kết quả là mục tiêu đặt ra không thực hiện được. Do đó, bên cạnh khả
năng hoạch định, thiết kế danh mục thì năng lực điều hành giám sát có ý nghĩa hết
sức quan trọng trong việc biến danh mục dự định thành hiện thực. Mặt khác, việc
điều chỉnh cơ cấu danh mục có kịp thời, hiệu quả hay không cũng thuộc về khả
năng điều hành giám sát danh mục của nhà quản trị, nó cho thấy sự nhạy bén của
nhà quản trị trong vấn đề nắm bắt những biến đổi của nền kinh tế, chính sách điều
42
hành vĩ mô của Chính phủ, của ngân hàng Nhà nước ... áp dụng vào quá trình điều
hành thực tế tại ngân hàng.
Các điều kiện nội lực của ngân hàng
Trong các yếu tố nội lực, vốn tự có của ngân hàng là yếu tố có ảnh hưởng lớn
nhất đến hoạt động quản trị danh mục cho vay của một ngân hàng thương mại.
Xét ở góc độ kinh doanh, vốn tự có biểu hiện cho khả năng, sức mạnh về tài chính
của ngân hàng, nó có ý nghĩa thực sự quan trọng trong môi trường mang nặng
màu sắc cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại. Trong quản trị ngân hàng
hiện đại, tại hầu hết các quốc gia tiên tiến trên thế giới, thuật ngữ vốn kinh tế Economic Capital được sử dụng khá phổ biến khi đề cập đến khả năng chịu đựng
rủi ro của ngân hàng. Khái niệm cũng như cách xác định vốn kinh tế có những
điểm khác biệt với vốn chủ sở hữu, vốn điều lệ hay vốn pháp lý thường được nói
đến trong hoạt động ngân hàng thương mại (diễn giải trong phụ lục số 01). Như đã
đề cập trong mục 1.2.3.1, vốn kinh tế là con số biểu hiện cho nguồn vốn cần phải
có để trang trải cho các tổn thất không dự tính được trong hoạt động cho vay của
ngân hàng. Giá trị vốn kinh tế có thể tăng hoặc giảm tùy theo mức độ rủi ro trong
hoạt động cho vay của ngân hàng. Với một cơ cấu danh mục cho vay xác định,
ngân hàng sẽ tính được giá trị tổn thất ngoài dự kiến và mức vốn kinh tế tương
xứng để trang trải cho những tổn thất đó. Ngược lại, với mức vốn đã có, ngân
hàng cũng có thể cấu trúc danh mục cho vay sao cho tổng tổn thất của toàn danh
mục phù hợp với khả năng chịu đựng rủi ro của vốn ngân hàng. Trong quản trị nội
bộ, vốn kinh tế còn là cơ sở để phân bổ giới hạn cho từng đơn vị kinh doanh, từng
khu vực, từng dòng sản phẩm, từng nhóm giao dịch tiềm ẩn rủi ro của ngân hàng.
Khi giám sát danh mục cho vay, để nhận dạng các dấu hiệu bất ổn trên danh mục,
nhất thiết phải xem xét các giới hạn an toàn (thường được xác định theo quy mô
vốn tự có) của ngân hàng thương mại.
43
Ngoài vốn tự có, các yếu tố nội lực khác như trình độ của đội ngũ nhân viên
cho vay, hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ/ bộ phận kiểm toán nội bộ tại
ngân hàng, chất lượng của hệ thống thông tin quản lý, mạng lưới chi nhánh hoạt
động …cũng có những ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản trị danh mục. Đội ngũ
nhân viên tín dụng am hiểu nhiều ngành nghề có thể cho phép ngân hàng dấn thân
vào cho vay đa dạng các ngành kinh tế. Mạng lưới chi nhánh ngân hàng phủ khắp
các địa phương, với khả năng kiểm soát rộng cũng có thể thúc đẩy sự đa dạng hóa
về khu vực địa lý trên danh mục cho vay... Đây là những yếu tố có tác động không
nhỏ đến việc xây dựng và thực hiện danh mục cho vay, vì vậy các ngân hàng phải
cân nhắc một cách thận trọng ngay từ khi xây dựng mục tiêu, thiết lập chính sách
cũng như thiết kế danh mục cho vay.
1.2.5.2. Các nhân tố thuộc về môi trường
Môi trường kinh tế trong nước
Ngay từ khi mới ra đời cho đến nay, hoạt động cho vay của ngân hàng luôn
được đánh giá là đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Do vậy,
trong quản trị danh mục cho vay, từ giai đoạn hoạch định mục tiêu, thiết kế danh
mục cho đến khi giám sát thực hiện đều chịu ảnh hưởng rất lớn bởi môi trường
kinh tế trong nước.
Trong khâu hoạch định, thiết kế danh mục, các ngân hàng phải hướng tới
những ngành kinh tế chủ lực, mũi nhọn, những ngành kinh tế được Chính phủ /
chính quyền địa phương ưu tiên tập trung phát triển trong từng thời kỳ nhất định.
Một danh mục cho vay được thiết kế phù hợp với môi trường kinh tế sẽ đảm bảo
hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra và tạo điều kiện để duy trì lợi nhuận một
cách bền vững cho ngân hàng. Trong một quốc gia có môi trường kinh tế đa dạng
phong phú, ngân hàng tại quốc gia đó có thể xây dựng một danh mục cho vay có
tính đa dạng hóa cao, điều này sẽ giúp cho rủi ro danh mục được phân tán và giảm
thiểu. Bởi vì rủi ro có thể xảy ra cho ngành này/ lĩnh vực này mà không xảy ra ở
44
ngành khác/ lĩnh vực khác, cho chủ thể này mà không ở chủ thể khác... Do đó,
một nền kinh tế đa dạng sẽ là thuận lợi cho ngân hàng trong việc thiết kế một danh
mục cho vay tối ưu, hiệu quả cao. Ngược lại, nếu nền kinh tế quốc gia hoặc địa
phương có tính tập trung, chủ yếu dựa vào một vài ngành sản xuất kinh doanh đặc
thù nào đó, như nông nghiệp, xuất khẩu ... thì rất khó cho ngân hàng xây dựng
được một danh mục cho vay có tính đa dạng hóa, mà thông thường sẽ là tập trung,
chuyên môn hóa. Những danh mục như vậy được xem là tiềm ẩn rủi ro rất cao và
sẽ trở thành tổn thất cho ngân hàng nếu diễn biến kinh tế theo chiều hướng không
thuận lợi.
Quá trình thực hiện danh mục cho vay cũng có sự gắn kết chặt chẽ với biến
động của nền kinh tế và điều này đem lại cả thuận lợi cũng như khó khăn cho hoạt
động quản trị danh mục cho vay của ngân hàng. Bởi vì hoạt động cho vay là một
dạng dịch vụ, cần phải thỏa mãn các nhu cầu của thị trường, nên trong điều kiện
nền kinh tế tăng trưởng “nóng” các ngân hàng rất dễ bị cuốn hút theo sự phát triển
của một số ngành kinh tế thời thượng, cơ cấu danh mục cho vay của ngân hàng có
thể đi lệch hướng ban đầu, chỉ tập trung vào một số ít ngành đang phát triển mạnh.
Trong ngắn hạn điều này có thể đem lại lợi nhuận cho ngân hàng tức thời, tuy
nhiên, khi các ngành kinh tế nhạy cảm từ “nóng” trở nên “nguội lạnh” thì rủi ro
tiềm ẩn mới thực sự bộc lộ và hậu quả tổn thất sẽ khôn lường cho ngân hàng.
Chính vì vậy trong quá trình thực hiện danh mục, đòi hỏi các ngân hàng phải nắm
bắt kịp thời những biến động của nền kinh tế, có những quyết sách phù hợp với sự
thay đổi đang diễn ra trong nền kinh tế, đảm bảo lợi nhuận và tổn thất của danh
mục cho vay luôn nằm trong khả năng kiểm soát của ngân hàng.
Vai trò giám sát của cơ quan quản lý ngân hàng
Hoạt động cho vay của ngân hàng luôn luôn và bao giờ cũng phải đặt trong
khuôn khổ luật pháp của một quốc gia nhất định. Một danh mục cho vay khi xây
dựng phải tuân thủ các giới hạn và chịu sự giám sát của ngân hàng Trung Ương,
45
cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Trong quản trị danh
mục cho vay của ngân hàng thương mại, sự giám sát của cơ quan quản lý ngân
hàng vừa có ý nghĩa định hướng cho các ngân hàng tuân theo các chuẩn mực
chung, vừa có tác dụng cảnh báo từ xa. Khi nền kinh tế có những biến đổi, ở góc
độ kinh doanh, các ngân hàng rất dễ chạy theo lợi nhuận trước mắt, không lường
hết hậu quả lâu dài sau này. Sự giám sát cảnh báo của cơ quan quản lý ngân hàng
là hết sức cần thiết, nhằm đảm bảo sự an toàn không chỉ cho từng ngân hàng mà
còn cho cả hệ thống.
Sự phát triển của thị trường tài chính trong nước
Trong các yếu tố khách quan, sự tác động của thị trường tài chính trong
nước có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động quản trị danh mục cho vay của ngân
hàng thương mại. Một thị trường tài chính năng động, sẽ tạo điều kiện hỗ trợ cũng
như kích thích các ngân hàng thương mại tham gia thỏa mãn các nhu cầu trao đổi,
nhằm tái cấu trúc danh mục cho vay, từ đó đạt mục tiêu kinh doanh tốt hơn. Tình
trạng kém phát triển của thị trường tài chính sẽ khiến các ngân hàng trở nên thụ
động, không linh hoạt để thay đổi cấu trúc danh mục, lâu dần trở nên bảo thủ, khó
khăn trong quá trình hội nhập. Thực tế cho thấy, sự phát triển năng động của thị
trường tài chính luôn tác động vào danh mục cho vay của ngân hàng, khiến cho cơ
cấu của nó có thể linh hoạt và uyển chuyển hơn, “động” hơn, thông qua các hoạt
động trao đổi, mua bán trên thị trường.
Xu hướng hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng
Hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng chịu ảnh
hưởng rất mạnh mẽ bởi những tác động của quá trình hội nhập quốc tế. Hầu hết
các ngân hàng thương mại tại các quốc gia đang phát triển đều có các hoạt động
ngân hàng quốc tế. Danh mục cho vay của các ngân hàng không chỉ gói gọn trong
phạm vi một lãnh thổ mà mở rộng ra nhiều quốc gia trên thế giới, vì vậy sự biến
46
động của nền kinh tế thế giới và khu vực có tác động rất mạnh mẽ tới hiệu quả
hoạt động cũng như danh mục cho vay của các ngân hàng. Mặt khác, khi hoạt
động trong môi trường quốc tế, các ngân hàng phải tuân thủ các quy ước, các
chuẩn mực do các tổ chức quốc tế như ủy ban giám sát ngân hàng Basel, quỹ tiền
tệ quốc tế IMF, ngân hàng thế giới WB... Thông thường những quy tắc chuẩn mực
này cũng được ngân hàng Trung Ương các nước chuẩn hóa thành các quy định
riêng của quốc gia mình, buộc các ngân hàng trong nước phải tuân theo.
1.3. QUẢN TRỊ DANH MỤC CHO VAY TRONG NỀN KINH TẾ HIỆN
ĐẠI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA CHO VIỆT NAM
1.3.1. Kinh nghiệm quản trị danh mục cho vay trong nền kinh tế hiện đại
Như đã đề cập trong phần 1.2.1, ngay từ khi hoạt động cho vay ra đời, thì
quản trị cho vay đã được thực hiện. Tuy nhiên cách thức quản trị hoạt động cho
vay của các ngân hàng có những thay đổi theo các giai đoạn phát triển của hệ
thống tài chính thế giới. Trước những năm 50 của thế kỷ 20, ngân hàng chủ yếu
tập trung quản trị các giao dịch cho vay riêng biệt, chưa đề cập đến tổng thể danh
mục. Các phương pháp đã được sử dụng như phương pháp phán quyết, phương
pháp hệ thần kinh nhân tạo, phương pháp xếp hạng, phương pháp điểm số đều là
những phương pháp thực hiện quản trị từng giao dịch. Điều đó cũng có nghĩa là
trong thời kỳ này danh mục cho vay hình thành một cách thụ động, phương pháp
quản trị danh mục chủ động chưa được chú ý đến, tổn thất danh mục chưa có
phương pháp đo lường thích hợp.
1.3.1.1. Xu hướng quản trị danh mục cho vay trước những năm 90
Lý thuyết về quản trị danh mục hiện đại của nhà kinh tế học Harry
Markowitz xuất hiện vào đầu thập niên 50, đã thổi làn gió mới vào hoạt động ngân
hàng. Trong thực hành, các nhà ngân hàng đã từng bước chuyển từ quản trị các
47
giao dịch cho vay một cách truyền thống sang công việc quản trị danh mục dưới
quan điểm của một nhà đầu tư. Một số nội dung quản trị danh mục cho vay bắt
đầu được áp dụng. Cụ thể vào năm 1968 tại Mỹ, lần đầu thực hiện chứng khoán
hoá dựa trên các khoản cho vay có thế chấp, thông qua cơ chế chuyển giao, do tổ
chức Ginie Mae thực hiện, dưới sự bảo lãnh của Hiệp hội thế chấp Quốc gia của
Chính phủ - The Government Mortgage National Association). Tiếp sau đó vào
những năm 80, chứng khoán hóa được sử dụng rộng rãi hơn cho mục đích thay
đổi cơ cấu danh mục cho vay. Bên cạnh biện pháp chứng khoán hoá, các nhà ngân
hàng cũng chú ý nhiều hơn đến việc thiết lập các giới hạn an toàn nhằm hạn chế
rủi ro tập trung trên danh mục. Tại Mỹ có những quy định pháp lý nhằm kiểm soát
loại rủi ro này. Chẳng hạn giới hạn cho vay đối với các ngành nhạy cảm như bất
động sản được quy định cụ thể: dư nợ ngành kinh doanh bất động sản không được
vượt vốn tự có của ngân hàng hoặc là 70% nguồn huy động ký thác của ngân hàng
[46]. Tương tự như vậy, tại Anh, quy định giới hạn cho vay một khách hàng hoặc
một nhóm khách hàng không vượt quá 10% vốn tự có của ngân hàng [44].
Tuy nhiên trong thực tế hiện tượng tập trung cho vay quá nhiều vào một số ít
ngành nhạy cảm vẫn xảy ra dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Chẳng hạn vào
đầu thập niên 80 các ngân hàng miền tây nước Mỹ có dư nợ rất lớn tập trung vào
ngành năng lượng dầu mỏ. Khi giá dầu giảm thấp, một loạt ngân hàng (trong đó
có Continental Illinois Bank – ngân hàng lớn thứ bảy của nước Mỹ) mất khả năng
thanh toán, phải nhận sự cứu trợ của ngân hàng Trung ương Mỹ. Hơn một năm
sau đó tình trạng này lại được tái lập với các ngân hàng miền tây bắc nước Mỹ.
Trường hợp khác như ngân hàng Johnson Matthey Bankers (của Anh) vào năm
1984 có giá trị tổn thất cho vay lớn hơn phân nửa giá trị các khoản vay trên danh
mục. Trước đó vào năm 1983, ngân hàng này đã được cảnh báo về việc cho vay
quá giới hạn cho phép (10% vốn tự có của ngân hàng) tập trung vào các nước
thuộc thế giới thứ ba (nhất là tại Nigeria). Tuy nhiên cảnh báo này không được lưu
ý và hậu quả sau đó là ngân hàng này mất khả năng thanh toán, phải nằm trong
48
dạng kiểm soát đặc biệt, nhận gói cứu trợ từ ngân hàng Anh quốc vào tháng
10/1984.
Như vậy, có thể thấy rằng từ sau khi xuất hiện lý thuyết về quản trị danh mục
hiện đại của Harry Markowitz cho đến trước những năm 90, hoạt động quản trị
danh mục cho vay bắt đầu được chú ý, thông qua việc quy định các giới hạn an
toàn trên danh mục cho vay, bước đầu sử dụng công cụ chứng khoán hóa nhằm tái
cơ cấu, giảm rủi ro trên danh mục cho vay. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những khởi
đầu còn khá đơn sơ, chưa hình thành trào lưu mạnh mẽ và phổ biến như giai đoạn
sau này.
1.3.1.2. Xu hướng quản trị danh mục cho vay sau những năm 90
Trong thập niên 90 hoạt động quản trị danh mục cho vay trở thành trào lưu
mạnh mẽ, do chịu ảnh hưởng bởi các nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất: Những khó khăn trong hoạt động cho vay của các ngân hàng trong
những thập niên gần đây (sự gia tăng các rủi ro phải đối mặt cũng như sự giảm sút
của lợi nhuận thu được) cộng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường các công
cụ tài chính, đã tạo ra những ảnh hưởng lớn, buộc các ngân hàng thương mại phải
thay đổi hoàn toàn cách thức quản trị, thay vì chỉ quan tâm đến từng giao dịch
riêng biệt như trước đây, các ngân hàng tập trung nhìn nhận rủi ro/ lợi ích ở góc
độ toàn danh mục,
Thứ hai: Những yêu cầu ngày càng khắt khe trong các tiêu chuẩn giám sát ngân
hàng quốc tế (của ủy ban Basel) buộc các ngân hàng thương mại phải quan tâm
đến rủi ro nói chung và rủi ro trên danh mục cho vay nói riêng một cách toàn diện
hơn.
Trong bối cảnh đó, hoạt động quản trị danh mục cho vay của các ngân hàng
có những chuyển biến rất đáng kể. Một số điểm nổi bật trong xu hướng quản trị
danh mục cho vay thời kỳ này như sau:
49
Xu hướng coi đa dạng hóa cho vay là phương tiện giảm thiểu rủi ro
tập trung trên danh mục cho vay được phát triển tại nhiều quốc gia.
Vào những năm đầu thập niên 90 tại nhiều quốc gia trên thế giới, xuất hiện
nhiều bài nghiên cứu, các cuộc hội thảo khoa học về tác động của chiến lược tập
trung hoặc đa dạng hóa trên danh mục cho vay đối với hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng thương mại. Đã có nhiều cuộc khảo sát trên bình diện rộng diễn ra tại
các quốc gia như Úc, Đức, Mỹ … liên quan đến vấn đề này.
Tại Đức, xu hướng phát triển đa dạng hóa danh mục cho vay bắt đầu từ các
ngân hàng tiết kiệm, ngân hàng hợp tác, sau đó lan rộng ra các ngân hàng quy mô
nhỏ (ngoại trừ các ngân hàng vùng/địa phương, chi nhánh /đại lý của các ngân
hàng nước ngoài). Những quan điểm mới về quản trị rủi ro tín dụng xuất phát từ
Hiệp ước Basel 2 cộng thêm những vấn đề về chất lượng nợ xấu của các ngân
hàng Đức trong khoảng thời gian này, càng làm cho xu hướng đa dạng hóa trên
danh mục cho vay trở thành trào lưu mạnh mẽ tại đất nước này. Một khảo sát tại
Đức (do một nhóm các nhà nghiên cứu kết hợp với ngân hàng Đức thực hiện vào
năm 2005) công bố số liệu về danh mục cho vay của hệ thống ngân hàng Đức.
Theo đó danh mục cho vay của các ngân hàng được phân biệt thành hai lĩnh vực
lớn là sản xuất và dịch vụ, trong đó sản xuất gồm 15 ngành, dịch vụ gồm 8 ngành.
Tỷ trọng dư nợ của mỗi ngành dao động khác nhau, tuy nhiên cao nhất không
vượt giới hạn 16.5% tổng dư nợ trên danh mục cho vay [51]. Bên cạnh việc sử
dụng các công cụ phái sinh, các ngân hàng tại Đức cũng cho rằng thực hiện đa
dạng hóa danh mục chính là cách thức tốt nhất để quản trị hiệu quả danh mục cho
vay tại ngân hàng.
Tại Úc cũng có tình trạng tương tự như tại Đức: xuất hiện những cuộc tranh
luận khoa học kéo theo sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu cũng như các nhà
quản trị ngân hàng. Trong số các nghiên cứu đó, nổi bật là của nhóm tác giả
Stefania P.S. Rossi, Markus S. Schwaiger, Gerhard Winkler năm 2009[53]. Nhóm
50
này đã sử dụng các mô hình toán để kiểm chứng các giả thuyết liên quan đến mức
độ ảnh hưởng của đa dạng hóa trên danh mục cho vay của ngân hàng đối với rủi
ro, hiệu quả hoạt động và mức độ vốn hóa tại các ngân hàng thương mại Úc. Đối
tượng khảo sát là 96 ngân hàng thương mại lớn nhất nước Úc (xét theo quy mô tài
sản) trong vòng 7 năm từ 1997 - 2003. Kết luận công bố sau nghiên cứu cho thấy
những lợi ích rõ rệt của việc đa dạng hóa danh mục cho vay đối với hiệu quả hoạt
động của ngân hàng. Cụ thể đa dạng hóa (nhất là đa dạng về ngành nghề cho vay)
sẽ làm giảm dự phòng nợ xấu trong tương lai, đồng thời ngân hàng có thể hoạt
động với mức vốn thấp hơn, từ đó giảm chi phí, tiết kiệm nguồn lực, gia tăng hiệu
quả lợi nhuận cho ngân hàng. Theo nghiên cứu này, các ngân hàng Úc nhất trí
rằng quản trị danh mục yếu kém là nguyên nhân chính làm giảm chất lượng danh
mục cho vay. Từ đó các ngân hàng cho rằng cần phải áp dụng biện pháp đa dạng
hoá trong quản trị danh mục, đặc biệt việc tăng cường giám sát theo ủy ban Basel
(thông qua các tiêu chuẩn an toàn cũng như quy trình giám sát) là điều kiện hết
sức cần thiết để quản trị thành công danh mục cho vay tại các ngân hàng.
Các mô hình đo lường rủi ro danh mục từng bước được áp dụng
Các mô hình đo lường/ quản trị rủi ro danh mục đầu tiên xuất hiện trên thế
giới trong thập niên 90, được tiếp tục phát triển và cải tiến khá mạnh từ sau những
năm 2000. Sự phát triển các mô hình hiện đại bắt nguồn từ việc không thỏa mãn
cách tiếp cận của các phương pháp đo lường và quản trị rủi ro truyền thống, cũng
như các quy định về vốn pháp lý của Ngân hàng thanh toán thế giới (BIS) đưa ra
trong hiệp ước Basel 1 (năm 1988). Hạn chế cơ bản của Basel 1 là đã bỏ qua hai
yếu tố: thứ nhất là sự cần thiết phải có khác biệt về yêu cầu vốn dựa theo chất
lượng của đối tác đi vay và thứ hai là ảnh hưởng của việc giảm thiểu rủi ro tập
trung thông qua sự đa dạng hóa (lưu ý là những khiếm khuyết này đã được sửa đổi
trong hiệp ước Basel 2). Một trong những đặc điểm chủ yếu của các mô hình hiện
đại là chúng đề cập đến rủi ro tín dụng ở góc độ tổng thể danh mục chứ không
phải trên phương diện từng giao dịch đơn lẻ. Các mô hình nhấn mạnh đến mối
51
tương quan giữa các khoản cho vay và tầm quan trọng thiết yếu của sự đa dạng
hóa trên danh mục cho vay trong định lượng rủi ro danh mục cho vay.
Có thể điểm qua bốn dạng mô hình căn bản sau:
Mô hình cấu trúc Mô hình cấu trúc còn được gọi là mô hình “biến đổi tài sản”.
Đặc điểm của mô hình này là đi sâu vào tìm hiểu những điều ẩn chứa ở đằng sau
sự vỡ nợ hay nói khác là tìm nguyên nhân làm bùng nổ sự cố vỡ nợ. Nghiên cứu
tương quan tài sản giữa hai công ty và xác xuất vỡ nợ riêng biệt của từng công ty
sẽ cho biết xác xuất mà hai công ty cùng vỡ nợ tại một thời điểm và điều này liên
quan tới biến cố vỡ nợ của danh mục tài sản. Hai sản phẩm đại diện cho mô hình
cấu trúc là mô hình “Quản trị danh mục – Portfolio Manager” của Moody’s –
KMV ra đời năm 1993 và mô hình “Quản trị tín dụng – CreditManager” của Risk
Metrics Group ra đời năm 1997.
Mô hình nhân tố kinh tế Đặc điểm của mô hình nhân tố kinh tế là nhấn mạnh mối
liên hệ giữa biến cố vỡ nợ và tình trạng hoạt động của nền kinh tế. Mô hình chỉ ra
rằng xác xuất vỡ nợ của người vay sẽ lớn hơn khi nền kinh tế thu hẹp và ngược lại
sẽ giảm đi khi nền kinh tế mở rộng. Sản phẩm điển hình của mô hình nhân tố kinh
tế là Credit Porfolio View do McKinsey và công ty giới thiệu vào năm 1998.
Mô hình thống kê bảo hiểm So với các mô hình đo lường rủi ro tín dụng thì đây là
mô hình đơn giản nhất. Khác với mô hình cấu trúc, đi sâu vào tìm hiểu nguyên
nhân của sự vỡ nợ, mô hình bảo hiểm chỉ tập trung vào yếu tố duy nhất là biến cố
vỡ nợ. Các yếu tố của nền kinh tế, giá trị tài sản và những chi tiết đòn bẩy trong
tình hình tài chính công ty (chẳng hạn cấu trúc tài sản) được xem là không cần
thiết và bị bỏ qua. Một đại diện điển hình cho mô hình thống kê bảo hiểm là sản
phẩm Credit Risk Plus do Credit Suisse Fist Boston giới thiệu trong năm 1997.
Mô hình ma trận tín nhiệm Mục tiêu của mô hình ma trận tín nhiệm (còn gọi là
mô hình VaR - Value at Risk) là sử dụng các phương pháp tính toán để đo lường
52
giá trị chịu rủi ro tối thiểu của từng khoản vay cũng như toàn danh mục. Về tính
ứng dụng, so với các mô hình trên, mô hình ma trận tín nhiệm được xem là thích
hợp nhất với ngân hàng, bởi vì nó tập trung chủ yếu cho danh mục cho vay. Sử
dụng mô hình này sẽ trả lời cho câu hỏi “Nếu một năm tới là năm không may mắn
thì ngân hàng sẽ mất bao nhiêu tiền từ danh mục các khoản cho vay của mình”.
Sản phẩm điển hình của mô hình này là Credit Metrict do JP Morgan và các ngân
hàng liên minh phát hành lần đầu vào năm 1997.
Có thể nói việc sử dụng các mô hình đo lường rủi ro danh mục là một bước
tiến mới trong quản trị danh mục cho vay của ngân hàng thương mại, nó giúp các
ngân hàng lượng hóa chính xác hơn mức độ tổn thất rủi ro danh mục so với các
phương pháp trước đây. Điều này cũng khẳng định rõ nét xu hướng chuyển đổi
cách thức quản trị hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại trong giai
đoạn này.
Sử dụng các công cụ tài chính hiện đại vào mục đích quản trị danh mục
cho vay một cách phổ biến
Mặc dù đã xuất hiện từ trước, tuy nhiên phải đến giai đoạn sau những năm
90 việc sử dụng các công cụ điều chỉnh cơ cấu danh mục mới trở thành xu hướng
phổ biến. Với các công cụ này, danh mục cho vay của các ngân hàng trở nên rất
linh hoạt, các khoản cho vay được xem như hàng hóa có thể dễ dàng chuyển
nhượng thông qua hoán đổi rủi ro tín dụng, chứng khoán hóa ... rủi ro tập trung
của danh mục cũng từ đó được giảm thiểu. Mỹ là quốc gia đi đầu trong việc ứng
dụng các công cụ này với mục đích ban đầu là tái cơ cấu danh mục. Kể từ khi
công cụ hoán đổi rủi ro tín dụng kết hợp với chứng khoán hóa ra đời năm 1997,
thị trường công cụ này gần như tăng gấp 2 lần giá trị mỗi năm, hơn 100 tỷ USD
vào năm 2000 và đạt hơn 6.4 nghìn tỷ vào năm 2004, đến 2008 con số này là 62
nghìn tỷ USD [24].
53
Tóm lại có thể thấy rằng, giai đoạn từ sau năm 1990 tại nhiều quốc gia trên
thế giới, quản trị danh mục nói chung và quản trị danh mục cho vay nói riêng
đang dần trở thành một phương thức quản trị hiện đại được áp dụng phổ biến tại
các ngân hàng thương mại. Theo kết quả của cuộc khảo sát về quan điểm và thực
hành quản trị danh mục tín dụng do tổ chức Rutter Associates (Mỹ) phối hợp với
tạp chí Tín dụng (Credit Magazine) tiến hành vào cuối năm 2000 tại 42 ngân
hàng/ tổ chức tài chính trên khắp thế giới: có 95% tổ chức được khảo sát cho biết
chức năng quản trị danh mục không thể thiếu được trong tổ chức của họ. Điều này
cho thấy một sự thay đổi rất căn bản trong nhận thức của các ngân hàng từ xu
hướng quản trị giao dịch truyền thống chuyển sang xu hướng quản trị danh mục
hiện đại. Trong một cuộc khảo sát với mục đích tương tự được tiến hành vào năm
2004 do Rutter phối hợp với Hiệp hội quốc tế của các nhà quản trị danh mục tín
dụng (The International Association of Credit Portfolio Managers – IACPM); hiệp
hội phái sinh và hoán đổi quốc tế (The International Swaps and Derivartives
Association – ISDA) và Hiệp hội quản trị rủi ro (The Risk Management
Association – RMA) thực hiện tại 83 tổ chức tài chính và ngân hàng trên thế giới,
cho biết khoảng 64% các ngân hàng/ tổ chức tài chính thường xuyên sử dụng mô
hình định lượng rủi ro kết hợp với phương pháp chuyên gia trong đo lường và
quản trị danh mục, khoảng 15% ngân hàng /tổ chức tài chính chỉ thuần túy sử
dụng mô hình đo lường, số còn lại vẫn sử dụng phương pháp chuyên gia hoặc cho
điểm trong quản trị giao dịch cho vay. Cũng theo đánh giá của những tổ chức
được khảo sát thì mục tiêu quan trọng nhất của quản trị danh mục cho vay là để
quản trị rủi ro tập trung (các mục tiêu thứ yếu khác là giảm vốn kinh tế, ước tính
rủi ro và giảm yêu cầu về vốn pháp lý) [52].
1.3.2. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
54
Từ nghiên cứu về hoạt động quản trị danh mục cho vay tại ngân hàng các
nước phát triển (giai đoạn trước và sau năm 90), có thể rút ra một số bài học kinh
nghiệm tổng quát cho hệ thống ngân hàng Việt Nam như sau:
Một là không được xem nhẹ vấn đề quản trị danh mục cho vay
Thực hiện quản trị danh mục cho vay cùng với quản trị giao dịch cho vay là
xu hướng phát triển tất yếu của hoạt động quản trị ngân hàng trong nền kinh tế
hiện đại. Lịch sử thế giới đã từng chứng kiến những vụ đổ vỡ ngân hàng từ thập
niên 80 trở lại đây do không tuân thủ những quy định trong hoạt động quản trị
danh mục cho vay. Vào đầu những năm 80, sự kiện đổ vỡ hai ngân hàng lớn của
Mỹ là ngân hàng Penn Square (tháng 6 năm 1982) và ngân hàng Continental
Illinois National - ngân hàng lớn thứ bảy của Mỹ (tháng 4 năm 1984) là bài học
đầu tiên về việc tập trung dư nợ quá nhiều cho một ngành kinh tế hẹp, thiếu đa
dạng hóa, dẫn đến tập trung rủi ro và hậu quả tổn thất phải gánh chịu khi ngành
kinh tế đó suy thoái. Cả hai ngân hàng nói trên đều mắc phải sai lầm tương tự là
đầu tư quá nhiều vào ngành năng lượng (dầu mỏ và ga), với tốc độ quá “nóng”
gấp 8 lần trong vòng 5 năm (từ 1977 đến 1982) [44]. Đồng thời tài sản đảm bảo
cho vay cũng chính là hai loại hàng hóa này. Khi ngành năng lượng bị khủng
hoảng, các khoản nợ trở thành nợ xấu, chiếm tỷ trọng 7.7% tổng dư nợ, giá dầu và
ga xuống thấp hơn 1/3, tài sản đảm bảo không xử lý được. Vì vậy mất khả năng
thanh toán và sụp đổ là hậu quả tất yếu của cả hai ngân hàng. Hơn hai mươi năm
sau (vào năm 2008), sự kiện này lại tiếp tục tái diễn với ngân hàng Lehman
Brothers, ngân hàng lớn thứ tư tại Mỹ. Vào thời điểm trước khi phá sản, số dư nợ
cho vay bất động sản của Lehman Brothers lên tới 52 tỷ USD, xấp xỉ 8.6% tổng
tài sản và tương đương 2.6 lần vốn tự có của ngân hàng (tổng tài sản của ngân
hàng là 600 tỷ USD; vốn tự có là 20 tỷ USD) [16]. Điều này là trái với quy định
dư nợ một ngành không được vượt vốn tự có của ngân hàng trong thời kỳ trước
những năm 90 tại Mỹ. Hậu quả là khi giá bất động sản xuống thấp, khách hàng
55
không có khả năng trả nợ, ngân hàng Lehman Brothers trở thành ngân hàng phá
sản đầu tiên, đạt kỷ lục ngân hàng phá sản lớn nhất nước Mỹ trong giai đoạn này.
Sự sụp đổ của Lehman Brothers cũng để lại bài học đáng suy ngẫm về hiệu quả
của chính sách đa dạng hoá trên danh mục cho vay nói riêng và trong kinh doanh
ngân hàng nói chung. Bởi vì Lethman Brothers là một ngân hàng đầu tư, lĩnh vực
chuyên môn hoá của họ là chứng khoán hoá các khoản cho vay bất động sản. Vì
vậy rất khó cho ngân hàng này thực hiện phân tán rủi ro, tránh tập trung trên danh
mục, khi lĩnh vực chuyên môn hoá của họ là bất động sản thường nhiều bất ổn.
Rõ ràng việc vi phạm các giới hạn phân tán rủi ro trên danh mục cho vay,
sự tập trung quá mức dư nợ vào một số ngành có tính “nhạy cảm” với biến động
của nền kinh tế đã khiến cho các ngân hàng thương mại lãnh hậu quả xấu khó
lường. Một điểm nữa cũng cần lưu ý là việc thực hiện đa dạng hóa các khoản cho
vay theo ngành/ lĩnh vực kinh tế … đã được nhìn nhận là một phương thức giảm
thiểu rủi ro tập trung trên danh mục, nhưng nhiều khi không được chú trọng. Đây
cũng là một nguyên nhân làm nặng nề thêm tổn thất trên danh mục cho vay của
các ngân hàng. Biểu hiện rõ nhất là các ngân hàng Mỹ trong giai đoạn trước
khủng hoảng năm 2008. Khác với hệ thống ngân hàng Đức và ngân hàng Úc, danh
mục cho vay của các ngân hàng Mỹ không có sự đa dạng hóa cao, mà tập trung tỷ
trọng khá lớn vào ngành kinh doanh bất động sản. Số liệu về tỷ trọng dư nợ cho
vay theo ngành tại các ngân hàng Mỹ cho thấy xu hướng cho vay ngành kinh
doanh bất động sản gia tăng đáng kể trong thời gian từ năm 1989 cho đến năm
1996. Nhất là tại nhóm các ngân hàng quy mô nhỏ, tỷ trọng dư nợ cho vay ngành
này đã tăng từ 48.5% (năm 1989) lên 55.8% tổng dư nợ (năm 1996), trong khi tỷ
trọng cho vay thương mại công nghiệp nhìn chung giảm sút [46]. Theo thống kê,
ước tính giá trị của các khoản cho vay kinh doanh bất động sản tại Mỹ tăng nhanh
từ 160 tỉ USD năm 2001 lên tới 540 tỉ USD năm 2004 và đạt 1300 tỷ USD vào
năm 2007, thời điểm nổ ra khủng khoảng năm 2008 [27]. Đây cũng là giai đoạn
phá vỡ những quy định ràng buộc sự an toàn trên danh mục cho vay. Nhất là từ
56
năm 2003, chính sách đẩy mạnh cho vay nhà với những khách hàng dưới tiêu
chuẩn, càng khiến cho nhiều ngân hàng tại Mỹ tập trung cho vay lĩnh vực này với
tỷ trọng cao.
Như vậy, ngoài việc đa dạng hoá các khoản cho vay theo ngành/ lĩnh vực
kinh tế để phân tán, tránh tập trung rủi ro trên danh mục, các ngân hàng cần phải
xây dựng và tuân thủ chặt chẽ các giới hạn an toàn trên danh mục cho vay, đặc
biệt là giới hạn theo ngành/lĩnh vực kinh tế, không chạy theo xu hướng thị trường
đơn thuần. Có như vậy mới tạo ra được những danh mục cho vay có chất lượng
tốt, tính đa dạng cao, rủi ro tập trung phù hợp với khả năng chịu đựng của mỗi
ngân hàng.
Hai là cần phải áp dụng các mô hình đo lường rủi ro trong quản trị danh mục
cho vay
Trước khi có các mô hình đo lường rủi ro, ngân hàng thường sử dụng
phương pháp tính toán tổn thất rời rạc cho từng giao dịch, vì thế tổn thất toàn danh
mục không được tính chính xác Thông qua các mô hình đo lường rủi ro, tổn thất
của toàn danh mục sẽ được tính toán một cách khoa học dựa trên các dữ liệu lịch
sử của mỗi ngân hàng. Mô hình đo lường rủi ro đảm bảo tính sát đúng giá trị tổn
thất kỳ vọng cũng như không kỳ vọng của danh mục cho vay. Ngân hàng sẽ so
sánh để biết được mức tổn thất đó có phù hợp với khả năng chịu đựng của mình
hay không, từ đó có hướng điều chỉnh thích hợp: hoặc là nâng mức vốn tự có để
tăng khả năng chịu đựng rủi ro, hoặc là điều chỉnh cơ cấu danh mục để giảm tổn
thất cho phù hợp. Khi sử dụng mô hình đo lường trong quản trị danh mục, các
ngân hàng cần phải lựa chọn dạng mô hình thích hợp với điều kiện của mình (về
cơ sở kỹ thuật, năng lực quản trị …). Chỉ khi có một cách thức và phương pháp đo
lường rủi ro danh mục hiệu quả, thì mới tạo điều kiện để thực hiện tốt quản trị
danh mục cho vay được.
57
Ba là cần phải có một cơ chế rõ ràng, chặt chẽ về pháp lý khi sử dụng các công
cụ kỹ thuật điều chỉnh cơ cấu danh mục
Các ngân hàng cần phải xác định rõ mục tiêu sử dụng các công cụ này là để
tái cấu trúc danh mục, không sử dụng cho mục đích đầu cơ thu lợi nhuận. Bản
thân các công cụ hoán đổi rủi ro, chứng khoán hóa nếu được sử dụng đúng cách sẽ
có ý nghĩa tốt cho việc điều chỉnh rủi ro tập trung của danh mục cho vay, nhưng
nếu thiếu một cơ chế kiểm soát, thì nó lại có tác dụng “khuếch đại” tổn thất trong
phạm vi rất lớn. Qua tìm hiểu về quá trình sử dụng các công cụ điều chỉnh danh
mục tại ngân hàng các nước cho thấy: Từ mục đích ban đầu là phòng hộ rủi ro và
tái cơ cấu danh mục cho vay, nhiều ngân hàng đã sa đà trong việc sử dụng các
công cụ điều chỉnh danh mục vào mục đích đầu cơ, kiếm lời, dẫn đến hậu quả
nguy hiểm cho toàn bộ nền kinh tế. Theo kết quả của cuộc khảo sát về quan điểm
và thực hành quản trị danh mục tín dụng do tổ chức Rutter Associates (Mỹ) phối
hợp với tạp chí Tín dụng (Credit Magazine) tiến hành vào cuối năm 2000, các
ngân hàng cho biết tỷ lệ cao nhất các khoản cho vay mà họ muốn nắm giữ không
lớn hơn 10% [52], như vậy 90% các khoản cho vay còn lại được chuyển nhượng,
mà mục đích chính là để đầu cơ kiếm lời. Mô hình bảo hiểm thuần túy cho các
khoản nợ hoặc chứng khoán hóa có ký quỹ đầy đủ với mục đích phòng hộ rủi ro
đã được thay thế bởi các mô hình chứng khoán hóa kết hợp với hoán đổi rủi ro tín
dụng. Như đã đề cập ở mục 1.2.4.2, đây là mô hình tiềm ẩn rủi ro rất lớn. Bởi vì
các tổ chức SPV phát hành chứng khoán trong khi họ không thực sự nắm quyền
sở hữu các khoản vay có thế chấp, nói khác đi là “bán khống - short selling”.
Cộng thêm với tác dụng của chứng khoán hóa có tính chất lan rộng toàn cầu, nên
nó trở nên khó kiểm soát. Sự sụp đổ của Lehman Brothers, một trong các ngân
hàng cho vay ban đầu là ngòi nổ kích hoạt cho một cuộc đổ vỡ có tính lan truyền
vào năm 2008 và những năm sau đó.
58
Bốn là cần phải xây dựng thị trường tài chính trong nước với nhiều loại hàng
hóa, công cụ tài chính có khả năng thương mại cao.
Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính với nhiều loại công cụ đa
dạng như: phái sinh tín dụng, mua bán nợ các loại, chứng khoán hóa… với các
mục đích và cách thức khác nhau, sẽ giúp cho các ngân hàng có thể tham gia trao
đổi, mua bán nhằm thay đổi cấu trúc danh mục tài sản, cũng như cấu trúc danh
mục cho vay một cách nhanh chóng thuận lợi. Cũng không thể không nhắc đến
ảnh hưởng tích cực của thị trường tài chính trong việc thúc đẩy tính linh hoạt,
năng động và khả năng thích nghi của các ngân hàng với điều kiện của nền kinh tế
hiện đại.
Năm là vai trò của cơ quan giám sát ngân hàng phải luôn luôn được nhấn
mạnh.
Đây được xem là một trong các tuyến phòng thủ hữu hiệu nhất ở tầm vĩ mô,
đảm bảo phát hiện các dấu hiệu cảnh báo trên danh mục cho vay của các ngân
hàng thương mại, cũng như dấu hiệu bất ổn trên thị trường tài chính, kịp thời có
các biện pháp ngăn chặn diễn biến xấu có thể đưa đến khủng hoảng trên bình diện
rộng. Mặc dù quản trị danh mục cho vay là công việc của từng ngân hàng, tuy
nhiên hậu quả của một cơ chế quản trị yếu kém không phải chỉ giới hạn cho một
ngân hàng, mà có tính lan truyền (do đặc điểm của kinh doanh tiền tệ), vì vậy sự
giám sát cảnh báo của cơ quan giám sát ngân hàng là đặc biệt cần thiết. Bên cạnh
đó, việc hình thành một khung pháp lý chặt chẽ cho hoạt động ngân hàng cũng
như thị trường tài chính cũng rất cần được coi trọng. Theo các chuyên gia nghiên
cứu, thì sở dĩ cuộc khủng hoảng năm 2008 bắt nguồn tại Mỹ nhưng bùng nổ trên
bình diện toàn cầu cũng là vì các cơ quan giám sát đã buông lỏng thị trường các
công cụ chứng khoán hóa và phái sinh tín dụng. Với hệ thống ngân hàng thương
mại có điểm xuất phát thấp về quản trị như Việt Nam thì vai trò của cơ quan giám
sát càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết.
59
Kết luận chương 1
Với ý nghĩa hình thành khung lý thuyết cho toàn bộ luận án, chương 1 đã
tập hợp những lý luận căn bản nhất về danh mục cho vay và quản trị danh mục
cho vay trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Những nội dung đã được giải
quyết trong chương 1 gồm có:
Thứ nhất Khái niệm danh mục cho vay và rủi ro danh mục cho vay của ngân
hàng thương mại được làm rõ thông qua việc mô tả các tiêu thức được sử dụng khi
xây dựng danh mục cho vay cũng như các loại rủi ro trên danh mục cho vay của
một ngân hàng thương mại. Chương 1 phân biệt hai phương pháp quản trị danh
mục chủ động và thụ động. Đồng thời làm rõ nội hàm của phương pháp quản trị
chủ động, hay còn gọi là phương pháp quản trị danh mục hiện đại (do phương
pháp này được áp dụng chủ yếu từ sau những năm 90 của thế kỷ 20)
Thứ hai Các nội dung của phương pháp quản trị danh mục cho vay chủ động
được diễn giải trình tự theo các bước: hoạch định; tổ chức thực hiện, giám sát và
điều chỉnh sau giám sát. Điểm mới đầu tiên trong chương 1 là đề cập đến việc
hoạch định mục tiêu quản trị danh mục cho vay thông qua xác định mức tổn thất
không kỳ vọng phù hợp với khả năng chịu đựng của vốn ngân hàng; Điểm mới
thứ hai là đưa ra các mô hình đo lường rủi ro danh mục cho vay và điểm mới thứ
ba là đề cập đến hai công cụ kỹ thuật điều chỉnh ngoại bảng đối với danh mục cho
vay là hoán đổi rủi ro tín dụng và chứng khoán hóa các khoản nợ. Đây là những
nội dung chính của quản trị danh mục cho vay theo xu hướng hiện đại.
Thứ ba Chương 1 cũng đề cập đến quá trình phát triển hoạt động quản trị danh
mục cho vay, xu hướng chuyển đổi từ cách thức quản trị truyền thống sang quản
trị danh mục hiện đại của các nước trên thế giới như: Đức, Úc, Anh, đặc biệt là
Mỹ - một cường quốc trong thị trường tài chính thế giới. Những nội dung quản trị
danh mục cho vay đã và đang thực hiện tại các nước như đa dạng hóa cho vay
60
theo ngành/ lĩnh vực kinh tế, quy định các giới hạn an toàn để tránh rủi ro tập
trung, ứng dụng các mô hình đo lường rủi ro danh mục, vận dụng các công cụ kỹ
thuật điều chỉnh danh mục … được phân tích dưới góc độ là kinh nghiệm cho hoạt
động của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Từ đó, luận án chỉ ra 5 bài học khái quát
cho hệ thống ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, đó là tầm quan trọng
của quản trị danh mục cho vay, yêu cầu ứng dụng các mô hình đo lường rủi ro
danh mục, hiểu và sử dụng hiệu quả các công cụ tài chính hiện đại vào điều chỉnh
danh mục cho vay, sự cần thiết phải phát triển thị trường tài chính trong nước và
cuối cùng là nhấn mạnh vai trò của cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng trong
nước. Đây là những bài học có ý nghĩa quan trọng cho sự hoàn thiện và phát triển
hoạt động quản trị danh mục cho vay tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.
61
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ DANH MỤC CHO VAY TẠI CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
2.1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH NGÂN
HÀNG VÀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TMCP TRONG GIAI ĐOẠN TỪ
2006 - 2010
2.1.1. Một số nét nổi bật trong hoạt động của ngành ngân hàng giai đoạn 2006
– 2010
Bước vào thế kỷ thứ 21, nền kinh tế Việt Nam đã có một thời gian tương
đối ổn định về mọi mặt với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trong 5 năm (từ
2000 – 2004) khoảng 7.18 %/ năm, trong khi tốc độ lạm phát trong cùng thời kỳ
luôn thấp hơn và dao động ở mức 4%/năm [38]. Tuy nhiên, từ năm 2005 trở đi,
nền kinh tế Việt Nam bước vào một thời kỳ nhiều cam go, không những phải đối
mặt với những diễn biến khó lường của kinh tế thế giới mà còn phải đối phó với
những khó khăn nội tại. Hệ thống ngân hàng được coi là hệ thần kinh của một
quốc gia do độ nhạy cảm của nó đối với “sức khỏe” của nền kinh tế. Những tác
động ảnh hưởng của hoạt động ngân hàng với nền kinh tế theo hai hướng. Nếu
ngân hàng hoạt động tốt, nó sẽ hỗ trợ đắc lực cho sự ổn định và tăng trưởng kinh
tế, ngược lại, nếu hệ thống ngân hàng tài chính không vững mạnh, có thể là nơi
phát động cho sự suy thoái và khủng hoảng kinh tế. Bên cạnh đó, hoạt động ngân
hàng cũng chịu sự chi phối rất mạnh mẽ từ những biến động của nền kinh tế trong
nước.
Có thể điểm qua một số nét nổi bật trong hoạt động của ngành ngân hàng
giai đoạn 2006 – 2010 như sau:
2.1.1.1. Sự phát triển mạnh mẽ trên phương diện gia tăng số lượng ngân hàng
và quy mô tài sản của hệ thống ngân hàng
62
Trong xu thế hội nhập quốc tế, cùng với sự phát triển của hệ thống các tổ
chức tín dụng nói chung, ngành ngân hàng đã có những thay đổi lớn về số lượng
đơn vị hoạt động cũng như quy mô tài sản. Tính đến cuối năm 2010, hệ thống
ngân hàng Việt Nam gồm có 102 ngân hàng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Trong đó có 5 ngân hàng thương mại sở hữu Nhà nước (bao gồm các ngân hàng
thương mại do nhà nước nắm quyền sở hữu toàn bộ hoặc nắm cổ phần chi phối), 1
ngân hàng phát triển, 1 ngân hàng chính sách, 37 ngân hàng TMCP do các tổ chức
cá nhân ngoài nhà nước sở hữu, 48 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng
100% vốn nước ngoài và 5 ngân hàng liên doanh. Tốc độ phát triển số lượng ngân
hàng tính đến năm 2010 là 134.2% so với năm 2006. Không chỉ tăng nhanh về số
lượng ngân hàng, mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch của hệ thống cũng
được mở rộng, trong đó ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn với mạng
lưới lớn nhất gồm 2,300 chi nhánh và phòng giao dịch phủ khắp các địa bàn trên
toàn quốc.
Bên cạnh đó, quy mô phát triển của hệ thống ngân hàng cũng được mở rộng
đáng kể trong giai đoạn 2006 – 2010. Cụ thể tổng tài sản cuối năm 2010 tăng
187%, vốn chủ sở hữu tăng 215% so với năm 2006. Theo thống kê của The
Banker trong năm 2010 ngân hàng Việt Nam đứng thứ hai trong số 10 quốc gia
trên thế giới có tốc độ tăng trưởng tài sản ngành ngân hàng nhanh nhất [8]
2.1.1.2. Tốc độ tăng trưởng tín dụng, huy động vốn và tổng phương tiện thanh
toán luôn duy trì ở mức cao trên 20%, cao hơn so với chỉ tiêu dự kiến của ngân
hàng Nhà nước.
Giai đoạn 2006 đến 2010 nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng với
mức độ cao, bình quân GDP trong khoảng thời gian này là 7.23% (trong đó
khoảng thời gian từ 2006 đến 2007 hàng năm tăng trên 8%, các năm từ 2008 đến
2010, giảm xuống dưới 7%). Đây cũng là giai đoạn tốc độ tăng trưởng hoạt động
tín dụng, tăng trưởng huy động vốn và tổng phương tiện thanh toán của hệ thống
63
ngân hàng thường xuyên ở mức cao trên 20%. Theo tính toán từ số liệu của ngân
hàng Nhà nước: bình quân tăng trưởng tín dụng giai đoạn này là 34.3%. năm, huy
động vốn là 34.63%/năm (đỉnh điểm là năm 2007 với tốc độ tăng trưởng tín dụng
và huy động vốn lần lượt là 53.89% và 47.64%), tăng trưởng tổng phương tiện
thanh toán bình quân 32.46%. Mức tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện
thanh toán của Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực (chẳng hạn
Thái Lan là 7% và 4%, Indonesia là 14.5% và 12.4%) [8]. Nhìn chung tất cả các
con số đạt được đều cao hơn hẳn các chỉ tiêu dự kiến của ngân hàng Nhà nước
trong đề án phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 đã được Chính phủ phê
duyệt [28]. Đây không hẳn là biểu hiện tốt, bởi vì nó tác động không nhỏ đến sự
phát triển bất thường của nền kinh tế trong giai đoạn này.
BẢNG 2.1 MỘT SỐ CHỈ TIÊU HOẠT ĐỘNG NGÀNH NGÂN HÀNG
GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
NĂM
2006
2007
2008
2009
2010
CHỈ TIÊU
Số lượng ngân hàng
76
87
91
85
102
Tổng tài sản (tỷ đồng)
1,414,584 1,768,230 2,223,059 3,032,071 4,060,549
Vốn chủ sở hữu (tỷ đồng)
121,290
157,929
205,635
282,611
382,098
Tăng trưởng tín dụng (%)
25.44
53.89
23.38
39.57
31.19
Tăng trưởng huy động (%)
36.53
47.64
22.84
29.88
36.24
Tăng trưởng tổng PTTT (%)
33.59
46.12
20.31
28.99
33.3
Tỷ lệ nợ xấu (%)
2
2.13
1.99
2.5
Chỉ số ROA (%)
> 1.0
0.97
0.92
Chỉ số ROE (%)
12.7
13.9
10.43
10.28
Hệ số CAR (%)
7.0
9.0
8.6
Nguồn: số liệu của NHNN [32] và tính toán của tác giả
Bên cạnh đó mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng tín dụng
trong giai đoạn này (nhất là từ sau 2007) cho thấy có những dấu hiệu của hiện
tượng “phản chu kỳ - Countercyclical” tức là tăng trưởng tín dụng “nóng” trong
khi nền kinh tế giảm sút. Bình quân tốc độ tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn
này gấp 4.47 lần so với mức tăng trưởng GDP. Liên hệ với các nước trên thế giới
64
và trong khu vực, tỷ lệ này thường dao động trong khoảng từ 1 – 1.3 lần (ví dụ
Trung quốc là 2 lần, ở Indonesia khoảng 3.2 lần – theo trả lời của Thống đốc
Nguyễn Văn Giàu trong kỳ họp Quốc hội vào tháng 11/2009). Kinh nghiệm tại
Việt Nam giai đoạn 2000 – 2004 được xem là ổn định có mức tăng trưởng kinh tế
bình quân 7.18%, lạm phát dao động ở mức dưới 4%, thời gian này, tốc độ tăng
trưởng tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng luôn xoay quanh mức dưới 30%, chỉ
cao hơn tăng trưởng GDP khoảng 3- 3.85 lần. Theo các chuyên gia kinh tế, mức
tăng trưởng tín dụng nếu trong giới hạn từ 2 – 3 lần tốc độ tăng trưởng GDP thì
được xem là không gây bất lợi cho nền kinh tế. Tại Việt Nam đã vượt quá giới hạn
này, vì vậy nền kinh tế xuất hiện tình trạng bong bóng tài sản khi nguồn vốn tín
dụng tăng “nóng” chủ yếu đổ vào các lĩnh vực nhiều rủi ro như bất động sản hoặc
kinh doanh chứng khoán.
ĐỒ THỊ 2.1
TĂNG TRƯỞNG GDP, TỐC ĐỘ LẠM PHÁT VÀ TĂNG TÍN DỤNG
60.0%
Toc do tang
50.0%
40.0%
GDP
30.0%
CPI
TD
20.0%
10.0%
0.0%
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Nam
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của ngân hàng NN [32] Tổng cục thống kê [39]
65
Trong hoạt động của hệ thống ngân hàng, mặc dù tính bình quân mức tăng
trưởng vốn huy động gần tương đương với mức tăng trưởng tín dụng (34.63% so
với 34.3%), nhưng có những thời điểm trong các năm 2007, 2008 và 2009 huy
động vốn ở mức thấp hơn so với tín dụng, khiến cho hệ thống ngân hàng luôn ở
trong tình trạng thiếu thanh khoản, nhất là các ngân hàng TMCP nhỏ phải “chạy
đua” lãi suất nhằm huy động vốn. Sự phát triển nhanh và “nóng” của các ngân
hàng thương mại, tiềm ẩn nhiều rủi ro xét trên góc độ toàn hệ thống và toàn bộ
nền kinh tế, buộc Chính phủ và ngân hàng Nhà nước phải có những biện pháp can
thiệp mạnh mẽ ở tầm vĩ mô. Điểm đáng lưu ý trong thời kỳ này là ngân hàng Nhà
nước đã phải áp dụng đồng thời cả biện pháp trực tiếp (thông qua các mệnh lệnh
hành chính) và gián tiếp (thông qua kinh tế) để tác động vào thị trường tài chính
tiền tệ nhằm đạt được mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định lãi suất và tỷ giá.
2.1.1.3. Phát triển mạnh các dịch vụ ngân hàng sử dụng công nghệ hiện đại, đa
dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, tuy nhiên cơ cấu thu nhập vẫn lệ
thuộc chủ yếu vào lãi tín dụng.
Trong khoảng thời gian từ sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại
thế giới (WTO) vào 7/11/2006, cùng với những thay đổi trong nền kinh tế, hệ
thống ngân hàng Việt Nam đã có những chuyển biến rất mạnh theo xu hướng hội
nhập quốc tế. Những hoạt động mang lại thu nhập phi lãi của các ngân hàng như
dịch vụ thẻ, dịch vụ thanh toán chuyển tiền, kinh doanh ngoại hối, các dịch vụ
ngân hàng bán lẻ… đều phát triển mạnh mẽ so với thời gian trước đó. Xu hướng
chung của tất cả các ngân hàng thương mại là giảm dần tỷ trọng tín dụng trong
tổng tài sản, cơ cấu thu nhập chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng thu nhập phi
lãi. Số lượng máy ATM và thẻ tăng lên nhanh chóng. Theo số liệu của hội thẻ
ngân hàng Việt Nam, tính đến năm 2010 trong toàn hệ thống đã đạt hơn 11,000
máy ATM, 52,000 máy POS, có 49 tổ chức phát hành trên 230 thương hiệu thẻ
khác nhau với số lượng đạt 30.7 triệu thẻ, doanh số sử dụng thẻ trên 600,000 tỷ
66
VND. Chiếm thị phần lớn nhất trong thị trường thẻ là các ngân hàng thương mại
Nhà nước do có thế mạnh về vốn, công nghệ và mạng lưới.
Sự phát triển các sản phẩm dịch vụ ngoài tín dụng đã tác động vào cơ cấu thu
nhập của nhiều ngân hàng, làm cho tỷ trọng thu nhập từ lãi tín dụng giảm dần, thu
nhập phi lãi gia tăng tại các ngân hàng thương mại có quy mô lớn. Theo số liệu tác
giả tính toán từ báo cáo thường niên của các ngân hàng thương mại năm 2010, tỷ
trọng thu nhập lãi bình quân của 4 ngân hàng thương mại Nhà nước chiếm 77.1%
tổng thu nhập, của 5 ngân hàng TMCP hàng đầu khoảng 75.4% tổng thu nhập,
nhìn chung tỷ trọng thu lãi giảm đi so với các năm trước đó. Riêng các ngân hàng
TMCP quy mô vừa và nhỏ thì tỷ trọng lãi tín dụng dao động gần mức 90% tổng
thu nhập (chẳng hạn Phương Đông 89.5%; VP Bank 82.3% ... cuối năm 2010 –
xem phụ lục số 05). Điều này cho thấy sự lệ thuộc vào hoạt động tín dụng của hầu
hết các ngân hàng thương mại Việt Nam, vì vậy việc phải đối mặt thường xuyên
với các loại rủi ro liên quan như rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng là vấn đề tất yếu,
luôn có tính thời sự. Xu hướng giảm tỷ phần tín dụng, nhằm hạn chế những rủi ro
liên quan sẽ là hướng phát triển của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong
giai đoạn tới.
2.1.1.4. Hiệu quả kinh doanh của hệ thống ngân hàng nhìn chung có xu hướng
giảm sút qua các năm.
Hiệu quả kinh doanh của hệ thống thể hiện qua các con số thuộc các chỉ
tiêu số 7 ; 8 ; 9 và 10 (thứ tự trên bảng 2.1 trang 63). Theo số liệu báo cáo của
ngân hàng Nhà nước, năm 2010 chỉ số ROA (tỷ lệ lợi nhuận ròng sau thuế so với
tổng tài sản) của toàn ngành là 0.92%, chỉ số ROE (tỷ lệ lợi nhuận ròng sau thuế
so với vốn chủ sở hữu) là 10.28%. Nếu so sánh với 5 ngân hàng thuộc Top 5 hàng
đầu thế giới [53] có hệ số ROA dao động thấp nhất là 0.06% (Bank of America)
và cao nhất là 1.6% (Industrial & Commercial Bank of China) trong năm 2010
mới thấy các chỉ số này của Việt Nam là chấp nhận được, trong bối cảnh kinh tế
67
toàn cầu còn khó khăn. Tuy nhiên hệ số ROA và ROE của các ngân hàng Việt
Nam có xu hướng giảm dần so với các năm trước và mức đạt được trong năm
2010 được xem là thấp nhất trong 5 năm trở lại đây. Đây là biểu hiện không tốt,
cho thấy sự thiếu ổn định trong kết quả kinh doanh của ngành thời gian gần đây.
Năm 2010, hệ số CAR (tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu) bình quân chung là
8.6%, cao hơn mức quy định của ủy ban Basel (8%), nhưng thấp hơn mức quy
định của ngân hàng Nhà nước Việt Nam (tối thiểu 9% theo thông tư 13/2008/TTNHNN ban hành 5/12/2008 có hiệu lực từ 1/10/2010). Trong khi nhiều ngân hàng
thương mại nhỏ đều cao hơn mức quy định 9%, thì một số ngân hàng quy mô lớn
lại không đạt (ngân hàng Nông nghiệp & phát triển nông thôn 6.1%; Ngân hàng
Công thương 8.02%; Ngân hàng Hàng Hải 8.1%). Mặc dù xét chung hệ số CAR
của các ngân hàng Việt Nam cao hơn quy định quốc tế, nhưng nếu so với các
nước châu Á- Thái Bình dương [15] có hệ số CAR bình quân là 13.1%, các nước
Đông Á là 12.3% mới thấy mức đạt được của các ngân hàng Việt Nam còn khá
khiêm tốn. Ngoài ra cũng rất khó đánh giá được thực chất hệ số này tại Việt Nam,
do hiện tại các ngân hàng trong nước chưa tính đủ các loại rủi ro theo quy định
của ủy ban Basel (mới chỉ có rủi ro tín dụng, còn thiếu rủi ro thị trường và rủi ro
hoạt động).
Về chỉ tiêu nợ xấu tính đến cuối năm 2010, con số ước tính chiếm 2.5%
tổng dư nợ toàn ngành (báo cáo thường niên của ngân hàng Nhà nước). Tuy nhiên
ngày 15/06/2011 tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế Fitch Rating lại công bố nợ
xấu cuối năm 2010 của ngân hàng Việt Nam lên tới 13%, gấp trên 5 lần con số
của ngân hàng Nhà nước. Sự chênh lệch này có thể do trong thực tế cuối năm
2010 nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam còn phân loại nợ theo định lượng
(điều 6 quy chế phân loại nợ theo quyết định 493), chỉ một số ít ngân hàng khác
phân loại theo định tính (điều 7 quy chế 493) nên kết quả đánh giá có thể lệch
nhau, thiếu chính xác. Hơn nữa do có sự khác biệt giữa chuẩn mực kế toán của
68
Việt Nam (VAS) và chuẩn mực kế toán quốc tế (IFRS), nên các con số nợ xấu
công bố trên báo cáo tài chính của các ngân hàng Việt Nam có thể có sự khác biệt
với cách nhìn nhận của quốc tế. Mặc dù con số chính xác về nợ xấu có thể không
biết được, nhưng nếu tính toán từ số liệu tổng quát trên bảng 2.1 sẽ thấy tốc độ
tăng nợ xấu (trong năm 2010) nhanh hơn tốc độ tăng của tổng dư nợ tín dụng
trong cùng năm. Điều này biểu hiện hiệu quả kinh doanh của hệ thống ngân hàng
Việt Nam có chiều hướng giảm sút trong năm 2010.
Nhìn chung, những chỉ số phản ánh khả năng sinh lời cho thấy sự nỗ lực
của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế nhiều khó khăn do
những ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và kinh tế thế giới từ sau năm 2008.
Tuy nhiên xu hướng giảm sút trên một số chỉ tiêu tài chính báo hiệu những khó
khăn thách thức cho hệ thống ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn sắp tới.
2.1.1.5. Quy mô vốn của các ngân hàng thương mại trong nước còn nhỏ bé,
ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh trong môi trường hội nhập quốc tế.
Sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào tháng
11/2006 và cam kết chính thức cho phép các ngân hàng nước ngoài được thành
lập và hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam từ 1/4/2007 đã tạo ra một động lực lớn
cho các ngân hàng thương mại trong nước bước vào cuộc cải tổ mạnh mẽ. Đầu
tiên là xu hướng tăng tiềm lực tài chính để nâng cao khả năng cạnh tranh của các
ngân hàng thương mại trong nước. Theo lộ trình tăng vốn của chính phủ (Nghị
định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006) quy định năm 2010 các ngân hàng
thương mại cổ phần đô thị phải đạt mức vốn tự có 3,000 tỷ đồng. Đứng trước yêu
cầu này, các ngân hàng thương mại đã ráo riết thực hiện bằng nhiều biện pháp
như: phát hành cổ phiếu tăng vốn, sáp nhập các ngân hàng nhỏ thành ngân hàng
có vốn mạnh hơn, tìm các đối tác chiến lược trong và ngoài nước để hợp tác đầu
tư và hỗ trợ phát triển. Tuy nhiên, tính đến thời điểm cuối năm 2010, trong hệ
thống các ngân hàng thương mại nội địa mới chỉ có 11/42 ngân hàng thương mại
69
có vốn điều lệ trên 5 000 tỷ đồng (bao gồm 4 ngân hàng thương mại Nhà nước và
7 ngân hàng TMCP), chiếm tỷ lệ 26.1%, trong khi đó có tới 10/42 ngân hàng
TMCP (tỷ lệ 23.8%) chưa đạt mức vốn điều lệ 3 000 tỷ đồng theo quy định của
ngân hàng Nhà nước vào cuối năm 2010. Có thể nói mức vốn của các ngân hàng
Việt Nam hiện còn rất khiêm tốn nếu so với các ngân hàng khác trên thế giới hoặc
trong khu vực và điều này sẽ ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các ngân
hàng trong quá trình hội nhập.
Tóm lại, có thể đánh giá sơ bộ, trong khoảng thời gian từ 2006 đến 2010,
hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có những chuyển biến rất mạnh theo xu hướng
hội nhập vào kinh tế quốc tế. Gắn liền với thăng trầm của nền kinh tế trong giai
đoạn này, hoạt động ngân hàng đã góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, sự tăng
trưởng tín dụng luôn gắn với sự gia tăng GDP của nền kinh tế. Bên cạnh đó,
những bất cập trong hoạt động ngân hàng cũng chính là những tác nhân ảnh
hưởng không tốt tới sự ổn định của nền kinh tế trong thời gian này.
2.1.2. Tổng quan về hoạt động của hệ thống ngân hàng TMCP giai đoạn từ
2006 – 2010
Tính đến cuối năm 2010, hệ thống ngân hàng TMCP Việt Nam gồm có 37
ngân hàng, với sự phân bổ tập trung ở Hà nội (12 ngân hàng) và thành phố Hồ Chí
Minh (16 ngân hàng). Số còn lại gồm 9 ngân hàng rải rác tại các tỉnh thành phố
khác như Hải dương, Vinh, Long An, Đồng Nai, Cần thơ, An giang, Kiên giang,
Sóc trăng và Hậu giang. Căn cứ vào độ lớn của vốn điều lệ tại thời điểm cuối năm
2010, có thể phân biệt hệ thống ngân hàng TMCP Việt Nam thành 4 nhóm như
sau (xem phụ lục số 03)
Nhóm ngân hàng TMCP quy mô lớn có số vốn điều lệ ở mức trên 5,000 ngàn tỷ
đồng gồm có 7 ngân hàng.
70
Nhóm ngân hàng TMCP quy mô trung bình có mức vốn điều lệ từ 4,000 tỷ
đồng đến dưới 5,000 tỷ đồng, gồm có 5 ngân hàng.
Nhóm ngân hàng có quy mô nhỏ có mức vốn điều lệ đạt quy định 3,000 tỷ
nhưng dưới 4,000 tỷ đồng. Đây là nhóm ngân hàng đông đảo nhất gồm 15 ngân
hàng.
Nhóm ngân hàng quy mô cực nhỏ (có mức vốn thấp hơn quy định) đến thời
điểm cuối 2010 có 10 ngân hàng chưa đạt mức 3,000 tỷ đồng. Hầu hết các ngân
hàng này có mức vốn dao động trong khoảng trên dưới 2,000 tỷ đồng.
Giai đoạn 2006 – 2010 đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của các ngân hàng
TMCP thể hiện trên nhiều phương diện: năng lực tài chính, năng lực hoạt động,
công nghệ, nguồn nhân lực …trong tương quan so sánh với các khối ngân hàng
khác trong toàn hệ thống. Để hiểu rõ hơn về tình hình chung về hoạt động của hệ
thống ngân hàng TMCP Việt Nam, phần dưới đây sẽ lần lượt đi vào phân tích
những nét chính trong hoạt động của hệ thống NHTMCP giai đoạn 2006 – 2010.
2.1.2.1. Về tăng trưởng quy mô tài sản, vốn điều lệ và lợi nhuận
Giai đoạn 2006 đến 2010 đánh dấu sự tăng trưởng mạnh mẽ về quy mô tài
tài sản, quy mô vốn của các ngân hàng TMCP Việt Nam. Đồ thị 2.2 cho thấy
trong năm 2006 tốc độ tăng vốn điều lệ cao hơn so với tăng lợi nhuận và tăng tài
sản. Đây là thời kỳ các ngân hàng TMCP tận dụng được điều kiện thuận lợi của
thị trường phát hành một số lượng lớn cổ phiếu để tăng vốn. Năm 2007 được đà
thuận lợi do có lượng vốn lớn đưa vào kinh doanh, cộng thêm các yếu tố thuận lợi
khác trong nền kinh tế, nên tài sản của toàn hệ thống có tốc độ tăng mạnh, bên
cạnh đó tốc độ tăng lợi nhuận sau thuế cũng cao hơn tốc độ tăng tài sản và vốn
điều lệ. Đây là biểu hiện tốt vì chất lượng kinh doanh sẽ gia tăng thông qua các
chỉ số sinh lời của ngân hàng.
71
Nhìn chung có thể nhận thấy giai đoạn 2006-2007 được xem là thời kỳ
“hoàng kim” của hệ thống ngân hàng TMCP Việt Nam xét trên cả hai phương
diện: số lượng (tăng quy mô tổng tài sản, quy mô vốn điều lệ và lợi nhuận) cũng
như chất lượng (tăng các chỉ số về khả năng sinh lời). Nhưng qua năm 2008 chất
lượng kinh doanh của hệ thống ngân hàng TMCP giảm hẳn. Biểu hiện lợi nhuận
sau thuế tăng trưởng thấp hơn tăng tài sản và tăng vốn điều lệ.
ĐỒ THỊ 2.2
TỐC ĐỘ PHÁT TRIỂN QUY MÔ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TMCP
400
350
300
%
250
Tổng tài sản
Vốn điều lệ
Lợi nhuận sau thuế
200
150
100
50
0
2006
2007
2008
2009
2010
Năm
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo thường niên của các ngân hàng TMCP [36]
Thực tế cho thấy năm 2008 là năm khó khăn cho kinh doanh ngân hàng nói
chung và hệ thống ngân hàng TMCP nói riêng. Năm 2009 và năm 2010 có xu
hướng phục hồi trở lại, tiếp tục gia tăng về số lượng tài sản, vốn điều lệ cũng như
lợi nhuận sau thuế, nhưng vẫn không bằng với mức của hai năm 2006-2007.
Bảng 2.2 dưới đây đi sâu vào phân tích tốc độ tăng trưởng tài sản, vốn điều
lệ và lợi nhuận sau thuế của các nhóm ngân hàng quy mô lớn, trung bình, nhỏ và
cực nhỏ. Số liệu cho thấy nhóm ngân hàng TMCP quy mô lớn có tốc độ tăng
72
trưởng quy mô tài sản và vốn điều lệ khá ấn tượng. Mỗi năm tốc độ tăng tài sản
khoảng trên dưới 40%, vốn điều lệ tăng mạnh trong khoảng 2008 trở về trước, sau
đó các năm 2009 đến 2010 tốc độ tăng chậm lại khoảng trên 30% mỗi năm. Tính
chung trong vòng 5 năm từ 2006 đến 2010, tổng tài sản của nhóm ngân hàng quy
mô lớn tăng gấp 7.6 lần, vốn điều lệ tăng gấp 7.4 lần. Quy mô vốn phát triển tạo
điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng trên thị trường tài chính
trong nước, từng bước vươn ra khu vực và thế giới. Một số các ngân hàng trong
nhóm này đã phát triển thành các tập đoàn tài chính, điển hình như các ngân hàng
TMCP Á châu (ACB), ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín (SACOMBANK),
ngân hàng Quân đội (MB)... đã thành lập thêm các công ty con, như công ty địa
ốc, công ty cho thuê tài chính, công ty khai thác tài sản và mua bán nợ, công ty
chứng khoán, công ty vàng bạc đá quý, công ty kiều hối …trở thành tập đoàn kinh
tế trong năm 2007 và 2008.
BẢNG 2.2
TỐC ĐỘ PHÁT TRIỂN QUY MÔ TÀI SẢN, VỐN & LỢI NHUẬN
- Chi tiết theo nhóm ngân hàng TMCP, giai đoạn 2006 - 2010
Đơn vị:%
NĂM 2006/2005 2007/2006 2008/2007 2009/2008
CHỈ TIÊU
1. Tổng tài sản
nhóm NH lớn
nhóm NH trung bình
nhóm NH nhỏ
nhóm NH cực nhỏ
Bình quân
2. Vốn điều lệ
nhóm NH lớn
nhóm NH trung bình
nhóm NH nhỏ
nhóm NH cực nhỏ
Bình quân
3. Lợi nhuận sau thuế
2010/2009
168.1
206.2
161.8
509.2
261.3
220.7
286.7
347.8
326.8
295.5
134.7
109.1
145.0
115.6
126.1
154.0
150.4
228.3
196.1
182.2
165.4
157.0
236.0
134.5
173.2
186.3
198.3
629.1
433.3
361.8
280.1
236.0
287.6
124.8
232.1
162.1
122.8
122.0
243.4
162.6
136.6
126.7
154.5
113.8
132.9
134.5
142.6
200.6
161.1
159.7
73
nhóm NH lớn
nhóm NH trung bình
nhóm NH nhỏ
nhóm NH cực nhỏ
Bình quân
382.7
201.3
158.4
547.4
322.4
254.4
207.5
563.8
205.8
307.9
144.6
98.0
95.6
104.4
110.7
158.2
255.7
167.4
283.5
216.2
141.1
139.3
224.9
177.7
170.8
Nguồn: Tính toán từ số liệu trên báo cáo thường niên của ngân hàng TMCP [36]
Nhóm ngân hàng TMCP quy mô trung bình trong vòng 5 năm qua tốc độ
tăng quy mô thấp hơn so với nhóm quy mô lớn. Tổng tài sản năm 2010 của nhóm
này tăng khoảng 6.8 lần, trong khi vốn điều lệ tăng khoảng 5 lần so với năm 2006.
Nhóm ngân hàng TMCP quy mô nhỏ có tốc độ phát triển mạnh nhất cả về
tài sản vốn điều lệ cũng như mạng lưới giao dịch. Hơn nửa trong số này là những
ngân hàng cổ phần nông thôn mới được chuyển đổi thành các ngân hàng TMCP
đô thị trong khoảng thời gian 2006 – 2008. Trong khoảng thời gian không dài, các
ngân hàng này đã có sự phát triển vượt bậc nhằm đạt các điều kiện do ngân hàng
Nhà nước quy định. Tuy nhiên sự phát triển quá nhanh với một xuất phát điểm
thấp, dẫn đến sự thiếu ổn định và hiệu quả hoạt động không cao của nhóm ngân
hàng này. Số liệu trên bảng 2.2 cho thấy tốc độ tăng trưởng tài sản và vốn rất lớn,
nhưng tăng trưởng lợi nhuận không tương xứng.
Nhóm ngân hàng quy mô cực nhỏ: trong số này hơn 2/3 là các ngân hàng
đã hình thành và phát triển từ lâu (chẳng hạn Sài gòn công thương ra đời từ năm
1990), nên đã có nhiều năm cạnh tranh trên thị trường tài chính. Tuy nhiên cơ sở
vật chất có giới hạn cùng với quan điểm khá bảo thủ trong quản trị dẫn đến hoạt
động thiếu sự đột phá. Mặc dù quy mô tài sản và vốn có gia tăng nhưng tính đến
cuối năm 2010 nhóm này vẫn còn có 10 ngân hàng chưa đạt mức vốn quy định
theo nghị định 141 của Chính phủ.
2.1.2.2 Về năng lực tài chính
Số liệu tính toán trên bảng 2.3 cho thấy tốc độ tăng trưởng không ổn định
của chỉ số khả năng sinh lời tại các ngân hàng TMCP qua các năm. So với năm
2006, ROA và ROE bình quân của cả hệ thống ngân hàng TMCP có xu hướng
74
giảm đi. Điều này có thể lý giải vì những khó khăn trong nền kinh tế cũng như
trong hoạt động ngân hàng, nhất là thời kỳ năm 2008. Ảnh hưởng nặng nề nhất
chính là những ngân hàng quy mô trung bình và nhỏ. Riêng nhóm ngân hàng
TMCP quy mô lớn, hai chỉ số này không ảnh hưởng mạnh lắm do tận dụng được
thế mạnh cung cấp các dịch vụ tài chính và thanh toán, nên nguồn thu lợi nhuận
không giảm nhiều. Nhìn chung chỉ tiêu ROA và ROE của hệ thống ngân hàng
TMCP cao hơn trong tương quan so sánh với hệ thống ngân hàng TMNN và toàn
ngành ngân hàng.
BẢNG 2.3
CÁC CHỈ SỐ PHẢN ÁNH NĂNG LỰC TÀI CHÍNH
- Chi tiết theo nhóm ngân hàng TMCP, giai đoạn 2006 - 2010
CHỈ TIÊU
NĂM
1. ROA b/q
* Nhóm ngân hàng lớn
* Nhóm ngân hàng trung bình
* Nhóm ngân hàng nhỏ và cực nhỏ
Tính chung toàn hệ thống
2. ROE b/q
* Nhóm ngân hàng lớn
* Nhóm ngân hàng trung bình
* Nhóm ngân hàng nhỏ và cực nhỏ
Tính chung toàn hệ thống
3. Hệ số CAR b/q của nhóm NH lớn
2006
2007
2008
Đơn vị : %
2009
2010
1.45
1.41
1.67
1.51
1.69
1.21
1.46
1.45
1.69
0.9
1.33
1.31
1.70
1.04
1.34
1.36
1.51
0.96
1.53
1.33
18.15
14.61
9.04
13.90
15.15
14.94
12.38
11.9
13.07
16.64
15.31
9.93
6.27
10.50
21.09
15.62
11.83
10.24
12.60
15.96
17.36
11.29
11.35
13.30
12.72
Nguồn: Tính toán từ số liệu trên báo cáo thường niên của ngân hàng TMCP [36]
Về hệ số CAR, theo ước tính, bình quân hệ thống ngân hàng TMCP cuối
năm 2010 đạt 14.3%, cao hơn so với mức đạt được của toàn ngành ngân hàng là
8.6%. Phân tích kỹ hơn trong hệ thống ngân hàng TMCP thì thấy nhóm ngân hàng
TMCP quy mô lớn bình quân chỉ đạt 12.27%, thấp hơn mức chung của hệ thống
ngân hàng TMCP. Điều này có thể lý giải vì năm 2010 do những thay đổi trong lãi
75
suất cho vay nên nhìn chung quy mô tín dụng của các ngân hàng trung bình và
nhỏ bị thu hẹp, vì vậy giá trị tài sản có quy đổi theo trọng số rủi ro có xu hướng
giảm đi trong tương quan với vốn tự có, dẫn đến hệ số CAR của các ngân hàng
trung bình và nhỏ cao hơn so với các ngân hàng quy mô lớn. Nếu xét chung thì hệ
số CAR của các ngân hàng TMCP vẫn cao hơn so với mức quy định của ngân
hàng Nhà nước trong năm 2010 là 9%.
2.1.2.3. Về tăng trưởng thị phần hoạt động
Giai đoạn 2006 – 2010 thể hiện sự bứt phá rất mạnh mẽ của hệ thống ngân
hàng TMCP trong việc chiếm lĩnh thị trường về hoạt động tín dụng, huy động
vốn. Nếu như giai đoạn 2000 – 2005 hệ thống ngân hàng TMNN chiếm tỷ trọng
lớn hơn trong thị trường tín dụng và tiền gửi, thì sang giai đoạn này, đã phải
nhường chỗ cho hệ thống ngân hàng TMCP (xem bảng 2.4)
BẢNG 2.4:
THỊ PHẦN HOẠT ĐỘNG CỦA NHTMCP TỪ 2006 – 2010
Số TT
1
2
3
4
CHỈ TIÊU
Số lượng ngân hàng
Tổng tài sản
Ngân hàng TMNN
Ngân hàng TMCP
Ngân hàng LD&NN
TCTD phi NH
Tổng cộng
Huy động vốn
Ngân hàng TMNN
Ngân hàng TMCP
Ngân hàng LD&NN
TCTD phi NH
Tổng cộng
Tín dụng
Ngân hàng TMNN
NĂM
Đơn vị: %
2008
2009
2010
2006
2007
34
34
37
37
37
51.46
31.37
11.33
5.84
100
51.59
31.98
11.41
5.02
100
51.42
32.41
11.43
4.74
100
45.54
38.30
10.34
5.82
100
39.80
45.12
11.00
4.08
100
68.89
21.79
8.11
1.21
100
59.50
30.40
8.70
1.40
100
57.10
33.10
8.10
1.70
100
49.70
40.80
7.60
1.90
100
45.29
46.11
6.50
2.10
100
66.97
57.05
55.66
54.10
51.36
76
Ngân hàng TMCP
Ngân hàng LD&NN
TCTD phi NH
Tổng cộng
21.16
9.29
2.58
100
30.24
9.01
3.70
100
29.41
10.53
4.40
100
32.00
9.10
4.70
100
34.81
8.91
4.92
100
Nguồn: Tính toán từ số liệu trên báo cáo thường niên của ngân hàng NN [34]
Số liệu trên bảng 2.4 cho thấy, thị phần tổng tài sản và huy động vốn của hệ
thống ngân hàng TMCP cuối năm 2010 chiếm gần 50% toàn ngành, cao hơn so
với thị phần của hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước. Đây là con số phát
triển rất đáng kể nếu so với mức gần 30% vào năm 2006. Riêng thị phần tín dụng
của ngân hàng TMCP mới đạt 34.81%, thấp hơn hệ thống ngân hàng TMNN. Lý
do là vì với quy mô vốn lớn, các ngân hàng TMNN dễ dàng trong việc cấp tín
dụng cho các công ty, tập đoàn kinh tế lớn thuộc sở hữu nhà nước. Còn các ngân
hàng TMCP sở hữu ngoài nhà nước, đa số quy mô trung bình và nhỏ nên thị
trường tín dụng mục tiêu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có quy mô khoản vay
nhỏ hơn so với các công ty, tập đoàn của nhà nước.
Tóm lại, phân tích các số liệu về hoạt động của hệ thống ngân hàng TMCP
ngoài Nhà nước cho thấy sự gia tăng trên các phương diện số lượng (quy mô vốn,
tài sản, mạng lưới, thị phần) cũng như chất lượng (năng lực tài chính) trong tương
quan so sánh với các ngân hàng TMNN. Mặc dù kết quả kinh doanh chưa thực sự
tương xứng với sự phát triển về số lượng và quy mô của hệ thống, tuy nhiên nó
cũng chứng tỏ sự chuyển đổi mạnh mẽ sang xu hướng phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần trong lĩnh vực ngân hàng, nhất là phát triển các hình thức sở hữu ngoài
Nhà nước. Đây là bước phát triển hợp thời đại, nhằm khơi tăng mọi nguồn lực
trong xã hội vào phát triển nền kinh tế quốc gia trong giai đoạn hiện nay và sắp
tới.
77
2.2. THỰC TRẠNG DANH MỤC CHO VAY TẠI CÁC NGÂN HÀNG
TMCP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
Để đánh giá hoạt động quản trị danh mục cho vay tại các ngân hàng TMCP
Việt Nam, giai đoạn 2006 – 2010, trước tiên, luận án đi vào phân tích thực trạng
danh mục cho vay của các ngân hàng TMCP Việt Nam, thông qua các biểu hiện
trên danh mục cho vay, như tính đa dạng hoá của các khoản cho vay, các biểu hiện
của rủi ro tập trung, việc tuân thủ các giới hạn an toàn trên danh mục. Trên cơ sở
đó luận án sẽ đưa ra những đánh giá về kết quả đạt được cũng như mặt hạn chế
của hoạt động quản trị danh mục cho vay trong mục 2.3.
Hiện tại ở Việt Nam, danh mục cho vay của các ngân hàng thương mại có
thể được phân chia theo các tiêu thức như theo ngành kinh tế; theo thời hạn cho
vay; theo đối tượng khách hàng… Ngoài các tiêu thức chủ yếu trên, tùy từng ngân
hàng còn có các tiêu thức phân loại theo khu vực địa lý, theo loại tiền tệ … Phần
dưới đây sẽ tập trung phân tích cơ cấu danh mục cho vay theo các tiêu thức nêu
trên, đặc biệt nhấn mạnh tiêu thức theo ngành kinh tế.
2.2.1. Cơ cấu danh mục cho vay theo ngành kinh tế
Quyết định số 16/2007/QĐ-NHNN ngày 18/4/2007 của ngân hàng Nhà
nước ban hành chế độ báo cáo tài chính đối với các tổ chức tín dụng, trong đó tiêu
chí phân loại dư nợ theo ngành căn cứ vào hệ thống ngành kinh tế (theo quyết
định 10/2007/QĐ-TTg ngày 23/01/2007). Trong văn bản này, danh mục ngành
kinh tế được Tổng cục thống kê phân chia thành 21 mã ngành cấp 1.
Khảo sát cơ cấu danh mục cho vay theo ngành kinh tế (bảng 2.5 nhóm 5
ngân hàng TMCP quy mô lớn) và bảng 2.6 (nhóm 5 ngân hàng TMCP quy mô
trung bình và nhỏ) có thể nhận thấy thị trường mục tiêu của các ngân hàng TMCP
về cơ bản giống nhau, đều là đa dạng hóa, không có sự chuyên môn hóa cho vay
theo ngành. Mặc dù vậy, hầu hết các ngân hàng (không phân biệt quy mô lớn
78
nhỏ), đều chỉ cho vay 4 – 5 ngành tương tự như nhau, dẫn đến tính đa dạng của
danh mục cho vay bị giới hạn. Những ngành mà các ngân hàng TMCP tập trung
cho vay bao gồm: thương mại; sản xuất gia công chế biến; dịch vụ cá nhân và
cộng đồng; xây dựng; giao thông vận tải kho bãi. Xét trên bình diện chung thì cơ
cấu tín dụng này là tương đối phù hợp với cơ cấu kinh tế vĩ mô: tập trung cho
công nghiệp, thương mại và giảm dần tỷ trọng ngành nông lâm ngư nghiệp. Tuy
nhiên nếu nhìn ở góc độ phân tán rủi ro trên danh mục của từng ngân hàng thì thấy
mức độ đa dạng hóa như vậy là thấp, cũng có nghĩa là độ tập trung rủi ro cao.
Biểu hiện cụ thể: EXIMBANK dư nợ tổng cộng của 3 ngành gồm thương mại, sản
xuất gia công chế biến và dịch vụ cá nhân & cộng đồng chiếm 80% tổng dư nợ, tại
ACB lên tới 85.6% tổng dư nợ, còn ở MB chiếm 71% tổng dư nợ, SACOMBANK
thấp hơn, dư nợ 3 ngành trên chiếm 60% tổng dư nợ. Riêng TECHCOMBANK
hơi khác biệt một chút (ngoài thương mại và ngành khác, ngân hàng này cho vay
nông lâm nghiệp, không cho vay sản xuất gia công chế biến) nhưng độ tập trung
cũng rất cao, cụ thể dư nợ của 3 ngành gồm thương mại, nông lâm ngư nghiệp và
ngành khác chiếm tới 90.7% tổng dư nợ.
BẢNG 2.5
CƠ CẤU DANH MỤC CHO VAY THEO NGÀNH KINH TẾ
Nhóm 5 ngân hàng TMCP quy mô lớn giai đoạn 2006 – 2010
Đơn vị: %
PHÂN LOẠI NGÀNH
NĂM
EXIMBANK
1.Thương mại
2.Nông lâm nghiệp
3.Sản xuất & gia công chế biến
4.Xây dựng
5.Dịch vụ cá nhân và cộng đồng
6.Kho bãi giao thông VT & TTTT
7.Giáo dục & đào tạo
8.Tư vấn, kinh doanh bất động sản
2006
25.1
0.2
22.8
13.8
25.0
2.2
0.1
0.0
2007
24.8
0.1
26.5
12.3
29.0
1.5
0.0
1.1
2008
27.0
11.0
14.0
10.7
25.3
1.5
0.0
1.6
2009
27.5
0.6
14.6
7.3
23.1
2.6
0.0
2.7
2010
28.3
2.8
16.3
7.0
35.4
2.6
0.5
0.9
79
NĂM
9.Nhà hàng & khách sạn
10.Dịch vụ tài chính
11.Ngành nghề khác
Tổng cộng
ACB
1.Thương mại
2.Nông lâm nghiệp
3.Sản xuất & gia công chế biến
4.Xây dựng
5.Dịch vụ cá nhân và cộng đồng
6.Kho bãi giao thông VT & TTTT
PHÂN LOẠI NGÀNH
7.Giáo dục & đào tạo
8.Tư vấn, kinh doanh bất động sản
9.Nhà hàng & khách sạn
10.Dịch vụ tài chính
11.Ngành nghề khác
Tổng cộng
SACOMBANK
1.Thương mại
2.Nông lâm nghiệp
3.Sản xuất & gia công chế biến
4.Xây dựng
5.Dịch vụ cá nhân và cộng đồng
6.Kho bãi giao thông VT & TTTT
7.Giáo dục & đào tạo
8.Tư vấn, kinh doanh bất động sản
9.Nhà hàng & khách sạn
10.Dịch vụ tài chính
11.Ngành nghề khác
Tổng cộng
TECHCOMBANK
1.Thương mại
2.Nông lâm nghiệp
3.Sản xuất & gia công chế biến
4.Xây dựng
5.Dịch vụ cá nhân và cộng đồng
2006
2007
2008
2009
2010
1.2
0.2
9.4
100.0
1.4
0.1
3.2
100.0
2.0
0.1
6.7
100.0
3.1
0.6
18.0
100.0
2.9
1.7
1.5
100.0
30.1
0.8
22.6
2.5
38.9
2.2
25.2
0.4
17.1
2.3
47.1
2.4
23.5
0.6
13.0
2.7
50.8
2.1
32.0
0.3
17.9
3.8
37.0
2.8
31.8
0.3
15.2
4.1
38.6
3.0
0.3
0.9
1.0
0.5
0.1
100.0
0.2
1.1
1.1
0.0
3.2
100.0
0.0
1.7
1.4
0.0
4.1
100.0
0.1
0.8
1.6
1.0
2.7
100.0
0.1
1.5
1.7
0.8
3.0
100.0
33.1
5.4
30.3
6.3
5.0
2.3
4.3
3.6
2.7
0.0
7.1
100.0
31.6
4.8
28.5
6.5
8.2
2.0
3.1
6.1
1.3
0.0
7.8
100.0
23.7
7.5
24.9
5.9
16.5
2.1
3.7
8.4
2.2
0.0
5.2
100.0
22.2
6.9
26.2
6.6
12.8
1.8
2.7
9.2
1.3
0.0
10.3
100.0
14.3
10.9
32.5
6.7
8.8
2.5
2.6
3.4
1.1
0.0
17.3
100.0
40.0
8.4
0.0
5.8
0.0
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
38.4
15.1
0.0
6.5
0.0
16.5
37.2
0.0
8.4
0.0
80
NĂM
6.Kho bãi giao thông VT & TTTT
7.Giáo dục & đào tạo
8.Tư vấn, kinh doanh bất động sản
9.Nhà hàng & khách sạn
10.Dịch vụ tài chính
11.Ngành nghề khác
Tổng cộng
MB
1.Thương mại
2.Nông lâm nghiệp
3.Sản xuất & gia công chế biến
PHÂN LOẠI NGÀNH
4.Xây dựng
5.Dịch vụ cá nhân và cộng đồng
6.Kho bãi giao thông VT & TTTT
7.Giáo dục & dào tạo
8.Tư vấn, kinh doanh bất động sản
9.Nhà hàng & khách sạn
10.Dịch vụ tài chính
11.Ngành nghề khác
Tổng cộng
2006
2007
2008
2009
2010
2.2
0.0
0.0
0.4
0.0
43.2
100.0
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
3.6
0.0
0.0
0.0
0.0
36.4
100.0
0.8
0.0
0.0
0.0
0.0
37.0
100.0
Kc
Kc
Kc
55.5
4.5
17.0
39.8
7.2
25.0
20.6
6.5
28.1
21.6
5.2
32.5
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
9.7
0.2
5.0
0.0
5.7
1.0
0.0
1.5
100.0
6.7
2.0
10.0
0.0
6.8
1.4
0.0
1.1
100.0
6.7
16.6
14.8
0.0
3.9
0.3
0.0
2.6
100.0
8.5
16.9
10.6
0.0
3.6
0.2
0.0
0.9
100.0
Nguồn: Tính toán từ số liệu trên báo cáo thường niên của ngân hàng TMCP [36]
Bảng số liệu 2.6 Cơ cấu danh mục cho vay của các ngân hàng TMCP quy
mô trung bình và nhỏ cũng phản ánh tương tự: dư nợ của 3 – 4 ngành cao nhất tại
SHB là 76.1%; tại OCB là 78.3%; Đông Á 80.1%; SCB 80.7% và Phương Nam là
91.5%. Mặc dù mức độ đa dạng hóa của các ngân hàng TMCP về cơ bản tương tự
như nhau, không phân biệt quy mô lớn, nhỏ, nhưng do tỷ trọng tín dụng trong
tổng tài sản của các ngân hàng TMCP quy mô lớn thường thấp hơn so với các
ngân hàng quy mô trung bình và nhỏ, nên độ rủi ro tập trung của các ngân hàng
lớn sẽ thấp hơn. Vì vậy các ngân hàng TMCP quy mô lớn ít chịu ảnh hưởng mạnh
mẽ bởi các biến động trên thị trường tín dụng hơn so với các ngân hàng TMCP
quy mô trung bình và nhỏ.
81
Như đã đề cập trong mục 1.1.2.1, để đánh giá mức độ tập trung rủi ro trên
danh mục, ngoài việc xem xét mức độ đa dạng hóa, còn có thể so sánh tỷ trọng dư
nợ một ngành nào đó trong tổng dư nợ toàn danh mục với các giới hạn an toàn cho
phép. Hiện nay, Luật Các tổ chức tín dụng Việt Nam không đưa ra tỷ lệ khống chế
dư nợ cho vay một ngành so với tổng dư nợ, tuy nhiên, căn cứ theo quyết định 457
và một số văn bản của ngân hàng Nhà nước liên quan đến vấn đề kiểm soát dư nợ
cho vay (chỉ thị 03/2007/CT-NHNN ngày 28/5/2007 về kiểm soát cho vay kinh
doanh chứng khoán và quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN ngày 1/2/2008, thay thế
chỉ thị 03) có thể nhận thấy dấu hiệu rủi ro tập trung khá rõ trên danh mục cho vay
của các ngân hàng TMCP Việt Nam. Cụ thể qua số liệu trên bảng 2.5, nhận thấy
tại các ngân hàng TMCP quy mô lớn như ACB, SACOMBANK, EXIMBANK,
TECHCOMBANK, MB tỷ trọng dư nợ của một ngành lớn nhất trên danh mục cho
vay thường dao động ở mức trên 30 - 40% tổng dư nợ. Đối với các ngân hàng
TMCP quy mô trung bình và nhỏ (bảng 2.6) thì mức độ tập trung cao hơn. Chẳng
hạn SCB và OCB có tỷ trọng cho vay ngành dịch vụ cá nhân và cộng đồng trong
nhiều năm liền ở mức trên 50 – 70% tổng dư nợ, SOUTHERN BANK dư nợ cho
vay ngành có tỷ trọng lớn nhất lên tới 46.3% (năm 2010). Đây là biểu hiện tập
trung dư nợ khá cao nếu so với quy định trong các văn bản đã nêu trên tại Việt
Nam.
BẢNG 2.6
CƠ CẤU DANH MỤC CHO VAY THEO NGÀNH KINH TẾ
Nhóm 5 ngân hàng TMCP quy mô trung bình & nhỏ giai đoạn 2006 – 2010
Đơn vị: %
NĂM
PHÂN LOẠI NGÀNH
DONGA BANK
1.Thương mại
2.Nông lâm nghiệp
3.Sản xuất & gia công chế biến
4.Xây dựng
2006
43.9
2.7
16.8
7.1
2007
43.4
1.8
8.1
10.1
2008
44.9
2.4
5.8
16.1
2009
44.7
1.5
7.4
15.3
2010
36.8
1.5
7.8
20.0
82
NĂM
5.Dịch vụ cá nhân và cộng đồng
6.Kho bãi giao thông VT & TTTT
7.Giáo dục & Đào tạo
8.Tư vấn, kinh doanh bất động sản
9.Nhà hàng & khách sạn
10.Dịch vụ tài chính
11.Ngành nghề khác
Tổng cộng
SCB
1.Thương mại
2.Nông lâm nghiệp
3.Sản xuất & gia công chế biến
4.Xây dựng
PHÂN LOẠI NGÀNH
5.Dịch vụ cá nhân và cộng đồng
6.Kho bãi giao thông VT & TTTT
7.Giáo dục & Đào tạo
8.Tư vấn, kinh doanh bất động sản
9.Nhà hàng & khách sạn
10.Dịch vụ tài chính
11.Ngành nghề khác
Tổng cộng
SOUTHERN BANK
1.Thương mại
2.Nông lâm nghiệp
3.Sản xuất & gia công chế biến
4.Xây dựng
5.Dịch vụ cá nhân và cộng đồng
6.Kho bãi giao thông VT & TTTT
7.Giáo dục & Đào tạo
8.Tư vấn, kinh doanh bất động sản
9.Nhà hàng & khách sạn
10.Dịch vụ tài chính
11.Ngành nghề khác
Tổng cộng
SHB
1.Thương mại
2.Nông lâm nghiệp
3.Sản xuất & gia công chế biến
2006
19.6
0.7
0.7
0.2
1.3
2.6
4.4
100.0
2007
27.3
0.6
0.6
1.0
1.0
0.8
5.4
100.0
2008
15.8
0.5
0.4
5.5
2.5
0.4
5.6
100.0
2009
17.6
0.9
0.3
5.1
2.2
0.2
4.8
100.0
2010
23.3
1.3
0.3
3.1
0.9
1.0
4.0
100.0
1.6
0.3
6.0
9.6
3.8
2.6
7.5
11.5
3.4
0.9
7.7
12.1
2.4
0.3
8.8
10.0
2.4
0.1
8.1
16.6
73.8
2.1
0.1
2.0
4.3
0.0
0.2
100.0
65.7
0.7
0.4
1.4
1.4
0.8
4.3
100.0
64.3
2.1
1.4
2.9
1.3
1.0
2.8
100.0
59.6
8.4
2.0
2.9
3.1
1.0
1.5
100.0
52.6
1.5
2.0
11.5
3.0
2.1
0.0
100.0
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
30.3
0.2
0.3
11.7
0.4
0.1
0.0
4.0
0.3
1.5
51.2
100.0
33.5
0.1
0.0
15.6
32.7
0.1
0.0
14.7
0.1
0.3
2.9
100.0
34.5
0.0
0.0
27.0
22.1
0.0
0.0
12.5
0.6
0.6
2.8
100.0
46.3
0.0
0.0
25.5
19.7
0.0
0.0
5.6
1.0
0.3
1.6
100.0
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
8.2
15.2
17.0
6.1
20.7
17.6
15.6
4.8
25.4
83
NĂM
4.Xây dựng
5.Dịch vụ cá nhân và cộng đồng
6.Kho bãi giao thông VT & TTTT
7.Giáo dục & Đào tạo
8.Tư vấn, kinh doanh bất động sản
9.Nhà hàng & khách sạn
10.Dịch vụ tài chính
11.Ngành nghề khác
Tổng cộng
OCB
1.Thương mại
2.Nông lâm nghiệp
3.Sản xuất & gia công chế biến
PHÂN LOẠI NGÀNH
4.Xây dựng
5.Dịch vụ cá nhân và cộng đồng
6.Kho bãi giao thông VT & TTTT
7.Giáo dục & Đào tạo
8.Tư vấn, kinh doanh bất động sản
9. Nhà hàng & khách sạn
10.Dịch vụ tài chính
11.Ngành nghề khác
Tổng cộng
2006
2007
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
2008
16.6
4.6
1.1
0.0
1.5
0.3
1.4
34.1
100.0
2009
9.1
2.6
2.5
0.0
0.7
0.5
1.4
38.8
100.0
2010
11.1
24.0
9.2
0.7
0.8
2.4
2.4
3.5
100.0
13.8
4.2
5.9
18.4
8.9
23.4
4.5
2.6
2.2
15.9
1.4
12.5
11.5
3.4
5.2
4.6
62.4
2.6
0.0
0.0
1.6
0.0
5.0
100.0
7.9
30.5
4.9
0.0
0.0
0.0
0.0
5.9
100.0
4.9
62.4
2.0
0.0
0.0
0.0
0.0
21.4
100.0
10.2
0.3
7.8
0.5
7.9
3.2
0.8
39.4
100.0
10.5
15.0
3.6
0.7
0.4
7.7
0.7
41.3
100.0
Nguồn: Tính toán từ số liệu trên báo cáo thường niên của ngân hàng TMCP [36]
Theo quan niệm của ủy ban Basel, khi so sánh giá trị dư nợ của một ngành
với mức vốn chủ sở hữu của ngân hàng tại cùng thời điểm cũng sẽ đánh giá được
mức độ rủi ro tập trung của danh mục. Số liệu trên báo cáo thường niên của các
ngân hàng TMCP cho thấy tại nhiều thời điểm khác nhau, dư nợ của một ngành
nào đó có thể vượt nhiều lần so với mức vốn chủ sở hữu tại cùng thời điểm (xem
phụ lục 10). Chẳng hạn trong nhóm ngân hàng quy mô lớn: tại ACB năm 2006 dư
nợ cho vay cá nhân & dịch vụ cộng đồng gấp 4 lần (tương đương 400%) vốn chủ
sở hữu, năm 2007 giảm xuống còn 2.39 và năm 2008 gấp 2.28 lần vốn chủ sở hữu.
Ở SACOMBANK mức độ nhẹ hơn, cuối năm 2008, dư nợ của từng ngành chủ
84
chốt như cho vay cá nhân và cộng đồng, cho vay thương mại, cho vay sản xuất gia
công chế biến đều lớn hơn mức 100% so với vốn chủ sở hữu cùng thời điểm.
Ở nhóm ngân hàng TMCP quy mô trung bình và nhỏ mức độ tập trung rủi ro
lớn hơn nhiều so với ngân hàng lớn. Cụ thể tại ngân hàng OCB dư nợ Cho vay
dịch vụ cá nhân & cộng đồng năm 2006 gấp 3.49 lần vốn chủ sở hữu, năm 2007
có giảm đi chút ít, chỉ gấp 1.39 lần, nhưng năm 2008 tăng lên, gấp 3.37 lần so với
vốn chủ sở hữu cùng thời điểm. Tương tự, tại ngân hàng SBC loại “Cho vay dịch
vụ cá nhân & cộng đồng” có dư nợ gấp 4.86 lần (năm 2007), gấp 5.33 lần (năm
2008) vốn chủ sở hữu. Đồng thời tỷ trọng dư nợ ngành này thường xuyên chiếm
trên 60% tổng dư nợ toàn danh mục (lưu ý rằng theo thuyết minh trong báo cáo
thường niên của ngân hàng SCB thì chủ yếu các khoản vay này liên quan đến kinh
doanh bất động sản). Đây là biểu hiện rủi ro danh mục rất lớn cho ngân hàng SCB,
nếu chúng ta biết rằng tỷ trọng khoản mục cho vay thường chiếm rất cao trong
tổng tài sản của ngân hàng này và đồng thời thu nhập lãi tín dụng chiếm trong
tổng lãi hoạt động cũng chiếm một tỷ trọng rất lớn.
Tóm lại qua phân tích cơ cấu danh mục cho vay theo ngành kinh tế, nhận
thấy ở phần lớn các ngân hàng TMCP đều có hai dấu hiệu: (i) thứ nhất là mức độ
đa dạng hóa trên danh mục không cao, hầu hết các ngân hàng chủ yếu cho vay
khoảng 3 – 4 ngành tương tự nhau; (ii) thứ hai là mức độ rủi ro tập trung khá rõ
biểu hiện: tỷ trọng dư nợ của một ngành so với tổng dư nợ toàn danh mục mức
cao nhất có thể trên 30% đến 40%, cá biệt trên 50% tổng dư nợ, giai đoạn tập
trung dư nợ cao nhất là trong hai năm 2006-2007 (lên tới 73.8% trong năm 2006
tại SCB), sau 2008 trở đi mức độ tập trung giảm đi. Ngoài ra số dư nợ của một vài
ngành trên danh mục lớn gấp nhiều lần (2 lần thậm chí tới 4 lần) so với mức vốn
chủ sở hữu cùng thời điểm. Theo quan điểm của ủy ban Basel khi bất kỳ rủi ro
đơn lẻ/ nhóm rủi ro nào có khả năng tạo ra tổn thất đủ lớn liên quan đến mức vốn,
tài sản hoặc tổng tổn thất của ngân hàng thì đều được xem là rủi ro tập trung.
85
Cũng có thể so sánh với quy định tại các nước khác (đã được đề cập trong mục
1.3.2) để minh chứng rõ hơn. Chẳng hạn tại Mỹ khống chế dư nợ ngành kinh
doanh bất động sản không vượt quá mức vốn tự có, nhưng ngân hàng Lehman
Brothers vào năm 2008, dư nợ cho vay bất động sản gấp 2.6 lần vốn tự có, quá
giới hạn an toàn cho phép, nên khi bất động sản suy thoái lập tức ngân hàng này
rơi vào phá sản trong năm đó.
Từ phân tích và so sánh các dấu hiệu như trên, có thể thấy biểu hiện nguy
hiểm của rủi ro tập trung trên danh mục cho vay theo ngành kinh tế của các ngân
hàng TMCP Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010. Điểm đáng lưu ý là các ngân
hàng TMCP đều cơ bản có chung thị trường mục tiêu, hầu như không có ngân
hàng nào chuyên môn hóa, vì vậy khi các ngành cho vay suy thoái, các ngân hàng
sẽ gặp phải hậu quả tương tự nhau. Tuy nhiên tại các ngân hàng lớn mức độ tập
trung rủi ro thấp hơn đồng thời mức độ đa dạng hóa trong cho vay cao hơn so với
các ngân hàng trung bình và nhỏ.
2.2.2. Cơ cấu danh mục cho vay theo lĩnh vực đầu tư
Sau một khoảng thời gian 2000-2005 phát triển mạnh mẽ, giai đoạn 2006 2010, chứng kiến bước thăng trầm của nền kinh tế Việt Nam. Đầu tiên trong hai
năm 2006 – 2007, kinh tế vẫn trên đà tăng trưởng mạnh, trong đó GDP năm 2007,
đạt mức 8.48%, là mức cao nhất trong vòng 11 năm trở lại. Cơ cấu kinh tế chuyển
dịch theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông lâm nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp,
thương mại và dịch vụ. Điều này ảnh hưởng khá rõ lên cơ cấu danh mục cho vay
của hầu hết các ngân hàng TMCP quy mô lớn trong các năm 2006 – 2007. Biểu
hiện dư nợ cho vay lĩnh vực sản xuất kinh doanh (bao gồm các ngành thương mại,
sản xuất gia công chế biến, xây dựng) chiếm tỷ trọng cao hơn so với lĩnh vực phi
sản xuất kinh doanh (xem bảng 2.5; 2.6 và 2.7). Tuy nhiên, tại một số ngân hàng
TMCP quy mô trung bình và nhỏ thì ngược lại: tỷ trọng dư nợ cho vay phi sản
xuất cao hơn cho vay sản xuất kinh doanh. Cụ thể như SCB, OCB có tỷ trọng cho
86
vay phi sản xuất (trong đó chủ yếu là dịch vụ cá nhân và cộng đồng) chiếm trên
60% tổng dư nợ trong nhiều năm liên tục. Do những thuận lợi của nền kinh tế nói
chung, nhất là các ngành phi sản xuất như kinh doanh bất động sản, kinh doanh
chứng khoán… rất hưng thịnh trong hai năm 2006-2007, có thể nói năm 2006 và
2007 là năm kinh doanh “thuận buồm xuôi gió” của các ngân hàng TMCP Việt
Nam. Tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2007 lớn nhất trong giai đoạn 2006-2010
và so với các năm trước đó, tốc độ tăng lợi nhuận sau thuế cũng lên đến “đỉnh”
trong hai năm 2006-2007 (xem bảng 2.2).
Bước sang năm 2008, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế giới,
kinh tế Việt Nam tăng trưởng chậm, cùng với lạm phát gia tăng mạnh trong 6
tháng đầu năm, tuy nhiên 6 tháng cuối năm tình hình lại biến chuyển ngược lại,
buộc Chính phủ phải thay đổi mục tiêu từ “kiểm soát lạm phát là mục tiêu hàng
đầu” chuyển thành “chủ động ngăn ngừa suy giảm kinh tế”.
BẢNG 2.7
CƠ CẤU DANH MỤC CHO VAY THEO LĨNH VỰC ĐẦU TƯ
Một số ngân hàng TMCP, giai đoạn 2006 – 2010
Đơn vị: %
NĂM
2006
2007
2008
2009
2010
NGÂN HÀNG
EXIMBANK
1. Cho vay SX -KD
2. Cho vay phi sản xuất
3. Cho vay khác
Tổng cộng
ACB
1. Cho vay SX -KD
2. Cho vay phi sản xuất
3. Cho vay khác
Tổng cộng
SACOMBANK
64.11
26.53
9.36
100
65.19
31.6
3.21
100
64.26
29.08
6.66
100
52.56
29.47
17.97
100
56.98
41.55
1.47
100
58.29
41.57
0.14
100
47.29
49.55
3.16
100
41.91
54.02
4.07
100
56.81
40.49
2.70
100
54.44
42.60
2.96
100
87
1. Cho vay SX -KD
2. Cho vay phi sản xuất
3. Cho vay khác
Tổng cộng
TECHCOMBANK
1. Cho vay SX -KD
2. Cho vay phi sản xuất
3. Cho vay khác
Tổng cộng
MB
1. Cho vay SX -KD
2. Cho vay phi sản xuất
3. Cho vay khác
Tổng cộng
DONGA BANK
1. Cho vay SX -KD
2. Cho vay phi sản xuất
3. Cho vay khác
Tổng cộng
SCB
1. Cho vay SX -KD
2. Cho vay phi sản xuất
3. Cho vay khác
Tổng cộng
SOUTHERN BANK
1. Cho vay SX -KD
2. Cho vay phi sản xuất
3. Cho vay khác
Tổng cộng
SHB
1. Cho vay SX -KD
2. Cho vay phi sản xuất
3. Cho vay khác
Tổng cộng
OCB
1. Cho vay SX -KD
2. Cho vay phi sản xuất
3. Cho vay khác
77.33
15.52
7.15
100
73.4
18.78
7.82
100
56.37
0.40
43.23
100
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
91.69
6.81
1.50
100
71.18
24.42
4.40
100
64.01
30.80
5.19
100
63.77
25.92
10.31
100
66.85
15.88
17.27
100
63.60
0.00
36.4
100
62.96
0.00
37.04
100
88.69
10.18
1.13
100
76.58
20.87
2.55
100
78.41
20.66
0.93
100
64.04
30.58
5.38
100
69.7
24.66
5.64
100
69.83
25.38
4.79
100
67.39
28.64
3.97
100
19.60
80.20
0.20
100
26.10
69.60
4.30
100
26.20
71.00
2.80
100
29.90
68.60
1.50
100
28.70
71.30
0.00
100
Kc
Kc
Kc
Kc
42.59
6.16
51.25
100
49.22
47.84
2.94
100
61.5
35.73
2.77
100
71.85
26.56
1.59
100
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
57.97
7.91
34.12
100
55.96
5.19
38.85
100
66.05
30.42
3.53
100
31.10
63.90
5.00
63.50
30.60
5.90
16.20
62.40
21.40
45.90
27.10
27.00
33.60
63.70
2.70
Kc
Kc
Kc
Kc
88
Tổng cộng
100
100
100
100
100
Nguồn: tính toán từ số liệu trên bảng 2.5 và 2.6
Một số ngành kinh tế có sự thay đổi so với năm 2007: nông nghiệp tăng
trưởng mạnh hơn do những thuận lợi về giá nông sản trên thế giới, nhưng công
nghiệp và xây dựng gặp bất lợi về thị trường nên giảm sút, thị trường bất động sản
đóng băng, thị trường chứng khoán tuột dốc. Tình hình đó đã ảnh hưởng rất lớn
đến hoạt động của hệ thống ngân hàng: lãi suất huy động, lãi suất cho vay tăng
cao do ảnh hưởng của lạm phát, cả huy động vốn và tín dụng đều có tốc độ tăng
trưởng thấp hơn nhiều so với năm 2007. Số liệu trên bảng 2.7 cho thấy nhìn chung
tỷ trọng dư nợ cho vay sản xuất kinh doanh của các ngân hàng TMCP quy mô lớn
có xu hướng giảm tương đối so với cho vay phi sản xuất. Tuy nhiên ở các ngân
hàng TMCP nhỏ thì ngược lại: tỷ trọng cho vay sản xuất kinh doanh tăng trong
khi tỷ trọng dư nợ vay phi sản xuất kinh doanh giảm xuống (cụ thể giảm dư nợ
các ngành dịch vụ cá nhân & cộng đồng; tư vấn & kinh doanh bất động sản). Lý
giải tình trạng này là vì trong hai năm 2006 – 2007, các ngân hàng TMCP quy mô
trung bình và nhỏ tập trung cho vay phi sản xuất kinh doanh (bất động sản, chứng
khoán) với mức độ lớn, do vậy khi các ngành này giảm sút hoặc đóng băng trong
năm 2008, đồng thời với việc ngân hàng Nhà nước ban hành một số văn bản nhằm
khống chế và kiểm soát chặt chẽ dư nợ hai lĩnh vực phi sản xuất là kinh doanh
chứng khoán và bất động sản, đã khiến cho các ngân hàng này phải thay đổi cơ
cấu dư nợ so với giai đoạn 2006 – 2007 trước đó.
Năm 2009, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi trở lại, sau một loạt các chính
sách, biện pháp tác động của Chính phủ, trong đó có chính sách hỗ trợ lãi suất khá
ấn tượng. Tuy nhiên sau thời gian được khống chế trong năm 2009, lạm phát có
dấu hiệu gia tăng trong năm 2010, buộc Chính phủ phải áp dụng chính sách tài
khóa và chính sách tiền tệ thắt chặt, với một loạt các quy định nhằm kiểm soát
khống chế dư nợ lĩnh vực phi sản xuất, để kích thích sản xuất, chặn đà suy giảm
kinh tế. Mặc dầu vậy, cơ cấu danh mục cho vay theo lĩnh vực đầu tư của các ngân
89
hàng TMCP thay đổi không đáng kể. Tính đến cuối năm 2010, tỷ trọng cho vay
phi sản xuất tại các ngân hàng TMCP trung bình và nhỏ thường dao động trong
mức 30%, cá biệt tại SCB lên tới 71.3%, các ngân hàng TMCP quy mô lớn thì tỷ
trọng cho vay phi sản xuất thấp hơn, dao động trong khoảng thấp nhất 15%
(SACOMBANK) và cao nhất là 42.6% (ACB).
Đánh giá chung cơ cấu danh mục cho vay theo lĩnh vực đầu tư tại các ngân
hàng TMCP chưa thực sự phù hợp với định hướng của Chính phủ và ngân hàng
Nhà nước, biểu hiện tỷ trọng dư nợ phi sản xuất còn khá cao ở hầu hết các ngân
hàng. Tuy nhiên thực tế này là hậu quả của giai đoạn trước đó, các ngân hàng
TMCP (nhất là các ngân hàng quy mô nhỏ) đã dồn vốn cho vay phi sản xuất (cụ
thể là bất động sản và chứng khoán) quá nhiều, vì vậy cơ cấu dư nợ rất khó thay
đổi ngay được, mà đòi hỏi phải có thời gian nhất định để cơ cấu lại.
2.2.3. Cơ cấu danh mục cho vay theo thời hạn
Khi phân tích cơ cấu danh mục cho vay theo thời hạn của một số ngân hàng
TMCP (phụ lục số 11), nhận thấy hầu hết các ngân hàng đều tập trung vào cho
vay ngắn hạn, tỷ trọng dao động trên 50% cho đến 70% tổng dư nợ. Tuy xu hướng
giảm dần tỷ trọng cho vay ngắn hạn, tăng cho vay trung dài hạn qua các năm
nhưng mức giảm rất ít. Điều đó cho thấy các ngân hàng vẫn chú trọng cho vay kỳ
hạn ngắn hơn là kỳ hạn dài. Xét trong bối cảnh thực tế nguồn huy động của các
ngân hàng thương mại nói chung, các ngân hàng TMCP nói riêng chủ yếu là ngắn
hạn, độ ổn định không cao, cộng thêm tỷ trọng dùng nguồn ngắn hạn vào cho vay
trung dài hạn bị giới hạn bởi quy định của ngân hàng Nhà nước thì cơ cấu cho vay
như vậy là hợp lý. Mặt khác, do lãi suất biến động rất khó lường kể từ năm 2008
trở lại đây, khiến cho các ngân hàng e ngại cho vay kỳ hạn dài, nhằm tránh rủi ro
thanh khoản và rủi ro lãi suất.
2.2.4. Cơ cấu danh mục cho vay theo đối tượng khách hàng
90
Tính đa dạng hóa trên danh mục không chỉ biểu hiện ở ngành nghề, thời
hạn, nhóm nợ mà còn theo tiêu chí đối tượng khách hàng/tính chất sở hữu (phụ lục
số 12). Nhận thấy hầu hết các ngân hàng TMCP chú trọng cho vay đối với cá nhân
và các công ty cổ phần, công ty TNHH và tư nhân. Tỷ trọng vốn cho các loại chủ
thể này hầu hết chiếm từ 80 - trên 90% tổng dư nợ, trong khi tỷ trọng cho vay
doanh nghiệp SHNN rất thấp (chẳng hạn như ở ACB; SACOMBANK,
EXIMBANK tỷ lệ cho vay doanh nghiệp SHNN có xu hướng giảm dần và không
quá 5% tổng dư nợ vào thời điểm cuối năm 2010). Tuy nhiên đánh giá chung cơ
cấu danh mục theo đối tượng khách hàng như vậy là hợp lý, phù hợp với thị
trường mục tiêu của các ngân hàng TMCP và xu hướng phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần tại Việt Nam.
2.2.5. Cơ cấu danh mục cho vay theo các tiêu thức khác
Ngoài các tiêu thức chủ yếu như theo ngành, theo lĩnh vực đầu tư, theo thời
hạn, theo đối tượng khách hàng… đã phân tích trên đây, còn một số tiêu thức mà
ngân hàng TMCP có thể sử dụng để phân loại danh mục cho vay của mình như
phân loại theo khu vực địa lý, loại tiền tệ, hình thức cho vay … Tuy nhiên các tiêu
thức này không bắt buộc (như tiêu chí theo ngành, theo thời hạn) vì vậy nhiều
ngân hàng TMCP không công bố danh mục cho vay theo các tiêu chí này.
Tóm lại qua phân tích thực trạng danh mục cho vay của một số ngân hàng
TMCP trong giai đoạn từ 2006 – 2010, nhận thấy mức độ đa dạng hóa trên danh
mục cho vay của hầu hết các ngân hàng nhìn chung không cao. Dù xét theo tiêu
chí ngành kinh tế, lĩnh vực đầu tư, đối tượng khách hàng, hay thời hạn cho vay…
thông thường danh mục cho vay của các ngân hàng TMCP chỉ tập trung vào một
hoặc hai loại cho vay nhất định (nhiều nhất là 4 loại như trong danh mục cho vay
theo ngành kinh tế). Về mức độ tập trung, loại cho vay chiếm tỷ trọng cao nhất
trên danh mục có thể lên tới trên 60% giá trị dư nợ toàn danh mục, đồng thời gấp
91
nhiều lần vốn chủ sở hữu của ngân hàng (cao nhất là 4 lần trong danh mục theo
ngành). Nếu so sánh với quy định của ngân hàng tại một số nước (như đã đề cập
trong mục 1.3.2) cũng như quy định trong các văn bản dưới luật của ngân hàng
Nhà nước Việt Nam (chỉ thị 03/2007/CT-NHNN; quyết định 03/2008/QĐ-NHNN)
có thể đánh giá chung là danh mục cho vay của các ngân hàng TMCP có dấu hiệu
tiềm ẩn rủi ro tập trung khá lớn. Những rủi ro này sẽ trở thành tổn thất tài chính
nghiêm trọng cho các ngân hàng một khi nền kinh tế biến chuyển bất lợi. Điều này
đã được minh chứng thông qua kết quả hoạt động thực tế của ngân hàng Việt Nam
những năm kế tiếp.
2.3. THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ DANH MỤC CHO VAY TẠI CÁC NGÂN
HÀNG TMCP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 – 2010
Từ thực trạng danh mục cho vay được xem như bức tranh phản ánh kết quả
của công tác quản trị danh mục cho vay, phần kế tiếp luận án sẽ đi sâu đánh giá
hoạt động quản trị danh mục cho vay tại các ngân hàng TMCP Việt Nam trong
khoảng thời gian từ 2006 – 2010.
2.3.1. Những kết quả đạt được
Phần này tóm lược những kết quả được ghi nhận trong hoạt động quản trị
danh mục cho vay mà các ngân hàng TMCP đã thực hiện được trong khoảng thời
gian từ 2006 – 2010
2.3.1.1. Hàng năm, một số ngân hàng TMCP đã dự kiến các chỉ tiêu và xây
dựng các chính sách liên quan đến quản trị danh mục cho vay, bước đầu định
hướng cho sự hình thành và phát triển danh mục cho vay một cách chủ động.
Những định hướng cho việc hình thành danh mục cho vay đã được một số
ngân hàng xây dựng trong chính sách cho vay hàng năm và được Hội đồng quản
trị ngân hàng thông qua. Chẳng hạn định hướng “... chú trọng mở rộng đầu tư tín
dụng cho các đối tượng doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, doanh nghiệp
92
trong khu chế xuất, khu công nghiệp, doanh nghiệp xây lắp, doanh nghiệp đầu tư
kinh doanh bất động sản, cho vay pháp nhân 65%, thể nhân không quá 35%, …”
(trích Chính sách tín dụng của ngân hàng TMCP SCB ban hành cuối năm 2005).
Hoặc như ngân hàng ACB năm 2009 dự kiến tổng dư nợ khối khách hàng doanh
nghiệp 34,000 tỷ đồng, khối khách hàng cá nhân 31,000 tỷ đồng. Ngân hàng
TMCP Sài gòn – Hà nội (SHB) dự kiến danh mục theo thời hạn trong đó nợ ngắn
hạn chiếm tỷ trọng 72%, nợ trung dài hạn 28%; danh mục theo đối tượng khách
hàng trong đó doanh nghiệp Nhà nước chiếm 12%, cá nhân và doanh nghiệp ngoài
Nhà nước chiếm 82%, doanh nghiệp có vốn nước ngoài chiếm 6%. Mặc dù còn sơ
sài nhưng bước đầu cho thấy ý thức chủ động trong thiết kế danh mục cho vay có
tính đa dạng hóa tại một số ngân hàng TMCP Việt Nam đã bắt đầu hình thành
trong thời gian này.
Tiếp theo sau phần định hướng danh mục, các ngân hàng TMCP đã tiến hành
xây dựng các chính sách nhằm thực hiện danh mục cho vay. Năm 2005 được xem
là năm khởi đầu quan trọng trong việc thực hiện các quy định về quản trị rủi ro
theo thông lệ quốc tế tại Việt Nam. Trên tinh thần đó, ngân hàng Nhà nước Việt
Nam đã ban hành hai văn bản quan trọng có tính chất định hướng cho quản trị rủi
ro tại Việt nam, đó là quyết định số 493/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 và quyết định
457/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005. Dựa trên các văn bản này, các ngân hàng đã tiến
hành xây dựng các chính sách bao gồm: chính sách giới hạn cho vay, chính sách
phân hạng nợ và trích lập dự phòng, chính sách hạn chế cho vay với một số đối
tượng cụ thể… Đây là những chính sách nhằm hạn chế rủi ro tập trung trên danh
mục, vì vậy chúng có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng thực hiện quản trị
danh mục cho vay tại từng ngân hàng TMCP.
Về chính sách giới hạn cho vay
Nội dung của quyết định 457/QĐ-NHNN quy định các tỷ lệ đảm bảo an toàn
trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Trong đó giới hạn tối đa cho vay một
93
khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng, tổng cho vay và bảo
lãnh không vượt quá 25% vốn tự có. Đối với một nhóm khách hàng cho vay
không quá 50% vốn tự có; tổng giới hạn cho vay và bảo lãnh không quá 60% vốn
tự có. Ngoài ra trong quyết định này cũng quy định: đối với các khoản vay/ bảo
lãnh (với một khách hàng) có giá trị vượt 5% vốn tự có ngân hàng phải có chính
sách và cách thức theo dõi. Còn nếu khoản vay và tổng các khoản cho vay một
khách hàng vượt quá 10% vốn tự có của ngân hàng phải được Hội đồng quản trị/
hoặc người được ủy quyền thông qua. Quy định này cho thấy, khi tỷ trọng các
khoản vay vượt 5% (đặc biệt là vượt 10%) vốn tự có của một ngân hàng phải được
xem là rủi ro tập trung và cần được theo dõi cẩn trọng. Để hướng dẫn các ngân
hàng thực hiện, quyết định 457/QĐ-NHNN có mô tả rõ về nhóm khách hàng có
liên quan, trong đó bao gồm nhóm khách hàng có quan hệ sở hữu, nhóm khách
hàng có quan hệ quản trị, điều hành, thành viên.
Sau quyết định 457/QĐ-NHNN ra đời ngày 19/4/2005, một số các văn bản
khác được ngân hàng Nhà nước ban hành như: chỉ thị 03/2007/CT-NHNN ngày
28/5/2007 (hiệu lực từ tháng 1/2008); quyết định 03/2008/QĐ-NHNN ngày
1/02/2008, thay thế cho chỉ thị 03; thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010
(hiệu lực từ 1/10/2010) thay thế quyết định 457; thông tư số 19/2010/TT-NHNN
ngày 27/9/2010 sửa đổi thông tư 13 (hiệu lực từ 1/10/2010). Những văn bản có
tính pháp lý nói trên là cơ sở để cho các ngân hàng thương mại cụ thể hóa chính
sách giới hạn cho vay của từng ngân hàng.
BẢNG 2.8
MỘT SỐ CHỈ TIÊU GIỚI HẠN TRÊN DANH MỤC CHO VAY
Đơn vị : %
1. Dư nợ tối đa cho ngành sản xuất công nghiệp trên tổng
dư nợ (TDN)
2. Dư nợ tối đa cho ngành nông lâm thủy hải sản trên
TDN
3. Dư nợ tối đa cho ngành dịch vụ trong TDN
56
16
10
11
94
4. Dư nợ tối đa cho ngành xây dựng trong TDN
5. Dư nợ tối đa cho ngành kinh doanh bất động sản
6. Dư nợ các ngành khác
2
4
Nguồn: Trích chính sách TD của TECHCOMBANK năm 2010 [37]
Ngoài việc xác định giới hạn cấp tín dụng tối đa cho một khách hàng, tại
một số ngân hàng TMCP quy mô lớn, trong chính sách tín dụng của họ đã xây
dựng các giới hạn tín dụng tối đa cho một số ngành kinh tế chủ chốt hoặc cho một
số đối tượng khách hàng nhất định (theo tỷ lệ % trên tổng dư nợ), nhằm giảm
thiểu rủi ro tập trung (xem bảng 2.8). Việc đưa ra các tỷ lệ giới hạn trên danh mục
được Hội đồng quản trị ngân hàng thông qua hàng năm và được ghi trong chính
sách tín dụng của ngân hàng. Thực chất các giới hạn này là nhằm thực hiện chính
sách đa dạng hóa, tránh tập trung dồn vốn cho một số ngành nghề hẹp, cũng có
nghĩa là thực hiện phân tán rủi ro trên danh mục cho vay của ngân hàng.
Về chính sách phân loại nợ và trích lập dự phòng
Căn cứ vào quy định của ngân hàng Nhà nước tại Quyết định 493/QĐNHNN và quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007 (sửa đổi, bổ sung
QĐ 493) các ngân hàng TMCP đã thực hiện phân loại nợ và trích dự phòng. Theo
đó, ngân hàng có thể sử dụng một trong hai cách phân loại: phân loại theo định
lượng (điều 6 trong 493) và phân loại theo định tính (điều 7 của 493). Đồng thời
trích hai loại dự phòng, bao gồm dự phòng chung cho các nhóm nợ từ 1 – 4 và dự
phòng cụ thể cho các nhóm nợ từ 2 – 5. Việc phân loại nợ theo định tính trong QĐ
493/QĐ-NHNN giúp ngân hàng nhận định tổng thể về chất lượng danh mục cho
vay của họ. Điều này không chỉ có ý nghĩa trong trích dự phòng rủi ro mà còn
giúp nhà quản trị có những động thái phù hợp để duy trì chất lượng của danh mục
cho vay. Có thể nói việc ban hành cũng như tuân thủ QĐ 493/QĐ-NHNN và bổ
sung sau này là quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007 đã chứng tỏ sự
thay đổi căn bản trong nhận thức về quản trị rủi ro của ngân hàng Việt Nam. Đây
95
được xem là bước ngoặt quan trọng trong việc tiến dần đến thông lệ quốc tế về
quản trị nói chung và quản trị rủi ro danh mục cho vay nói riêng.
Chính sách hạn chế /không cho vay với một số đối tượng cụ thể
Luật Các tổ chức tín dụng có quy định khá rõ ràng về việc không cấp tín
dụng đối với các đối tượng, chẳng hạn như: cha, mẹ vợ con … của Hội đồng quản
trị, Tổng giám đốc, Ban kiểm soát… và hạn chế cấp tín dụng đối với một số đối
tượng như: những người trực tiếp cho vay, cổ đông lớn, cổ đông sáng lập… nhằm
tránh nguy cơ rủi ro tiềm ẩn do những quyết định cho vay thiếu khách quan. Theo
quy định, dư nợ cho vay đối với các đối tượng bị hạn chế không vượt quá 5% tổng
dư nợ của ngân hàng. Điều này là cần thiết để giảm rủi ro tập trung trên danh mục.
Trên thực tế, các ngân hàng TMCP cũng đưa những quy định này vào trong chính
sách cho vay của mình để thực hiện. Cùng với chính sách giới hạn cho vay, những
quy định hạn chế cho vay/không cho vay giúp các ngân hàng tránh xung đột
quyền lợi dẫn đến lệch hướng trong cho vay và tập trung rủi ro trên danh mục.
2.3.1.2. Phần lớn các ngân hàng TMCP đã tổ chức bộ máy 3 tuyến phòng vệ
nhằm thực hiện và giám sát danh mục cho vay.
Quản trị danh mục nói riêng và quản trị ngân hàng nói chung đòi hỏi phải
tuân theo những quy tắc về mặt tổ chức như đã đề cập trong chương 1. Trên thực
tế tại các ngân hàng TMCP, những quy tắc như bất kiêm nhiệm, quy tắc tránh
xung đột quyền lợi … đều được các ngân hàng cụ thể hóa bằng những quy định
trong quy trình cấp tín dụng, quy trình giải ngân hoặc quy trình xử lý nợ có vấn
đề. Nhìn chung, ở hầu hết các ngân hàng TMCP đều hình thành ba tuyến phòng vệ
trong quá trình thực hiện và giám sát danh mục cho vay (xem hình 2.1)
Tuyến phòng vệ thứ nhất chính là bộ phận tác nghiệp, được xem là nơi “tạo
ra” rủi ro, bởi vì bộ phận tác nghiệp là nơi thực hiện các giao dịch cho vay, từ đó
mà hình thành nên danh mục cho vay của ngân hàng. Hiện nay các ngân hàng
luôn luôn thiết lập một quy trình cấp tín dụng chặt chẽ và việc tuân thủ quy trình
96
này được xem là thiết lập các chốt kiểm soát cài đặt trong chính quá trình tác
nghiệp, từ đó rủi ro danh mục cho vay sẽ được kiểm soát. Bên cạnh khối tác
nghiệp, tại nhiều ngân hàng đã hình thành khối/ bộ phận quản lý rủi ro có chức
năng độc lập, hoạt động song song với khối tác nghiệp, chịu sự điều hành của Ban
giám đốc. Theo dữ liệu thu thập được trên báo cáo thường niên của các ngân hàng
TMCP Việt Nam ở thời điểm cuối năm 2010, trong số 37 ngân hàng TMCP có
khoảng 24 ngân hàng TMCP (tương đương 65%) đã có bộ phận quản lý rủi ro độc
lập. Cụ thể như SACOMBANK, ACB, MB, EXIMBANK ... đều thành lập khối
giám sát/ khối quản trị rủi ro trực thuộc ban điều hành, do một phó tổng giám đốc
chịu trách nhiệm chỉ đạo trực tiếp. Trong cơ cấu khối quản trị rủi ro có thành lập
phòng quản lý rủi ro, hoạt động độc lập tương đối với các phòng ban tác
nghiệp/kinh doanh thuộc các khối khác như phòng quan hệ khách hàng, phòng
khách hàng doanh nghiệp, phòng khách hàng cá nhân ... Đây là mô hình phù hợp
với quan điểm quản trị rủi ro ngân hàng trong xu thế hiện nay. Với chức năng theo
dõi giám sát rủi ro một cách độc lập, là đầu mối giúp Ban điều hành nắm vững
tình trạng “sức khỏe” của danh mục cho vay, khối/ bộ phận quản lý rủi ro được
xem là tuyến phòng vệ thứ hai rất hữu hiệu trong quản trị danh mục cho vay.
97
HÌNH 2.1
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC THỰC HIỆN VÀ GIÁM SÁT DANH MỤC CHO VAY
ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
BAN ĐIỀU HÀNH
KHỐI
TÁC NGHIỆP
TUYẾN
PHÒNG VỆ
THỨ NHẤT
--------BỘ PHẬN
TÁC NGHIỆP
TUYẾN
PHÒNG VỆ
THỨ HAI
---------
KHỐI QUẢN TRỊ
RỦI RO
TUYẾN
PHÒNG VỆ
THỨ BA
---------
BAN
KIỂM SOÁT
BỘ PHẬN
KIỂM TOÁN
NỘI BỘ
Nguồn: tập hợp từ báo cáo thường niên của các ngân hàng TMCP [34]
Cuối cùng là tuyến phòng vệ thứ ba với chức năng của Ban kiểm soát và
được thực hiện bởi bộ phận kiểm toán nội bộ, trực thuộc Ban kiểm soát. Trong mô
hình của các ngân hàng TMCP hiện nay, Ban kiểm soát trực thuộc đại hội đồng cổ
đông, do đại hội đồng cổ đông bầu ra. Điều này đảm bảo cho sự tách biệt giữa
chức năng giám sát với chức năng hoạch định chiến lược và chức năng tác nghiệp.
Với vị trí độc lập này, ban kiểm soát có quyền triệu tập đại hội cổ đông bất thường
nếu thấy hội đồng quản trị có dấu hiệu vi phạm. Nếu như tính độc lập của khối/bộ
phận quản lý rủi ro phần nào bị hạn chế (do vẫn trực thuộc Ban điều hành) thì bộ
phận kiểm toán và Ban kiểm soát có tính độc lập rất cao: có thể đánh giá cả công
tác quản trị của hội đồng quản trị và công tác điều hành của ban giám đốc, thực
hiện đồng thời giám sát tuân thủ và giám sát cảnh báo rủi ro liên quan đến hoạt
động cho vay nói chung, danh mục cho vay nói riêng.
Có thể nói với mô hình tổ chức giám sát 3 tuyến phòng vệ như trên, về cơ
bản các ngân hàng TMCP Việt Nam hiện nay đã thể hiện rõ quan điểm hướng tới
98
quản trị rủi ro, trong đó có rủi ro danh mục cho vay. Trong năm 2009 và 2010,
một số ngân hàng TMCP quy mô lớn đã cơ cấu lại bộ máy tổ chức theo hướng
chuyên môn hóa nghiệp vụ, nhất là về quản trị rủi ro. Chẳng hạn ngân hàng
TMCP Đông Nam Á (Sea bank) hình thành khối quản trị rủi ro tại hội sở (do
chuyên gia cao cấp của ngân hàng Société Générale - Pháp làm giám đốc). Khối
này nghiên cứu và đề xuất các quy định về an toàn tín dụng, xây dựng cơ sở dữ
liệu phục vụ cho quản lý rủi ro và đánh giá rủi ro tín dụng. Đồng thời tại mỗi chi
nhánh của ngân hàng này, lại có một chuyên gia quản lý rủi ro tín dụng độc lập,
trực thuộc khối quản lý rủi ro tại hội sở, chịu trách nhiệm thẩm định rủi ro tín
dụng ở cấp độ đầu tiên. Việc hình thành mô hình tổ chức quản lý theo hàng dọc
như vậy, bước đầu có thể tạo ra sự thay đổi khá tốn kém chi phí, tuy nhiên khi mô
hình đã vận hành và đi vào hoạt động thì hiệu quả đạt được chắc chắn sẽ cao hơn
là cách tổ chức phân tán như một số ngân hàng TMCP khác. Ngoài ra tại ngân
hàng TECHCOMBANK cũng đã thành lập phòng “Các mô hình quản trị rủi ro tín
dụng”, tồn tại song song với phòng quản trị rủi ro tín dụng, cả hai phòng này
thuộc khối thẩm định và quản trị rủi ro tín dụng, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của tổng
giám đốc điều hành.
2.3.1.3. Một số ít các ngân hàng TMCP đã vận hành hệ thống xếp hạng tín
dụng nội bộ, tạo tiền đề cho quá trình đánh giá rủi ro nói chung và rủi ro danh
mục cho vay nói riêng.
Một trong những nội dung quan trọng để quản trị rủi ro nói chung và rủi ro
danh mục cho vay nói riêng là sử dụng phương pháp đo lường đánh giá rủi ro
thích hợp. Theo khuyến nghị của ủy ban Basel các ngân hàng có thể lựa chọn một
trong ba phương pháp: phương pháp đánh giá nội bộ cơ bản; phương pháp đánh
giá nội bộ nâng cao và phương pháp tiêu chuẩn hóa, miễn sao phù hợp với điều
kiện của từng ngân hàng. Trong ba phương pháp nêu trên, phương pháp tiêu chuẩn
hóa (dựa trên đánh giá của các cơ quan xếp hạng bên ngoài) được áp dụng phổ
biến tại các nước phát triển, nhưng không thích hợp và không được ưa chuộng tại
99
các nước châu Á, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, 2 phương pháp đánh giá còn lại
thường được quan tâm hơn. Tại Việt Nam, hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước
trong quyết định 493/2005/QĐ-NHNN yêu cầu các ngân hàng xây dựng một hệ
thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Như vậy có thể hiểu xu hướng của ngân hàng Nhà
nước là khuyến khích các ngân hàng sử dụng phương pháp đánh giá nội bộ. Theo
đó mỗi ngân hàng sẽ sử dụng cách đánh giá của riêng mình, không dựa vào kết
quả của các cơ quan xếp hạng tín nhiệm bên ngoài. Theo quan điểm cá nhân,
người viết cho rằng đây là phương pháp thích hợp nhất trong điều kiện hiện tại
của các ngân hàng Việt Nam. Quy định của ngân hàng Nhà nước là trong vòng 3
năm kể từ sau khi quyết định 493/2005/QĐ-NHNN có hiệu lực (tức là chậm nhất
đến tháng 4/2008) các ngân hàng thương mại phải hoàn thành hệ thống xếp hạng
tín dụng nội bộ, trên cơ sở đó xây dựng chính sách dự phòng rủi ro và trình cho
ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, tính đến thời điểm cuối năm 2010 có rất ít ngân
hàng xây dựng được hệ thống XHTD nội bộ (theo đánh giá của ngân hàng Nhà
nước trong bản giải trình nội dung sửa đổi quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và
quyết định 18/2007/QĐ-NHNN chỉ có 3 ngân hàng tính đến quý 1 năm 2010 xây
dựng được hệ thống này [29]. Hầu hết các ngân hàng vẫn trong quá trình xây dựng
và thử nghiệm. Chẳng hạn tại ngân hàng TECHCOMBANK trong năm 2010, khối
quản trị rủi ro của ngân hàng này đã hoàn thành phương pháp xây dựng hệ thống
xếp hạng tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, siêu nhỏ theo dự án trên cơ sở
mô hình quản trị rủi ro tín dụng do tổ chức McKisey tư vấn. Mô hình này bước
đầu đã triển khai thí điểm tại 6 chi nhánh và dự kiến triển khai đại trà trong toàn
ngân hàng TECHCOMBANK vào năm 2011.
Bảng 2.9; 2.10 và 2.11 dưới đây minh họa hệ thống xếp hạng của ngân hàng
ACB. Theo hệ thống xếp hạng của ngân hàng này, hạng khách hàng được chia
thành 10 cấp độ, từ tốt là AAA giảm dần cho đến mức vỡ nợ là D. Mỗi loại khách
hàng tương ứng với một xác xuất vỡ nợ khác nhau. Xác xuất vỡ nợ của người vay
100
trong hệ thống xếp hạng được ngân hàng xác định từ các dữ liệu thống kê trong
quá khứ để tham chiếu (thông thường trong khoảng từ 3 – 5 năm).
Sau khi xếp hạng người vay, ngân hàng tiếp tục xếp hạng tài sản bảo đảm
theo các cấp độ khác nhau, mỗi cấp độ ứng với một tỷ lệ rủi ro không thu hồi
được (còn gọi là mức gây thiệt hại do vỡ nợ)
BẢNG 2.9 - XẾP HẠNG KHÁCH HÀNG
Loại doanh
nghiệp
1. AAA
2. AA
3. A
4. BBB
5. BB
6. B
7. CCC
8. CC
9. C
10. D
Xếp hạng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Xác suất vỡ nợ
(%)
0,15
0,30
0,60
1,10
2,00
3,00
5,00
8,00
15,00
100,00
Nhận xét
Tốt
Khá
Trung bình
Dưới trung bình
Vỡ nợ
Nguồn: Sổ tay tín dụng của ACB [36]
BẢNG 2.10 - XẾP HẠNG TÀI SẢN BẢO ĐẢM
Mức gây
5
thiệt hại
%
Xếp hạng
1
Loại TSĐB AAA
10
%
2
AA
20
%
3
A
30
%
4
BBB
40
%
5
BB
50
%
6
B
60 70%
%
7
8
CCC CC
80
%
9
C
Nguồn: Sổ tay tín dụng của ACB [36]
Bước tiếp sau của quá trình xếp hạng là ngân hàng tập hợp từ kết quả xếp
hạng khách hàng và xếp hạng tài sản bảo đảm để xác định giá rủi ro (hay còn gọi
là phần bù đắp cho rủi ro tín dụng) của khoản vay theo công thức:
101
Giá rủi ro tín dụng = Xác suất vỡ nợ * Mức gây thiệt hại
Cuối cùng ngân hàng đưa ra kết quả tổng hợp từ giá rủi ro tín dụng theo bảng
2.11. Kết quả này sẽ là căn cứ để các cấp quản trị của ngân hàng ra quyết định cấp
tín dụng.
BẢNG 2.11 - TỔNG HỢP KẾT QUẢ XẾP HẠNG RỦI RO
Xếp hạng
DN
Xếp
hạng TSĐB
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
1
Lành
Lành
Rất lành Rất lành Rất lành Rất lành
mạnh và mạnh và mạnh và mạnh và mạnh và mạnh và
tốt
tốt
tốt
tốt
tốt
tốt
Khá tốt
Khá tốt
Trung
bình
Từ chối
2
Rất lành Rất lành
Lành
Lành
mạnh và mạnh và mạnh và mạnh và
tốt
tốt
tốt
tốt
3
Lành
Rất lành
mạnh và mạnh và
tốt
tốt
Khá tốt
4
Lành
Lành
mạnh và mạnh và
tốt
tốt
5
Lành
mạnh và
tốt
6
Khá tốt
Khá tốt
Trung
bình
Trung
bình
Rủi ro
cao
Từ chối
Khá tốt
Khá
Trung
bình
Rủi ro
chấp nhận
Rủi ro
cao
Từ chối
Từ chối
Khá tốt
Khá
Trung
bình
Trung
bình
Rủi ro
cao
Từ chối
Từ chối
Từ chối
Khá tốt
Khá
Trung
bình
Trung
bình
Rủi ro
Từ chối
chấp nhận
Từ chối
Từ chối
Từ chối
Khá tốt
Khá tốt
Trung
bình
Trung
bình
Rủi ro
chấp nhận
Rủi ro
cao
Từ chối
Từ chối
Từ chối
Từ chối
7
Khá
Khá
Trung
bình
Rủi ro
chấp nhận
Rủi ro
cao
Từ chối
Từ chối
Từ chối
Từ chối
Từ chối
8
Trung
bình
Trung
bình
Rủi ro
Rủi ro
Từ chối
chấp nhận chấp nhận
Từ chối
Từ chối
Từ chối
Từ chối
Từ chối
9
Rủi ro
chấp nhận
Rủi ro
cao
Từ chối
Từ chối
Từ chối
Từ chối
Từ chối
Từ chối
Từ chối
Từ chối
Nguồn: Sổ tay tín dụng của ACB [36]
Qua phần minh họa từ thực tế trên đây, nhận thấy ACB đã xây dựng được hệ
thống xếp hạng khách hàng vay, cùng với hai dữ liệu căn bản cho việc xây dựng
mô hình đo lường rủi ro danh mục cho vay, đó là số liệu về xác suất vỡ nợ và tỷ lệ
tổn thất không thu hồi. Tuy nhiên, kết quả mới chỉ dừng lại ở mức độ hỗ trợ cho
quá trình ra quyết định tín dụng của ngân hàng, chưa khai thác hết lợi ích của hệ
thống xếp hạng tín dụng nội bộ.
102
Nhìn chung có thể đánh giá là việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội
bộ tại các ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng TMCP nói riêng còn
chậm trễ theo yêu cầu của ngân hàng Nhà nước, nhưng khi quy định các ngân
hàng phải xây dựng hệ thống này, chính ngân hàng Nhà nước đã hình thành một
quan niệm mới, cách nhìn nhận mới về đánh giá rủi ro tại các ngân hàng thương
mại Việt Nam (tính đến thời điểm quyết định 493 được ban hành). Đó là tiền đề
rất quan trọng cho việc áp dụng quản trị danh mục cho vay theo xu hướng của nền
kinh tế hiện đại.
2.3.1.4. Hầu hết các ngân hàng đã sử dụng biện pháp nội bảng khi tiến hành
điều chỉnh danh mục cho vay.
Như đã đề cập trong chương 1 (mục 1.2.3.3), khi một ngân hàng muốn điều
chỉnh danh mục, họ có thể sử dụng phương pháp nội bảng hoặc ngoại bảng. Tại
Việt Nam, hầu hết các ngân hàng sử dụng phương pháp nội bảng. Cụ thể khi
muốn điều chỉnh giảm tỷ trọng dư nợ một loại hình cho vay nào đó, các ngân hàng
thương mại Việt Nam thường áp dụng một trong các cách như: giảm dư nợ thông
qua biện pháp tích cực thu nợ đối với loại hình cho vay cần giảm; tăng dư nợ các
loại hình cho vay khác để thay đổi tỷ trọng các loại cho vay như mong muốn; cuối
cùng là sử dụng cả biện pháp thường bị ngân hàng Nhà nước nghiêm cấm là “đảo
nợ” để thay đổi mục đích khoản vay, chuyển đổi loại hình dư nợ. Trong thời gian
qua, khi ngân hàng Nhà nước ban hành các quyết định, chỉ thị giới hạn dư nợ cho
vay kinh doanh chứng khoán/kinh doanh bất động sản, cho vay phi sản xuất, các
ngân hàng TMCP chủ yếu sử dụng các biện pháp nội bảng để tuân thủ.
Ngoài các biện pháp kể trên, một biện pháp điều chỉnh nội bảng khác cũng
được đề cập đến tại Việt Nam là mua bán nợ. Năm 2006, ngân hàng Nhà nước ban
hành quy chế về mua bán nợ kèm theo quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày
21/12/2006, thay thế cho quyết định số 140/1999/QĐ-NHNN14 ngày 19/04/1999.
Với quy chế mới này, khung pháp lý cho thị trường mua bán nợ tiếp tục được
hoàn thiện và bổ sung. Phạm vi áp dụng mua bán nợ là tất cả những khoản nợ của
103
tổ chức tín dụng đang tồn tại, kể cả trên danh mục cũng như đang theo dõi ngoại
bảng tại thời điểm diễn ra giao dịch. Về phương thức thực hiện mua bán nợ có thể
qua đàm phán trực tiếp/ có môi giới hoặc là thông qua đấu giá. Khoản nợ có thể
được mua bán toàn bộ, một phần hoặc là mua bán nhiều lần. Hai bên có thể thỏa
thuận bán miễn truy đòi hoặc có truy đòi. Giá mua bán hình thành do hai bên thỏa
thuận, tuy nhiên với các khoản nợ lành mạnh thuộc nhóm 1, văn bản quy định giá
mua bán không thấp hơn giá trị của khoản nợ. Có thể nói những quy định mua bán
nợ của ngân hàng Nhà nước đã bước đầu tạo hành lang pháp lý cho việc chuyển
giao các khoản nợ, giúp các ngân hàng cơ cấu lại danh mục, nâng cao hiệu quả
quản trị danh mục cho vay tại các ngân hàng.
Tóm lại, tính đến năm 2006 mặc dù thuật ngữ “quản trị danh mục cho vay”
được xem là khá mới mẻ tại Việt Nam, nhưng một số nội dung của hoạt động
quản trị danh mục cho vay cũng đã bước đầu được thực hiện tại Việt Nam trong
giai đoạn 2006 -2010. Tuy chưa thực sự hoàn chỉnh, nhưng chúng đặt nền móng
quan trọng cho việc thay đổi từ quan niệm quản trị từng giao dịch một cách đơn
thuần sang quản trị danh mục cho vay theo xu hướng hiện đại.
2.3.2. Những hạn chế trong quản trị danh mục cho vay tại các ngân hàng
TMCP Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010
Bên cạnh những kết quả bước đầu đạt được, có thể rút ra một số hạn chế về
công tác quản trị danh mục cho vay của các ngân hàng TMCP Việt Nam trong
thời gian 2006 -2010
2.3.2.1. Hầu hết các ngân hàng TMCP chưa thực hiện quản trị danh mục cho
vay, một số ít quản trị theo phương pháp thụ động nên mức độ ổn định thấp, dễ
bị tác động bởi nhu cầu thị trường trong hình thành danh mục.
Qua tìm hiểu thực tế hầu hết các ngân hàng TMCP Việt Nam chỉ quan tâm
đến quản trị từng giao dịch cho vay, chưa áp dụng quản trị danh mục cho vay. Chỉ
104
có một số ít ngân hàng TMCP quy mô lớn áp dụng phương pháp quản trị danh
mục thụ động. Biểu hiện trong kế hoạch hàng năm của các ngân hàng này có đưa
ra các định hướng chung/định hướng ưu tiên trong việc thực hiện cho vay (như đã
chỉ ra trong mục 2.3.1.1). Còn lại hầu hết các ngân hàng TMCP đã không thiết lập
được một danh mục cho vay với cơ cấu dự kiến, cũng như không xây dựng được
các giới hạn cần thiết cho từng ngành/ từng khu vực kinh doanh/ từng loại hình
cấp tín dụng phù hợp với đặc điểm của riêng ngân hàng. Vì thế, cơ cấu danh mục
cho vay của ngân hàng khó tránh khỏi tự phát, tỷ trọng các loại cho vay hình
thành ngẫu nhiên, bị dẫn dắt bởi thị trường. Thực tế cho thấy giai đoạn 2006 –
2007 là thời kỳ thị trường chứng khoán và bất động sản tại Việt Nam phát triển
mạnh mẽ. Hầu hết các ngân hàng không chỉ đầu tư, góp vốn mua cổ phiếu, mà còn
tập trung cho vay hai lĩnh vực này với số dư nợ khá lớn, dẫn đến mất cân đối trong
danh mục cho vay và danh mục tài sản của từng ngân hàng. Số liệu trên danh mục
cho vay theo ngành của các ngân hàng TMCP (xem phụ lục 10) chỉ ra trong năm
2007 tại nhiều ngân hàng hai loại hình cho vay “Dịch vụ cá nhân & cộng đồng” và
“Tư vấn và kinh doanh bất động sản” đều có tốc độ tăng trưởng rất cao, cao hơn
hẳn tốc độ tăng trưởng toàn danh mục cho vay của mỗi ngân hàng. Chẳng hạn tại
ACB, tốc độ tăng dư nợ dịch vụ cá nhân & cộng đồng và tốc độ tăng tư vấn kinh
doanh bất động sản lần lượt là 126.3% và 137.9%, trong khi tăng tổng dư nợ
chung chỉ ở mức 87%. SACOMBANK có tốc độ tăng đột biến hai loại hình này là
305.7% và 314.4% trong khi tăng tổng dư nợ là 145.8%. Tại EXIMBANK dư nợ
dịch vụ cá nhân và cộng đồng tăng 109.4% trong khi tăng tổng dư nợ là 80.8%....
Theo một tài liệu có nguồn trích dẫn số liệu từ ngân hàng Nhà nước, trong
năm 2007 có một số ngân hàng/tổ chức tín dụng cho vay kinh doanh chứng khoán
chiếm tới 40% tổng dư nợ. Cũng có ngân hàng TMCP cho một cá nhân vay kinh
doanh chứng khoán con số lên tới 200 tỷ đồng [11]. Tính đến cuối năm 2007 có
trên 25 tổ chức tín dụng (chủ yếu là ngân hàng TMCP) cho vay bất động sản
chiếm trên 20% dư nợ. Mặc dù không có số liệu thống kê chính xác công bố về tỷ
105
trọng cho vay kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bất động sản chiếm trong tổng
dư nợ của các ngân hàng, tuy nhiên căn cứ vào các văn bản mà ngân hàng Nhà
nước ban hành trong thời kỳ này (chỉ thị 03/2007/CT-NHNN ngày 28/05/2007 và
quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN ngày 1/2/2008 về kiểm soát cho vay đầu tư và
kinh doanh chứng khoán), cũng đã thể hiện rằng tỷ trọng dư nợ mà các ngân hàng
thương mại Việt Nam nói chung, ngân hàng TMCP nói riêng, tập trung cho các
ngành thuộc loại “nhạy cảm” là rất lớn. Phần phân tích số liệu trong mục 2.2.2
cũng cho thấy dư nợ lĩnh vực phi sản xuất (bất động sản, chứng khoán, tiêu dùng)
chiếm tỷ trọng khá cao tại nhiều ngân hàng TMCP.
Ngoài những biểu hiện tập trung rủi ro theo ngành kinh tế, lĩnh vực đầu tư,
các ngân hàng cũng vi phạm những quy định của ngân hàng Nhà nước về việc
tránh tập trung dồn vốn cho một đối tượng khách hàng. Theo đánh giá của trung
tâm thông tin tín dụng CIC thì mặc dù việc tuân thủ của các ngân hàng TMCP đã
tiến bộ hơn trước, tuy nhiên có những thời điểm trong năm 2007 vẫn ghi nhận sự
“xé rào”, cụ thể SACOMBANK cho một khách hàng vay tới 48% vốn tự có,
SAIGONBANK 33%. Theo tổng hợp báo cáo của CIC trong tuần cuối cùng của
tháng 9/2009 có tới 13 tổ chức tín dụng cho vay vượt tỷ lệ quy định của ngân hàng
Nhà nước. Trong đó 9 tổ chức tín dụng được Thống đốc ngân hàng cho phép, chỉ
có 4 ngân hàng là vi phạm không được phép. Có 2 ngân hàng TMCP trong số 4 tổ
chức tín dụng đó cho vay vượt 15% vốn tự có của ngân hàng. Đó là các ngân hàng
TMCP Hàng Hải cho một công ty vay tới 16.43% vốn tự có và ngân hàng TMCP
Tín Nghĩa cho một khách hàng cá nhân vay tới 16.34% vốn tự có trong suốt thời
gian dài [9]
Hậu quả của tình trạng đầu tư cho vay theo phong trào là cơ cấu danh mục
cho vay bất ổn, vi phạm giới hạn an toàn trên toàn danh mục, gây khó khăn cho
kết quả hoạt động của các năm kế tiếp. Thông thường những rủi ro tiềm ẩn trên
danh mục cho vay có thể dễ dàng nhận thấy từ các dấu hiệu như đã chỉ ra trong
106
mục 1.2.2.1. Nhưng tác hại của chúng đối với ngân hàng thì phải sau một thời
gian mới bộc lộ ra được. Có thể thấy rõ điều này khi so sánh các con số gia tăng
đột biến dư nợ các ngành phi sản xuất như kinh doanh chứng khoán, bất động sản
… trong thời kỳ 2006 – 2007 và kết quả trích dự phòng rủi ro tín dụng vào các
năm sau đó (xem phụ lục 13). Cụ thể trong các năm 2008; 2009 và 2010 tốc độ
trích quỹ dự phòng rủi ro của các ngân hàng TMCP lớn gấp nhiều lần tốc độ tăng
dư nợ (ví dụ ở ACB năm 2008 và 2009 trích quỹ dự phòng tăng 69.9% và
119.5%, trong khi tăng dư nợ chỉ là 9.5% và 79.2%. SACOMBANK năm 2008 và
2009, trích quỹ dự phòng tăng 41.7 và 104.7% trong khi dư nợ giảm 1.04% năm
2008 và chỉ tăng 70.41% năm 2009). Trích dự phòng rủi ro tăng sẽ dẫn đến lợi
nhuận giảm sút, điều này được minh chứng qua kết quả lợi nhuận trong các năm
từ 2008 -2010. Theo thống kê, riêng tại thành phố Hồ Chí Minh, tốc độ tăng lợi
nhuận năm 2007 của toàn hệ thống ngân hàng trên địa bàn so với năm 2006 là
88% (gần gấp đôi năm 2006). Tuy nhiên hậu quả năm 2008, khi thị trường chứng
khoán và thị trường bất động sản “chựng” lại thì lợi nhuận của toàn hệ thống thấp
hẳn đi, chỉ đạt 90% so với năm 2007 (giảm khoảng 10%), trong khi tốc độ tăng
nguồn huy động và tăng tín dụng vẫn đạt mức trên 25% [35].
2.3.2.2. Các ngân hàng chưa xây dựng được mô hình đo lường rủi ro nội bộ vì
vậy khó định lượng chính xác mức độ rủi ro danh mục để áp dụng biện pháp
quản trị thích hợp.
Chương 1 đã chỉ ra rằng nội dung quan trọng trong quản trị danh mục cho
vay chủ động là ứng dụng mô hình đo lường rủi ro danh mục, vì vậy ứng dụng mô
hình đo lường rủi ro đang trở thành xu hướng phát triển phổ biến tại các ngân
hàng thương mại nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên tại Việt Nam các mô hình
này còn khá xa lạ. Trong thực tế, các ngân hàng Việt Nam đo lường rủi ro theo
quy định trong quyết định 493 của ngân hàng Nhà nước, trên cơ sở đó trích lập dự
phòng cho cả hai loại rủi ro ước tính được và không ước tính được. Phân tích cách
107
thức lượng hóa rủi ro tín dụng hiện tại của các ngân hàng thương mại Việt Nam
nói chung, ngân hàng TMCP Việt Nam nói riêng có thể nhận thấy những thiếu sót
cụ thể sau:
Một là quan niệm về biến cố rủi ro tín dụng chưa đầy đủ
Để đo lường rủi ro tín dụng trước hết phải xác định rõ các biểu hiện cụ thể
của biến cố rủi ro tín dụng: đó là biến cố vỡ nợ và biến cố giảm giá trị khoản nợ
trên danh mục. Trong thực tế các ngân hàng Việt Nam thường đồng nhất biến cố
rủi ro tín dụng với biến cố vỡ nợ / không trả được nợ từ phía đối tác. Như vậy,
biến cố rủi ro phát sinh từ sụt giảm giá trị khoản tín dụng trên danh mục đã không
được đề cập đến. Hạn chế này có thể lý giải vì các khoản cho vay trên danh mục
của ngân hàng Việt Nam gần như không có tính thanh khoản. Vì vậy tất cả các
khoản nợ trên danh mục luôn được nhìn nhận như giá trị trên sổ sách của nó mặc
dù chất lượng của nó có thể đã thay đổi theo thời gian, theo thực tế hoạt động của
người vay. Từ quan niệm như vậy, đã dẫn đến một thực tế là các ngân hàng Việt
Nam hầu như chỉ quan tâm đến lượng hóa rủi ro tín dụng liên quan đến biến cố vỡ
nợ. Mặt khác, như đã đề cập trong chương 1, đo lường rủi ro tín dụng bao gồm đo
lường khả năng xảy ra biến cố (được hiểu là đo lường xác xuất xảy ra) và đo
lường mức độ thiệt hại (còn hiểu là đo lường tổn thất) khi biến cố xảy ra. Trong
đó, xác xuất vỡ nợ phụ thuộc vào hạng tín nhiệm của người vay (mà cơ sở để xác
định nó là hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của các ngân hàng), còn tổn thất khi
xảy ra vỡ nợ tùy thuộc vào khả năng thu hồi khoản nợ. Trong hai yếu tố nói trên,
chỉ có tổn thất khi xảy ra vỡ nợ được quy định trong 493/2005/QĐ-NHNN căn cứ
vào khả năng thu hồi tài sản bảo đảm của khoản vay, còn xác xuất vỡ nợ hầu hết
các ngân hàng chưa tính được do hệ thống xếp hạng tín dụng chưa chính thức áp
dụng tại nhiều ngân hàng. Với thực tế trên có thể nói quan niệm đo lường rủi ro
tín dụng của các ngân hàng Việt Nam về cơ bản còn nhiều hạn chế cần khắc phục.
108
Hai là chưa tách biệt được bản chất của tổn thất kỳ vọng và tổn
thất không kỳ vọng để xác định nguồn bù đắp tương thích.
Căn cứ vào cơ sở lý thuyết ở chương 1có thể thấy khá rõ nhược điểm của
cách trích lập dự phòng tổn thất theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của ngân
hàng Nhà nước. Trong văn bản đó quy định tổn thất kỳ vọng /xác định được và
tổn thất không kỳ vọng/ không xác định được đều dùng quỹ dự phòng rủi ro để bù
đắp. Ngoại trừ tỷ lệ trích khác nhau còn nguồn trích dự phòng đều từ chi phí hoạt
động của ngân hàng. Đây là điểm bất hợp lý đầu tiên bởi lẽ chỉ có tổn thất kỳ vọng
mới có thể đo lường được để trích lập quỹ dự phòng từ chi phí hoạt động của ngân
hàng. Còn tổn thất không kỳ vọng do bản chất của nó là không dự kiến được, nên
được xem là rủi ro (biến cố không chắc chắn có xảy ra hay không) chứ không phải
là chi phí do vậy không thể lập quỹ dự phòng cho nó từ chi phí hoạt động giống
như tổn thất kỳ vọng, mà dùng vốn kinh tế của ngân hàng để trang trải (như đã
phân tích trong mục 1.2.3.1). Tuy nhiên hiện nay ở Việt Nam khái niệm vốn kinh
tế không được nhắc đến trong các quy định pháp lý của ngân hàng Nhà nước Việt
Nam. Chính vì các khái niệm này chưa được hiểu đúng nên ngân hàng Việt Nam
không phân biệt chính xác nguồn bù đắp thích hợp với bản chất của từng loại tổn
thất.
Ba là cách tính toán trích lập dự phòng rủi ro chưa hợp lý
Tỷ lệ trích dự phòng cụ thể theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN quy định
chung cho từng nhóm nợ (nhóm 2 tỷ lệ 5%, nhóm 3 tỷ lệ 20%, nhóm 4 tỷ lệ 50%
và nhóm 5 tỷ lệ 100%). Bên cạnh đó, quyết định này cũng quy định tỷ lệ quy đổi
giá trị của các loại tài sản bảo đảm (ví dụ như các loại bất động sản tỷ lệ quy đổi
giá trị là 50%, thiết bị máy móc tỷ lệ tỷ lệ quy đổi là 30% …).
Công thức tính dự phòng cụ thể quy định như sau:
R = max {0, (A-C)}*r
109
Với: R là số tiền dự phòng cụ thể phải trích, A là giá trị khoản nợ, C là giá trị
của tài sản bảo đảm (được quy đổi theo hệ số quy định), r là tỷ lệ trích dự phòng
cụ thể.
Phân tích công thức tính trên đây, có thể thấy số tiền dự phòng rủi ro phụ
thuộc vào giá trị khoản vay, giá trị của tài sản bảo đảm cho khoản vay và tỷ lệ
trích dự phòng. Trong đó phần chênh lệch của (A-C) có thể hiểu là giá trị chịu rủi
ro của khoản vay. Yếu tố r là tỷ lệ tổn thất của khoản vay khi xảy ra vỡ nợ, tương
đương như yếu tố LGD trong công thức của ủy ban Basel. Như vậy nếu giá trị
khoản vay nhỏ hơn hoặc bằng giá trị tài sản bảo đảm tương ứng cho khoản vay thì
coi như khoản vay không có rủi ro và không phải trích dự phòng. Cách tính dự
phòng như trên, có điểm bất hợp lý là xác suất vỡ nợ (PD) đã không được đưa vào
trong công thức tính. Trong khi theo quan điểm của ủy ban Basel thì tổn thất của
một khoản vay phụ thuộc đồng thời cả ba yếu tố là tỷ lệ không thu hồi được của
khoản vay (LGD), xác suất vỡ nợ của chủ thể vay (PD) và giá trị của khoản vay
(EAD). Nếu theo cách tính trong quyết định 493/2005/QĐ-NHNN thì hai khoản
nợ có cùng giá trị, cùng thuộc một nhóm nợ, cùng bảo đảm bằng một loại tài sản
có giá trị như nhau, sẽ có mức trích dự phòng cụ thể bằng nhau, bất kể một khoản
nợ là của một công ty có uy tín xếp hạng AAA còn khoản nợ kia của một công ty
có hạng khiêm tốn CCC. Đây là điều chưa chính xác vì rủi ro của hai công ty thể
hiện qua xác xuất vỡ nợ hoàn toàn khác nhau, nên mức độ tổn thất không thể như
nhau được. Thiết nghĩ nếu đưa thêm yếu tố PD vào công thức tính, mức trích dự
phòng sẽ thay đổi theo hạng tín nhiệm của người vay và chắc chắn sẽ giảm đi so
với cách tính trên (do PD thường nhỏ hơn 1).
Một điểm khác trong quyết định 493/2005/QĐ-NHNN cũng chưa hợp lý đó
là con số tỷ lệ trích dự phòng chung là 0,75% trên dư nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4.
Nếu coi dự phòng chung là để bù đắp cho tổn thất chưa xác định được thì cơ sở
nào để đưa ra con số 0,75% mà không phải là bất kỳ con số nào khác?
110
Bốn là chưa tính đến tương quan giữa các khoản vay trên phạm vi
toàn danh mục.
Cách tính toán trích dự phòng như trong quyết định 493/2005/QĐ-NHNN là
căn cứ vào tổn thất của từng khoản nợ đang hiện hữu, sau đó cộng gộp tổn thất
của từng khoản cho vay thành tổn thất chung của cả danh mục. Xét trên quan điểm
quản trị danh mục hiện đại thì việc tính tổn thất như vậy là chưa chính xác, bởi vì
cách tính đó đã bỏ qua sự tương quan giữa các khoản vay, cũng như không xét
đến lợi ích của việc đa dạng hóa các khoản vay trên danh mục. Nếu một danh mục
bao gồm các khoản cho vay thuộc các ngành và nhóm khách hàng độc lập với
nhau, thì khả năng xảy ra tổn thất cho danh mục sẽ thấp hơn trường hợp các khoản
cho vay thuộc các nhóm khách hàng và các ngành có quan hệ phụ thuộc nhất
định.Ví dụ dưới đây sẽ minh họa cho nhận định này:
Giả sử, ngân hàng cho vay hai khách hàng: khách hàng A thuộc ngành A có
khả năng xảy ra tổn thất không kỳ vọng tính được là 50%, còn khách hàng B
thuộc ngành B là 30%. Trên danh mục cho vay, tỷ trọng dư nợ của khách hàng A
là 40%, khách hàng B là 60%. Có hai trường hợp xảy ra:
Trường hợp thứ nhất: Nếu hai ngành A và B hoàn toàn độc lập, tức là hệ số tương
quan bằng 0 thì khả năng xảy ra tổn thất ( ) của danh mục cho vay sẽ được tính
như sau [40]:
2 = (0,52 * 0,42) + (0,32 * 0,62) + 2*0,4*0,6*0*0,5*0,3 = 0,0724
= 26,9%
Trường hợp thứ hai: Nếu hai ngành A và B có liên quan đến nhau (phụ thuộc
hoặc ràng buộc) với hệ số tương quan là 0,6. Khi đó khả năng xảy ra tổn thất của
danh mục sẽ thay đổi :
2 = (0,52 * 0,42) + (0,32 * 0,62) + 2*0,4*0,6*0,6*0,5*0,3 = 0,1156
= 34%
111
So sánh hai trường hợp trên để thấy rằng khi ngân hàng thực hiện đa dạng
hóa danh mục cho vay thì khả năng xảy ra tổn thất của danh mục sẽ thấp hơn của
từng khoản vay khi đứng độc lập (cụ thể 26,9% nhỏ hơn 50% của ngành A hoặc
30% của ngành B trong trường hợp thứ nhất). Ngoài ra cũng danh mục cho vay
đó, nếu các khoản vay có sự tương quan/phụ thuộc với nhau thì khả năng tổn thất
xảy ra sẽ cao hơn khi các khoản vay trên danh mục có tính độc lập (trường hợp
thứ hai 34% lớn hơn 26,9% của trường hợp thứ nhất).
Như vậy có thể thấy rằng, những quy định hiện đang áp dụng chưa cho phép
các ngân hàng tính một cách chính xác mức độ rủi ro danh mục cho vay để từ đó
có các biện pháp quản trị thích hợp. Mặc dù trong các văn bản quản lý ở nhiều
thời điểm, NHNN Việt Nam thường yêu cầu các NHTM tránh dồn vốn cho một số
ít ngành/lĩnh vực kinh tế, mục đích để hạn chế khả năng tổn thất cao cho danh
mục. Tuy nhiên những quy định đó chỉ mang ý nghĩa định tính chung chung.
Muốn xác định được mức độ rủi ro chính xác để có các biện pháp xử lý phù hợp,
cần phải xây dựng mô hình đo lường rủi ro nội bộ của từng ngân hàng. Đây cũng
là vấn đề mà ủy ban Basel khuyến khích các ngân hàng thương mại thực hiện.
2.3.2.3. Việc điều chỉnh danh mục cho vay ít được chú ý, hoặc chỉ sử dụng
phương pháp nội bảng nên thường thiếu linh hoạt, tác động chậm.
Nghiên cứu thực trạng danh mục cho vay của ngân hàng TMCP trong nhiều
năm liền (mục 2.2) có thể dễ dàng nhận thấy thực tế báo cáo danh mục cho vay
của các ngân hàng không có sự gắn kết gì nhiều với định hướng cho vay của chính
ngân hàng. Ví dụ SCB định hướng “cho vay pháp nhân 65%, thể nhân không quá
35%”, nhưng thực tế riêng loại cho vay “hoạt động cá nhân & cộng đồng” luôn ở
mức trên 60%, chênh lệch khá nhiều so với định hướng nhưng ngân hàng không
có sự điều chỉnh nào cả trong nhiều năm liên tục. Hoặc như TECHCOMBANK
báo cáo danh mục cho vay theo ngành kinh tế năm 2010, khác hẳn so với định
hướng danh mục cho vay (bảng 2.8). Tình trạng đó có thể là hậu quả của hai
112
nguyên nhân sau: (i) thứ nhất các chỉ tiêu định hướng được xây dựng trên con số
dự báo, rất khó chính xác, cộng thêm ý nghĩa định hướng nên không bắt buộc thực
hiện, vì vậy nếu thực tế ngân hàng bị cuốn hút bởi thị trường, thì sự sai lệch giữa
con số định hướng và con số báo cáo thực tế là không thể tránh khỏi; (ii) thứ hai
có thể ngân hàng đã thấy được sự lệch hướng đó nhưng không có các biện pháp
điều chỉnh hiệu quả, vì vậy đành chấp nhận báo cáo danh mục không như định
hướng ban đầu.
Trong thời gian qua, có thể thấy rằng việc các ngân hàng điều chỉnh cơ cấu
danh mục để giảm tỷ trọng dư nợ của một loại tài sản cho vay nào đó thường bắt
nguồn từ lý do phải tuân thủ theo quy định của ngân hàng Nhà nước (chỉ thị
03/2007/CT-NHNN; quyết định 03/2008/QĐ-NHNN; thông tư 13/2010/TTNHNN; thông tư 19/2010/TT-NHNN, hoặc gần nhất là Chỉ thị số 01/CT-NHNN
ngày 1/3/2011 quy định giảm dư nợ phi sản xuất xuống 16% vào cuối năm 2011).
Như đã đề cập trong phần đánh giá kết quả của hoạt động quản trị danh mục cho
vay (mục 2.3.1.4), khi cần điều chỉnh quy mô dư nợ và cơ cấu danh mục, hầu hết
các ngân hàng thương mại Việt Nam sử dụng phương pháp nội bảng (thu hồi nợ,
tăng quy mô dư nợ …). Nhưng hiệu quả của các biện pháp này thường có độ trễ
nhất định về thời gian (có thể thấy rõ điều này vì các quyết định, chỉ thị điều chỉnh
dư nợ của ngân hàng Nhà nước thường có hiệu lực thi hành sau vài tháng kể từ khi
ban hành).
Ngoài các biện pháp trên, thì sử dụng mua bán nợ cũng là biện pháp thường
được nhắc đến khi muốn điều chỉnh cơ cấu danh mục cho vay. Đây là biện pháp
điều chỉnh nội bảng tỏ ra linh hoạt hơn cả, do có thể phát huy tác dụng trong thời
gian ngắn. Mặc dù quy chế mua bán nợ đã được ban hành, tuy nhiên cho đến năm
2010 tại Việt Nam vẫn chưa hình thành một thị trường mua bán nợ thực sự. Chỉ có
một số chủ thể tham gia như công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng (DATC) trực
thuộc Bộ tài chính (ra đời năm 2003) và các công ty mua bán nợ trực thuộc các
113
ngân hàng thương mại. Phạm vi hoạt động của các công ty này có giới hạn khác
nhau: DATC chủ yếu mua và xử lý nợ tồn đọng của các doanh nghiệp sở hữu Nhà
nước, phục vụ cho quá trình cổ phần hóa. Do vậy nợ mà công ty này mua để xử lý
hầu hết thuộc các ngân hàng thương mại SHNN. Còn các công ty khai thác tài sản
trực thuộc ngân hàng thương mại thường chỉ xử lý những khoản nợ và tài sản do
ngân hàng mẹ chuyển sang, cách thức chủ yếu mà họ xử lý là khởi kiện để thu nợ,
việc mua bán trao đổi hầu như không được thực hiện ở các công ty này. Bên cạnh
đó, thị trường tài chính Việt Nam còn thiếu các quỹ đầu tư, các tổ chức tài chính
kinh doanh mạo hiểm tham gia, nên đánh giá chung thị trường cung cầu về mua
bán, chuyển đổi các khoản nợ hoạt động không đáng kể.
Theo người viết, một lý do khác cũng khiến thị trường mua bán nợ tại Việt
Nam chưa phát triển là do thiếu cơ sở cho việc định giá khoản nợ khi trao đổi.
Cho đến nay, tại Việt Nam vẫn chưa hình thành quan niệm đánh giá giá trị tài sản,
(trong đó có khoản nợ), theo quan điểm hiện giá dòng tiền, mà thông thường vẫn
nhìn nhận chúng theo giá trị trên sổ sách. Điều này cũng thể hiện rõ trong nội
dung quy chế mua bán nợ của ngân hàng Nhà nước ban hành theo quyết định số
59/2006/QĐ-NHNN. Chẳng hạn quy định các khoản nợ nhóm 1 (đủ tiêu chuẩn)
khi trao đổi thì giá mua bán không được thấp hơn giá trị của khoản vay (được hiểu
là giá trên sổ sách) [30]. Quy định cứng nhắc như vậy hoàn toàn không có ý nghĩa
bảo vệ giá trị tài sản cho các ngân hàng, mà gây khó khăn cho việc mua bán trao
đổi. Có hai lý do để thấy rằng quy định này không hợp lý: thứ nhất là giá trên sổ
sách của khoản nợ không phản ánh chính xác giá trị thực của nó trên thị trường;
thứ hai là trong mua bán tài sản cũng như khoản nợ, giá mua bán nên để cho hai
bên giao dịch tự thương lượng. Trong một số trường hợp, giá trao đổi thậm chí có
thể thấp hơn thị trường, miễn là nó thỏa mãn mục đích của cả hai bên. Trong đó
mục đích của người bán nợ có thể là tái cơ cấu lại danh mục / thị trường mục tiêu,
muốn chuyển vốn sang các dòng sản phẩm khác, người mua nợ có thể là muốn
thâm nhập một thị trường mới, tái cơ cấu danh mục… nhưng cuối cùng cũng là để
114
đạt hiệu quả kinh doanh cao hơn, tốt hơn. Thiết nghĩ nếu không có những thay đổi
thì quy định nêu trên rất khó cho thị trường mua bán nợ phát triển tại Việt Nam.
Về phía các công cụ điều chỉnh ngoại bảng như chứng khoán hóa nợ, hoán
đổi rủi ro tín dụng … như đã đề cập trong chương 1, tính đến cuối năm 2010 tại
Việt Nam cũng chưa được phổ biến. Giao dịch hoán đổi rủi ro tín dụng đầu tiên
xuất hiện ở Việt Nam theo công văn số 3324/NHNN-CSTT tháng 4/2006 cho
phép HSBC thành phố Hồ Chí Minh thực hiện thí điểm. Sản phẩm hoán đổi rủi ro
tín dụng của HSBC Việt Nam gắn với rủi ro tín dụng của các loại trái phiếu do
Chính phủ hoặc các doanh nghiệp Việt Nam phát hành ra thị trường quốc tế hoặc
là các khoản vay dài hạn của doanh nghiệp Việt Nam tại các tổ chức tín dụng hoạt
động ở Việt Nam. Khách hàng chuyển nhượng rủi ro tín dụng (người mua bảo
hiểm) là các nhà đầu tư mua trái phiếu của Việt Nam hoặc là các tổ chức tài chính
cho vay doanh nghiệp Việt Nam; người bán bảo hiểm là các chi nhánh HSBC ở
nước ngoài. Thời hạn của các giao dịch không quá 5 năm. Trong trường hợp trái
phiếu mất giá hoặc các khoản vay bị vỡ nợ, HSBC sẽ phải thanh toán cho người
mua bảo hiểm [26].
Đánh giá chung tính đến cuối năm 2010, tại Việt Nam còn thiếu các biện
pháp/ công cụ có tính linh hoạt cao để điều chỉnh danh mục cho vay của ngân
hàng. Những biện pháp mà các ngân hàng đang áp dụng như đã kể trên thường
đơn điệu, thiếu linh hoạt, phát huy tác dụng chậm trễ. Điều này gây khó khăn
không ít cho các ngân hàng trong việc điều chỉnh những sai lệch về cơ cấu danh
mục trong quá trình thực hiện, nhằm đạt mục tiêu giảm thiểu rủi ro tập trung, đảm
bảo mục tiêu kinh doanh đã hoạch định.
2.3.2.4. Cơ cấu tổ chức ở các ngân hàng TMCP chưa thực sự phù hợp với yêu
cầu quản trị rủi ro danh mục nói riêng và quản trị danh mục cho vay nói
chung.
115
Như đã đề cập trong kết quả đạt được của hoạt động quản trị danh mục cho
vay (mục 2.3.1.2), tính đến cuối năm 2010 vẫn có tới 27% trong số các ngân hàng
TMCP chưa thành lập bộ phận chuyên môn về quản lý rủi ro. Trong số đó có
những ngân hàng vẫn áp dụng cơ cấu tổ chức ngân hàng thời kỳ bao cấp. Theo đó
các phòng ban cấu trúc thuần túy theo chức năng như phòng kế toán, phòng kế
hoạch, phòng kinh doanh, phòng nhân sự ... không có phòng quản lý rủi ro (ngân
hàng Đệ nhất, ngân hàng Phương Tây). Tại một số ngân hàng TMCP khác thì
không có bộ phận quản lý rủi ro mà chỉ có bộ phận xử lý rủi ro, tức là thiên về đối
phó với những biểu hiện đã xảy ra rồi, không chú trọng vấn đề nhận dạng, đo
lường và kiểm soát rủi ro danh mục trước khi quyết định cho vay. Chẳng hạn như
ngân hàng Kiên Long, ngân hàng Đại Á, ngân hàng Nam Việt, ngân hàng Tiên
phong ... đều ở trong tình trạng có bộ phận xử lý rủi ro nhưng không có bộ phận
quản lý rủi ro. Nguyên nhân có thể do nhiều ngân hàng TMCP Việt Nam hiện nay
chưa áp dụng quản trị danh mục cho vay, hoặc chỉ quản trị thụ động vì vậy nhiệm
vụ chủ yếu của bộ phận này chỉ là tập hợp các báo cáo định kỳ chuyển lên cho ban
giám đốc, phục vụ cho công việc xử lý sau đó.
Mặt khác, ngay tại các ngân hàng TMCP đã có bộ phận quản lý rủi ro thì
tính chất “độc lập” của bộ phận này cũng chưa được hiểu đúng. Chẳng hạn như tại
ngân hàng TMCP Tín Nghĩa bộ phận quản lý rủi ro mặc dù đã được hình thành,
nhưng bộ phận này vẫn tham gia vào quá trình tái thẩm định tín dụng, đối với
những khoản tín dụng giá trị lớn, vượt quyền phán quyết của cấp dưới. Cơ cấu tổ
chức như vậy là chưa thực sự tách biệt giữa chức năng tạo rủi ro (tác nghiệp) và
chức năng quản lý rủi ro. Điều đó chẳng khác gì việc bộ phận quản lý rủi ro “vừa
đá bóng vừa thổi còi” hiệu quả quản lý sẽ thấp, không như mong muốn. Thực tế
cho thấy ở những ngân hàng mà bộ phận quản lý rủi ro không có tính độc lập thì
công tác quản lý rủi ro thường chỉ tập trung vào thẩm định để giảm thiểu rủi ro
giao dịch cho vay, ngân hàng khó lòng nhận dạng đầy đủ dấu hiệu rủi ro danh mục
cho vay ngay từ khi nó manh nha xuất hiện để đề xuất cho ban điều hành xử lý kịp
116
thời. Vì vậy có thể cho rằng cơ cấu tổ chức như hiện nay ở các ngân hàng TMCP
là chưa quan tâm đúng mức đến quản trị rủi ro danh mục cho vay.
2.3.3. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong quản trị danh mục cho vay tại các
ngân hàng TMCP Việt nam
2.3.3.1. Các nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng thương mại
Một là các nhà lãnh đạo ngân hàng chưa có nhận thức đầy đủ về
quản trị danh mục cho vay trong nền kinh tế hiện đại.
Trong bốn hạn chế của quản trị danh mục như đã chỉ ra trong mục 2.3.2 thì
có tới phân nửa xuất phát từ nguyên nhân chủ quan, cụ thể là từ nhận thức của nhà
quản trị ngân hàng. Áp dụng phương pháp quản trị thụ động, không thành lập bộ
phận quản lý rủi ro độc lập đều bắt nguồn từ việc chưa nhận thức đúng về sự cần
thiết cũng như phương pháp quản trị danh mục cho vay thích hợp với hoạt động
của ngân hàng trong nền kinh tế hiện đại. Điều này cũng có thể lý giải bởi lâu nay
các ngân hàng Việt Nam chỉ quen quản lý từng giao dịch cho vay, chưa ý thức về
quản trị danh mục cho vay. Mặt khác trong bối cảnh nền kinh tế đang có những
phát triển khởi sắc, sự tập trung rủi ro trên danh mục cho vay sẽ được che lấp bởi
sự tăng trưởng của kinh tế địa phương/ khu vực. Lợi nhuận của các ngân hàng có
thể gia tăng rất mạnh từ hoạt động cho vay (như tình trạng các ngân hàng thương
mại Việt Nam trong những năm 2006 và 2007) và sự thành công trong ngắn hạn
(hoặc ít nhất là chưa thất bại nặng nề) khiến cho các ngân hàng tin tưởng rằng
cách quản trị như vậy là hiệu quả. Tuy nhiên, bước vào năm 2008 khi nền kinh tế
có biểu hiện suy thoái thì hậu quả xấu của rủi ro tập trung mới bộc lộ rõ ràng (như
đã phân tích trong mục 2.3.2.1). Sự thiếu chủ động trong quản trị danh mục cho
vay, ỷ lại chờ đợi tín hiệu từ phía ngân hàng Nhà nước không phải là phương cách
đem lại kết quả tốt. Trên thực tế sự can thiệp của ngân hàng Nhà nước nhiều khi
chậm trễ, không sát kịp với diễn biến đang xảy ra. Trong bối cảnh đó, nếu ngân
hàng nào chủ động trong chiến lược của mình thì sẽ tránh được những hậu quả
117
phiền phức. Chẳng hạn như thời điểm năm 2007 khi Ngân hàng Nhà nước ban
hành Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN và sau đó là Quyết định 03/2008/QĐ-NHNN về
giới hạn dư nợ cho vay kinh doanh chứng khoán, nhiều ngân hàng đã rất khó khăn
trong việc tuân thủ. Bởi vì trước đó đã tập trung cho vay khá nhiều vào lĩnh vực
này, do vậy khi ngân hàng Nhà nước đột ngột siết chặt dư nợ thì nhiều ngân hàng
trở nên bị động, lúng túng chống đỡ và không loại trừ khả năng phải thực hiện
hành vi mở rộng doanh số một cách vội vàng để tăng dư nợ hoặc là cho vay đảo
nợ chuyển đổi mục đích nhằm tránh bị cho là vi phạm.
Trên thực tế, việc các nhà quản trị ngân hàng nhận thức chưa đúng mức về
sự cần thiết của quản trị danh mục cho vay còn thể hiện ở chỗ giao khoán chỉ tiêu
tăng dư nợ cho nhân viên, cho các phòng giao dịch, cho từng chi nhánh ngân
hàng, tức là chỉ chú trọng tăng quy mô tín dụng, không quan tâm đến cơ cấu danh
mục cho vay. Điều này dẫn đến không kiểm soát được mức độ rủi ro trên danh
mục đang hình thành và một khi những rủi ro tiềm ẩn này trở thành tổn thất thực
sự thì hậu quả là ngân hàng phải hoàn toàn hứng chịu.
Hai là một số ít ngân hàng có xu hướng chạy theo lợi nhuận trước
mắt, thiếu lâu bền, ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác quản trị
danh mục cho vay
Như đã chỉ ra trong phần thực trạng danh mục cho vay, sự thiếu đa dạng,
tập trung rủi ro trên danh mục của một số ngân hàng TMCP biểu hiện khá rõ.
Ngoài nguyên nhân chưa ý thức đầy đủ về sự cần thiết của quản trị danh mục cho
vay, chưa có một phương pháp quản trị danh mục phù hợp, ở đây không loại trừ
nguyên nhân xuất phát từ xu hướng chạy theo lợi nhuận trước mắt của một số
thành viên trong Ban giám đốc và Hội đồng quản trị ngân hàng, thậm chí có cả
những tiêu cực về mặt đạo đức, cố tình cho vay vượt giới hạn cho phép. Mặc dù
Luật Các tổ chức tín dụng quy định các giới hạn an toàn có tính pháp lệnh (về cho
vay tối đa một khách hàng/ một nhóm khách hàng), tuy nhiên trên thực tế vẫn có
118
sự vi phạm những quy định này (như đã chỉ ra trong những hạn chế của công tác
quản trị danh mục cho vay). Những hiện tượng đó được xem là các vi phạm
nghiêm trọng về quản trị danh mục cho vay mà nguyên nhân có thể xuất phát từ
rủi ro đạo đức của Ban giám đốc, từ sự thao túng, can thiệp quá sâu vào hoạt động
cho vay của một số thành viên trong Hội đồng quản trị. Nguyên nhân sâu xa của
tình trạng này có thể bắt nguồn từ mối quan hệ “sở hữu chéo” giữa các ngân hàng
và các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế đang khá phổ biến trong nền kinh tế Việt
Nam những năm gần đây.
Ba là những yếu tố cơ sở để áp dụng phương pháp quản trị danh
mục chủ động tại các ngân hàng TMCP chưa đầy đủ.
Có thể kể đến đầu tiên là công tác phân tích thông tin và dự báo tại các ngân
hàng còn yếu kém dẫn đến khó khăn trong việc chủ động thiết kế danh mục cho
vay kế hoạch. Phân tích thông tin yếu dẫn đến dự báo kém chuẩn xác là những
điểm hạn chế gần như cố hữu của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình chuyển
đổi từ một nền kinh tế bao cấp sang kinh tế mở có tính hội nhập. Hiện nay, tại các
ngân hàng TMCP việc thu thập thông tin cho quá trình phân tích tín dụng còn có
những hạn chế nhất định. Trước hết là khó khăn trong việc thu thập thông tin về
các ngành/ lĩnh vực kinh tế để phân tích rủi ro ngành, phục vụ cho quá trình xếp
hạng tín dụng nội bộ. Hiện tại, có trung tâm CIC (Credit Information Center) trực
thuộc ngân hàng Nhà nước cung cấp thông tin hỗ trợ cho bộ phận tín dụng của các
ngân hàng thương mại trong quá trình phân tích tín dụng. Tuy nhiên thông tin do
tổ chức này cung cấp thường cập nhật không kịp thời, sơ sài và dưới dạng thông
tin “thô” chưa qua xử lý, nên lợi ích của nó với ngân hàng không cao. Mặt khác
chủ yếu là các thông tin chi tiết về khách hàng, tính tổng hợp và dự báo không có
nên không phục vụ cho công tác quản trị danh mục được. Từ những thực tế đó đã
gây cản trở cho việc thiết kế một danh mục cho vay hiệu quả ngay từ khi hoạch
định chiến lược cho vay. Cũng do công tác dự báo chưa tốt, nên dễ nảy sinh tâm
119
lý “được đến đâu hay đến đó” trong việc thực hiện danh mục cho vay. Bởi lẽ có
thể xuất hiện suy nghĩ rằng thông tin chưa chính xác, độ tin cậy không cao nếu
xây dựng một danh mục cho vay với các tỷ trọng quá cụ thể sẽ dẫn đến phải liên
tục điều chỉnh sau này. Vì vậy các ngân hàng thường chỉ định hướng chung
chung. Thiết nghĩ để tạo điều kiện cho các ngân hàng áp dụng phương pháp quản
trị danh mục chủ động, đòi hỏi phải hoàn thiện được công tác dự báo thông tin
trong nền kinh tế nói chung và trong hệ thống ngân hàng nói riêng.
Kế tiếp là việc các ngân hàng TMCP chưa xây dựng và vận hành tốt hệ thống
xếp hạng tín dụng nội bộ như yêu cầu của ngân hàng Nhà nước trong quyết định
493/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005. Như đã đề cập trong phần đánh giá kết quả mục
2.3.1.3, tính đến cuối quý 1 năm 2010 mới chỉ có 3 ngân hàng xây dựng được hệ
thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Đây cũng là một trong những cản trở lớn về mặt
kỹ thuật cho việc thực hiện quản trị hoạt động cho vay nói chung. Bởi vì hệ thống
xếp hạng tín dụng nội bộ không chỉ hỗ trợ tốt cho quản trị từng giao dịch cho vay
mà còn cung cấp những yếu tố rất căn bản để có thể xây dựng mô hình định lượng
rủi ro danh mục, mà nếu không có mô hình này, sẽ rất khó để thực hiện quản trị
danh mục cho vay. Đối với quản trị giao dịch, việc chưa áp dụng một hệ thống
xếp hạng tín dụng nội bộ, sẽ khiến cho các ngân hàng thiếu cơ sở để ra quyết định
chấp thuận hoặc từ chối cho vay một cách chính xác. Mặt khác, ngân hàng cũng
chưa xác định được giá rủi ro của từng khoản vay để đưa vào lãi suất cho vay, với
mục đích bù đắp đầy đủ tổn thất kỳ vọng/dự kiến. Đối với quản trị danh mục cho
vay, không có hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, ngân hàng sẽ không có cơ sở để
đặt ra các giới hạn an toàn trên danh mục, cũng như không thể xây dựng được mô
hình đo lường tổn thất danh mục, vì thiếu các dữ liệu đầu vào quan trọng đó là xác
xuất vỡ nợ (PD) cho từng chủ thể vay và tỷ lệ tổn thất khi vỡ nợ (LGD) của từng
khoản vay, việc xác định giá / phí trao đổi khoản vay trên thị trường cũng không
có cơ sở để tính toán.
120
Một yếu tố khác cũng cản trở thực hiện phương pháp quản trị danh mục hiện
đại đó là các ngân hàng TMCP, nhất là các ngân hàng quy mô nhỏ hiện tại còn
thiếu hệ thống cơ sở dữ liệu được lưu trữ đầy đủ và khoa học, thiếu phần mềm
hiện đại hỗ trợ cho việc xử lý dữ liệu. Những yếu tố này cần phải dựa trên tiềm
lực về vốn, về con người và thời gian, vì vậy không thể dễ dàng đạt được trong
khoảng thời gian ngắn.
Bốn là hoạt động kiểm toán nội bộ tại các ngân hàng thiếu hiệu quả,
chưa hỗ trợ đúng mức cho công tác giám sát danh mục cho vay của
từng ngân hàng thương mại.
Hoạt động của các ngân hàng ngày càng phải đối mặt với nhiều loại rủi ro
đa dạng hơn kéo theo những hậu quả xấu ngày càng lớn hơn. Điều này đòi hỏi các
ngân hàng phải thiết lập cho mình một hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ hiệu
quả, có tác dụng cảnh báo sớm, phục vụ cho hoạt động quản trị tại mỗi ngân hàng.
Trong thực tế rất dễ nhầm lẫn giữa chức năng của kiểm toán nội bộ và kiểm soát
nội bộ. Hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàng hiện nay được thành lập theo
quyết định số 36/2006/QĐ-NHNN ngày 1/08/2006 của Ngân hàng Nhà nước. Hệ
thống này bao gồm các công việc xây dựng chính sách tín dụng, ban hành và thực
hiện quy trình cấp tín dụng thống nhất. Hầu hết các ngân hàng TMCP đều đang
chú trọng và thực hiện khá tốt công việc này. Tuy nhiên, hệ thống kiểm soát nội
bộ luôn gắn liền với công tác điều hành nghiệp vụ nên thiếu sự độc lập và khách
quan cần thiết.
Nhằm khắc phục tình trạng này, ngày 1/8/2010 ngân hàng Nhà nước đã ban
hành quyết định số 37/2006/QĐ-NHNN về việc thành lập hệ thống kiểm toán nội
bộ tại mỗi ngân hàng thương mại. Theo quyết định này, các ngân hàng phải thành
lập bộ phận kiểm toán nội bộ, với nguyên tắc hoạt động là độc lập, khách quan và
chuyên nghiệp, đồng thời chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ Ban kiểm soát. Ban này trực
thuộc Đại hội đồng cổ đông nên tính độc lập rất cao. Mặc dù hành lang pháp lý đã
121
được hình thành nhưng trong thực tế hoạt động kiểm toán nội bộ của các ngân
hàng còn nhiều bất cập. Theo một khảo sát trong năm 2009 của tổ chức kiểm toán
PricewaterhouseCoopers Việt Nam (PwC) tại 30 ngân hàng thương mại, có 41%
ngân hàng chưa có quy trình kiểm toán nội bộ, 78% ngân hàng cho rằng đang có
sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ với kiểm soát nội bộ,
hầu hết các ngân hàng đều thiếu lực lượng kiểm toán viên do chế độ lương bổng
thấp, đòi hỏi trách nhiệm cao [15].
Nhìn chung công tác kiểm toán nội bộ tại các ngân hàng TMCP, nhất là các
ngân hàng TMCP nhỏ (mới chuyển lên từ cổ phần nông thôn) còn thiếu hiệu quả,
chưa thực hiện đúng chức năng và quyền hạn của kiểm toán nội bộ. Hiện tại công
việc chủ yếu của kiểm toán nội bộ chỉ là kiểm tra tuân thủ, phát hiện những vi
phạm (nếu có) của ban giám đốc trong điều hành các hoạt động kinh doanh của
ngân hàng, chưa chú trọng giám sát cảnh báo rủi ro để hỗ trợ cho ban điều hành
trong quản trị danh mục. Mặt khác, chức năng giám sát công việc của Hội đồng
quản trị, chẳng hạn phát hiện dấu hiệu của sự lạm dụng, vi phạm quy định luật
pháp (như vượt giới hạn an toàn trong danh mục cho vay …) của thành viên Hội
đồng quản trị, thông qua Ban giám sát yêu cầu Đại hội đồng cổ đông có biện pháp
xử lý đối với Hội đồng quản trị, cũng chưa được thực hiện tốt.
2.3.3.2. Các nguyên nhân khách quan
Những diễn biến khó lường của môi trường kinh tế vĩ mô trong thời
gian qua đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động cho vay nói chung
và hoạt động quản trị danh mục cho vay nói riêng
Trong khoảng thời gian 5 năm 2006 – 2010, kinh tế Việt Nam trải qua
những bước thăng trầm do ảnh hưởng bởi khủng hoảng tài chính thế giới cũng
như những bất ổn trong nội tại nền kinh tế. Giai đoạn đầu trong hai năm 20062007, tiếp tục sự ổn định từ sau năm 2000, nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, cơ
122
cấu kinh tế dịch chuyển mạnh theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp,
xây dựng, thương mại và dịch vụ, giảm tương đối tỷ trọng ngành nông lâm
nghiệp. Đặc biệt một số ngành phi sản xuất như kinh doanh bất động sản, chứng
khoán .. phát triển rất hưng thịnh. Tuy nhiên sự phát triển quá nóng, thiếu kiểm
soát đối với danh mục đầu tư của Nhà nước cũng như danh mục cho vay của các
ngân hàng thương mại trong giai đoạn này đã dẫn đến những hậu quả nghiêm
trọng. Cụ thể những ngành phi sản xuất/nhạy cảm như chứng khoán, bất động sản,
kinh doanh thương mại ... phát triển với tốc độ chóng mặt, chủ yếu dựa vào vốn
vay ngân hàng (do lạm dụng đòn bẩy tài chính cao). Không có số liệu chính thức
công bố về tỷ trọng dư nợ cho vay kinh doanh chứng khoán và bất động sản chiếm
trong tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng tại thời kỳ 2006-2007. Tuy nhiên nếu
căn cứ vào sự gia tăng dư nợ các ngành bất động sản, chứng khoán với tốc độ cao
hơn rất nhiều so với tốc độ gia tăng tổng dư nợ tại các ngân hàng (phân tích trong
mục 2.3.2.1) có thể nhận định rằng đây là thời kỳ hầu hết các ngân hàng TMCP có
cơ cấu danh mục cho vay mất cân đối, tập trung rủi ro rất lớn vào một số ít ngành
có tính nhạy cảm với nền kinh tế. Và khi hậu quả mất cân đối cung cầu trầm
trọng, gây ra tình trạng suy thoái, phá sản ở các ngành này trong giai đoạn sau
năm 2008 thì các ngân hàng cũng không thể tránh khỏi tổn thất nặng nề (tăng trích
lập dự phòng, giảm lợi nhuận – xem phụ lục số 13), ảnh hưởng đến sự an toàn của
những năm sau này.
Có thể nói trong giai đoạn vừa qua, các ngân hàng thương mại nói chung,
ngân hàng TMCP nói riêng là một trong các tác nhân quan trọng gây ra sự bất ổn
của nền kinh tế khi đã thiếu kiềm chế, chạy theo nhu cầu thị trường, gia tăng tín
dụng quá nhiều cho lĩnh vực phi sản xuất (là những ngành không trực tiếp làm ra
của cải hàng hóa cho xã hội). Tuy nhiên cũng chính các ngân hàng lại trở thành
nạn nhân sau đó khi phải gánh những hậu quả nặng nề về nợ xấu liên quan, mà
hiện tại đang còn lúng túng về phương án giải quyết xử lý. Rõ ràng là sự bất ổn
của nền kinh tế giai đoạn qua đã tác động rất lớn đến chiến lược kinh doanh trong
123
ngắn hạn của các ngân hàng, cộng thêm những yếu kém về nhận thức và năng lực
quản trị đã khiến cho các ngân hàng và nền kinh tế cùng phải “trả giá”.
Môi trường pháp lý với sự hướng dẫn và giám sát của Ngân hàng
Nhà nước chưa hỗ trợ tích cực cho các ngân hàng thương mại trong
việc thực hiện tốt công tác quản trị danh mục cho vay.
Những bất ổn trong nền kinh tế cũng như trong hoạt động ngân hàng thời
kỳ 2006-2007 như đã nêu trên cũng có một phần do sự buông lỏng, thiếu giám sát
từ phía ngân hàng Nhà nước. Nếu như trước đó ngân hàng Nhà nước đưa ra được
những quy định giới hạn an toàn trong cho vay đối với các lĩnh vực/ các ngành
kinh tế (nhất là những ngành nhạy cảm), để tạo một hành lang pháp lý buộc các
ngân hàng tuân thủ thì tình trạng sẽ không xấu đến thế. Thực tế, giai đoạn 2006 và
nửa đầu năm 2007, ngoài giới hạn cho vay tối đa một khách hàng/ một nhóm
khách hàng được nêu trong Luật Các tổ chức tín dụng và quyết định 457/QĐNHNN ngày 19/4/2005 thì không có một quy định nào khác từ phía ngân hàng
Nhà nước khống chế dư nợ theo ngành/ lĩnh vực kinh tế. Vì vậy các ngân hàng
TMCP đua nhau cho vay ào ạt, tập trung vào một vài ngành theo nhu cầu thị
trường, không quan tâm đến sự thiếu đa dạng và tập trung rủi ro trên danh mục
cho vay. Cho đến khi ngân hàng Nhà nước ý thức được sự cần thiết phải giám sát
bằng việc ban hành chỉ thị 03/2007/CT-NHNN ngày 28/5/2007 (hiệu lực tháng
1/2008) và sau này là quyết định 03/2008/QĐ-NHNN ngày 1/02/2008 thì các giới
hạn an toàn trên danh mục cho vay theo ngành mới chính thức được đề cập. Nhìn
chung có thể đánh giá sự giám sát của ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của
các ngân hàng thời kỳ vừa qua đa phần là chậm trễ, bị động với diễn biến thực tế,
vì vậy hiệu quả không cao. Nguyên nhân của tình trạng này theo suy đoán có thể
liên quan đến nhận thức. Do xuất phát từ tư duy của nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, nên ngân hàng Nhà nước vẫn chủ yếu coi trọng vấn đề kiểm tra giám sát
tính tuân thủ từ phía các ngân hàng thương mại, chức năng giám sát từ xa mang
124
tính cảnh báo ít được đề cập đến. Điều này cũng được phản ánh qua đánh giá của
tổ chức SIDA trong dự án hợp tác về cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam cho
biết hoạt động giám sát của NHNN Việt Nam mới chỉ đáp ứng được 6 trong số 25
nguyên tắc giám sát của Hiệp ước Basel, có 13 nguyên tắc NHNN đang xúc tiến
thực hiện, còn 6 nguyên tắc còn lại hoàn toàn chưa có động thái nào [18].
Ngoài việc giám sát hoạt động của các ngân hàng trong nước, thì vấn đề
xây dựng hành lang pháp lý để hướng các ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế cũng
là công việc phải làm của ngân hàng Nhà nước trong giai đoạn này. Trong đề án
phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020 [28] có đề cập trước năm 2010, các ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn áp
dụng các tiêu chuẩn Basel 1 (về giám sát hoạt động ngân hàng), chỉ từ sau 2010
trở đi hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam mới chính thức áp dụng các tiêu
chuẩn trong Basel 2. Mặc dù định hướng như vậy, nhưng vào thời điểm bước sang
năm 2010, ngân hàng Nhà nước vẫn chưa có những hướng dẫn chính thức nhằm
tạo nền móng cho việc áp dụng tiêu chuẩn của Basel 2, ngoại trừ yêu cầu về việc
xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ (trong quyết định 493/QĐ-NHNN).
Tuy nhiên theo đánh giá của ngân hàng Nhà nước tại bản giải trình nội dung sửa
đổi quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN và quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN thì
quy định của ngân hàng Nhà nước về hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ còn rất
chung chung, không cụ thể nên các ngân hàng gặp khó khăn khi xây dựng, dẫn
đến không có ngân hàng nào thực hiện đúng yêu cầu theo thời hạn của ngân hàng
Nhà nước (3 năm sau khi quyết định 493 được ban hành, tức là vào tháng 4/2008).
Do thiếu hướng dẫn chi tiết, ngay cả những ngân hàng đã xây dựng được hệ thống
xếp hạng (3 ngân hàng tính đến cuối quý 1 năm 2010) “cũng chưa đánh giá và
khai thác hết vai trò, lợi ích của việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ
trong việc quản lý chất lượng tín dụng, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi
ro”[29].
125
Đánh giá chung thì việc xây dựng và thực thi các quy tắc pháp lý theo chuẩn
mực quốc tế tại Việt Nam còn yếu kém. Vì vậy có thể nói môi trường pháp lý với
sự giám sát, hướng dẫn của ngân hàng Nhà nước chưa hỗ trợ tích cực cho các
ngân hàng làm tốt công tác quản trị danh mục cho vay của mình.
Hoạt động hạn chế của thị trường tài chính trong nước khiến cho
các ngân hàng bị giới hạn trong việc sử dụng đa dạng các công cụ
điều chỉnh danh mục cho vay sau giám sát.
Như đã chỉ ra trong phần đánh giá hạn chế của công tác quản trị danh mục
cho vay, thời gian qua, khi cần điều chỉnh danh mục, các ngân hàng Việt Nam
thường sử dụng các biện pháp nội bảng mà nhược điểm của các biện pháp này là
chúng thường phát huy tác dụng khá chậm trễ và không phải lúc nào cũng đạt kết
quả như mong muốn (chẳng hạn như biện pháp tích cực thu nợ). Tuy nhiên, tính
đến cuối năm 2010, những công cụ điều chỉnh khác như mua bán nợ, hoán đổi rủi
ro tín dụng, chứng khoán hóa mà các nước thường sử dụng chưa được áp dụng
phổ biến hoặc chưa xuất hiện tại Việt Nam. Trên thị trường tài chính, mới chỉ có
phái sinh tiền tệ, sử dụng chủ yếu cho mục đích phòng ngừa rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi
suất, thiếu những phương tiện linh hoạt, nhạy bén dành riêng cho mục đích điều
chỉnh danh mục cho vay. Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ nhận thức
chưa đầy đủ về vai trò của các công cụ phái sinh tín dụng trong thị trường tài
chính hiện đại, những e ngại tất yếu khi chứng kiến sự sụp đổ các ngân hàng trên
thế giới liên quan đến công cụ phái sinh, đồng thời thiếu những nhà đầu tư thực sự
am hiểu về các loại công cụ kỹ thuật hiện đại này và sau cùng là thiếu hành lang
pháp lý cho sự vận hành của thị trường các công cụ phái sinh tín dụng. Vì thế các
nhà quản trị ngân hàng tại Việt Nam chưa có cơ hội sử dụng những công cụ hiện
đại có tính linh hoạt cao cho mục đích quản trị danh mục cho vay.
Tóm lại, ngoài ba nguyên nhân có tính khách quan kể trên cũng có thể nhắc
đến một nguyên nhân thứ yếu khác, đó là những tác động từ phía các khách hàng
126
cá nhân và doanh nghiệp, những đối tác trong giao dịch cho vay của ngân hàng
thương mại. Có không ít trong số các khách hàng, đặc biệt các khách hàng đầu tư
kinh doanh bất động sản, kinh doanh chứng khoán do chạy theo lợi nhuận, lạm
dụng đòn bẩy tài chính, chấp nhận lãi suất cao miễn vay được vốn để kinh doanh,
thậm chí đầu tư trái ngành hết sức mạo hiểm ….Tất cả những yếu tố đó đã góp
phần kích thích các ngân hàng chạy theo thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, không
quan tâm kiểm soát cơ cấu danh mục, bỏ qua nguyên tắc cơ bản trong kinh doanh
tiền tệ là đa dạng hóa nhằm phân tán rủi ro trên danh mục cho vay/ danh mục tài
sản, vì vậy hậu quả phải gánh chịu rất nặng nề trong những năm sau này.
Kết luận chương 2
Thông qua phân tích thực trạng danh mục cho vay và thực trạng công tác
quản trị danh mục cho vay tại các ngân hàng TMCP Việt Nam, chương 2 đã giải
quyết được những vấn đề sau đây:
Thứ nhất: Phân tích cơ cấu danh mục cho vay của các ngân hàng TMCP Việt
Nam trong thời gian từ 2006 đến 2010 theo các tiêu thức khác nhau (nhấn mạnh
tiêu thức cơ cấu danh mục theo ngành kinh tế), thông qua đó chỉ ra những dấu
hiệu của sự đa dạng hóa, mức độ rủi ro tập trung và việc không tuân thủ các giới
hạn an toàn cho phép trên danh mục cho vay của các ngân hàng TMCP. Trên cơ
sở những phân tích đó, đưa ra những nhận xét, đánh giá sâu sắc hơn về công tác
quản trị danh mục cho vay trong thời gian này.
Thứ hai: Luận án chỉ ra những kết quả đạt được cũng như những hạn chế trong
công tác quản trị danh mục cho vay tại các ngân hàng TMCP Việt Nam trong giai
đoạn 2006 - 2010. Về kết quả đạt được, luận án nhìn nhận 4 điểm. Bên cạnh đó
luận án cũng phân tích 4 mặt hạn chế trong quản trị danh mục cho vay của các
ngân hàng TMCP. Đó là tình trạng hầu hết các ngân hàng chưa áp dụng quản trị
danh mục cho vay, chỉ một số ít áp dụng phương pháp quản trị thụ động; các ngân
127
hàng chưa xây dựng được mô hình định lượng rủi ro vì vậy rủi ro danh mục cho
vay chưa được tính toán chính xác; cơ cấu tổ chức chưa thích hợp với quản trị
danh mục và sau cùng là việc điều chỉnh danh mục cho vay sau giám sát (nếu có)
thường chậm trễ, thiếu linh hoạt.
Thứ ba: Từ những hạn chế trong công tác quản trị danh mục cho vay của các
ngân hàng TMCP Việt Nam, luận án phân tích hai nhóm nguyên nhân khách quan
và chủ quan như sau:
Về nguyên nhân chủ quan: đầu tiên là nhận thức chưa đầy đủ của các nhà quản trị
ngân hàng về sự cần thiết của quản trị danh mục hiện đại; thứ hai là do xu hướng
chạy theo lợi nhuận trước mắt, phát sinh rủi ro đạo đức của các thành viên trong
Ban giám đốc, Hội đồng quản trị tại một số ngân hàng TMCP nên ảnh hưởng đến
hiệu quả công tác quản trị danh mục; thứ ba là các yếu tố làm cơ sở áp dụng
phương pháp quản trị danh mục cho vay tại các ngân hàng TMCP chưa đầy đủ;
thứ tư là công tác kiểm toán nội bộ của các ngân hàng chưa thực sự hiệu quả, chưa
hỗ trợ đúng mức cho hoạt động quản trị danh mục cho vay.
Về nguyên nhân khách quan có 3 nguyên nhân chính: thứ nhất là sự biến động khó
lường của môi trường kinh tế vĩ mô ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động cho vay
ngân hàng; thứ hai là môi trường pháp lý với sự hướng dẫn giám sát của ngân
hàng Nhà nước chưa thực sự hỗ trợ cho công tác quản trị danh mục cho vay; thứ
ba là thị trường tài chính trong nước hoạt động hạn chế khiến cho các công cụ
phái sinh tín dụng chưa phát triển, các ngân hàng chưa có cơ hội để sử dụng chúng
vào điều chỉnh danh mục cho vay.
Như vậy, với các nội dung đã giải quyết được, chương 2 của luận án đã
hình thành cơ sở thực tiễn cho các giải pháp đề xuất trong chương 3.
128
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ DANH MỤC CHO
VAY TẠI CÁC NGÂN HÀNG TMCP VIỆT NAM
Như đã phân tích trong chương 2, quản trị danh mục cho vay theo xu hướng
hiện đại là vấn đề mới mẻ với các ngân hàng TMCP Việt Nam, vì vậy việc ứng
dụng vào hoạt động của các ngân hàng không phải là công việc có thể hoàn tất
trong một thời gian ngắn được. Để phù hợp với chiến lược phát triển ngành ngân
hàng đến năm 2020 do ngân hàng Nhà nước đề ra, phần dưới đây luận án đề xuất
các giải pháp nhằm từng bước hoàn thiện hoạt động quản trị danh mục cho vay
của các ngân hàng TMCP Việt Nam theo xu hướng hiện đại từ nay đến năm 2020.
3.1. ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ DANH MỤC
CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG TMCP VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020
3.1.1. Định hướng hoạt động ngành ngân hàng đến năm 2020
Năm 2006 Chính phủ ban hành quyết định 112/2006/QĐ-TTg về việc phê
duyệt Đề án phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng
đến năm 2020 [28]. Trong đề án có đề cập đến các nội dung căn bản sau đây:
Về mục tiêu chung:
Tạo nền tảng đến sau năm 2010 xây dựng được hệ thống các TCTD hiện
đại, đạt trình độ tiên tiến trong khu vực Châu Á, đáp ứng đầy đủ các chuẩn mực
quốc tế về hoạt động ngân hàng, có khả năng cạnh tranh với các ngân hàng trong
khu vực và trên thế giới.
Về định hướng chiến lược phát triển các ngân hàng thương mại:
Nhằm đạt mục tiêu đã đề ra, trong đề án có vạch ra các định hướng chiến
lược cơ cấu lại toàn diện các ngân hàng thương mại trên các mặt cụ thể sau đây:
129
Thứ nhất: tăng cường năng lực thể chế (cơ cấu lại tổ chức và hoạt động) bao gồm
sắp xếp lại, đổi mới tổ chức bộ máy quản lý, kinh doanh phù hợp với thông lệ
quốc tế. Mở rộng quy mô hoạt động đi đôi với tăng cường năng lực tự kiểm tra,
quản lý rủi ro, bảo đảm an toàn và hiệu quả kinh doanh. Phát triển các hệ thống
quản lý của NHTM phù hợp với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế và thực tiễn của
các NHTM Việt Nam.
Thứ hai: Tăng cường năng lực tài chính (cơ cấu lại tài chính) bao gồm tiếp tục
tăng quy mô vốn điều lệ, tài sản có đi đôi với nâng cao chất lượng và khả năng
sinh lời của tài sản có, giảm tỷ trọng tài sản có rủi ro trong tổng tài sản có. Bên
cạnh đó tăng vốn tự có của ngân hàng bằng lợi nhuận để lại, phát hành cổ phiếu,
sáp nhập, hợp nhất, mua lại để tăng khả năng cạnh tranh và quy mô hoạt động, của
các NHTM, bảo đảm duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% trong trung hạn và 10%
trong dài hạn.
Thứ ba: Đổi mới căn bản cơ chế quản lý đối với các TCTD, theo đó, các TCTD
được thực sự tự chủ về tài chính, hoạt động, quản trị điều hành, tổ chức bộ máy,
nhân sự, hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh và được hoạt động
trong khuôn khổ pháp lý minh bạch, công khai, bình đẳng. Đặc biệt ngân hàng
Nhà nước đóng vai trò chủ yếu trong việc tạo lập môi trường thuận lợi cho hoạt
động tiền tệ, ngân hàng thông qua việc ban hành các quy định, chính sách, điều
tiết thị trường tiền tệ và tổ chức thực hiện giám sát an toàn cũng như việc chấp
hành các quy định pháp luật trong hoạt động tiền tệ, ngân hàng.
3.1.2. Định hướng hoàn thiện hoạt động quản trị danh mục cho vay tại các
ngân hàng TMCP đến năm 2020
Căn cứ vào định hướng phát triển ngành ngân hàng như đã đề cập trong
mục 3.1.1 và xuất phát từ thực trạng quản trị danh mục cho vay tại các ngân hàng
TMCP trong giai đoạn 2006-2010, luận án xây dựng định hướng hoàn thiện hoạt
130
động quản trị danh mục cho vay tại các ngân hàng TMCP đến năm 2020 với các
nội dung cơ bản như sau:
3.1.2.1. Mục tiêu hoàn thiện
Mục đích sau cùng của quản trị danh mục cho vay là xây dựng được một
danh mục cho vay thỏa mãn các yêu cầu của ngân hàng về lợi nhuận và rủi ro,
nhất là đảm bảo tổn thất của toàn danh mục luôn nằm trong khả năng, giới hạn
chịu đựng của ngân hàng. Xuất phát từ thực tiễn công tác quản trị danh mục cho
vay của các ngân hàng TMCP hiện nay, quá trình hoàn thiện hoạt động quản trị
danh mục cho vay cần phải đạt được các mục tiêu cụ thể như sau:
Hoàn tất cơ cấu tổ chức ngân hàng theo xu hướng chú trọng quản trị rủi ro
nói chung, trong đó có quản trị rủi ro danh mục cho vay, phù hợp với chuẩn
mực, thông lệ quốc tế và Luật Các tổ chức tín dụng Việt Nam.
Xây dựng cách thức đo lường rủi ro danh mục cho vay thông qua các mô
hình đo lường nội bộ, vừa đảm bảo tính tiên tiến hiện đại, vừa phù hợp với
điều kiện thực tế của mỗi ngân hàng.
Từng bước vận dụng các công cụ kỹ thuật trong quản trị danh mục hiện đại
đảm bảo đạt được các chuẩn mực quốc tế và phù hợp với điều kiện thực tế
của Việt Nam.
3.1.2.2. Định hướng hoàn thiện hoạt động quản trị danh mục cho vay tại các
ngân hàng TMCP Việt Nam
Như đã đề cập trong mục 1.2, quản trị danh mục cho vay là một trong các
phương thức quản trị hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại (cùng với
phương thức quản trị giao dịch cho vay). Theo đó đối tượng của quản trị danh
mục cho vay không phải là từng khoản cho vay mà là cơ cấu và tỷ trọng của từng
loại cho vay trong tổng thể danh mục. Điều này giúp cho ngân hàng có thể kiểm
soát được rủi ro tập trung, từ đó giảm thiểu tổn thất trên danh mục cho vay, tối đa
hóa lợi nhuận ở góc độ toàn danh mục.
131
Nhưng qua thực tế tìm hiểu về thực trạng quản trị danh mục cho vay tại các
ngân hàng TMCP Việt Nam (trong chương 2, mục 2.3), nhận thấy hầu hết các
ngân hàng chưa thực hiện quản trị danh mục cho vay một cách hoàn chỉnh, chỉ có
một số ít ngân hàng áp dụng một số nội dung rời rạc của công việc quản trị danh
mục theo phương pháp thụ động, cho nên cơ cấu danh mục cho vay của nhiều
ngân hàng TMCP thường bị thả nổi theo thị trường, rủi ro tập trung không được
kiểm soát, ngân hàng có thể phải chịu hậu quả tổn thất cao nếu thị trường phát
triển theo hướng không thuận lợi. Vì vậy, hoàn thiện hoạt động quản trị danh mục
cho vay của các ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng TMCP nói riêng
là nhiệm vụ cần thiết trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. Hoàn thiện hoạt động
quản trị danh mục cho vay tại các ngân hàng TMCP cần tuân theo các định hướng
chính như sau:
Một là đổi mới quan điểm/nhận thức về quản trị danh mục hiện đại.
Đây là nhân tố đầu tiên có ý nghĩa quyết định cho quá trình hoàn thiện hoạt
động quản trị danh mục cho vay tại Việt Nam. Do lâu nay các ngân hàng Việt
Nam chỉ quen quản trị từng giao dịch cho vay, thụ động trong quản trị danh mục,
vì vậy cần phải thay đổi quan điểm hiện nay để hướng tới phương pháp quản trị
danh mục cho vay chủ động phù hợp với nền kinh tế hiện đại.
Hai là hoàn thiện hoạt động quản trị danh mục cho vay bao gồm các nội
dung cụ thể đó là hoạch định, tổ chức thực hiện, giám sát và điều chỉnh
danh mục cho vay.
Đây là các nội dung/các bước trong tiến trình thực hiện hoạt động quản trị
danh mục cho vay. Giữa các bước trên có mối quan hệ hữu cơ với nhau, bước
trước tạo tiền đề thực hiện cho bước sau và bước sau thực hiện trên kết quả của
bước trước đó. Tất cả được ví như các mắt xích trong một dây chuyền. Vì vậy để
thực hiện thành công hoạt động quản trị danh mục cho vay, đòi hỏi ngân hàng
phải đồng thời hoàn thiện tất cả các nội dung nêu trên. Thực trạng công tác quản
132
trị danh mục cho vay của các ngân hàng TMCP Việt Nam cũng cho thấy ở tất cả
các bước đều còn khiếm khuyết, do đó hoàn thiện đồng bộ các nội dung trên là
yêu cầu bắt buộc phải thực hiện, nhằm hướng tới một phương pháp quản trị chủ
động, thích hợp với nền kinh tế hiện đại.
Ba là hoàn thiện các yếu tố là cơ sở cho việc thực hiện phương pháp quản
trị danh mục chủ động
Quản trị danh mục hiện đại được xây dựng trên nền móng nhiều yếu tố về kỹ
thuật, pháp lý và xã hội, nên muốn quá trình hoàn thiện đạt hiệu quả tốt, cần phải
hội đủ các yếu tố cơ sở cho nó. Chẳng hạn hệ thống thông tin dự báo, hệ thống
xếp hạng tín dụng nội bộ, các phần mềm kỹ thuật để xây dựng mô hình định
lượng, hệ thống dữ liệu lưu trữ trong nhiều năm liền, mô hình tổ chức phù hợp,
hiệu quả cao, hệ thống giám sát chặt chẽ, cũng như một thị trường tài chính năng
động với các công cụ phái sinh đa dạng hoạt động hiệu quả.
Bốn là hoàn thiện hoạt động quản trị danh mục cho vay phải kết hợp chặt
chẽ với hoàn thiện quản trị giao dịch cho vay tại ngân hàng.
Quản trị giao dịch cho vay và quản trị danh mục cho vay là hai phương thức
được sử dụng trong quản trị hoạt động cho vay của ngân hàng. Chúng được ví như
hai chân trên cùng một cơ thể, vì vậy nhất thiết phải được thực hiện đồng thời, gắn
kết với nhau để cùng hỗ trợ cho nhau. Nếu quản trị giao dịch cho vay tốt sẽ tạo
điều kiện thuận lợi trong công tác quản trị danh mục cho vay và ngược lại nếu
quản trị giao dịch không tốt sẽ cản trở cho việc hoàn thành quản trị danh mục cho
vay của ngân hàng.
Năm là hoàn thiện hoạt động quản trị danh mục cho vay phải đồng thời
với hoàn thiện và phát triển nguồn nhân lực tại ngân hàng.
Bất cứ hoạt động nào muốn thành công cũng phải có yếu tố con người tác
động chính và hoạt động quản trị danh mục cho vay cũng không ngoại lệ. Muốn
quản trị danh mục cho vay thành công, phải có đội ngũ các nhà quản trị tâm huyết,
133
có tầm nhìn tốt, đội ngũ nhân viên am hiểu các kỹ thuật hiện đại, chuyên nghiệp,
đủ khả năng thực hiện ý đồ của nhà quản trị, có đạo đức nghề nghiệp… Có thể nói
hoạt động quản trị danh mục cho vay luôn phải có sự kết hợp với việc hoàn thiện
và phát triển nguồn nhân lực tại mỗi ngân hàng mới đảm bảo thành công được.
3.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ DANH
MỤC CHO VAY DÀNH CHO CÁC NGÂN HÀNG TMCP VIỆT NAM
3.2.1. Giải pháp có tính chiến lược
Đây là giải pháp đầu tiên có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng các giải
pháp tiếp theo đối với mỗi ngân hàng. Giải pháp có tính chiến lược bao gồm các
nội dung sau:
3.2.1.1. Nhận thức đầy đủ về sự cần thiết phải thay đổi phương pháp quản trị
danh mục cho vay cho phù hợp xu thế phát triển sắp tới.
Cần thấy rằng việc chưa quan tâm đến quản trị danh mục cho vay hoặc là áp
dụng quản trị danh mục thụ động mà một số ngân hàng TMCP đang tiến hành
hiện nay không thể phù hợp và thích ứng trong điều kiện tương lai. Bởi vì trong
nền kinh tế hiện đại có nhiều diễn biến khó lường, quy mô hoạt động của ngân
hàng ngày một mở rộng, sự phức tạp trong sản phẩm và hoạt động của ngân hàng
ngày càng gia tăng và nhất là sự cạnh tranh trên thị trường tài chính ngân hàng
trong nước và quốc tế ngày càng khốc liệt. Trong bối cảnh đó, nếu các ngân hàng
không tự mình thay đổi cách thức quản trị, chắc chắn sẽ tụt dốc dần trong cuộc
cạnh tranh và đến một lúc nào đó sẽ bị đào thải khỏi thương trường. Bên cạnh đó,
quá trình thực hiện các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường dịch vụ tài chính ngân hàng để hội nhập cũng đòi hỏi các ngân hàng Việt Nam phải tuân theo các
chuẩn mực, thông lệ quốc tế về quản trị hoạt động ngân hàng. Vì vậy thay đổi
nhận thức về quản trị danh mục cho vay cần phải được thực hiện ngay không nên
chậm trễ và thực hiện ở tất cả các ngân hàng thương mại Việt Nam không biệt quy
134
mô cũng như tính chất sở hữu, nhằm rút ngắn khoảng cách về trình độ quản trị so
với các ngân hàng thương mại trong khu vực và trên thế giới.
3.2.1.2. Những nội dung có tính định hướng chiến lược cho hoạt động quản trị
danh mục cho vay của ngân hàng
Một là hoạch định mục tiêu quản trị danh mục cho vay trong mối liên hệ chặt chẽ
với các mục tiêu về lợi nhuận, mục tiêu về tăng trưởng thị phần, phát triển thương
hiệu của ngân hàng. Trong đó cân nhắc mức độ tổn thất danh mục cho vay mà
ngân hàng có thể chấp nhận được, tùy thuộc vào quy mô vốn tự có của ngân hàng.
Mục tiêu quản trị danh mục cho vay có thể thay đổi hàng năm, căn cứ vào mục
tiêu và chiến lược kinh doanh chung của ngân hàng.
Hai là để thực hiện mục tiêu quản trị danh mục cho vay, ngân hàng phải cụ thể
hóa bằng các phương án danh mục cho vay khác nhau. Trong đó, mỗi phương án
danh mục cho vay với tỷ trọng các loại tài sản cho vay được thiết kế đa dạng, từ
đó hình thành lợi nhuận và tổn thất khác nhau giữa các phương án. Ngân hàng cần
lựa chọn phương án phù hợp nhất, sao cho hoàn thành mục tiêu, đồng thời đảm
bảo tính linh hoạt trong quá trình thực hiện. Cũng cần lưu ý rằng, khi định hướng
chiến lược quản trị danh mục cho vay, ngân hàng phải lường trước những thay đổi
có tính chu kỳ của nền kinh tế tác động tới kết cấu cũng như chất lượng của danh
mục. Vì vậy, nhất thiết phải xây dựng các phương án danh mục cho vay khác nhau
phù hợp với các kịch bản nhất định. Khi kịch bản thay đổi, tất yếu ngân hàng phải
lựa chọn một phương án danh mục khác cho phù hợp.
Ba là ngân hàng cần phải thiết lập các chính sách nhằm thực thi hiệu quả chiến
lược quản trị danh mục cho vay, chẳng hạn như chính sách đa dạng hóa các loại
hình cho vay, chính sách phân loại rủi ro và trích lập dự phòng, chính sách quy
định giới hạn an toàn trong cho vay… Các chính sách quản trị danh mục cho vay
cần phải có sự nhất quán, phù hợp với các chính sách nội bộ khác nhằm hướng
135
đến mục tiêu chung của ngân hàng. Chẳng hạn như các chính sách ưu tiên cho vay
đối với một số đối tượng, chính sách khoán lương thưởng theo chỉ tiêu dư nợ đã
phân bổ cho chi nhánh hoặc nhân viên cho vay (như đã chỉ ra trong hạn chế ở
chương 2)… thực chất là mâu thuẫn với các chính sách quản trị danh mục vì nó có
thể kích thích đạt lợi nhuận trong ngắn hạn nhưng phá vỡ cơ cấu danh mục cho
vay kế hoạch của ngân hàng, gây tổn hại trong dài hạn. Ngoài ra, các chính sách
quản trị danh mục cho vay phải đảm bảo tuân thủ các quy định pháp lý của ngân
hàng Nhà nước, mặt khác cũng phải phù hợp với điều kiện riêng biệt của từng
ngân hàng.
Tất cả các nội dung mang tính chiến lược nêu trên, cần phải được xác định
hoặc được thông qua bởi các cấp quản trị cao nhất trong mỗi ngân hàng, đó là Hội
đồng quản trị và ban giám đốc.
3.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức hoạt động quản trị danh mục cho vay
3.2.2.1. Thành lập ủy ban chiến lược và ủy ban quản lý rủi ro để tư vấn cho hội
đồng quản trị trong việc định hướng chiến lược quản trị danh mục cho vay
Những hạn chế chỉ ra trong chương 2 cho thấy mô hình tổ chức quản trị tại
nhiều ngân hàng TMCP Việt Nam hiện nay chưa phù hợp với yêu cầu quản trị rủi
ro danh mục cũng như quản trị danh mục cho vay nói chung. Sự thiếu vắng hai ủy
ban quan trọng là ủy ban chiến lược và ủy ban quản lý rủi ro với nhiệm vụ tư vấn
cho hội đồng quản trị vừa không phù hợp quy định của pháp luật (nghị định 59
của Chính phủ và Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010) vừa khiến cho công việc
hoạch định chiến lược của ngân hàng kém hiệu quả. Mặc dù việc thành lập ủy ban
chiến lược không có tính bắt buộc (mà chỉ cần ủy ban nhân sự và ủy ban quản lý
rủi ro), tuy nhiên theo người viết, bên cạnh ủy ban quản lý rủi ro thì sự có mặt của
ủy ban chiến lược là hết sức cần thiết. Ở đây cũng cần phải nhấn mạnh xu thế tất
yếu chúng ta phải hướng đến trong thời gian gần nhất để có thể hội nhập về lĩnh
136
vực quản trị ngân hàng là sử dụng hoàn toàn phương pháp quản trị danh mục chủ
động theo kế hoạch. Vì thế vai trò của ủy ban chiến lược là không thể thiếu được.
Từ chiến lược chung của ngân hàng và chiến lược cụ thể của hoạt động cho vay,
ủy ban chiến lược cần phối hợp với ủy ban quản lý rủi ro để chỉ đạo ban điều hành
thiết kế các phương án danh mục cho vay, trên cơ sở đó lựa chọn phương án có
tính khả thi và hiệu quả nhất.
Bên cạnh ủy ban chiến lược, nhiệm vụ của ủy ban quản lý rủi ro cũng cần
phải được quy định rõ ràng. Cụ thể là ủy ban có trách nhiệm phải thông qua tất cả
các chính sách nội bộ có liên quan đến quản trị danh mục cho vay như chính sách
đa dạng hóa, chính sách trích lập dự phòng, chính sách giới hạn/ hạn chế cấp tín
dụng... Đồng thời ủy ban cũng chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về việc
giám sát thực thi hiệu quả các chính sách của cấp điều hành.
3.2.2.2. Đảm bảo tính độc lập và tập trung của bộ phận quản lý rủi ro trong mỗi
ngân hàng
Như đã đề cập trong phần lý luận, căn bản nhất của công tác quản trị danh
mục cho vay chính là quản trị rủi ro tập trung trên danh mục. Đó là lý do vì sao
các ngân hàng cần phải coi trọng các nhân tố chi phối việc kiểm soát và hạn chế
rủi ro danh mục cho vay. Một trong các nhân tố đó là đảm bảo tính độc lập và tập
trung của bộ phận quản lý rủi ro trong mỗi ngân hàng. Sự độc lập của bộ phận
quản lý rủi ro thể hiện chỗ nó tách biệt với các bộ phận tác nghiệp khác trong
ngân hàng. Đây là điều cần thiết để đảm bảo rằng công việc của bộ phận này sẽ
không bị chi phối bởi quá trình tác nghiệp, thể hiện đúng nguyên tắc tách rời giữa
bộ phận tạo rủi ro và bộ phận kiểm soát rủi ro, làm đúng chức năng quản lý rủi ro.
Tính tập trung trong quản lý rủi ro đảm bảo các loại hình rủi ro không bị chia nhỏ
trong quá trình quản lý, tạo điều kiện để đánh giá tổng thể dễ dàng hơn. Mặt khác
tính tập trung của bộ phận quản lý rủi ro cũng đòi hỏi các thông tin và những
137
nghiên cứu về rủi ro của ngân hàng cần phải do một đầu mối đảm nhận và chịu
trách nhiệm, nếu phân tán sẽ rất khó quản lý hiệu quả.
Xuất phát từ điểm hạn chế trong mô hình tổ chức của các ngân hàng TMCP
Việt Nam đã chỉ ra ở chương 2, người viết có hai đề xuất cụ thể như sau:
Thứ nhất đối với những ngân hàng TMCP chưa có bộ phận này thì cần phải thành
lập ngay bộ phận quản lý rủi ro trực thuộc Ban điều hành, chỉ đạo theo hệ thống
dọc, xuyên suốt tới các chi nhánh ngân hàng. Nên nhân rộng điển hình từ mô hình
của ngân hàng TMCP Đông Nam Á. Cụ thể, bộ phận quản lý rủi ro có thể do một
phó giám đốc phụ trách, thành lập một phòng quản lý rủi ro tại hội sở ngân hàng.
Tại các chi nhánh cần phải có nhân viên trực thuộc bộ phận quản lý rủi ro làm
nhiệm vụ giám sát việc tuân thủ các quy định về quản trị rủi ro của ngân hàng (ví
dụ theo dõi việc tuân thủ các giới hạn an toàn chẳng hạn). Như vậy cơ cấu tổ chức
độc lập theo hàng dọc của bộ phận quản lý rủi ro trong ngân hàng sẽ giúp thông
tin về quản lý danh mục được thông suốt, lãnh đạo nắm vững hàng ngày về tình
hình diễn biến rủi ro tập trung trên danh mục của ngân hàng có những chỉ đạo kịp
thời, hiệu quả.
Thứ hai: Để cho bộ phận quản lý rủi ro ở tất cả các ngân hàng TMCP hoạt động
đúng chức năng và hiệu quả, cần phải xác định rõ ràng nhiệm vụ mà bộ phận này
phải đảm trách. Những công việc thuộc chức năng của bộ phận quản lý rủi ro bao
gồm:
Xây dựng một hệ thống nhận dạng, đo lường, đánh giá và kiểm soát rủi ro
tập trung trên danh mục cho vay của ngân hàng. Đặc biệt là xây dựng mô
hình đo lường để tính toán định lượng tổn thất mà rủi ro danh mục mang
lại, đồng thời xác định khả năng chịu đựng rủi ro thông qua vốn của ngân
hàng.
Xác định các giới hạn an toàn cho vay đối với từng khách hàng và từng
nhóm khách hàng, trên tất cả các khu vực, các miền, các hoạt động cho vay
138
của ngân hàng. Đồng thời phải có cơ chế đảm bảo giám sát việc thực hiện
các giới hạn này.
Thiết kế các kịch bản và thử nghiệm tác động của những điều kiện thị
trường ảnh hưởng bất lợi đến cơ cấu danh mục cho vay của ngân hàng.
Là đầu mối tập hợp tất cả các thông tin liên quan đến rủi ro một cách
thường xuyên, liên tục và chuyển kết quả đó cho ban điều hành, giúp các
nhà quản trị cấp cao đánh giá thực chất về toàn cảnh rủi ro của ngân hàng
nói chung, trong đó có rủi ro liên quan đến danh mục cho vay.
Trong giai đoạn từ nay đến trước năm 2020, bộ phận quản lý rủi ro của
từng ngân hàng sẽ là nơi tập trung nghiên cứu để ứng dụng các kỹ thuật
quản lý rủi ro (trong đó có quản lý rủi ro danh mục cho vay) theo tinh thần
của Basel 2, tiến tới tiếp cận theo tinh thần của Basel 3.
Ở đây cũng cần lưu ý rằng, để đảm bảo tính tập trung, bộ phận quản lý rủi ro
phải quản lý tất cả các loại hình rủi ro, không nên tách riêng từng loại rủi ro. Hiện
nay, ở một số ngân hàng có bộ phận ALCO (quản trị tài sản có và tài sản nợ), thực
chất làm nhiệm vụ quản lý rủi ro vì vậy ngân hàng nào đã hình thành bộ phận này
rồi thì có thể quy định lại nhiệm vụ cho phù hợp, những ngân hàng chưa có thì
nên thành lập mới. Mặt khác để đảm bảo tính độc lập, bộ phận quản lý rủi ro
không nên tham gia vào quá trình thẩm định rủi ro thông qua xét duyệt hồ sơ các
khoản vay như hiện tại nhiều ngân hàng vẫn đang áp dụng. Điều này là trái với
nguyên tắc về quản lý rủi ro theo ủy ban Basel kiến nghị.
3.2.2.3. Xây dựng hệ thống thông tin quản trị hoạt động hiệu quả
Để phục vụ cho công tác quản trị danh mục cho vay có hiệu quả, đầu tiên
phải đề cập tới vai trò của các thông tin mang tính dự báo giúp cho nhà quản trị
hoạch định chiến lược một cách chủ động. Thiếu các thông tin kinh tế dự báo
chính xác là một hạn chế tồn tại ở các ngân hàng TMCP như đã chỉ ra trong
139
chương 2. Muốn khắc phục điểm hạn chế này cần phải có một bộ phận làm nhiệm
vụ phân tích và cung cấp các thông tin dự báo phục vụ cho công tác quản trị nội
bộ tại ngân hàng. Tùy quy mô và cơ cấu tổ chức của ngân hàng có thể thành lập
riêng bộ phận nghiên cứu kinh tế, hoặc là ghép chung trong một bộ phận/ phòng
ban có sẵn của ngân hàng, nhưng nhất thiết không được để cho bộ phận quản lý
rủi ro kiêm nhiệm, bởi vì điều này sẽ dẫn đến xung đột quyền lợi trong quá trình
thực hiện quản lý rủi ro.
Loại thông tin thứ hai phục vụ cho công tác quản trị danh mục là những
thông tin liên quan đến quá trình thực hiện danh mục, hay nói khác đi đây là các
thông tin báo cáo, phục vụ cho công tác điều hành. Do yêu cầu phải cập nhật hàng
ngày nên mạng lưới thông tin báo cáo được thiết kế chặt chẽ, bao gồm cơ chế
truyền đạt thông tin từ trên xuống và cơ chế báo cáo theo hàng ngang hoặc là lên
cấp trên. Một hệ thống thông tin báo cáo được truyền dẫn thông suốt sẽ giúp cho
các nhà quản trị cập nhật thường xuyên thực trạng danh mục cho vay của ngân
hàng, thực trạng danh mục với các biểu hiện của sự thiếu đa dạng, tập trung rủi ro
sẽ được nhận diện và đo lường, từ đó giúp nhà quản trị đưa ra các quyết định điều
chỉnh kịp thời, đáp ứng được mục tiêu của ngân hàng. Như đã đề cập trong phần
phân tích thực trạng, hiện nay ở hầu hết các ngân hàng đều hình thành mô hình 3
tuyến phòng vệ tham gia thực hiện và giám sát danh mục. Ba tuyến phòng vệ này
bao gồm bộ phận tác nghiệp, bộ phận quản lý rủi ro và bộ phận kiểm toán nội bộ.
Riêng bộ phận quản lý rủi ro do chịu trách nhiệm giám sát thường xuyên rủi ro
danh mục cho vay nên cần phải được tổ chức theo hàng dọc, được nối kết từ bộ
phận theo dõi rủi ro tại chi nhánh cơ sở lên thẳng khối quản lý rủi ro tại hội sở. Từ
đây các thông tin báo cáo được chuyển đến cho Ban điều hành để cập nhật được
trạng thái của danh mục cho vay, tạo điều kiện cho các quyết định quản trị được
ban hành kịp thời.
140
Cuối cùng hệ thống công nghệ tin học hiện đại được xem là cơ sở hạ tầng
quan trọng cho việc hình thành và phát triển hệ thống thông tin quản trị của ngân
hàng. Điều này đòi hỏi các ngân hàng phải trang bị máy móc phục vụ cho việc
nhập liệu, phân tích định lượng rủi ro, xây dựng phần mềm tính toán mô hình đo
lường rủi ro. Do công việc quản trị danh mục gồm nhiều nội dung rất phức tạp
nặng về định lượng, vì vậy hệ thống công nghệ tin học cần phải hiện đại để đáp
ứng được yêu cầu này.
3.2.3. Nhóm giải pháp xây dựng và ứng dụng các kỹ thuật quản trị danh mục
hiện đại.
3.2.3.1 Tiếp tục hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, hỗ trợ cho quản
trị giao dịch cho vay và tạo tiền đề áp dụng phương pháp quản trị danh mục
cho vay hiện đại.
Hệ thống đánh giá nội bộ là một trong ba phương pháp đánh giá rủi ro tín
dụng mà ủy ban Basel khuyến khích các ngân hàng thương mại áp dụng và hệ
thống xếp hạng tín dụng nội bộ mà ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định các
ngân hàng thương mại thực hiện chính là nhằm tuân thủ theo yêu cầu này. Tuy
nhiên, như đã đề cập trong chương 2, đến cuối năm 2010, có rất ít các ngân hàng
TMCP hoàn tất hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ theo dự kiến. Theo nhận định
của ngân hàng Nhà nước, ngay cả những ngân hàng đã xây dựng được hệ thống
xếp hạng tín dụng nội bộ, cũng chưa hiểu hết để tận dụng lợi ích của hệ thống này
trong quản trị hoạt động cho vay. Nhận định này cũng được minh chứng qua thực
tế hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tại một trong những ngân hàng TMCP lớn là
ACB (đã đề cập trong mục 2.3.1.3). Theo đánh giá của người viết, hiện nay chỉ có
khoảng 2 đến 3 tiện ích của hệ thống xếp hạng tín dụng được hiểu đúng. Vì vậy,
đề xuất tiếp tục hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ cũng có nghĩa là yêu
cầu hiểu rõ và tận dụng được hết những ưu việt mà hệ thống này mang lại cho
141
công tác quản trị hoạt động cho vay, đặc biệt là những ưu thế của hệ thống xếp
hạng tín dụng nội bộ trong quản trị danh mục cho vay. Cụ thể là:
Trên cơ sở hạng tín dụng của người vay, ngân hàng cần phải quy định rõ
các giới hạn an toàn trong cho vay đối với từng hạng khách hàng, theo
nguyên tắc hạng khách hàng càng cao thì giới hạn cho vay sẽ cao và ngược
lại. Đây thực chất là cụ thể hóa mức cho vay tối đa trên cơ sở giới hạn cấp
tín dụng đang được quy định trong Luật Các tổ chức tín dụng hiện tại. Việc
xây dựng các giới hạn này là để hình thành căn cứ cho quá trình giám sát
thực hiện danh mục cho vay, hạn chế rủi ro tập trung trên danh mục.
Dựa trên các kết quả của hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, ngân hàng có
thể tính chính xác mức độ tổn thất kỳ vọng (EL) theo công thức của ủy ban
Basel. Mức tổn thất này được tính toán từ ba yếu tố xác suất vỡ nợ (PD)
căn cứ vào hạng người vay, yếu tố tỷ lệ tổn thất của khoản vay khi vỡ nợ
(LGD) và giá trị danh nghĩa của khoản vay (EAD). Căn cứ vào giá trị EL
tính được, ngân hàng sẽ trích lập dự phòng cho những tổn thất dự kiến
được. Đây là một tiện ích của hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ mà các
ngân hàng Việt Nam chưa sử dụng tới (kể cả các ngân hàng đã xây dựng
được hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ), do hiện tại các ngân hàng vẫn
tuân thủ trích dự phòng tổn thất theo quyết định 493/QĐ-NHNN. Tuy nhiên
như đã phân tích trong mục 2.3.2.2, hạn chế của cách trích dự phòng trong
quyết định 493/QĐ-NHNN là chỉ căn cứ vào nhóm nợ, không phân biệt
theo hạng khách hàng. Nếu sử dụng kết quả xếp hạng tín dụng để đưa yếu
tố xác suất vỡ nợ của từng khách hàng vào công thức tính toán (như hướng
dẫn của ủy ban Basel) chắc chắn khoản trích dự phòng này sẽ sát đúng với
thực tế của từng ngân hàng hơn.
Kết quả của hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ cung cấp những dữ liệu
quan trọng (như PD, LGD) để ngân hàng xây dựng mô hình đo lường rủi ro
142
danh mục cho vay. Đây cũng là một tiện ích quan trọng của hệ thống xếp
hạng tín dụng nội bộ nhưng chưa được hiểu đúng tại Việt Nam. Như đã đề
cập trong mục 1.2.2.2 sử dụng mô hình định lượng rủi ro là đặc trưng nổi
bật của phương pháp quản trị danh mục cho vay chủ động. Thông qua các
mô hình này, tổn thất của toàn danh mục cho vay sẽ được ước tính sát đúng
với thực trạng danh mục cho vay của từng ngân hàng. Trên cơ sở đó, ngân
hàng sẽ đánh giá được khả năng chịu đựng rủi ro của mình khi so sánh với
mức vốn tự có thực tế mà ngân hàng đang sở hữu. Thực tế hiện nay, các
ngân hàng Việt Nam chưa có ý niệm về khả năng chịu đựng rủi ro trong các
giao dịch cho vay thông qua vốn kinh tế. Hệ số vốn tối thiểu 8% theo quy
định của ủy ban Basel (Việt Nam quy định 9% theo thông tư 13/2010/TTNHNN), thực chất là so sánh giữa mức vốn tự có thực tế (vốn pháp lý) và
giá trị tài sản có (đã quy đổi theo hệ số rủi ro) trên bảng cân đối kế toán của
ngân hàng, không gắn liền với các giao dịch cụ thể của ngân hàng. Vì vậy,
ủy ban Basel cũng khuyến khích các ngân hàng sử dụng mô hình nội bộ để
tính toán mức vốn phù hợp, thay thế cho quy định vốn pháp lý hiện
nay[41].
Tiện ích sau cùng của hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ là cung cấp dữ
liệu cho việc tính toán giá/ phí chuyển nhượng các khoản cho vay trên thị
trường tài chính, đảm bảo quyền lợi của bên trong giao dịch
3.2.3.2. Xây dựng mô hình đo lường rủi ro danh mục cho vay
Xây dựng mô hình đo lường rủi ro là biện pháp có ý nghĩa rất quan trọng
trong toàn bộ nội dung quản trị danh mục cho vay theo phương pháp chủ động.
Như đã đề cập trong chương 1, căn cứ vào quy mô của vốn tự có thực tế tại ngân
hàng, sử dụng các mô hình đo lường sẽ giúp ngân hàng đưa ra được các phương
án danh mục khác nhau, thỏa mãn yêu cầu về lợi nhuận và rủi ro như mục tiêu đã
hoạch định. Còn trong giám sát thực hiện, mô hình sẽ giúp ngân hàng tính toán
143
mức độ rủi ro đang diễn ra trên danh mục, từ đó làm căn cứ cho các quyết định
điều hành ra đời. Sử dụng các mô hình đo lường rủi ro nội bộ là đặc trưng của
hoạt động quản trị danh mục cho vay trong nền kinh tế hiện đại và chỉ được áp
dụng từ cuối thập niên 90 trở lại đây. Chính vì vậy các mô hình đo lường rủi ro
được xem là các mô hình quản trị danh mục hiện đại.
Chương 1 có đề cập đến 4 mô hình quản trị danh mục đang được áp dụng tại
các ngân hàng thương mại trên thế giới. Các mô hình này tập trung vào quản trị
rủi ro, theo đó nhà quản trị không chỉ dừng lại ở mức độ nhận diện mà phải định
lượng được các rủi ro biến đổi trong suốt thời kỳ nhất định của ngân hàng. Do
xuất phát điểm về quản trị của các ngân hàng Việt Nam khác nhau (nhất là giữa
các ngân hàng TMCP quy mô lớn có bề dày kinh nghiệm và những ngân hàng
TMCP mới chuyển đổi từ cổ phần nông thôn, quy mô nhỏ), nên áp dụng chung
một mô hình giống nhau cho tất cả các ngân hàng là không thể. Vì vậy, để phù
hợp với khả năng của từng ngân hàng, tác giả đề xuất hai mô hình như dưới đây:
Mô hình thứ nhất - mô hình vỡ nợ
Đặc điểm của mô hình
Về bản chất đây là mô hình vỡ nợ, mô hình này có các đặc điểm sau đây:
Một là biến cố rủi ro tín dụng trong mô hình chỉ là biến cố vỡ nợ, không đề cập
đến biến cố giảm giá trị khoản cho vay. Nói khác đi đây là mô hình vỡ nợ không
phải là mô hình định giá theo thị trường. Đây là mô hình phù hợp với những ngân
hàng có quy mô hoạt động nhỏ, kinh nghiệm quản trị còn yếu.
Lý do đầu tiên của đề xuất này là vì mô hình vỡ nợ có thể thích hợp với
danh mục cho vay của các ngân hàng TMCP chưa có nhiều kinh nghiệm
trong quản trị, hầu như không tham gia vào thị trường chuyển nhượng các
khoản vay, các khoản vay có khả năng chuyển nhượng trên thị trường rất
thấp hay nói chính xác hầu như không chuyển nhượng. Vì vậy khả năng
144
chuyển hạng tín nhiệm của người vay không được xét đến trong khoảng
thời gian từ một năm trở xuống và khoản vay sẽ chỉ xảy ra một trong hai
khả năng là vỡ nợ hoặc không vỡ nợ.
Một lý do khác của đề xuất này là vì xét trong điều kiện thực tế của hầu hết
các ngân hàng TMCP Việt Nam, hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ chỉ mới
thực sự bắt đầu xây dựng, do vậy việc tính được xác xuất chuyển hạng tín
nhiệm của từng người vay là rất khó, do chưa có các số liệu thống kê trong
nhiều năm liên tục. Riêng xác xuất vỡ nợ có thể xây dựng được, lý do lâu
nay ngân hàng thường quan niệm biến cố rủi ro tín dụng là biến cố vỡ nợ,
nên các số liệu thông thường đã được các ngân hàng quan tâm và lưu trữ.
Hai là các dữ liệu đầu vào cho mô hình giai đoạn này gồm có:
Dữ liệu về người vay biểu hiện ở xác xuất vỡ nợ đã được xác định trên cơ
sở hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của mỗi ngân hàng
Dữ liệu về khoản vay biểu hiện ở tỷ lệ thiệt hại của khoản vay khi xảy ra
biến cố vỡ nợ (LGD). Tỷ lệ này phụ thuộc vào khả năng thu hồi của khoản
vay khi xảy ra vỡ nợ. Các ngân hàng cần phải xếp hạng chất lượng khoản
vay theo khả năng thu hồi để làm căn cứ tính toán tỷ lệ LGD. Trong trường
hợp cho vay có đảm bảo tín dụng, giá trị thu hồi khoản vay có thể được tính
từ tỷ lệ thu hồi do thanh lý tài sản bảo đảm cho khoản nợ và phần giá trị
còn lại không thể thu hồi được xem là thiệt hại. Chẳng hạn một khoản vay
100 triệu đồng, nếu tài sản đảm bảo cho khoản vay thu hồi được 60 triệu
đồng khi xảy ra vỡ nợ thì tỷ lệ thiệt hại LGD của khoản vay sẽ là 40%.
Những trường hợp khác không có đảm bảo thì LGD phụ thuộc vào phương
thức thanh lý khoản vay để xác định.
Dữ liệu về danh mục biểu hiện thông qua hệ số tương quan vỡ nợ của
người vay, với giả thiết rằng người vay trong cùng một ngành kinh tế sẽ
chịu các tác động tương quan, còn ngoài ngành thì coi như hệ số tương
145
quan này bằng 0. Hệ số tương quan sẽ được tính toán từ trọng số của mỗi
người vay trong ngành kinh tế mà họ là một bộ phận. Đưa hệ số tương quan
vỡ nợ vào tính toán sẽ cho thấy lợi thế của sự đa dạng hóa trên danh mục.
Đó chính là đặc thù của các mô hình đo lường rủi ro mà ngân hàng các
nước trên thế giới hiện nay đang áp dụng.
Ba là các dữ liệu đầu ra của mô hình gồm có:
Tổn thất kỳ vọng EL - giá trị tổn thất trung bình được tính theo công
thức hướng dẫn của Hiệp ước Basel 2. Đây là công thức chỉ sử dụng để tính
tổn thất vỡ nợ kỳ vọng, không tính tổn thất giảm giá thị trường nên thích
hợp với mô hình trong giai đoạn này. Phần tổn thất này được tính vào chi
phí hoạt động của ngân hàng để trích lập quỹ dự phòng tương ứng.
Tổn thất không kỳ vọng UL - giá trị tổn thất vượt khỏi mức trung bình
được tính dựa trên phân phối xác xuất tổn thất. Do mô hình chỉ quan tâm
đến tổn thất từ biến cố vỡ nợ nên phân phối tổn thất trong mô hình là phân
phối nhị thức. Trong toán học, đây là phân phối sử dụng khi biến cố xảy ra
chỉ có một trong hai khả năng hoặc có (vỡ nợ) hoặc không (không vỡ nợ).
Giá trị vốn cần có để bù đắp cho tổn thất UL đã xác định. Đây chính là
mục tiêu cơ bản của việc áp dụng mô hình đo lường rủi ro danh mục.
Điều kiện tiền đề cho việc áp dụng mô hình đó là các ngân hàng phải có một hệ
thống xếp hạng tín dụng nội bộ đang được vận hành. Đây là cơ sở để có được các
dữ liệu đầu vào cần thiết khi tính toán mô hình. Ngoài ra một phần mềm toán học
thích hợp để xử lý dữ liệu cũng là yếu tố không thể thiếu được.
Cơ chế hoạt động của mô hình bao gồm các bước sau:
Bước 1: Xác định tổn thất kỳ vọng (EL) liên quan đến biến cố vỡ nợ của từng
khoản vay riêng biệt.
146
Để tính giá trị tổn thất kỳ vọng EL ta sử dụng công thức như hướng dẫn của
Hiệp ước Basel sau đây:
EL = PD * (LGD * EAD)
Yếu tố PD xác suất vỡ nợ của người vay được xác định từ kết quả của hệ
thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Yếu tố EAD là giá trị danh nghĩa của khoản vay.
Còn LGD là tỷ lệ tổn thất của khoản vay khi xảy ra vỡ nợ. Tương tự như xác xuất
vỡ nợ, tỷ lệ LGD của khoản vay tại Việt Nam cần được phân biệt theo hạng tài
sản bảo đảm. Hạng tài sản bảo đảm được xác định căn cứ vào loại tài sản, chất
lượng của tài sản như tính thanh khoản, chi phí quản lý, xử lý, khả năng thu hồi
khi vỡ nợ... Nếu tài sản bảo đảm có hạng cao thì tỷ lệ LGD sẽ thấp và ngược lại.
Bảng 3.1 minh họa cách tính EL dựa trên dữ liệu đầu vào cho trước gồm: PD
theo hạng của người vay (tham khảo số liệu của ACB trong bảng 2.9); tỷ lệ LGD
của khoản vay và giá trị EAD của khoản vay (hai yếu tố này là con số giả định).
Cột EL trong bảng 3.1 được tính đơn giản trong trường hợp cả khách hàng lẫn
khoản vay có cùng hạng.
BẢNG 3.1 - TÍNH TOÁN TỔN THẤT KỲ VỌNG CHO KHOẢN VAY
KHÁCH HÀNG
HẠNG
AAA
AA
A
BBB
BB
B
CCC
CC
C
D
PD (%)
0.15
0.3
0.6
1.1
2.0
3.0
5.0
8.0
15.0
100.0
KHOẢN VAY
HẠNG
AAA
AA
A
BBB
BB
B
CCC
CC
C
D
LGD (%)
5
10
20
30
40
50
60
70
80
100
EAD
(đ/v đồng)
1,000,000,000
1,000,000,000
1,000,000,000
1,000,000,000
1,000,000,000
1,000,000,000
1,000,000,000
1,000,000,000
1,000,000,000
1,000,000,000
EL
đ/v đồng)
75,000
300,000
1,200,000
3,300,000
8,000,000
15,000,000
30,000,000
56,000,000
120,000,000
1,000,000,000
147
Nguồn: tính toán từ số liệu tham khảo trong bảng 2.9
Giá trị EL trên bảng 3.1 chỉ là ví dụ minh họa đơn giản, do giả định hạng
khách hàng và hạng của khoản vay giống nhau. Trên thực tế, giá trị EL sẽ khác đi
nếu khách hàng vay và khoản vay không cùng hạng. Chẳng hạn nếu khách hàng
thuộc hạng BBB có xác xuất vỡ nợ là 1.1%, nhưng khoản vay được xếp hạng AA
có tỷ lệ LGD là 10%.
Giá trị EL của khoản vay = 1.1%*10%*1,000,000,000
= 1,100,000 đồng = 1.1 triệu đồng
So sánh sẽ thấy giá trị EL trong trường hợp này nhỏ hơn mức 3,300,000
đồng trong trường hợp khách hàng vẫn ở hạng BBB và hạng của khoản vay cũng
ở mức BBB. Sở dĩ tổn thất EL thấp hơn (mặc dù khách hàng giữ nguyên hạng) là
do hạng của khoản vay cao hơn dẫn đến tỷ lệ LGD của khoản vay thấp hơn.
Nhưng nếu, khoản vay ở hạng AA và khách hàng cũng ở hạng AA thì giá trị EL sẽ
chỉ là 300 ngàn đồng (thấp hơn mức 1,100,000 đồng trong trường hợp trên). Sở dĩ
giá trị EL thấp hơn là do bị ảnh hưởng bởi hạng của khách hàng cao hơn nên xác
suất PD thấp, dẫn đến giá trị EL giảm đi.
Bước 2: Xác định tổn thất không kỳ vọng của từng khoản vay riêng biệt
Sau khi xác định EL, tức tổn thất kỳ vọng trung bình của từng khoản vay thì
tổn thất không kỳ vọng UL được hiểu là giá trị chênh lệch so với mức trung bình
EL, được tính toán dựa vào độ lệch chuẩn. Lưu ý rằng phân phối tổn thất vỡ nợ
trong trường hợp này là một phân phối nhị thức nên độ lệch chuẩn theo công thức
= p*(1-p), với p là xác xuất của biến cố (trong trường hợp này chính là PD của
người vay). Vậy nếu khoản vay giá trị 1,000 triệu đồng khách hàng hạng BBB và
khoản vay hạng AA thì tổn thất không kỳ vọng tức UL được tính như sau:
UL = ( * EAD* LGD) = p*(1-p) * EAD* LGD
(1)
148
= (0.011*0.989) * 1,000 * 10% = 10.4 triệu đồng
Theo quy định trong Hiệp ước Basel 2 vốn tối thiểu là 8% so với tài sản có
rủi ro. Như vậy khoản vay có giá trị danh nghĩa 1,000 triệu đồng, giả sử tài sản
bảo đảm cho khoản vay là bất động sản, có trọng số rủi ro 50%, giá trị khoản vay
sau khi được điều chỉnh theo tỷ lệ rủi ro sẽ chỉ còn là 500 triệu đồng, do vậy mức
vốn tối thiểu ngân hàng phải có là 40 triệu đồng. Trong khi tính theo mô hình nói
trên, tổng vốn tự có và dự trữ mà ngân hàng phải có chỉ là 11.5 triệu đồng (= 1.1
tr.đồng + 10.4 tr.đồng), nhỏ hơn so với quy định của Hiệp ước Basel 2. Con số
này cho thấy các mô hình đo lường nội bộ có thể cho kết quả tính toán khác với
cách tính hiện tại của ngân hàng Nhà nước, tuy nhiên sát đúng với thực tế rủi ro
của từng ngân hàng hơn.
Bước 3: Tính tổn thất cho toàn danh mục.
Sự khác biệt và cũng là điểm mới căn bản của mô hình đo lường rủi ro so
với cách tính tổn thất hiện nay ở Việt Nam là quan tâm đến rủi ro của toàn danh
mục. Cách tính này đưa đến kết quả là giá trị tổn thất giảm hơn so với con số tổng
cộng tổn thất của các khoản vay.
Trở lại ví dụ về khoản vay thuộc hạng B có giá trị 1,000 triệu đồng, tỷ lệ
thiệt hại LGD là 50%, người vay có hạng tín nhiệm BBB với xác xuất vỡ nợ là
0.011. Một khoản vay khác cũng thuộc hạng B và cùng giá trị 1000 triệu đồng, tỷ
lệ LGD cũng là 50% nhưng người vay có hạng tín nhiệm B, xác xuất vỡ nợ 0.03.
Nếu tính riêng lẻ thì khoản vay mà người vay hạng BBB có EL là 1.1 triệu đồng
và UL = 10.4 triệu đồng, còn khoản vay hạng B có EL = 0.03* 1,000 * 50% = 15
triệu đồng còn UL khoảng 8.4 triệu đồng. Vậy tổng cộng hai khoản vay có EL =
16.1 triệu đồng và UL = 94.4 triệu đồng.
Trong trường hợp hai khoản vay trên nằm trong một danh mục, với giả thiết
hệ số tương quan giữa hai người vay = 0 hay nói khác đi là xác xuất vỡ nợ của hai
149
người này là độc lập. Xác xuất để hai người vay cùng vỡ nợ = 0.03* 0.011=
0.00033. Tổn thất của danh mục hai khoản vay trên được tính như sau:
EL = (1000 + 1000) * 50% * 0.00033 = 0.33 triệu đồng
UL = 0.00033*0.99967 * 2000* 50% = 18.2 triệu đồng
Như vậy ngân hàng sẽ phải trích 0.33 triệu trong chi phí để lập quỹ dự trữ
cho danh mục (nhỏ hơn 16.1 triệu đồng của hai khoản vay cộng lại), còn giá trị
tổn thất tối đa của danh mục cho vay cần có vốn tự có bù đắp chỉ là 18.2 triệu
đồng, trong khi tổn thất không kỳ vọng cộng gộp của hai khoản vay là 94.4 triệu
đồng. Giá trị tổn thất của danh mục giảm đi so với từng khoản vay cũng như của
hai khoản vay riêng lẻ cộng gộp, cho thấy lợi ích của sự đa dạng hóa danh mục
cho vay nhằm giảm thiểu dự trữ và vốn tự có cần thiết mà ngân hàng phải duy trì.
Điều đó chứng minh sự cần thiết của việc áp dụng mô hình đo lường rủi ro danh
mục đối với các ngân hàng TMCP Việt Nam hiện nay.
Trên thực tế, sự độc lập hoàn toàn giữa hai người vay là rất hiếm xảy ra, nhất
là khi hai người trong cùng một ngành kinh tế. Vì vậy, để sát thực hơn, mô hình
đo lường rủi ro cần đưa thêm hệ số tương quan giữa người vay vào tính toán.
Tương quan vỡ nợ của hai khoản vay là chỉ số chỉ sự tương quan giữa hai người
vay trong một ngành kinh tế, tùy thuộc vào trọng số của mỗi người trong ngành/
khu vực kinh tế của họ. Để đơn giản mô hình giai đoạn 1 nên giả thiết rằng nếu
hai người vay cùng một ngành kinh tế thì có tương quan vỡ nợ. Tuy nhiên nếu họ
khác ngành thì có thể xem như tương quan vỡ nợ bằng 0 bởi vì không có các yếu
tố mang tính hệ thống tác động vào chúng. Xuất phát từ quan niệm như vậy, người
viết đề xuất sử dụng phương pháp tính hệ số tương quan vỡ nợ theo mô hình
Credit Risk Plus như sau:
p AB
150
PA PB WAkWBk k
k 1
Pk
n
2
(2)
Trong đó ρAB là hệ số vỡ nợ tương quan của người vay A và B; PA và P B là xác
xuất vỡ nợ riêng biệt của người vay A và người vay B; WAk (WBk) là trọng số của
người vay A (người vay B) trong khu vực k còn Pk và
k
là xác xuất vỡ nợ trung
bình và độ lệch chuẩn của xác xuất vỡ nợ trong khu vực k. Lưu ý có n khu
vực/ngành kinh tế và N người vay, xác xuất trung bình và độ lệch tiêu chuẩn tính
theo công thức sau:
Pk Wik Pi
N
i 1
k Wik i
(3)
N
i 1
(4)
Vì có N người vay trong một khu vực/ ngành kinh tế, nên trọng số của mỗi người
vay phải thỏa mãn:
W
n
k 1
ik
1
(5)
Giả sử xác định hệ số tương quan cho hai người vay A và B trong cùng một
khu vực kinh tế, trong đó người vay A hạng BBB có PA = 0.011, còn người vay B
hạng AA có P B = 0.003 (sử dụng số liệu trên bảng 3.1). Nếu trong khu vực kinh tế
này chỉ có A và B, trọng số của A trong khu vực WA = 40% và WB của B là 60%
(thỏa mãn WA + WB = 40% + 60% = 1), thì xác xuất trung bình trong khu vực là
Pk và độ lệch chuẩn k được tính theo công thức (3) và (4) như sau:
151
Pk = 40% * 0.011 + 60% * 0.003 = 0.0044 + 0.0018 = 0.0062
k
= 40% * (0.011*0.989) + 60% * 0.003*0.997 = 0.04172 + 0.03281
k = 0.07453
Vậy
k
Pk
2
= 144.50366
Với giả thiết chỉ có một khu vực kinh tế, tức là n = 1 thì hệ số tương quan vỡ nợ
của người vay A và người vay B được tính theo công thức (2) như sau:
ρAB =
0.011*0.003 * 40% * 60% * 144.50366 = 0.0109
Việc đưa hệ số tương quan theo ngành/ khu vực vào tính toán tổn thất chung
của danh mục sẽ giúp ngân hàng xác định tổn thất chính xác hơn, định hướng cho
việc thiết lập các giới hạn cho vay đối với từng ngành/ khu vực kinh tế.
Mô hình thứ hai – mô hình ma trận xếp hạng tín nhiệm
Về bản chất đây là mô hình định giá theo thị trường, chủ yếu dựa trên nền ý
tưởng mô hình ma trận xếp hạng tín nhiệm - Credit Metrics của JP Morgan năm
1997. Điểm khác biệt của mô hình này so với mô hình vỡ nợ là biến cố tổn thất
không chỉ là sự vỡ nợ mà có cả sự giảm sút giá trị thị trường của các khoản nợ,
xuất phát từ sự thay đổi hạng tín nhiệm của người vay. Mô hình này có thể áp
dụng cho các ngân hàng TMCP quy mô lớn, có kinh nghiệm trong quản trị, đã sử
dụng cơ sở vật chất hiện đại, công nghệ mới trong quản trị điều hành.
Các dữ liệu đầu vào của mô hình
Sự thay đổi hạng tín nhiệm của người vay là một dữ liệu đầu vào của mô
hình, theo đó hạng của khách hàng có thể được giữ nguyên, có thể lên hạng
hoặc xuống hạng, kể cả vỡ nợ. Khoảng thời thích hợp để xác định những
thay đổi hạng là 1 năm, đây là khoảng thời gian phù hợp trong điều kiện
Việt Nam. Thông qua số liệu đã thu thập, thống kê trong quá khứ, xác xuất
152
chuyển hạng tín nhiệm sẽ được ngân hàng xác định cho từng hạng khách
hàng vay.
Vì đây là mô hình định giá theo thị trường nên cần phải có các yếu tố để
xác định hiện giá dòng tiền theo thời gian. Trước hết phải xác định lãi suất
chiết khấu trong trường hợp không có rủi ro làm cơ sở. Sau đó xác định
khoảng chênh lệch cộng thêm vào lãi suất chiết khấu (phí rủi ro - Risk
Premium) phù hợp với hạng tín nhiệm của người vay. Tỷ lệ phí này có thể
gia tăng khi người vay xuống hạng và giảm đi khi người vay lên hạng trong
khoảng thời gian xác định.
Các chỉ số về sự tương quan tiếp tục được xác định một cách chính xác,
phù hợp với điều kiện thực tế tại Việt Nam. Ngoài hệ số tương quan trong
phạm vi từng khu vực kinh tế như ở mô hình giai đoạn đầu tiên, có thể đưa
thêm vào hệ số tương quan giữa các ngành kinh tế và ảnh hưởng của các
nhân tố kinh tế vĩ mô đến sự tương quan này.
Cơ chế hoạt động của mô hình bao gồm các bước sau:
Bước 1: Xác định xác xuất chuyển hạng tín nhiệm của người vay trong
khoảng thời gian 1 năm tới
Bắt đầu bằng hạng tín nhiệm của người vay ở thời điểm hiện tại, thông qua
các số liệu thu thập được trong quá khứ và kết hợp với những thông tin khác về
người vay, ngân hàng cần xác định xác xuất để cho người vay thay đổi hạng trong
khoảng thời gian 1 năm tới. Đối với các ngân hàng TMCP Việt Nam để có được
số liệu này, các ngân hàng sẽ phải thu thập trong khoảng thời gian tối thiểu 5 năm,
dựa trên quá trình vận hành của hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tại mỗi ngân
hàng, kể từ năm 2010.
153
Dưới đây là một bảng xác xuất chuyển hạng trong thời gian 1 năm của khoản
vay có hạng BBB và khoản vay có hạng A [42]. Do khoản vay đang ở hạng BBB
nên trong năm tới xác xuất giữ nguyên hạng của khoản vay là lớn nhất 86.93%,
cao nhất là chuyển lên hạng AAA với xác xuất rất nhỏ 0.02% và xác xuất cho việc
trở thành vỡ nợ (hạng D) là 0.18%. Khoản vay hạng A có xác xuất giữ nguyên
hạng là 91.05% và xác xuất vỡ nợ là 0.06%.
Bước 2: Tính giá trị thị trường của khoản vay tương ứng với các hạng tín
nhiệm khác nhau trong vòng 1 năm tới.
Đây là một công việc khá phức tạp, tuy nhiên nó thể hiện đặc tính của một
mô hình định giá theo thị trường.
Để tính toán cần phải bắt đầu từ giá trị trên sổ sách hiện tại của khoản vay, lãi
suất của khoản vay, khoản chênh lệch cộng thêm vào lãi suất để bù đắp cho rủi ro,
thời gian cho vay theo hợp đồng, cách thức hoàn trả gốc và lãi của khoản vay,
hạng tín nhiệm hiện tại của người vay và sự thay đổi hạng dự kiến trong thời gian
1 năm tới. Tuy nhiên do ảnh hưởng của sự thay đổi hạng, nên khoản vay sẽ có
nhiều giá trị khác nhau, tùy thuộc vào hạng tín nhiệm dự kiến của người vay
BẢNG 3.2 - XÁC XUẤT CHUYỂN HẠNG CỦA KHOẢN VAY BBB
& KHOẢN VAY HẠNG A
KHOẢN VAY HẠNG BBB
HẠNG
XÁC XUẤT %
AAA
0.02
AA
0.33
A
5.95
BBB
86.93
BB
5.30
B
1.17
CCC
0.12
KHOẢN VAY HẠNG A
HẠNG
XÁC XUẤT %
AAA
0.09
AA
2.27
A
91.05
BBB
5.52
BB
0.74
B
0.26
CCC
0.01
154
D
0.18 D
0.06
Nguồn: tham khảo số liệu trong sách Credit Portfolio Management[42]
. Trước tiên muốn xác định được giá trị thị trường của khoản vay phải xác
định dòng tiền - Cashflow do khoản vay mang lại theo định kỳ (phụ thuộc vào
cách thức hoàn trả gốc và lãi, lãi suất cho vay của ngân hàng). Vì dòng tiền được
tính trong tương lai nên cần thiết phải sử dụng công thức chiết khấu dòng tiền để
xác định hiện giá của khoản vay. Công thức tính như sau:
P
n
t 1
CFt
(1 i st ) t
(6)
Trong đó với P là giá trị hiện tại của khoản vay (hiện giá), CFt là dòng tiền
của khoản vay tại kỳ hạn thứ t, i là lãi suất chiết khấu không có rủi ro (có thể dùng
lãi suất trái phiếu Chính phủ) và st là phí bù đắp rủi ro được cộng thêm vào lãi suất
chiết khấu, (lưu ý s còn được gọi là giá rủi ro tín dụng và thay đổi theo hạng tín
nhiệm của người vay, được tính như đã giới thiệu trong trang 89). Yếu tố t biểu
hiện cho số thứ tự của kỳ hạn vay, trong đó t chạy từ 1 cho đến n là thời hạn vay.
Giả sử có hai khoản vay trị giá trên sổ sách cùng là 1,000 triệu đồng, thời hạn
vay là 5 năm, trả lãi hàng năm và trả gốc vào kỳ hạn cuối cùng, lãi suất cố định
trong thời gian vay. Người vay thứ nhất hạng BBB, lãi suất cho vay ngân hàng áp
dụng là 10%/năm, người vay thứ hai hạng A, lãi suất cho vay ngân hàng áp dụng
là 9.5%/ năm
Cuối năm thứ nhất, sau khi đã trả lãi lần đầu tiên, hiện giá của khoản vay
hạng BBB được tính theo công thức như sau:
P = 100 +
100
100
100
1100
+
+
+
(1+i+s1) (1+i+s2) (1+i+s3) (1+i+s4)
(7)
155
Dựa trên dữ liệu PD, LGD của ngân hàng ACB và giả sử lãi suất chiết khấu i
= 6%/ năm, ta có bảng sau:
BẢNG 3.3 - SUẤT CHIẾT KHẤU VÀ PHÍ RỦI RO CỘNG THÊM
HẠNG
AAA
AA
A
BBB
BB
B
CCC
CC
C
D
PD
0.15
0.3
0.6
1.1
2
3
5
8
15
100
LGD
5
10
20
30
40
50
60
70
80
100
S=PD*LGD SUẤT CK
0.0075
0.03
0.12
0.33
0.8
1.5
3
5.6
12
100
6
6
6
6
6
6
6
6
6
6
Đơn vị: %
SUẤT CK & S
6.0075
6.03
6.12
6.33
6.8
7.5
9
11.6
18
106
Nguồn tác giả tính toán dựa vào số liệu PD và LGD trong bảng 3.1
Dựa trên số liệu này có thể tính được hiện giá của khoản vay hạng BBB trong
từng trường hợp khoản vay lên hạng hoặc xuống hạng, thậm chí vỡ nợ. Ví dụ
trường hợp người vay được tăng hạng A thì hiện giá khoản vay tại thời điểm cuối
năm thứ nhất được tính như sau:
P = 100 +
100
100
100
1100
+
= 1,234.1 triệu đồng
2+
3+
(1.0612) (1.0612) (1.0612) (1.0612)4
Tương tự sẽ xác định được giá trị thị trường của khoản vay hạng BBB và
khoản vay hạng A tương ứng với hạng tín nhiệm của nó thay đổi trong vòng 1
năm tới (xem bảng 3.4).
BẢNG 3.4 - GIÁ TRỊ THỊ TRƯỜNG CỦA TỪNG KHOẢN VAY
TRONG 1 NĂM TỚI
Đơn vị: triệu đồng
156
KHOẢN VAY HẠNG BBB
HẠNG THAY
ĐỔI
AAA
AA
A
BBB
BB
B
CCC
D- Default
GIÁ TRỊ KHOẢN
VAY
1,238.2
1,237.5
1,234.1
1,226.2
1,208.9
1,183.7
1,132.4
244.6
KHOẢN VAY HẠNG A
HẠNG THAY
ĐỔI
GIÁ TRỊ KHOẢN
VAY
AAA
AA
A
BBB
BB
B
CCC
D- Default
1,215.9
1,215.2
1,212.5
1,204.0
1,186.9
1,161.9
1,111.2
235.2
Nguồn tính toán từ công thức (6) và số liệu của bảng 3.3
Bước 3: Tính giá trị trung bình kỳ vọng của khoản vay trong vòng 1 năm tới
thông qua phân phối xác xuất của giá trị khoản vay.
Bảng phân phối xác xuất của giá trị khoản vay (còn gọi là ma trận chuyển
hạng tín nhiệm) là cơ sở để tính giá trị trung bình kỳ vọng của khoản vay. Sử dụng
công thức tính kỳ vọng trong lý thuyết xác xuất, tính được giá trị kỳ vọng trung
bình của khoản vay trong thời gian 1 năm tới là 1,223.4 triệu đồng (xem bảng
3.5). Tuy nhiên đây chưa phải là con số cuối cùng bởi mục tiêu là tính tổn thất kỳ
vọng EL và UL của khoản vay chứ không phải là giá trị của khoản vay.
BẢNG 3.5 - TÍNH GIÁ TRỊ TRUNG BÌNH KỲ VỌNG
CỦA KHOẢN VAY
HẠNG
AAA
AA
A
BBB
BB
B
P(x) %
Xi (triệu đồng) P(x)*Xi (triệu đồng)
0.25
0.02
1,238.2
4.08
0.33
1,237.5
73.43
5.95
1,234.1
1,065.94
86.93
1,226.2
64.07
5.3
1,208.9
13.85
1.17
1,183.7
157
CCC
D- Default
0.12
0.18
Tổng cộng
Ex
1,132.4
244.6
=
1.36
0.44
1,223.4
Nguồn: tính toán từ số liệu trên bảng 3.2 và 3.3
Bước 4: Xác định tổn thất kỳ vọng EL của khoản vay
EL hay tổn thất kỳ vọng, xét trong mô hình đo lường rủi ro này được hiểu là
sự khác biệt giữa giá trị thị trường của khoản vay trong năm tới và giá trị trung
bình kỳ vọng của nó trong cùng thời gian, với giả định khoản vay giữ nguyên
hạng (tức là không xảy ra biến cố xấu). Trong ví dụ trên, do khoản vay giữ nguyên
hạng BBB trong năm tới nên giá trị thị trường của nó là 1,226.2 triệu đồng, tuy
nhiên giá trị trung bình kỳ vọng của nó (được tính trên sự thay đổi hạng tín nhiệm
của người vay) thì chỉ là 1223.4 triệu đồng, thấp hơn 2.8 triệu đồng (=1,226.2 1,223.4). Đây chính là giá trị mất đi do sự thay đổi hạng tín nhiệm của khoản vay,
hay nói cách khác con số 2.8 triệu đồng chính là tổn thất kỳ vọng EL của khoản
vay.
Bước 5: Xác định tổn thất không kỳ vọng UL của khoản vay
Mục tiêu thứ hai của mô hình là tính toán giá trị tổn thất không dự kiến được/
không kỳ vọng của khoản vay, hay nói cách khác là xác định Credit VaR để từ đó
ước lượng vốn kinh tế tương xứng. Tổn thất không kỳ vọng UL chỉ độ dao động
giá trị khoản vay quanh giá trị trung bình kỳ vọng của nó (tức EL đã xác định ở
bước 4), với một độ tin cậy xác định.
Do phân phối tổn thất của danh mục cho vay có hình dạng đuôi dài không
cân xứng. Vì vậy xác định UL cho khoản vay phải dùng phương pháp nội suy để
tính được số gần đúng.
Chẳng hạn trong ví dụ khoản vay hạng BBB giả sử độ tin cậy là 95%, cần
phải tính giá trị với xác xuất 5%. Ta chọn hai xác xuất gần nhất với 5%. Đó là xác
158
xuất 6.77% (= 5.3% + 1.17% + 0.12% + 0.18%) tương ứng với giá trị khoản vay
là 1,208.9 triệu đồng và xác xuất 1.47% (= 1.17% + 0.12% + 0.18%) tương ứng
với giá trị khoản vay là 1,183.7 triệu đồng (xem bảng 3.5). Dùng phương pháp nội
suy giữa hai giá trị trên sẽ tính được xác xuất 5% tương ứng với giá trị là 1,200.5
triệu đồng. Như vậy, sự khác biệt giữa giá trị trung bình của khoản vay và giá trị
tương ứng xác xuất 5% (hay độ tin cậy 95%) = 1,223.4 – 1,200.5 = 22.9 triệu
đồng. Con số này nghĩa là có khoảng 5% khả năng giá trị của khoản vay rơi xuống
mức 1,200.5 triệu đồng và tổn thất sẽ là 22.9 triệu đồng
Như vậy đến đây có thể xác định được tổn thất của khoản vay hạng BBB có
giá trị 1,000 triệu đồng là 25.7 triệu đồng trong đó 2.8 triệu đồng là tổn thất kỳ
vọng phải lập quỹ dự trữ tổn thất, còn 22.9 triệu đồng là tổn thất không ước tính
được. Con số tổn thất này cho biết ngân hàng cần phải có dự phòng 2.8 triệu đồng
và mức vốn kinh tế 22.9 triệu đồng để đối phó với nó. Dựa trên cách tương tự, có
thể xác định giá trị tổn thất theo các kịch bản xấu khác nhau, chẳng hạn xác xuất
biến cố rủi ro 3%, tức độ chắc chắn là 97%, hoặc xác xuất 1% ( tức độ tin cậy là
99%).
Bước 6: Xác định ma trận chuyển hạng cho cả danh mục.
Các bước nội dung từ 1 đến 5 nói trên chỉ đưa ra cách thức xác định tổn thất
kỳ vọng và không kỳ vọng cho từng khoản vay riêng biệt. Tuy nhiên, như đã đề
cập ở phần trên, mục tiêu của mô hình là đo lường rủi ro của cả danh mục nhiều
khoản vay. Phương pháp thích hợp là phân chia danh mục thành các tiểu danh
mục khác nhau, mà trong đó mỗi tiểu danh mục gồm hai khoản cho vay. Để tính
VaR cho từng tiểu danh mục phải xác định được:
Giá trị thị trường của từng khoản vay như cách tính trong bước 1 và 2
Xác định giá trị thị trường hay còn gọi là trạng thái tín dụng chung của
danh mục.
159
Ước tính xác xuất của từng trạng thái tín dụng chung thông qua ma trận kết
hợp chuyển đổi xếp hạng của người vay trên danh mục.
Bảng 3.6 dưới đây liệt kê giá trị của danh mục hai khoản vay hạng BBB và
hạng A, trong đó giá trị danh mục sẽ bằng cộng gộp giá trị của từng khoản vay.
Nhận thấy trường hợp cả hai khoản vay giữ nguyên hạng thì giá trị danh mục sẽ là
2,438.7 triệu đồng, còn khi cả hai khoản vay cùng vỡ nợ thì giá trị danh mục là
479.8 triệu đồng.
BẢNG 3.6 - MA TRẬN TRẠNG THÁI TÍN DỤNG CHUNG CHO
DANH MỤC HAI KHOẢN VAY HẠNG BBB VÀ HẠNG A
Đơn vị: triệu đồng
NGƯỜI VAY
1 (BBB)
AA
A
1,238.2
AA
1,237.5
A
1,234.1
BBB
1,226.2
BB
1,208.9
B
1,183.7
CCC
1,132.4
D
244.6
NGƯỜI VAY 2 (A)
AAA
AA
A
BBB
BB
B
CCC
1,215.
9
2,454.
1
2,453.
4
2,450.
0
2,442.
1
2,424.
8
2,399.
6
2,348.
3
1,460.
5
1,215.
2
2,453.
4
2,452.
7
2,449.
3
2,441.
4
2,424.
1
2,398.
9
2,347.
6
1,459.
8
1,212.
5
2,450.
7
2,450.
0
2,446.
6
2,438.
7
2,421.
4
2,396.
2
2,344.
9
1,457.
1
1,204.
0
2,442.
2
2,441.
5
2,438.
1
2,430.
2
2,412.
9
2,387.
7
2,336.
4
1,448.
6
1,186.
9
2,425.
1
2,424.
4
2,421.
0
2,413.
1
2,395.
8
2,370.
6
2,319.
3
1,431.
5
1,161.
9
2,400.
1
2,399.
4
2,396.
0
2,388.
1
2,370.
8
2,345.
6
2,294.
3
1,406.
5
1,111.
2
2,349.
4
2,348.
7
2,345.
3
2,337.
4
2,320.
1
2,294.
9
2,243.
6
1,355.
8
D
235.2
1,473.
4
1,472.
7
1,469.
3
1,461.
4
1,444.
1
1,418.
9
1,367.
6
479.8
Nguồn : Tính toán của tác giả từ số liệu trong bảng 3.4
Bảng 3.7 dưới đây là ma trận kết hợp xác xuất chuyển hạng đồng thời của hai
người vay, với giả thiết rằng giữa hai người vay này có hệ số tương quan là 30%.
Xác xuất giữ nguyên hạng của cả hai khoản vay là lớn nhất 79.69%. Trong khi đó
160
xác xuất xảy ra vỡ nợ đồng thời cho cả hai khoản vay, hoặc là xác xuất cả hai
khoản vay cùng đạt hạng AAA được xem như bằng 0.
BẢNG 3.7 - MA TRẬN KẾT HỢP XÁC XUẤT CHUYỂN HẠNG,
TRƯỜNG HỢP HỆ SỐ TƯƠNG QUAN KHÁC 0
NGƯỜI VAY 2 (A)
NGƯỜI VAY 1
(BBB)
AAA
AA
A
BBB
BB
B
CCC
D
0.02
0.33
5.95
86.93
5.3
1.17
0.12
0.18
AAA
0.09
0.00
0.00
0.02
0.07
0.00
0.00
0.00
0.00
AA
2.27
0.00
0.04
0.39
1.81
0.02
0.00
0.00
0.00
A
91.05
0.02
0.29
5.44
79.69
4.47
0.92
0.09
0.13
BBB
5.52
0.00
0.00
0.08
4.55
0.64
0.18
0.02
0.04
BB
0.74
0.00
0.00
0.00
0.57
0.11
0.04
0.00
0.01
B
0.26
0.00
0.00
0.00
0.19
0.04
0.02
0.00
0.00
CCC
0.01
0.00
0.00
0.00
0.01
0.00
0.00
0.00
0.00
D
0.06
0.00
0.00
0.00
0.04
0.01
0.00
0.00
0.00
Nguồn: tham khảo từ sách Credit Portfolio Management [42]
Bước 7: Tính EL và UL cho toàn danh mục
Dựa trên xác xuất kết hợp chuyển hạng của hai khoản vay trên danh mục
(bảng 3.7) và giá trị thị trường của danh mục (bảng 3.6), có thể tính được EL và
UL cho cả danh mục theo các bước lặp lại từ 1 đến 5. Tham khảo phụ lục số 12 sẽ
cho cách tính với 64 xác xuất kết hợp chuyển hạng của hai khoản vay và 64 giá trị
tương ứng với xác xuất kết hợp. Kết quả cho biết giá trị trung bình kỳ vọng của
danh mục là 2,433.5 triệu đồng. Trong khi giá trị thị trường của hai khoản vay
(trường hợp giữ nguyên hạng) là 2,438.7 triệu đồng trong bảng 3.6. Như vậy EL
hay tổn thất kỳ vọng của danh mục là 5.2 triệu đồng (=2,438.7 - 2,433.5).
Tính UL với độ tin cậy là 95% bằng phương pháp nội suy sẽ cho giá trị danh
mục tương ứng xác xuất 5% là 2427.9 triệu đồng. Vậy UL hay tổn thất không kỳ
161
vọng sẽ là 5.6 triệu đồng (= 2,433.5 - 2,427.9). Như vậy giá trị chịu rủi ro với độ
tin cậy 95% của danh mục hai khoản vay có hạng BBB và A (cả hai khoản vay có
giá trị danh nghĩa cùng là 1000 triệu đồng) là 5.6 triệu đồng, cũng có nghĩa là yêu
cầu vốn phải có là 5.6 triệu đồng.
So sánh với kết quả trước đó tính riêng cho khoản vay hạng BBB, có giá trị
trên danh mục 1000 triệu đồng tổng tổn thất được xác định là 25.2 triệu đồng,
trong đó vốn tự có tương xứng có giá trị là 22.9 triệu đồng, trong khi danh mục có
hai khoản vay với tổng giá trị 2000 triệu đồng, tổng tổn thất được xác định là 10.8
triệu đồng, vốn tương xứng chỉ là 5.6 triệu đồng. Hai con số này cho thấy lợi ích
của việc đa dạng hóa danh mục cho vay và ảnh hưởng của sự tương quan giữa các
khoản vay, dẫn đến tổn thất toàn danh mục thấp hơn và vốn yêu cầu cũng thấp
hơn.
Phương pháp tính giá trị chịu rủi ro (Credit VaR) cho một danh mục với N
khoản cho vay cũng dựa trên căn bản tính VaR của từng tiểu danh mục gồm hai
khoản cho vay. Sự khác biệt ở đây là số lượng tính toán sẽ rất khổng lồ, chẳng hạn
nếu hạng tín nhiệm của người vay có tất cả 8 hạng (từ AAA cho đến D) và danh
mục có khoảng 200 khoản vay thì ta sẽ có 8200 xác xuất chuyển đổi kết hợp và có
từng đó giá trị danh mục khoản vay tương ứng với mỗi xác xuất chuyển hạng.
Dùng phương pháp tính giá trị trung bình của danh mục như các bước 1 đến bước
5 sẽ tính được VaR cho danh mục với độ tin cậy mong muốn.
Tóm lại, có thể sơ đồ hóa nội dung mô hình đo lường rủi ro dựa trên ma trận
xếp hạng tín nhiệm như hình 3.1 dưới đây.
162
HÌNH 3.1 TỔNG QUAN VỀ MÔ HÌNH ĐO LƯỜNG RỦI RO DỰA
TRÊN MA TRẬN TÍN NHIỆM
Danh mục
Mức độ
biến động
thị trường
Hạng
tín nhiệm
Tài sản
bảo đảm
Khoản
chênh lệch
cộng thêm
Số liệu về
tương quan
Xác xuất
Chuyển hạng
Tỷ lệ thu hồi
khi vỡ nợ
Hiện giá
khoản vay
Mô hình
tương quan
Phân phối
giá trị khoản vay
Độ lệch chuẩn của khoản vay
tương ứng sự thay đổi hạng tín nhiệm
của từng người vay
Thay đổi
kết hợp hạng
tín nhiệm
Mức rủi ro tín dụng chung
của cả danh mục
3.2.3.3. Nghiên cứu sử dụng các công cụ điều chỉnh danh mục cho vay khi
hành lang pháp lý và điều kiện của thị trường tài chính cho phép
Đối với mua bán nợ
Như đã trình bày trong chương 1, mua bán nợ được xem là hình thức điều
chỉnh danh mục đơn giản nhất và hiện tại Việt Nam đã có hành lang pháp lý cho
nó. Tuy nhiên do nhiều hạn chế như đã phân tích trong chương 2 nên quy chế này
không được phát huy. Để khắc phục những điểm hạn chế này và đưa mua bán nợ
trở thành một phương tiện phổ cập hơn, theo người viết các ngân hàng TMCP cần
có những lưu ý sau đây:
Thứ nhất: dựa trên quy chế mua bán nợ được sửa đổi từ phía ngân hàng Nhà nước,
các ngân hàng cần tìm hiểu để áp dụng phù hợp với mục đích của mình. Cần thay
163
đổi quan niệm đang phổ biến hiện nay cho rằng chỉ có nợ xấu mới đưa ra trao đổi,
mà nên sử dụng mua bán nợ như là công cụ để thay đổi linh hoạt cơ cấu danh
mục, tăng/ giảm quy mô dư nợ khi cần thiết.
Thứ hai: Củng cố lại chức năng nhiệm vụ của các công ty mua bán và khai thác
tài sản tại các ngân hàng TMCP. Khi hành lang pháp lý cho phép, hoạt động của
các công ty này không chỉ giới hạn trong xử lý tài sản liên quan đến nợ tồn đọng
của ngân hàng mà mở rộng hơn có thể đại diện cho ngân hàng tham gia đàm phán
thương lượng liên quan đến mua bán tài sản (trái phiếu, khoản nợ) với mọi đối tác
khác nhau trên thị trường, kể cả việc tham gia vào thị trường chứng khoán hóa, vì
vậy cần thiết phải củng cố và nâng cao tính chuyên nghiệp của công ty này, nhằm
chuẩn bị cho các hoạt động trong thời gian tới.
Đối với công cụ hoán đổi rủi ro tín dụng
Về cơ chế hoạt động và tác dụng của hoán đổi rủi ro tín dụng trong quản
danh mục cho vay đối với các ngân hàng đã được đề cập trong chương 1. Tuy
nhiên, từ kinh nghiệm của khủng hoảng tài chính thế giới liên quan đến các công
cụ hoán đổi rủi ro tín dụng vừa qua, thiết nghĩ khi áp dụng tại Việt Nam cần một
số lưu ý sau:
Thứ nhất: Bước đầu nên áp dụng hoán đổi rủi ro tín dụng cho các khoản vay có
giá trị lớn trên danh mục (chỉ liên quan đến một chủ thể vay và có tài sản bảo
đảm), sau đó tiến tới áp dụng cho danh mục các khoản vay tiêu dùng (thông qua
trả góp hoặc thẻ tín dụng, của nhiều chủ thể vay khác nhau và có thể không có bảo
đảm).
Thứ hai: Hợp đồng giao dịch cần phải được chuẩn hóa, các quy định phải cụ thể
chặt chẽ, nhất là sự kiện rủi ro có liên quan đến biến cố chi trả bảo hiểm cần phải
xác định rõ phạm vi, giới hạn trả tiền và các trường hợp loại trừ. Tránh trường hợp
quy định không rõ ràng dẫn đến tranh chấp giữa người tham gia bảo hiểm và công
164
ty chi trả tiền bảo hiểm như đã từng xảy ra tại thành phố Hồ Chí Minh trong
khoảng giữa những năm 90 với các hợp đồng cho vay mua xe trả góp có sự tham
gia của công ty bảo hiểm.
Đối với chứng khoán hóa khoản cho vay
Như đã đề cập trong chương 1, chứng khoán hóa là sự chuyển giao rủi ro
tín dụng từ ngân hàng cho vay sang cho một loạt các nhà đầu tư, những người bỏ
tiền ra mua chứng khoán. Hoạt động chuyển giao này thông qua một tổ chức là
trung gian phát hành chứng khoán ra thị trường trên cơ sở các khoản cho vay của
ngân hàng. Ở Mỹ thường thành lập một tổ chức chuyên biệt đảm nhận vai trò này,
gọi là tổ chức mục đích đặc biệt (Theo Special Purpose Vehicle- SPV). Trong điều
kiện hiện nay của Việt Nam, không nhất thiết phải thành lập riêng tổ chức này mà
có thể do các công ty chứng khoán, hoặc công ty quản lý nợ và khai thác tài sản
trực thuộc các ngân hàng thương mại thực hiện. Về cơ chế hoạt động, bước đầu
chỉ nên áp dụng theo mô hình truyền thống, tức là chứng khoán hóa theo cơ chế
chuyển giao. Áp dụng cơ chế này, công ty chứng khoán nhận chuyển giao quyền
sở hữu khoản vay từ ngân hàng, thực hiện phát hành ra thị trường các loại chứng
khoán/ trái phiếu có cùng hạng, không nên phát hành theo kiểu các CMO có thứ
hạng khác nhau (để giảm bớt công việc xếp hạng tín nhiệm làm căn cứ phân hạng
chứng khoán phát hành). Tuy nhiên, để phát hành trái phiếu dựa trên các khoản
vay, ngoài việc duy trì mức vốn tự có, công ty phát hành còn phải ký quỹ đầy đủ
tại tổ chức bảo lãnh, không nên áp dụng loại chứng khoán hóa không ký quỹ.
Tương tự như hoán đổi rủi ro tín dụng, cần phải có quy định chuẩn hóa về khoản
cho vay được chứng khoán hóa, chẳng hạn về quy mô, thời hạn, lãi suất cho vay
ban đầu, điều kiện bảo đảm, chất lượng của khoản vay...
3.2.4. Các biện pháp hỗ trợ khác
165
3.2.4.1. Hoàn thiện hoạt động kiểm soát và kiểm toán nội bộ theo hướng tăng
cường giám sát quá trình tổ chức thực hiện danh mục cho vay tại ngân hàng
Hoạt động kiểm soát nội bộ của các ngân hàng hiện nay đã được cải thiện
rất nhiều, nhất là tại các ngân hàng TMCP lớn. Tuy nhiên ở các ngân hàng nhỏ,
nhất là các ngân hàng TMCP mới chuyển đổi từ các ngân hàng CP nông thôn thì
hệ thống kiểm soát nội bộ chưa hoàn chỉnh. Các quy trình cấp tín dụng hoặc quy
trình kiểm soát nợ có vấn đề vẫn còn khá lỏng lẻo. Chẳng hạn các quy tắc bất
kiêm nhiệm, quy tắc “bốn mắt”…nhiều khi vẫn bị vi phạm. Điều này dẫn đến rủi
ro luôn tiềm ẩn trong chính quy trình hoạt động của các ngân hàng. Cho nên việc
đầu tiên của quá trình quản trị rủi ro hiệu quả là phải xây dựng một hệ thống kiểm
soát nội bộ tốt. Điều này sẽ giúp cho quá trình tác nghiệp diễn ra suôn xẻ, kịp thời
phát hiện các dấu hiệu rủi ro từ đó có biện pháp ngăn ngừa kịp thời. Hệ thống
kiểm soát nội bộ vận hành tốt sẽ hỗ trợ rất nhiều cho công tác điều hành của ngân
hàng
Tuy nhiên để hỗ trợ cho công tác quản trị thì ngoài việc xây dựng một hệ
thống kiểm soát nội bộ tốt, ngân hàng còn phải có bộ phận kiểm toán nội bộ nhằm
tăng cường giám sát hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ. Bản thân các yếu tố
của kiểm soát nội bộ nằm ngay trong quá trình tác nghiệp, nên nhiều khi khó phát
hiện được dấu hiệu rủi ro tiềm ẩn trong các hoạt động diễn ra hàng ngày. Bộ phận
kiểm toán nội bộ cũng tương tự như bộ phận quản lý rủi ro, cần phải được tổ chức
một cách độc lập, không liên quan đến các hoạt động nghiệp vụ diễn ra hàng ngày.
Theo quy định trong quyết định 37/2006/QĐ-NHNN ngày 1/08/2006 các tổ chức
tín dụng phải thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ chịu sự chỉ đạo trực tiếp của ban
kiểm soát. Như vậy, nếu các ngân hàng TMCP đã hình thành Ban kiểm soát,
nhưng chưa có bộ phận kiểm toán nội bộ thì cần phải thành lập và thiết kế chức
năng, nhiệm vụ của bộ phận này, cho phù hợp với yêu cầu giám sát hoạt động
ngân hàng, phục vụ cho công tác quản trị. Về cơ cấu tổ chức do ban kiểm soát
166
không trực thuộc Hội đồng quản trị, mà trực thuộc đại hội đồng cổ đông nhưng có
trách nhiệm báo cáo với Hội đồng quản trị về kết quả kiểm toán nội bộ. Từ đó có
thể giúp cho Hội đồng quản trị nắm bắt được những yếu kém (nếu có) của hệ
thống kiểm soát nội bộ trong ngân hàng, có biện pháp yêu cầu ban điều hành phải
điều chỉnh để giúp cho công tác quản trị hoạt động ngân hàng sẽ hiệu quả hơn.
3.2.4.2. Các ngân hàng TMCP nhỏ cần sát nhập, hợp nhất để tăng quy mô vốn
tự có, cải thiện khả năng chịu rủi ro của từng ngân hàng, từ đó tăng năng lực
tài chính và khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Một trong những vấn đề quan trọng của quản trị danh mục cho vay là xác
định tổn thất danh mục cho vay và khả năng chịu đựng của ngân hàng. Xác định
tổn thất danh mục là công việc của mô hình đo lường rủi ro như đã đề cập trên
đây. Tuy nhiên mức tổn thất đó có phù hợp với ngân hàng hay không? có nằm
trong khả năng chịu đựng của ngân hàng hay không thì phụ thuộc vào quy mô vốn
tự có của ngân hàng (như đã đề cập trong mục 1.2.3.1). Mục tiêu của quản trị danh
mục cho vay là xây dựng một danh mục cho vay thỏa mãn lợi nhuận kỳ vọng và
giới hạn tổn thất/rủi ro trong khả năng của ngân hàng. Nếu vốn của ngân hàng lớn
thì khả năng chịu đựng rủi ro danh mục của ngân hàng được nâng lên, thậm chí có
thể tránh được các cú “Shock” trong nền kinh tế, ngân hàng có thể linh hoạt, mạo
hiểm hơn trong việc tìm kiếm lợi nhuận. Chính vì lý do này nên việc tăng quy mô
vốn tự có được xem là biện pháp trước mắt để tăng cường khả năng chịu rủi ro
danh mục, về lâu dài tăng năng lực tài chính và sức cạnh tranh trên thương trường
của từng ngân hàng.
Được biết theo khảo sát trên báo cáo tài chính của các ngân hàng TMCP thì
đến ngày 17/12/2009 vẫn còn có 29 trong số 37 ngân hàng TMCP có mức vốn
điều lệ thấp hơn 3000 tỷ đồng, trong đó có khoảng 20 ngân hàng có mức vốn dưới
2000 tỷ đồng và đặc biệt là có 11 ngân hàng mức vốn bằng 1000 tỷ đồng. Đối với
các ngân hàng TMCP, để tăng vốn trong điều kiện kinh tế tiếp tục khó khăn, thị
167
trường chứng khoán chưa có dấu hiệu khởi sắc, rất khó thành công. Mặt khác tăng
vốn một cách cơ học trong khi các điều kiện khác không thỏa mãn như cơ sở vật
chất, mạng lưới chi nhánh, năng lực quản trị, thị trường hoạt động … không đáp
ứng được thì chắc chắn hiệu quả sẽ thấp, nếu không nói là hết sức liều lĩnh. Biện
pháp tăng vốn thích hợp nhất trong thời gian tới là sát nhập, hợp nhất các ngân
hàng nhỏ thành ngân hàng có quy mô lớn hơn. Số lượng các ngân hàng TMCP sẽ
giảm đi nhưng năng lực tài chính sẽ tăng lên, tiếp tục duy trì hoạt động, chờ cơ hội
phát triển mới. Còn lâu dài theo lộ trình vốn tự có của các ngân hàng TMCP đô thị
phải đạt 10 000 tỷ đồng vào năm 2020 (nghị định 141 của ngân hàng Nhà nước)
các ngân hàng TMCP phải chú trọng vào biện pháp tăng vốn từ lợi nhuận trong
kinh doanh, coi đó là biện pháp chủ yếu và hữu hiệu hơn cả.
3.2.4.3. Đào tạo đội ngũ nhân sự có chuyên môn về quản trị để từng bước
chuyên nghiệp hóa công tác quản trị danh mục nói riêng và quản trị hoạt động
ngân hàng nói chung
Như phần hạn chế đã phân tích, thiếu nhân sự cao cấp là một thực tại trong
ngành tài chính ngân hàng. Hạn chế này không phải là chuyện có thể hoàn thiện
trong ngày một, ngày hai được, mà đòi hỏi phải có thời gian. Do vậy, thiết nghĩ để
có được đội ngũ các nhà quản trị cấp cao cho ngành ngân hàng Việt nam trong 5 –
7 năm sau thì phải có chiến lược đào tạo nhân sự ngay từ bây giờ. Việc đào tạo có
thể thông qua nhiều cách thức:
Gửi các cán bộ trẻ đi học ở nước ngoài từ quỹ đào tạo của ngân hàng, đồng
thời với các biện pháp ràng buộc nghĩa vụ tránh trường hợp “chảy máu
chất xám” sau khi đào tạo;
Đào tạo lại những cán bộ đang làm quản trị có độ tuổi trung niên, thông
qua các chương trình đào tạo tại chổ hoặc đào tạo tập trung ngắn ngày với
các mục tiêu rõ ràng phải đạt được sau học tập;
168
Liên kết, mời giảng viên các trường đại học chuyên ngành về giảng dạy
các khóa ngắn hạn tại chỗ;
Cử cán bộ tham gia vào các hội thảo trong nước và quốc tế có liên quan
đến vấn đề cải cách, quản trị hoạt động ngân hàng.
3.3. CÁC KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
3.3.1. Xây dựng hành lang pháp lý cho công tác quản trị danh mục cho vay
của ngân hàng, có chế tài cụ thể khi các ngân hàng vi phạm.
Thực tế những năm qua cho thấy, một hành lang pháp lý cho hoạt động
quản trị danh mục cho vay của các ngân hàng thương mại là hết sức cần thiết. Các
ngân hàng thương mại, nhất là những ngân hàng sở hữu ngoài nhà nước, thường
có xu hướng tìm kiếm lợi nhuận càng cao càng tốt, nên việc chạy theo nhu cầu thị
trường rất dễ xảy ra. Ở góc độ quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ,
ngân hàng Nhà nước cần phải đưa ra các quy định để hạn chế bớt sự nóng vội của
các ngân hàng trong việc tìm kiếm lợi nhuận, ổn định tình hình chung. Mặc dù
thời kỳ qua, ngân hàng Nhà nước đã có nhiều nỗ lực, đưa ra một số văn bản nhằm
giới hạn hoạt động cho vay trong một số ngành/ lĩnh vực kinh tế, cũng như các
văn bản quy định đảm bảo an toàn trong kinh doanh ngân hàng, như các Chỉ thị
03/2007/CT-NHNN; quyết định 03/2008/QĐ-NHNN; thông tư 13/2010/TTNHNN; thông tư 19/2010/TT-NHNN… tuy nhiên nội dung các quy định này chưa
đầy đủ, thời điểm ban hành chậm trễ và thường mang tính thời điểm, nên có hiệu
lực ngắn. Ngoại trừ quy định giới hạn cho vay hoặc bảo lãnh tối đa cho một khách
hàng/ một nhóm khách hàng có trên Luật Các tổ chức tín dụng, những giới hạn cụ
thể hơn đối với dư nợ các ngành, nhất là những ngành nhạy cảm hoàn toàn chưa
được đề cập trong Luật. Vì vậy, thời gian tới, để hướng dẫn cho các ngân hàng
thương mại thực hiện đa dạng hóa, tránh rủi ro tập trung tiềm ẩn trên danh mục,
thiết nghĩ ngân hàng Nhà nước cần xây dựng các quy định chi tiết hơn, về mức đa
169
dạng hóa danh mục, về giới hạn an toàn cho phép (tính trên dư nợ, quy mô vốn tự
có của từng ngân hàng). Trường hợp phát hiện các ngân hàng vi phạm phải có chế
tài phạt thích hợp. Đó là biện pháp cần thiết để đưa hoạt động quản trị danh mục
cho vay vào khuôn khổ, nhất là trong giai đoạn kỹ năng quản trị của các ngân
hàng còn yếu kém.
3.3.2 Tiếp tục nghiên cứu và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện
quản trị rủi ro theo chuẩn mực Basel phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Đây chính là công việc cần thiết trong giai đoạn trước mắt của ngân hàng
Nhà nước để đạt được lộ trình đến năm 2020 áp dụng theo tiêu chuẩn Basel 2. Các
văn bản hiện tại như quyết định 457, quyết định 493 có liên quan đến quản trị
danh mục cho vay sẽ không còn phù hợp theo yêu cầu của giai đoạn mới, nên cần
phải được thay thế dần. Về nội dung này, tác giả có một số đề xuất cụ thể như sau:
Thứ nhất: cần có những thay đổi căn bản trong cách hiểu/ quan niệm về rủi ro tổn
thất và nguồn trích lập bù đắp cho tổn thất trên danh mục cho vay của ngân hàng.
Như đã phân tích ở chương 2, cách hiểu về tổn thất và trích lập dự phòng của ngân
hàng Nhà nước trong quyết định 493 làm cho việc tính toán nguồn bù đắp cho tổn
thất trên danh mục cho vay không sát đúng với thực tế rủi ro của mỗi ngân hàng.
Việc gộp chung nguồn bù đắp cho cả hai loại tổn thất khác nhau đều từ dự phòng
và trích lập từ chi phí kinh doanh, khiến cho các ngân hàng tốn kém hơn mà chưa
hẳn đã an toàn hơn. Như đã trình bày trong phần phân tích hạn chế ở chương 2,
nội dung của quyết định 493/QĐ-NHNN của ngân hàng Nhà nước là theo tinh
thần của Basel 1, quy định một mẫu áp dụng cho tất cả các ngân hàng. Mà điều
này hiện nay không còn phù hợp nữa. Ủy ban Basel trong Hiệp ước Basel 2 đã
khuyến khích các ngân hàng nên áp dụng các phương pháp đo lường nội bộ.
Trong đề án phát triển ngân hàng đến năm 2020, ngân hàng Nhà nước cũng dự
kiến từ sau năm 2010 bắt đầu áp dụng theo tinh thần Basel 2. Vì vậy, đến thời
170
điểm này thiết nghĩ ngân hàng Nhà nước cần soạn thảo các văn bản mới thay thế
cho quyết định 493/QĐ-NHNN và sớm ban hành trong thời gian gần nhất.
Thứ hai: Ngân hàng Nhà nước cần khuyến khích các ngân hàng thương mại áp
dụng mô hình đo lường rủi ro nội bộ vào công tác quản trị danh mục cho vay. Nội
dung này cần được xúc tiến sau khi hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của các
ngân hàng được vận hành và thông qua. Các ngân hàng TMCP quy mô lớn có thể
xây dựng mô hình phù hợp với đặc điểm, tình trạng riêng của mỗi ngân hàng (cụ
thể như mô hình ma trận tín nhiệm đề xuất trong mục 3.2.3.2), với điều kiện phải
được ngân hàng Nhà nước (cơ quan giám sát) cho phép thực hiện. Còn các ngân
hàng TMCP nhỏ, hoạt động quản trị còn yếu kém thì giai đoạn đầu có thể hướng
dẫn một kiểu mô hình chung, đơn giản (chẳng hạn như mô hình biến cố vỡ nợ đề
cập trong mục 3.2.3.2). Ở giai đoạn sau khi mà năng lực, kinh nghiệm quản trị của
các ngân hàng này đã được nâng lên, nhất là khi thị trường tài chính trong nước
phát triển, các ngân hàng có thể tham gia rất năng động vào các hoạt động trao đổi
mua bán trên thị trường thì có thể chuyển sang mô hình ma trận xếp hạng tín
nhiệm phù hợp hơn.
Do việc chuyển đổi từ các quy định hiện tại theo tinh thần Basel 1 sang
Basel 2 với mức độ phức tạp hơn, cao hơn, nên phải có lộ trình cụ thể. Tuy nhiên
để có thể thực hiện đúng lộ trình kế hoạch, các văn bản mới cần phải đưa ra các
mốc thời hạn cụ thể cho từng giai đoạn và biện pháp xử lý rõ ràng nếu các ngân
hàng không thực hiện đúng lộ trình. Không nên hành xử giống như thời gian qua:
sau thời hạn 3 năm kể từ khi ban hành quyết định 493 (ngày 22/04/2005) các ngân
hàng vẫn không thể thực hiện phân hạng nợ theo định tính và cũng không xây
dựng được hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, cũng không thấy ngân hàng Nhà
nước đưa ra biện pháp xử lý nào công khai trong toàn hệ thống.
Ngoài ra để nắm vững các kiến thức cần thiết về Basel 2 và sắp tới là Basel
3, ngân hàng Nhà nước nên tổ chức các cuộc hội thảo trong nước có sự tham gia
171
của các ngân hàng thương mại, cử cán bộ tham gia vào các hội thảo quốc tế có nội
dung liên quan, liên lạc với tổ chức Basel để trao đổi học hỏi kinh nghiệm (đây là
điều mà Ủy ban Basel luôn khuyến khích các nước thực hiện)
3.3.3. Hoàn thiện các quy định về giám sát ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế
Chương 2 có chỉ ra một số hạn chế trong công tác giám sát, để nâng cao hiệu
quả của công tác này, tác giả đề xuất tập trung vào một số khía cạnh sau:
3.3.3.1. Về mô hình giám sát:
Hiện tại mô hình giám sát tại Việt Nam là mô hình vừa phân tán vừa tập
trung. Sở dĩ gọi là phân tán vì có 3 cơ quan giám sát chuyên ngành trực thuộc các
bộ khác nhau, hoạt động riêng rẽ là cơ quan giám sát, thanh tra ngân hàng trực
thuộc ngân hàng Nhà nước; cục quản lý & giám sát bảo hiểm thuộc Bộ tài chính
và cơ quan giám sát chứng khoán thuộc Ủy ban Chứng khoán nhà nước. Ngoài ra,
lại còn có Ủy ban giám sát quốc gia trực thuộc Thủ tướng Chính phủ làm nhiệm
vụ giám sát tập trung. Hoạt động của mô hình giám sát này rõ ràng không thích
hợp trong điều kiện của thị trường tài chính sắp tới. Bởi vì thị trường các công cụ
điều chính không chỉ liên quan đến ngân hàng mà còn có hoạt động của các tổ
chức tài chính phi ngân hàng như chứng khoán, bảo hiểm, do vậy, mô hình giám
sát chuyên ngành phân tán như hiện nay là không thích hợp mà cần phải có cơ
quan giám sát tập trung/ hợp nhất, trong đó phạm vi giám sát là toàn bộ các lĩnh
vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và các hoạt động của thị trường tài chính
nói chung. Thiết nghĩ, mô hình tập trung sẽ tránh được sự chồng chéo trong nội
dung giám sát, chắc chắn sẽ sâu sát và hiệu quả hơn là mô hình phân tán như hiện
tại.
3.3.3.2. Về phương pháp giám sát:
172
Cơ quan giám sát tại các nước có hai phương pháp giám sát là giám sát tuân
thủ và giám sát trên cơ sở rủi ro. Theo người viết cả hai phương pháp này đều có
thể được sử dụng cho hoạt động của thị trường các công cụ điều chỉnh. Trong điều
kiện hành lang pháp lý cho hoạt động được thiết lập rõ ràng, thì giám sát tuân thủ
nhằm phát hiện các hiện tượng vi phạm luật như đầu cơ, nội gián… trái nguyên
tắc hoạt động của thị trường. Bên cạnh đó giám sát trên cơ sở rủi ro giúp phát hiện
ra rủi ro tiềm tàng từ các dấu hiệu cảnh báo, tạo điều kiện ổn định hoạt động của
thị trường, bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể tham gia. Khẩn trương hoàn thành
Luật giám sát ngân hàng để trình quốc hội thông qua như dự kiến. Trong đó cần
nhấn mạnh phương pháp giám sát từ xa/ giám sát trên cơ sở rủi ro, chứ không chỉ
đơn thuần là giám sát tại chỗ/ giám sát tuân thủ như lâu nay đang thực hiện. Mặt
khác ở góc độ vĩ mô cần nghiên cứu lựa chọn giữa hai mô hình giám sát phân tán
và mô hình giám sát tập trung/ hợp nhất để vận dụng thích hợp trong bối cảnh nền
kinh tế Việt Nam.
3.3.4. Xây dựng các quy định pháp lý và hình thành thị trường cho các công
cụ tài chính có tính thương mại cao tại Việt Nam
3.3.4.1. Chỉnh sửa quy chế mua bán nợ cho phù hợp thị trường để mở rộng
hình thức này trong thời gian tới
Những nội dung trong quy chế hiện tại nên điều chỉnh là:
Thứ nhất: Có quy định cụ thể về mua bán nợ thông thường, không chỉ có nợ xấu,
đồng thời không nên quy định giá tối thiểu giao dịch mà nên để giá hình thành từ
thương lượng giữa người bán và người mua.
Thứ hai: Mở rộng đối tượng tham gia vào mua bán nợ, nhất là các công ty bảo
hiểm, các quỹ đầu tư…
173
3.3.4.2. Xây dựng các quy định pháp lý cho thị trường các công cụ tài chính
phái sinh.
Để cho việc sử dụng các công cụ điều chỉnh danh mục thuận lợi, thì việc thiết
lập một hành lang pháp lý từ phía Nhà nước là hết sức cần thiết. Đối với các công
cụ chưa xuất hiện tại Việt Nam như phái sinh tín dụng, ngân hàng Nhà nước cần
nghiên cứu kỹ lưỡng về việc áp dụng trong điều kiện Việt Nam. Bởi vì mặc dù có
những ưu điểm phù hợp với một nền tài chính hiện đại theo cơ chế mở, nhưng rõ
ràng là các công cụ phái sinh cũng có những nhược điểm của nó, rất cần có một cơ
chế giám sát hữu hiệu và một hành lang pháp lý chặt chẽ để phát triển. Điều này
đã được minh chứng rất rõ qua cuộc khủng hỏang tài chính thế giới vừa qua. Bản
thân các công cụ không có lỗi, nhưng cơ chế giám sát thiếu hiệu quả và hành lang
pháp lý chưa đủ chặt chẽ đã “khuếch đại” những điểm yếu vốn có của các công cụ
này. Nhằm kiến tạo hành lang pháp lý cho việc vận dụng các công cụ phái sinh
vào mục đích điều chỉnh danh mục cho vay, người viết có một số đề xuất cụ thể
như sau:
Thứ nhất: Cần xây dựng cơ chế hoạt động cho từng loại sản phẩm phái sinh áp
dụng, điều này cũng có ý nghĩa chuẩn hóa giao dịch trên thị trường chính thức,
tránh hiện tượng mỗi ngân hàng áp dụng một kiểu khác nhau do giao dịch trên thị
trường phi chính thức (OTC).
Thứ hai: Mở rộng phạm vi áp dụng công cụ hoán đổi rủi ro tín dụng cho các ngân
hàng thương mại tham gia với tư cách người cung cấp sản phẩm, không nên chỉ áp
dụng thí điểm cho một vài ngân hàng như hiện tại. Điều này sẽ tránh được hiện
tượng độc quyền về giá bán, bất lợi cho các chủ thể tham gia với vị trí là người
mua. Mặt khác, cần khuyến khích các chủ thể ngoài ngân hàng tham gia, nhất là
các công ty kinh doanh bảo hiểm với vai trò người bán bảo vệ. Tuy nhiên cần có
quy định chặt chẽ về điều kiện tham gia của người bán, người mua và điều kiện
174
của khoản vay tham chiếu, tránh áp dụng một cách đại trà dẫn đến khó kiểm soát
được hoạt động của thị trường.
Thứ ba: Giới hạn mục đích tham gia của các ngân hàng thương mại là nhằm bảo
hiểm rủi ro tín dụng/ mục đích phòng hộ, không nhằm mục đích đầu cơ. Do vậy,
yêu cầu ngân hàng mua bảo hiểm phải sở hữu thực sự các khoản vay, không chấp
nhận mua bán “khống” khoản vay không tồn tại trên danh mục. Điều này cũng có
nghĩa là giới hạn phạm vi hoạt động của giao dịch phái sinh, “khoanh vùng” cho
những hoạt động này để dễ đối phó khi thị trường giao dịch có những dấu hiệu
không lành mạnh, tránh trường hợp hình thành một mạng lưới chằng chịt như thị
trường Mỹ dẫn đến khó kiểm soát. Ngoài ra cũng cần có quy định giới hạn doanh
số giao dịch so với vốn tự có của các ngân hàng tham gia nhằm hạn chế rủi ro
trong khả năng chấp nhận được của từng ngân hàng.
Thứ tư: Kết hợp với Bộ tài chính hoàn thiện các quy định kế toán liên quan đến
giao dịch tài chính phái sinh.
3.3.4.3. Thành lập các tổ chức dịch vụ tham gia kích hoạt thị trường
Kinh nghiệm tại các nước phát triển cho thấy khi thành lập thị trường các
công cụ phái sinh không thể thiếu được vai trò của Nhà nước trong việc chỉ định
hoặc thành lập một số tổ chức làm nhiệm vụ môi giới, bảo lãnh phát hành, tư vấn
…tham gia vào thị trường với vai trò định hướng tổ chức giao dịch. Nhà nước
thông qua vai trò của Ngân hàng Trung ương cần phải xây dựng quy định pháp lý
cho việc thành lập các tổ chức này, ví dụ quy định vốn pháp định, điều lệ hoạt
động, các điều kiện cần thiết khác cho quá trình hoạt động trên thị trường. Nhiệm
vụ của các tổ chức này cần được quy định cụ thể, tránh sự trùng lắp hoặc chồng
chéo lên nhau. Cụ thể:
Tổ chức môi giới với vai trò là cầu nối giữa bên mua và bên bán nợ từ đó hưởng
phí/hoa hồng môi giới
175
Tổ chức trung gian đặc biệt trong chứng khoán hóa. Đây là tổ chức có vai trò
quan trọng không thể thiếu được trong quá trình thực hiện chứng khoán hóa.
Nhiệm vụ của tổ chức này là tập hợp các khoản cho vay từ phía ngân hàng khởi
tạo, thu xếp phát hành chứng khoán tương thích ra thị trường cho các nhà đầu tư,
chuyển dòng tiền thu được do bán chứng khoán cho ngân hàng cho vay. Tổ chức
trung gian cũng là nơi thanh toán gốc và lãi chứng khoán cho các nhà đầu tư từ số
tiền do ngân hàng cho vay chuyển giao do thu nợ từ người vay ban đầu. Ở các
nước, thông thường tổ chức trung gian được thành lập dưới sự bảo trợ của Chính
phủ như tổ chức Freddie Mac hoặc Ginnie Mae của Mỹ, Hong Kong Mortgage
Corporation của Hồng kông …Ở Việt Nam, giai đoạn đầu tiên có thể sử dụng các
công ty chứng khoán trực thuộc các ngân hàng cho vay thực hiện nhiệm vụ này.
Sau đó, khi thị trường đã phát triển mạnh có thể thành lập các công ty độc lập
chuyên thực hiện vai trò trung gian như các tổ chức SPV của Mỹ.
Tổ chức bảo lãnh phát hành có vai trò đảm bảo thanh toán cho các nhà đầu tư
trong trường hợp tổ chức trung gian mất khả năng thanh toán. Do hoạt động bảo
lãnh xuất phát từ uy tín nên tổ chức này có thể là các ngân hàng lớn, các công ty
kinh doanh bảo hiểm, kể cả Chính phủ ... thực hiện.
Tổ chức quản lý tài sản thường làm dịch vụ cho ngân hàng cho vay trong việc thu
xếp các khoản cho vay chuẩn bị chứng khoán hóa cũng như thay mặt ngân hàng
thu nhận dòng tiền thanh toán từ người vay và chuyển sang cho tổ chức trung gian
để thanh toán cho nhà đầu tư. Ở Việt Nam có thể sử dụng các công ty khai thác tài
sản và quản lý nợ trực thuộc ngân hàng thương mại thực hiện vai trò này.
Ngoài các tổ chức nói trên, thì sự xuất hiện của các tổ chức xếp hạng tín
nhiệm, tổ chức tư vấn cũng góp phần làm cho thị trường hoạt động một cách xuôn
xẻ và hiệu quả.
176
3.3.5. Củng cố hoạt động của trung tâm CIC và các tổ chức xếp hạng tín
nhiệm độc lập tại Việt Nam
Để cho các giao dịch trên thị trường thuận lợi thì vai trò của các tổ chức
xếp hạng tín nhiệm là không nhỏ. Việc đánh giá xếp hạng độc lập các chứng
khoán trên thị trường sẽ cung cấp thêm thông tin, giúp tạo dựng lòng tin cho các
nhà đầu tư khi họ có ý định mua chứng khoán. Hiện tại trung tâm CIC trực thuộc
ngân hàng Nhà nước chủ yếu xếp hạng ngân hàng, vì vậy chưa thỏa mãn nhu cầu
xếp hạng khi phát triển thị trường các công cụ chuyển đổi. Một số tổ chức xếp
hạng đang hoạt động tại Việt Nam (như công ty cổ phần xếp hạng tín nhiệm
doanh nghiệp Việt Nam - CRV) cần phải được củng cố và khuyến khích phát
triển, để phát huy tính độc lập trong đánh giá xếp hạng tín nhiệm các chủ thể giao
dịch, các công cụ vay nợ cũng như các quốc gia khi thị trường tài chính trong
nước hội nhập quốc tế.
3.4 CÁC KIẾN NGHỊ KHÁC
3.4.1 Kiến nghị với Chính phủ:
Chính phủ có vai trò quan trọng trong điều hành kinh tế vĩ mô, tạo lập môi
trường cho sự phát triển của ngân hàng thương mại cũng như các doanh nghiệp
trong nền kinh tế, từ đó cũng có những ảnh hưởng nhất định đến danh mục cho
vay của các ngân hàng thương mại. Thực tế thời gian qua cho thấy, vai trò điều
hành của Chính phủ chưa thật sự hiệu quả, có tác động không tốt đến hoạt động
ngân hàng nói chung và hoạt động quản trị danh mục cho vay nói riêng của ngân
hàng thương mại. Vì vậy, tác giả có một số kiến nghị với Chính phủ như sau:
Thứ nhất: trong giai đoạn tới, Chính phủ cần cân nhắc để đảm bảo hài hòa hợp lý
giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế và mục tiêu ổn định kinh tế, kìm chế lạm phát.
Theo tác giả, không nhất thiết phải theo đuổi tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, mà
nên tập trung cho mục tiêu ổn định nền kinh tế, nhất là trong giai đoạn trước mắt.
177
Thực tế những năm qua cho thấy, việc quá chú trọng vào tăng trưởng kinh tế trên
cơ sở vốn đầu tư (theo chiều rộng) chứ không phải là dựa trên năng suất hiệu quả
(theo chiều sâu), một mặt đã dẫn đến đầu tư vốn dàn trải, kém hiệu quả: một số
ngành phi sản xuất tăng trưởng “quá nóng” thiếu sự kiểm soát, trong khi những
ngành sản xuất kinh doanh khác khó khăn. Mặt khác, trong điều kiện các thành
phần kinh tế đều khó khăn về vốn thì nhu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế sẽ bị
đẩy sang phía hệ thống ngân hàng. Đây cũng là một nguyên nhân khiến cho hệ
thống ngân hàng mở rộng quá nhiều về số lượng (ngân hàng, chi nhánh) đồng thời
với tín dụng tăng trưởng “nóng” quá mức cần thiết, cơ cấu danh mục mất cân đối
trong giai đoạn 2006-2007, gây ra nhiều hệ lụy cho những năm sau này. Do đó
thiết nghĩ, Chính phủ cần phải xác định nhất quán và kiên trì theo đuổi mục tiêu
ổn định kinh tế, trên cơ sở đó xây dựng các chính sách điều hành phù hợp, có tính
ổn định lâu dài, tạo sự yên tâm tin tưởng cho các chủ thể trong nền kinh tế.
Thứ hai: Đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, trong đó có tái cơ cấu hệ
thống ngân hàng và doanh nghiệp, chấp nhận cho giải thể /phá sản những doanh
nghiệp, tập đoàn kinh tế, ngân hàng làm ăn yếu kém, xem đó như là một quá trình
sàng lọc cần thiết, để hình thành nền kinh tế thị trường với các chủ thể có năng lực
cạnh tranh độc lập, thực sự hiệu quả. Đồng thời có các biện pháp tháo gỡ (như
chính sách thuế, hỗ trợ xúc tiến thương mại …) giúp các chủ thể kinh doanh đang
gặp khó khăn có thể đứng vững và vượt qua giai đoạn khủng hoảng kinh tế hiện
nay, từ đó gián tiếp tác động tích cực đến hoạt động cho vay và danh mục cho vay
của ngân hàng thương mại.
Thứ ba: Có biện pháp để nâng cao năng lực điều hành vĩ mô, trong đó có năng lực
giám sát, năng lực dự báo kinh tế… giúp các chủ thể kinh doanh, trong đó có ngân
hàng có thể xây dựng được các chiến lược kinh doanh dài hạn, thuận lợi cho việc
thực hiện tốt công tác quản trị danh mục cho vay theo phương pháp chủ động, duy
trì sự ổn định, có thể đứng vững trước các tác động bất lợi của chu kỳ kinh tế.
178
Thứ tư: Cần hình thành và duy trì thói quen minh bạch thông tin ở góc độ vĩ mô
cũng như trong các ngành, các chủ thể kinh doanh, từng bước tạo dựng môi
trường kinh tế xã hội lành mạnh, tạo sự tin tưởng cho giới kinh doanh, người dân
cũng như các đối tác, các quốc gia có mối quan hệ với Việt Nam, khẳng định uy
tín và thương hiệu quốc gia trong môi trường kinh doanh quốc tế.
3.4.2 Kiến nghị với các doanh nghiệp
Với tư cách là những chủ thể đóng góp chính cho sự phát triển kinh tế, các
doanh nghiệp cần có chiến lược lâu dài nâng cao năng lực tài chính, giới hạn quy
mô kinh doanh trong khả năng vốn, không quá phụ thuộc vào nguồn vốn ngân
hàng. Thời kỳ vừa qua cho thấy nhiều doanh nghiệp lạm dụng đòn bẩy tài chính,
mở rộng quy mô kinh doanh quá mức, vượt khả năng vốn cũng như năng lực quản
trị điều hành, vì thế, khi nền kinh tế có những biến động bất lợi, lãi suất ngân hàng
tăng cao, nhiều doanh nghiệp rơi vào cảnh thua lỗ phải đóng cửa phá sản.
Kết luận chương 3:
Từ cơ sở lý thuyết ở chương 1 và cơ sở thực tiễn trong chương 2, chương 3
của luận án đã nêu ra một số giải pháp cho việc hoàn thiện hoạt động quản trị
danh mục cho vay tại các ngân hàng TMCP. Những nội dung đã giải quyết trong
chương 3 gồm có:
Thứ nhất: Quan điểm về việc hoàn thiện hoạt động quản trị danh mục cho vay tại
các ngân hàng TMCP được thể hiện trong phần 3.1.2. Trên cơ sở chiến lược phát
triển ngành ngân hàng do Chính phủ đưa ra vào năm 2006 trong mục 3.1.1, luận
án đề ra mục tiêu và các định hướng cụ thể cho việc hoàn thiện hoạt động quản trị
danh mục cho vay nhằm đạt mục tiêu đến năm 2020.
Thứ hai: Luận án đề xuất các giải pháp hoàn thiện hoạt động quản trị danh mục
cho vay gồm các nhóm: nhóm giải pháp chiến lược; nhóm giải pháp về kỹ thuật
179
xây dựng và ứng dụng các kỹ thuật quản trị danh mục hiện đại; nhóm giải pháp về
tổ chức hoạt động quản trị và nhóm các giải khác hỗ trợ khác. Trong số này, luận
án nhấn mạnh hơn đến nội dung xây dựng và ứng dụng các kỹ thuật quản trị danh
mục hiện đại, như mô hình đo lường rủi ro danh mục cho vay, vận dụng các công
cụ điều chỉnh danh mục như hoán đổi rủi ro tín dụng, chứng khoán hoá nợ… Đây
là những nội dung đặc trưng của quản trị danh mục hiện đại và được xem là những
đề xuất mới trong điều kiện Việt Nam, mang ý nghĩa đột phá trong việc chuyển từ
cách thức quản trị hiện tại sang quản trị theo xu hướng hiện đại.
Thứ ba: Bên cạnh các giải pháp dành cho đối tượng chính là ngân hàng TMCP,
luận án còn đưa ra một số khuyến nghị với ngân hàng Nhà nước, kiến nghị với
Chính phủ và doanh nghiệp nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý, hỗ trợ tạo điều
kiện cho các giải pháp hoàn thiện hoạt động quản trị danh mục cho vay của ngân
hàng TMCP có tính khả thi cao. Đó là các khuyến nghị về việc tiếp tục ban hành
các văn bản giám sát và hướng dẫn thực hiện quản trị rủi ro theo chuẩn mực quốc
tế, xây dựng quy định pháp lý cho việc hình thành phát triển thị trường các công
cụ phái sinh, tăng cường hiệu quả của công tác giám sát, ổn định kinh tế vĩ mô…
180
KẾT LUẬN
Trong hoạt động của ngân hàng thương mại, quản trị danh mục cho vay là
một công việc khó khăn phức tạp. Nó đòi hỏi khả năng dự báo, tầm nhìn chiến
lược trong hoạch định, sự chặt chẽ trong quá trình thực hiện và sự uyển chuyển,
linh hoạt trong việc điều chỉnh. Đây là điều mà các ngân hàng thương mại Việt
Nam nói chung còn thiếu. Xuất phát từ nhận định như vậy, mục tiêu của luận án
tập trung vào nghiên cứu thực tiễn công tác quản trị danh mục cho vay tại các
ngân hàng TMCP Việt Nam trong giai đoạn từ 2006 đến 2010, từ đó chỉ ra những
hạn chế và đề xuất các giải pháp thích hợp để hoàn thiện hoạt động này. Với kết
cấu 3 chương truyền thống trình bày trong 177 trang, nội dung của luận án đã đạt
được các kết quả sau đây:
Về mặt lý luận: Luận án đã tập hợp đầy đủ và có tính hệ thống những lý luận căn
bản nhất về hoạt động quản trị danh mục cho vay theo phương pháp quản trị chủ
động, từ hoạch định mục tiêu liên quan đến khả năng chịu đựng của vốn kinh tế,
thiết lập các phương án danh mục khác nhau thỏa mãn mục tiêu, xây dựng bộ máy
tổ chức quản trị, tổ chức giám sát, điều chỉnh danh mục… Những lý luận này bổ
sung cho kiến thức giảng dạy tại các trường đại học về ngân hàng cũng như định
hướng cho việc đưa vào áp dụng trong thực tiễn tại Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: Thông qua phân tích về thực trạng danh mục cho vay, đánh giá
những kết quả đạt được trong quản trị danh mục cho vay tại các ngân hàng TMCP
Việt Nam, luận án cũng đã chỉ ra những hạn chế đang tồn tại trong quản trị danh
mục cho vay tại các ngân hàng TMCP. Từ đó, giải quyết ba vấn đề lớn nhằm hoàn
thiện hoạt động quản trị danh mục cho vay, đó là: (1) hình thành nhận thức mới về
hoạt động quản trị danh mục cho vay tại các ngân hàng TMCP trong xu hướng
phát triển hoạt động ngân hàng hiện đại (2) tổ chức thực hiện phương pháp quản
181
trị danh mục cho vay chủ động (3) xây dựng và ứng dụng các kỹ thuật hiện đại
trong quản trị danh mục cho vay.
Về giải pháp ứng dụng vào thực tiễn Từ cơ sở lý luận trong chương 1 và cơ sở
thực tiễn trong chương 2, luận án đã đề xuất khá toàn diện các giải pháp từ tầm vi
mô từng ngân hàng, cho đến toàn hệ thống ngân hàng và tầm vĩ mô Nhà nước.
Những đề xuất được xem là đóng góp mới của luận án bao gồm:
Thứ nhất là đề xuất xây dựng mô hình đo lường rủi ro danh mục có ý
nghĩa hết sức mới mẻ trong điều kiện Việt Nam hiện nay. Để nâng cao
khả năng ứng dụng trong bối cảnh cụ thể tại Việt Nam, luận án đề xuất
hai mô hình được xem là thích hợp với điều kiện Việt Nam với các
điều kiện tiền đề cụ thể.
Thứ hai là những đề xuất về việc ứng dụng các công cụ kỹ thuật hiện
đại như hoán đổi rủi ro, chứng khoán hóa nợ trong trường hợp cần
thiết phải điều chỉnh danh mục cho vay cho phù hợp với mục tiêu ngân
hàng đặt ra.
Với những kết quả nói trên, luận án đã có ý nghĩa thiết thực trong việc đưa
những kiến thức có tính hệ thống về quản trị danh mục cho vay theo xu hướng
hiện đại vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu của luận
án không chỉ cần thiết cho việc giảng dạy tại các trường đại học chuyên sâu về tài
chính ngân hàng, mà còn tạo tiền đề để vận dụng vào thực tiễn hoạt động của các
ngân hàng thương mại Việt Nam. Theo xu hướng hiện đại, quản trị danh mục cho
vay không phải là một công việc đơn giản, nhất là trong bối cảnh các ngân hàng
thương mại Việt Nam nói chung và ngân hàng TMCP Việt Nam nói riêng có điểm
xuất phát về quản trị còn thấp. Vì vậy việc đưa các ý tưởng đề xuất vào thực hiện
thành công trong hoạt động của các ngân hàng là một quá trình hết sức khó khăn,
đòi hỏi phải có sự đồng bộ từ nhiều phía. Mặt khác do điều kiện hoạt động của
mỗi các ngân hàng có nhiều điểm riêng biệt, môi trường hoạt động luôn thay đổi,
182
vì vậy để ứng dụng vào hoạt động của từng ngân hàng, cần phải có những nghiên
cứu chi tiết và cụ thể hơn dựa trên nền tảng các đề xuất cơ bản của luận án.
Cuối cùng, tác giả mong muốn nhận được các góp ý xác đáng từ phía các nhà
khoa học, các nhà quản trị ngân hàng, từ các đồng nghiệp và sinh viên quan tâm
đến vấn đề này, để có thể tiếp tục hoàn thiện công trình nghiên cứu của mình.
Xin trân trọng cảm ơn./.
183
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
Sách:
1.
Dickerson Knight Group (2003), tài liệu đào tạo quản lý danh mục cho vay
theo dự án quỹ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, Dickerson Knight Group,
Inc.
2.
Hồ Diệu (2002), Quản trị ngân hàng, nhà xuất bản Thống kê.
3.
Ngân hàng thanh toán quốc tế - BIS, Basel II- sự thống nhất quốc tế về đo
lường và các tiêu chuẩn vốn, nhà xuất bản văn hóa thông tin, bản dịch của
Khúc Quang Huy năm 2008.
4.
Ngô Hướng, Phan Đình Thế (2002), giáo trình Quản trị và kinh doanh ngân
hàng, nhà xuất bản thống kê, Hà nội.
5.
Nguyễn Văn Luận (2001), Từ điển kinh tế Anh Việt, Nhà xuất bản thành phố
Hồ Chí Minh.
6.
Peter. S Rose (2001), Quản trị ngân hàng thương mại, bản dịch của trường
Đại học kinh tế quốc dân, nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.
Bài báo
7.
Bảo Anh “Mua bán nợ xấu cần mở rộng đối tượng để tăng tính hiệu quả”,
Báo Kinh tế Việt Nam số 23 ngày 17/11/2009.
8.
Công ty chứng khoán VCB (2010), Báo cáo ngành ngân hàng (2010), trên
trang web www.vcbs.com.vn/
9.
CIC - bản tin cảnh báo tổng hợp trong các năm 2008 - 2009
10. Hà Thị Mai Hiền (2010) “ Những phát triển mới của hệ thống pháp luật Việt
Nam giai đoạn 2004-2009”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 03 năm 2010.
184
11. Hà Nguyên (2009), Thay đổi cơ cấu quản lý rủi ro ngân hàng,
http://vneconomy.vn/20090209103345710P0C6/thay-doi-co-cau-quan-ly-ruiro-trong-ngan-hang.htm, ngày 11/02/2009.
12. Hạ Thị Thiều Dao (2010), Giám sát ngân hàng theo Basel 2 và việc tuân thủ
của Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng số 15/2010.
13. Hoàng Tiên (2010), Xây dựng hệ thống quản trị rủi ro tại Vietinbank theo
tiệu chuẩn Basel II, http://www.sbv.gov.vn/wps/portal/!ut/p/c4/04
14. Học viện ngân hàng (2010), Kỷ yếu hội thảo “Hiệu lực của hệ thống giám sát
tài chính Việt Nam” tổ chức 06/2010 tại Đại học Ngân hàng TPHCM.
15. Linh
San
(2009)
“Chuyện
kiểm
toán
nội
bộ
ngân
hàng”,
http://vneconomy.vn/2009020509302176P0C6/chuyen-kiem-toan-noi-bongan-hang.htm
16. Mạc San (2008) “Cái chết của Lehman dưới cái nhìn của người trong cuộc”,
http://vneconomy.vn/2008091911448987P0C6/cai-chet-cua-lehman-duoigoc-nhin-cua-mot-nguoi-trong-cuoc.htm
17. Minh Đức (2008) “Cần nâng chuẩn an toàn vốn cho ngân hàng”,
http://vneconomy.vn/20080809045520724P0C6/can-nang-chuan-an-toanvon-cac-ngan-hang.htm
18. Nguyễn Thị Minh Huệ (2009) “ Thực trạng hoạt động giám sát của ngân
hàng Nhà nước Việt Nam đối với ngân hàng thương mại” , tạp chí Ngân hàng
số 11+12 năm 2009.
19. Nguyễn Ngọc Tiến (28/06/2007 01:59 PM) “ Nghiệp vụ tài chính phái sinh
và thực trạng sử dụng tại Việt Nam”
http://www.saga.vn/Taichinh/Congcu/Congcuphaisinh/4920.saga
20. Nguyễn Đại Lai (2007) “ Nhận dạng và bình luận về xu hướng phát triển thị
trường các công cụ tài chinh phái sinh tại Việt Nam”
21. Nguyễn Đức Trung (2008) “Phương pháp ước tính tổn thất tín dụng dựa trên
hệ thống cơ sở dữ liệu đánh giá nội bô - IRB và những ứng dụng trong quản
185
trị rủi ro tín dụng” http://tailieu.vn/xem-tai-lieu/phuong-phap-uoc-tinh-tonthat-tin-dung-dua-tren-he-thong-co-so-du-lieu-danh-gia-noi-bo
22. Nguyễn Văn Giàu (2009), Hoạt động ngân hàng Việt nam thực hiện mục tiêu
kiểm soát lạm phát và góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế, tạp chí Ngân
hàng số 1+2/2009.
23. Nguyễn Hữu Nghĩa (2008), Hệ thống ngân hàng Việt Nam tiếp tục vững
bước tiến vào năm 2008, tạp chí Ngân hàng số 2+3/2008.
24. Phạm Đỗ Nhật Vinh (2009) “Rủi ro của công cụ Hoán đổi rủi ro tín dụng Từ góc độ thanh tra, giám sát”, tạp chí Công nghệ ngân hàng năm 2009
25. TH-VP (2008), Khuyến nghị của Ernt & Young Việt Nam về thực hiện quy
định bảo đảm tỷ lệ an toàn, phân loại nợ, trích lập dự phòng, quản lý rủi ro tại
các TCTD, http://www.google.com.vn/search?q=Khuyến+nghị+của+Ernst
&Young+Việt+nam, ngày 21/08/2008
26. Trần Thị Thuận Thành (2006) “Công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam –
mới
hay
cũ”
http://www.saga.vn/Taichinh/Congcu/Congcuphaisinh/6334.saga
27. Trần Trí Dũng (01/04/2008 04:36 PM) “Chứng khoán hóa có giúp giải quyết
rủi ro vay nợ bất động sản?”, http://www.saga.vn
Văn bản, tài liệu:
28. Chính phủ (2006), Về việc phê duyệt Đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt
Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
29. Ngân hàng Nhà nước (2010), bản giải trình các nội dung sửa đổi quyết định
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 và quyết định 18/2007/QĐ-NHNN
ngày 25/4/2007 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước.
30. Ngân hàng Nhà nước (2006), Quy chế mua bán nợ của các tổ chức tín dụng
ban hành kèm theo quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày 21/12/2006 của
Thống đốc ngân hàng Nhà nước.
186
31. Ngân hàng Nhà nước (2006), Quy chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ của tổ chức
tín dụng ban hành kèm quyết định số 36/2006/QĐ-NHNN ngày 01/8/2006
của Thống đốc ngân hàng Nhà nước.
32. Ngân hàng Nhà nước, báo cáo thường niên trên http://www.sbv.gov.vn/ từ
2006 - 2010.
33. Ngân hàng Nhà nước, chỉ thị 03/2007/CT-NHNN ngày 28/5/2007; quyết
định số 03/2008/QĐ-NHNN ngày 1/2/2008; thông tư 13/2010/TT-NHNN
ngày 20/5/2010; thông tư số 19/2010/TT-NHNN ngày 27/9/2010.
34. Ngân hàng thương mại nhà nước, báo cáo thường niên công bố trên Website
35. Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP Hồ Chí Minh, số liệu báo cáo của phòng
kế họach tổng hợp trong các năm 2006-2010
36. Ngân
hàng
TMCP:
ACB,
EXIMBANK,
SACOMBANK,
SCB,
SAIGONBANK, TECHCOMBANK …, báo cáo thường niên công bố trên
Website từ 2006 - 2010
37. Ngân hàng TMCP ACB, TECHCOMBANK, Sổ tay tín dụng nội bộ
38. Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng Việt Nam năm 2010
39. Tổng
cục
Thống
kê
số
liệu
giai
đoạn
năm
2000-2010
trên
http://www.gso.gov.vn/
Tiếng Anh
Sách
40. Anthony Saunders & Linda Allen (2002), Credit Risk Measurement, John
Wiley & Sons, Inc.
41. Basel Committee on Banking Supervision (September 2000), Principal for
the Management of Credit Risk
42. Charles W. Smithson (2002), Credit Portfolio Management, John Wiley &
Sons, Inc.
43. Financial Technology Transfer
Management,
Agency,
Luxembourg
(2008),
Risk
187
44. Heffernan, S (2005). Modern Banking, John Wiley & Sons, Inc.
45. Lehman Brothers International (2001), Structured Credit Research- Credit
Derivatives Explained, Lehman Brothers Inc.
46. Peter S. Rose (1993), Commercial Bank Managerment, R.R.Donnelley &
Sons Company.
47. Ross Barrett & John Ewan (2006), BBA Credit Derivatives Report 2006
48. Stephen P.D’Arcy (2009), Primer on Credit Derivatives, Department of
Finance, Universiry of Illinois.
49. Thomas P.Fitch (1997), Dictionary of Banking terms, Barron’s Educational
Series, Inc.
50. Timothy W.Kock (1995), Bank Management, University of South Carolina,
The Dryden Press.
Bài báo, văn bản, tài liệu
51. Andreas Kamp, Andreas Pfingsten, Danek Prath (2005) “Do banks diversify
loan portfolios? A tentative answer based on individual bank loan
portfolios”, Deutsche Bundesbank, Series two: Banking and Financial
studies, No 03/2005
52. Excerpt_Survey of CPM – Pratices 2004, Rutter Associates LLC
53. Stefania P.S. Rossi, Markus S. Schwaiger, Gerhard Winkler (2009), “How
loan portfolio diversification affects risk, efficiency and capitalization: A
managerial
behavior
www.elsevier.com.locate/jbf
54. www.thebankerdatabse.
model
for
Austrian
banks”,
trên
188
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
1. Bài báo Thấu chi và cho vay theo hạn mức, tạp chí Khoa học và đào tạo
ngân hàng số 1 (1+2/2004)
2. Bài báo Đưa hợp đồng bảo hiểm nhân thọ vào danh mục tài sản bảo
đảm vay vốn ngân hàng, tạp chí Công nghệ ngân hàng số 4 tháng 6/2005
3. Bài báo Cơ chế tín dụng của ngân hàng Việt Nam- 55 năm hình thành
và phát triển, tạp chí Công nghệ ngân hàng số 10 (tháng 5-6/2006)
4. Bài báo Trao đổi về một số nội dung trong phân tích tài chính doanh
nghiệp, tạp chí Công nghệ ngân hàng số 13 (tháng 11-12/2006).
5. Bài báo Cho vay theo dòng tiền và khả năng vận dụng vào thực tế, tạp
chí công nghệ ngân hàng số 16 (tháng 5/2007).
6. Bài báo Suy nghĩ về đo lường rủi ro danh mục cho vay tại các ngân
hàng thương mại, tạp chí Công nghệ ngân hàng số 53 (tháng 8/2010).
7. Bài báo Danh mục cho vay của ngân hàng thương mại và những lưu ý
cần thiết, tạp chí Công nghệ ngân hàng số 56 (tháng 11/2010).
8. Bài báo Vốn kinh tế và khả năng chịu rủi ro của ngân hàng thương
mại, tạp chí Công nghệ ngân hàng số 77 (tháng 8/2012).
189
PHỤ LỤC 01
CÁC LOẠI VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Tài sản
Tiền gửi
Khoản cho vay /trái
phiếu thời hạn ít hơn 1
năm
Khoản cho vay/trái
phiếu thời hạn hơn 1
năm
Đầu tư
Tài sản cố định
Xác định vốn
kinh tế
Nguồn vốn
Khoản nợ
Vốn pháp lý
Khoản tiền gửi của khách hàng
Khoản vay ngắn hạn giữa các ngân hàng
Khoản nợ ngắn hạn (trung cấp/không bảo đảm)
Khoản nợ trung hạn
Khoản nợ vĩnh viễn/ Trái phiếu bắt buộc chuyển đổi
Vốn chủ sở hữu
Cổ phiếu ưu đãi vĩnh viễn
Lợi nhuận giữ lại
Vốn cổ đông
Vốn trên
sổ sách
190
PHỤ LỤC 02
CÁCH TÍNH LỢI NHUẬN VÀ TỔN THẤT DANH MỤC
Các giả định sử dụng để tính toán
Tỷ lệ tổn thất khi vỡ nợ là 50% cho tất cả các trường hợp
Phân phối xác xuất vỡ nợ là phân phối nhị thức, với khả năng xảy ra chỉ
trong hai trường hợp: vỡ nợ hoặc ngược lại là không vỡ nợ
Các ngành kinh tế có dư nợ trên danh mục hoàn toàn độc lập với nhau
1/ Tính lợi nhuận kỳ vọng
Công thức tính :
[Dư nợ * (1 – xác xuất vỡ nợ)] * Lãi suất
Ví dụ Phương án A
LN kỳ vọng = 1000 (1-0.15%) * 10% = 99.85
2/ Tính tổn thất kỳ vọng EL
Công thức tính (theo ủy ban Basel)
EL = Dư nợ * xác xuất vỡ nợ * tỷ lệ tổn thất khi vỡ nợ
Ví dụ Phương án A
EL = 1000*0.15%*50% = 0.75
3/ Tính tổn thất không kỳ vọng UL
Công thức tính
UL = Dư nợ * tỷ lệ tổn thất khi vỡ nợ* p*(1-p)
Với p là xác xuất vỡ nợ
Ví dụ phương án A
UL = 1000*50%* 0.15%*(1-0.15%) = 19.35
4/ Tính chênh lệch ròng
Công thức tính
CL ròng = LN kỳ vọng – (EL +UL)
Ví dụ phương án A
CL ròng = 99.85 - (0.75 + 19.35) = 79.75
191
PHỤ LỤC 03
PHÂN NHÓM NGÂN HÀNG TMCP CUỐI NĂM 2010
A.
NHÓM NGÂN HÀNG TMCP QUY MÔ LỚN
STT
1
2
3
4
5
6
7
NGÂN HÀNG
Xuất nhập khẩu
Sài gòn thương tín
Á Châu
Quân đội
Kỹ thương
Hàng Hải
Đông Nam Á
TỔNG TS
131,094
152,387
205,103
109,623
150,291
115,336
55,242
Đơn vị : tỷ đồng
VỐN ĐL
12,527
10,931
9,377
7,554
6,933
5,529
5,335
B. NHÓM NGÂN HÀNG TMCP QUY MÔ TRUNG BÌNH
NGÂN HÀNG
TỔNG TS
VỐN ĐL
STT
59,807
4,617
1 Việt Nam Thịnh vượng/VPB
55,873
4,501
2 Đông Á
38,016
4,223
3 An Bình
60,183
4,193
4 Sài gòn
93,827
4,000
5 Quốc tế
C.
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
NHÓM NGÂN HÀNG TMCP QUY MÔ NHỎ
NGÂN HÀNG
TỔNG TS
Phát triển Mê kông
17,267
Liên Việt
34,985
Sài gòn Hà nội
51,033
Đại Dương
55,139
Việt Nam Tín Nghĩa
46,414
Đại Á
11,186
Phương Nam
60,235
Việt Á
24,083
Dầu khí toàn cầu
27,731
Bắc Á
24,976
Đại tín
19,762
VỐN ĐL
3,750
3,713
3,590
3,503
3,399
3,101
3,051
3,045
3,018
3,007
3,003
192
12
13
14
15
D.
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Phát triển nhà Hà nội
Kiên Long
Tiên phong
Việt Nam Thương Tín
37,988
12,628
20,889
16,900
3,001
3,000
3,000
3,000
NHÓM NGÂN HÀNG TMCP QUY MÔ CỰC NHỎ
VỐN < 3 000 TỶ
NGÂN HÀNG
TỔNG TS
VỐN ĐL
Phương đông
19,690
2,635
Sài gòn công thương
16,812
2,460
Đệ nhất
7,773
2,000
Gia định
8,225
2,000
Phát triển nhà TP Hồ Chí Minh
34,389
2,000
Nam Á
14,509
2,000
Xăng dầu
16,378
2,000
Phương Tây
9,335
2,000
Nam Việt
20,016
1,820
Bảo Việt
13,718
1,500
193
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
PHỤ LỤC 04
TỶ TRỌNG THU LÃI TÍN DỤNG TRÊN TỔNG THU NHẬP
Nhóm 10 ngân hàng TMCP
Đơn vị: %
NGÂN HÀNG
2006
2007
2008
2009
2010
ACB
68.9
43.4
64.4
60.9
75.2
SACOM BANK
67.2
89.2
46.7
59.2
69.6
EXIMBANK
61.5
67.3
69.7
76.7
78.6
TECHCOMBANK
74.9
81.6
74.6
63.8
67.5
MB
87.2
60.1
86.7
69.3
86.1
DONGA BANK
63.1
60.1
57.1
66.5
71.2
SCB
64.4
82.9
78.1
78.1
30.4
SOUTHERN BANK
79.6
61.2
51.1
54.2
29.2
OCB
74.0
89.2
80.2
88.4
89.5
NAM A BANK
84.1
76.3
70.1
92.3
65.8
194
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
PHỤ LỤC 05
TỶ TRỌNG DƯ NỢ SO VỚI TỔNG TÀI SẢN
Nhóm 10 ngân hàng TMCP
Đơn vị: %
NGÂN HÀNG
2006
2007
2008
2009
2010
ACB
38.1
37.3
33.1
37.1
42.8
SACOM BANK
57.8
54.8
51.2
57.8
54.6
EXIMBANK
55.7
54.7
44.0
55.6
47.6
TECHCOMBANK
50.2
51.8
43.8
44.9
35.0
MB
42.2
39.2
35.5
42.2
44.5
DONGA BANK
67.5
66.0
73.7
81.6
68.8
SCB
75.1
75.1
60.3
64.2
55.1
SOUTHERN BANK
50.9
34.0
45.7
55.2
51.9
OCB
72.4
64.5
85.2
80.5
58.8
NAM A BANK
52.5
51.4
63.3
45.4
36.5
195
PHỤ LỤC 06
MỘT SỐ CHỈ TIÊU HOẠT ĐỘNG TỪ 2006-2010
Nhóm 7 ngân hàng TMCP quy mô lớn
2007
2008
2009
2010 2007/2006
NĂM 2006
STT
2008/2007
2009/2008
2010/2009
NGÂN HÀNG
1
XUẤT NHẬP KHẨU - EXIMBANK
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
18,327 33,710
13,467 22,915
48,248
32,331
62,867
46,989
131,111
70,705
183.9
170.2
143.1
141.1
130.3
145.3
208.6
150.5
DƯ NỢ (tỷ đồng)
10,207 18,452
21,232
38,580
62,346
180.8
115.1
181.7
161.6
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
VỐN CHỦ SỞ HỮU (tỷ đồng)
1,212
1,947
2,800
6,295
7,220
12,844
8,800
13,353
10,560
13,511
231.0
323.3
257.9
204.0
121.9
104.0
120.0
101.2
258
463
711
1,133
1,815
179.5
153.6
159.4
160.2
ROA (%)
ROE (%)
1.74
18.66
1.78
11.26
1.74
7.43
1.99
8.65
1.85
13.51
102.3
60.3
97.8
66.0
114.4
116.4
93.0
156.2
CAR (%)
15.97
27
45.89
26.87
17.79
169.1
170.0
58.6
66.2
205,103
191.2
123.3
159.3
122.3
107,150
164.5
116.2
136.9
121.9
86,648
9,377
187.0
239.1
109.5
241.6
178.1
123.0
139.7
120.0
11,199
378.4
124.1
130.1
110.8
2,623
347.8
125.6
85.7
138.5
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
2 Á CHÂU - ACB
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
44,650 85,392 105,306 167,724
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
33,606 55,283 64,217 87,901
DƯ NỢ (tỷ đồng)
17,014 31,811 34,833 62,021
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
1,100 2,630
6,355
7,814
VỐN CHỦ SỞ HỮU (tỷ đồng) 1,654 6,258
7,767 10,106
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
506 1,760
2,211
1,894
196
ROA (%)
1.13
2.06
2.1
1.13
1.14
182.3
101.9
53.8
100.9
ROE (%)
30.59
28.12
28.47
18.74
20.52
91.9
101.2
65.8
109.5
12.4
9.7
10
78.2
103.1
CAR (%)
3
SÀI GÒN THƯƠNG TÍN - SACOMBANK
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
24,776 64,573
68,439
98,243
141,799
260.6
106.0
143.5
144.3
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
17,512 44,232
46,129
64,530
126,203
252.6
104.3
139.9
195.6
DƯ NỢ (tỷ đồng)
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
14,313 35,378
2,089 4,449
35,009
5,115
56,829
5,883
77,486
9,179
247.2
213.0
99.0
115.0
162.3
115.0
136.3
156.0
VỐN CHỦ SỞ HỮU (tỷ đồng)
2,870
7,350
7,759
10,553
13,633
256.1
105.6
136.0
129.2
470
1.9
1,398
2.16
955
1.4
1,675
1.7
1,799
1.27
297.4
113.7
68.3
64.8
175.4
121.4
107.4
74.7
ROE (%)
16.38
19.02
12.31
15.87
15.04
116.1
64.7
128.9
94.8
CAR (%)
11.82
11.07
12.16
11.41
9.97
93.7
109.8
93.8
87.4
44,346
69,008
109,623
217.6
149.7
155.6
158.9
27,163
15,740
39,978
29,141
96,954
48,797
170.4
202.2
152.7
135.5
147.2
185.1
242.5
167.5
3,940
5,300
7,300
269.5
139.9
134.5
137.7
4,677
703
7,495
1,095
8,882
1,896
259.9
233.6
131.7
142.6
160.3
155.8
118.5
173.2
1.6
1.58
1.73
106.3
94.1
98.8
109.5
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
ROA (%)
4 QUÂN ĐỘI - MB
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
13,611 29,624
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
10,440 17,785
DƯ NỢ (tỷ đồng)
5,743 11,613
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
1,045 2,816
VỐN CHỦ SỞ HỮU (tỷ đồng) 1,366 3,550
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
211
493
ROA (%)
1.6
1.7
197
ROE (%)
15.4
13.9
15
14.6
21.3
90.3
107.9
CAR (%)
15.5
14.2
12.4
Kc
Kc
91.6
87.3
39,542
59,360
92,534
150,291
228.2
24,477
39,931
62,469
80,551
20,486
2,521
26,019
3,642
41,580
5,400
3,573
5,615
510
2
5 KỸ THƯƠNG - TECHCOMBANK
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
17,326
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
9,566
DƯ NỢ (tỷ đồng)
8,696
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
1,500
VỐN CHỦ SỞ HỮU (tỷ đồng) 1,762
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
257
ROA (%)
1.9
ROE (%)
26.8
CAR (%)
17.3
6 HÀNG HẢI - MARITIMEBANK
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
8,521
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
7,616
DƯ NỢ (tỷ đồng)
2,888
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
701
VỐN CHỦ SỞ HỮU (tỷ đồng)
795
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
79
ROA (%)
0.93
ROE (%)
9.94
97.3
145.9
150.1
155.9
162.4
255.9
163.1
156.4
128.9
52,928
6,932
235.6
168.1
127.0
144.5
159.8
148.3
127.3
128.4
7,233
9,389
202.8
157.2
128.8
129.8
1,183
2.3
1,700
2
2,073
1.9
198.4
105.3
232.0
115.0
143.7
95.7
121.9
86.4
14.2
21
24
22
53.0
147.9
111.9
93.6
14.3
13.9
10
13.1
82.7
97.2
69.1
136.5
17,569
32,626
63,882
115,336
206.18
185.70
195.80
180.55
15,478
6,528
29,877
11,210
59,287
23,872
107,364
31,830
203.23
226.04
193.03
171.72
198.44
212.95
181.09
133.34
1,680
1,680
3,180
5,528
239.79
100.00
189.29
173.84
1,883
173
2,065
316
3,925
772
6,327
1,157
236.86
218.99
109.67
182.66
190.07
244.30
161.20
149.87
0.98
1.26
1.8
1.55
105.38
128.57
142.86
86.11
9.19
15.3
19.6
18.2
92.45
166.49
128.10
92.86
198
CAR (%)
7 ĐÔNG NAM Á - SEABANK
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
10,200 26,241
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
8,346 20,249
DƯ NỢ (tỷ đồng)
3,363 11,041
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
500 3,000
VỐN CHỦ SỞ HỮU (tỷ đồng) 1,055 3,366
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
98
299
0.96
1.14
ROA (%)
8.88
9.29
ROE (%)
CAR (%)
22,269
16,730
30,597
24,644
55,242
39,685
257.3
242.6
84.9
82.6
137.4
147.3
180.5
161.0
16,746
24,009
20,512
328.3
151.7
143.4
85.4
4,068
4,177
5,068
5,481
5,335
5,743
600.0
319.1
135.6
124.1
124.6
131.2
105.3
104.8
321
1.44
460
1.50
629
1.14
305.1
107.4
143.3
136.7
7.68
8.39
10.95
118.8
95.6
126.3
86.5
104.2
109.2
76.0
130.5
199
PHỤ LỤC 07
MỘT SỐ CHỈ TIÊU HOẠT ĐỘNG TỪ 2006-2010
Nhóm 5 ngân hàng TMCP quy mô trung bình
ST
T
NĂM
2006
2007
2008
2009
2010
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
16,52
7
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
9,813
DƯ NỢ (tỷ đồng)
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
VỐN CHỦ SỞ HỮU (tỷ
đồng)
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
ROA (%)
ROE (%)
9,137
1,000
39,30
5
19,22
5
16,77
4
2,000
34,71
9
23,95
8
19,77
5
2,000
56,63
5
34,21
0
27,35
3
2,400
93,82
7
59,56
4
41,73
1
4,000
1,190
146
0.88
12.30
2,183
309
0.79
14.20
2,293
169
0.49
7.80
2,945
459
0.81
15.58
6,593
791
0.84
11.99
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
3,113
17,17
4
13,49
4
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
1,888
6,981
7,245
DƯ NỢ (tỷ đồng)
1,131
6,858
6,538
26,51
8
15,00
1
12,88
3
38,00
0
25,95
2
20,01
9
2007/200
6
2008/200
7
2009/200
8
2010/200
9
NGÂN HÀNG
1 QUỐC TẾ - VIB
237.8
88.3
163.1
165.7
195.9
124.6
142.8
174.1
183.6
200.0
117.9
100.0
138.3
120.0
152.6
166.7
183.4
211.6
89.8
115.4
105.0
54.7
62.0
54.9
128.4
271.6
165.3
199.7
223.9
172.3
103.7
77.0
551.7
78.6
196.5
143.3
369.8
103.8
207.1
173.0
606.4
95.3
197.0
155.4
2 AN BÌNH - ABBANK
200
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
VỐN CHỦ SỞ HỮU (tỷ
đồng)
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
ROA (%)
ROE (%)
1,131
2,300
2,705
3,482
3,831
203.4
117.6
128.7
110.0
1,190
58
1.86
4.87
2,479
162
0.94
6.53
3,956
50
0.37
1.26
4,489
312
1.18
6.95
4,633
477
1.26
10.30
208.3
279.3
50.5
134.1
159.6
30.9
39.4
19.3
113.5
624.0
318.9
551.6
103.2
152.9
106.8
148.2
12,04
0
10,09
7
34,71
3
29,79
7
25,57
1
2,880
42,52
0
36,71
4
34,68
7
3,400
55,87
3
47,75
6
38,43
6
4,500
227.4
126.8
122.5
131.4
214.5
137.6
123.2
130.1
8,126
880
27,37
6
21,65
6
18,05
9
1,600
222.2
181.8
141.6
180.0
135.6
118.1
110.8
132.4
1,531
160
1.55
23.50
3,229
332
2.05
20.89
3,515
539
1.69
18.01
4,201
588
1.49
18.06
4,957
659
1.40
18.58
210.9
207.5
132.3
88.9
108.9
162.3
82.4
86.2
119.5
109.1
88.2
100.3
118.0
112.1
94.0
102.9
47,14
9
31,45
0
30,24
9
60,18
3
54,43
9
33,17
8
122.2
127.6
145.5
143.8
136.9
173.1
8,204
38,59
6
22,96
9
23,27
8
148.8
DƯ NỢ (tỷ đồng)
25,94
2
15,97
1
19,47
8
237.3
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
10,93
1
10,97
3
237.4
119.5
129.9
109.7
3 ĐÔNG Á - DONGA BANK
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
DƯ NỢ (tỷ đồng)
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
VỐN CHỦ SỞ HỮU (tỷ
đồng)
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
ROA (%)
ROE (%)
4 TMCP SÀI GÒN - SCB
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
201
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
VỐN CHỦ SỞ HỮU (tỷ
đồng)
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
ROA (%)
ROE (%)
600
1,970
2181
3,635
4,185
328.3
110.7
166.7
115.1
801
188
1.65
18.86
2,631
258
0.99
9.80
2,809
463
1.20
16.48
4,482
315
0.67
7.03
4,711
278
0.46
5.90
328.5
137.2
60.0
52.0
106.8
179.5
121.2
168.2
159.6
68.0
55.8
42.7
105.1
88.3
68.7
83.9
18,64
8
15,60
9
12,98
6
2,117
27,54
3
24,44
4
15,81
3
2,117
59,80
7
48,71
9
25,32
4
4,000
179.4
102.8
147.7
217.1
170.6
101.0
156.6
199.3
266.1
266.7
97.5
105.9
121.8
100.0
160.1
188.9
2,353
143
0.77
6.08
2,548
294
1.07
11.54
5,205
503
0.84
9.66
261.1
201.8
112.5
77.3
107.9
62.7
61.1
58.1
108.3
205.6
139.0
189.8
204.3
171.1
78.5
83.7
5 VIỆT NAM THỊNH VƯỢNG – VBBANK
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
10,11
1
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
9,056
DƯ NỢ (tỷ đồng)
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
VỐN CHỦ SỞ HỮU (tỷ
đồng)
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
ROA (%)
ROE (%)
5,006
750
18,13
7
15,44
8
13,32
3
2,000
835
113
1.12
13.53
2,180
228
1.26
10.46
202
SỐ
TT NGÂN HÀNG
1
PHỤ LỤC 08
MỘT SỐ CHỈ TIÊU HOẠT ĐỘNG TỪ 2006-2010
Nhóm 6 ngân hàng TMCP quy mô nhỏ
NĂM 2006 2007 2008 2009 2010 2007/2006
2009/2008
2010/2009
133.5
254.4
168.9
KIÊN LONG - KIENLONGBANK
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
DƯ NỢ (tỷ đồng)
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
VỐN CHỦ SỞ HỮU (tỷ đồng)
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
ROA (%)
ROE (%)
2
2008/2007
827
2,201
447
952
602
1,352
290
2,939
7,478
12,628
266.1
4,794
6,597
213.0
2,195
3,199
7,008
224.6
162.4
145.7
219.1
580
1,000
1,000
3,000
200.0
172.4
100.0
300.0
318
638
1047
1,117
3,225
200.6
164.1
106.7
288.7
18
54
37
92
195
300.0
68.5
248.6
212.0
2.18
2.45
1.26
1.23
1.54
112.4
51.4
97.6
125.2
5.66
8.46
3.53
8.24
6.05
149.5
41.7
233.4
73.4
-
137.6
PHÁT TRIỂN NHÀ HÀ NỘI - HABUBANK
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
DƯ NỢ (tỷ đồng)
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
VỐN CHỦ SỞ HỮU (tỷ đồng)
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
ROA (%)
ROE (%)
11,685
23,519
23,607
29,240
37,989
201.3
100.4
123.9
129.9
9,735
19,970
19,961
25,471
33,272
205.1
100.0
127.6
130.6
5,983
9,419
10,516
13,358
18,685
157.4
111.6
127.0
139.9
1,000
2,000
2,800
3,000
3,000
200.0
140.0
107.1
100.0
1,756
3,179
2,993
3,252
3,533
181.0
94.1
108.7
108.6
185
366
325
408
476
197.8
88.8
125.5
116.7
1.58
1.56
1.38
1.40
1.25
98.7
88.5
101.4
89.3
10.54
11.51
10.86
12.55
13.47
109.2
94.4
115.6
107.3
203
3
PHƯƠNG NAM - SOUTHERN BANK
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
DƯ NỢ (tỷ đồng)
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
VỐN CHỦ SỞ HỮU (tỷ đồng)
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
ROA (%)
ROE (%)
4
17,130
14,587
20,762
18,089
35,473
31,821
60,235
55,971
187.9
229.2
121.2
124.0
170.9
175.9
169.8
175.9
4,645
5,828
9,539
19,786
31,267
125.5
163.7
207.4
158.0
1,291
1,434
2,028
2,568
3,049
111.1
141.4
126.6
118.7
1,622
2,166
2,383
2,936
3,573
133.5
110.0
123.2
121.7
145
190
136
248
419
131.0
71.6
182.4
169.0
1.59
1.11
0.66
0.70
0.70
69.8
59.5
106.1
100.0
8.94
8.77
5.71
8.45
11.73
98.1
65.1
148.0
138.8
1,322
368
12,367
2,805
14,381
9,508
27,469
14,672
51,033
25,634
935.5
762.2
116.3
339.0
191.0
154.3
185.8
174.7
492
4,175
6,227
12,701
24,103
848.6
149.1
204.0
189.8
500
2,000
2,000
2,000
3,498
400.0
100.0
100.0
174.9
511
2,178
2,267
2,417
4,183
426.2
104.1
106.6
173.1
7
127
195
318
494
1814.3
153.5
163.1
155.3
0.53
1.03
1.36
1.16
0.97
194.3
132.0
85.3
83.6
1.37
5.83
8.60
13.16
11.81
425.5
147.5
153.0
89.7
1,407
665
2,029
1,175
3,090
1,802
7,077
4,766
11,162
4,580
144.2
176.7
152.3
153.4
229.0
264.5
157.7
96.1
734
1,690
1,835
4,241
5,786
230.2
108.6
231.1
136.4
500
500
500
1,000
3,100
100.0
100.0
200.0
310.0
SÀI GÒN HÀ NỘI - SHB
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
DƯ NỢ (tỷ đồng)
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
VỐN CHỦ SỞ HỮU (tỷ đồng)
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
ROA (%)
ROE (%)
5
9,116
6,365
ĐẠI Á - DAIABANK
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
DƯ NỢ (tỷ đồng)
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
204
VỐN CHỦ SỞ HỮU (tỷ đồng)
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
ROA (%)
ROE (%)
6
705
765
750
1,048
3,223
108.5
98.0
139.7
307.5
17
73
48
21
93
429.4
65.8
43.8
442.9
1.21
3.60
1.55
0.30
0.83
297.5
43.1
19.4
276.7
2.41
9.54
6.40
2.00
2.89
395.9
67.1
31.3
144.5
448
169
1,575
329
2,042
1,298
2,524
677
17,267
6,556
351.6
194.7
129.7
394.5
123.6
52.2
684.1
968.4
393
1,259
1,329
2,361
2,670
320.4
105.6
177.7
113.1
70
500
500
1,000
3,000
714.3
100.0
200.0
300.0
82
554
578
1,037
3,822
675.6
104.3
179.4
368.6
10
51
66
100
162
510.0
129.4
151.5
162.0
2.23
3.24
3.23
3.96
0.94
145.3
99.7
122.6
23.7
12.20
9.21
11.42
9.64
4.24
75.5
124.0
84.4
44.0
PHÁT TRIỂN MÊ KONG - MDB
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
DƯ NỢ (tỷ đồng)
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
VỐN CHỦ SỞ HỮU (tỷ đồng)
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
ROA (%)
ROE (%)
205
PHỤ LỤC 09
MỘT SỐ CHỈ TIÊU HOẠT ĐỘNG TỪ 2006-2010
Nhóm 7 ngân hàng TMCP quy mô cực nhỏ
2007 2008 2009 2010 2007/2006
NĂM 2006
STT
2008/2007
2009/2008
2010/2009
NGÂN HÀNG
1
PHƯƠNG ĐÔNG - OCB
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
DƯ NỢ (tỷ đồng)
VỐN CHỦ SỞ HỮU
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
LN TRƯỚC THUẾ (tỷ đồng)
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
ROA (%)
ROE (%)
CAR (%)
2
6,441
5,412
4,661
833
567
142
104
1.61
12.48
16.84
11,755
9,877
7,557
1,655
1,111
231
169
1.44
10.21
20.78
10,095
8,262
8,597
1,591
1,474
81
65
0.64
4.09
21.64
12,686
10,046
10,217
2,331
2,000
272
206
1.62
8.84
28.71
19,690
15,236
11,585
3,140
2,635
402
304
1.54
9.68
20.59
182.5
182.5
162.1
198.7
195.9
162.7
162.5
89.4
81.8
123.4
85.9
83.6
113.8
96.1
132.7
35.1
38.5
44.4
40.1
104.1
125.7
121.6
118.8
146.5
135.7
335.8
316.9
253.1
216.1
132.7
155.2
151.7
113.4
134.7
131.8
147.8
147.6
95.1
109.5
71.7
11,205
9,429
7,920
1,470
1,020
221
161
11,876
8,520
9,722
1,932
1,500
275
210
16,812
9,068
10,455
3,526
2,460
871
795
164.1
169.6
151.7
176.4
148.0
145.7
145.3
110.0
109.9
107.4
102.7
100.0
93.6
94.7
106.0
90.4
122.8
131.4
147.1
124.4
130.4
141.6
106.4
107.5
182.5
164.0
316.7
378.6
SÀI GÒN CÔNG THƯƠNG - SAIGONBANK
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
DƯ NỢ (tỷ đồng)
VỐN CHỦ SỞ HỮU
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
LN TRƯỚC THUẾ (tỷ đồng)
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
6,207
5,057
4,864
812
689
162
117
10,184
8,579
7,377
1,432
1,020
236
170
ROA (%)
ROE (%)
3
2.08
16.15
3,884
1,895
2,041
599
550
39
1.00
6.51
5,240
2,802
2,699
667
576
107
75
1.43
11.24
5,891
3,413
3,749
1,289
1,253
13
10
0.17
0.78
10,938
6,050
5,013
1,337
1,253
74
56
0.51
4.19
14,509
7,121
5,302
2,175
2,000
185
139
0.96
6.39
134.9
147.9
132.2
111.4
104.7
192.3
143.0
172.7
112.4
121.8
138.9
193.3
217.5
12.1
13.3
11.9
6.9
13,822
3,539
8,877
740
500
167
121
0.88
16.35
9,557
4,337
6,135
1,673
1,550
80
60
0.63
3.59
19,127
9,459
8,167
1,796
1,550
255
194
1.01
10.80
34,389
13,986
11,643
2,357
2,000
351
269
0.78
11.41
344.3
177.1
331.5
105.3
100.0
177.7
177.9
52.1
169.1
69.1
122.5
69.1
226.1
310.0
47.9
49.6
71.6
22.0
1.77
10.86
4.73
22.55
110.6
112.1
69.2
67.9
122.9
99.0
267.2
207.6
185.7
177.3
133.7
103.7
100.0
569.2
560.0
300.0
537.2
132.6
117.7
105.8
162.7
159.6
250.0
248.2
188.2
152.5
200.1
218.1
133.1
107.4
100.0
318.8
323.3
160.3
300.8
179.8
147.9
142.6
131.2
129.0
137.6
138.7
77.2
105.6
NAM Á - NAM A BANK
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
DƯ NỢ (tỷ đồng)
VỐN CHỦ SỞ HỮU
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
LN TRƯỚC THUẾ (tỷ đồng)
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
ROA (%)
ROE (%)
4
1.88
14.41
206
1.44
10.97
NHÀ THÀNH PHỐ HCM - HDBANK
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
DƯ NỢ (tỷ đồng)
VỐN CHỦ SỞ HỮU
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
LN TRƯỚC THUẾ (tỷ đồng)
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
ROA (%)
ROE (%)
4,014
1,998
2,678
703
500
94
68
1.69
9.67
207
5
NAM VIỆT - NAVIBANK
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
DƯ NỢ (tỷ đồng)
VỐN CHỦ SỞ HỮU
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
LN TRƯỚC THUẾ (tỷ đồng)
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
ROA (%)
ROE (%)
6
1,126
550
354
500
500
29
20
1.85
4.17
10,905
6,022
5,453
1,076
1,000
74
57
0.52
5.30
18,690
9,630
9,864
1,166
1,000
190
142
0.76
12.18
20,016
10,721
10,639
2,022
1,820
209
157
0.78
7.76
879.5
1116.4
1230.8
100.8
100.0
355.2
370.0
40.5
306.5
110.1
98.1
125.2
213.5
200.0
71.8
77.0
69.3
41.5
171.4
159.9
180.9
108.4
100.0
256.8
249.1
146.2
229.8
107.1
111.3
107.9
173.4
182.0
110.0
110.6
102.6
63.7
1,293
572
627
231
200
38
28
2.17
12.12
2,662
859
1,359
1,102
1,000
138
99
3.72
8.98
10,314
3,309
1,785
1,137
1,000
160
120
1.16
10.55
9,335
5,593
3,943
2,085
2,000
67
51
0.55
2.45
255.5
332.6
214.7
104.1
100.0
190.0
186.7
73.3
179.3
205.9
150.2
216.7
477.1
500.0
363.2
353.6
171.4
74.1
387.5
385.2
131.3
103.2
100.0
115.9
121.2
31.2
117.5
90.5
169.0
220.9
183.4
200.0
41.9
42.5
47.4
23.2
10,276
7,448
15,817
10,809
153.9
145.1
152.3
86.9
PHƯƠNG TÂY - WESTERNBANK
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
DƯ NỢ (tỷ đồng)
VỐN CHỦ SỞ HỮU
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
LN TRƯỚC THUẾ (tỷ đồng)
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
ROA (%)
ROE (%)
7
9,903
6,140
4,357
504
500
103
74
0.75
12.78
506
172
292
222
200
20
15
2.96
6.76
VIỆT Á - VIETABANK
TỔNG TÀI SẢN (tỷ đồng)
TIỀN GỬI (tỷ đồng)
Kc
Kc
Kc
Kc
24,083 Kc
9,395 Kc
Kc
Kc
DƯ NỢ (tỷ đồng)
VỐN ĐIỀU LỆ (tỷ đồng)
VỐN CHỦ SỞ HỮU (tỷ đồng)
LN SAU THUẾ (tỷ đồng)
ROA (%)
ROE (%)
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
208
6,573
1,360
1,440
72
0.70
5.00
11,919
1,515
1,715
210
1.33
12.24
13,092
2,937
3,395
266
1.10
7.84
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
181.3
111.4
119.1
291.7
190.0
244.8
109.8
193.9
198.0
126.7
82.7
64.1
209
PHỤ LỤC 10
CƠ CẤU DANH MỤC CHO VAY THEO NGÀNH KINH TẾ
Nhóm 10 ngân hàng TMCP quy mô lớn trung bình & nhỏ giai đoạn từ 2006 - 2010
NĂM
PHÂN LOẠI NGÀNH
EXIMBANK
1. thương mại
2.Nông lâm nghiệp
3. Sản xuất & gia công chế biến
4. Xây dựng
5.Dịch vụ cá nhân và cộng đồng
6. Kho bãi giao thông VT & TTTT
7. Giáo dục & dào tạo
8.Tư vấn, kinh doanh bất động sản
9. nhà hàng & khách sạn
10.Dịch vụ tài chính
11. Ngành nghề khác
tổng cộng
Vốn chủ sở hữu của NH
tỷ trọng dư nợ ngành (5) / vốn CSH
2006
2,562,791
19,707
2,326,975
1,409,523
2,554,093
225,204
14,220
119,124
20,238
955,517
10,207,392
1,947,000
1.3
SỐ DƯ NỢ (triệu đồng)
2007
2008
2009
4,584,892 5,740,712 10,548,217
12,961 2,343,571
212,259
4,885,510 2,970,493 5,618,789
2,277,145 2,266,900 2,798,200
5,349,313 5,377,692 8,876,504
268,733
322,000
997,263
197,379
348,000 1,040,523
258,019
419,000 1,175,587
25,588
28,800
218,309
592,611 1,415,030 6,896,204
18,452,151 21,232,198 38,381,855
6,295,000 12,844,000 13,353,000
0.8
0.4
0.7
2010
2006
TỶ TRỌNG %
2007 2008 2009
2010
17,627,258 25.11 24.85 27.04 27.48 28.27
1,740,723
0.19
0.07 11.04
0.55
2.79
10,168,123 22.80 26.48 13.99 14.64 16.31
4,350,346 13.81 12.34 10.68
7.29
6.98
22,096,303 25.02 28.99 25.33 23.13 35.44
1,637,050
2.21
1.46
1.52
2.60
2.63
317,853
0.14
0.51
575,981
0.00
1.07
1.64
2.71
0.92
1,832,030
1.17
1.40
1.97
3.06
2.94
1,083,939
0.20
0.14
0.14
0.57
1.74
916,108
9.36
3.21
6.66 17.97
1.47
62,345,714 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00
13,511,000
1.6
210
ACB
1. thương mại
2.Nông lâm nghiệp
3. Sản xuất & gia công chế biến
4. Xây dựng
5.Dịch vụ cá nhân và cộng đồng
6. Kho bãi giao thông VT & TTTT
7. Giáo dục & dào tạo
8.Tư vấn, kinh doanh bất động sản
9. nhà hàng & khách sạn
10.Dịch vụ tài chính
11. Ngành nghề khác
tổng cộng
Vốn chủ sở hữu của NH
tỷ trọng dư nợ ngành (5) / vốn CSH
SACOMBANK
1. thương mại
2.Nông lâm nghiệp
3. Sản xuất & gia công chế biến
4. Xây dựng
5.Dịch vụ cá nhân và cộng đồng
6. Kho bãi giao thông VT & TTTT
7. Giáo dục & dào tạo
5,124,972 8,012,741 8,175,846 19,815,975
136,125
116,274
221,790
166,870
3,848,511 5,428,273 4,514,346 11,130,297
429,966
722,166
946,652 2,367,245
6,621,287 14,984,250 17,709,042 22,933,687
377,576
763,208
739,817 1,750,868
45,274
58,545
2,595
31,255
150,213
360,108
608,307
519,614
175,542
354,585
493,586
997,745
80,836
5,620
4,300
630,766
24,117 1,005,087 1,416,419 1,676,607
17,014,419 31,810,857 34,832,700 62,020,929
1,654,000 6,258,000 7,767,000 10,106,000
4.00
2.39
2.28
2.27
4,770,867 11,170,849
772,862 1,695,544
4,356,553 10,081,980
905,835 2,304,339
712,990 2,892,887
325,692
714,632
613,891 1,108,328
27,586,762 30.12 25.19 23.47 31.95 31.84
249,095
0.80
0.37
0.64
0.27
0.29
13,202,929 22.62 17.06 12.96 17.95 15.24
3,534,433
2.53
2.27
2.72
3.82
4.08
33,408,347 38.92 47.10 50.84 36.98 38.56
2,600,582
2.22
2.40
2.12
2.82
3.00
80,160
0.27
0.18
0.01
0.05
0.09
1,276,296
0.88
1.13
1.75
0.84
1.47
1,474,081
1.03
1.11
1.42
1.61
1.70
667,142
0.48
0.02
0.01
1.02
0.77
2,568,137
0.14
3.16
4.07
2.70
2.96
86,647,964 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00
11,199,000
2.98
8,285,625 13,271,046 11,793,222
2,623,460 4,134,744 9,004,173
8,700,709 15,642,150 26,790,896
2,056,442 3,916,325 5,515,353
5,768,865 7,609,948 7,223,953
742,489 1,079,682 2,040,598
1,279,052 1,586,989 2,173,843
33.14
5.37
30.27
6.29
4.95
2.26
4.26
31.58
4.79
28.50
6.51
8.18
2.02
3.13
23.67
7.49
24.85
5.87
16.48
2.12
3.65
22.25
6.93
26.22
6.56
12.76
1.81
2.66
14.30
10.92
32.48
6.69
8.76
2.47
2.64
8.Tư vấn, kinh doanh bất động sản
523,872 2,171,155
9. nhà hàng & khách sạn
383,130
472,583
10.Dịch vụ tài chính
11. Ngành nghề khác
1,028,621 2,765,850
tổng cộng
14,394,313 35,378,147
2,870,000 7,350,000
Vốn chủ sở hữu của NH
1.5
1.4
tỷ trọng dư nợ ngành (3) / vốn CSH
TECHCOMBANK
1. thương mại
3,526,700
Kc
2.Nông lâm nghiệp
739,083
Kc
3. Sản xuất & gia công chế biến
Kc
4. Xây dựng
509,756
Kc
5.Dịch vụ cá nhân và cộng đồng
Kc
6. Kho bãi giao thông VT & TTTT
191,485
Kc
7. Giáo dục & dào tạo
Kc
8.Tư vấn, kinh doanh bất động sản
Kc
9. nhà hàng & khách sạn
34,992
Kc
10.Dịch vụ tài chính
Kc
11. Ngành nghề khác
3,808,832
Kc
Kc
8,810,848
tổng cộng
1,762,000 3,573,000
Vốn chủ sở hữu của NH
2.0
tỷ trọng dư nợ ngành (1) / vốn CSH
MB
1. thương mại
Kc
5,758,165
211
2,949,151 5,507,615 2,802,582
3.64
6.14
8.42
9.23
3.40
787,038
759,403
897,198
2.66
1.34
2.25
1.27
1.09
1,816,040 6,149,102 14,242,985
7.15
7.82
5.19 10.31 17.27
35,008,871 59,657,004 82,484,803 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00
7,759,000 10,553,000 13,633,000
1.1
1.5
2.0
Kc
16,169,326 8,726,192
40.03
Kc
6,348,894 19,706,317
8.39
Kc
Kc
2,752,698 4,445,127
5.79
Kc
0.00
Kc
1,499,600
443,669
2.17
Kc
Kc
Kc
0.40
Kc
Kc
15,322,249 19,606,552 43.23
Kc
42,092,767 52,927,857 100.00
5,615,000 7,233,000 9,389,000
2.2
2.1
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
5,975,174
55.47
39.85
5,564,390
9,769,661
Kc
38.41 16.49
15.08 37.23
6.54
8.40
3.56
0.84
36.40 37.04
100.00 100.00
20.56
21.58
212
1,078,106
3,744,614
1,007,327
293,035
1,494,151
1,016,644
216,357
2.Nông lâm nghiệp
3. Sản xuất & gia công chế biến
4. Xây dựng
5.Dịch vụ cá nhân và cộng đồng
6. Kho bãi giao thông VT & TTTT
7. Giáo dục & dào tạo
8.Tư vấn, kinh doanh bất động sản
9. nhà hàng & khách sạn
10.Dịch vụ tài chính
11. Ngành nghề khác
tổng cộng
Vốn chủ sở hữu của NH
tỷ trọng dư nợ ngành (1) / vốn CSH
Kc
465,158
1,752,875 2,371,704
Kc
1,761,780
7,592,533 14,733,888
Kc
1,012,029
1,804,689 3,839,417
Kc
18,403
4,495,358 7,636,356
Kc
521,762
4,010,695 4,792,738
Kc
Kc
589,410
1,063,682 1,612,481
Kc
99,110
88,852
107,148
Kc
Kc
155,512
169,505
691,388
418,512
Kc
10,381,329 14,994,913 27,064,462 45,281,905
1,366,000 3,550,000 4,677,000 7,495,000 8,882,000
0.5
0.8
1.0
1.7
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
DONGA BANK
1. thương mại
2.Nông lâm nghiệp
3. Sản xuất & gia công chế biến
4. Xây dựng
5.Dịch vụ cá nhân và cộng đồng
6. Kho bãi giao thông VT & TTTT
7. Giáo dục & Đào tạo
8.Tư vấn, kinh doanh bất động sản
9. Nhà hàng & khách sạn
10.Dịch vụ tài chính
11. Ngành nghề khác
3,495,759
213,769
1,339,131
564,981
1,560,414
59,514
58,179
18,240
104,505
205,783
350,339
43.9
2.7
16.8
7.1
19.6
0.7
0.7
0.2
1.3
2.6
4.4
7,734,095 11,474,881 15,362,597 14,089,665
317,310
618,683
527,959
586,323
1,440,879 1,484,978 2,544,147 2,987,614
1,798,990 4,104,922 5,241,429 7,668,019
4,853,366 4,051,765 6,059,464 8,947,766
112,191
138,576
314,059
492,967
105,846
100,134
100,641
113,647
170,990 1,415,737 1,741,255 1,188,238
176,470
635,796
753,751
341,412
139,623
102,001
63,769
384,357
958,839 1,443,337 1,646,473 1,520,839
4.48
7.19
6.48
5.24
16.97 24.97 28.05 32.54
9.75
6.72
6.67
8.48
0.18
1.95 16.61 16.86
5.03
9.96 14.82 10.58
5.68
6.78
3.93
3.56
0.95
1.44
0.33
0.24
0.00
0.00
0.00
0.00
1.50
1.13
2.55
0.92
100.00 100.00 100.00 100.00
43.4
1.8
8.1
10.1
27.3
0.6
0.6
1.0
1.0
0.8
5.4
44.9
2.4
5.8
16.1
15.8
0.5
0.4
5.5
2.5
0.4
5.6
44.7
1.5
7.4
15.3
17.6
0.9
0.3
5.1
2.2
0.2
4.8
36.8
1.5
7.8
20.0
23.3
1.3
0.3
3.1
0.9
1.0
4.0
tổng cộng
Vốn chủ sở hữu của NH
tỷ trọng dư nợ ngành (1) / vốn CSH
SCB
1. thương mại
2.Nông lâm nghiệp
3. Sản xuất & gia công chế biến
4. Xây dựng
5.Dịch vụ cá nhân và cộng đồng
6. Kho bãi giao thông VT & TTTT
7. Giáo dục & Đào tạo
8.Tư vấn, kinh doanh bất động sản
9. Nhà hàng & khách sạn
10.Dịch vụ tài chính
11. Ngành nghề khác
tổng cộng
Vốn chủ sở hữu của NH
tỷ trọng dư nợ ngành (5) / vốn CSH
SOUTHERN BANK
1. thương mại
2.Nông lâm nghiệp
3. Sản xuất & gia công chế biến
4. Xây dựng
5.Dịch vụ cá nhân và cộng đồng
6. Kho bãi giao thông VT & TTTT
213
7,970,614 17,808,599 25,570,810 34,355,544 38,320,847
1,531,000 3,229,000 3,515,000 4,201,000 4,957,000
2.3
2.4
3.3
3.7
2.8
124,591
737,572
794,957
735,826
795,036
22,882
504,999
218,180
89,480
40,888
484,967 1,464,396 1,794,424 2,757,679
2697116
765,967 2,231,504 2,814,177 3,144,053 5,506,210
5,917,915 12,793,188 14,976,382 18,645,836 17,450,574
168,861
128,651
490,681 2,637,828
495,471
7,941
78,255
328,958
633,448
659,477
162,587
278,701
665,136
907,185 3,802,235
348,174
276,116
301,554
963,950 1,010,934
151,007
237,520
318,038
706,219
14,077
833,216
656,287
477,166
13,493
8,017,962 19,477,605 23,278,256 31,310,489 33,177,653
801,000 2,631,000 2,809,000 4,482,000 4,711,000
7.4
4.9
5.3
4.2
3.7
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
1,779,477
10,816
16,237
688,871
22,177
6,576
3,197,464
5,048
1,102
1,486,078
3,116,229
5,801
6,817,842 14,476,799
4,920
6,020
5,341,043
4,369,068
5,159
7,980,802
6,163,910
2,094
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
1.6
0.3
6
9.6
73.8
2.1
0.1
2
4.3
0.2
100.0
3.8
2.6
7.5
11.5
65.7
0.7
0.4
1.4
1.4
0.8
4.3
100.0
3.4
0.9
7.7
12.1
64.3
2.1
1.4
2.9
1.3
1
2.8
100.0
2.4
0.3
8.8
10
59.6
8.4
2
2.9
3.1
1
1.5
100.0
2.4
0.1
8.1
16.6
52.6
1.5
2
11.5
3
2.1
0
100.0
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
30.3
0.2
0.3
11.7
0.4
0.1
33.5
0.1
0.0
15.6
32.7
0.1
34.5
0.0
0.0
27.0
22.1
0.0
46.3
0.0
0.0
25.5
19.7
0.0
214
7. Giáo dục & Đào tạo
8.Tư vấn, kinh doanh bất động sản
9. Nhà hàng & khách sạn
10.Dịch vụ tài chính
11. Ngành nghề khác
tổng cộng
Vốn chủ sở hữu của NH
tỷ trọng dư nợ ngành (1) / vốn CSH
SHB
1. thương mại
2.Nông lâm nghiệp
3. Sản xuất & gia công chế biến
4. Xây dựng
5.Dịch vụ cá nhân và cộng đồng
6. Kho bãi giao thông VT & TTTT
7. Giáo dục & Đào tạo
8.Tư vấn, kinh doanh bất động sản
9. Nhà hàng & khách sạn
10.Dịch vụ tài chính
11. Ngành nghề khác
tổng cộng
Vốn chủ sở hữu của NH
tỷ trọng dư nợ ngành (3) / vốn CSH
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
1,622,000
400
233,666
15,359
90,308
3,010,230
5,874,117
2,166,000
1
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
511,000
2,178,000
2,262
2,464,825 1,735,555
114,018
309,411
119,500
94,200
547,154
498,536
19,785,791 31,267,327
2,936,000 3,573,000
2
4
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
0.0
4.0
0.3
1.5
51.2
100.0
0.0
14.7
0.1
0.3
2.9
100.0
0.0
12.5
0.6
0.6
2.8
100.0
0.0
5.6
1.0
0.3
1.6
100.0
509,802
784,085 3,796,000
948,027 2,656,136 1,165,427
1,062,521 2,253,646 6,188,165
1,037,618 1,170,496 2,696,000
287,713
330,543 5,855,000
66,964
314,494 2,254,000
2,985
5,600
175,000
94,473
86,194
206,200
21,826
59,620
585,000
87,517
184,490
593,753
2,133,253 4,983,444
861,043
6,252,699 12,828,748 24,375,588
2,267,000 2,417,000 4,183,000
0.5
0.9
1.5
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
8.2
15.2
17.0
16.6
4.6
1.1
0.0
1.5
0.3
1.4
34.1
100.0
6.1
20.7
17.6
9.1
2.6
2.5
0.0
0.7
0.5
1.4
38.8
100.0
15.6
4.8
25.4
11.1
24.0
9.2
0.7
0.8
2.4
2.4
3.5
100.0
1,404,602
13,287
30,000
280,210
9,539,821
2,383,000
1
215
OCB
1. thương mại
2.Nông lâm nghiệp
3. Sản xuất & gia công chế biến
4. Xây dựng
5.Dịch vụ cá nhân và cộng đồng
6. Kho bãi giao thông VT & TTTT
7. Giáo dục & Đào tạo
8.Tư vấn, kinh doanh bất động sản
9. Nhà hàng & khách sạn
10.Dịch vụ tài chính
11. Ngành nghề khác
tổng cộng
Vốn chủ sở hữu của NH
tỷ trọng dư nợ ngành (5) / vốn CSH
644,540
196,806
273,467
212,362
2,907,811
119,438
72,806
233,310
4,660,540
832,611
3.49
1,392,609
672,725
1,770,274
598,191
2,308,743
369,681
445,215
7,557,438
1,655,131
1.39
384,792 1,627,589 1,332,356
219,298
141,784
399,590
187,921 1,272,085
599,986
421,245 1,044,881 1,210,627
5,368,557
31,304 1,734,842
172,024
794,959
418,393
55,039
83,759
810,423
47,540
323,077
896,146
86,776
77,923
1,843,651 4,029,059 4,783,366
8,597,488 10,216,976 11,584,528
1,591,088 2,330,895 3,140,000
3.37
0.01
0.55
13.8
4.2
5.9
4.6
62.4
2.6
1.6
5
100.0
18.4
8.9
23.4
7.9
30.5
4.9
5.9
100.0
4.5
2.6
2.2
4.9
62.4
2
21.4
100.0
15.9
1.4
10.6
10.2
23.4
7.8
0.5
0
3.2
0
27
100.0
11.5
3.4
4.6
10.5
53.6
3.6
0.7
0.4
7.7
0.7
2.7
100.0
216
PHỤ LỤC 11
CƠ CẤU DANH MỤC CHO VAY THEO THỜI HẠN
Một số ngân hàng TMCP giai đoạn 2006 - 2010
Đơn vị Triệu đồng
TỶ TRỌNG %
2006
2007
2008
NĂM 2006 2007 2008 2009 2010
2009
2010
NGÂN HÀNG
A. NHÓM 5 NGÂN HÀNG QUY MÔ LỚN
1. EXIMBANK
1. Cho vay ngắn hạn
2. Cho vay trung hạn
3. Cho vay dài hạn
tổng cộng
76.8 79.2 77.5 71.4 66.6 7,834,454 14,614,723 16,444,641 27,393,114 41,493,029
12.5 11.5 10.9 10.1 11.5 1,275,467 2,125,475 2,307,879 3,888,204 7,172,977
10.8
9.3 11.7 18.5 21.9 1,097,471 1,711,953 2,479,678 7,100,537 13,679,708
100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 10,207,392 18,452,151 21,232,198 38,381,855 62,345,714
2.ACB
1. Cho vay ngắn hạn
2. Cho vay trung hạn
3. Cho vay dài hạn
tổng cộng
56.0 55.0 45.8 57.4 50.6 9,568,946 17,493,467 15,944,006 35,618,575
41.0 21.3 20.9 16.7 22.5
6,762,500 7,267,278 10,537,709
2.0 23.7 33.4 25.9 26.9 7,445,473 7,554,890 11,621,416 16,201,694
100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 17,014,419 31,810,857 34,832,700 62,357,978
43,810,541
19,521,816
23,315,607
86,647,964
65.1 61.4 56.5 64.7 62.9 9,363,598 21,731,963 19,777,308
34.9 18.3 18.8 17.0 19.7 5,030,715 6,472,460 6,566,937
20.3 24.7 18.4 17.3
7,173,724 8,664,626
100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 14,394,313 35,378,147 35,008,871
51,904,547
16,282,072
14,298,184
82,484,803
3.SACOMBANK
1. Cho vay ngắn hạn
2. Cho vay trung hạn
3. Cho vay dài hạn
tổng cộng
38,586,238
10,113,472
10,957,294
59,657,004
4.TECHCOMBANK
1. Cho vay ngắn hạn
70.3
Kc
Kc
67.3
56.8
6,193,136
Kc
Kc
28,310,069 30,076,441
217
2. Cho vay trung hạn
3. Cho vay dài hạn
tổng cộng
29.7
0.0
100.0
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
19.8 19.8
13.0 23.4
100.0 100.0
2,617,712
71.2 65.4 61.3 58.2 64.6
28.8 25.2 27.6 27.7 22.3
0.0
9.4 11.1 14.1 13.1
100.0 100.0 100.0 100.0 100.0
4,206,026
1,699,932
8,810,848
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
8,320,863 10,468,073
5,461,835 12,383,343
42,092,767 52,927,857
5.MB
1. Cho vay ngắn hạn
2. Cho vay trung hạn
3. Cho vay dài hạn
tổng cộng
6,792,810 9,186,357 15,756,724 29,235,903
2,611,504 4,143,854 7,487,475 10,102,472
977,015 1,664,702 3,820,263 5,943,530
5,905,958 10,381,329 14,994,913 27,064,462 45,281,905
B. NHÓM 5 NGÂN HÀNG QUY MÔ TRUNG BÌNH VÀ NHỎ
1. DONGABANK
1. Cho vay ngắn hạn
2. Cho vay trung hạn
3. Cho vay dài hạn
tổng cộng
82.8 75.9 63.1 66.6 64.8
14.4 20.1 31.2 26.7 26.5
2.8
4.0
5.7
6.8
8.7
100.0 100.0 100.0 100.0 100.0
6,602,475 13,516,874 16,147,548 22,865,544 24,815,457
1,146,950 3,577,932 7,974,700 9,162,088 10,168,791
221,189
713,793 1,448,562 2,327,912 3,336,599
7,970,614 17,808,599 25,570,810 34,355,544 38,320,847
2. SCB
1. Cho vay ngắn hạn
2. Cho vay trung hạn
3. Cho vay dài hạn
tổng cộng
kc
kc
kc
kc
82.6 65.5 65.0 25.3
9.8 23.6 26.6 60.7
7.6 10.9
8.4 14.0
100.0 100.0 100.0 100.0
kc
kc
kc
kc
kc
kc
kc
kc
68.8 64.7 69.4 69.5
27.6 33.0 30.0 30.3
3.6
2.3
0.6
0.2
100.0 100.0 100.0 100.0
kc
kc
kc
kc
16,083,048 15,244,737 20,366,212 8,389,522
1,909,083 5,491,642 8,320,930 20,150,365
1,485,474 2,541,877 2,623,347 4,637,766
19,477,605 23,278,256 31,310,489 33,177,653
3. SOUTHERN BANK
1. Cho vay ngắn hạn
2. Cho vay trung hạn
3. Cho vay dài hạn
tổng cộng
4,040,491
1,623,864
209,762
5,874,117
6,172,233 13,730,217 21,715,884
3,150,197 5,938,690 9,473,958
217,391
116,884
77,485
9,539,821 19,785,791 31,267,327
218
4. VIB
1. Cho vay ngắn hạn
2. Cho vay trung hạn
3. Cho vay dài hạn
tổng cộng
64.4 59.9 61.8 63.6
24.9 24.4 19.7 16.2
10.6 15.7 23.8 20.2
100.0 100.0 100.0 100.0
Kc
Kc
Kc
Kc
5,884,959 10,024,899 11,608,814 17,399,789
2,279,179 4,084,354 3,700,602 4,435,639
973,025 2,634,997 4,465,093 5,517,254
9,137,163 16,744,250 18,774,509 27,352,682
Kc
Kc
Kc
Kc
5. SAIGONBANK
1. Cho vay ngắn hạn
2. Cho vay trung hạn
3. Cho vay dài hạn
tổng cộng
kc
kc
kc
kc
71.4 66.1 62.6 64.8
20.0 19.5 21.1 20.0
8.6 14.4 16.3 15.2
100.0 100.0 100.0 100.0
kc
kc
kc
kc
5,258,243
1,473,817
631,497
7,363,557
5,233,192
1,543,269
1,139,914
7,916,376
6,082,773 6,778,563
2,054,418 2,090,543
1,584,928 1,586,644
9,722,120 10,455,751
219
PHỤ LỤC 12
CƠ CẤU DANH MỤC CHO VAY THEO ĐỐI TƯỢNG KHÁCH HÀNG
Một số ngân hàng TMCP giai đoạn 2006 - 2010
NĂM
2006
TỶ TRỌNG %
2007 2008 2009
2010
2006
Đơn vị Triệu đồng
2007
2008
2009
2010
NGÂN HÀNG
EXIMBANK
1. Doanh nghiệp Nhà nước
4.9 Kc
Kc
5.5
3.5
499,562
Kc
Kc
2,100,148
2.Công ty cổ phần
51.7 Kc
Kc
19.8 21.6 5,275,113
Kc
Kc
7,602,828
3. Công trách nhiệm HH
0.0 Kc
Kc
35.9 33.6
Kc
Kc
13,789,807
4. Doanh nghiệp tư nhân
0.0 Kc
Kc
4.8
3.7
Kc
Kc
1,837,337
3. Công ty liên doanh
2.7 Kc
Kc
0.3
0.2
271,465
Kc
Kc
119,366
4. Công ty 100% vốn nước ngoài
0.0 Kc
Kc
0.9
0.6
Kc
Kc
343,851
5. Hợp tác xã
0.0 Kc
Kc
1.8
1.2
Kc
Kc
701,742
6. cá nhân
40.8 Kc
Kc
31.0 35.5 4,161,252
Kc
Kc
11,886,776
Kc 100.0 100.0 10,207,392
Kc
Kc
38,381,855
100.0 Kc
tổng cộng
ACB
1. Doanh nghiệp Nhà nước
6.6
6.9
8.1
7.0
5.8 1,128,017 2,179,990 2,821,889 4,378,113
2. Công ty CP, TNHH, công ty TN 39.0 39.7 36.4 54.9 56.2 6,643,686 12,622,784 12,674,836 34,252,753
3. Công ty liên doanh
1.5
1.6
1.1
0.8
0.4
247,438
518,095
387,159
497,924
4. Công ty 100% vốn nước ngoài
1.7
1.8
0.5
0.3
0.2
289,643
557,972
180,304
195,295
5. Hợp tác xã
0.0
0.1
0.0
0.0
0.0
2,036
21,714
5,164
28,698
6. cá nhân
51.2 50.0 53.9 36.9 37.4 8,703,599 15,910,302 18,763,348 23,005,195
100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 17,014,419 31,810,857 34,832,700 62,357,978
tổng cộng
2,193,372
13,491,550
20,973,591
2,284,067
125,300
356,949
758,436
22,162,449
62,345,714
5,017,568
48,978,636
388,615
204,820
21,412
32,584,054
87,195,105
220
SACOMBANK
1. Doanh nghiệp Nhà nước
2.Công ty cổ phần
3. Công trách nhiệm HH
4. Doanh nghiệp tư nhân
5. Công ty liên doanh
6. Công ty 100% vốn nước ngoài
7. Hợp tác xã
8. cá nhân
tổng cộng
TECHCOMBANK
1. Doanh nghiệp Nhà nước
2.Công ty cổ phần
3. Công trách nhiệm HH
4. Doanh nghiệp tư nhân
5. Công ty liên doanh
6. Công ty 100% vốn nước ngoài
7. Hợp tác xã
8. cá nhân
tổng cộng
MB
1. Doanh nghiệp Nhà nước
2.Công ty cổ phần
0.6
0.8
2.1
6.1
3.1
81,270
280,937
723,513 3,635,197 2,583,839
8.8 14.0 17.6 16.3 24.1 1,262,893 4,962,200 6,157,743 9,724,253 19,909,520
36.1 28.3 26.6 28.5 28.5 5,202,214 9,997,319 9,315,313 16,988,663 23,484,859
6.8
6.3
5.7
6.3
5.2
971,807 2,224,820 1,983,480 3,737,866 4,253,642
0.3
0.4
0.1
0.0
0.2
40,569
129,871
18,852
8,066
167,258
0.1
0.7
1.0
0.6
0.3
10,085
240,727
334,022
353,105
270,002
0.6
0.3
0.3
0.5
0.3
88,528
103,299
103,299
287,264
268,760
46.8 49.2 46.8 41.7 37.4 6,736,947 17,379,225 16,372,649 24,890,792 30,876,486
100.0 100.0 100.0 100.0 100.0 14,394,313 35,318,398 35,008,871 59,657,004 82,484,803
6.5
0.0
37.7
0.0
0.0
1.9
0.0
53.9
100.0
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
49.1
0.0
15.6
35.1
20.4
42.1
5.5
1.5
31.4 24.4
31.5 29.9
3.4
2.9
0.0
0.0
1.1
5.5
0.0
0.0
27.1 35.8
100.0 100.0
Kc
Kc
Kc
Kc
572,708
3,320,308
170,117
4,747,715
8,810,848
2,899,017
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
1,618,786
3,640,706
3,064,910
6,312,449
2,300,537
769,117
13,213,608 12,921,669
13,252,401 15,823,427
1,437,941 1,530,244
473,033
2,909,300
11,415,247 18,974,100
42,092,767 52,927,857
Kc
Kc
Kc
Kc
3. Công trách nhiệm HH
4. Doanh nghiệp tư nhân
5. Công ty liên doanh
6. Công ty 100% vốn nước ngoài
7. Hợp tác xã
8. cá nhân
tổng cộng
DONGA BANK
1. Doanh nghiệp Nhà nước
2.Công ty cổ phần
3. Công trách nhiệm HH
4. Doanh nghiệp tư nhân
5. Công ty liên doanh
6. Công ty 100% vốn nước ngoài
7. Hợp tác xã
8. cá nhân
tổng cộng
SCB
1. Doanh nghiệp Nhà nước
2.Công ty cổ phần
3. Công trách nhiệm HH
4. Doanh nghiệp tư nhân
5. Công ty liên doanh
6. Công ty 100% vốn nước ngoài
0.0 25.4 21.9
0.0
0.4
1.2
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
0.0
0.5
0.1
50.9 23.1 14.3
100.0 100.0 100.0
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
2.9
2.5
32.9 34.2
62.3 59.2
30.5 30.5
2.8
4.1
0.0
0.0
0.1
0.2
0.4
0.3
37.7 40.8
30.4 28.2
100.0 100.0 100.0 100.0
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
0.1
9.4
16.1
0.6
0.6
0.1
0.0
11.0
17.2
0.5
0.4
0.1
0.1
13.7
26.4
0.6
0.0
0.5
221
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
0.1
17.7
22.8
0.5
0.0
0.4
2,635,519
38,070
3,288,025
178,772
46,889
9,384
3,006,941 2,401,359 2,141,373
5,905,958 10,381,329 14,994,913
4,964,484 10,540,641
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
731,496
847,980
8,408,267 11,758,347
7,797,353 10,493,765
724,218 1,414,619
23,692
55,881
107,214
113,478
3,006,130 7,267,958 7,778,300 9,671,484
7,970,614 17,808,599 25,570,810 34,355,554
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
15,589
1,836,654
3,132,455
108,202
119,241
11,048
300
2,554,699
4,013,167
111,294
96,562
31,484
19,870
4,278,749
8,250,706
182,814
6,000
164,861
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
24,525
5,887,240
7,578,609
155,248
6,000
141,730
7. Hợp tác xã
8. cá nhân
tổng cộng
OCB
1. Doanh nghiệp Nhà nước
2.Công ty cổ phần
3. Công trách nhiệm HH
4. Doanh nghiệp tư nhân
5. Công ty liên doanh
6. Công ty 100% vốn nước ngoài
7. Hợp tác xã
8. cá nhân
tổng cộng
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
222
10.8
6.9
1.1
1.0
62.4 63.9 57.7 57.4
100.0 100.0 100.0 100.0
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
1.6
1.4
23.9 17.9
15.9 17.6
3.3
2.9
0.2
0.5
0.0
0.0
0.3
1.1
54.8 58.7
100.0 100.0
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
2,101,894 1,605,932
341,305
325,480
12,152,522 14,864,818 18,066,184 19,058,821
19,477,605 23,278,256 31,310,489 33,177,653
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
Kc
163,116
2,444,173
1,624,984
341,752
16,244
164,052
2,072,215
2,040,830
330,354
52,712
28,185
122,318
5,598,522 6,802,047
10,216,976 11,584,528
223
PHỤ LỤC 13
CÁC CHỈ TIÊU PHẢN ÁNH CHẤT LƯỢNG NỢ
Nhóm 7 ngân hàng TMCP quy mô lớn
Đơn vị: %
SỐ
TT
1
NĂM
2006
2007
2008
2009
2010
NGÂN HÀNG
EXIMBANK
Tỷ lệ lãi thuần/ tổng dư nợ
3.02
3.54
4.79
4.79
4.19
Tỷ lệ quỹ DPRR/ tổng dư nợ
0.42
0.4
1.77
0.99
1.01
14.13
-
-
98.21
-
Tốc độ tăng trưởng quỹ DPRR
-
73.38
411.68
0.66
65.83
Tốc độ tăng trưởng dư nợ
-
80.77
15.07
80.56
62.44
Tỷ lệ lãi thuần/ tổng dư nợ
4.57
3.85
7.5
3.93
4.48
Tỷ lệ quỹ DPRR/ tổng dư nợ
0.33
0.42
0.66
0.81
0.82
0.8
0.89
0.12
0.37
0.11
Tốc độ tăng trưởng quỹ DPRR
-
139.36
69.93
119.57
42.77
Tốc độ tăng trưởng dư nợ
-
86.96
9.5
79.02
39.83
Tỷ lệ lãi thuần/ tổng dư nợ
4.49
3.00
3.06
3.41
3.75
Tỷ lệ quỹ DPRR/ tổng dư nợ
0.57
0.5
0.72
0.86
1.06
Tỷ lệ sử dụng DP/ Trích lập DPRR
7.74
12.78
0.48
1.14
0.95
Tốc độ tăng trưởng quỹ DPRR
-
118.1
41.77
104.77
59.18
Tốc độ tăng trưởng dư nợ
-
145.78
-1.04
70.41
29.67
Tỷ lệ lãi thuần/ tổng dư nợ
4.72
5.17
8.02
5.27
6.14
Tỷ lệ quỹ DPRR/ tổng dư nợ
2.79
1.25
1.57
1.51
1.51
33.11
146.9
34.92
27.92
44.07
Tốc độ tăng trưởng quỹ DPRR
-
-11.77
71.67
81.11
65.11
Tốc độ tăng trưởng dư nợ
-
96.52
37.25
87.97
64.92
Tỷ lệ lãi thuần/ tổng dư nợ
4.94
4.23
4.37
4.79
5.28
Tỷ lệ quỹ DPRR/ tổng dư nợ
1.38
0.88
1.23
1.22
1.15
Tỷ lệ sử dụng DP/ Trích lập DPRR
-
-
-
51.09
75.84
Tốc độ tăng trưởng quỹ DPRR
-
49.11
80.53
58.13
19.24
Tốc độ tăng trưởng dư nợ
-
135.58
28.59
59.79
25.74
Tỷ lệ sử dụng DP/ Trích lập DPRR
2 ACB
Tỷ lệ sử dụng DP/ Trích lập DPRR
3 SACOMBANK
4 MB
Tỷ lệ sử dụng DP/ Trích lập DPRR
5 TECHCOMBANK
224
6
MARITIME BANK
Tỷ lệ lãi thuần/ tổng dư nợ
5.08
4.53
5.82
4.68
5.44
Tỷ lệ quỹ DPRR/ tổng dư nợ
1.27
0.53
0.76
0.73
0.97
-
-
-
-
-
-5.9
148.32
102.2
77.91
126.02
71.73
112.95
33.34
-
-
8.07
6.64
4.68
0.27
0.42
1.04
1.67
1.58
-
-
-
-
-
Tốc độ tăng trưởng quỹ DPRR
411.37
70.66
103.92
100.71
Tốc độ tăng trưởng dư nợ
228.31
-31.29
26.89
113.1
Tỷ lệ sử dụng DP/ Trích lập DPRR
Tốc độ tăng trưởng quỹ DPRR
Tốc độ tăng trưởng dư nợ
7 SEABANK
Tỷ lệ lãi thuần/ tổng dư nợ
Tỷ lệ quỹ DPRR/ tổng dư nợ
Tỷ lệ sử dụng DP/ Trích lập DPRR
225
PHỤ LỤC 14
TÍNH GÍA TRỊ TRUNG BÌNH CHO DANH MỤC CHO VAY
HẠNG
AAA-AAA
AAA-AA
AAA-A
AAA-BBB
AAA-BB
AAA-B
AAA-CCC
AAA-D
AA-AAA
AA-AA
AA-A
AA-BBB
AA-BB
AA-B
AA-CCC
AA-D
A-AAA
A-AA
A-A
A-BBB
A-BB
A-B
A-CCC
A-D
BBB-AAA
BBB-AA
BBB-A
BBB-BBB
BBB-BB
BBB-B
BBB-CCC
BBB-D
P(x)
X=si
Px*X
0.00
2454.1
0.0
0.00
2453.4
0.0
0.02
2450.0
0.5
0.07
2442.1
1.7
0.00
2424.8
0.0
0.00
2399.6
0.0
0.00
2348.3
0.0
0.00
1460.5
0.0
0.00
2453.4
0.0
0.04
2452.7
1.0
0.39
2449.3
9.6
1.81
2441.4
44.2
0.02
2424.1
0.5
0.00
2398.9
0.0
0.00
2347.6
0.0
0.00
1459.8
0.0
0.02
2450.7
0.5
0.29
2450
7.1
5.44
2446.6
133.1
79.69
2438.7
1943.4
4.47
2421.4
108.2
0.92
2396.2
22.0
0.09
2344.9
2.1
0.13
1457.1
1.9
0.00
2442.2
0.0
0.00
2441.5
0.0
0.08
2438.1
2.0
4.55
2430.2
110.6
0.64
2412.9
15.4
0.18
2387.7
4.3
0.02
2336.4
0.5
0.04
1448.6
0.6
226
BB-AAA
BB-AA
BB-A
BB-BBB
BB-BB
BB-B
BB-CCC
BB-D
B-AAA
B-AA
B-A
B-BBB
B-BB
B-B
B-CCC
B-D
CCC-AAA
CCC-AA
CCC-A
CCC-BBB
CCC-BB
CCC-B
CCC-CCC
CCC-D
D-AAA
D-AA
D-A
D-BBB
D-BB
D-B
D-CCC
D-D
GIÁ TRỊ TRUNG BÌNH
0.00
2425.1
0.0
0.00
2424.4
0.0
0.00
2421
0.0
0.57
2413.1
13.8
0.11
2395.8
2.6
0.04
2370.6
0.9
0.00
2319.3
0.0
0.01
1431.5
0.1
0.00
2400.1
0.0
0.00
2399.4
0.0
0.00
2396
0.0
0.19
2388.1
4.5
0.04
2370.8
0.9
0.02
2345.6
0.5
0.00
2294.3
0.0
0.00
1406.5
0.0
0.00
2349.4
0.0
0.00
2348.7
0.0
0.00
2345.3
0.0
0.01
2337.4
0.2
0.00
2320.1
0.0
0.00
2294.9
0.0
0.00
2243.6
0.0
0.00
1355.8
0.0
0.00
1473.4
0.0
0.00
1472.7
0.0
0.00
1469.3
0.0
0.04
1461.4
0.6
0.01
1444.1
0.1
0.00
1418.9
0.0
0.00
1367.6
0.0
0.00
479.8
0.0
EX =
2433.5