intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Chủ nghĩa khoa học xã hội: Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:114

41
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở một số vấn đề lý luận chung về xây dựng đời sống văn hóa tinh thần, luận văn làm rõ thực trạng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Chủ nghĩa khoa học xã hội: Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC ---------------------- ĐOÀN VĂN NAM XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN Ở TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ BẮC GIANG - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC ---------------------- ĐOÀN VĂN NAM XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN Ở TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC MÃ NGÀNH: 60 22 03 08 NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS ĐẶNG THỊ LAN BẮC GIANG - 2015
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài ................................................ 4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu........................................................ 8 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................ 8 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu .......................................... 9 6. Đóng góp của luận văn .......................................................................... 9 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ........................................... 9 8. Kết cấu của luận văn ............................................................................. 9 CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN VÀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN .............................................................................................. 10 1.1. Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần .............................................................................................. 10 1.1.1. Khái niệm đời sống văn hoá tinh thần .......................................... 10 1.1.2. Khái niệm xây dựng đời sống văn hóa tinh thần .......................... 22 1.2. Mục tiêu và nội dung cơ bản của xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ..................................................................................................... 30 1.3. Những yếu tố tác động đến quá trình xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ..................................................................................................... 38 1.3.1. Quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước ................... 38 1.3.2. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.................................. 41 1.3.3. Toàn cầu hóa .............................................................................. 43 1.3.4. Diễn biến hoà bình ..................................................................... 46 CHƢƠNG 2. XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN Ở TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP . 50 2.1. Khái quát địa bàn nghiên cứu tỉnh Bắc Giang .............................. 50 2.1.1. Về điều kiện tự nhiên và dân cư, dân tộc .................................... 50
  4. 2.1.2. Tình hình kinh tế – xã hội .......................................................... 51 2.2. Thực trạng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay ........................................................................................... 55 2.2.1. Lĩnh vực chính trị, tư tưởng ........................................................ 56 2.2.2. Lĩnh vực đạo đức, lối sống .......................................................... 60 2.2.3. Lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng ..................................................... 63 2.2.4. Về lĩnh vực giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ .............. 66 2.2.5. Lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật ...................................................... 71 2.3. Phƣơng hƣớng và một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh quá trình xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay.. 75 2.3.1. Một số phương hướng nhằm đẩy mạnh quá trình xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay................................. 76 2.3.2. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay ......................................... 79 KẾT LUẬN .............................................................................................. 100 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 102
  5. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Đảng ta đã khẳng định nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” do Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (1998) đưa ra đến nay vẫn là Nghị quyết có ý nghĩa chiến lược, chỉ đạo quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa ở nước ta, cần được kế thừa, bổ sung và phát huy trong thời kỳ mới. Văn kiện Đại hội X(2006) đã nhấn mạnh: Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế – xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển 2011) được Đại hội XI của Đảng thông qua đã xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”[34; 76]. Đảng ta đã xác định: “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hoá nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, 1
  6. nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”[33; 106]. Hiện nay, nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, đặt nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, then chốt. Mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, của văn minh tin học điện tử, của quá trình toàn cầu hóa sẽ không đạt được nếu không chủ động xây dựng và phát triển văn hóa một cách có hiệu quả và bền vững. Trải qua gần 30 năm đổi mới đất nước, nước ta ở trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế trên nhiều mặt. Bên cạnh những thành công có được từ nền kinh tế thị trường cũng như quá trình toàn cầu hóa, chúng ta không tránh khỏi những tác động tiêu cực do mặt trái của chúng gây ra, nếu không có sức mạnh của đời sống văn hóa tinh thần, không có định hướng vững vàng thì sự tồn tại của con người cũng như chế độ chính trị nước ta cũng khó giữ gìn. Đặc biệt, đời sống văn hóa tinh thần giúp con người tự nhận thức chính mình, hướng con người tới sự hoàn thiện. Đời sống văn hóa tinh thần còn giúp con người chống lại sự tha hóa trong môi trường của sản xuất hàng hóa, của chủ nghĩa tiêu dùng, chiến tranh và tội ác. Vì vậy song song với nhiệm vụ phát triển kinh tế, tất yếu là nhiệm vụ xây dựng văn hóa, công tác xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trở thành một nhiệm vụ cấp thiết trước một thế giới đang biến đổi nhanh chóng như hiện nay. Trước sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hoá, bên cạnh những thời cơ thuận lợi không tránh khỏi những tác động tiêu cực ảnh hưởng trực tiếp đến cá nhân, tổ chức, thậm chí sự vong tồn của một quốc gia. Đó là cơ hội để văn hoá Việt Nam học hỏi và phát huy các giá trị của mình, đó là sự hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của nhân loại với giá rẻ hơn, tiện nghi thuận lợi hơn. Tuy nhiên đi cùng với đó là vấn đề giữ gìn cơ cấu 2
  7. và giá trị nội sinh của văn hoá dân tộc, đó là vấn đề tha hoá lối sống, nhân cách, rối loạn những giá trị xã hội, quan hệ xã hội. Chiến lược “diễn biến hoà bình” là âm mưu cực kỳ thâm độc của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá – xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh. Để thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình", các thế lực thù địch tìm mọi cách du nhập lối sống, đạo đức, văn hóa không lành mạnh vào nước ta, làm cho văn hóa của chúng ta đi chệch mục tiêu, lý tưởng yêu nước và chủ nghĩa xã hội, phá hoại, làm xói mòn nền tảng và các giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của dân tộc, làm tha hóa một bộ phận cán bộ, đảng viên, đặc biệt là thế hệ trẻ, nhằm tạo ra một thế hệ mất gốc, thích ăn chơi, thực dụng, vụ lợi, vị kỷ, đua đòi, hưởng lạc, kích thích các tệ nạn xã hội phát triển. Cùng chung với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc của đất nước, vấn đề xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở các địa phương cần được nhận thức một cách sâu sắc và toàn diện hơn. Đặc biệt ở khu vực trung du và miền núi trong quá trình chuyển mình phát triển cùng với sự phát triển chung của đất nước, khu vực và quốc tế, vấn đề xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lại càng có ý nghĩa quan trọng. Một trong những vấn đề trọng tâm đối với hoạt động văn hóa hiện nay là phát huy vai trò của văn hóa ở cấp cơ sở tại các địa phương làm cho văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần, là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế – xã hội trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Bắc Giang là tỉnh có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống (trong đó 8 dân tộc có số dân trên 1.000 người), cùng với đó sự đa dạng về tôn giáo, tín ngưỡng. Nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Giang còn lưu giữ, bảo tồn nhiều giá trị văn hoá văn nghệ đặc sắc, cần được duy trì và phát triển. Sinh ra và lớn lên tại Tỉnh Bắc Giang, được thừa hưởng những truyền thống quý báu, được tiếp thu những giá trị truyền thống của cha ông. Điều này là vinh dự hết sức to lớn đối với tôi. Hòa chung với sự phát triển khu 3
  8. vực cũng như cả nước, Bắc giang đang tiếp tục chú trọng phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tạo điều kiện để khu vực miền núi phát triển đồng đều và vững chắc, đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu chung của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trước tình hình đó, vấn đề xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở cơ sở là vấn đề mang tính thời sự, cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Nhận thức được ý nghĩa của vấn đề xây dựng đời sống văn hóa tinh thần là vô cùng quan trọng, tôi lựa chọn vấn đề: “xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Triết học của mình, với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình cho tỉnh nhà, cho quê hương vào một lĩnh vực hết sức rộng lớn nhưng vô cùng hấp dẫn và mang tính thời sự hiện nay. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Chủ nghĩa Mác – Lênin khi bàn về văn hóa đã khẳng định đó là một trong những động lực để phát triển xã hội. Trong quá trình đổi mới của đất nước, sự biến đổi đời sống tinh thần đã được các nhà khoa học nghiên cứu, xem xét trên những bình diện khác nhau, đến nay chúng ta có thể chỉ ra những công trình tiêu biểu theo các nhóm sau đây: 2.1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa và xây dựng văn hóa, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần - Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm hiểu về bản sắc văn hoá Việt Nam: Cái nhìn hệ thống loại hình, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Trong cuốn sách, bằng các phương pháp khoa học tác giả đã cung cấp cho người đọc một bức tranh tổng quan về văn hóa Việt Nam với cách trình bày hết sức rõ ràng và mạch lạc. Đó là cấu trúc văn hóa với những đặc trưng và chức năng, các 4
  9. loại hình văn hóa (những vấn đề văn hóa học đại cương) để từ đó xác định tọa độ và con đường phát triển của văn hóa Việt Nam. Đi vào các yếu tố văn hóa, tác giả tập trung khảo cứu lĩnh vực văn hóa nhận thức dựa trên cơ sở triết lý âm dương, mô hình tam tài, ngũ hành của phương Nam (trong đó có Việt Nam) và chỉ ra sự khác biệt của chúng với con đường phát triển tư duy phương ắc (chủ yếu là Trung Hoa) cũng đi từ triết lý âm dương (được gọi là lưỡng nghi ) đến mô hình tứ tượng, bát quái. Về văn hóa t chức cộng đ ng, tác giả đi vào hai lĩnh vực: đời sống tập thể (với các tổ chức từ nông thôn đến đô thị và quốc gia) và đời sống cá nhân (tín ngưỡng, phong tục, văn hóa giao tiếp, nghệ thuật ngôn từ – thanh sắc – hình khối). Từ cấu trúc văn hóa nêu trên, tác giả phân tích cách ứng x c a người Việt với môi trường tự nhiên (ăn, mặc, ở, đi lại) và môi trường x hội (sự giao lưu văn hóa với các giá trị ngoại lai du nhập vào Việt Nam: các tôn giáo, các nền văn hóa n Độ, Trung Hoa, phương Tây...) và sự đối phó, dung hợp văn hóa Đông–Tây. - Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hoá ở nước ta, Viện Văn hoá & Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. Cuốn sách đã nhấn mạnh vai trò của việc tổ chức xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở – bước đi ban đầu của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc – đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc sống thường ngày của nhân dân. - Trường Lưu (1999), Văn hóa – một số vấn đề lý luận, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã xem xét văn hóa trong mối quan hệ thống nhất hữu cơ với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, từ đó đặt ra yêu cầu trong hoạt động xây dựng môi trường văn hóa cần có sự kết hợp hài hòa, đồng bộ với nhiệm vụ xây dựng môi trường tự nhiên và môi trường xã hội nhằm phát triển toàn diện con người, qua đó tác động tới sự phát triển của văn hóa và xã hội. 5
  10. - Trần Văn ính (1998), Văn hóa trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trong cuốn sách, tác giả đã bàn đến vai trò của văn hóa trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay, đồng thời đi sâu nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc và thực trạng văn hóa trong quá trình đô thị hóa, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm xây dựng nền văn hóa dân tộc. - Văn Đức Thanh (2001), Về xây dựng môi trường văn hóa cơ sở, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tác giả tiếp cận văn hóa như một tổng thể chiều sâu, bề rộng, tầm cao của các giá trị mang tính nhân văn cao cả. Từ đó tác giả đã đặt ra yêu cầu nhận thức và vận dụng đúng đắn những vấn đề phương pháp luận trong quá trình xây dựng môi trường văn hóa ở cơ sở. Tác giả đã bước đầu đưa ra phương pháp luận nghiên cứu về văn hóa và phương hướng thực hiện thằng lợi cuộc vân động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở nước ta hiện nay. Cuốn sách tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng ta về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc “vừa là mục tiêu, vừa là động lực” thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. - Hồ Bá Thâm (2003), Bản sắc văn hoá dân tộc, NX Văn hoá Thông tin, Hà Nội. Ở đây, văn hóa cũng được tiếp cận dưới góc độ: tiếp cận hoạt động, tiếp cận giá trị, tiếp cận phát triển, tiếp cận công nghệ. Tác giả cho rằng “văn hóa là tổng hòa các giá trị vật chất và giá trị tinh thần theo tính chân, mỹ, thiện, do hoạt động của con người sáng tạo ra, thông qua các phương thức sinh tồn của đời sống xã hội, và ngày càng phát triển. Văn hóa là sự phát triển, tiến bộ và phát triển, tiến bộ là văn hóa” - Đỗ Huy (2001), Xây dựng môi trường văn hoá ở nước ta hiện nay từ góc nhìn giá trị văn hoá, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. Cuốn sách đã tiếp cận văn hóa theo thước đo giá trị lịch sử – xã hội, làm hiện diện bản chất của môi trường văn hóa như một di sản quý báu mà các thế hệ nối tiếp phải giữ gìn và phát triển. 6
  11. - Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (2003), Về phát triển văn hoá và xây dựng con người thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách tập trung trình bày những nội dung cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh đối với phát triển văn hóa và xây dựng con người, mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển trong thời kỳ mới, phát triển con người và xây dựng lối sống đạo đức và chuẩn mực giá trị mới,… Đồng thời cuốn sách cũng đã đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề trên. Các công trình này cũng đó đề cập đến đặc điểm, vai trò của văn hóa và văn hóa tinh thần cũng như đề cập đến các giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên các công trình khoa học đó nghiên cứu trên một phạm vi rộng, đề xuất những giải pháp ở tầm vĩ mô. 2.2. Các công trình nghiên cứu về văn hóa Bắc Giang - Ngô Văn Trụ (chủ biên) (2011), Văn hóa Bắc Giang – một góc nhìn, Nxb Văn hóa – Thông tin. Cuốn sách là những suy nghĩ, đánh giá, trao đổi có tính học thuật, nghiệp vụ về văn hóa các dân tộc thiểu số trong địa bàn Tỉnh Bắc Giang, về lễ hội tiêu biển, về văn hóa – du lịch cũng như những nghiên cứu thực tế về công tác văn hóa tại Tỉnh Bắc Giang. - Ngô Văn Trụ (chủ biên) (2006), Dân tộc Sán Dìu ở Bắc Giang, Nxb Văn hóa dân tộc. Cuốn sách là một nghiên cứu về lịch sử, phong tục, tập quán, lối sống của một dân tộc cụ thể sống trên địa bàn Tỉnh Bắc Giang. Ngoài một số các công trình trên còn có các bài viết in trên các báo và tạp chí như: Đỗ Huy (2001), “Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta từ góc nhìn giá trị học”, Văn hóa nghệ thuật, (4); Thu Linh (1994), “Mô hình làng văn hóa ở nông thôn hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, (6). Các bài viết này đã khai thác ở một vài khía cạnh của đời sống văn hóa tinh thần, khẳng định vai trò của văn hóa và đời sống văn hóa tinh thần là động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. 7
  12. Nhìn chung các tác giả đều khẳng định tính tất yếu của việc xây dựng và phát triển văn hóa, đời sống văn hóa tinh thần; cho thấy sự quan trọng của văn hóa, đời sống văn hóa tinh thần trong quá trình phát triển của đất nước. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu độc lập, có hệ thống về vấn đề xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở một số vấn đề lý luận chung về xây dựng đời sống văn hóa tinh thần, luận văn làm rõ thực trạng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới. - Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được những mục đích trên, đề tài sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau: + Thứ nhất, làm rõ khái niệm và cấu trúc của đời sống văn hóa tinh thần, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần. + Thứ hai, phân tích thực trạng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay. + Thứ ba, đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu giới hạn trong phạm vi đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang; Phạm vi về thời gian: từ khi đổi mới (1986) đến nay. 8
  13. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa. Những quan điểm, đường lối chính sách của Đảng về văn hóa, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần và có kế thừa những giá trị của các công trình nghiên cứu có liên quan đã công bố. - Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phân tích - tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa, so sánh…Các phương pháp trên được sử dụng linh hoạt phù hợp với từng nội dung của đề tài luận văn. 6. Đóng góp của luận văn Với việc đi sâu nghiên cứu thực trạng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay, đề tài giúp chúng ta hiểu rõ hơn thực trạng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay. Trên cơ sở đó đề tài bước đầu đưa ra một số phương hướng và giải pháp nhằm xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Ý nghĩa lý luận c a luận văn Luận văn góp phần làm rõ một số nội dung cơ bản về đời sống văn hóa tinh thần và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở nước ta hiện nay nói chung và ở tỉnh Bắc Giang nói riêng. - Ý nghĩa thực tiễn c a luận văn Luận văn là sự vận dụng những kiến thức đã được học vào nghiên cứu thực tế. Là tài liệu tham khảo phục vụ cho học tập, nghiên cứu, công tác quản lý, xây dựng, hoạch định chính sách về văn hóa cho các cá nhân, đơn vị, tổ chức có liên quan. 8. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm 4 phần: Mở đầu, Nội dung, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo. Riêng phần Nội dung bao gồm 2 chương với 6 tiết. 9
  14. CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN VÀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN 1.1. Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần 1.1.1. Khái niệm đời sống văn hoá tinh thần 1.1.1.1.Khái niệm văn hoá, văn hóa tinh thần Trong thế kỷ XX, những nhà nghiên cứu về văn hóa đã tiếp tục đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Theo khảo sát của nhà nghiên cứu Phan Ngọc, cho đến nay đã có trên 400 định nghĩa về văn hóa. Điều này cho thấy "mảnh đất" văn hóa để cày xới, thâm nhập, tiếp cận rất rộng, đa dạng và phong phú. Trong bản tuyên bố chung tại Hội nghị quốc tế ở Mexicô do UNESCO chủ trì họp từ 26/7 đến 6/8 năm 1982, người ta chấp nhận một quan niệm về văn hóa như sau: Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng"[86; 5]. Nhờ có văn hóa mà con người thể hiện được phẩm chất, tự ý thức đư- ợc bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành , đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những "ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân mình". Dưới góc độ tiếp cận xem lao động sáng tạo là cội nguồn, khởi điểm của văn hóa hướng về các giá trị nhân bản nhằm hoàn thiện con người, nhà nghiên cứu Hoàng Vinh đã có quan niệm xác đáng rằng: Văn hóa là toàn bộ sáng tạo của con người, tích lũy lại trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội, được đúc kết thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội, biểu hiện thông 10
  15. qua vốn di sản văn hóa và hệ ứng xử văn hóa của cộng đồng người. Hệ giá trị xã hội là một thành tố cốt lõi làm nên bản sắc riêng của một cộng đồng xã hội, nó có khả năng chi phối đời sống tâm lý và một họat động của những con người sống trong cộng đồng xã hội ấy"[102; 43]. Hoạt động sáng tạo văn hóa vật chất và tinh thần của con người là nhằm hình thành nên các giá trị văn hóa để từ đó cộng đồng người nói chung và mỗi con người nói riêng soi vào nó để chiêm nghiệm, đối chiếu và phấn đấu để đạt được những chuẩn mực giá trị cần thiết mà mỗi cá nhân, gia đình, xã hội đòi hỏi. Vì vậy, có thể hiểu: Văn hóa là quá trình vận động đặc biệt làm biến đổi liên tục và sâu sắc đến năng lực sáng tạo của cá nhân và cộng đồng nhằm ngày càng hoàn thiện nhân cách và xã hội, vươn tới sự thống nhất cao giữa mỗi cá nhân – gia đình – cộng đồng làng xã và toàn xã hội vì sự tồn tại và phát triển tiến bộ của con người và xã hội. Ngày nay một quan niệm đầy đủ về bản chất của văn hoá ngày càng được xác định. Nếu trước đây khái niệm văn hoá chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp trong giới hạn các hoạt động văn học, nghệ thuật thì ngày nay văn hoá được hiểu theo nghĩa rộng là tổng thể các hệ thống giá trị bao gồm các mặt tình cảm, tri thức, vật chất và tinh thần của xã hội do con người sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn – lịch sử của mình, trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội. Như vậy, điểm thống nhất trong những quan niệm trên là đều xem lao động sáng tạo là cội nguồn của văn hóa. Và, chính văn hóa đã đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân, làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt mang tính nhân bản sâu sắc, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách có lý trí và tình cảm trong khát vọng vươn tới chân – thiện – mỹ. Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới đã đưa ra quan điểm về văn hoá như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh 11
  16. ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó, tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [70; 431]. Như vậy từ trong quan niệm của Hồ Chí Minh toát lên một cái nhìn vừa toàn diện, vừa sâu sắc về nguồn gốc lịch sử của văn hoá, về phạm vi rộng lớn của văn hoá, về mặt biểu hiện của văn hoá trong đời sống và toàn bộ sinh hoạt của con người. Hồ Chí Minh soi xét cả hai mặt vật chất và tinh thần của văn hóa. Về mặt vật chất đó là những công cụ của sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc ở và các phương thức sử dụng những công cụ ấy. Về mặt tinh thần đó là ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật… Đó là hai mặt cơ bản thống nhất biện chứng của văn hóa. Văn hóa tinh thần được nâng cao bao giờ cũng dựa trên nền tảng văn hóa vật chất và không có văn hóa vật chất nào của con người lại không chịu sự tác động của văn hóa tinh thần. Quan điểm toàn diện và sâu sắc của Hồ Chí Minh về văn hoá có ý nghĩa cực kỳ lớn lao trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc khi mà Đảng ta xác định: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội". Từ những quan điểm trên, chúng ta có thể hiểu rằng văn hóa được hình thành và phát triển trong quan hệ thích nghi giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với con người. Trải qua hàng ngàn năm thích nghi và cải tạo thế giới, những kinh nghiệm mà con người tích lũy được đã trở thành nền tảng cơ bản cho sự phát triển của văn hóa. Văn hóa không chỉ bó hẹp trong quan hệ cá nhân gia đình và cộng đồng mà còn mở rộng trong mối quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Văn hóa hình thành trong quá trình tiếp xúc, giao lưu, sàng lọc, cải biến giữa văn hóa bản địa với những nền văn hóa khác. Do đó, văn 12
  17. hóa bao giờ cũng thể hiện sự đa dạng, phong phú nhưng luôn mang những nét độc đáo của dân tộc, đồng thời bao hàm tiềm ẩn những giá trị chung của nhân loại. Chủ nghĩa Mác – Lênin xem “văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội – lịch sử, tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội” [64; 507]. Thông thường người ta chia văn hóa thành văn hóa vật chất (kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất, giá trị vật chất) và văn hóa tinh thần (khoa học, nghệ thuật và văn học, triết học, đạo đức, giáo dục...). “Văn hóa là một hiện tượng lịch sử, phát triển phụ thuộc vào sự thay thế các hình thái kinh tế – xã hội” [64; 505]. Là sản phẩm đặc trưng của con người, văn hoá có hai dạng tổng quát: văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần, chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, tuy nhiên việc phân chia này cũng chỉ mang tính tương đối. Thực tế, trong các sản phẩm văn hoá vật chất, dưới cái vỏ vật chất là năng lực sáng tạo, thẩm mỹ, là dấu ấn văn hoá của người làm ra chúng. Ngược lại, nhiều sản phẩm văn hoá tinh thần lại thể hiện thông qua dưới dạng vật chất cụ thể nào đó. Văn hoá tinh thần bao gồm các sản phẩm tinh thần mang giá trị văn hoá, do con người sáng tạo ra nhằm thoả mãn những nhu cầu tinh thần của con người, mà trước hết là các hình thái ý thức xã hội như: hệ tư tưởng, chính trị, đạo đức, khoa học, tín ngưỡng, phong tục, tập quán… Các sản phẩm văn hóa tinh thần do hoạt động sản xuất văn hoá tinh thần sáng tạo ra. Tuy nhiên, so với sản suất các sản phẩm vật chất, sản xuất các sản phẩm tinh thần có đặc điểm: Nó là quá trình phản ánh hiện thực khách quan thông qua nhận thức của con người, tái tạo hiện thực trong tư duy và thể hiện thông qua những hình thức, phương pháp khác nhau (khái niệm, phạm trù, quy luật, hình tượng nghệ thuật); quần chúng nhân dân suy cho cùng là 13
  18. người sáng tạo ra các giá trị văn hoá tinh thần, nhưng việc sản xuất ra các giá trị văn hoá tinh thần đòi hỏi phải có năng lực, có kiến thức, có kinh nghiệm kỹ năng, vì vậy, lực lượng chủ yếu sáng tạo ra các giá trị văn hoá tinh thần, nhất là các sản phẩm văn hoá tinh thần mang tính “bác học” thuộc về đội ngũ trí thức. Bản thân sản phẩm văn hoá tinh thần cũng gồm hai loại: vô hình và hữu hình. Sản phẩm văn hoá vô hình là những sản phẩm không có hình thể, nó tồn tại dưới dạng giá trị, được ghi trong ký ức xã hội như huyền thoại, truyền thuyết, tín ngưỡng, truyền thống dân tộc. Sản phẩm văn hoá hữu hình là những sản phẩm hữu thể, tồn tại dưới dạng vật thể như bức tranh, bức tượng, tác phẩm văn học, di tích lịch sử... Ngoài ra UNESCO cũng phân chia văn hóa thành hai lĩnh vực, đó là: “Văn hóa hữu thể và văn hóa vô thể. Việc phân chia này cần thiết để có cách nhìn toàn diện, tổng thể về văn hóa. Tuy nhiên ranh giới của sự phân chia này cũng chỉ mang tính tương đối, không thể tách bạch tách rời các lĩnh vực, bởi lẽ ngay trong văn hóa hữu thể lại có văn hóa vô thể” [105; 100]. Thời đại ngày nay là thời đại giao lưu rộng rãi giữa các quốc gia, dân tộc, những nhận thức mới về văn hóa luôn được bổ sung thêm những nội dung mới, góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển của nhân loại. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa quá trình giao lưu văn hóa giữa các quốc gia dân tộc, kể cả những nước có chế độ chính trị khác nhau đang diễn ra trên quy mô rộng lớn và tốc độ nhanh. Sự biến đổi văn hóa của các dân tộc do đó cũng diễn ra nhanh chóng. Bên cạnh những thời cơ lớn, giao lưu quốc tế khiến cho nhiều nước, nhất là các nước chậm phát triển về kinh tế, có nguy cơ bị chèn ép và đồng hóa về văn hóa. Do đó, vấn đề giữ gìn, bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc chống nguy cơ đồng hóa về văn hóa là một trong những thách thức lớn đối với các quốc gia, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. 14
  19. 1.1.1.2. Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần “Đời sống” là một khái niệm rất rộng, trong mỗi khía cạnh xem xét lại có cách hiểu khác nhau về khái niệm này. Có thể hiểu đời sống là tình trạng tồn tại của sinh vật như: đời sống của cỏ cây, đời sống của súc vật, đời sống của con người. Cũng có thể hiểu đời sống là lối sống của cá nhân hay tập thể như: Đời sống xa hoa, đời sống cần kiệm. Tuy nhiên trong khuôn khổ của luận văn, tác giả hiểu: Đời sống là khái niệm dùng để chỉ sự hoạt động của con người trong từng lĩnh vực khác nhau. Đặc biệt là lĩnh vực văn hóa. Khái niệm “đời sống văn hóa” có thể hiểu đó là tất cả những hoạt động của con người tác động vào đời sống vật chất, đời sống tinh thần, đời sống xã hội để hướng con người vươn lên theo quy luật của cái đúng, cái đẹp, cái tốt, của chuẩn mực giá trị chân, thiện, mỹ, đào thải những biểu hiện tiêu cực tha hoá con người. Đời sống văn hóa là quá trình diễn ra sự trao đổi thông qua các hoạt động văn hóa nhằm nâng cao chất lượng sống của con người. Đó là quá trình các yếu tố văn hóa mà con người tiếp thu được tác động vào đời sống vật chất để con người biến đổi môi trường tự nhiên tạo lập môi trường nhân văn, làm ra được nhiều sản phẩm vật chất cho xã hội; tác động vào đời sống tinh thần để con người thỏa mãn nhu cầu chủ quan đáp ứng các yêu cầu về tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống; tác động vào đời sống xã hội để xây dựng một hệ thống các giá trị chuẩn mực xã hội; tác động vào chính bản thân đời sống cá nhân, điều chỉnh hành vi ứng xử của cá nhân và cho cá nhân phương thức lựa chọn hướng đi tốt nhất cho chính cuộc đời mình. Đời sống văn hóa bao giờ cũng có tính kế thừa. Kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp của các thế hệ đi trước tạo ra sự ổn định và tiền đề khẳng định những giá trị mới. Đời sống văn hóa bao giờ cũng có tính đổi mới, bởi lẽ con người luôn luôn có khát vọng vươn lên cái tốt đẹp, chỉ có mạnh dạn sáng tạo, mạnh 15
  20. dạn cải đổi mới mong đáp ứng nhu cầu càng cao về vật chất và tinh thần của con người. Đời sống văn hóa là một bộ phận trọng yếu c a đời sống tinh thần. Đời sống văn hóa được quan niệm là toàn bộ phương thức sinh hoạt tinh thần; là một phạm trù phản ảnh một lĩnh vực đặc thù của đời sống xã hội, dùng để chỉ toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất ra các giá trị văn hóa; là tổng thể các dạng hoạt động của con người trên các lĩnh vực: tư tưởng, đạo đức, nghệ thuật, khoa học, giáo dục – đào tạo, thẩm mỹ, sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, thể dục thể thao... hướng tới cái chân – thiện – mỹ. Do đó, xây dựng đời sống văn hóa cũng phải được xác lập trong cái nhìn tổng thể, bao quát toàn bộ các mục tiêu, nhiệm vụ của đời sống xã hội, thể hiện trong mọi lĩnh vực và các yếu tố cấu thành; chất lượng của đời sống văn hóa cao hay thấp đều phụ thuộc vào năng lực sáng tạo của con người để tạo ra các sản phẩm văn hóa. Xây dựng đời sống văn hóa bao giờ cũng phải gắn với một bối cảnh, một phạm vi không gian, một cộng đồng dân cư nhất định, tức là phải gắn liền với cơ sở được xác định. Đời sống văn hóa của toàn thể xã hội thực thể chỉ tồn tại thông qua đời sống văn hóa cơ sở, thông qua đời sống văn hóa của từng cá nhân và cộng đồng trong xã hội. Từ những quan niệm trên, tác giả mạnh dạn khái quát khái niệm “Đời sống văn hóa tinh thần” như sau: Đời sống văn hóa tinh thần là t ng hòa sống động các hoạt động sản xuất, trao đ i, tiêu dùng các giá trị văn hóa tinh thần làm cho các giá trị đó thẩm thấu sâu vào từng con người, từng cộng đ ng người trở thành yếu tố khăng khít c a toàn bộ đời sống hoạt động và quan hệ con người, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần đa dạng và không ngừng tăng lên c a mọi thành viên trong xã hội. Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần là một khái niệm rộng để chỉ toàn bộ các thành tựu có ý nghĩa văn hóa do con người sáng tạo ra cùng các phương thức, cách thức mà con người sử dụng chúng trong đời sống hàng ngày. 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2